Trước
khi đại diện Lộc tộc đọc bài tham luận ban
nhạc Reindeer trổi bản nhạc Nhảy Nai soạn
theo cảm hứng của ngôn từ Việt Nam khiến cho
cả hội trường cười nghiêng ngửa. Đại diện
Lộc tộc Việt Nam lên tiếng phản đối tác giả
bản nhạc Nhảy Nai. Đại diện Lộc tộc Việt Nam
cho nhạc sĩ Reindeer biết cụm từ Nhảy Nai có
nghĩa rất xấu nếu không muốn nói là sự chế
nhạo, khinh bỉ sự nhút nhát của Lộc tộc.
Cả hội trường im lặng. Tác giả bản nhạc thuộc tộc Reindeer sống trong vùng
khí hậu ôn đới và hàn đới đứng lên xin lỗi
đại diện Lộc tộc Việt Nam v́ e ngại có sự
hiểu lầm đáng tiếc giữa các ḍng Lộc tộc
khác nhau. Ông xác nhận có sự thiếu sót đáng
tiếc về ngôn ngữ và văn hóa. Ông tưởng Nhảy
Nai là một điệu khiêu vũ vui nhộn nên mới
sáng tác bản nhạc vũ vui nhộn như vừa tŕnh
bày. Dưới hội trường các đại biểu không hiểu
chuyện ǵ xảy ra mà chỉ nghe tiếng huưt sáo
ầm ĩ đ̣i ban nhạc Reindeer ḥa tấu lại bản
Nhảy Nai.
Chuông reo báo hiệu đă đến giờ đại diện Lộc tộc và thân thuộc đọc tham luận.
Đại diện Lộc tộc trên thế giới là một lăo
Tuần Lộc sống gần biên giới Na Uy và Thụy
Điển. Lăo thư thả bước lên diễn đàn. Theo
các nhà báo các nước Bắc Âu, lăo c̣n khỏe
lắm v́ thấy lăo kéo xe trượt tuyết mùa Giáng
Sinh vừa qua.
* * * Ḍng Lộc tộc chúng tôi là một ḍng họ to lớn
sống khắp các vùng khí hậu trên thế giới từ
vùng khí hậu hàn đới, bán hàn đới Tây Bá Lợi
Á, Bắc Âu, Bắc Mỹ đến khí hậu ôn đới Âu- Á-
Phi, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan ngoại trừ Nam
Băng Châu. Các anh chị Hươu, Mang, Mễn là
những người bà con gần với chúng tôi. Chúng
tôi thuộc gia đ́nh Cervidae nổi tiếng
trong cộng đồng động vật.
Tên Hán Việt của chúng tôi là Lộc. Tên Việt
Nam là Nai. Người Pháp gọi chúng tôi là Cerf
và Anh gọi là Deer. Anh Nai gọi là Buck; Chị
Nai là Doe và các cháu là Fawns. Chúng tôi
là động vật có vú, có xương sống, có máu đỏ,
sinh con, ăn cỏ và nhai lại như các anh chị
Ngưu và Thuỷ Ngưu. Tùy theo ḍng Lộc tộc
chúng tôi có chiều dài, chiều cao và trọng
lượng tương đương với các anh chị Dê và
Khuyển (Chó). Loài Nai chúng tôi đa số mặc
áo màu vàng sậm trong khi Dê và Chó mặc áo
trắng, đen. Vài anh chị Chó mặc áo vàng hay
sọc đen và vàng. Nai có sừng. Chó không có
sừng. Dê có râu. Nai không có râu. Dê và Nai
đều có sừng. Sừng Dê ngắn và rỗng. Sừng Nai
dài, đặc và có nhiều nhánh. Sừng Nai rụng
định kỳ rồi mọc lại sừng khác. Sừng Nai là
vơ khí của Lộc tộc nhưng sừng dài và rộng
gây trở ngại trong việc di chuyển trong rừng
cũng như lúc chiến đấu tự vệ v́ dễ bị vướng
vào các cây nhỏ hay nhánh cây khiến Nai
không chạy nhảy được. Nai chạy nhảy nhanh
hơn Dê và Chó. Chân chúng tôi có móng chân:
02 móng to và 02 móng nhỏ.
|
|
Các anh Nai to lớn và nặng cân hơn các chị
Nai. Các anh chị Nai đều có sừng. Cũng có
vài tộc Nai trong đó các chị không có sừng.
