Hy Lạp là cái nôi văn minh Âu Châu. Nước Hy Lạp cổ là
nơi đầy dẫy đền đài với sự hiện hữu của Thần linh và huyền
thoại. Khi đế quốc La Mă lan tràn sang miền đông Địa Trung
Hải, họ chịu ảnh hưởng nhiều của văn hóa Hy Lạp. Nhiều vị
Thần Hy Lạp được La Mă hóa. Thần Zeus của Hy Lạp trở thành
Thần Jupiter của La Mă. Nữ Thần Aphrodite của Hy Lạp trở
thành Thần Venus (Vệ Nữ) của La Mă. Ở Hy Lạp Thần Apollo là
Thần nghệ thuật, âm nhạc và Thần chữa trị bịnh v.v… Ở La Mă
Thần Apollo là Thái Dương Thần và là Thần chữa trị bịnh v.v…
Các Thần Hy Lạp đi vào điển tích trong văn chương, thi phú
thời Trung Cổ, thời Cổ Điển ở các quốc gia Âu Châu chịu ảnh
hưởng văn hóa La - Hy.
Tên khoa học của thảo mộc và từ ngữ y khoa trên thế giới đều là tên La Tinh
hay La Tinh - Hy Lạp. Nhiều tên Thần Hy Lạp được dùng để đặt tên thảo mộc.
Phần lớn các thảo mộc mang tên các vị Thần Hy Lạp trong huyền thoại đều có
dược tính trị liệu cao. Nhận xét này không nhất thiết luôn luôn đúng với đà
tiến triển nhanh chóng, chính xác và kiến hiệu của khoa học kỹ thuật hiện
nay trong ngành y dược liệu.
V́ khuôn khổ bài viết có giới hạn chúng tôi xin nói qua vài loại thảo mộc mang
tên các vị Thần Hy Lạp sau đây:
Cỏ
thi hay dương kỳ thảo là một loại cỏ có lá chẻ thường thấy ở những vùng khí hậu
bán nhiệt đới hay ôn đới. Loại cỏ này thuộc gia đ́nh hoa cúc Compositae.
Lá có mùi thơm; hoa có nhiều cánh nhỏ như hoa cúc. Người Anh gọi là yarrow,
soldier’s wound wort, snake’s grass, nosebleed plant.
Người Tây Ban Nha gọi là plumajillo v́ lá có h́nh lông chim.
Cỏ thi có achilletin, achilleine cầm máu rất nhanh. Ngoài ra
c̣n có beta isothujone (gây nôn, co thắt ruột), coumarin,
chamazulene, apigenin, steroidal betasistosterol.
Công dụng chính của cỏ thi là cầm máu, trị xuất huyết nội, xuất huyết tử
cung, trĩ, kinh nguyệt, kháng nấm, kháng viêm. Nó cũng được dùng để trị
suyễn, tiểu đường, hạ áp huyết v.v... Ở Trung Hoa ngày xưa người ta dùng cỏ
thi tấn trong quan tài những người giàu có để nhục thể chậm ră rục. Lá cỏ
thi có mùi thơm và có tính kháng nấm, kháng viêm. Trong huyền thoại Hy Lạp,
cỏ thi được dùng để cầm máu cho quân sĩ trong Chiến Tranh Thành Troy.
Cỏ thi mang tên khoa học của Thần Achilles trong Chiến Tranh Thành Troy sau vụ
Paris cướp người đẹp Helen, con gái của Thần Zeus và Leda và vợ của
Menelaus, vua Sparta, đem về Troy nằm trên lănh thổ Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ.
Achilles là con của Peleus và nữ Thần Thetis. Nữ Thần Thetis muốn con của bà
bất tử bằng cách nắm hai gót chân của con và d́m toàn thân đứa bé dưới sông
Styx. Toàn thân của Achilles trở nên bất hoại ngoại trừ hai nhượng gót chân
v́ không bị d́m xuống dưới nước.
Achilles là anh hùng trong Chiến Tranh Thành Troy. Nếu không có ông, quân Hy
Lạp không sao hạ nổi thành Troy để giải cứu Helen đem về Sparta. Ông giết
chết người anh hùng thành Troy là Hector để phục hận cho bạn ông là
Patroclus bị Hector giết chết. Ông cột xác Hector kéo lê khắp thành khiến
Thần Apollo giúp cho em Hector là Paris dùng tên bắn trúng nhượng gót chân
của Achilles, nhược điểm duy nhất trên thân thể làm cho Achilles chết mà
thôi. Từ đó có cụm từ nhượng gót chân Achilles (Achilles’ heel,
Tendon d’Achilles).
Loại
thảo mộc này c̣n gọi là tạo hữu có 7 hoặc 8 lá họp thành h́nh ngôi sao.
