Hắn bước vội thêm. Từ triền núi nhìn xuống, lờ mờ hiện ra một mái
đền. Thạch Đạt Lang tự nhủ:
“Có lẽ đã gần đến ngã ba. Chỗ này xưa kia là bãi chiến trường, đền
này hẳn được dựng riêng thờ những linh hồn oan khuất”. Ý niệm về cái
chết lại lởn vởn trong trí. Hắn ngẩng mặt nhìn trời cao. Một đám mây
đen che kín mặt trăng, rìa đám mây viền ngân nhũ óng ánh. Thạch Đạt
Lang thở mạnh. Không biết hắn vừa thở ra hay hít vào, nhưng tiếng
thở dài như xua đi những ý tưởng hắc ám làm hắn dễ chịu hơn. Lát nữa
đây, có thể linh hồn hắn sẽ theo đám mây kia bay về cõi hư vô. Trong
vũ trụ, cái chết của một người cũng chỉ như cái chết của con bướm,
chẳng quan trọng gì, nhưng đối với nhân thế, có khi có những cái
chết ảnh hưởng sâu xa đến những người còn lại, tốt cũng như xấu. Là
kiếm sĩ, hắn sẽ đem hết khả năng để bảo toàn mạng sống, nhưng nếu
phải chết, hắn sẽ chết đĩnh đạt và xứng đáng.
Có tiếng ai gọi văng vẳng từ xa. Oa Tử hay Giang ? Không lẽ hai
người đó lại không biết hắn đang ở trong một hoàn cảnh cần phải hết
sức thận trọng và kín đáo. Hay đó chỉ là ảo giác ? Hắn hy vọng như
thế nhưng không thể không quay nhìn lại phía sau sợ có người theo
dõi.
Tiếng nước suối róc rách chảy trong khe đá. Thạch Đạt Lang chợt thấy
khát. Hắn đến bên suối, quỳ xuống, bụm tay múc uống rồi vã nước lên
mặt. Vị ngọt mát và hơi the của nước suối lạnh khiến Thạch Đạt Lang
tự biết mình vẫn tỉnh táo và bình tĩnh. Thạch Đạt Lang giận đã có
những ý nghĩ mềm yếu lẩn quẩn trong vòng tình cảm tầm thường.
Câu danh ngôn “thắng ngoại địch thì dễ, thắng bản thân mới khó”
chẳng biết đọc được ở đâu làm hắn suy nghĩ và hổ thẹn.
Thạch Đạt Lang tháo ống tre múc đầy nước. Trời sắp sáng. Nếu cứ chần
chờ mãi, e mất yếu tố thuận lợi. Trường hợp hắn bây giờ, một mình
phải đương đầu hàng bao nhiêu người với đủ loại vũ khí, thời điểm lý
tưởng là lúc trăng vừa lặn. Hắn sẽ lợi dụng điểm này, bất ngờ xông
vào như ngọn cuồng phong, chém giết càng nhiều càng tốt rồi rút ngay
trước khi trời rạng sáng.
Thạch Đạt Lang cởi áo ngoài, xếp gọn vào đẫy, siết chặt thêm bộ áo
chẽn mới may cho bó sát vào người, chỉnh lại quai dép rồi đứng dậy
hối hả cất bước.
Dưới ánh trăng lu, trên nền rừng đen sẫm, một vệt dài như dải lụa
trắng hiện ra, ngoằn ngoèo, nhiều chỗ lờ mờ dười màn sương lãng
đãng. Không thể lầm được, đó là một trong những sơn đạo đi Quan
Lĩnh. Đồi Sinh Minh tất ở dưới kia, chỉ cách chỗ Thạch Đạt Lang đứng
chừng vài chục trượng. Tuy chưa nhìn thấy gốc cây tùng già nhưng hắn
đã mường tượng tàn lá xum xuê của nó run rẩy. Gió lạnh từ trên núi
đổ xuống, kéo theo nhiều vạt sương trắng đục, quyện vào những bụi
cây ven đường như khói. Tiếng tre già kẽo kẹt. Thạch Đạt Lang đi
nhanh, thận trọng từng bước. Hắn đang ở trong khu vực của tử thần,
gây tiếng động vô ích có thể làm hỏng kế hoạch đã toan tính.
