E-Báo Bính Thân CPL
|
|
|
|
|
|
Chuyện Về Chúa Jesus
Chuyện về Chúa Jesus
th́ ai cũng biết. Khắp thế giới đâu đâu cũng có tổ chức lễ Giáng Sinh để tưởng
nhớ đến ngày sinh của Chúa Jesus.
Gia đ́nh tôi không theo đạo
Christ. Nhưng cha tôi luôn luôn tổ chức ăn ‘Reveillon’ vào đêm 24 rạng 25 tháng
12 mỗi năm lúc người c̣n sống. Việc làm của cha tôi có vẻ khác thường đối với
những người chung quanh chịu ảnh hưởng Tam Giáo như gia đ́nh tôi. Điều đáng nói
là quê nội của tôi là một vùng đất hầu như vô sinh ở Nam Bộ, một vùng đất không
sông, không suối, không núi, không đồng ruộng! Dân trong làng không làm nghề
nông. Về tín ngưỡng làng không có Chùa, không nhà thờ mà chỉ có một cái đ́nh thờ
một đại phu có công d́u dắt một số người từ miền Nam Trung Bộ đến lập làng dưới
triều vua Tự Đức. Quê ngoại tôi có một nhà thờ Thiên Chúa Giáo nhưng không có
tín đồ nên không thấy hoạt động. Có thể Giáo đường này được xây ở nơi thôn dă
trong thời kỳ triều Nguyễn thi hành chánh sách bài đạo Thiên Chúa gắt gao vào
thế kỷ XIX. Làng quê ngoại tôi có một ngôi Chùa nằm trên ranh hai xă B́nh Chuẩn-
Thuận Giao nhưng không có đ́nh mà có một cái miếu.
Bối cảnh sống như trên cho thấy
quê nội và quê ngoại tôi cũng như gia đ́nh tôi không có liên hệ ǵ với đức Chúa
Jesus. Trong bài viết này tôi xin lược thuật lại những giấc chiêm bao mà Chúa
Jesus cho tôi được diện kiến NGƯỜI để báo trước vài điều quan trọng tuần tự theo
thời gian từ năm 1965 đến 1985.
LẦN THỨ NHẤT
Lần đầu tiên tôi nằm chiêm bao
thấy Chúa Jesus là ngày 27 - 01 - 1965. Lúc ấy tôi sống chung với anh tôi ở số
38 - 42 Nguyễn Huệ, Sài G̣n. Tôi gặp Chúa Jesus, người cao lớn như các tượng
thường thấy, da hơi sạm nắng. Chúa mặc áo đỏ. Tôi như người bị mất điện, tự
nhiên nổi da gà và tim đập mạnh v́ sợ trong khi Chúa không có vẻ ǵ dữ dằn cả.
Chúa đưa ngón tay trỏ áp vào ngực và nói: Đại chiến. Tôi sợ quá, qú xuống và
cầu xin một cách vụng dại: Xin Chúa đừng để đại chiến xảy ra trên nước tôi. Dân
tôi quá khổ v́ chinh chiến. Xin Chúa đừng để đại chiến xảy ra. Lời cầu xin của
tôi thật sự vụng dại và thô kịch nhưng rất thành thật. Vụng dại v́ tôi mất điện
khi gặp Chúa khiến lời nói của tôi không được mạch lạc, trau chuốt và lịch sự
trước Chúa. Nhưng đó là những lời cầu xin thành thật tự đáy ḷng. Chúa Jesus
không nói ǵ thêm. Người lặng lẽ bước đi.
Tôi không sao nối lại giấc ngủ.
Tim vẫn c̣n đập mạnh, tôi gơ cửa gọi anh tôi dậy. Tôi tường thuật cho anh tôi về
giấc chiêm bao đặc biệt vừa qua. Anh tôi c̣n thèm ngủ nên không để ư đến sự lo
lắng và sợ sệt có vẻ phi lư của tôi. Anh nằm xuống giường ngủ tiếp. Tôi ngồi
thẩn thờ chờ đến sáng.
