THỬ TỘC THÁN
Đại diện Thử tộc thế giới là một
trưởng lăo Chuột Tre Sumatra đứng im lặng trước máy vi âm để Ban Tổ Chức giới
thiệu thành tích phá hoại mùa màng và gây bịnh tật của Thử tộc cho loài người.
Người điều khiển chương tŕnh hội nghị cho biết trên Địa Cầu có 7 tỷ Thử tộc. Sự
sinh sản của Thử tộc và Thố tộc làm cho loài người kinh sợ.
Ban tổ chức yêu cầu đại biểu các tộc động vật hoàn vũ đứng
dậy để tưởng nhớ những thanh thiếu niên ḍng họ Thử trong cuộc phá hoại mùa màng
của loài người và bị loài người giết không một chút thương tâm bằng thuốc Chuột,
bằng lửa, bằng cách hun khói cho con cái nhà họ Thử chết ngột ngạt dưới hang,
bằng bẫy Chuột khiến cho anh chị Thử chết mất đầu hay tàn phế đáng thương tâm.
Một nhạc sĩ Thử tộc Việt Nam kéo vĩ cầm bản Thử Tộc Chiêu Hồn Khúc trầm buồn, ai
oán. Tiếng vĩ cầm vừa dứt các đại biểu vỗ tay và huưt sáo vang lên. Sau khi
tiếng vỗ tay chấm dứt đại biểu Thử tộc cất tiếng đọc bài tham luận của tộc ḿnh.
* * * * *
Tôi là Trưởng Lăo Chuột Tre Sumatra
đại diện toàn thể Thử tộc trên thế giới để tŕnh bày cùng quí vị nỗi ḷng của
ḍng tộc chúng tôi. Người Anh gọi chúng tôi là Bamboo Rat. Dựa vào đó lăo Phạm
Đ́nh Lân gọi chúng tôi là Chuột Tre. Cũng đúng thôi v́ chúng tôi sống trong các
bụi tre và ăn lá tre, măng tre ở miền nhiệt đới và bán nhiệt tới để sống qua
ngày.
Chúng tôi là loài gặm nhấm có vú, có xương sống, có máu đỏ và
sinh con. Người Việt Nam gọi chúng tôi là Chuột hay văn vẻ hơn là Thử.
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Tên Khoa Học |
Gia Đ́nh |
Việt Nam |
Chuột; Thử (HV) |
Mus musculus |
Muridae |
Anh |
Rat; Mouse (Mice)(Chuột Nhà) |
|
|
Pháp |
Rat; Souris. |
|
|
Trung Hoa |
Shu |
|
|
Người Anh và Pháp dùng hai chữ RAT (Rat) và MOUSE (Souris) để
ám chỉ chúng tôi. Các học giả Thử tộc cho tôi biết Rat chỉ Chuột to lớn; Mouse
(Mice) chỉ Chuột có h́nh dạng nhỏ như Chuột Lắc trong nhà vậy.
Ḍng họ Thử chúng tôi rất đông v́ khả năng sinh sản của các
chị Thử rất cao. Chúng tôi có mặt khắp thế giới ngoại trừ Nam Băng Châu.
Greenland hay Iceland đều băng giá nhưng vẫn có Thử tộc sinh sống. Nhưng chúng
tôi không sống nổi ở Nam Băng Châu giá lạnh và không có người cư trú nên không
có nguồn lương thực. Vài đoàn thám hiểm Thử tộc Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan xuống
đó nghiên cứu việc thiên cư của một số Thử tộc ở Bắc Bán Cầu xuống Nam Băng Châu
nhưng phái đoàn báo cáo bi quan về môi trường sống ở vùng này. Theo báo cáo
khách quan và trung thực của phái đoàn nghiên cứu th́ Thử tộc oán ghét loài
người. Nhưng họ sống nhờ loài người. Ở nông thôn Thử tộc ăn khoai củ mà loài
người trồng. Ở thành thị Thử tộc sống nhờ những đống rác khổng lồ của loài người.
Mấy anh Chuột thành phố sống dưới ống cống đều béo ph́, tướng đi nặng nề và chậm
chạp; quần áo lúc nào cũng ẩm ướt. Loài người gọi các anh chị ấy là Chuột Cống
một cách nễ nang.
