Từ khi tiếp xúc với người Pháp vào hậu
bán thế kỷ XIX người Việt mới biết ḍng họ chúng tôi, một loài cầm vũ to lớn
hoàn toàn xa lạ với họ. Họ gọi chúng tôi là Gà Tây nghĩa là gà từ Pháp đem qua.
Chúng tôi không biết anh Phượng (Hoàng), chị Loan to lớn và
đẹp đẽ như thế nào chỉ biết rằng trên mặt đất hiện nay chỉ có Gà Tây chúng tôi
và tộc Khổng Tước là loài cầm vũ to lớn biết x̣e đuôi nhảy múa và ca hát vang
dội.
Gà Tây chúng tôi và các anh chị Khổng Tước (Công) đều cùng
gia đ́nh Phasianidae.
Tên khoa học của các anh chị Khổng Tước là Pavo critatus.
Tên khoa học của Gà Tây chúng tôi là Meleagris gallopavo
và Meleagris ocellata.
Quê hương gốc của chi tộc Meleagris gallopavo thuần
hóa nuôi trong các nông trại hay sống hoang dă trong rừng lá Bắc Mỹ và Mễ Tây Cơ.
Chi tộc Meleagris ocellata gốc ở bán đảo Yucatan, đông
nam Mễ Tây Cơ.
Người Âu Châu mới biết Gà Tây chúng tôi vào thế kỷ XVI sau
khi các nhà chinh phục Tây Ban Nha đem ḍng họ chúng tôi từ lục địa Mỹ Châu về
Tây Ban Nha và quảng bá khắp lục địa Âu Châu. Người Việt Nam biết chúng tôi vào
cuối thế kỷ XIX. Có sự ngộ nhận của các thương nhân người Anh về h́nh dạng và
nguồn gốc giữa Gà Tây chúng tôi với một loài chim Guinea. Các thương nhân này
giao dịch với các quốc gia ở miền đông Địa Trung Hải thời đế quốc Ottoman nên họ
gọi tiền nhân chúng tôi là Turkey bird, điểu tộc Thổ Nhĩ Kỳ. Từ đó người
Anh gọi ḍng họ chúng tôi là Turkey, tên của xứ Thổ Nhĩ Kỳ. Theo ngôn ngữ
Thổ Nhĩ Kỳ Turkey có nghĩa là Ấn Độ!
Người Do Thái gọi chúng tôi là Tarnagol rodu tức là
Gà Ấn Độ.
Người Pháp gọi Gà Tây nữ là Dinde (Dinde âm từ
d’Inde: từ Ấn Độ) và Gà Tây nam là Dindon hay Coq d’Inde :
Gà trống Ấn Độ. Ở điểm này có thể người ta lẫn lộn về chữ ‘Indian’ với
hai nghĩa khác nhau:
1. Indians là người Ấn Độ tức Hindus ở
xứ India mà người Pháp gọi là Inde tức East Indies
2. Indians chỉ người Da Đỏ ở Mỹ Châu do sự hiểu lầm
của Christopher Columbus khi đặt chân lên Tân Lục địa nhưng vẫn tưởng ḿnh đă
đến Ấn Độ nên gọi những người mà ông gặp là Indians (người Ấn Độ). Đó là
vùng West Indies (Tây Ấn) không có liên hệ địa lư, chủng tộc hay tôn giáo ǵ với
Ấn Độ cả.
Người Mă Lai cho rằng Gà Tây gốc ở Ḥa Lan nên gọi đó là Gà
Ḥa Lan như người Việt Nam tưởng đó là gà gốc ở Pháp (Tây) vậy. Đúng hay sai tùy
theo cách nh́n của mỗi dân tộc trước một vật mới lạ. Người Trung Hoa há không
gọi trái cà chua (cà to- mat) là Tây Hồng Quả (Xihonggua)?
