Người viết không có dữ liệu khả tín để
quả quyết người Việt Nam trồng và hút thuốc lá vào lúc nào. Chỉ biết rằng cây
thuốc lá gốc ở Mỹ Châu. Một người Pháp tên Jean Nicot de Villemain đem thuốc lá
từ Mỹ Châu về Pháp năm 1560. Cây thuốc lá mang tên khoa học Herba nicotiana
hay Nicotiana tabacum thuộc gia đ́nh Solanaceae như cây cà. Thuốc
lá có nicotine C10H24N2 (tên của Nicot), anabisine, tabacine,
nicotianine v.v.
Trồng thuốc lá như trồng cây kỹ nghệ v́ thuốc lá mang lại nhiều lợi nhuận. Nông
dân Việt Nam trồng thuốc lá và dùng phân bánh đậu tức xác hột đậu phọng sau khi
ép đậu trộn với rơm để làm phân bón cho cây thuốc lá. Xắc thuốc lá là một nghệ
thuật không phải người nông dân nào cũng làm được. Thuốc lá xắc từng sợi nhuyễn
được trải mỏng và đều trên liếp tre. Mỗi liếp có từ 05 đến 07 bánh thuốc tươi
mới vừa xắc. Liếp tre để nằm dưới đất. Người ta giẫm trên bánh thuốc lá tươi cho
các sợi thuốc tươi quấn chặt vào nhau rồi đem ra phơi nắng. Bánh thuốc phơi khô
có màu vàng- đen và có mùi thơm rất nồng. Người ta dùng thuốc lá đó để vấn với
giấy báo gọi là giấy nhựt tŕnh, lá chuối khô hay lá c̣ ke khô để hút.
Người khá giả hút thuốc lá được tẩm với vài loại thảo mộc có vị ngọt và hương
thơm. Thuốc này được dùng để hút ống điếu hay được vấn với giấy hút thuốc trắng
mịn đắt tiền gọi là giấy quyến. Ở Việt Nam đàn ông hút thuốc. Đàn bà dùng
thuốc để xỉa khi ăn trầu. Số phụ nữ hút thuốc ở Việt Nam thời tiền chiến rất ít
ngoại trừ dân nông thôn. Ở nông thôn trẻ em 12, 13 tuổi đă biết hút thuốc.
Khi tiếp xúc với người Pháp, người Việt Nam ở thành thị bắt đầu hút thuốc điếu
vấn rất đẹp bằng giấy hút thuốc trắng và mỏng gọi là giấy quyến. Hăng thuốc MIC
được thành lập ở Chợ Lớn để sản xuất thuốc điếu. Hăng thuốc mua thuốc lá Nha
Trang, Xuân Trường, Tân Khánh, G̣ Vấp để tẩm và vấn thuốc bằng máy. Thuốc Mic,
Bastos, Job, Melia là những loại thuốc điếu nặng khói được những người sành
thuốc lá ưa chuộng. Hút thuốc Cotab và uống cà phê sữa là biểu hiện của nếp sống
trưởng giả của những người sống thời hậu đệ nhị thế chiến. Lúc ấy một viên thuốc
Dagenan và một hộp sữa đặc Con Chim Nestlé trị giá tương đương với tài sản của
một gia đ́nh nghèo! Quân viễn chinh Pháp chiến đấu trên chiến trường Đông Dương
được bán thuốc Gaulois.
Từ năm 1954 đến 1975 các hiệu thuốc lá Cotab, Bastos và Melia tồn tại song song
với thuốc Capstan mà nhiều người diễn dịch khôi hài thành Con Anh Phá Sản Tại
Anh Ngu và thuốc Quân Tiếp Vụ dành cho quân sĩ VNCH. Năm 1965 hàng trăm ngàn
quân sĩ Hoa Kỳ được phái sang miền Nam Việt Nam. Các hiệu thuốc lá Hoa Kỳ như
Salem, Winston, Marlboro, Philip Morris, Pall Mall được t́m thấy khắp nơi ở miền
Nam Việt Nam. Phần lớn các loại thuốc lá này có đầu lọc và được vấn bằng loại
giấy vấn thuốc rất tốt, tàn thuốc trắng, điếu thuốc không cháy bùng. Thuốc Salem
có vẻ hấp dẫn những người mới tập hút thuốc.
