Tôi luôn luôn ngạc nhiên về
điều này, nhiều việc xảy ra nghe chẳng có ǵ quan trọng cả mà sau lại
làm thay đổi cả lịch sử. Chẳng hạn, bốn năm trước khi Nội chiến bộc
phát, trong năm kinh khủng 1857, một người tên là Leonarl Jerome đầu cơ
ở Wall Street mà kiếm được một trăm ngàn Anh kim. Việc đó trừ Leonard
Jerome, có ai cho là quan trọng đâu. Vậy mà bây giờ nhớ lại, ta thấy nó
ảnh hưởng rất lớn đến lịch sử hiện đại. V́ nếu người đó Leonard Jerome
không đầu cơ được số tiền lớn đó, th́ có lẽ Winston Churchill không sinh
ra đời: Leonard Jerome chính là ông nội của Churchill.
Được số tiền một triệu hai trăm ngàn Anh kim, Loenard Jerome mua một phần hùn
lớn trong tờ Times ở Nữu Ước, lập hai trường đua lớn ở Mỹ, du lịch khắp thế
giới, giao du với hạng quí tộc Anh. Và kết quả là người con gái mỹ miều, có
duyên của cụ, cô Jenny Jerome cưới nhà quí phái Randolph Churchill. Và do cuộc
hôn nhân đó mà Churchill ra đời vào ngày 30 tháng mười một năm 1874, trong một
lâu đài nổi danh nhất ở Anh, lâu đài Benheim.
Đời của Winston Churchill mới hoạt động, kỳ dị làm sao!
Trên hoàn vũ tôi không thấy một người nào khác mà cuộc đời gồm được nhiều
kích thích, nhiều mạo hiểm, nhiều nỗi vui và hứng thú như đời ông. Trên một phần
ba thế kỷ, ông nắm quyền hành ghê gớm trong tay, ảnh hưởng lớn vô cùng. Năm
1911, ông là quan văn đứng đầu Hải quân Anh. Trên một phần ba thế kỷ, ông tạo
nên anh hùng và thời thế.
Ngay từ hồi bé, Winston Churchill đă muốn là một quân nhân, suốt ngày bày
trận. Sau ông tốt nghiệp trường vơ bị Sandhurt. Trong mấy năm ông đăng lính,
chiến đấu với kỵ binh cầm thương của Bengale (Ấn Độ), chiến đấu với Kitchener ở
sa mạc Soudan, chiến đấu với quân FuzzWuzzies.
Từ năm 1900, ông đă nổi danh v́ liều lĩnh, can đảm, nổi danh tới nỗi mới hai
mươi sáu tuổi đă được bầu vào nghị viện.
Việc xảy ra như vầy: Năm 1899, ông xung phong qua Nam Phi, làm thông tin viên
lấy tin tức về chiến tranh Boer cho tờ Morning port, lương hai trăm rưỡi Anh kim
mỗi tháng. Lương đó cao, nhưng ông lănh nó cũng đáng, v́ ông là một thông tin
viên nổi danh nhất trong lịch sử Anh. Không những ông chép tin gởi về, mà ông
c̣n tạo ra tin tức nữa, nghĩa là tiến sâu vào khu vực của địch, trong một toa xe
vơ trang bị tấn công bằng đại bác, rồi bị quân Boer bắt, nhốt khám, rồi ông vượt
ngục, làm cho quân Boer phát điên lên, v́ để một tù binh trong hàng quí phái Anh
trốn thoát.
Ra khỏi ngục, ông c̣n phải vượt mấy trăm cây số trên địa phận của địch có
lính Boer gác các đường xe lửa và cầu, ông đi bộ hoặc trốn trong các toa chở
hàng, ngủ trong rừng, trong đồng lúa hoặc mỏ than, ngụp trong đồng lầy, qua
sông. Ông đi qua những cánh đồng Châu Phi, trong bầy kên kên bay lượn trên đầu
chỉ đợi ông mệt quá, gục xuống là chúng tha hồ mổ, rỉa.
Truyện vượt ngục của ông đă là tuyệt hay rồi. Mà ông lại c̣n viết cho độc giả
mê nữa. Bài ông đăng trên tờ Morning post năm 1900 có tiếng vang dữ dội, người
Anh nào cũng hăm hở, thành kính đọc. Ông được họ coi là vị anh hùng của dân tộc.
Có người đem truyện ông đặt thành lời ca: hàng vạn người bu lại nghe ông diễn
thuyết, và ông được nhiệt liệt bầu vào Nghị viện v́ hoạt động và danh tiếng của
ông.
Châm ngôn của ông là: "Không bao giờ chạy trốn nguy hiểm". Năm 1921, ông qua
Mỹ để diễn thuyết bốn mươi lăm lần, mỗi lần được hai trăm hai mươi Anh kim.