Về h́nh hài Gà Tây chúng tôi giống Khổng Tước. Gà Tây nam to
lớn và đẹp hơn Gà Tây nữ. Đặc điểm này cũng được t́m thấy nơi ḍng Khổng Tước.
Gà Tây nam và Khổng Tước nam đều có đuôi dài tựa như cái quạt to khi x̣e ra.
Khổng Tước nam ăn mặc đẹp đẽ, sặc sỡ và sang trọng hơn Gà Tây nam chúng tôi
nhiều. Gà Tây nam chúng tôi chỉ mặc quần áo đen có vài chấm trắng chớ không có
màu sắc xanh, vàng lấp lánh như quần áo rực rỡ của anh chị Khổng Tước, những
người bà con sang trọng và quí phái của gia đ́nh Phasianidae chúng tôi. ở
Ohio người ta nuôi Gà Tây ăn mặc quần áo trắng toát. Hàng năm người ta tuyển một
Gà Tây nam trắng toát này để gởi lên thủ đô Washington cho tổng thống Hoa Ky cử
hành Lễ Tạ Ơn. Phần lớn các anh Gà Tây được ‘tiến cung’ đều chết vinh quang
trong nhà bếp của ṭa Bạch Ốc. Cũng có khi anh Gà Tây ‘tiến cung’ này được sự
khoan hồng của tổng thống.
Gà Tây nuôi trong nông trại mập mạp, nặng cân nên không bay
được. Gà Tây rừng có tuổi thọ từ 3 đến 4 tuổi. Họ biết bay để ngủ trên cành cây
cao ban đêm. Sự dinh dưỡng trong trạng thái hoang dă không đầy đủ. Họ ăn các
loại hột, trái cây, trái xồi, côn trùng, loài ḅ sát v.v. Họ thường xuyên bị đe
dọa bởi rắn, chồn cáo, chó sói v.v. Kẻ thù đáng sợ của các anh chị này là các
thợ săn. Ngày nay Gà Tây rừng hầu như không c̣n bao nhiêu ở Hoa Kỳ.
Gà Tây nam, nữ 08 tháng tuổi th́ bắt đầu làm công tác truyền
giống để sinh sản. Vào mùa bắt cặp Gà Tây nam dùng thuật khiêu vũ bằng cách x̣e
đuôi và thét to để gọi t́nh. Tiếng kêu gọi t́nh của Gà Tây nam rất to đến nỗi ở
cách xa cả cây số vẫn nghe được. Gà Tây nữ sinh từ 10 đến 18 trứng. Trứng ấp 30
ngày mới nở. Ngày nay, v́ nhu cầu cần nhiều thịt ḍng họ Meleagris chúng
tôi, các nhà chăn nuôi ở Âu- Mỹ không cần sự hiện diện của các Gà Tây nam trong
công tác truyền tử lưu tôn. Đa số các anh ấy bị lưu đày sang nước khác hay sớm
được đưa vào các ḷ sát sinh để ‘được giải thoát’. Người ta chỉ giữ vài anh Gà
Tây khỏe mạnh để lấy tinh trùng để thụ thai nhân tạo (artificial insemination)
cho các Gà Tây nữ. Phương pháp này cướp quyền truyền giống và lạc thú nam- nữ
của ḍng họ Meleagris chúng tôi nhưng có lợi cho loài người v́ đảm bảo
các trứng đều có tṛng và nở ra Gà Tây con đông đảo hầu đáp ứng nhu cầu dinh
dưỡng của loài người. Một chị Gà Tây có thể có từ 100 đến 120 con. Nhiệm vụ của
các chị ấy là đẻ trứng mà thôi. Việc ấp trứng có máy ấp đảm nhận.
Gà Tây cân nặng từ 3 ki-lô đến 12 ki-lô th́ được bán ra thị
trường. Gà Tây trưởng thành cao lối 65 cm, dài 1m tính cả đuôi. Hai cánh x̣e ra
lối 1.5 m.