Sau ngày 30-04-1975 là thời kỳ thuốc lá thịnh hành trên toàn thể lănh thổ thống
nhất. Điều này cho thấy công dân trong nước có nhiều chuyện phải lo âu suy nghĩ.
Do đó họ hút thuốc rất nhiều để nhờ thuốc kích thích phổi và óc. Thuốc lá cũng
có tác dụng làm giảm sự thèm ăn trong thời kỳ thực phẩm khan hiếm và đắt giá.
Nhà nước XHCN có thuốc Hoa Mai, Vàm Cỏ, Phù Đổng, Đà Lạt. Số người vấn thuốc lá
ở miền Nam gia tăng. Thuốc lá bán cho người nghèo đôi khi được vấn bằng thuốc lá
kết hợp với lá khoai ḿ sấy khô và thái nhuyễn. Chợ Lớn trở thành ḷ sản xuất
thuốc lá ngoại quốc Made in Chợ Lớn. Giấy vấn thuốc lá Hoa Kỳ có giá trị như
vàng. Ngay cả việc cắt giấy vấn thuốc cũng là một công việc kiếm nhiều tiền.
Thuốc lá Samit từ Thái Lan nhập vào chinh phục thị trường Việt Nam trong đầu
thập niên 1980. Sau đó thuốc Craven A, State Express 555 của Anh được xem là quà
giao dịch thời bấy giờ giống như miếng trầu là đầu câu chuyện của tiền
nhân ngày xưa.
Ngày nay Việt Nam có thuốc lá Trường Sơn, Thăng Long nhưng thuốc lá được ưa
chuộng và tiêu thụ nhiều vẫn là thuốc lá ngoại quốc như Marlboro, Kent (Hoa Kỳ),
Craven A, State Express 555 (thuốc ‘Oanh Tạc) (Anh). Theo thống kê mới nhất,
Việt Nam tiêu thụ 4 tỷ 170 triệu (4,170,000,000) gói thuốc lá trong năm
vừa qua. Nếu tính theo đầu người th́ mỗi người bất luận nam, nữ, tuổi tác và
nghề nghiệp tiêu thụ 46 gói thuốc lá mỗi năm!
****
Trước khi người Pháp đến Việt Nam người Việt Nam không biết
cà phê. Tên gọi cà phê âm từ tiếng Pháp café mà ra. Chữ café của Pháp âm
trại từ chữ Kaffa, một địa danh ở Ethiopia, nơi xuất phát của cây cà phê.
Tên khoa học của cây cà phê là Coffea arabica, gia đ́nh Rubiaceae.
Cà phê có caffein C6 H10 N4 O2, một chất kích thích và gây ghiền nhẹ. Các
tu sĩ, học sinh học bài thi cần thức khuya nên uống cà phê để kích thích không
buồn ngủ. Uống cà phê buổi sáng để được tỉnh táo và người uống có cảm giác no để
khỏi ăn sáng.
Cà phê được bán ở thành phố. Cho đến giữa thế kỷ XX cà phê vẫn chưa được phổ
biến sâu rộng ở nông thôn Việt Nam. Việc rang cà phê, phân phối và bán cà phê
đều do người Hoa đảm nhận. 99% tiệm nước ở Nam Bộ đều do người Hoa làm chủ. Các
tiệm ấy đều ở các thành phố lớn hay nhỏ trong nước hơn là ở nông thôn hẻo lánh.
Cà phê bán trong các tiệm nước của người Hoa được luộc bằng một cái vợt bằng vải
tựa như chiếc vớ nằm trong một cái siêu đầy nước đặt trên ḷ lửa than. Nước cà
phê đen và có vị đắng như thuốc Bắc. Cà phê vừa mới rót ra rất nồng. Nếu nôn
nóng uống th́ rót một phần cà phê vào cái đĩa dưới tách cà phê và uống café trên
cái đĩa đó.