Chiều dài và trọng lượng Thử tộc chúng tôi khác nhau tùy theo
giống. Trung b́nh Chuột nhà Mus musculus dài từ 2.5 cm đến 20 cm kể cả
đuôi và cân nặng từ 20- 230 grams. Chuột tí hon Phi Châu Mus minutoides
(African Pygmy Mouse) dài từ 3- 8 cm; cân nặng từ 3 grams đến 12 grams! Một
anh Chuột Rattus norvegicus màu hung đỏ được phát hiện năm 2016 ở Anh dài
48 cm và cân nặng 04 ki- lô. Chuột Tre Sumatra Rhizomys sumatrensis thuộc
gia đ́nh Rhizomyinae dài 50 cm và cân nặng 04 ki- lô. Các anh chị Chuột
Túi Gambia (Gambian Pouched Rat), tên một quốc gia Phi Châu, dài 90 cm và
cân nặng 02 ki- lô. Với các anh chị Chuột nói trên Miêu tộc không dám đụng đến
v́ có thể bị Chuột quật ngă và cắn chết. (Đại biểu Miêu tộc nhăn mặt như đă từng
gặp các anh chị Thử khổng lồ này rồi ).
|
|
Chuột có mỏ nhọn, nhiều ria trước mũi, răng nhọn của động vật
gặm nhấm, ḿnh phủ đầy lông. Lông có các màu: đen, xám, hung đỏ, trắng. Đuôi nhỏ
và dài không có lông. Thử tộc chúng tôi có bốn chân. Mỗi chân có 05 ngón có móng
cứng và nhọn. Hai chân sau của Thử tộc rất mạnh giúp cho chúng tôi chạy và phóng
nhảy rất nhanh. Thử tộc chúng tôi là động vật có vú và sinh con. Chúng tôi
thường hoạt động về đêm nhưng thị giác của chúng tôi không tốt. Bù lại thính
giác của chúng tôi rất tinh. Chúng tôi có thể nghe tiếng động cách xa tổ 10- 15
m dễ dàng. Chúng tôi đánh hơi bằng ria gần mũi.
Thử tộc sống trong hang. Hang được đào với nhiều ngách khác nhau để sống, ẩn núp
và chứa lương thực. Chúng tôi là động vật ăn tạp. Chúng tôi ăn các loại hột,
trái cây, mầm non cây cỏ, thức ăn thừa của loài người, thịt của các động vật nhỏ
khác c̣n sống hay đă chết. Ở miền Tây Hoa Kỳ và bắc Mễ Tây Cơ có một tộc Chuột
thường ăn cào cào và bọ cạp. V́ vậy người Anh gọi đó là grasshopper mouse
(Chuột Cào Cào) mang tên khoa học Onychomys leucogaster, gia đ́nh
Cricetidae. Ở các thành phố lớn của loài người Thử tộc thường lai văng quanh
các thùng rác của các nhà hàng nơi họ có xương Ḅ, xương Heo, súp thịt Ḅ, thịt
Heo, thịt Gà, thịt Vịt, thịt Dê, thịt Trừu. Đó là những món ăn ngon và bổ dưỡng
mà Thử tộc thành thị ưa thích.
Kẻ thù của chúng tôi là bọn Chó, Mèo, Rắn, Trăn, Chồn Cáo, Chim Cu, Chim Ưng. Kẻ
thù đáng sợ nhất vẫn là loài người.
Thử tộc nổi tiếng trong cộng đồng động vật về mức sinh sản. Chuột bắt đầu yêu
đương khi được 02 hay 03 tháng tuổi. Các chị Chuột có thể sinh trung b́nh 06 lứa
con trong năm. Mỗi lứa có từ 04 đến 12 Thử tử. Như vậy một chị Chuột có thể có
từ 24 đến 72 Chuột con trong một năm. Lộc Thử (Deer Mouse) Peromyscus
maniculatus, gia đ́nh: Cricetidae, sinh 14 lứa con trong năm!! Một
chị Chuột vừa sinh đă ăn nằm với người yêu và mang thai trong ṿng 24 giờ đồng
hồ sau khi vừa mới sinh! Thời kỳ mang thai chỉ kéo dài lối 30 ngày mà thôi.
Trong thời kỳ động cỡn một chị Chuột có thể ái ân chăn gối với hàng trăm người
yêu khác phái trong một đêm. Các Thử tử mới sinh không có lông, ḿnh trần trụi,
da mỏng màu đỏ hồng. V́ vậy người Anh gọi các Thử tử mới sinh là pinkies.