Hoa Kỳ gia tăng oanh tạc miền
Bắc. Tướng Nguyễn Khánh lo ngại phi cơ Mig của Cộng sản miền Bắc có thể oanh tạc
miền Nam để trả đũa việc phi cơ Hoa Kỳ và VNCH oanh tạc phía bắc vĩ tuyến 17.
Lúc ấy anh tôi mới để ư đến giấc chiêm bao của tôi. Tháng 06 năm 1965 quân sĩ
Hoa Kỳ được phái sang miền Nam Việt Nam để ngăn chặn làn sóng Cộng sản tràn
xuống Đông Nam Á. Đại chiến có thể bùng nổ nếu Trung Quốc và Liên Sô nhảy vào
ṿng chiến trợ sức cho miền Bắc để đánh nhau với quân Hoa Kỳ. Cuộc chiến trở nên
đẫm máu mặc dù Liên Sô và Trung Quốc không trực tiếp đưa quân vào miền Bắc để
tạo thăng bằng quân sự với Hoa Kỳ.
Cuộc chiến kết thúc đối với Hoa
Kỳ sau khi hiệp định Paris được kư kết ngày 27 - 01 - 1973 nghĩa là 08 năm sau
ngày tôi nằm chiêm bao thấy đức Chúa Jesus lần đầu tiên. Hoa Kỳ rời khỏi miền
Nam Việt Nam. Đại Chiến được tránh khỏi. Hai năm sau miền Nam thất thủ.
Nhớ lại lúc tôi cầu xin Chúa
không nói chấp nhận hay khước từ lời cầu xin của tôi. Người im lặng bước đi. Dù
sao hiệp định Paris 1973 cũng làm giảm sự đổ máu, mồ hôi và nước mắt của dân
chúng hai miền Nam- Bắc. Hoà b́nh lơ lửng đỡ hơn đại chiến. Đổ nhiều mồ hôi và
nước mắt sau năm 1975 vẫn nhẹ hơn đổ máu triền miên v́ chinh chiến. Đó là cách
cho cái XẤU để tránh cái TỆ có sẵn trong bộ máy Trời.
LẦN THỨ HAI
Mười ba năm sau đúng vào ngày
tôi nằm chiêm bao thấy Chúa Jesus lần thứ nhất, tôi được gặp lại Chúa trong nhà
anh NKL trong tư thế người bị công an TP Hồ Chí Minh (Sài G̣n) tạm giữ v́ đến
thăm một người bạn đă bị bắt. Trước cảnh đen tối v́ mất tự do trong những ngày
sắp tới, tôi lại có một giấc ngủ an lành v́ quá mệt mỏi. Giữa đêm tôi thấy Chúa
Jesus mặc quần áo trắng đặt tay NGƯỜI lên tay tôi và thăng lên TRỜI. Lần này tôi
không bị mất nhân điện, không bị nổi da gà. Nhưng tôi sợ điếng hồn khi thấy ba
tầng mây đen cuồn cuộn kéo đến tôi tựa hồ như những đợt sóng biển nước đen ng̣m
tràn đến bên tôi. Tôi giật ḿnh mở mắt ra th́ thấy đèn trong pḥng khách nhà anh
L. vẫn sáng choang. Mọi người đều ngủ say kể cả hai người công an canh giữ tôi.
Tôi vui mừng v́ biết tôi sẽ được cứu. Tôi nối lại giấc ngủ một cách b́nh thản.
Sáng sớm hai người công an canh giữ tôi nhận lịnh của Sở Công An thành phố cho
tôi được tự do nhưng phải giữ tất cả giấy tờ của tôi và tôi phải tŕnh diện ở Sở
Công An thành phố Hồ Chí Minh trên đường Trần Hưng Đạo mỗi tuần một lần vào ngày
thứ tư.
Lần gặp Chúa Jesus lần này tôi
giữ kín hoàn toàn. Anh tôi học tập ở miền Bắc. Nếu anh ở nhà tôi cũng không nói
chuyện này. Mẹ tôi và vợ tôi hoàn toàn không hay biết ǵ về chuyện này. Lúc vượt
biên và được tàu Jean Charcot gởi trong trại tỵ nạn Palawan tôi mới cho anh tôi
biết về việc tôi bị công an TP Hồ Chí Minh điều tra ngót 05 năm v́ một chuyện
không đâu.