Quán cà phê ‘phin’ (filtre) mọc lên như nấm sau năm 1954 ở miền Nam vĩ tuyến 17
như là sự thụ hưởng ḥa b́nh sau 09 năm chiến tranh. Cà phê ‘phin’ đậm đà và có
vẻ văn hóa hơn cà phê vợt ở các tiệm nước trước kia. Cà phê ‘phin’ được bán ở
các tiệm kem sang trọng nổi tiếng ở Sài G̣n. Có nhiều quán cà phê ‘phin’ b́nh
dân nhưng ngon nổi tiếng như cà phê Năm Dưỡng ở Bàn Cờ, cà phê trên đường Nguyễn
Phi Khanh (tên đường cũ: Faucault nối liền Đa Kao và Tân Định) v.v. Cà phê Năm
Dưỡng do một người miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 làm chủ. Quán cà phê Nguyễn
Phi Khanh gần nhà thầy Ba La bói toán do một phụ nữ miền Bắc có chồng Pháp làm
chủ. Bà chủ pha cà phê rất độc đáo. Khách uống cà phê được đọc báo Paris Match
và được bà chủ nói về nguồn gốc thuật pha cà phê của bà khi c̣n ở Hà Nội và sống
với người chồng Pháp. B́nh dân hơn th́ uống cà phê Ḥa Hưng dưới tàng cây bóng
mát trên đường dẫn vào khám Chí Ḥa.
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam II cách uống cà phê của người miền Nam vẫn
c̣n phỏng theo Pháp, thư thả ngồi chờ cà phê nhỏ giọt từ những cái ‘phin’ kim
loại. Các quân nhân Hoa Kỳ không có thú này v́ mất nhiều th́ giờ. Họ đưa vào
Việt Nam cà phê nguyên chất chỉ cần cho nước sôi vào, quấy đều th́ uống liền
(instant coffee).
Sau năm 1975 quán cà phê gia tăng ở miền Nam mặc dù lúc bây giờ cà phê rất khan
hiếm v́ chánh sách ngăn sông cấm chợ. Bắp rang cháy xay nhuyễn được dùng để thay
thế cà phê. Người uống dùng nước sắc này để được tỉnh ngủ, tạo trạng thái no hơi
để tiết kiệm bữa ăn. Sau 1975 số người không có tiền nhưng có nhiều th́ giờ rất
đông. Họ dùng cà phê và thuốc lá để làm cho đầu đỡ nhức nhối và đến quán cà phê
để t́m chút ánh sáng hy vọng dù là giả tưởng qua các tin tức tưởng tượng từ xa
vọng về. Trước khi vào quán cà phê gặp bạn bè và người quen để chuyện văn người
ta dặn nhau phải nói ǵ, viết ǵ khi công an áp vào và đưa mọi người một tờ giấy
trắng để viết lại những ǵ đă nói với nhau! Người mở quán cà phê không c̣n cách
sinh sống nào khác. Người th́ mất việc v́ liên hệ đến chế độ cũ. Người th́ có
thân nhân đi học tập cải tạo hay ra nước ngoài trước hay trong ngày 30-04. Người
buôn bán không c̣n được buôn bán nữa. Tiền bạc mất sau những đợt đổi tiền. Bán
cà phê tương đối không cần nhiều vốn liếng. Lúc bấy giờ mỗi ngày được uống một
ly cà phê và hút vài điếu Hoa Mai hay Vàm Cỏ là hạnh phúc lắm rồi. Nếu có thuốc
điếu Samit hay States Express được âm thành ‘thuốc Oanh Tạc (States)’ th́ hạnh
phúc dâng trào có thua ǵ những người ở nước ngoài bị bắt buộc phải ăn cơm dồn
thịt!
Các đồn điền cà phê của Pháp trên cao nguyên Nam Trung Bộ này đă đổi chủ. Diện
tích đồn điền cà phê Việt Nam được nới rộng xuống các vùng đất đỏ của Phước
Long, B́nh Long, Biên Ḥa, Bà Rịa (Phước Tuy). Hiện nay Việt Nam là quốc gia sản
xuất nhiều cà phê đứng hàng thứ hai trên thế giới sau Brazil. Mức sản xuất cà
phê Việt Nam lên đến 1.5 triệu tấn trị giá lối 1.5 tỷ Mỹ kim. Sài G̣n, Hà Nội và
các thành phố lớn ở Việt Nam ngày nay có cà phê Expresso đậm đà hơn cà phê ‘phin’.
