Một ngày cách đây mấy năm, tôi đi chơi trong một châu thành nhỏ tại miền Nam 
nước Đức, th́ một ông bạn cùng đi với tôi bỗng đứng lại, chỉ một cửa sổ ở trên 
lầu một tiệm tạp hoá và bảo:"Anh thấy căn pḥng nhỏ ở trên kia không? Einstein 
ra đời tại đó". 
Chiều tối hôm đó tôi gặp Einstein tại nhà một ông chú của ông, và tôi không 
có cảm tưởng rằng ông là một bậc siêu quần. Điều đó không có ǵ lạ, v́ ngay hồi 
nhỏ cũng không ai tin rằng ông có tài ǵ lớn. Bây giờ người ta nhận rằng ông là 
một tuyệt thế thông minh, một vị khổng lồ của thế hệ này, một trong những nhà tư 
tưởng sâu sắc nhất cổ kim, vậy mà năm chục năm trước ông là em nhỏ chậm chạp, 
nhút nhát, đần độn, tập nói một cách cực kỳ khó khăn. Ông tối dạ đến nỗi thầy 
học của ông phải bực ḿnh và song thân ông sợ rằng ông vào hạng hạ nhân.
Ít năm trước đây một buổi sáng, ông thức dậy ngạc nhiên thấy ḿnh thành danh 
nhân bực nhất thế giới, không thể tin được rằng một giáo sư toán mà lại được báo 
chí khắp toàn cầu in tên bằng chữ lớn lên trang đầu như vậy. Ông là một nhà khoa 
học chứ đâu phải là một nhà quyền thuật hạng Jack Dempsey. Ông thú rằng không 
thể hiểu được điều đó. Mà cũng không ai hiểu được điều đó. V́ một chuyện như vậy 
chưa hề xảy ra trong lịch sử loài người.
Con người của ông cũng lạ lùng như thuyết Tương đối của ông vậy. Ông khinh 
những cái mà phần đông loài người mơ ước như danh vọng, của cải, xa hoa. Chẳng 
hạn thuyền trưởng một chiếc tàu biển nọ dành cho ông dăy pḥng sang trọng nhất 
dưới tàu, ông từ chối, bảo rằng đi hạng chót c̣n thích hơn là nhận bất kỳ một 
đặc ân ǵ.
Ngày ngũ tuần của ông, chính phủ Đức ban cho ông đủ các ân huệ, dựng một 
tượng bán thân của ông ở Potsdam, tặng ông một dinh thự và một chiếc tàu buồm, 
gọi là tỏ ḷng quư mến và ngưỡng mộ bất tuyệt của dân tộc.
Nhưng chỉ ít năm sau, người ta lấy lại hết những cái đó và ông sợ, không dám 
trở về quê quán nữa. Trong mấy tuần lễ, ông trốn trong một ngôi nhà, cửa song 
sắt ở nước Bỉ và đêm nào cũng có một người lính canh cho ông ngủ.
Khi ông tới Nữu Ước để làm giáo sư toán ở trường đại học Princeton, ông sợ 
các nhà báo phỏng vấn và dân chúng hoan hô, nên các bạn thân của ông phải bí mật 
cho ông xuống thuyền đưa lên bờ trước khi tàu ghé bến rồi chở ông đi bằng xe 
hơi.
Ông nói rằng khắp thế giới chỉ có mười hai người hiểu được Thuyết tương đối 
của ông, mặc dầu đă có trên chín trăm cuốn sách giảng giải nó.
Chính ông giải thuyết đó bằng thí dụ dễ dàng và hóm hỉnh này: "Khi anh ngồi 
với một mỹ nhân, th́ một giờ anh tưởng chừng chỉ bằng một phút, nhưng khi ngồi 
trên một ḷ lửa nóng th́ mới một chút anh coi là một giờ".
Tương đối là vậy, chứ có ǵ đâu. Tôi cho nó đúng, c̣n nếu bạn ngờ nó sai th́ 
bạn cứ thí nghiệm, nhưng xin bạn ngồi trên ḷ nóng c̣n để tôi ngồi với mỹ nhân 
nhé.
Bà Einstein nói rằng bà không hiểu thuyết tương đối là cái quái ǵ cả, nhưng 
bà hiểu một cái ǵ quan trọng đối với đàn bà hơn, là hiểu chồng bà.
Một đôi khi có khách khứa lại uống trà và bà lên lầu mời Giáo sư xuống chuyện 
tṛ ít lâu. Ông la bể nhà nhà lên: "Không! Không! Tôi không xuống! Không xuống! 
Tôi phải đi khỏi nhà này mới được. Làm việc ở đây không được. Cấm đấy, không 
được làm ngưng công việc của tôi như vậy được nữa đa".
Bị ông la như vậy bà cứ điềm tỉnh, để ông phát hết cơn giận của ông ra, rồi 
bà khéo léo ngoại giao làm sao mà ông cũng xuống nhà dưới uống trà và xả hơi một 
chút. Bà làm vậy chỉ v́ thấy ông làm việc quá mà muốn cho ông nghỉ.
Bà bảo rằng chồng bà thích sự thứ tự trong tư tưởng mà không thích sự thứ tự 
trong đời sống. Ông muốn làm cái ǵ là làm, chẳng kể giờ giấc ǵ cả. Ông hành 
động chỉ theo hai quy tắc. Quy tắc thứ nhất là không có quy tắc nào cả. Và quy 
tắc thứ nh́ là bất chấp dư luận.
Ông sống cực kỳ giản dị, đi đâu cũng chỉ bận áo cũ, nhàu nát, ít khi đội nón; 
vào pḥng tắm th́ ca hát, huưt c̣i vang lên. Xà bông để tắm th́ ông dùng để cạo 
râu. Con người rán giải quyết những bí ẩn phức tạp nhất của vũ trụ đó, bảo rằng 
dùng hai thứ xà bông chỉ làm cho đời thêm phức tạp. Nh́n ông tôi có cảm tưởng 
rằng ông rất sung sướng. Triết lư về hạnh phúc của ông giúp cho tôi nhiều hơn 
thuyết tương đối của ông. Mà tôi cho rằng triết lư hạnh phúc đó rất cao đẹp. Ông 
bảo rằng ông sung sướng v́ ông không cần một thứ ǵ của bất kỳ người nào. Ông 
không cần tiền, không cần chức tước, không cần lời khen. Ông t́m hạnh phúc cho 
ông trong những việc rất giản dị là làm việc, chơi vĩ cầm và thả thuyền.
Cây đờn vĩ cầm làm cho ông vui nhất. Ông bảo rằng ông thường suy nghĩ bằng âm 
nhạc, và mơ mộng bằng âm nhạc.
Một lần, đi xe điện ở Bá Linh, ông bảo người bán giấy đă tính lộn khi thối 
tiền cho ông. Người đó đếm lại thấy đúng, đưa tiền cho ông, bảo: "cái tai hại 
của ông là ông không biết đọc con số".