Gặp chỗ bụi gai cản lối, Thạch Đạt Lang nằm sát xuống đất trườn mình
đi như một con rắn, mười đầu ngón tay bám chắc lên những mảnh đá
trơn trượt.
Thấy bức tường đất chắn ngang, Thạch Đạt Lang khựng lại, phân vân.
Hắn lắng tai một chút không thấy gì khả nghi, bèn quyết định trèo
qua. Êm và nhanh như sóc chuyền cành, chỉ một thoáng, Thạch Đạt Lang
đã ở bên kia tường.
Thì ra đây là khuôn viên một ngôi cổ miếu hoang phế. Chỗ hắn đứng
chắc trước kia là một cái sân rộng, bây giờ bụi gai và cỏ dại mọc
đầy, khuất sau những bụi gai, ẩn hiện một cây đèn đá và căn miếu
nhỏ, cửa gỗ im lìm.
Thạch Đạt Lang không biết miếu thờ ai nhưng bỗng cảm thông với người
đã khuất.
Tiến đến gần khung cửa gỗ nhìn lên, dưới ánh sáng mờ của vầng trăng
sắp lụn, ba chữ Tử Sĩ Miếu bất giác làm hắn xúc động và bi thương vô
hạn. Chỉ trong thời gian ngắn nữa, biết đâu hắn chẳng thành người
thiên cổ, linh hồn sẽ quanh quất nơi đây nghìn năm hiu quạnh như
vong linh các tử sĩ vô danh trong miếu này. Ý nghĩ ấy làm Thạch Đạt
Lang gần gũi hơn với những người đã khuất, những người tuy không
biết danh tính mà hắn đã coi như bạn. Hắn nảy ý định muốn nhân cơ
hội này cầu xin họ phù hộ.
Thạch Đạt Lang tiến đến bên bồn đựng nước mưa bằng đá ở cạnh cửa,
bụm tay múc nước súc miệng rồi theo tục lệ, vẩy nước lên chuôi kiếm
và quai dép để tẩy trần và tỏ lòng thành kính. Đoạn giơ tay toan kéo
sợi dây chuông thỉnh các vong hồn về chứng giám trước khi cầu
nguyện.
Nhưng hắn vội dừng ngay lại.
“Ta cầu xin điều gì đây ? Cầu xin các vong hồn tử sĩ phù hộ ?”.
Thạch Đạt Lang tự hỏi và nhìn sợi dây trừng trừng. Sợi dây thừng cũ
lâu ngày đã sẫm màu vì mưa nắng đong đưa trước mặt hắn như mời gọi.
Hắn lắc đầu bối rối. Chỉ mới đêm qua, và cả sáng nay nữa, hắn đã
tuân theo số mệnh, tự nhủ luôn luôn sẵn sàng chấp nhận cái chết
trong danh dự với lòng tự tin và bình tĩnh. Thế mà lúc này hắn bắt
gặp mình đang sửa soạn cầu xin một sức mạnh thiêng liêng nào đó che
chở.
“Ta điên rồi ! Sao ta lại có những ý định mâu thuẫn như thế ? Chẳng
hóa ra công phu luyện tập của ta mấy năm nay không mang lại kết quả
gì sao ? Ta tưởng đạt được phần nào chân tướng của kiếm đạo nhưng ta
vẫn còn hy vọng hão huyền. Ảo tưởng nào đã xui ta còn vương vấn với
cuộc sống như kẻ sắp chết đuối bám vào một cánh bèo ? Oa Tử chăng ?
Chị ta chăng ? Hay những lạc thú trên đời này ?”.
Thạch Đạt Lang cau mày phẫn nộ. Hắn không ngờ đã có thái độ chủ bại
vài khắc trước cuộc chiến sinh tử và quên rằng người kiếm sĩ chỉ có
cái chết là bạn đồng hành chứ không thể có thần linh nào trợ giúp
được. Và cái chết phải là tuyệt đích của người cầm kiếm ! Thạch Đạt
Lang vã nước lạnh vào mặt như hắn đã làm trước kia ở thạch thất mỗi
khi tinh thần dao động.
