Rất ít người nổi danh tới
nỗi người khác khi nhắc tới, chỉ viết những chữ đầu của tên, họ, mà ai
cũng hiểu. Một trong những danh nhân vào bậc đó là một người Ái Nhĩ Lan;
những chữ đầu của tên họ ông là G.B.S. Ông có lẽ là nhà văn tiếng tăm
lừng lẫy nhất thế giới. Đời cầm bút lạ lùng khó tin được của ông đă chép
trong một cuốn mà tên họ ông chỉ ghi là G.B.S, tức George Bernard Shaw.
Đời ông đầy những tương phản kịch liệt. Chẳng hạn ông chỉ được đi học năm
năm; giáo dục thiếu sót như vậy, mà ông thành một văn hào bậc nhất thế giới và
được một giải thưởng văn chương lớn nhất thế giới, giải Nobel. Giải thưởng là
bảy ngàn Anh kim nhưng ông chẳng thèm nhận tiền mà cũng chẳng thèm nhận vinh dự.
Sau người ta phải năn nỉ ông, ông mới chịu nhận số tiền đó một cách tượng trưng
trong nửa giây trước khi chuyển nó qua quỹ Ái Hữu Văn Học Anh - Thụy Điển.
Thân phụ ông sinh trong một gia đ́nh danh giá ở Ái Nhĩ Lan, nhưng thân mẫu
ông không được hưởng một gia tài lớn của một bà cô v́ bà cụ này không chịu cho
song thân ông cưới nhau. Thành thử nhà cửa nghèo túng và Bernard Shaw phải kiếm
ăn từ hồi mười lăm tuổi. Năm đầu, ông làm thư kư, lương tháng không được một Anh
kim.
Rồi từ mười sáu đến hai mươi tuổi, do hoàn cảnh, ông lănh một việc có trách
nhiệm là giữ két ngân hàng, được một Anh kim rưỡi một tuần. Nhưng ông ghét công
việc pḥng giấy; v́ ông đă được sinh trưởng trong một gia đ́nh trọng hội họa, âm
nhạc và văn chương. Năm ông bảy tuổi, ông đă đọc Shakespeare, Bunyan, truyện
Ngàn lẻ một đêm và Thánh kinh. Mười hai tuổi, ông mê Byron. Rồi ông đọc Dickens,
Damas Shelley. Mười tám tuổi, ông đă đọc Tyndall, Stuart Mill, Herbert Spencer.
Các văn hào đó đă làm cho óc tưởng tượng của ông phát triển sớm, và ông đă có
nhiều mơ mộng; cho nên trong những năm đen tối, phải làm mọi cho một nhà địa ốc
ngân hàng tư, ông buồn chán lắm, chỉ mơ tưởng tới thế giới đẹp đẽ của văn chương
nghệ thuật, khoa học và tôn giáo.
Khi gần được hai chục tuổi G.B.S, tự nhủ:
"Ḿnh chỉ có một đời người để sống, không lẽ đem phung phí nó trong buồng
giấy một nhà buôn".
V́ vậy năm 1876, ông bỏ hết đến Luân Đôn, nơi thân mẫu ông dạy hát để sinh
nhai, và bước vào nghề viết văn để sau này nổi danh và giàu có.
Nhưng ông phải viết chín năm rồi mới kiếm được đủ ăn. Ông dùng hết th́ giờ để
viết, tự buộc ḿnh mỗi ngày phải viết năm trang, dù viết chẳng ra ǵ cũng cứ
viết. Mà đúng năm trang thôi, chứ không hơn. Ông nói:"Hồi đó tôi c̣n cái tánh
của một học sinh và một thư kư, cho nên viết hết năm trang mà tới giữa một câu
th́ tôi cũng bỏ đó, hôm sau mới viết tiếp".
Ông viết năm truyện dài - một truyện nhan đề là Love among the artists - gởi
bản thảo cho nhà xuất bản ở Anh và cả ở Mỹ. Họ đều gởi trả lại bản thảo, nhưng
nhà xuất bản lớn nhất ngỏ ư muốn được coi tác phẩm sau của ông(...)
Hồi đó ông túng bẩn quá đến nỗi không đào đâu ra tiền mua c̣ gởi bản thảo
nữa. Trong chín năm đầu, cây viết của ông chỉ đem lại cho ông được có sáu Anh
kim.
Có khi quần áo rách, ông đi lang thang trong thành phố Luân Đôn, gày thủng mà
quần áo cũng thủng ở đít. Nhưng ông không đến nỗi đói:Thân mẫu ông luôn luôn mua
chịu được ở một hàng tạp hóa và tránh cho ông được thảm cảnh đó.