Tên khoa học là Paris polyphylla (polyphylla: nhiều lá) thuộc gia đ́nh
Liliaceae. Người Anh gọi là Herb Paris. Củ thất diệp nhất chi hoa (tạo hữu)
dùng để trị trùng Neisseria meningititis gây bịnh đau màng óc.
Steroidal saponin polyphyllin D lấy từ thân cây dùng để trị ung thư đường
tiểu. Ngoài ra thất diệp nhất chi hoa c̣n được dùng để hạ sốt, trị ho, suyễn,
rắn cắn, co giật. Hiện thất diệp nhất chi hoa được nghiên cứu trong việc chữa
trị ung thư vú.
Paris là tên một nhân vật trong huyền thoại Hy Lạp trong Chiến Tranh Thành
Troy. Paris là con của vua thành Troy, Priam và Hecuba. Bà Hecuba nằm chiêm
bao thấy sinh một cây đuốc cháy đỏ. Các nhà đoán điềm cho rằng đứa trẻ sẽ
làm sụp đổ thành Troy. Nhưng không ai nỡ giết con ḿnh nên vua Priam trao
đứa trẻ cho một người chăn cừu và cho phép anh ta toàn quyền giết đứa trẻ.
Nhưng người chăn cừu không làm như vậy. Anh ta bỏ đứa trẻ ngoài đồng gần núi
Ida. Một con gấu cái cho đứa trẻ bú sữa nên nó không chết mà c̣n chóng lớn.
Người chăn cừu bỏ đứa trẻ trong một cái gói và vác trên lưng. Tên Paris có
nghĩa là cái gói vác trên lưng. Paris lớn lên rất đẹp trai và thông
minh. Nữ Thần Oenon yêu Paris say đắm. Vị Thần này giỏi về tiên tri, nghệ
thuật và y học.
Thần Zeus chủ tŕ đám cưới giữa Peleus và Thetis (cha mẹ của Achilles) trên
núi Olympus. Tất cả các Thần và chuẩn Thần đều được mời ngoại trừ nữ Thần
Eris, Thần đa sự thường gây xung đột giữa các Thần. V́ không được mời dự
tiệc cưới, nữ Thần Eris tức giận liệng trái táo bất ḥa bằng vàng vào tiệc
cưới cho người đẹp nhất dự đám cưới trên núi Olympus. Ba nữ Thần Hera,
Athena và Aphrodite đều giành trái táo bất ḥa bằng vàng cho phần ḿnh. Thần
Zeus cử Paris đang chăn cừu ngoài đồng phán xét ba nữ Thần trên ai là người
đẹp nhất. Cả ba nữ Thần đều t́m cách mua chuộc Paris bằng những lời hứa khác
nhau. Aphrodite hứa ban cho Paris người phụ nữ đẹp nhất trần gian. Đó là
Helen, hoàng hậu thành Sparta, vợ của vua Menelaus. Paris chấm Aphrodite là
nữ Thần đẹp nhất. Về phần ông, ông phải cướp hoàng hậu Helen từ Sparta đem
về Troy. Đó là nguồn gốc Chiến Tranh Thành Troy. Anh của Paris là Hector,
anh hùng thành Troy. Hector thường chê Paris là người hèn nhát. Hector bị
Achilles giết chết và bị Achilles cột xác vào xe kéo lê khắp thành. Paris
dùng tên bắn trúng nhượng chân của Achilles để kết liễu sự sống của người
anh hùng Hy Lạp. Sau này Paris bị thương nhưng người yêu của ông là nữ Thần
Oenon từ chối không chữa để cho ông chết v́ bà oán giận Paris đă bỏ bà để
sống với Helen.
Hoa
cẩm chướng là hoa thiêng của Thần. Hoa được t́m thấy nhiều ở Tây Á và Đông Nam
Âu Châu. Hoa cẩm chướng màu đỏ hay hồng rất đẹp. Cũng có hoa màu tím. Người Anh
gọi hoa cẩm chướng là Carnation; Pháp: oeillet. Đó là hoa biểu
tượng của tiểu bang Ohio; quốc hoa của Tây Ban Nha và Liên Sô trước 1991. Người
Hoa Kỳ thường tặng hoa cẩm chướng hồng vào ngày Hiền Mẫu. Ở Triều Tiên người ta
cũng tặng hoa cẩm chướng hồng vào ngày Phụ Mẫu 08-05 và ngày Sư Phụ 15-05. Cuôc
cách mạng ở Bồ Đào Nha năm 1974 được gọi là cuộc Cách Mạng Hoa Cẩm Chướng.
