Cách đây nửa thế kỷ, trong
một đêm lạnh, một đám đông khán giả từ trong rạp Mc.Vicker ở Chicago ùa
ra đường. Họ vui vẻ, cười nói v́ đă được coi nhà ảo thuật danh tiếng
Alexander Herrmann làm tṛ.
Một em nhỏ đứng trên vỉa hè, lạnh run lên, rao bán tờ Chicago Tribune. Thực
tội nghiệp cho em: không có áo lạnh, không có nhà, mà cũng không có tiền để mướn
một cái gường nữa. Đêm đó, khi khán giả đă về hết, em lấy báo quấn vào người rồi
ngủ trên một cái rá ḷ bằng sắt để hưởng nhờ một chút hơi nóng của ḷ đặt dưới
hầm, trong một lối đi phía sau rạp.
Vừa đói vừa lạnh, em nằm, tự nguyện sau này sẽ thành một nhà ảo thuật. Em mơ
ước được khán giả vỗ tay khen, được mặc áo lót bằng lông thú và được những thiếu
nữ đứng đợi em ở cửa rạp. Và em thề rằng khi nào đă thành một nhà ảo thuật nổi
danh, em sẽ trở về diễn ở rạp đó.
Em nhỏ đó là Howard Thurston và hai chục năm sau em thực hành được đúng sở
nguyện. Khi diễn xong, Thurston đi ṿng ra sau rạp và t́m được tên ḿnh khắc tại
đó hồi c̣n là một trẻ bán báo đói, không nhà không cửa.
Lúc chết, vào năm 1936, Thurston đă thành ông vua trong nghề ảo thuật. Trong
bốn chục năm cuối cùng, ông mấy lần đi khắp thế giới, tới đâu cũng làm khán giả
say mê v́ tài ông. Hơn sáu chục triệu người coi ông diễn và ông kiếm được gần
400.000 Anh kim.
Hồi ông gần mất, tôi được coi ông diễn một lần. Diễn xong, ông vô pḥng thay
đồ và kể cho tôi nghe hàng giờ về đời sống đầy chuyện ly kỳ lạ lùng không kém
những ảo thuật của ông.
Lúc nhỏ, có lần ông bị cha đánh đập tàn nhẫn v́ ông cho ngựa chạy mau quá.
Ông tức giận, bỏ nhà ra đi. Cha mẹ ông tưởng ông chết, măi năm năm sau mới được
tin tức về ông.
Mà lạ lùng là sao ông không bị giết, v́ ông đi lang thang, đeo vào những xe
chở hàng, ăn xin, ăn cắp, ngủ trong lẫm lúa, trong đống cỏ khô hoặc trong những
nhà hoang. Ông bị bắt mười hai lần, bị săn đuổi, chửi rủa, đánh đập, liệng từ
trên xe xuống đất, có lần người ta nhắm ông mà bắn nữa.
Ông thành một chú nài, một tên cờ bạc. Năm mười bảy tuổi, ông trôi tới Nữu
Ước, trong túi không có một xu mà không quen thuộc một ai. Rồi một việc xảy tới.
Ông len lỏi vào một đám đông nghe một nhà truyền giáo giảng đạo.
Ông cảm động quá, từ hồi nhỏ chưa lần nào kích thích như lần đó. Ông thấy
những tội lỗi của ông. Và ông bước lại bàn thờ, nước mắt ṛng ṛng trên má, ông
xin vô đạo. Hai năm sau, tên du thủ du thực hồi trước đă đứng ở một góc đường
tại Chinatown để giảng đạo.
Hồi đó ông sướng vô cùng, vừa làm việc vừa học đạo. Ông mười tám tuổi. Trước
kia ông chưa được đi học trên sáu tháng; nhờ coi những chữ ghi trên các xe chở
hàng, và trên đường xe lửa, rồi hỏi bạn cách đọc mà lần lần biết đọc. Nhưng ông
không biết viết, không biết toán, cũng không biết đánh vần. Thành thử bấy giờ,
ngày th́ ông phải học đạo ở trường Bible School, và học tiếng Hi Lạp, học môn
vạn vật, đêm th́ phải học đọc, học viết, học toán.
Sau ông quyết định làm một nhà truyền đạo chuyên về y học, và sắp vô trường
đại học Pennsylvania th́ một việc nhỏ xảy ra làm đời ông thay đổi hẳn.
Đi từ Massachusetts tới Philadelphia, ông phải đổi xe lửa ở Albany. Trong khi
đợi xe, ông vô một rạp hát coi Alexander Herrmann diễn tṛ ảo thuật. Ông từ
trước vẫn thích ảo thuật, nên lần đó muốn được nói chuyện với Herrmann. Ông lại
khách sạn, mướn một pḥng sát pḥng của Herrmann, ông đặt tai vào lỗ khóa nghe
ngóng, đi đi lại lại ở hàng lang, rán thu hết can đảm để gơ cửa, nhưng không
dám.
Sáng hôm sau, ông theo nhà ảo thuật ra ga, và đứng trân trân ngó Herrmann,
vừa kinh, vừa sợ. Herrmann đi Syracuse; ông th́ phải tới Nữa Ước, và đáng lẽ mua
giấy đi Nữu Ước, th́ ông lại mua lầm giấy đi Syracuse.
Sự lầm lộn đó thay đổi đời ông, làm ông đáng lẽ là một nhà truyền giáo th́
thành một nhà ảo thuật.
Hồi ông đương thịnh, ông làm tṛ mà kiếm được mỗi ngày hai trăm Anh kim (...)
Ông bảo rằng nhiều người biết về ảo thuật cũng bằng ông. Vậy, ông thành công
là nhờ cái ǵ?
Nhớ ít nhất là hai điều. Điều thứ nhất, ông có tài đem cá tính của ông lên
sân khấu. Ông hiểu bản tính của con người, và ông cho rằng đức đó cũng quan
trọng như sự hiểu biết về ảo thuật. Mỗi cử động của ông cả khi ông đổi giọng
hoặc khi ông ngước mắt, đều được ông tính toán kỹ lưỡng từ trước, và làm đúng
lúc, không sai một phần giây.
Điều thứ nh́ là ông yêu khán giả. Trước khi kéo màn, ông nhảy nhót ở hậu
trường sân khấu, cho thêm phần hăng hái... Và luôn luôn tự nhủ: "Tôi yêu khán
giả, tôi muốn làm họ vui. Tôi sung sướng. Tôi sung sướng".
Ông biết rằng nếu ông không sung sướng th́ không làm cho người khác vui thích
được.