Nhưng công ty Công an Scotland Yard thấy có thể nguy tới tính mệnh ông, cho ông
hay có một bọn người bất măn ở nhiều nơi trong đế quốc Anh đă họp nhau ở Mỹ
thành một hội mà ty Công an gọi là Hội Ám Sát, ông tượng trưng cho các nhà cầm
quyền Anh, rất có thể bị chúng bắn trong khi đi khắp nơi diễn thuyết ở Mỹ. Mặc
dầu được ty Công an cho hay như vậy, ông cũng cứ đi. Khi tới một tỉnh miền Tây
Hoa Kỳ, có người báo cho ông rằng vài hội viên trong Hội Ám Sát đă mua giấy vào
nghe. Trưởng ty Công an đó hoảng, ra lệnh băi bỏ cuộc diễn thuyết, nhưng người
tổ chức cuộc diễn thuyết không chịu. Churchill bảo người này:"hành động như ông
là phải. Thấy nguy hiểm, không bao giờ được quay lưng chạy. Nếu chạy th́ nguy
hiểm tăng lên gấp đôi, c̣n nếu như mạnh bạo xông lại nó, th́ nó giảm đi được một
nữa. Đừng bao giờ trốn cái ǵ. Bất kỳ cái ǵ!"
Đă không trốn nguy hiểm, Churchill c̣n thường t́m nó. Khi ông đứng đầu Hải
quân Anh, ông có được khoảng mười hai chiếc máy bay vừa lớn vừa nhỏ. Hồi đó vào
năm 1911, máy bay mới xuất hiện được tám năm, cho nên lái phi cơ không khác ǵ
giỡn với tử thần, vậy mà Churchill cũng nhất định đ̣i lái lấy, mấy lần bị tai
nạn suưt chết. Chính phủ phải ra lệnh cấm, ông không nghe. Ông thích cái nguy
hiểm đó và muốn biết rơ về phi cơ v́ ông tiên đoán rằng phi cơ sẽ cách mệnh
chiến thuật. Hải quân Anh có không lực mạnh mẽ là nhờ công của ông.
Một đức tính siêu phàm của ông nữa là tính quả quyết gang thép, nhờ vào giáo
dục của ông. Hồi trẻ ông là một sinh viên rất tầm thường. Ông ghét tiếng
La-tinh, tiếng Hy Lạp, ghét Toán học, và Pháp văn. Ông tin chắc rằng trước hết
phải thông tiếng Anh đă rồi mới học ngoại ngữ, và tất nhiên là ông có lư. Nhưng
v́ ông khinh Ngoại ngữ, và toán pháp, nên ông ngồi gần cuối lớp trong ban dự bị
vào đại học. Và đây mới là điều lạ: con người ghét toán sau làm giám đốc ngân
khố quốc gia, giữ nền tài chánh của Anh trong bốn năm.
Ba lần thi vô trường vơ bị Sandhurst rớt cả ba. Lần thứ tư mới đậu.
Rồi một hôm, sau khi tốt nghiệp hai trường Harrow và Sandhurst - hai trường
lớn nhất ở Anh, ông thấy một điều - mà nhiều sinh viên tốt nghiệp ở đại học ra
đă thấy - là ḿnh thực ra chẳng biết chút ǵ cả. Lúc đó ông hai mươi hai tuổi,
làm sĩ quan trong quân đội Anh ở Ấn Độ, tức th́ ông quả quyết tự học, viết thư
về cho thân mẫu ở Anh, xin người gởi qua những sách về tiểu sử danh nhân, lịch
sử triết lư và kinh tế. Trong khi các bạn sĩ quan ngủ để tránh cái nóng nung
người ban trưa, th́ ông nghiến ngấu đọc đủ các sách từ Platon tới Gibbon và
Shakespeare. Ông bỏ mấy năm luyện lối văn sáng sủa và bóng bẩy mà ta thấy trong
các diễn văn và tác phẩm của ông, một lối văn hùng hồn và du dương. Vốn ăn nói
vụng về, ông đă tự luyện cho thành một nhà hùng biện hạng nhất cổ kim.
Khi giữ chức thủ tướng, ông làm việc từ mười bốn tới mười bảy giờ mỗi ngày,
mỗi tuần ông thường việc cả bảy ngày. Ngay bây giờ ông c̣n làm việc hăng hái, và
các thư kư của ông không được nghỉ tay. Ông làm việc được như vậy nhờ vừa làm
vừa nghỉ, và nghỉ trước khi mệt. Mười giờ rưỡi sáng ông mới dậy, nhưng ba giờ
trước khi dậy, ông ngồi dựa lưng ở giường, miệng ngậm một điếu x́ gà lớn, kêu
điện thoại, đọc thư cho thư kư chép, đọc báo, các bản phúc tŕnh và điện tín.
Rồi ông mới đứng dậy đi cạo râu bằng một con dao cạo kiểu cũ.
Một giờ trưa ông ăn cơm, ngủ một giờ, rồi làm việc. Năm giờ lại leo lên
giường, ngủ nữa giờ. Ăn bữa tối xong, ông thường làm việc tới nữa đêm.
Một loạt diễn văn của ông đă gom vào một cuốn nhan đề là Trong khi nước Anh
ngủ. Trong mấy năm, khi mà phần nhiều chính khách Anh ngủ, hoàn toàn quên đại
chiến nó sắp ch́m đắm thế giới, th́ ông cảm thấy nguy cơ Hitler. Trong sáu năm,
từ 1933 đến 1939, gần như ngày nào ông cũng la rằng Đức quốc đương tái vơ trang,
rằng Hitler đương đóng xe tăng, chế đại bác, phi cơ, dự định thả bom xuống nước
Anh, đánh đắm tàu Anh và chiếm thế giới. Ông đă thấy trước tất cả những điều đó:
nếu nước Anh nghe lời tiên đoán của ông mà tăng binh bị để sẵn sàng đương đầu
với nguy cơ th́ đại chiến thứ nh́ có lẽ chỉ là một ảo mộng của một kẻ điên.