Thân hoa cẩm chướng có nhiều saponins. Lá ngâm nước dùng làm xà bông.
Hoa có hương thơm dùng để cất dầu. 500kg hoa cẩm chướng chỉ cho 100 gram dầu.
Dầu dùng trong kỹ nghệ nước hoa. Hoa để cất dầu phải hái vào buổi sáng sau
khi hoa trải dưới ánh mặt trời 3 giờ đồng hồ.
Về dược tính, hoa cẩm chướng bổ tim, hạ sốt, kích thích và hưng phấn Thần kinh.
Chữ Dianthus trong tên khoa học xuất phát từ tiếng Hy Lạp Dios
và anthos. Dios chỉ Thần Zeus và anthos có nghĩa
là hoa . (Dios: Thần, thiêng liêng).
Thần Zeus là chủ tể các Thần núi Olympus và là Thần mưa và sấm sét. Cha của
Thần Zeus là Cronus và mẹ là Rhea. Cronus là người hung bạo, tham quyền. Ông
nuốt sống các con của ông là Poseidon (Hải Thần), Hades (Thần Âm Phủ),
Hestia, Demeter, Hera. V́ vậy, khi sinh ra Thần Zeus, bà Rhea phải dấu hài
nhi trong một hang núi Dicte trên đảo Crete, hiện là địa điểm du lịch quan
trọng. Khi lớn lên, Zeus lật đổ Cronus và làm cho ông phải mửa ra các người
con mà ông đă nuốt. Tất cả đều sống lại. Zeus cưới Hera, tức chị ruột của
ông. Sau đó ông cưới Metis, Mnemosyne và có vô số t́nh nhân như các nữ Thần
Europa, Io, Semele, Ganymede, Callisto, Leto. Hercules là một trong những
người con của Thần Zeus.
Thần Zeus tượng trưng cho Thần bảo vệ công lư, bảo vệ người yếu thế và trừng
phạt kẻ ác bằng tầm sét của ḿnh.
Hoa
dạ lan là một loại hoa lục b́nh. Khác với lục b́nh ở các đầm lầy hay trên sông,
hoa dạ lan có củ và được trồng trên đất như trồng hoa uất kim hương (tulips).
Hoa dạ lan h́nh chuông nhỏ, có 5 cánh màu tím, hồng hay trắng kết thành chùm rất
đẹp. Loại hoa này gốc ở Tây Á như Do Thái, Lebanon, Syria… và Đông Nam Âu Châu
như bán đảo Balkans chẳng hạn. Toàn thân hoa dạ lan và củ có nhiều alkaloids
độc. Củ ăn vào gây tử vong nhanh chóng. Nhưng người ta dùng hoa dạ lan thơm để
cất dầu. Cứ 6.000 kg hoa mới cất được 1 kg dầu. Hoa c̣n là nguồn màu nhuộm xanh
dương rất tốt.
Người Anh gọi hoa dạ lan là Dutch hyacinth (lục b́nh Ḥa Lan) v́ Ḥa
Lan có nhiều kinh nghiệm trồng hoa tulips và hoa dạ lan bằng củ trong phạm
vi rộng lớn để thương mại.
Chữ Hyacinthus trong tên khoa học của hoa dạ lan phát xuất từ tên của
Hyakinthos, một thanh niên đẹp trai với nét đẹp nữ phái trong huyền thoại Hy
Lạp. Hyakinthos là người yêu của Thần Apollo và nữ Thần tây phong Zephyr.
Đó là mối t́nh tam giác và là chuyện đồng tính luyến ái đầu tiên của nhân
loại trong huyền thoại. Apollo là Thần nghệ thuật và chữa bịnh. Thần Apollo
và nữ Thần Zephyr thường ghen nhau v́ yêu Hyakinthos. Một hôm Thần Apollo
dạy Hyakinthos liệng dĩa. Nữ Thần Zephyr ghen tức ném dĩa trúng vào đầu
Hyakinthos và làm cho người thanh niên có vẻ đẹp nữ phái này vong mạng.
Hyakinthos chết trong ṿng tay của Apollo. Máu của chàng chảy xuống đất và
nở ra hoa dạ lan.
Đây
là một loại dây; lá hao hao giống lá nho nhưng nhỏ và nhám. Hoa nhỏ có 5 cánh;
nhụy vàng. Hoa màu trắng hay đỏ trông rất xinh. Dây có củ được dân chúng ở vài
nơi ở Mễ Tây Cơ ăn. Trái là thức ăn của chim.
Mễ Tây Cơ được xem là sinh quán của dây hiếu nữ (ti-gôn). Người Anh
gọi là: coral vine, love vine, Mexican love vine, mountain rose, bribe’s
tear, chain of love v.v. Pháp gọi là liane corail, liane antigone.