Các năm 1978, 1979, 1980 là ba
năm khủng khiếp trong đời tôi. Tôi không t́m thấy ư nghĩa của cuộc sống ngoại
trừ trách nhiệm đối với gia đ́nh. Tự nhiên hai tay tôi bị ghẻ nhức nhối và sưng
vù đến cầm chén ăn cơm cũng không vững. Tôi cương quyết không chữa mặc dù nhức
nhối khó chịu và không sao ngủ được. Ông bà Giáo sư CL đến thăm và mang cho tôi
thuốc xức lẫn thuốc uống. Tôi cảm ơn ḷng tốt của người Thầy khả kính nhưng
cương quyết không chữa trị. Trong thâm tâm tôi đó là cách tự huỷ bằng phương
tiện sẵn có ( ghẻ nhức nhối). H́nh như Ơn Trên thấy tinh thần và thể xác của tôi
sa sút quá nên cho chứng ghẻ nhức nhối này chóng lành dù không chữa trị chi cả.
Mấy cây mận quanh nhà đầy trái
đến nỗi ai đi ngang qua cũng phải ngước nh́n và trầm trồ khen ngợi. Chim sẻ qui
tụ trên mấy cây mận quanh nhà. Sáng chiều đều có tiếng chim sẻ dễ thương để có
chút an ủi giữa lúc thể xác bị tàn phá. V́ biết chim sẻ tụ về trên các cây mận
quanh nhà tôi, các cán bộ Công sản địa phương dùng súng carbine để bắn chúng lấy
thịt bồi dưỡng. Đoàn chim sẻ không xem các cây mận quanh nhà tôi là vùng đất
lành nên bỏ đi. Có những đêm tôi cảm thấy sung sướng kỳ lạ. Tôi có cảm giác như
các huyết mạch trong người khai thông. Những huyệt lạc khai thông ảnh hưởng ǵ
đến sự vui sướng mà người cảm nhận không biết tại sao? Dường như có một lực nào
đó làm cho tôi lạc quan để quên đi ư nghĩ ngông cuồng v́ sự khổ sở về mọi mặt
trong kiếp sống trần gian. Khả năng có; tinh thần hăng say công việc c̣n; siêng
năng trong công việc c̣n; trách nhiệm đối với gia đ́nh, xă hội và đất nước c̣n
đủ. Nhưng tất cả trở thành tội vạ bị xử phạt trong cảnh sống dở, chết dở và chịu
nhục với đời. Một điều lạ lùng là trong sự khốn khổ tột cùng và trước sự đe dọa
căng thẳng về tù tội tôi không một thoáng sợ hăi v́ tôi có hai sự lựa chọn rơ
ràng: cái chết và đức tin. Nếu không can đảm sống trong bối cảnh hiện hữu th́
chết đi. Nếu sống phải vững niềm tin rằng Thượng Đế không bỏ rơi ḿnh một cách
đau đớn và nhục nhă như vậy.
Thiên Cơ sắp đặt cho tôi tự cứu
bằng châm cứu, một phương pháp trị liệu mà trước đó tôi xem thường, bằng cách
xui khiến vợ chồng một thầy giáo quen biết nhưng không thân thiện gây gỗ nhau.
Ông thầy giáo mang một bao đồ đến gởi ở nhà tôi. Trong thời buổi khó khăn mà
nhận đồ gởi không cần biết là đồ ǵ thật là nguy hiểm. Tôi là người dè dặt nhưng
không biết tại sao tôi hoàn toàn không để ư đến chuyện này. Để lấy ḷng tôi, anh
bạn để một cuốn sách Châm Cứu của Thượng Trúc trên bàn cho tôi đọc (chuyện này
dài ḍng lắm. Tôi sẽ viết lại trong một bài viết khác). Nhờ châm cứu mà tôi có
dịp biết nhiều chuyện ngoài xă hội mặc dù không đọc báo. Nhờ nó tôi tự bảo vệ
sức khoẻ cho bản thân, cho gia đ́nh và có cơ hội giúp ích cho một số người cần
đến sự chữa trị của tôi. Nó làm cho người công an điều tra tôi tại địa phương
bớt hung hăn với tôi, trái lại trở nên thân thiện hơn. Nhiều người khuyên tôi
nên thận trọng v́ chánh quyền có thể gây khó dễ cho tôi về chuyên môn lẫn chánh
trị. Tôi có nghĩ đến chuyện này nhưng vẫn làm theo con đường đă vạch ra. Sự lo
âu của tôi được giải toả khi năm Tường, chủ tịch Hội Chữ Thập Đỏ huyện Thuận An
(tên mới của Lái Thiêu) đến nhờ tôi chữa trị chứng nhức đầu của ông ấy. Tôi
tŕnh bày sự lo ngại của tôi và được năm Tường trấn an: Anh đừng lo nghĩ ǵ cả.