Tuổi thọ trung b́nh của Thử tộc xê dịch từ 1 đến 3 năm. Chuột Nhà thọ đến 06
tuổi.
Người Việt Nam phân biệt các ḍng Thử tộc sau đây:
- Chuột Ấn Cavia porcellus, gia đ́nh: Cavidae, là các anh chị Bọ.
Đó là một loại gặm nhấm như Thử tộc nhưng có tên gọi khó hiểu. Người Pháp gọi là
Cobaye, cochon d’Inde (Heo Ấn Độ có lẽ v́ thân h́nh các anh chị này béo
tṛn như các anh chị Trư. Chữ Cochon .<.heo.>. mà người Pháp dùng có lẽ
dựa vào tiếng La Tinh porcellus trong tên khoa học). Theo tiếng La Tinh,
Porcellus là Heo, Trư. Cavia phát xuất từ chữ Savia của Bồ
Đào Nha. Savia lại bắt nguồn từ chữ Sauja của bộ lạc Tupi ở Nam Mỹ
có nghĩa là Chuột. Người Anh gọi là Guinea pig. Thực tế Guinea (Phi Châu)
không phải là sinh quán của các anh chị Bọ (Chuột Ấn). Có phải chăng người ta
nghe nhầm Guinea từ chữ Guiana, một quốc gia ở Nam Mỹ? Các anh chị
Chuột Ấn có bộ lông dày, màu sắc đẹp đẽ (vàng, trắng, đen, hung đỏ). Các anh chị
ấy được loài người nuôi trong nhà. Người ta cũng dùng các anh chị ấy trong các
pḥng thí nghiệm để thử thuốc, chẩn đoán bịnh tiểu đường, ho lao, chứng thiếu
sinh tố C (scurvy), rối loạn khi mang thai v.v. Chuột Ấn là họ hàng xa và sang
trọng của Thử tộc.
- Chuột Bạch là Chuột có lông trắng, chân đỏ hồng. Chuột nhỏ
con nhưng nhanh nhẹn và thông minh được người ta nuôi trong nhà để đùa giỡn
trong các đu. Chuột Bạch cũng được dùng trong các pḥng thí nghiệm.
- Chuột Cống là các anh chị Chuột to lớn, dài lối 40- 45 cm,
sống dưới nước hay dưới ống cống. Người Anh gọi là sewer rat hay water rat. Tên
khoa học là
Rattus norvegicus (Chuột Na Uy), gia đ́nh: Muridae.
|
|
- Chuột Xạ hay Chuột Chù có mỏ dài, thị giác rất kém. Chuột
có mùi khó chịu và có vẻ chậm chạp. Người Việt Nam khinh rẻ các anh chị Chuột Xạ
qua câu: Lù đù như Chuột Chù (Chuột Xạ) phải khói. Chuột Xạ không phá hại trong
nhà như Chuột Lắc. Người Việt Nam tin rằng khi Chuột Xạ kêu, trong nhà sắp có
khách. Người Anh gọi Chuột Chù (Chuột Xạ) là Shrew, Water shrew v́ các anh chị
ấy lặn và lội rất giỏi. Người Pháp gọi là Crossope aquatique; Tây Ban Nha:
Musgano patiblanco. Các anh chị Chuột Chù mang tên khoa học Sorox palutris
thuộc gia đ́nh
Soricidae. Nước miếng của Chuột Xạ có chất độc Soricidin được dùng để
trị cao huyết áp, nhức đầu.
- Chuột Đồng là Chuột sống ngoài đồng (Ricefield rat) Rattus
argentiventer. Các anh chị này phá hại mùa lúa rất đáng kể trên đồng bằng
sông Cửu Long và sông Hồng. Ở Nam Bộ người ta hun khói để Chuột Đồng ra khỏi
hang để đón bắt. Ngày nay việc tiêu thụ thịt Chuột gia tăng, việc săn bắt Chuột
Đồng thường xảy ra sau mùa lúa vào tháng 6, tháng 7. Chuột Đồng bắt ở Cambodia
được chở sang Việt Nam bán. Chuột Đồng Bắc Mỹ (Vole) dài lối 20 cm mang tên khoa
học Myodes glarcolus thuộc gia đ́nh Cricetidae. Chuột Đồng Vole
sinh sản rất mạnh (10- 12 lứa/ năm). Các anh Chuột Đồng này theo chế độ độc thê.