Việt Nam âm thành ti-gôn tức hai âm sau cùng của chữ antigone.
Công dụng:
1. Trồng để có bóng mát và có hoa chùm rất đẹp. Ở Ấn-Độ người
ta trồng để làm mái chuồng heo, chuồng ḅ.
2. Dây hoa ti-gôn thích hợp cho đất khô hạn. Nó vừa mang lại
bóng mát, vừa giữ đất không bị xâm thực v́ mưa, gió và không bị chai cứng v́
nhiệt của mặt trời.
Chữ Antigone trong tên khoa học của hoa ti-gôn là tên của một nữ Thần trong
huyền thoại Hy-Lạp: Antigone. Antigone là con của Oedipus, vua thành Thebes,
và Jocasta. Nàng là kết quả của cuộc t́nh loạn luân v́ Jocasta là mẹ ruột
của Oedipus, một người vừa giết cha vừa loạn luân với mẹ. Antigone có hai
người anh là Eteocles và Polynices bị giết chết v́ nổi loạn chống lại vua
Creon thành Thebes. Vua ra lịnh cấm không cho ai chôn hai xác chết này.
Antigone âm thầm chôn xác anh và bị xử chôn sống v́ chống lại luật triều
đ́nh. Theo bi kịch của Sophocles viết năm 442 trước Tây lịch, Antigone lo
việc chôn cất Polynices dù trái với luật triều đ́nh. Nàng cho rằng luật pháp
là sản phẩm của con người, c̣n việc nàng chôn cất cho anh là bổn phận thiêng
liêng do luật siêu thiên minh định. V́ chống lại luật của vua Creon nàng
phải bị chôn sống. Antigone treo cổ tự tử chết trước khi bị chôn sống. Con
trai của Creon là Haemon rất yêu Antigone. Ông tự tử chết sau khi t́m thấy
xác nàng.
Quỳnh
hoa là một loại hoa thuộc gia đ́nh xương rồng Cactaceae. Đó là một loại hoa nở
về đêm và tàn ngay trong đêm hoa nở. Hoa trổ từ lá rất đẹp và có hương thơm.
Người Anh gọi quỳnh hoa là lunar flower (nguyệt hoa); Pháp: reine
de la nuit; Nhật: gekka biijn (mỹ nữ dưới trăng). Quê quán của
quỳnh hoa là Mễ Tây Cơ và các hải đảo trong biển Carribean.
Quỳnh hoa có cactine hay hordenine C10 H15 NO và
alkaloids kháng sinh và kháng trùng, trợ tim. Hoạt chất từ thân mộng
nước của quỳnh hoa nhuận tiểu, bổ tim, kích thích cột sống, hưng phấn kinh
lạc, trị chóng mặt, hồi hộp, suy sụp tinh thần v.v... Người có thai không
dùng được. Quỳnh hoa có độc chất beta cyanins và flavonol
glycosides.
Tên Selenicereus trong tên khoa học của quỳnh hoa là tên của Nguyệt Thần trong
huyền thoại Hy Lạp, Selene, v́ quỳnh hoa chỉ nở về đêm mà thôi. Nữ Thần
Selene tức Thần Luna của người La Mă c̣n được gọi là Mene có nghĩa là
moon: nguyệt, mặt trăng hay month (mois): tháng, được người Hy
Lạp cổ lễ bái mỗi tháng hai lần vào ngày 1 và ngày 15 theo lịch Attic. Theo
huyền thoại nữ Thần Selene nổi tiếng về những chuyện t́nh của bà. Bà là con
gái của Hyperion và Theia là em của Helios (mặt trời) và nữ Thần Eos. Nữ
Thần Eos cũng nổi tiếng về những chuyện t́nh riêng tư như Nguyệt Thần
Selene. Nữ Thần là t́nh nhân có con riêng với Thần Zeus. Selene yêu say đắm
người chăn trừu và thợ săn tên Eudymion mà bà gặp trong một hang núi. Bà yêu
cầu Thần Zeus làm cho Eudymion trẻ măi không già. Bà cũng là t́nh nhân của
Thần hoang dă Pan. Các nghệ nhân thường vẽ tranh nữ Thần Selene trên chiếc
xe có bốn con ngựa kéo.
Trà hoa hướng dương dùng để trị sốt rét và bịnh về phổi. Hột hướng dương nhuận
tiểu, lợi phế. Lá dùng để dấp khi bị rắn cắn.
Hoa hướng dương là quốc hoa của Peru, Nga và Ukraine. Tiểu bang Kansas của Hoa
Kỳ được mệnh danh Tiểu Bang Hoa Hướng Dương.