Nói tổng quát, sừng của các anh dài và có
nhiều nhánh hơn sừng của các chị. Sừng các
anh Tuần Lộc (Caribou; Reindeer) Rangifer
tarandus rụng vào tháng 12 mỗi năm. Sừng
của các chị Tuần Lộc rụng vào mùa hạ. Sừng
các anh Tuần Lộc cao 1 m và tỏa ra lối 1.50
m.
Mắt và tai của Nai to. Nhờ thị giác, thính
giác và khứu giác bén nhạy nai trốn tránh
các loại thú ăn thịt sống đe dọa Nai như Sư
Tử, Cọp, Beo, Gấu, Chó Sói, Cá Sấu v.v. Nai
rất thích nước và có thể chạy nhanh với tốc
độ xê dịch từ 40 đến 60 km/ giờ.
Nai ăn cỏ, lá cây, rêu, nấm, mầm non của cây,
vỏ cây, cành cây nhỏ. Tuần Lộc chúng tôi ở
vùng khí hậu bán hàn tới và hàn đới c̣n ăn
cá và loài gặm nhấm nhỏ nữa.
Nh́n khái quát chúng ta thấy Lộc tộc hiền
ḥa, nhút nhát, là mồi của các loài dă thú
ăn thịt sống.
Xă hội Lộc tộc là xă hội mẫu hệ và đa thê.
Vào mùa động cỡn các anh Nai thường nhịn ăn
và dùng sừng đâm chém nhau để giành quyền ái
ân với các chị Nai. Nam, nữ Lộc tộc bắt đầu
tuổi yêu đương từ 02 đến 03 tuổi. Thời gian
mang thai, tùy theo tộc, kéo dài từ 06 đến
07 tháng. Mỗi chị Nai sinh từ 01 đến 03 con.
Nai c̣n thơ bú sữa mẹ khi được 02 hay 03
tháng tuổi.
Rất khó ước lượng chiều dài, chiều cao,
trọng lượng của Nai v́ Lộc tộc có quá nhiều
loại khác nhau. Tôi chỉ đưa vài số liệu để
quí vị có một ít khái niệm về Tuần Lộc chúng
tôi:
Phái |
Chiều dài |
Chiều Cao |
Trọng Lượng |
Nam |
1.8- 2.10 m |
80- 120 cm |
150- 180 ki- lô |
Nữ |
1.6- 2.00 m |
60- 100 cm |
80- 120 ki- lô |
Trọng lượng cao nhất trong ḍng Tuần Lộc
chúng tôi là 370 ki- lô. Tuần Lộc chúng tôi
có sừng có nhiều nhánh tua tủa. Chúng tôi
mặc quần áo lông dày dễ chịu đúng với khí
hậu hàn đới và bán hàn đới ở Tây Bá Lợi Á,
Bắc Âu, Alaska, Canada, bắc Hoa Kỳ.
Ở Nam Mỹ có Nai đầm nước mặn (Marsh deer)
sừng nhỏ và nhọn. Nai đầm nước mặn nầy mang
tên khoa học Blastocerus dichotomus
mặc quần áo màu hung đỏ vào mùa hạ. Màu này
chuyển sang màu đen nhạt vào mùa đông. Nai
đầm nước mặn thường đi theo các ḍng nước để
kiếm ăn dưới nước.