Các anh giúp cho các chị trong việc chăm sóc các Chuột Con mới sinh.
Ở Hoa Kỳ người ta phân biệt:
1. Lộc Thử (Deer mouse) mang tên khoa học Peromyscus maniculatus thuộc
gia đ́nh Cricetidae lông vàng- xám; bụng có lông trắng. Tuổi thọ trung
b́nh của Lộc Thử kéo dài từ 40- 45 tháng. Có anh chị sống đến 96 tháng tức 08
năm. Các chị Lộc Thử có thể sinh 14 lứa trong năm! Không biết v́ sao người ta
gọi là Deer Mouse (Lộc Thử). V́ Bọ Chét Nai Ixodes scapularis ở
Nai và vi khuẩn Hanta virus (tên sông Hanta ở Nam Hàn) ở Lộc Thử gây bịnh Lyme?
2. Chuột Nhà mang tên khoa học Mus musculus, gia đ́nh:
Muridae
(Mus musculus có nghĩa là tiểu đạo tặc). Đó là chuột nhỏ sống trong nhà. Sự phá
hoại của loài này rất đáng kể.
3. Chuột Nóc Nhà Rattus rattus. Đó là Chuột mặc quần
áo đen và ăn trái cây. Các anh chị này thường gây cúp điện hay hỏa hoạn ở các
thành phố Âu- Mỹ.
4. Chuột Rừng (Wood Rat) Neoroma cinerea thuộc gia
đ́nh Cricetidae
ăn trái cây, vật cứng như cát- tông, nệm, cắn phá dây điện.
5. Chuột Chũi (Mole) có h́nh dáng giống như Thử tộc (mỏ nhọn,
lông đen- xám, răng bén, móng vuốt nhọn và cứng). Thực sự Chuột Chũi không phải
là động vật gặm nhấm mà động vật ăn côn trùng. Các anh chị Chuột Chũi mang tên
khoa học Talpa europaea thuộc gia đ́nh Talpidae. Hai chân trước
của tộc này rất mạnh. Mỗi bàn chân có 05 ngón + một ngón cái thừa. Mỗi ngón chân
có móng dày, dài và nhọn giúp cho các anh chị ấy đào đất để sống dưới hang và để
t́m côn trùng dưới đất. Mỗi ngày các anh chị Chuột Chũi (Mole) có thể đào 45- 46
m hang dưới mặt đất!
|
|
6. Chuột Rằn (Zebra mouse) Lemniscomys barbarus, gia
đ́nh: Muridae, là các anh chị Chuột mắt to, mặc quần áo có sọc theo chiều
dài của thân ḿnh. Các anh chị Chuột Rằn gần gũi với sóc hơn là Chuột v́ đuôi có
nhiều lông. Họ được loài người nuôi trong nhà. Khác với Chuột sinh hoạt ban đêm,
Chuột Rằn sinh hoạt ban ngày. Địa bàn chính của Chuột Rằn là các băi cỏ vùng sa
mạc Sahara. Thức ăn của các anh chị Chuột Rằn là các loại hột, trái cây, rau cải,
côn trùng. Chuột Rằn có thể phóng nhảy cao 60- 70 cm.
7. Chuột Ngủ (Dormouse) trên lục địa Âu- Á có khí hậu ôn tới
lạnh. Chuột Ngủ
Glirulus japonicus thuộc gia đ́nh Gliridae được t́m thấy nhiều ở Nhật
là các anh chị Chuột có lông dày màu đen- xám; đuôi có lông như tàu cau. Các anh
chị Chuột nầy sống trong các bóng cây. Họ ngủ suốt mùa đông lạnh lẽo. Họ sinh
hoạt ban đêm. Ngày xưa người La Mă ăn thịt Chuột Ngủ Glis glis cùng gia
đ́nh Gliridae.
|
|
Thử tộc chúng tôi không được loài người yêu thích ngoại trừ
mấy anh chị Chuột Tàu nhỏ nhắn, môi son, bốn chân đỏ hồng và mặc quần áo trắng
đẹp đẽ và sang trọng được loại người nuôi trong nhà. Những người bà con gặm nhấm
xa của chúng tôi là các anh chị Sóc, Nhen Sciurus carolensis mặc quần áo sọc rằn
như mấy anh chị Chuột Rằn (Zebra Mouse), ăn trái cây và ngủ trên cây chớ không
ngủ dưới hang hay ống cống nghèo nàn và bẩn thỉu của các gia đ́nh họ Thử khác.