Chữ Helianthus trong tên khoa học của hoa hướng dương xuất phát từ tên của
Thái Dương Thần Helios trong huyền thoại Hy Lạp. Helios là con của Hyperion
và Theia là anh của hai nữ Thần Selene (Nguyệt Thần) và Eos (B́nh Minh Thần).
Trong huyền thoại La Mă, Thái Dương Thần là Sol Invictus. Người ta thường
lẫn lộn Thái Dương Thần Helios với Apollo. Tượng khổng lồ trên cảng Rhodes
cao 32 m được tạc vào năn 280 trước Tây lịch là tượng của Helios. Thần
Helios được các nghệ nhân mô tả bằng một người đẹp trai, không có râu, đầu
có hào quang, những tia sáng như ánh mặt trời. Thần thường đi chiếc Thái
Dương Xa do bốn con ngựa có cánh kéo chạy trên trời. Đến tối Thần mới trở về
phương Đông. Theo huyền thoại, một người con của Thần Helios với Klymene là
Phaethon không biết cầm cương ngựa nhưng đ̣i điều khiển Thái Dương Xa nên
gây hỏa tai dưới trái đất. Thần Zeus nổi giận dùng tầm sét đánh chết
Phaeton, thân cháy đỏ rớt xuống sông. Phaeton trở thành Thần Tinh Tú. Trong
cḥm sao Auriga hay sao Charioteer (sao Phu Xa).
Mẫu
đơn là một loại hoa to, đẹp, hữu sắc và hữu hương được người Trung Hoa yêu thích.
Trên thực tế, hoa mẫu đơn như được xem là quốc hoa của Trung Hoa v́ hầu hết nhà
nào ở Trung Hoa cũng có h́nh vẽ hoa mẫu đơn. Mẫu đơn là hoàng hậu của các loài
hoa, là linh đơn của các bà mẹ. Người Trung Hoa biết quí mẫu đơn vào thế kỷ VII
sau tây lịch, đời nhà Đường. Huyền thoại Hy Lạp đă đề cập đến mẫu đơn và dược
tính trị liệu của lọai hoa này.
Mẫu đơn có paeniflorin, asparagin, albiflorin, alkaloids, sinh tố A,
v.v... Nó được dùng để điều kinh, trị sạn thận, sạn bàng quang, rối loạn gan.
Rễ và vỏ (mẫu đơn b́) có tính kháng viêm, kháng nấm, kháng khuẩn.
V́ sao hoa mẫu đơn mang tên khoa học dựa vào tên Paeon, Thần Y trong huyền
thoại Hy Lạp?
Theo huyền thoại Hy Lạp, Paeon là đệ tử của Asclepius, một Thần y khác trong
huyền thoại Hy Lạp. Paeon chữa các vết thương của các Thần trên núi Olympus
bị thương trong các trận đánh. Thần Hades đặc trách âm phủ bị trúng tên. Ông
được Thần Zeus giới thiệu Thần Paeon chữa trị bằng dược thảo. Thần Ares bị
thương trong Chiến Tranh Thành Troy cũng được đưa về núi Olympus cho Thần
Paeon chữa khỏi bằng dược thảo. Dược thảo đó là ǵ? Có phải cây mẫu đơn
không?
Một câu chuyện khác trong huyền thoại về Thần Paeon là ông được nữ Thần Sinh
Sản Leto, mẹ của Thần Apollo, chỉ cho ông dùng rễ cây mọc trên núi Olympus
để trị bệnh hậu sản cho phụ nữ. Có phải chăng Thần Paeon khám phá ra dược
tính trị liệu của mẫu đơn? Ngày xưa phụ nữ Hy Lạp mang thai thường dùng hột
mẫu đơn.
Căn cứ vào huyền thoại của tên khoa học của mẫu đơn paeonia suffuticosa
và tên gọi thông thường của tiếng Anh là Peony đều bắt nguồn từ tên của Thần
Paeon trong huyền thoại Hy Lạp. Có thể:
1.- Thần Peaon đă khám phá ra dược tính của mẫu đơn trước tiên và dùng nó để
chữa trị cho các Thần bị thương ở núi Olympus.
2.- Theo huyền thoại, mẫu đơn là hiện thân của Thần Paeon do sáng kiến của
Thần Zeus nhằm cứu Paeon khỏi sự trừ khử của Asclepius.