Trong chín năm viết tiểu thuyết ấy, một lần ông kiếm được năm Anh kim nhờ một
bài về y khoa mà một luật sư không hiểu v́ nguyên do ǵ đă nhờ ông viết. Lần
khác, ông kiếm được một Anh kim v́ đếm phiếu sau một cuộc bầu cử vào Quốc Hội.
Vậy ông làm cách nào mà sống? Ông thú nhận rằng gia đ́nh ông rất cần sự giúp
đỡ của ông, mong mỏi sự giúp đỡ đó đến gần như tuyệt vọng, nhưng ông lại không
giúp nhà được chút ǵ hết, cứ ăn bám vào gia đ́nh. Chính ông nói:"Tôi không lao
ḿnh vào cuộc chiến đấu để sống. Tôi tủi nhục bắt thân mẫu tôi lao ḿnh vào".
Nhưng sau ông viết những bài phê b́nh các thứ nghệ thuật và tự túc được.
Thành công đầu tiên của ông về tiền bạc, không nhờ tiểu thuyết mà nhờ kịch. Và
ông viết hai mươi mốt năm mới nổi danh, cưới được một bà vợ giàu mà không bị
thiên hạ chê là đào mỏ.
Thực không thể ngờ rằng một người như ông, có gan đứng trước quần chúng chỉ
trích những luật về hôn nhân, những cơ quan tôn giáo, chế độ dân chủ và hầu hết
những tục lệ mà loài người tôn trọng, lại vốn có tánh nhút nhát, tự ti mặc cảm.
Ông đă đau khổ v́ tánh nhút nhát. Chẳng hạn hồi trẻ, ông thỉnh thoảng lại thăm
bạn bè trên bờ sông Thames ở Luân Đôn. Đây, xin bạn nghe ông tả, trong những
hoàn cảnh như vậy, ông hàng động và cảm xúc ra sao:
"Tôi nhút nhát tới nỗi có khi đi đi lại lại trên bến tàu tới hai mươi phút
hoặc hơn nữa rồi mới dám gơ cửa nhà bạn. Sự thực, như có linh tính bảo tôi rằng
không dám gơ cửa một người bạn th́ sau này không làm nên tṛ trống ǵ ở đời hết,
nhờ vậy tôi mới dám vào thăm bạn, nếu không th́ tôi đă bỏ mà chạy một mạch về
nhà rồi cho khỏi phải đau khổ v́ nhút nhát".(...)
Sau cùng ông học được cách hay nhất, mau nhất và chắc chắn nhất để thắng tánh
nhút nhát và sợ sệt, là tập nói trước công chúng. Ông xin vô một hội tranh biện.
Mấy lần đầu đứng lên diễn thuyết, ông cho thính giả cảm tưởng rằng ông b́nh tĩnh
lắm, nên người ta xin ông lần sau lại diễn thuyết nữa; nhưng sự thực ông bị kích
thích dữ lắm, tay run lên, trong khi kư tên. Hễ không ghi chép những điều cần
nói th́ ông quên hết, không c̣n biết nói ǵ nữa; mà nếu ghi chép th́ quưnh quá,
đọc không được. Nhưng không thính giả nào ngờ nỗi khổ tâm đó của ông, cứ vẫn
nghe ông nói. Quyết tâm thắng tánh nhút nhát của ông mạnh mẽ quá, đến nỗi có
cuộc hội họp để tranh biện nào ở Luân Đôn, ông cũng đến dự và luôn luôn ông đứng
dậy bày tỏ ư kiến.
Và sau ông c̣n nhút nhát nữa không? Khi ông đă t́m được một lư tưởng và bênh
vực chủ nghĩa xă hội, th́ trong mười hai năm, cứ cách một đêm ông lại diễn
thuyết một đêm ở các góc đường hoặc trong các chợ, các nhà thờ, tại khắp nước
Anh. Ông nổi tiếng là hùng biện và kiếm được nhiều tiền không phải để tiêu pha
riêng mà để phụng sự lư tưởng.
Mặc dầu ông đă tám chục tuổi mà ông c̣n tuyên bố rằng ông bận công việc quá,
không có th́ giờ để nghĩ đến sự chết. Ông nói:Tôi thích sống v́ sống là vui. Đời
sống đối với tôi không phải là một "mẩu đèn cầy". Nó là một thứ đuốc lớn mà tôi
được cầm trong một lúc. Và tôi muốn cho đuốc đó cháy hết sức rực rỡ trước khi
tôi chuyền nó qua tay những thế hệ sau.