Các anh chị Nai Sừng (Moose) Alces alces
ở miền ôn đới và bán hàn đới to lớn đo được
2.50 m chưa tính đuôi; cao: 2.20 m và cân
nặng từ 380 ki- lô đến 750 ki- lô.
Nai Sika mang tên khoa học Cervus nippon
được t́m thấy ở Việt Nam, Trung Hoa,
Taiwan (Đài Loan), Triều Tiên, Nhật Bản dài
từ 95 cm đến 180 cm; cao: 64 cm- 110 cm; cân
nặng lối 70- 80 ki- lô.
Các anh chị Nai đuôi trắng Odocoileus
virginianus hay
Dama virginiaca được t́m thấy nhiều ở Bắc Mỹ, Trung Mỹ, Nam Mỹ và được
đưa sang Tân Tây Lan, các hải đảo trong biển
Caribbean và các nước Âu Châu. Các anh chị
Nai đuôi trắng dài từ 1.60 m đến 2.20 m;
trọng lượng: 50- 130 ki- lô. Gọi là Nai đuôi
trắng v́ phần cuối và phía dưới của đuôi của
các anh chị ấy có lông màu trắng. Người ta
cho rằng cái đuôi màu trắng này giúp cho các
anh chị Nai phát giác điều ǵ sắp xảy ra.
Nai La (mule deer) Odocoileus hemionus
mặc áo quần màu hung đỏ vào mùa hạ. Màu quần
áo nầy thay đổi thành màu hung đỏ xám vào
mùa đông. Gọi là Nai La (mule deer) v́ Nai
có hai tai to và thẳng như tai con la. Loài
Nai La có đốm trắng trên cổ và trán. Phần
cuối của đuôi có cḥm lông đen. Nai La bắt
đầu công tác truyền giống vào tháng 09 và
chấm dứt vào tháng 11. Mỗi chị Nai La sinh
01 hay 02 con sau khi mang thai 200 ngày tức
06 tháng + 20 ngày. Nai La sống trong vùng
khí hậu ôn đới.
Ở Ấn Độ và Sri Lanka có Nai đốm dài lối
60 cm (0.60 m). Tên khoa học của loài Nai
đốm nầy là Tragulus meminna thuộc gia
đ́nh
Tragulidae. Các anh Nai đốm có răng nanh
bén nhọn. Đó là vơ khí tự vệ của các anh
chống lại các dă thú khác.
Nhỏ con nhất trong ḍng Lộc tộc là các anh
chị Nai Pudu mang tên khoa học Pudu puda
hay Pudu mephistopheles. Nai Pudu (Pháp:
Poudou) mặc quần áo đen xám; phần dưới của
chân màu vàng. Nai Pudu tựa như các anh chị
Khuyển. Các anh chị ấy cân nặng từ 6 ki- lô
đến 13 ki- lô! Các anh chị cao từ 32 đến 44
cm; dài: 85 cm Địa bàn sống của các anh chị
Nai Pudu là các quốc gia Nam Mỹ.
Nai bờm (sambur) mang tên khoa học
Cervus unicolor
được t́m thấy ở Ấn Độ và các quốc gia Đông
Nam Á. Các chị Nai bờm không có sừng nhưng
nổi tiếng bảo vệ con chống các loài dă thú
rất kiên cường. Các anh Nai bờm dài từ 95 cm
đến 180 cm; cao: 100 cm đến 160 cm; cân nặng:
100- 350 ki- lô. Nai bờm nặng nhất cân nặng
540 ki- lô. Đuôi dài từ 22- 35 cm. Vào mùa
động cỡn các anh Nai bờm nhịn ăn và đầm ḿnh
dưới śnh. Các anh kêu ầm lên và bờm xù lên.
Ở Trung Á, Afghanistan và trung bộ Trung Hoa
có tộc Nai Xạ (Lộc Xạ) mang tên khoa học
Moschus chrysogaster thuộc gia đ́nh
Moschidae.