Trừng trừng nhìn ba chữ Tử Sĩ Miếu, Thạch Đạt Lang đột nhiên tỉnh
ngộ. Phải rồi !
Cái chết phải là tuyệt đích của người cầm kiếm. Hắn thấy sảng khoái
vô cùng, tự tin vô cùng. Không ngờ khi ý thức được sự thất bại tinh
thần của mình, hắn đã vượt qua, chế ngự được nó.
Cuộc chiến chưa bắt đầu. Sự thử thách còn nguyên vẹn, sao hắn đã có
những tư tưởng khiếp nhược ? Thạch Đạt Lang không kéo chuông, không
cầu nguyện nữa. Nghiêm trang chắp tay cúi đầu trước cửa miếu, hắn tạ
Ơn vong linh các tử sĩ đã chỉ cho hắn con đường phải theo rồi lui
bước.
oo Ra khỏi khuôn viên ngôi miếu cổ, Thạch Đạt Lang đổ dốc như chạy.
Sỏi đá rào rạo dưới chân, hắn đi nhanh cho kịp lúc trăng lặn. Khi
nhìn thấy tán cây tùng già bên dưới, thấp hơn chừng vài trượng,
Thạch Đạt Lang bỏ đường mòn lẩn vào bụi.
Sương trên triền núi chưa tan, nhưng khu đất hoang quanh gốc cổ tùng
đã quang đãng. Từ phía sau mỏm đá nhìn xuông, Thạch Đạt Lang thấy
ngồi lẩn trong những cành cây thấp bóng một người mang súng. Hắn
thương hại cho Hoa Sơn, một kiếm phái trước đây danh tiếng nhường ấy
mà nay sa sút quá đỗi, phải dùng ám khí đối phó với một kiếm sĩ đơn
độc như hắn. Trong trận sinh tử này, môn phái Hoa Sơn chắc không nề
mất thanh danh, quyết tâm giết hắn. Và không phải chỉ có một kẻ dùng
hỏa khí, chắc còn nhiều tay cung nỏ nữa ẩn nấp đâu đó. Hắn cần phải
thận trọng đề phòng hơn nữa.
Thạch Đạt Lang thắt chặt khăn buộc tóc, cử động các ngón tay. Dưới
lớp da thuộc mềm của chiếc bao tay cũ, những ngón tay hắn co duỗi dễ
dàng, thoải mái. Hắn thử rút kiếm:
lưỡi kiếm nhẹ nhàng tuột khỏi bao, trơn tru không một tiếng động.
Gần sáng, sương lạnh buốt như kim châm nhưng trong lần áo chẽn, da
Thạch Đạt Lang nóng bỏng. Máu hai bên thái dương rần rật, hắn vận
khí cho huyết mạch điều hòa, cố kềm chế nội lực sung mãn trong mình
đang tìm cách tuôn ra ào ào như thác lũ.
“Cường bất khiển tắc nhược”, lời khuyên của Ngộ Không, vị cao tăng
tại chùa Quang Minh ngày nào văng vẳng bên tai. Thạch Đạt Lang hít
một hơi dài, giữ cho lòng thật bình tĩnh trước khi lâm trận.
Rồi như một con mãnh thú sắp vồ mồi, hắn bò chậm chạp đến bên tảng
đá lớn gần ngọn cổ tùng, thu hình trong bóng tối chờ trăng lặn.
Thạch Đạt Lang có một lợi điểm:
các địch thủ hắn đều quay lưng vào sườn núi.
Chúng chỉ nhìn ra phía ngã ba đường và mai phục ở những nơi hiểm địa
dẫn đến ngã ba, tuyệt nhiên không ngờ và cũng không tin Thạch Đạt
Lang có thể xuất hiện ngay trên đầu chúng.
Trời tối thình lình:
trăng vừa khuất sau triền núi. Những bụi cây rừng đen sẫm hơn.
Cả khu đồi Sinh Minh như tắm trong bầu không khí mờ ảo, tranh sáng
tranh tối; nếu không dự bị trước, mắt người khó điều tiết để kịp ứng
phó.
Nhanh như cắt, Thạch Đạt Lang nhảy xuống, rút kiếm. Sỏi đá đổ rào
rào cùng với tiếng thét xé toang màn đêm tịch mịch.