Cứ chữa trị giúp cho đồng bào. Anh thiếu cái ǵ cho tôi biết xem có thể giúp
được ǵ cho anh. Lời nói của năm Tường như là giấy phép hành nghề châm cứu miễn
phí hợp pháp của tôi vậy.
Để đảm bảo sự sống và trang bị
ngoại ngữ cho con cái, Thượng Đế xui khiến một cô giáo biết tôi nhưng tôi không
biết cô ấy, chặn xe đạp tôi lại trên hương lộ nối liền Lái Thiêu và Thủ Đức khi
tôi từ quê nội về nhà vào một buổi chiều. Cô giáo nói:
-Thầy không làm rẫy được đâu.
Thầy mở lớp dạy sinh ngữ đi. Tôi gởi con và giới thiệu người đến học.
-Cảm ơn mỹ ư của cô. Tôi không
dám làm đâu. Chánh phủ cấm dạy sinh ngữ v́ cho rằng dạy sinh ngữ là khuyến khích
người ta vượt biên. Tôi không dám làm ngược lại đâu. Tôi đáp một cách yếu ớt và
bi quan.
-Có ǵ mà sợ. Thầy nghe tôi đi.
Cô giáo nói như một lịnh chuyền cho tôi.
Tôi cám ơn cô giáo. Trong hoàn
cảnh đen tối ít ra có một người kém hơn ḿnh nhưng hiểu ḿnh và có quyết tâm
mạnh hơn ḿnh. Tôi phải vận dụng trí thông minh của ḿnh tối đa để xem người cô
giáo không hề nói chuyện một lần này như là sự giao chuyển lời từ một lực siêu
nhiên nào đó. Tôi hơi hổ thẹn v́ kém dũng cảm hơn cô giáo. Tôi làm theo lời cô.
Thế là tôi có hai công việc thường xuyên mỗi ngày: châm cứu và dạy sinh ngữ tại
nhà.
Chánh quyền nơi tôi cư ngụ làm
ngơ cho tôi mở lớp sinh ngữ dạy kiếm sống. Nhưng người công an Bảo Vệ Chánh Trị
tỉnh Sông Bé (người mới) có hạch hỏi tôi về chuyện này.
-Anh dạy sinh ngữ cho người
vượt biên? Người công an hỏi.
-Tôi dạy sinh ngữ như người mở
cửa tiệm bán hàng. Người bán hàng không hỏi người mua hàng để làm ǵ th́ tôi
cũng không hỏi người học sinh ngữ để làm ǵ? Nếu người bán hàng ṭ ṃ quá ai dám
tới mua hàng của anh ta. Tôi cũng vậy. Tôi đáp.
-Anh dạy như vậy có khai báo
với chánh quyền và đóng thuế không? người công an hỏi.
-Không. Nhưng cả xă ai cũng
biết. Tôi kiếm sống không đủ có đâu mà đóng thuế! Tôi đáp.
Người công an nh́n thân h́nh
gầy đét của tôi như mặc nhiên xác nhận lời nói thành thật của tôi.
Lớp sinh ngữ của tôi cực kỳ hỗn
tạp v́ tuổi tác và tŕnh độ học vấn của người học khác nhau nên sự tiếp thu
không đồng đều. 95% các em học lớp sinh ngữ tại gia này đều sống ở Hoa Kỳ,
Canada, Úc, Pháp và Tây Đức sau này. Có vài em chỉ học cho vui nhưng cuối cùng
cũng được sang Hoa Kỳ v́ có chồng Việt kiều. Đặc biệt lớp này có ba bác sĩ (một
ở Việt Nam, hai ở Hoa Kỳ), một Pharm D, một Giáo sư tiến sĩ Pharmacology (Hoa
Kỳ), một Scientist (Chemistry). Đó là niềm vui tinh thần của tôi sau ba áng mây
đen.