Chúng tôi phá hoại mùa màng của loài người không ít. Mỗi anh chị Chuột ăn trên
10 ki- lô khoai củ trong năm. Một gia đ́nh Chuột 200 thành viên ăn mỗi năm 2,000
ki- lô khoai củ. Mấy anh chị Chuột Lắc làm bể đồ đạc trong nhà làm cho loài
người vừa tức tối vừa mất ngủ đến nỗi họ phải rủa các anh chị Chuột Lắc như sau:
Cha đời Chuột Lắc nhà bây
Ḥn đá rơi xuống th́ mày gẫy xương.
Cư dân sống dọc theo các bờ đê dọc theo sông Hồng lo ngại Chuột đào hang làm cho
đê bị vỡ vào mùa mưa gây lụt lội khủng khiếp trên châu thổ sông Hồng. Chuột cắn
cũng nguy hiểm như Chó cắn v́ nước miếng, nước tiểu và phân của Thử tộc đều có
độc chất có thể gây tử vong. Bọ Chét Xenopsylla cheopis trên ḿnh Chuột
được xem là nguyên nhân của bịnh dịch hạch. Năm 1347 lục địa Á- Âu bị bịnh dịch
đến càn quét khiến cho hàng triệu người chết v́ bịnh này. Chuột mang cho loài
người bịnh thương hàn Chuột (rat- borne typhus), bịnh leptospirosis
do kư sinh trùng Leptospira interrogan gây ra sốt vàng da, đau bắp thịt,
hại đến gan, thận, màng óc, cột xương sống và dẫn đến tử vong; bịnh
salmonellosis do nhiễm trùng Salmonella enterica gây nóng sốt, nôn
mửa, thổ tả; bịnh trichinosis do nhiễm trùng Trichinella spiralis
gây tiêu chảy, nóng sốt, bắp thịt suy nhược v.v. Nước miếng, nước tiểu, phân của
Thử tộc đều có trùng độc. Nh́n chung Thử tộc mang cho loài người một số bịnh
hiểm nghèo khả dĩ dẫn đến tử vong như hội chứng hô hấp vi khuẩn Hanta (HPS:
Hantavirus Pulmonary Syndrome) gây sốt, vỡ phế mạch hay hội chứng thận và
sốt xuất huyết (HFS: Hemorrhagic Fever with Renal Syndrome)
Loài người dùng các anh chị Chuột Bạch, Chuột Ấn (Bọ) trong các pḥng thí
nghiệm để thử nghiệm thuốc. Thử tộc cũng được dùng để nghiên cứu bịnh
Alzheimer, cao huyết áp. Chúng tôi cũng giúp cho các nhà y học sửa chữa dây
cột sống bị tổn thương. Người Trung Hoa và Việt Nam dùng các Thử tử mới sinh c̣n
đỏ ối để ngâm rượu thuốc! Rượu nầy dành cho các sản phụ mới sinh uống để phục
hồi sức khỏe.
Thử tộc là một nguồn thịt to lớn đối với loài người. Từ ngàn xưa loài người đă
ăn thịt Thử tộc chúng tôi. Như đă thấy người La Mă ăn thịt Chuột Ngủ Glis glis.
Ngày nay Thử nhục cũng c̣n được các dân tộc Á Châu và Phi Châu hưởng ứng. Ở Ấn
Độ có đền thờ Thử tộc chứa 20,000 Hắc Thử được nuôi dưỡng và kính trọng. Đó là
đền thờ Thử tộc Karni Mata ở Deshnoke, tiểu bang Rajasthan. Thức ăn của các Hắc
Thử do những người thờ phượng mang đến đền Karni Mata mỗi buổi sáng. Đền mở cửa
từ 4 giờ sáng mỗi ngày. Ngược lại ở Bihar có một cộng đồng người Ấn Độ sống bằng
việc bắt Chuột, nuôi Chuột và ăn thịt Chuột. Những người ăn thịt Chuột được xem
là những người hạ lưu trong xă hội. Họ được gọi là MUSAHAR nghĩa là người ăn
Chuột.
