Dù là thầy thuốc Đông Y hay Tây
Y tất cả đều quan tâm đến đại, tiểu tiện của người bịnh. Táo bón là một dạng bất
thông của hệ thống tiêu hóa xuất phát từ sự chuyển động bất thường và không đầy
đủ của đường ruột. Táo bón thường được tìm thấy nơi người cao niên. Nguyên nhân
của chứng táo bón có thể:
- do ít uống nước
- thức ăn ít rau cải và ít sợi
- dùng thức ăn cứng hay có sứa khó tiêu (đối với người già)
- hay suy tư, lo lắng, buồn nản, suy sụp tinh thần
- cơ thể thiếu hoạt động
- dùng nhiều thuốc xổ, thuốc trị đau nhức, ma túy.
Không thể xem thường chứng táo bón (constipation) được. Từ
táo bón sẽ chuyển sang nhiều chứng khác như trĩ (hemorrhoids), nhiễm trùng đường
ruột, sưng đường ruột như trường hợp tài tử Elvis của Hoa Kỳ, loét ruột; xuất
huyết đường ruột và nặng hơn nữa là ung thư đường ruột (colon cancer). Đó là
những chứng bịnh nặng có thể gây tử vong.
Để ngăn ngừa táo bón ta phải làm ngược lại những nguyên
nhân gây ra táo bón nghĩa là phải uống khá nhiều nước; ăn nhiều rau cải, thức ăn
dễ tiêu hóa và có nhiều sợi; tránh lo âu suy nghĩ quá nhiều; uống cà phê (nhưng
tối đa không quá hai tách mỗi ngày); tránh xa ma túy hay lạm dụng thuốc; cần tập
thể dục hay làm những công việc lặt vặt trong nhà để có cơ hội cho cơ thể hoạt
động; ăn các loại trái cây hượt trường như chuối, trái ‘prunes’; ‘apple sauce’;
uống nước chanh hòa với mật ong v.v.
Theo kinh nghiệm trị liệu dân gian của người Việt Nam và
Tây Phương, thảo mộc trị táo bón gồm có: củ cải rhubarb hay đại hoàng, lô hội,
lá sống đời, bồ công anh (dandelion), muồng trâu, mã đề sa mạc (Psyllium-
Plantago ovata), cây táo gai hay bút mèo hay cây vỏ thiêng (cascara sagrada), cỏ
cà ri (fenugreek) v.v.
* * * *
ĐẠI HOÀNG
Củ Rhubarb
Rheum officinalis
Gia đình: Polygonaceae
Đại hoàng là vị thuốc lấy từ củ Rhubarb, mang tên khoa học Rheum officinale
thuộc gia đình Polygonaceae. Cây có thể cao đến 2m; lá hình trái tim hay
hình tam giác; rìa lá chẻ. Củ màu vàng (đại hoàng: great yellow). Hoa màu đỏ bầm,
trắng xanh- hồng hay hồng- trắng. Hột bắt đầu già vào tháng 07- 08.
Tên gọi thông thường:
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Anh |
Chinese rhubarb, Tibetan rhubarb; Turkey rhubarb |
Việt Nam |
Đại Hoàng (âm theo người Trung Hoa) |
Trung Hoa |
Da huang |
Pháp |
Rhubarbe chinoise |
Nhật Bản |
Daio |
Loại cây có củ sống lâu dưới đất này được tìm thấy nhiều ở
Trung Hoa, Tây Tạng, các nước Trung Á, Thổ Nhĩ Kỳ. Người Trung Hoa có nhiều kinh
nghiệm dùng đại hoàng trong y học trị liệu. Củ rhubarb được du nhập vào Âu Châu
vào thế kỷ XIII. Người Anh trân quí củ rhubarb. Họ cũng dùng nó làm thuốc nhuận
trường vào thời Trung Cổ đến thế kỷ XVIII.
Công dụng:
1. lá và cọng non luộc ăn được. Lá có độc chất calcium oxalate. Độc chất
biến mất khi luộc chín.
2. Lá có rutin C27 H30 O16 (1.3%). Thành phần hóa học của củ rhubarb:
chrysophan, phaeoretin, erythroshein, aporetin, chrysophanic acid C15 H10
O4, rheotannic C26 H26 O14, emodin C15 H10 O5, gallic acid
C7 H6 O5, calcium oxalate (lá), rhein C15 H8 O6, đường, tinh bột,
muối v.v.