Gà Tây nam có màu sắc hơn Gà Tây nữ. Cổ Gà Tây nam dài, có
tích đỏ. Màu da cổ thay đổi từ xám, xanh, trắng đến đỏ. Da cổ đỏ khi Gà Tây nam
xung động hay buồn giận chuyện ǵ.
Trong trạng thái hoang dă xă hội Gà Tây là xă hội đa thê. Các
anh Gà Tây không có trách nhiệm và bổn phận ǵ khi các chị Gà Tây đẻ trứng và ấp
trứng. Khi trứng nở ra con, các chị Gà Tây phải chăm sóc và dạy dỗ con cho đến
khi chúng có thể tự túc trong việc mưu sinh và tự bảo vệ ḿnh.
Gà Tây được nuôi trong các trại chăn nuôi sống g̣ bó trên một
không gian chật hẹp nhưng đầy đủ tiện nghi. Nào là đèn điện sáng choang. Nào là
nước lọc tinh khiết. Các anh chị được bảo vệ sức khỏe đầy đủ để ngăn ngừa bị
trái hay bị cảm cúm. Người ta cho chúng tôi ăn thức ăn vừa ngon vừa bổ dưỡng. Họ
không sợ chúng tôi bị dị dạng béo ph́. Ngày nào cũng có người đến dọn dẹp pḥng
của chúng tôi, châm nước cho chúng tôi uống, cho chúng tôi uống thuốc để ngừa
bịnh và chữa bịnh. Mấy anh Khuyển phải canh gác cho chúng tôi ngủ. Bọn Chồn cáo
không dám lân la gần nơi chúng tôi sống. Nhưng cuộc đời nào phải là bức tranh
nhung lụa. Khi chúng tôi ăn 45 ki-lô thực phẩm th́ có anh, chị Gà Tây cân nặng
10 ki- lô thịt kể cả lông. Có anh, chị cân nặng đến 15 ki- lô. Đó là lúc chúng
tôi được đưa lên xe chở đến ḷ sát sinh. V́ vậy đừng hỏi về tuổi thọ của chúng
tôi. Nói một cách dễ hiểu chúng tôi khó sống sau khi ăn hết 45 ki- lô thực phẩm
mà loài người ban cho chúng tôi.
Gà Tây sống hoang dă thiếu thốn mọi mặt: ăn uống thiếu thốn,
thiếu chất dinh dưỡng; thiếu thuốc men; không ai chăm sóc; thiếu mọi tiện nghi
vật chất; ăn uống không đảm bảo vệ sinh; tối phải ngủ trên cây bỏ con cái ngủ
dưới đất bị rắn rít, chồn cáo, chó sói...không ngừng đe dọa. Các anh chị ấy có
đôi chân và cánh khỏe để chiến đấu và thoát hiểm trong quá tŕnh đấu tranh sinh
tồn trong rừng xanh. Địa bàn sống của họ không có ranh giới. Họ có thể di chuyển
bao xa cũng được. Họ có thể chết v́ rắn, chồn cáo, chó sói, gấu...trong trường
hợp kém may mắn nào đó. Ngoài ra họ không biết ǵ về tuổi thọ của họ trong khi
chúng tôi biết được ngày loài người hành quyết chúng tôi. Đó là lúc chúng tôi ăn
hết 45 ki- lô thực phẩm của họ.
Tuổi thọ lư tưởng của các anh chị Gà Tây rừng là 03 hay 04
tuổi. Quí vị cho là quá ngắn ngủi chăng? Tuổi thọ của chúng tôi thực sự ngắn hơn
tuổi thọ của các anh chị Gà Tây rừng rất nhiều. Dù là Gà Tây rừng hay Gà Tây
nuôi trong trại ḍng họ Meleagris chúng tôi đều là nạn nhân của loài
người. Các anh chị Gà Tây rừng bị các thợ săn của loài người bắn giết vô tội và
để khoe tài thiện xạ của ḿnh đến nỗi bây giờ phải báo động Gà Tây rừng hầu như
tuyệt chủng!! Không tuyệt chủng sao được? Địa bàn sống của họ càng ngày càng thu
hẹp khiến họ càng sống gần với kẻ thù của họ nhiều hơn. Các chị Gà Tây rừng sinh
sản khó khăn. Họ gục ngă v́ thời tiết băng giá, mưa sa băo táp, bịnh tật, v́
chồn cáo, chó sói, v́ các thợ săn của loài người.