Người Nigeria thích ăn một loại chuột to cân nặng 3- 4 ki-lô, nhiều lông, mỏ
bằng phẳng, mặt rộng như mấy anh chị Bọ (Chuột Ấn).
Người Trung Hoa và Việt Nam đều có nhiều kinh nghiệm ăn Thử nhục. Các nhà nghiên
cứu cho biết việc ăn thịt Chuột được ghi chép từ thời nhà Đường (618- 907).
Trong truyện Tàu cũng có đề cập đến việc bà Từ Hi Thái Hậu (Ci Xi Tai Hou) đăi
các đại diện các nước Tây Phương món Chuột mới sinh ăn sống với mật ong Jiangxi
(Giang Tây). Cha và mẹ của những Chuột con này được nuôi bằng nhân sâm. Món ăn
bổ dưỡng như thế nào không biết chỉ thấy một đại diện của nước Ḥa Lan ngất xỉu
tại bàn tiệc quốc tế này. Ngày nay ở Guangdong ( Quảng Đông) có nhà hàng bán
thịt Chuột Con ăn sống với một loại nước chấm đặc biệt.
Ở Việt Nam người ta ăn Chuột Đồng vừa có nguồn dinh dưỡng vừa diệt bớt Thử tộc
phá hại mùa màng. Chuột quay được bán ở bến phà Mỹ Thuận. Như đă biết người Việt
Nam dùng Chuột con mới sinh ngâm rượu thuốc! Chuột Đồng chặt đầu, chặt đuôi,
chặt chân rô-ti như Thố tử, hương vị ngon hơn cả Kê nhục. Có khi Chuột được xé
khô hay làm mắm Chuột để giữ lâu ngày. Ngày nay các món ăn Thử nhục được bán cho
du khách hiếu kỳ dùng. Nông dân Cambodia săn bắt Chuột chở sang Việt Nam bán để
đáp ứng nhu cầu Thử nhục ngày càng tăng ở Việt Nam.
An ninh Thử tộc báo động. Trước kia loài người ghê tởm Thử tộc chúng tôi. Bây
giờ các bậc thức giả của loài người lưu ư một nguồn protein của vài tỷ Thử tộc
trên thế giới giữa lúc nhiều quốc gia nhân măn, dân chúng đói kém hay thiếu chất
dinh dưỡng. Một mặt loài người cầm cuốc đi t́m hang chúng tôi để bắt bỏ Thử tộc.
Mặt khác họ bắt đầu lập trại nuôi Chuột để cung ứng cho nhu cầu tiêu thụ Thử
nhục trong nước.
Loài người lúc nào cũng tàn nhẫn với chúng tôi. Họ dùng bẫy để giết chúng tôi.
Họ dùng lửa để làm cho chúng tôi chết ngộp hay chết cháy. Có khi họ dùng bọn Chó
và Mèo cắn chúng tôi. Có khi họ dùng thức ăn tẩm thuốc độc để diệt chủng Thử tộc
chúng tôi. Người Việt Nam có phương pháp đuổi Chuột rất hữu hiệu và lợi hại:
1. Phương pháp thứ nhất là bẫy một anh hay chị Chuột, cạo lông và sơn trên ḿnh
Chuột nhiều màu sắc khác nhau rồi thả Chuột tự về ổ. Các Chuột khác trong ổ thấy
sự hiện diện của một anh hay chị Chuột ăn mặc áo quần kỳ lạ nên hoảng sợ bỏ chạy.
Chuột sơn màu có nhu cầu đoàn tụ với các đồng loại trong ổ nên rượt theo các bạn
Chuột. Càng rượt theo các anh chị Chuột càng chạy xa ổ để tránh gặp mặt anh hay
chị Chuột ăn mặc kỳ quái này. Đó là cách loài người ly gián Chuột bị loại người
giam giữ với Chuột tự do trong ổ.
2. Phương pháp thứ hai là bắt một anh Chuột mổ ngoại thận của anh ta và nhét vào
đó miễng chai cà nhuyễn rồi khâu lại. Xong cho anh Chuột tù bị giải phẫu nầy trở
về ổ cũ. Anh Chuột tù bắt đầu đổi tánh sau cuộc giải phẫu ngoài ư muốn. Anh khó
chịu v́ miểng chai trong ngoại thận nên trở nên cộc cằn và hung tợn. Anh rượt
các đồng loại mà cắn. Đồng bọn của anh sợ chứng điên loạn của anh ta mà bỏ hang
ổ đi t́m nơi khác để sống.