LẦN THỨ BA
Lần thứ ba tôi gặp Chúa Jesus
trong lúc ngồi Thiền tại nhà vào một buổi trưa nóng nực. Tôi thấy Chúa Jesus ở
Phú Hoà Đông. Chúa mặc áo đỏ có phần trắng, da sạm nắng và rịn mồ hôi. Trông
Người có vẻ mỏi mệt lắm. Người cầm cây đuốc đưa cho tôi. Tôi lễ độ chối từ, thưa
rằng: Thưa Chúa, con không dám nhận cây đuốc do Chúa trao. Cuộc giao tiếp đến
đây th́ mất. Bên ngoài có tiếng ca eo éo của một nữ ca sĩ tài tử người miền Nam
diễn tả bài Dáng Đứng Bến Tre. Tôi có thuật chuyện này cho Năm, Hai (đă mất) và
Tám (hiện ở Michigan) nghe khi các em từ Hốc Môn sang Lái Thiêu thăm tôi.
Trong thời gian sống dưới tân
chế độ tôi được thấy nhiều điềm chiêm bao lạ báo trước việc tôi sắp rời khỏi quê
hương. Tôi thấy bạn Lâm Vĩnh Thế và cầu Phú Hoà Đông (cầu này không có trên thực
tế). Tôi thấy Giáo sư Châu Long, hai bạn Nguyễn Thái Long và Nguyễn Thanh Long,
sông Phước Long đầy nước và rộng mênh mông (sông này không có trên thực tế), một
đàn dê ( Dê: Dương <Hán- Việt>. Dương cũng có nghĩa là: biển; đại dương <Thái
B́nh Dương> ứng với hướng Đông của Phú Hoà Đông), thành Long Thành v. v. Năm
1985 chúng tôi vượt biển từ xă Long Ḥa, Trà Vinh, lúc ấy thuộc tỉnh Vĩnh Long
(ứng với Vĩnh Thế) đổi thành tỉnh Cửu Long. Chúng tôi ngồi thuyền tắc xi đi qua
lại trên sông Cửu Long. Như vậy hồn đă xuất và vượt biển trước xác qua những
giấc chiêm bao trên.
Một đêm tôi chiêm bao thấy một
xác chết nằm trên Quốc Lộ 13 xă Vĩnh Phú vào một ngày trời mưa lất phất. Xác
chết được quấn chặt bằng vải trắng từ đầu đến chân nên không nhận dạng được
người chết. Tôi tự nhủ có thể cứu sống xác chết này. Tôi tiến gần xác chết và
châm vào huyệt Tam Âm Giao. Tức th́ xác chết ngẩng đầu lên. Tôi la lên: Đức Mẹ!
th́ xác chết biến mất. Đó là lần duy nhất tôi thấy Đức Mẹ trong chiêm bao dưới
dạng một xác chết ở xă Vĩnh Phú.
Tôi gặp một trường hợp tương tự
khi ở trong trại tỵ nạn Bataan, Phi Luật Tân năm 1985. Một buổi xế chiều tôi và
em tôi đi xuống suối tắm. Chung quanh suối có rừng chồi và nhiều mỏm đá tạo
thành một vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Bỗng có tiếng la thét giữa rừng. Một người
đàn ông Phi Luật Tân té xuống đất và dăy dụa vừa la thét chát chúa rồi nằm bất
động trên một đường ṃn cách nơi chúng tôi đi vài trăm thước. Tôi than nhỏ với
em tôi: Không xong rồi. Ḿnh đứng trước một hoàn cảnh khó xử. Thấy người như vậy
mà không ra tay cứu giúp th́ lương tâm bất ổn. Mà ra tay không có kết quả trái
lại anh ta chết th́ tự rước hoạ vào thân. Anh này có thể thành viên của Huks
(Cộng sản Phi) v́ quanh đây đâu có dân sinh sống. Tuy nói vậy tôi vẫn tiến đến
nơi người Phi nằm. Tôi chỉ em tôi bấm huyệt Tam Âm Giao c̣n tôi bấm huyệt Túc
Tam Lư. Không đầy 05 phút người Phi tỉnh lại. Anh đứng dậy. Hai anh em tôi d́u
anh qua ḍng suối hướng về phía dăy núi nh́n ra quân cảng Subic Bay. Anh cảm ơn
chúng tôi bằng một tràn tiếng Tagalog. Tôi chỉ nghe và hiểu vỏn vẹn một tiếng
Salamat mà thôi.