Nai Linh Mục David tức Mi lu (Mĩ Lộc?)
(Nai Mĩ Lộc) theo cách gọi của người Trung
Hoa, mang tên khoa học Elaphurus
davidianus được nuôi để giữ giống v́
giống Nai này có nguy cơ tuyệt chủng. Nai
linh mục David hay Nai Mĩ Lộc có lông dày
màu hồng nhạt. Cổ của Nai Mĩ Lộc giống cổ
Lạc Đà, sừng của Nai, móng của Ḅ, đuôi
giống đuôi Lừa. Giống Nai Mĩ Lộc này sống ở
vùng đầm lầy ở Trung Hoa. Thức ăn chính yếu
là các loại thủy thảo dưới nước. Đặc điểm
khác của Nai Mĩ Lộc là thay sừng hai lần
trong năm.
Các anh chị Hươu, Mang, Hoẵng…đều là bà con
thân thuộc với ḍng Lộc tộc chúng tôi.
Hươu hồng (apiti; elk) có lông màu hung đỏ
vào mùa hè. Màu lông nầy thay đổi vào mùa
đông. Các anh chị Hươu hồng mang tên khoa
học
Cervus elaphus, sống ở Âu Châu, Tây Á,
Trung Á và Đông Á. Người ta bắt và chở các
anh chị ấy đưa sang Bắc Mỹ, Nam Ư, Úc Đại
Lợi và Tân Tây Lan ở Nam Bán Cầu.
Ở Ấn Độ, Bangladesh, Miến Điện có Hươu đốm
Chita Axis axis
có sừng thẳng, nhọn và ít nhánh. Hươu đốm
này cân nặng từ 30 ki- lô đến 75 ki- lô.
Các anh chị Mang (Anh: Roe deer; Pháp:
chevreuil) mặc quần áo màu đen- đỏ xám, mơm
màu đen. Các anh chị Mang mang tên khoa học
Capreolus capreolus v́ các anh chị có
h́nh dáng và quần áo giống Dê. Địa bàn sinh
sống của các anh chị Mang chạy dài từ miền
Địa Trung Hải lên đến các quốc gia Bắc Âu.
Các anh chị Hoẵng (Anh: dama, fallow deer;
Pháp: daim) gốc ở Tây Á trên lục địa Á- Âu
hiện nay hiếm dần. Các anh chị Hoẵng mặc áo
màu vàng có nhiều đốm trắng.
* * * Thưa quí vị, ḍng họ chúng tôi đông đảo và sống khắp nơi trên thế giới.
Giữa chúng tôi và loài người không có nhiều quan hệ mật thiết. Khác với các anh
chị Mă, Ngưu, Thủy Ngưu, Lạc Đà, Lộc tộc chúng tôi không gần gũi cũng không giúp
ích nhiều cho loài người ngoại trừ chi tộc Tuần Lộc chúng tôi kéo xe trượt tuyết,
trượt băng cho loài người ở vùng khí hậu hàn tới và bán hàn đới như Alaska, Tây
Bá Lợi Á, Bắc Âu, Greenland, bắc Canada. V́ Lộc tộc chúng tôi sống rải rác khắp
các vùng khí hậu khác nhau trên thế giới, chúng tôi là nguồn thịt trong thiên
nhiên đối với loài người. Đâu đâu loài người cũng săn Nai để ăn thịt, lấy da,
xương và sừng.
Người Esquimos săn Tuần Lộc để ăn thịt. Da dùng làm quần áo ấm để mặc hay kết
làm lều để ở. Xương Nai dùng làm kim may vá hay lưỡi câu. Sừng Nai là vật trang
trí trong các nhà giàu có sang trọng ngày xưa. Nó cũng phản ảnh tài thiện xạ của
gia chủ cũng như ước vọng giàu có, tài sản dồi dào qua h́nh ảnh hay sừng của Nai
v́ theo Hán- Việt Nai tức là Lộc. Trong bức tranh Tam Đa (Phước, Lộc, Thọ), Ông
Lộc được tượng trưng bằng h́nh ảnh của Nai.