Người Âu- Mỹ nuôi và ăn thịt ḍng họ chúng tôi nhiều hơn
người Á Châu và Phi Châu. Ḍng họ chúng tôi rất khó nuôi vừa tốn kém thức ăn bổ
dưỡng vừa mất th́ giờ chăm sóc sức khoẻ của chúng tôi. Theo số thống kê, năm
2014 thế giới sản xuất 5,63 triệu tấn thịt Gà Tây. Hoa Kỳ sản xuất gần 50% tổng
số thịt ghi trên tức 2.65 triệu tấn lớn hơn tổng số thịt Gà Tây của toàn lục địa
Âu Châu: 1.92 triệu tấn. Mức sản xuất thịt Gà Tây ở lục địa Á Châu là 0.11 triệu
tấn so với 0.12 triệu tấn trên lục địa Phi Châu.
Các nước Âu- Mỹ theo đạo Christ ăn thịt Gà Tây vào những ngày
Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) và Lễ Giáng Sinh (Christmas) hàng năm. V́ vậy ở Việt Nam
các trại chăn nuôi Gà Tây được t́m thấy ở những nơi có nhiều tín đồ Thiên Chúa
Giáo. Người Việt Nam dùng thịt Gà Tây chúng tôi để nấu cà ri. Họ thích nấu cà ri
bằng thịt Gà Tây nam có tích đỏ ḷng tḥng trên cổ. Trong những bữa ăn đêm Giáng
Sinh người ta thường ăn Gà Tây quay. Ở Việt Nam không có đủ phương tiện quay gà
to lớn người ta phải nhờ các ḷ quay heo ướp, tẫm và quay trong ḷ quay heo.
Người Âu- Mỹ ăn Gà Tây quay hay hầm. Gà Tây được tẫm gia vị, nước cam vắt và dồi
đủ các loại hột trước khi quay hay hầm để ăn trong ngày Lễ Tạ Ơn. Người Việt Nam
là giống người đến Hoa Kỳ chậm trễ nhất so với các sắc dân khác trên thế giới
(1975). Họ có vẻ xa lạ với những ngày truyền thống và thức ăn ở Hoa Kỳ. Họ gọi
ngày Thanksgiving là Lễ Gà Tây v́ vào ngày đó người ta ăn Gà Tây. Quí vị biết
không, vào ngày Giáng Sinh năm 2009 riêng nước Anh đă giết gần 8 triệu ḍng họ
Meleagris của chúng tôi.
Loài người nghiên cứu về ḍng họ chúng tôi kỹ lắm. Họ nói
trong 100 grams thịt của ḍng họ Meleagris chúng tôi có:
- 24.6 mg protein
- 10mg Ca, 28 mg Mg
- 206 mg Ph
- 293 mg K
- 49 mg muoi
- 1.2 mg Zinc v.v.
Bổ dưỡng như vậy hèn ǵ họ không gia tăng sản xuất thịt Gà
Tây sao được? Mỗi năm trị giá thịt Gà Tây ở Hoa Kỳ xê dịch từ 5 đến 10 tỷ Mỹ kim.
Người ta dùng thịt Gà Tây nghiền nhuyễn để làm ham hay
lát mỏng để làm bacon thịt Gà Tây. Loài người hay nói:
Đói cho sạch,
Rách cho thơm.