NHỮNG TIẾNG CẦU KINH TRÊN TÀU JEAN CHARCOT
Tôi mê man trên chiếc thuyền
vượt biên. Tự nhiên tôi tỉnh lại khi được tàu Jean Charcot cứu vớt. Trên tàu tôi
bận rộn tiếp xúc với bác sĩ Dominique, Đinh Xuân Cao Tuấn, kư giả Philippe
Theard, các thuỷ thủ trên tàu v. v. Người thuỷ thủ gây ấn tượng đặc biệt cho tôi
là Marcel, người Dunkerque. Tôi càng mệt nhiều hơn nên có một giấc ngủ thật say
trên tàu ngoài khơi Thái B́nh Dương. Giữa đêm tôi nghe tiếng cầu kinh rộn ràng
bên tai Je vous salue Marie pleine de grâce le Seigneur avec vous... Tôi nghe
tiếng chuông chùa rồi chuông nhà thờ rền bên tai. Tôi đinh ninh rằng các thuỷ
thủ trên tàu cầu kinh trước khi đi ngủ. Tôi mở mắt và ngồi dậy. Đèn trên tàu
sáng choang. Sóng biển đập mạnh vào thân tàu sau những cơn gió lạnh. Mọi người
trên tàu đều say ngủ. Tôi nằm xuống ngủ lại nhưng tiếng cầu kinh vẫn văng vẳng
bên tai thêm vài phút mới dứt hẳn. Sáng dậy tôi thuật lại cho anh tôi nghe. Anh
tôi có vẻ không để ư đến nhiều.
Sau gần một tuần lễ trên tàu
Jean Charcot chúng tôi được chở đến Puerto Princesa. Từ đó chúng tôi được đưa về
trại tỵ nạn Palawan cách đó lối 2 km. Sau khi làm xong thủ tục nhập trại các
người tỵ nạn mới đổ xô nhau đi kiếm nhà. Có người có người quen đến rước về nhà.
Có người dùng vàng để mua chỗ ở trong trại từ những người sắp xuất trại. Bốn
người trong gia đ́nh chúng tôi đi lang thang trên con đường đất đỏ trong trại
không biết đi đâu? t́m cái ǵ? và sẽ ở đâu? Bỗng nhiên có các thanh niên để tóc
dài ân cần tiếp đón chúng tôi và đưa chúng tôi về nhà của họ trong trại. Họ là
những người sống rất lâu trong trại nên có vẻ có nhiều ưu tiên trên phần đất gần
nơi tranh chấp quốc tế về chủ quyền trên các băi cạn và hải đảo giữa Phi Luật
Tân, Taiwan (Đài Loan), Việt Nam và Trung Quốc. Nơi chúng tôi được các thanh
niên tóc dài đưa về có điện thường xuyên. Phía trước là một ngôi chùa. Gần ngôi
chùa là một nhà thờ Tin Lành. Bên trái của căn nhà chúng tôi sắp ở là nhà thờ
Thiên Chúa Giáo. Bên phải là một chùa Cao Đài. Ngày nào cũng có tiếng chuông
chùa, chuông nhà thờ, tiếng tụng kinh từ Chùa Cao Đài và tiếng đọc kinh của các
tín đồ Thiên Chúa Giáo và Tin Lành Giáo đúng như những ǵ tôi nghe vào đêm đầu
tiên ngủ trên tàu Jean Charcot.