Ở Trung Hoa người ta nuôi Nai để khai thác Lộc nhung. Việc khai thác Lộc nhung
làm cho Nai đau đớn vô cùng. Lộc nhung là một vị thuốc quí và đắt tiền trong
Đông Y. Một thời người ta quảng cáo Sâm (Panax quinquefolius) , Nhung,
Hải Cẩu như là bài thuốc cường dương cực quí. Sâm, Nhung hiếm, đắt tiền nhưng
vẫn có. C̣n Hải Cẩu ở Bắc Cực làm sao có đủ để làm thuốc? Lộc nhung c̣n dùng để
nấu cao. Đó là Lộc giác cao.
Ở Tây Tạng, Si Chuan (Tứ Xuyên), Yunnan (Vân Nam), bắc Ấn Độ, Bhutan, Nepal,
Sikkim, Miến Điện có Lộc Xạ (Nai Xạ: musk deer) mang tên khoa học
Moschus chrysogaster thuộc gia đ́nh Moschidae. Tộc Nai nầy sống
trên cao độ. Người ta săn Lộc Xạ để lấy thịt, xương, da nhất là xạ của các anh
ḍng Moschus. Chỉ có các anh Lộc Xạ mới có xạ. Xạ được dùng làm thuốc,
dầu thơm, xà bông và mỹ phẩm. Xạ của Lộc Xạ màu vàng có mùi rất nồng. Xạ khai
thác từ tháng 11 đến tháng 04 màu trắng sữa không nồng. Đó là loại xạ có phẩm
chất thấp. Xạ của Lộc Xạ rất dắt tiền. Mỗi ki- lô xạ trị giá 45,000 Mỹ kim. Mỗi
anh Lộc Xạ chỉ cung cấp 25 grams xạ tức 1/40 ki- lô. Muốn có 01 ki- lô xạ phải
khai thác ít ra 40 anh Lộc Xạ. Xạ của Nai càng ngày càng hiếm dần v́ ḍng
Moschus bị săn bắt rất nhiều. Mỗi lần khai thác xạ th́ có vài trường hợp tử vong
xảy ra. Người ta nghĩ đến việc nuôi Lộc Xạ để khai thác xạ nhưng Lộc Xạ chết rất
nhiều trong các trại chăn nuôi.
Mặc dù có vài ḍng Lộc tộc giảm dần dân số như trường hợp các anh chị Hoẵng (fallow
deer) ở vùng Lưỡng Hà Châu (Mesopotamia- châu thổ giữa hai sông Tigris và
Euphrates) hiện nay hầu như tuyệt chủng, mặc dù loài người dùng mọi phương tiện
sẵn có để săn bắn Nai, gia đ́nh Cervidae vẫn tồn tại đông đảo trên thế
giới. Ngày xưa thịt nai được xem là sơn hào với các môn khô nai, thịt nai xào
lăn, thịt nai nhúng giấm v.v.
Các h́nh vẽ Bầu, Cua, Cá, Cọp, một dạng cờ bạc b́nh dân vào dịp Tết ở Việt Nam
cho thấy:
1. Tiếng nói là Bầu Cua, Cá, Cọp thực tế không có Cọp mà có: Bầu, Cua, Cá, Tôm,
Nai, Gà.
2. Đó là bản tóm lược các thức ăn thường thấy trong dân gian. Thức ăn phổ biến ở
nông thôn là canh bầu. Thức ăn ngon mà người b́nh dân có thể có là thức ăn có
thịt gà. Nai là sơn hào. Cá, tôm, cua là hải vị.
Ṣng cờ bạc b́nh dân trở thành bản thực đơn của các tửu lâu trong nước. Ước vọng
sơn hào, hải vị này cho thấy t́nh trạng thiếu ăn và thiếu thức ăn ngon có đầy đủ
chất dinh dưỡng trầm trọng ở nước ta ngày xưa.