Cà phê Starbuck của Hoa Kỳ cũng có mặt ở Sài G̣n (Thành Phố Hồ Chí Minh) và được
những người nhà giàu mới (arrivists) trong nước nhiệt liệt hưởng ứng. Nhưng dư
âm của cà phê cứt chồn, ngày nay được gọi một cách thanh bai là cà phê chồn, vẫn
c̣n sống măi trong kư ức người uống cà phê sành điệu ở Việt Nam.
****
Trước khi người Pháp đến Việt Nam, quốc tửu của người Việt
Nam là rượu cất từ gạo nếp. Đó là rượu nếp, rượu nếp thang, rượu bách nhật (chôn
dưới đất 100 ngày). Cũng có nhiều loại rượu trái cây dùng các loại trái cây sẵn
có trong nước để cất rượu như rượu Mít, rượu Sim, rượu Giâu chẳng hạn. Rượu nếp
có nồng độ rượu rất cao ngang hàng với rượu Vodka của Nga hay Whisky của
Scotland. Người ta dùng rượu nếp hay nói nôm na là rượu trắng để làm rượu thuốc.
Rượu thuốc là rượu trắng ngâm với vài loài thảo mộc có dược tính giúp cho lục
phủ ngũ tạng hoạt động điều hoà. Cũng có khi người ta ngâm một vào loại thú như
cắc kè, nhím, rắn, chuột con mới sinh v.v. trong rượu.
Khi Pháp thiết lập nền móng cai trị ở Việt Nam họ lập nhà máy sản xuất rượu nếp
và cho tào cáo đi ruồng bắt những người cất rượu nếp không đóng thuế chánh quyền
thuộc địa để độc quyền bán rượu nếp cất bằng máy của họ. Từ đó rượu nếp có nhiều
tên gọi khác nhau như rượu trắng (v́ màu trắng trong), rượu nếp (cất từ nếp),
rượu đế (v́ cất lậu dưới lùm cỏ đế), rượu rừng (v́ cất lậu trong rừng) v.v. Rượu
trắng do nhà nước thuộc địa sản xuất gọi là rượu máy (cất bằng máy) hay rượu
công xi (công ty- Compagnie). Những tiệm bán rượu phải có một môn bài bằng
thiếc nền đỏ chữ vàng: RA BÀI BA (RA: Régie d’alcool- Công Quản Rượu).
Rượu máy bị dân chúng chê lạt nên t́nh trạng bán rượu đế lậu trở nên thịnh hành
trong xă hội nhất là ở nông thôn khiến cho chánh quyến thuộc địa không có cách
ǵ kiểm soát nổi.
Người Pháp du nhập vào nước ta rượu bia, rượu chát hay rượu vang (vin), rượu
Champagne và rượu mạnh như Martel, Cognac. Do đó có cảnh:
Tối rượu sâm- banh (Champagne), sáng sữa ḅ.
hoàn toàn khác với nếp sống thường ngày của người nhà quê
thuộc địa.
Rượu bia thường thấy thời Pháp là bia Alsace. Các loại rượu mạnh ngoại quốc như
rượu Rhum (Martinique), rượu Whisky (Scotland), Bisquit VSOP Cognac (Pháp) có
mặt ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Sau này công ty BGI (Brasserie Glaciale de
L’ Indochine) ở Chợ Lớn sản xuất rượu bia và nước ngọt. Đó là bia Larue có h́nh
đầu cọp, Bia 33. Bia hộp chỉ xuất hiện trên thị trường Việt Nam từ năm 1965 khi
có hàng trăm ngàn quân sĩ Hoa Kỳ được phái sang chiến đấu ở miền Nam Việt Nam.