Nhiều người trong trại không ưa
những thanh niên tóc dài đă rước chúng tôi về nhà. Họ nấu cơm, xách nước, lănh
lương thực hằng ngày cho chúng tôi. Người th́ gọi chúng tôi bằng Chú. Người th́
gọi bằng Bố. Người trong trại hơi ngạc nhiên Sao mấy ông này coi đạo mạo đàng
hoàng lại có cháu ba trợn như vậy! Nhờ họ mà tôi đỡ vất vả trong thời gian sống
trong trại tỵ nạn Palawan. Con tôi không bị các thanh niên khác bắt nạt v́ lúc
nào họ cũng tự hào về chú tao và em tao của họ.
LẦN THỨ TƯ
Thời gian sống trong trại
Palawan rất ngắn ngủi. Bác sĩ Dominique, phó chủ tịch hội Medecins du Monde, bắt
tay anh tôi và tôi khi xe chở chúng tôi từ cảng Puerto Princesa vào trại tỵ nạn
Palawan với lời chúc: 14 Juillet à Paris. Chính ông và vị tổng lănh sự Pháp ở
Manila, Ông Nguyễn Hữu, một người Việt Nam gốc ở Trà Vinh và là chú của tướng
Nguyễn Khánh, đă tận t́nh vận động với Quai d’Orsay (Bộ Ngoại Giao Pháp) cho
chúng tôi sớm định cư ở Paris.
Trong khi chờ đợi lên đường đi
Paris tôi nằm chiêm bao thấy Chúa Jesus mặc quần áo trắng thăng về hướng Đông
Bắc. Tôi thấy một chiếc xe đ̣ Phi Luật Tân sơn đủ màu xanh, đỏ vàng có chữ
Express. Người tỵ nạn ồ ạt chạy ra phía chiếc xe đó. Riêng bốn người chúng tôi
lững thững đi và ngồi ở phía sau cùng của chiếc xe. Tôi nói với anh tôi chúng
tôi sẽ đi Hoa Kỳ. Anh tôi hoàn toàn không tin tưởng v́ giấy tờ đi Pháp đă có.
Chúng tôi sẽ ra phi trường Puerto Princesa để đi Manila và từ đó đi Paris vào
ngày 11 - 07 - 1985.
Ngày 10 - 07 vài anh em trong
trại kể cả các thanh niên tóc dài làm tiệc tiễn đưa chúng tôi xuất trại. Trong
buổi tiệc tôi cảm ơn các anh em làm tiệc khoản đăi chúng tôi nhưng chúng tôi
không đi Pháp mà đi Hoa Kỳ. Tất cả các anh em có mặt đều cười rộ tưởng tôi nói
đùa. Ăn tiệc xong anh tôi ra chợ Puerto Princesa mua đôi giày mới để đi Pháp.
Tôi không mua sắm ǵ cả v́ tin tưởng rằng tôi sẽ đi hướng khác nên không vội mua
sắm.
Khoảng 03 giờ trưa ngày 10 - 07
loa phóng thanh của UNHCR gọi chúng tôi lên gặp ông Greg, đại diện của UNHCR
(Cao Uỷ Tỵ Nạn LHQ) trong trại. Thấy vắng mặt anh tôi, ông Greg hỏi: C̣n một
người nữa đâu? Tôi cho biết anh tôi đi mua giày để đi Pháp. Ông Greg nói: Ông ấy
đi ḷng ṿng ở đây chớ không đi Pháp. Ông cho biết ông vừa nhận một điện thoại
từ toà đại sứ Hoa Kỳ ở Manila yêu cầu đ́nh chuyến đi Pháp của bốn người chúng
tôi để gặp đại diện của toà đại sứ. Thế là chúng tôi không đi Paris mà lên trại
tỵ nạn Bataan để chuẩn bị đi Hoa Kỳ. Chuyến chuyển trại lên Bataan lúc ấy có 250
người. Bốn người chúng tôi nằm ở cuối danh sách nâng tổng số lên 254 người (ứng
với việc bốn người ngồi ở phần sau cùng của chiếc xe đó có chữ Express trong
giấc chiêm bao. Ngồi tàu từ Palawan lên Manila các người tỵ nạn tập trung tại
bến tàu và được xe bus đưa lên trại Bataan cách đó lối 180 km. Mỗi xe chở 50
người. Năm xe chở 250 người. Bốn người chúng tôi đứng chới với ngoài bến tàu.