Lộc tộc sống tự do trong rừng núi Hoa Kỳ. Người Hoa Kỳ thích săn Nai như là một
sự giải trí dă ngoại hơn là để ăn thịt. Các cửa hàng thực phẩm ở Hoa Kỳ bán thịt
Ḅ, Heo, Dê, Trừu, Gà, Vịt, Cá, Cua, Tôm, Mực, đùi Ếch… nhưng không thấy bán
thịt Nai, sữa Nai. Có phải chăng việc lập trại chăn nuôi Nai không phát triển v́
sự hiện diện của Ruồi Nai Chrysops discalis ? Các chị Ruồi Nai mang vi
khuẩn Francisella tularensis từ các loài gặm nhấm như chuột, thỏ chích
sang người hay các động vật khác để gây ra chứng bịnh
tularemia (tên của thành phố Tulare ở California). Người bịnh bị lên cơn sốt
dữ dội. Vết Ruồi Nai chích sưng phù, làm mủ nhức nhối vô cùng. Thực tế việc nuôi
Nai không có lợi về phương diện kinh tế: lập trại, lo thức ăn và thuốc men cho
Nai. Các dân tộc trên thế giới quen ăn thịt Ḅ, Heo, Gà, Vịt, Dê, Trừu, Thỏ
nhưng chưa ưa thích thịt Nai. Riêng các dân tộc sống ở miền hàn đới và bán hàn
đới nuôi Tuần Lộc để kéo xe, ăn thịt, khai thác sữa, xương và da.
Lộc tộc chúng tôi ăn cỏ, sống hiền ḥa đến nhút nhát. Vậy mà loài người t́m mọi
cách săn bắn, giết chúng tôi để ăn thịt và để làm vui. Trong ngôn từ của loài
người dành cho chúng tôi chỉ có ư nghĩa xấu, chê bai, biếm nhẽ giữa lúc họ gọi
Cop, Voi bằng Ông. Đó là thái độ trên đội dưới đạp, hiếp đáp hay khinh thường kẻ
hiền ḥa, lại phục lụy kẻ tàn ác đối với ḿnh. Đó là chuyện thường thấy trong xă
hội loài người.
Trong ngôn ngữ của loài người ḍng tộc chúng tôi được đề cập rất nhiều.
Nhóm từ nồi da xáo thịt ám chỉ cảnh huynh đệ tương tàn gợi lại h́nh ảnh
các thợ săn Nai nấu thịt nai trong cái nồi da của chính anh chị Nai bị bắn chết.
Nhảy Nai là cách nhảy trong t́nh trạng nguy khốn và hốt hoảng của Lộc tộc.
Nói Hươu nói Vượn là nói chuyện bịa đặt khó tin được.
Nai tơ ám chỉ thanh niên mới lớn lên c̣n thiếu nhiều kinh nghiệm nên bị
người khác phái lợi dụng.
Nai đặc móng, chó lè lưỡi hàm ư chỉ cho những người thích tranh chấp thấy
kẻ thắng hay kẻ thua đều bị thiệt hại.
Lộc nhung là gạc nai non rất quí giá trong Đông Y.
Lộc giác là sừng Nai.
Lộc giác cao là cao nấu từ lộc nhung.
Khi nói đến Nai người ta nhớ đến hai câu thơ nổi tiếng của Lưu Trọng Lư:
Con Nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Người ta cũng nhớ đến Lộc Dă tức Đồng Nai. Nhà văn Tô Văn Tuấn gốc ở Tân Uyên
lấy bút hiệu B́nh Nguyên Lộc để tưởng nhớ đến vùng đất sinh quán của ông. (B́nh
nguyên: Đồng; Lộc: Nai. B́nh Nguyên Lộc: Đồng Nai).