Chúng tôi, hậu duệ của Gà Tây ḍng Meleagris, không
biết làm sao rách mà thơm được. Chúng tôi phải kiếm người Việt Nam để học hỏi về
chuyện này. Gà Tây chúng tôi mạnh dạn nói rằng ḍng họ Meleagris chúng
tôi:
Sống phong trần
Chết thơm tho.
Phong trần v́ từ ngày mới nở thành Gà Tây con cho đến khi
chết chúng tôi chỉ có một bộ đồ. Khi chết loài người tẫm vào người chúng tôi nào
là hành, tiêu, tỏi, ớt, bột ngũ vị hương. Cám ơn mấy anh chị Hành, Tỏi, Tiêu, Ớt.
Khi c̣n sống chúng tôi mổ phá các anh chị vậy mà các anh chị không oán hận chúng
tôi. Khi chúng tôi chết các anh chị không rời chúng tôi một gang tấc lại c̣n rủ
thêm vài anh chị xa lạ từ bên Tàu qua để đưa tiễn chúng tôi. Đó là các anh chị:
- Hồi hương Illicium verum
- Quế Cinnamomum zeylanicum
- Hồ tiêu mộc Tứ Xuyên (Sichuan) Zanthoxylum simulans
- hột th́ là Anethum graveolens
- đinh hương Eugenia aromatica.
Giới giang hồ nấu nướng ở Việt Nam gọi họ là NGŨ VỊ HƯƠNG một
cách kính trọng.
Theo chân người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha chúng tôi đến Âu
Châu và được dân chúng địa phương tiếp đón nồng hậu. Khi họ giết ḍng họ chúng
tôi để mừng ngày Giáng Sinh họ trân trọng ướp xác chúng tôi bằng những loại
hương liệu miền Địa Trung Hải như:
- hương thảo (rosemary) Rosmarinus officinalis
- nguyệt quế Địa Trung Hải Laurus nobilis
- th́ là Ba Tư Carum carvi
- có cà ri Trigonella foenum- graecum
- rau húng Địa Trung Hải Thymus vulgaris.
Gà Tây chúng tôi được sự an ủi tiêu cực vào giây phút cuối
cùng của cuộc đời ngắn ngủi của ḿnh dẫu biết rằng loài người quí vị v́ quí vị
chớ có phải v́ Gà Tây chúng tôi đâu. Quí vị càng vui, ḍng họ Meleagris chúng
tôi càng buồn v́ cảnh giết chóc hàng loạt bằng những phương tiện tinh vi của quí
vị. Quí vị tranh đấu cho NHÂN QUYỀN. Chúng tôi không biết làm cách nào để bảo vệ
THÚ QUYỀN nên đành phải chấp nhận định số mong manh của ḿnh trong vũ trụ khắc
ghi những định luậtt bất biến:
Khôn sống, dại chết.
Mạnh được, yếu thua.
Lư kẻ mạnh bao giờ cũng thắng
Chúc tập thể loài người một ngày Lễ Tạ Ơn và Giáng Sinh vui
vẻ, an lành. Quí vị đừng ăn quá nhiều thịt của ḍng tộc Meleagris chúng
tôi để phải bị chứng bội thực và cũng đừng uống quá nhiều rượu để rút ngắn cuộc
đời và sớm theo chúng tôi. Quí vị giết chúng tôi bằng dao bằng máy chém, lột
lông chúng tôi bằng cách nhúng thân thể chúng tôi vào nước sôi hay lột lông
chúng tôi bằng máy. Chúng tôi không than phiền chi cả v́ 7 tỷ nhân loại có ai
binh vực hay thương xót sự đau đớn nghiệt ngă của chúng tôi. Vậy tôi cũng xin
quí vị đừng rên than khi bị bịnh rằng tại v́ ăn thịt ḍng họ chúng tôi mà quí vị
phải đi nằm bịnh viện.
Cám ơn sự thông hiểu của quí vị
Trưởng tộc ḍng Meleagris trên thế giới.
Trang Phạm Đ́nh Lân
art2all.net |