Cây
lá hen
mọc hoang ở Nam Á và Đông Nam Á. Người Ấn Độ có nhiều kinh nghiệm về việc
dùng lá hen trong y học trị liệu. Họ kết hoa cây lá hen màu trắng-tím để cúng
Thần Shiva. Người Anh gọi cây lá hen là milkweed v́ cây có nhựa đục rất độc. Tất
cả loài thảo mộc thuộc gia đ́nh Apocynaceae như hoa trúc đào chẳng hạn
đều có nhựa độc. Ḅ, dê, trừu không ăn cây lá hen v́ nhựa có mùi khó chịu. Theo
kinh nghiệm y học cổ truyền Ấn Độ, cây lá hen dùng để trị suyễn, bịnh đầu voi,
phong hủi, hoàng đản, cổ trướng, các bịnh ngoài da v.v… Cây lá hen (bồng bồng)
có calotropin C29 H40 O9 gây trụy thai, cardiotonic glycosides,
calotoxin độc, uscharin. Nhựa được dùng để tẩm tên độc.
Tên khoa học của cây lá hen mang tên Asclepius, Thần Y trong huyền thoại Hy
Lạp. Cha của Thần Asclepius là Thần Apollo và mẹ là Coronis. Khi mang thai
Asclepius, Coronis bị đưa lên giàn hỏa v́ thiếu chung thủy với Apollo. Trong
khi hấp hối trên giàn hỏa, người ta phải mổ tử cung của bà để cứu bào thai
trước khi người mẹ bị hỏa thiêu. Asclepius lớn lên và được sư phụ truyền
nghề y khoa để sớm nổi danh trong ngành. Thần Asclepius là sư phụ của Thần
Paeon mà chúng ta tạm xem như Thần Y trong ngành quân y ngày nay. Ông nổi
tiếng nhờ chữa trị cho các Thần bị thương trong Chiến Tranh Thành Troy. Theo
huyền thoại, Asclepius ganh tỵ tài năng với đệ tử là Paeon và t́m cách trừ
khử vị này, nhưng Thần Zeus đă che chở cho Paon và biến ông thành cây hoa
mẫu đơn. Thần Asclepius cưới Epione và có 6 người con gái và 3 trai. Ông có
thêm một người con trai với Aristodama.
Bản lănh y thuật của Thần Asclepius rất cao. Theo huyền thoại, ông cứu người
chết sống lại dễ dàng. Ông hành nghề ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Ở những nơi ông
hành nghề vẫn c̣n đền thờ với dấu hiệu mà y học ngày nay vẫn dùng: con rắn
quấn vào chiếc gậy. Đó là dấu hiệu của ngành y khoa do Asclepius phác họa.
Asclepius làm cho người chết sống lại khiến cho nhiều người dùng vàng bạc hối
lộ ông để sống trường thọ. Điều này đi ngược lại luật Tử - Sinh. Việc hối lộ
để được chữa bịnh hầu sống trường thọ hoàn toàn trái với đạo đức và lương
tâm của người hành nghề y. Hades, Thần Âm Phủ khiếu nại với Thần Zeus v́ cơi
âm vắng bóng người chết. Thần Zeus trừng phạt Thần Asclepius bằng tầm sét
của ḿnh. Asclepius được xếp vào chùm sao Ophluchus hay Serpentarius tức xà
tinh.
Nguyệt
Bạch
màu trắng bạc, lá dài và chẻ; thân mềm. Thân và lá đều có hương thơm. Người
Anh gọi chung các loại thảo mộc ḍng Artemisia và gia đ́nh Compositae của
hoa cúc là mugwort. Người Nhật gọi là moku-byakko có nghĩa
là cây màu trắng bạc và có mùi thơm. Nguyệt bạch có borneol
C10H18O. Nguyệt bạch dùng để trị ho, kinh nguyệt, táo bón. Lá khô dùng để
cứu (moxibustion). Khoa châm cứu gồm có châm (acupuncture) và cứu (moxibustion).
Châm th́ dùng kim châm vào huyệt tương ứng với bịnh được chữa trị. Cứu là
dùng ngải cứu để trên một lát gừng đặt trên huyệt trên cơ thể người bịnh mà
đốt.
Tên khoa học Artemisia của nguyệt bạch là tên của nữ Thần Artemis, Thần săn
bắn, bảo vệ trẻ em, nữ phái và trẻ mới sinh. Nữ Thần Artemis là trinh nữ
Thần trong các nữ Thần núi Olympus. Bà là con gái của Thần Zeus và Leto. Bà
xin Thần Zeus cho bà vĩnh viễn được trinh tiết. Em song thai với bà là
Apollo. Khi ra đời bà giúp mẹ, Leto, đỡ đẻ cho em là Thần Apollo ra chào đời
trên đảo Delos, tức đảo Ortygia. Trong huyền thoại Hy Lạp, người ta dễ lẫn
lộn giữa Thái Dương Thần Helios với Apollo và Nguyệt Thần Selene với
Artemis. Nguyệt Thần Selene nổi tiếng về những cuộc t́nh riêng tư của bà.