Đồng Nai là tên con sông chạy ngang qua Biên Ḥa và cũng là tên của tỉnh Biên
Ḥa sau năm 1975. Đồng Nai là tên của một tờ báo ở Sài G̣n thời Pháp thuộc. Ông
Phan Văn Hùm viết cho tờ báo này và được biết dưới biệt danh Cọp Đồng Nai (Hùm:
Cọp; Đồng Nai: ám chỉ Nam Bộ). Ở Việt Nam có nhiều địa danh mang tên Lộc (Nai)
như: Lộc Ninh (B́nh Long), Hưng Lộc (Long Khánh), Xuân Lộc (Long Khánh), núi Lộc
Tŕ (Kiên Giang), An Lộc (B́nh Long), Lộc Châu (Lạng Sơn), Thạnh Lộc (Gia Định),
Phúc Lộc (tên của Sơn Tây thời Văn Lang) v.v.
Ở Hoa Kỳ cũng có nhiều địa danh Deerfield (Đồng Nai). Ở Florida có Deer Beach.
Trong tiểu bang Maine có hồ Moosehead Lake rộng 780 km2. Hoa Kỳ có một loại phi
cơ mang tên Caribou (Tuần Lộc).
Ở trung bộ Canada có hồ Reindeer Lake rộng 6,300 km2. Canada có dăy núi Caribou
Mountains và thành phố Moose Jaw ở phía nam Saskatchewan.
Moose milk là một loại cocktail ở Canada. Đó là sữa pha với rượu whisky hay rượu
rum.
Trong Cựu Ước Kinh, Nai được đề cập trong: Deuteronomy (Phúc Truyền Luật Lễ Kư)
14:5; Jeremiah 14: 5; Proverb (Châm Ngôn) 5: 19.
Trong thực vật học có:
- Cây Gạc Nai Xanthophyllum glaucum
- Cây Lộc Mộc ( Mossewood) Eucryphia lucida; Lộc Mộc (Moosewood) Dirca
palustris. Cây này có vỏ chắc và dai. Vỏ và trái Lộc Mộc Dirca palustris
có độc chất.
- Elk root (Lộc Căn) Echinacea augustifolia. Người Da Đỏ ăn củ này khi bị
thương.
- Elk horn sea moss (Lộc Giác Hải Tảo) là rong Kappa kappaphycus alvarejii.
- Deer grass (nguyên từ: Cỏ Nai) trên thực tế người Việt Nam gọi là Cỏ Voi
Scirpus grassus.
- Deer Nut là cây Jojoba Simmondsia californiaca
- Deer’s tongue (nguyên từ: Lộc Thiệt). Đó là dây Va- ni hoang Liatris
odorissima v́ lá của dây này giống lưỡi của Nai.
- Deer’s tree là Cây Dương hay Đào Thụ Broussonetia papyrifera
Trong Đề 40 con Lộc tộc chúng tôi mang số 34 sau anh chị Nhện (số 33) và trước
anh chị Dê (số 35).
Trong Rig Veda của Ấn Độ cḥm sao Orion được gọi là sao MRIGA tức Lộc Tinh gồm
Đại Lộc Tinh và Tiểu Lộc Tinh (Nai mẹ và Nai con).
Người Seri ở Mễ Tây Cơ cũng có khái niệm tương tự khi xem cḥm sao Orion có ba
phần:
1. Sao HAP (Nai Lừa)
2. Sao HAAMOJA (Gạc Nai)
3. Sao MOJET (Trừu sừng to)
Lộc Tŕ Thôn Cú là nhan đề của một trong 10 bài thơ của Mạc Thiên Tứ vịnh
thắng cảnh Hà Tiên (Lộc có hai nghĩa: 1. Lộc: con Nai 2. Lộc: của cải, tiền bạc).