3. Chủ trị: (dùng củ) trị thổ tả, tiêu chảy, kiết lỵ, táo bón. Nhuận tiểu, nhuận
trường. Ngày nay đại hoàng được dùng để chữa viêm gan B, bịnh bàng quang, trĩ,
kinh nguyệt. Đại hoàng kháng trùng, kháng viêm, kháng khuẩn, kháng ung thư nhờ
có aloe- emodin, chrysophanol, emodin, gallic acid, rhein.
4. Không được dùng đại hoàng:
a. phụ nữ mang thai
b. người đau thấp khớp
c. bị bịnh tí thấp (gout)
d. bị sạn thận (không được dùng đại
hoàng).
CÂY VỎ THIÊNG
Cascara sagrada
Rhamnus purshiana
Gia đình: Rhamnaceae
Cây vỏ thiêng là chữ dịch của tiếng Tây Ban Nha Cascara sagrada (vỏ cây
thiêng liêng). Đó là cây táo gai, táo rừng (buckthorn) được tìm thấy nhiều ở Bắc
Mỹ Thái Bình Dương. Người Tây Ban Nha khi mới đặt chân lên lục địa Mỹ Châu, bắt
chước người Da Đỏ ở Bắc Mỹ dùng vỏ và trái cây táo rừng để trị táo bón, bịnh gan,
thận, trĩ (hemorrhoids), sạn mật. Họ gọi cây táo rừng này là cây vỏ thiêng
Cascara sagrada.
Cây táo rừng cao từ 5- 10 m; lá hình bầu dục; gân lá tựa như
bộ xương cá. Hoa nhỏ, 05 cánh màu xanh- vàng, kết thành chùm. Trái nhỏ, tròn,
màu hồng khi chín chuyển sang màu tím- đen. Trái có vỏ mỏng, cơm nhiều, có 02
hay 03 hột đen và cứng.
Tên khoa học của cây vỏ thiêng hay táo rừng hay hùng mộc này
là Rhamnus purshiana thuộc gia đình Rhamnaceae.
Tên gọi thông thường:
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Anh |
buckthorn, bear wood (Hùng mộc); sacred bark;
chittum bark (theo cách gọi của người Da Đỏ) |
Việt Nam |
cây vỏ thiêng; táo rừng |
Tây Ban Nha |
cascara sagrada |
Pháp |
écorce sacrée |
Da Đỏ |
Chittum |
Cây già từ 15 đến 25 tuổi cho nhiều vỏ. Vỏ có vị đắng.
Công dụng:
1. Vỏ và trái dùng làm thuốc xổ.
2. Gỗ dùng làm củi, làm cột nhà; trái dùng để cất rượu, làm nước giải khát, kem,
bánh ngọt nướng.
3. Thành phần hóa học: hydroxyanthracene glycosides (cascarosides C27 H32
O14, C27 H32 O13 etc.) và emodin C15 H10 O5.
Cho đến giữa thế kỷ XX cây vỏ thiêng vẫn còn được dùng để làm
thuốc trị táo bón. Đến thế kỷ XXI cơ quan FDA (Food Drug Administration) của Hoa
Kỳ ngừng công nhận hiệu năng và sự an toàn của cây vỏ thiêng Chittum (sacred
bark- cascara sagrada).
MÃ ĐỀ SA MẠC
Plantago ovata
Gia đình: Plantaginaceae
Gọi là mã đề sa mạc vì dựa vào chữ Plantago của dòng mã đề chớ cây không
giống mã đề thường thấy ở nước ta. Mã đề sa mạc được tìm thấy ở Tây Á, ven biển
Địa Trung Hải và Bắc Phi nơi có khí hậu nóng và khô. Cây mã đề sa mạc cao từ 50
đến 70 cm; lá dài và nhọn; hoa màu vàng nhạt không tươi. Hoa nhỏ mọc thành chùm
trên một trục cao lối 50 cm. Trồng trong vòng 60 ngày (02 tháng) sẽ có hoa và
kết hột.
Tên khoa học của mã đề sa mạc là Plantago ovata thuộc
gia đình
Plantaginaceae.