Sau ngày 30-04-1975 chánh quyền xă hội chủ nghĩa ngăn cấm việc dùng gạo nếp cất
rượu, làm bún hay làm bánh tráng. Cấm không có nghĩa là không có nhưng không dồi
dào như trước và giá bán cố nhiên cao hơn nhiều. Phẩm chất rượu đế giảm đi v́
rượu đế được cất bằng khoai ḿ (cassava- manioc).
Từ khi Việt Nam mở cửa đón nhận đầu tư ngoại quốc đời sống dân chúng được cải
thiện rơ rệt. Nhiều người làm ăn phát đạt. Nhiều người khác nhờ bán đất giá cao
cũng phát đạt. Nhà hàng, quán nhậu mọc lên như nấm. Đó là nơi gặp gỡ để bàn việc
làm ăn và giao thiệp với người có thẩm quyền. Đó là nơi hưởng thụ của người có
tiền. Trong nước có nhiều công ty sản xuất rượu bia hoặc của Việt Nam hoặc của
ngoại quốc hợp tác với Việt Nam. Việt Nam sản xuất bia Hà Nội, bia Sài G̣n, bia
Larue, bia 333 (phỏng theo các hiệu bia 33 nổi tiếng trước kia), bia Heineken (sản
xuất trong nước), bia Zorok (sản xuất ở B́nh Dương), bia Huda (Huế & Đan Mạch).
Việt Nam nhập cảng bia từ Bỉ, Đức, Nga, Tiệp Khắc. Các loại rượu mạnh ngoại quốc
đều bán chạy ở Việt Nam. Số người có đủ tiền để uống các loại rượu mạnh giá cả
ngàn Mỹ kim một chai rất đông so với người khá giả ở miền Nam Việt Nam trước
1975.
Việt Nam tiêu thụ nhiều bia và rượu mạnh nhất ở Đông Nam Á. Năm 2016 Việt Nam
tiêu thụ 3.4 tỷ lít bia (3, 400,000,000 lit) và 10 triệu lít rượu mạnh ngoại
nhập. 77% đàn ông Việt Nam đều uống rượu. Đó là một tỷ lệ uống rượu lớn trên
thế giới. Nếu tính số rượu bia chia đều cho 90 triệu dân th́ mỗi công dân bất
luận nam, nữ, tuổi tác, nghề nghiệp uống 37.8 lít rượu bia/ năm.
****
Cách đây trên nửa thế kỷ người Việt Nam cân nặng trung b́nh 45 ki-lô, cao 1.55 m
và tuổi thọ trung b́nh lối 60 hay 60 ngoài đôi chút. Những bịnh thường thấy là
phong thấp (môi trường sống và làm việc ẩm thấp), suy thận (ăn mặn, uống nhiều
nước), ho lao (làm lụng nhiều, dinh dưỡng kém), răng yếu (suy dinh dưỡng; thiếu
chăm sóc về răng; dùng răng xước mía, mở nắp rượu bia, ăn vật nóng gịn hay cứng;
hậu quả của tiểu đường, suy thận). Ngày nay tuổi thọ của người Việt khá cao. Sự
dinh dưỡng tương đối khá đầy đủ. Trọng lượng, chiều cao của những người ở tuổi
40- 45 gia tăng. Nhưng việc ăn uống thừa mứa và không điều độ mỗi ngày lại có
hại cho sức khỏe. Cây tốt nhờ phân nhưng bón phân quá nhiều mỗi ngày th́ cây
không tốt tươi mà có thể chết. Người Thổ Nhĩ Kỳ nói: “Người ta đào mồ
bằng răng của ḿnh.” Các thầy thuốc Đông Y cho rằng người ăn quá nhiều thức
ăn bổ dưỡng th́ bịnh khó chữa. Việc ăn uống bổ dưỡng, hút nhiều thuốc lá và uống
nhiều rượu dễ dẫn đến cao huyết áp, tim đập mạnh, ung thư phổi, cổ trướng. Cổ
trướng, ung thư phổi là những bịnh hiểm nghèo khó chữa mặc cho những tiến bộ của
y học hiện đại.
PHẠM Đ̀NH LÂN, F.A.B.I.
art2all.net |