Artemis là Trinh Nữ Thần. Người ta chỉ thấy tượng hay tranh vẽ bà mang cung
tên trên lưng với một con nai bên cạnh. Con nai và cây bách là những vật ưa
thích của nữ Thần săn bắn nơi hoang dă.
Artemis c̣n là Thần bảo vệ trẻ em và nữ phái và trẻ nít nữ phái mới sinh. Bà
có quyền quyết định sự sống chết hay gây bịnh tật, tai nạn hay cứu vớt họ.
Đối với trẻ em nam th́ có em bà, Thần Apollo.
Để bảo vệ trinh tiết của ḿnh, Thần Artemis trừng phạt nặng nề những ai xâm
phạm tiết hạnh bà. Theo sự mô tả trong huyền thoại, nữ Thần Artemis đẹp
không kém ǵ nữ Thần Aphrodite (nữ Thần Venus của La Mă). Khi đi săn bà
thường tắm trong một cái hồ ở nơi hoang vắng không người nào biết. Một hôm
có một người thợ săn tên Actaeon t́nh cờ thấy bà trần truồng trong lúc tắm
trong một cái hồ trong rừng vắng. Artemis bắt gặp người thợ săn cố t́nh ngắm
thân thể trần truồng của bà nên biến anh ta thành con nai đực. Anh ta bị
chính đàn chó săn của anh ta cắn chết và ăn thịt.
Artemis dùng tên giết Orion v́ muốn xâm phạm tiết hạnh của bà. Orion được đưa
lên trời và xếp trong cḥm sao Orion sau khi chết. Cḥm sao Thợ Săn này nằm
giữa sao Canis (sao Khuyển) và sao Taurus (sao Ngưu).
Artemis là nhị đẳng Thần ở Hy Lạp. Nữ Thần La Mă tương đương với Artemis là
Diana.
* * * *
Qua mười vị Thần trong huyền thoại Hy Lạp chúng ta thấy được phần nào sinh
hoạt rất ‘người’ của các vị Thần. Đó là huyền thọai hay là sự phản ảnh của
xă hội loài người ở miền Đông Địa Trung Hải, giao điểm tam châu Âu-Á-Phi,
vào buổi b́nh minh của lịch sử? Chỉ lướt qua mười vị Thần chúng ta thấy được
vài chuyện thông thường trong xă hội loài người ở bất cứ thời gian và không
gian nào trên Trái Đất:
– Sự đề cao tiết hạnh (Artemis)
– Sự trừng phạt nặng nề dành cho phụ nữ thiếu sự thủy chung. Coronis, người
t́nh của Apollo lên dàn hỏa khi mang thai với Apollo. Thai nhi được lấy ra
từ tử cung của Coronis trước khi bà bị hỏa thiêu. Đó là Thần Y Asclepius sau
này.
– Sự ngạo nghễ của kẻ chiến thắng (Achilles cột xác Hector kéo lê khắp thành
khiến cho mọi người đều bất nhẫn và lên án hành động trả thù thô bạo và nhỏ
mọn của Achilles).
– Sự ác độc đối với người đối lập (Eteocles và Polynices chống vua Creon bị
giết chết. Vua Creon ra lịnh cấm không cho chôn xác họ). Sự đối xử nhỏ mọn
đối với người chết làm cho dân chúng khinh bỉ, ghê tởm và xa lánh vua Creon.
Cuối cùng ông cũng bị lật đổ.
– Sắc dục (Paris, Selene, Aphrodite,…); đa thê (hầu hết các nam Thần kể cả
Thần Zeus); tham quyền (Cronus nuốt con); cốt nhục tương tàn v́ quyền hành
(Oedipus giết cha, Zeus lật đổ cha là Cronus); thiếu ḷng chung thủy (Coronis
và vài nữ Thần khác, kể cà Selene); những mối t́nh lăng mạn (Selene, Eos,
Leto,…) cảnh loạn luân (Oedipus ăn ở với mẹ ruột là Jocasta. Zeus cưới chị,
Hera, làm vợ v.v…); sự đồng tính luyến ái Apollo - Hyancinthus); mối
t́nh tam giác (Apollo-Hyancinthus-Zephyr); sự ghen tương của các nữ Thần (Oenon
ghen với Helen nên từ chối không chữa vết thương cho người yêu là Paris để
Paris phải chết. Zephyr yêu Hyancinthus say đắm và ghen với Apollo. Zephyr
liệng dĩa trúng đầu Hyancinthus và gây thiệt mạng cho người thanh niên có vẻ
đẹp nữ phái đầy quyến rũ này. Hera, chị và vợ của Thần Zeus ghen với Leto v́
vậy Leto phải sinh Apollo ngoài đảo Delos) được t́m thấy rất đậm nét chỉ qua
10 vị Thần mà thôi.
