Upton Sinclair đă viết bốn
mươi tám cuốn sách và bán ra trên năm trăm bài châm biếm. Sách của ông
đă bán được hai triệu cuốn ở Đức, ba triệu cuốn ở Nga. Nhhững truyện có
tính cách cấp tiến của ông có lẽ đă giúp cho cách mạng Nga thành công.
Mặc dầu ông là người Mỹ mà sách của ông được hoan nghênh ở châu Âu nhiều
hơn là ở Mỹ. Có lần tôi vào một tiệm sách nhỏ ở miền Nice, thấy sách của
Upton Sinclair c̣n nhiều hơn sách của hết thảy các tác giả Anh, Mỹ khác
nhập lại. Tác phẩm của ông đă được dịch ra bốn mươi bốn thứ tiếng và có
lần ông bảo tôi rằng chính ông cũng không biết hết những tiếng đó là
tiếng ǵ và ở nước nào. Khắp thế giới, ông là nhà văn c̣n sống mà được
nhiều người đọc nhất.
Bây giờ ông sáu mươi tám tuổi và ông đă viết trên năm chục năm, từ hồi ông
mười sáu. Ông đă viết hàng tỉ chữ, hơn số chữ trong Cựu và Tân Ước hợp lại.
Vẻ mặt ông hao hao như ông Woodrow Wilson và ông hăng hái nuôi một lư tưởng.
Ông muốn diệt con ma nghèo, v́ kinh nghiệm đă cho ông biết nỗi cay đắng của cảnh
nghèo. Ông bảo tôi rằng có lần, luôn trong sáu năm trường, gần như ngày nào ông
cũng bị cái đói gậm nhắm.
Thân phụ ông là một người bán rượu Whisky và nghiện rượu, và hồi nhỏ, khi ở
Baltimore, rồi sau ở Nữu Ước, cứ đêm đêm, ông thường đi kiếm cụ ông ở khắp các
tửu quán, rồi đỡ cụ về nhà, khiêng vào gường, c̣n cụ bà th́ móc túi chồng để lấy
tiền giấu đi, phải vậy th́ hôm sau mới có tiền đi chợ. Gia đ́nh đó nghèo tới nỗi
họ phải sống trong những nhà cho mướn rẻ tiền nhơ nhớp đầy muỗi, rệp, nghèo tới
nỗi phải dời nhà hoài, v́ thiếu tiền trả, bị chủ đuổi.
Upton Sinclair nhiệt liệt chủ trương sự cấm bán rượu mạnh. Ai ở vào cảnh ông
mà không vậy. Rượu mạnh đă tàn phá gia đ́nh ông và làm cho tuổi thơ của ông khô
héo cằn cỗi. Ông bảo rằng rượu mạnh đă làm cho hai người bạn thân nhất của ông
chết yểu, tức Jack London và Eugene V. Debs. Ông cũng không uống trà và cà phê
mà cũng không hút thuốc.
Măi tới hồi mười tuổi, ông mới được tới trường nhưng đă tự học và biết đọc,
và trước khi vô trường th́ ông đă ngấu nghiến hết các tác phẩm của Dickens và
của Thackeray, lại đọc mấy chục cuốn sách khác và một phần lớn bộ Bách khoa tự
điển. Mới vô trtường được hai năm, ông đă đủ sức theo ban đại học rồi.
Hồi vào đại học, ông không có lấy một xu mà lại phải nuôi mẹ nữa. V́ vậy, ông
phải vừa học vừa viết những truyện cười ngăn ngắn cho các tạp chí rẻ tiền, để
lấy tiền ăn học tại City College ở Nữu Ước và trường đại học Columbia. Mỗi đêm
ông đọc cho người khác chép một truyện dài tám ngàn chữ, nghĩa là mỗi tháng ông
vừa học vừa viết được một tiểu thuyết dài trung b́nh. Sức làm việc của ông thật
kinh thiên. Cả một triệu người không được một người như ông.
Ở trường đại học ra, ông viết những truyện kiếm hiệp hấp dẫn cho các tạp chí
nhi đồng và kiếm được mỗi tuần lễ mười bốn Anh kim. Số tiền đó đă lớn đối với
một tác giả mới hai mươi tuổi. Nhưng ông viết không phải là để kiếm tiền. Ông
viết với mục đích diệt sự nghèo bất công. Cho nên mặc dầu vợ th́ đau con th́
nhỏ, một ḿnh ông phải lo nuôi gia đ́nh, mà ông dám bỏ số tiền đó, dựng một cái
liều vải ở New Jersy và bắt đầu viết những tiểu thuyết tuyên truyền, những tiểu
thuyết để cải tạo thế giới. Ông bỏ ra năm năm soạn năm tiểu thuyết và năm cuốn
đó đem lại cho ông có hai trăm Anh kim nghĩa là có bốn mươi Anh kim mỗi năm,
bằng số tiền ông kiếm được trong ba tuần, hồi ông viết truyện cho trẻ em.
Gần như lúc nào ông cũng chịu cảnh đói. Một hôm, bà vợ, vốn khao khát một
chút xa hoa vào tiệm mua về một tấm khăn trải bàn sọc đỏ giá một cắc sáu. Nhưng
ông bắt bà đem lại tiệm trả và đ̣i tiền về, v́ một cắc sáu đủ cho cả nhà ăn
trong một ngày.
Tiểu thuyết thứ sáu của ông nhan đề Rừng rậm được độc giả rất hoan nghênh và
đem về cho ông sáu ngàn Anh kim. Ông đem trọn số tiền đó tặng một hội ở New
Jersy, một loại hợp tác xă văn nhân, họa sĩ, nhạc sĩ mục đích là giúp đỡ lẫn
nhau sống một cách tiết kiệm, Sinclar Lewis sống ở đó một thời gian và giữ việc
coi ḷ, nhưng chắc chắn Lewis làm không được việc ǵ, v́ một đêm lửa trong ḷ
bắt vào nhà và cháy rụi, thế là hội tan.
Upton Sinclair luôn luôn là một nhà cải cách hăng hái. Ông và Inez
Mullholland cầm đầu một cuộc biểu t́nh đầu tiên ở châu thành Nữu Ước để đ̣i cho
phụ nữ được quyền đầu phiếu. Ông luôn chiến đấu chống lại sự hạn chế sanh đẻ và
luôn ba chục năm ông là một trong những người chỉ huy đảng xă hội ở Mỹ.
Khi ông muốn nói cái ǵ, ông nhất định theo cho tới kỳ cùng. Chẳng hạn một
lần ông muốn học đàn vĩ cầm, ông tập mỗi ngày tám giờ, gần như không bỏ ngày
nào, trong ba năm, các người hàng xóm phàn nàn về tiếng cù cưa nhức óc của ông,
ông ôm đàn vào rừng kéo cho chim và sóc nghe.
Ông bảo tôi rằng ông đă bị bắt bốn lần. Một lần bị bắt và nhốt vào khám mười
tám giờ ở Wilmington v́ ông chơi quần vợt ngày Chủ Nhật. Lần khác ông bị giam ở
Tombs tại Nữu Ước trong ba ngày v́ ông lẳng lặng đi đi lại lại trước pḥng giấy
của John D. Rockefeller. Lần thứ ba ông bị bắt v́ bán một Thánh kinh cho sở Công
an ở Boston, và lần cuối cùng ông bị bắt v́ rán đọc Hiến pháp Hoa Kỳ, trong khi
đứng trước một tư gia, mà trong tay có giấy chủ nhà cho phép đứng tại đó.