Tên gọi thông thường:
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Việt Nam |
Mã đề sa mạc (1) |
Anh |
Blond psyllium, desert Indian wheat, ispaghul (2) |
Ấn Độ |
Isabgol |
Trung Hoa |
Che qian zi (xa tiền tử: mã đề .<.hột.>.) (3) |
Nhật |
Sairiumu |
Công dụng:
- mã đề sa mạc có nhiều công dụng trong kỹ nghệ dược phẩm, mỹ phẩm và kỹ nghệ
dệt vải (chất nhờn .<.hột và vỏ lụa + nước.>. dùng để hồ vải).
- lá và hột mã đề sa mạc đều ăn được.
- vỏ lụa của hột mã đề sa mạc có tỷ lệ cellulose cao gồm có arabinose
C5 H10 O5, rhamnose C6 H12 O5, galacturonic acid C6 H10 O7. Được
dùng để biến chế thức ăn có sợi trị táo bón, tẩy độc trong gan.
- lá, hột, vỏ lụa của hột mã đề sa mạc tạo thành chất nhờn khi gặp nước. Chất
nhờn hút độc chất trong màng ruột và tẩy ra ngoài bằng đường tiêu hóa. Mã đề sa
mạc nhuận tiểu, nhuận trường, trị đau nhức, bao tử ợ chua, tiêu chảy, kiết lỵ,
trĩ (hemorrhoids), hạ cholesterol, hạ đường cho người bị tiểu đường loại
I và II.
__________
(1) Do người viết đặt vì loài thảo mộc này không
có ở Việt Nam. Tên gọi nầy dựa vào dòng Plantago của mã đề + vùng khí hậu nóng
và khô nơi có nhiều loại thảo mộc nầy.
(2) Dựa theo cách gọi Isabgol của người Ấn Độ. Isabgol: Asp + Ghol của tiếng
Sanskrit (Phạn) có nghĩa là Mã Hoa vì hột có hình móng ngựa tức cùng nghĩa với
Mã Đề (móng ngựa)
(3) Xa tiền: lá mã đề khô dùng như vị thuốc trong Đông Y.
CÂY MUỒNG TRÂU
Cassia alata
Cassia herpetica
Gia đình: Fabaceae
Cây muồng trâu được tìm thấy khắp các vùng nhiệt đới trên thế giới đặc biệt là
Nam và Trung Mỹ. Chữ TRÂU ở đây được dùng như một hình dung từ chỉ cái gì to lớn.
Muồng trâu là cây muồng to lớn đến 2- 3 m. Tên thuốc gọi là nam đại hoàng (đại
hoàng: củ rhubarb). Thân cây muồng trâu mềm, dễ gãy. Lá giống như lá me hay lá
mắc cỡ (trinh nữ) to, màu xanh tươi, mọc đối nhau. Hoa cao từ 50- 60 cm màu vàng
tươi rất đẹp. Ban đêm lá xếp lại. Trái to như trái đậu giáng.
Tên khoa học của cây muồng trâu là Cassia herpetica (herpes:
mụn độc) hay Cassia alata v.v., thuộc gia đình Fabaceae.
Tên gọi thông thường:
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Việt Nam |
Muồng trâu; nam đại hoàng |
Trung Hoa |
Xuan fan pie ye (Huyên Phiên Tả Diệp) (1) |
Anh |
Ringworm cassia (vị trí hắc lào), Candle bush |
Pháp |
Fleur dartre |
Nhật |
Hakusen senna |
Mã Lai |
Gelenggang |
Lào |
Khi let ban |
Khmer |
Dang het |
Phi Luật Tân |
Akapulko |
Thành phần hóa học:
- toàn cây muồng trâu có chrysophanol C15 H10 O4.
- trái có nhiều chrysophanic acid C15 H10 O4
- hột có chrysophanol
- lá có cassic acid, aloe- emodin, rhein, anthrone, kampferol.
- rễ có anthraquinone C14 H8 O2 gây tẩy xổ rất mạnh.
Chủ trị: táo bón, bịnh ngoài da (hắc lào; kháng nấm) vì có
fungiside và chrysophanic acid.
Ở Phi Luật Tân muồng trâu được dùng làm thuốc tẩy xổ tẩy sạch độc chất trong gan.
Ở Phi Châu người ta dùng nó để hạ huyết áp.
Ở Nam Mỹ nơi xuất phát cây muồng trâu, người ta dùng nó để trị bịnh nấm trên da
như hắc lào chẳng hạn, sốt, táo bón, suyễn, rắn cắn, dương mai.