Một chiếc xe bus màu vàng cam có chữ Express đến chở chúng tôi. Lạ thay! chiếc
xe này đến sau nhưng về đến trại Bataan trước năm chiếc kia. Ngày rời trại
Bataan để định cư ở Hoa Kỳ bốn người trong gia đ́nh chúng tôi cũng được chiếc xe
mang chữ Express này chở ra phi trường Manila.
****
Tôi viết lại bốn lần được gặp
Chúa Jesus vào Giáng Sinh năm 2015 như để kỷ niệm 50 năm ngày tôi gặp Chúa lần
đầu tiên vào ngày 27 - 01 - 1965. Những điều tôi ghi lại đây có thể sót nhưng
không sai v́ có quá nhiều chuyện dồn dập đến với tôi trong nửa thế kỷ qua nên có
thể c̣n sót một vài chi tiết quan trọng mà tôi không nhớ trọn vẹn. Đặc biệt
trong 20 năm từ 1965 đến 1985 tôi được Chúa Jesus cho thấy bốn lần như báo trước
cho tôi biết về chuyện chuyển cảnh từ Việt Nam sang Hoa Kỳ qua trung gian Pháp (tàu
Jean Charcot) và Phi Luật Tân (hai trại tỵ nạn Palawan và Bataan). Từ khi đến
Hoa Kỳ năm 1986 đến nay tôi không có những giấc chiêm bao nào đặc biệt như đă
ghi trên. Chỉ có một lần tôi xới đất để trồng cây và gặp một bức tượng Chúa
Jesus bằng bạc cao lối 25 cm. Tôi đem vào nhà lau chùi sạch sẽ và đặt trên bàn
thờ Phật và bàn thờ tổ tiên nhỏ bé trong nhà.
- Một điều đáng lưu ư khác là
từ ngày tôi gặp Chúa Jesus lần đầu tiên ngày 27 - 01 - 1965 về sau tất cả những
sự kiện quan trọng trong đời tôi và gia đ́nh tôi đều xảy ra ngày 27:
- gặp Chúa lần thứ nhất và thứ
nh́ đều cùng ngày 27 - 01 (02 ngày 27)
- hiệp định Paris kư ngày 27 -
01 - 1973
- vượt biên ngày 27 - 05
- sang Hoa Kỳ ngày 27 - 01 -
1986 (tôi nói trước ngày này cho anh tôi biết ngày 23 - 12 - 1985 trong trại
Bataan. Anh tôi không hiểu v́ sao tôi nói như vậy. Anh trở thành nhân chứng
không tin rồi phải tin)
- hai số đầu của sở SS của tôi
là 27.
- Các con tôi từ Alabama lên
Ohio ngày 26 - 01 - 1991 nhưng khi đến Dayton tự nhiên xe không nổ máy sau khi
ghé Rest Area. Tôi nhờ một người Mỹ giúp nhưng vẫn không nổ máy. Tôi nhờ người
Mỹ thứ hai giúp. Anh này vui vẻ giúp nhưng anh nói anh không có kinh nghiệm ǵ
về xe Nhật. Anh cũng không làm ǵ hơn anh thứ nhất nhưng lần này xe nổ máy. Khi
về đến thành phố chúng tôi đă đến năm 1986 th́ đồng hồ chỉ 1: 30 sáng ngày 27 -
01 - 1991. Nếu xe không chết máy chúng tôi về đến nhà lúc 9 giờ đêm 26 - 01.
- Ngày con trưởng của tôi dọn
về nhà mới mua, tôi xem ngày Âm Lịch tốt để đón về nhà mới. Ngày ấy lại tương
ứng với ngày 27 - 01 - 1996 Dương Lịch v. v.
Vạn Sự như có sự an bài trước
vậy.
Tôi viết bài này như một bài
viết Giáng Sinh cho bạn đọc người Việt sống rải rác khắp nơi trên thế giới và
đặc biệt riêng tặng em Phạm Thị Phương, người hiểu trọn vẹn nội dung bài viết
này.
Phạm Đ́nh Lân, F.A.B.I.
|
|
|
|
|
|