Thử tộc được loài người đề cập nhiều trong Thánh Kinh, Ấn Giáo, huyền thoại Nhật,
Ai Cập, Hy Lạp, lịch Tử Vi Trung Hoa v.v.
Thánh Kinh Do Thái liệt Chuột vào động vật dơ bẩn không được phép ăn. Thử tộc
được đề cập trong Genesis 3:1, Samuel I 6:4-5, Leviticus 11: 29, Isaih 66: 17.
Trong 12 con giáp của Trung Hoa Thử tộc đứng đầu. Kế đó là Trâu, Cọp, Thỏ (Việt
Nam: Mèo) v.v.
Ở Ấn Độ có đền thờ Thử tộc Karni Mata, tiểu bang Rajasthan. Chữ MUS trong tiếng
La Tinh chỉ Thử tộc. Ở Sài G̣n trước năm 1954 có nhà thuốc Tây MUS trên đường
Catinat. Nhà thuốc Mus sau này là nhà thuốc La Thành Nghệ trên đường Tự Do (bây
giờ là Đồng Khởi) Tiếng Sanskrit (Phạn) MUSHIKA chỉ Thử tộc có nghĩa là trộm đạo.
Ở Nhật, Thử tộc được xem là sứ giả của Thần Daikoku, Thần Tài Sản, sự phồn thịnh,
Thần bảo vệ đất đai. Ngày xưa người Nhật tin rằng Chuột ăn bánh đầu năm th́ năm
ấy được mùa.
Trong Thiên Văn Học có cḥm Thiên Hà Thử (Mice Galaxies).
Loài người nh́n Thử tộc chúng tôi dưới nhăn quan khác nhau. Đa số đều có ác cảm
với chúng tôi. Người th́ cho là chúng tôi tiêu biểu cho bọn tiểu nhân, cắn phá
lung tung. Người th́ chế nhạo sự mù ḷa của đồng tộc chúng tôi nhất là các anh
chị Chuột Xạ. Ngoài nước miếng độc của các anh chị Chuột Xạ không biết họ c̣n
dược tính ǵ trong mùi xạ của các anh chị ấy để loài người dùng làm thuốc trị
bịnh?
Trong câu hát ru em của người Việt Nam có hai câu thơ lăng mạn dựa vào Thử tộc
chúng tôi như sau:
Chuột kêu chút chít trong rương.
Anh đi cho khéo đụng giường mẹ hay.
Người Việt Nam và Anh gặp nhau trong hai câu:
Cháy nhà ra mặt Chuột.
Rats desert a falling house.
Chuột đội vỏ trứng: chỉ người đạo đức giả.
Chuột sa hủ nếp: chỉ các nam nhân may mắn làm rể trong
gia đ́nh giàu có.
Chuột gặm chân Mèo: ám chỉ người không biết lượng sức khi đụng phải một
đối thủ mạnh hơn ḿnh để chuốt họa vào thân.
Chuột cắn dây buộc Mèo: dại dột khi đi cứu kẻ hại ḿnh.
Thử dịch: bịnh dịch hạch do vi khuẩn Yersinia pestis do Bọ Chét
Xenopsylla cheopis trên thân Thử tộc gây ra.
Thử mục: mắt láo liên, lém lỉnh của Thử tộc
Thử độn: trốn chui, trốn nhủi như Chuột.
Rễ đuôi Chuột: là rễ dài ăn sâu dưới đất để kiếm nguồn
nước nuôi cây. Rễ đuôi Chuột đứt th́ cây không sống được.
Trong thực vật học có:
- Bèo Tai Chuột (Thử Nhĩ) Salvinia cucullata.
- Dưa Chuột Cucumis sativum
- Sầu dâu cứt Chuột Bruce javanica
- Mouse melon (Dưa Chuột chua Mễ Tây Cơ) Melothria scabra
- Rat’s ear (Rau Càng Cua) Peperomia pellucida v.v.
Ở Việt Nam có truyện Trinh Thử và tranh vẽ đám cưới
Chuột đầy duyên dáng. Tô Hoài có tác phẩm O Chuột.
Ở Đức có Tháp Chuột (Mouse Tower) tức Mause- Turm nằm trên một ḥn đảo trên sông
Rhine.