Muồng trâu gây tẩy xổ rất mạnh nên cẩn thận khi dùng. Vì lý do ấy người ta dùng
nó làm thuốc tẩy xổ cho súc vật.
_______
(1) Xuan fan pie ye: Huyên phiên tả diệp do dược
sĩ Lâm Thị Phương, Úc Đại Lợi, âm từ Hoa ngữ.
CÂY MUỒNG NGỦ
Cassia tora
Gia đình: Fabaceae
Gọi là muồng ngủ vì lá xếp lại như ngủ về đêm.
Cây muồng ngủ cao lối 50- 70 cm; lá xanh tươi hình bầu dục;
hoa vàng. Trái muồng ngủ giống trái đậu xanh. Cây muồng ngủ có nhiều tên gọi
khác như: muồng ngủ, muồng hôi (foetidic cassia), thảo quyết minh, đậu
ma. Tên khoa học là
Cassia tora, gia đình: Fabaceae.
Cây muồng ngủ có nhiều anthraquinone tẩy xổ rất mạnh.
Hột trái chín màu đen có nhiều protein, tannins, cinnaldehyde C9 H8 O,
mannitol C6 H14 O6. Hột rang nấu nước uống như cà phê. Muồng ngủ được tìm
thấy nhiều trong thôn quê Việt Nam. Đó là một dược thảo quan trọng có công dụng
tương tự như muồng trâu.
BỒ CÔNG ANH
Taraxacum officinale
Gia đình: Compositae
Thoạt nghe tên gọi ' bồ công anh’ người đọc ngờ là cây thuốc xa lạ và hiếm hoi.
Đó là loại cỏ có hoa vàng nhiều cánh rất quen thuộc với những gia đình có vườn ở
Hoa Kỳ. Đó là dandelion hoa vàng mà các nhà làm vườn tìm cách diệt bỏ.
Dựa vào triết lý y học trị liệu thì loại cỏ lấn đất, có rễ to
ăn sâu dưới đất này có sức đề kháng rất mạnh khiến người ta nghĩ đến khả năng
trị liệu đặc biệt của nó như trường hợp cây sống đời, củ cỏ gấu (hương phụ)
chẳng hạn.
Bồ công anh được tìm thấy ở vùng khí hậu bán nhiệt đới và ôn
đới. Cây cao lối 30- 40 cm; lá dài có răng cưa nhọn như là ngò gai; hoa vàng có
nhiều cánh nhỏ như hoa cúc. Khi gần tàn hoa có hình cầu màu xám tro. Gió thổi
hột bay đi khắp nơi và mọc thành cây con. Bồ công anh bất tử sau mùa đông băng
giá vì có rễ ăn sâu dưới đất tựa như củ vậy.
Tên khoa học của bồ công anh là Taraxacum officinale
thuộc gia đình
Compositae. Chữ Taxacum xuất phát từ tiếng Á Rập tarakhshaqun
có nghĩa là rau diếp xoắn đắng.
Tên gọi thông thường:
Quốc Gia |
Tên gọi |
Việt Nam |
Bồ công anh (âm theo Hoa ngữ Pu gong ying) |
Anh |
Dandelion (âm từ tiếng Pháp Dent de lion .<.Răng sư
tử.>.) |
Pháp |
Dent de lion |
Tây Ban Nha |
Diente de leon |
Nhật |
Tanpopo |
Trung Hoa |
Pu gong ying (Bồ Công Anh) |
Công dụng:
- Rễ, lá và hoa bồ công anh được dùng làm thuốc trị sạn túi mật, hoàng
đản, táo bón, rối loạn đường tiểu, cố trướng (cirrhosis), cước khí, đau khớp
xương, chàm, viêm gan, tiểu đường, béo phì, rỗng xương (osteoporosis), rắn cắn.
- Lá bồ công anh non ăn như rau cải (người Pháp thích rau này). Nó có
sinh tố A, B6, C, K, chất sắt Fe, Ca (chất vôi) cao hơn cải spinach. Lá khô cho
vào thức ăn như hương liệu vậy. Một công ty nước ngọt Bỉ dùng bồ công anh làm
nguyên liệu sản xuất rượu Pissenlit (tiểu tiện trên giường). Lá bồ công anh có
flavonoids luteolin 7- 8- glucoside, apigenin-7-glucoside, sinh tố
A, B, C.