|
|
Thực sự Lộc tộc chúng tôi có vai tṛ
nhất định trong xă hội loài người. H́nh ảnh
chúng tôi là đề tài của thi ca, âm nhạc, hội
hoạ, nhiếp ảnh. Tên gọi của chúng tôi trở
thành niềm ước vọng muôn đời của loài người
trên Trái Đất này. Thi sĩ của loài người ca
ngợi đôi mắt ngây thơ và hiền ḥa của Lộc
tộc chúng tôi. Các nhạc sĩ sáng tác những
bản nhạc về Lộc tộc cho nhi đồng hát. Bên
cạnh những bản nhạc hiền ḥa dễ thương lại
có những bản nhạc hùng tráng về những cảnh
săn đuổi, bắn giết Nai trong rừng.
Hôm nay, tại diễn đàn này, tôi, trưởng lăo
Tuần Lộc, đại diện Lộc tộc trên thế giới,
yêu cầu loài người trả lời những thắc mắc
sau đây của Lộc tộc trên hoàn vũ:
1. Có phải loài người quí vị là động vật
thượng tầng, khôn ngoan, mâu thuẫn vừa khen
ngợi Lộc tộc ngây thơ, hiền ḥa, dễ thương
vừa xách cung tên, súng lửa đi kiếm chúng
tôi để giết? Quí vị giết sự ngây thơ? giết
sự hiền ḥa? giết cái ǵ mà quí vị từng ca
ngợi? Vậy quí vị yêu thích và trân quí cái
ǵ?
2. Quí vị chê Lộc tộc chúng tôi mang Ruồi
Nai gây bịnh tật cho quí vị. Quí vị không ăn
thịt chúng tôi v́ sợ có trùng này, khuẩn nọ
tại sao quí vị thích vác súng vào rừng bắn
giết chúng tôi để làm ǵ? Quí vị thừa ăn,
thừa mặc, sao c̣n xách súng đi t́m chúng tôi
để bắn giết? Làm như vậy có phải v́ óc hiếu
sát tự nhiên của quí vị không? v́ thích giết
chóc và nh́n thấy máu đỏ?
3. Quí vị có nghĩ đến sự đau đớn của Lộc tộc
khi quí vị dùng vật bén nhọn để cưa sừng non
của ḍng họ chúng tôi để lấy Lộc nhung?
Cũng tại diễn đàn này Lộc tộc chúng tôi cũng
phản đối tính hung hăn và khát máu của các
anh chị Hùm, Beo, Sư Tử, Chó Sói, Mèo Rừng…
ỷ mạnh và có vơ thuật hà hiếp, ăn tươi nuốt
sống bao nhiêu động vật nhỏ bé và yếu ớt để
nuôi thân ḿnh. Các anh chị nghĩ sao khi các
anh chị không thoát khỏi định luật sinh tồn
bất di dịch:
Mạnh được yếu thua.
Khôn sống dại chết?
Tôi xin chấm dứt bài tham luận tại đây và
mong rằng quí vị có những giây phút suy nghĩ
thấm thía. Chúc quí vị một ngày vui, hạnh
phúc và đầy ư nghĩa.
Dưới hội trường Cọp nói với Sư Tử: "Thằng
Tuần Lộc này ở Bắc Âu nên không biết uy của
tụi ḿnh giống như mấy thằng điếc không sợ
súng. Nó mà sống ở rừng hay thảo dă Á Châu,
Phi Châu th́ nó biết tay tôi.” Sư Tử ngồi im
lặng với muôn ngàn suy nghĩ ngổn ngang trong
đầu. Địa vị chúa sơn lâm của Cọp và Sư Tử
bắt đầu lung lay. Có phải chăng đă đến lúc
Cọp dữ không cự nổi Chó bầy?
Để phá tan bầu không khí nặng nề bao trùm
quanh hội trường, ban nhạc Cervus trổi bản
Deer Lick.
Trưởng lăo Tuần Lộc Bắc Âu Rangifer
tarandus.
art2all.net |