Ở Hoa Kỳ có h́nh vẽ Mickey Mouse được các nhi đồng trên thế giới ưa thích.
Năm 1990 trên một chuyến bay của phi thuyền con thoi của NASA Hoa Kỳ, Thử tộc
cung cấp bằng chứng làm thế nào cơ thể điều chỉnh với trạng thái vô trọng lượng.
Năm 1960 có hai thành viên Thử tộc ngồi trên phi thuyền
Spunik II ngao du trên không gian.
Trong thời đại computer chữ MOUSE được mọi người xử dụng biết
đến.
Trong chừng mực nào đó chữ mouse cũng không có nghĩa ǵ tốt
đẹp dù hiểu theo khía cạnh nào. Chữ RAT c̣n có nghĩa là kẻ phản bội đoàn thể,
phản đảng.
Trong 12 con giáp năm Chuột được gọi là năm Tí. Tháng Tí là tháng 11 Âm Lịch.
Tháng giêng Âm Lịch tức tháng Tết là tháng Dần (Cọp).
Trong số Đề, Chuột mang số 15 trước Ong (số 16) và sau Mèo Rừng (số 14).
Để kết thúc tham luận hôm nay tôi xin kể cho quí vị câu chuyện sau đây của một
ông quan thanh liêm trong kho tàng văn hóa Việt Nam.
Ngày xưa có một ông quan thanh liêm. Ông giúp đỡ cho nhiều người v́ óc công
bằng và ḷng nhân đạo mà thôi.
Một hôm, nhân lúc ông đi vắng, có một người mang một bao tiền đến đưa cho vợ ông.
Bà vợ ông hỏi:
"Tiền ǵ vậy?”
"Đó là tất cả tấm ḷng biết ơn của tôi đối với quan lớn. Quan lớn đă cứu tôi.
Tôi có bổn phận đền ơn quan lớn.” Người đàn ông đáp.
"Không được. Ông mang tiền về đi. Ông tôi biết được th́ ông quở trách tôi.” Vợ
ông quan nói.
Người đàn ông nài nỉ măi, vợ ông quan vẫn khăng khăng khước từ. Người đàn ông
liền hỏi tuổi ông quan.
"Tôi không nhớ rơ. Nghe ông nói th́ ông tuổi con Chuột.” Vợ ông quan nói.
Ít hôm sau người đàn ông mang một con Chuột bằng vàng đến tặng vợ ông quan. Lần
này bà không có lư do ǵ khước từ. Bà cảm ơn người đàn ông và đem tượng Thử tộc
bỏ vào hộc tủ rồi khói lại cẩn thận.
Thời gian trôi qua. Ông quan đến tuổi về hưu. Tiền bạc dành dụm không nhiều nên
cuộc sống của hai vợ chồng càng ngày càng trở nên khó khăn.
Một hôm bà vợ nghĩ đến việc dùng một phần vàng trong con Chuột để mua rượu thịt
cho chồng ăn sau nhiều năm khổ cực và ăn uống thiếu thốn. Ông chồng ngạc nhiên
hỏi do đâu bà có tiền để mua rượu thịt. Người vợ thuật lại câu chuyện về cái túi
bạc và con Chuột vàng. Bỗng người chồng tức ông quan thanh liêm trước kia trách
vợ: “Sao bà không nói tôi tuổi Sửu mà nói tôi tuổi Tí?”
Quí vị thấy không? Chuyện ǵ loài người cùng nghĩ đến và nói được. Chuyện sơn
màu Thử tộc hay nhét miểng chai vào ngoại thận các nam Thử mà họ cũng nghĩ ra và
thực hiện. Họ nói Thử tộc dơ bẩn vậy mà họ ăn thịt Thử tộc, ngâm rượu thuốc,
dùng chúng tôi và các thân nhân chúng tôi để thử nghiệm thuốc.
Tôi chấm dứt bài tham luận Thử tộc ở đây và xin quí vị đừng quá tức giận loài
người mà ốm bịnh.
Bản Rats’ Nocturnal Activities vang rền giữa tiếng huưt sáo và vỗ tay vang dội.
Trưởng Lăo Chuột Tre Sumatra Rhizomys sumatrensis tức Trúc Thử Nam Dương.
PHẠM Đ̀NH LÂN, F.A.B.I.
Trang Phạm Đ́nh Lân
art2all.net |