- Rễ bồ công anh rang nấu nước uống thay cà phê. Nó được Canada dùng làm
thuốc nhuận tiểu và nhuận trường. Rễ bồ công anh có inulin C6 H10n + 2
O5n +1, taraxerol C30 H50 O, taraxasterol, pseudotaraxasterol, beta
amyrin.
- Hoa dùng để làm rượu, thạch, màu nhuộm vàng, xanh. Nhựa trắng trong hoa
được dùng như keo.
Người Trung Hoa dùng bồ công anh làm thuốc từ thế kỷ VII.
Người Âu Châu ghi bồ công anh vào y thư vào thế kỷ XV.
CỎ CÀ RI
Trigonella foenum- graecum
Gia đình: Fabaceae
Cỏ cà ri được tìm thấy ở các vùng khí hậu Địa Trung Hải như Nam Âu (Tây Ban Nha,
nam nước Pháp), Trung Đông (Thổ Nhĩ Kỳ), Bắc Phi (Ai Cập, Morocco). Nó cũng được
tìm thấy ở Ấn Độ, Pakistan, tây bộ Trung Hoa.
Gọi là cỏ cà ri vì người Ấn Độ và Trung Đông dùng nó để nấu
cà ri thực vật. Nó không thấp lè tè như cỏ mà cây cao từ 60- 90 cm; tam diệp
hình nút chuông; hoa màu trắng hình tam giác. Trái chín có hột màu vàng. Người
ta ăn lá tươi non. Lá khô và hột được dùng như hương liệu. Cỏ cà ri có mùi ngọt
vì sự hiện diện của chất sotolon C6 H8 O3.
Tên khoa học của cỏ cà ri là Trigonella foenum- graecum
thuộc gia đình
Fabaceae của các loại đậu. (theo tiếng La Tinh Foenum- graecum là rơm
Hy Lạp).
Tên gọi thông thường:
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Việt Nam |
Cỏ cà ri (để khỏi nhầm với cây cà ri curry leaf tree
Murray koenigii, g.d: Rutaceae) |
Anh |
Fenugreek |
Ấn Độ |
Methi |
Ả Rập |
Hilbeth |
Pháp |
Fenugreek |
Nhật |
Koroha |
Trung Hoa |
Hu lu ba |
Mã Lai |
Halta |
Cỏ cà ri xuất hiện trong vùng Lưỡng Hà Châu (Mesopotamia) vào
thế kỷ VII trước Tây Lịch.
Người Ai Cập cổ dùng cỏ cà ri làm thuốc khi bị hành kinh.
Người Ai Cập cổ và người Trung Đông dùng lá cỏ cà ri phơi khô
sắc nước cho phụ nữ mới sinh con uống.
Người Trung Hoa dùng cỏ cà ri như thuốc cường thận, giảm đau, giảm
cholesterol, hạ huyết áp, giảm đường trong máu, sa ruột, cước khí, lãnh dục
(frigidity), kinh nguyệt đau đớn.
Cổ Y Ấn Độ xem cỏ cà ri như thuốc kích dục và dùng nó để trị bịnh về phổi, tiêu
hóa bất thông, suy nhược cơ thể, tê thấp.
Cỏ cà ri kháng viêm, kháng bướu, kháng trùng, lợi cho tim, thận, phổi, nhuận
tiểu, nhuận trường, hạ sốt, hạ máu đường, hạ huyết áp.
Cỏ cà ri có: polysaccharide galactomannnan, saponins như
diosgenin, yamogenin, alkaloids như choline, trigonelline.
Hột có: flavonoids, alkaloids, coumarins, saponins, sinh tố B6, Fe, Ca,
cinnamic acid C9 H8 O2, scopoletin C10 H8 O4.
Lá trường sinh (Sống đời) Kalanchoe pinnata và lá lô
hội Aloe vera
đều có công dụng trị táo bón rất tốt. Lá trường sinh chua (lá to, mọng nước, hái
vào buổi sáng) trị táo bón. Lá chát lẫn lá chua đều có tác dụng trị tiêu chảy,
kiết lỵ. Chúng tôi có dịp nói qua về lô hội và lá trường sinh nên chúng tôi
không lặp lại hai loài thảo mộc có nhiều dược tính trị liệu giống nhau nầy.
Bài viết dựa vào Thế Giới Thảo Mộc Từ Điển của tác giả Phạm Đình
Lân.
Trang Phạm Đình Lân
art2all.net |