– Một qui luật măi măi đúng đáng lưu ư là quyền TỬ - SINH của Thượng Đế. Thần
Y Asclepius muốn đoạt quyền Thượng Đế bằng khả năng cải tử hoàn sinh
của ḿnh để nhận vàng nên bị Thần Zeus trừng phạt với hai trọng tội:
a. tội cạnh tranh quyền với Thượng Đế
b. tội vi phạm y đức của lương y.
– Sự can đảm của Antigone cương quyết chôn anh là Polynices vẫn biết rằng bà
sẽ bị chôn sống theo lịnh của vua Creon. Lương tâm và bổn phận vượt
qua lịnh sắt máu của hôn quân bạo chúa. Luật là sản phẩm của loài người. Nó
không có giá trị tuyệt đối, phương chi đó là luật của hôn quân bạo chúa.
– Định mạng nghiệt ngă tự căn: Antigone, Eteocles và Polynices là con của
Oedipus và Jonasta. Jonasta là mẹ của Oedipus và là vợ của ông. Ba người con
của họ đều kết thúc cuộc sống bất thường. Eteocles và Polynices chết v́ dao,
kiếm và bị cấm không được chôn. Antigone lén chôn xác Polynices và bị xử
chôn sống theo lịnh vua Creon thành Thebes. Antigone treo cổ chết trước khi
bị chôn sống.
– Thông thường những đứa trẻ chào đời không theo sự sinh nở b́nh thường đều là
những đứa trẻ xuất sắc. Mẹ của các vĩ nhân thường qua đời sau khi sinh. Thần
Y Asclepius nằm trọn trong hai nhận xét trên. Việc cải tử hoàn sinh của ông
được xem là hành vi ngạo mạn đối với Thượng Đế.
– Anh em song sinh nhưng không cùng phái và không cùng số mạng. Đó là trường
hợp Artemis và Apollo. Artemis là nữ, Apollo là nam. Artemis là Trinh Nữ
Thần; Apollo có người t́nh là Coronis. Asclepius là con của Apollo và
Coronis (bị lên giàn hỏa). Ngoài ra Apollo c̣n có các người con khác như
Troilus, Aristaeus, Orpheus nhưng ông không có hôn lễ chính thức với bất cứ
nữ Thần nào.
– Người lănh đạo như người lái xe, như Thái Dương Thần Helios với Thái Dương
Xa. Thái Dương Thần Helios trao cho con là Phaethon điều khiển Thái Dương Xa
theo sự ham muốn riêng tư của ông. Phaethon gây hỏa tai dưới địa cầu nên bị
Thần Zeus dùng tầm sét đánh chết.
Từ thế kỷ VIII trước tây lịch, thi sĩ Homer đă làm thơ và lưu lại tác phẩm
Iliad, Odyssey. Điều này chứng tỏ Hy Lạp có chữ viết để lưu lại những huyền
thoại về thời kỳ Chiến Tranh Thành Troy và hậu chiến tranh mà người ta nghĩ
có thể xảy ra vào khoảng thế kỷ XII trước tây lịch. Vào thế kỷ V trước tây
lịch Sophocles (495 - 406 trước tây lịch) đă lưu lại một số bi kịch trứ danh
như Oedipus Rex, Oedipus at Colonus, Antigone and Electra dựa vào nhân vật
huyền thoại. Huyền thoại Hy Lạp không hẳn chỉ là những chuyện huyền hoặc.
Nếu hoàn toàn huyền hoặc th́ tại sao hiện nay ở Hy Lạp và một vài nơi trên
lănh thổ Thổ Nhĩ Kỳ, đảo Crete, đảo Cyprus vẫn c̣n nhiều đền đài thờ các vị
Thần trong huyền thoại? Những địa danh trong huyền thoại như Thebes, Sparta,
Delos, Crete, Olympus… đều là những địa danh thật. Cho đến ngày nay dấu hiệu
con rắn quấn cây gậy
của thời Asclepius vẫn c̣n được giữ lại làm dấu hiệu của ngành y dược thế
giới. So với Thần Y trong huyền thoại như Asclepius, Paeon th́ ông tổ y học
hiện đại Hippocrates (460-377 trước tây lịch) quá trẻ. Những lời tuyên thệ
ngành y ngày nay vẫn dựa vào tinh thần và y đức của những lời tuyên thệ đă
có thời huyền thoại được Hyppocrates mô phỏng theo và lưu lại.
Đến đây tôi xin nhường quyền suy nghĩ lại cho độc giả.
PHẠM Đ̀NH LÂN, F.A.B.I. |