- Nó đấy !
- Đâu ?
- Phía sau ...
Đệ tử Hoa Sơn cầm hỏa khí ngồi trên cây vừa kịp quay lại thì cánh
tay trái Thạch Đạt Lang đã vung lên theo hình vòng cung. Liền sau đó
nghe một tiếng rú đau đớn. Lửa nháng trong đêm tối, mùi thuốc súng
khét lẹt. Thân người đổ xuống kéo theo những cành thông gẫy răng
rắc.
Hòn đá do Thạch Đạt Lang ném ra nhanh và chính xác đến độ không ai
tưởng hắn còn cách xa gốc cây đến chục bộ mà đã giết được một người.
Sự hỗn loạn sau đó thật cùng cực. Đồ chúng Hoa Sơn từ trong các chỗ
nấp xông ra kêu ơi ới. Gươm, giáo, đao, côn, móc, chùy ...đủ loại vũ
khí tua tủa như lông nhím.
Trong màn đem đen như mực loãng, những bóng người chạy ngang dọc va
chạm vào nhau, gọi tên Thạch Đạt Lang chửi bới om sòm và hô hoán chớ
để hắn thoát. Nhưng không ai biết Thạch Đạt Lang đứng đâu và tại sao
hắn lại có mặt ở ngay bên gốc thông mà không qua ba đường sơn đạo.
Giữa cảnh hỗn loạn, bỗng nghe tiếng sang sảng:
- Ta là Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto ...
Mọi người khựng lại, quay nhìn về phía tiếng nói:
- Ta đến theo lời giao ước tại xóm Liễu. Truyền nhân Hoa Sơn, hãy
cẩn thận ! Ta đi một mình, các ngươi muốn giao đấu từng người hay cả
phái, ta bất chấp ...
Đồ chúng Hoa Sơn ngạc nhiên, không ngờ Thạch Đạt Lang liều lĩnh đến
thế. Lời thách thức của hắn quả nhiên hợp cách. Nhưng sự ngạc nhiên
của họ không lâu. Thạch Đạt Lang vừa dứt lời, hai mũi tên đã bay vụt
về phía hắn. Kiếm vung lên. Những mũi tên bị gãy đôi, bắn tung rớt
xuống đất.
Tiếng thét xung trận của môn đệ Hoa Sơn vang lên như sấm động. Tuệ
Tâm run cầm cập chạy đến nép sát vào gốc thông già, vạt áo trắng lộ
ra trong đêm tối.
- Thân phụ ! Thân phụ !
Tiếng kêu sợ hãi của cậu bé khiến Hoa Sơn Cảnh Môn hoảng hốt. Ông
sực nghĩ ra chỗ sơ hở của mình, chạy đến bên con nhưng không kịp
nữa. Bóng Thạch Đạt Lang đã sà đến trước. Ánh thép lóe lên chém vẹt
lớp vỏ thông cùng với thủ cấp của tân chưởng môn Hoa Sơn lăn lông
lốc trên mặt đất.
Cảnh Môn tái mặt, rống lên như chính ông vừa bị thương, tiếng kêu
đau đớn xé ruột. Ông phóng kiếm vào ngực Thạch Đạt Lang:
- Súc sinh ! Mày nỡ tàn nhẫn ...
Lời Cảnh Môn chưa dứt, đường kiếm Thạch Đạt Lang thuận chiều đã hớt
ngược lên, tiện đứt luôn cánh tay phải và nửa mặt của ông. Cảnh Môn
phục xuống, máu phun như tưới vào áo Thạch Đạt Lang. Đồ chúng Hoa
Sơn la hét vang rền, vừa kinh hãi vừa phẫn nộ, nhất tề xông vào,
giáo đâm, đao chém, côn phạt không còn kể gì chiêu thức và lề lối võ
lâm nữa.
Nhìn cuộc giao tranh mới thấy Thạch Đạt Lang ghê gớm. Bị bao vây,
hắn không tỏ vẻ gì luống cuống, trái lại như hổ dữ giữa đàn dê, một
mình một kiếm tung hoành, ánh thép của hắn loang loáng vung đến đâu
xác người ngã đến đó, đầu giáo, đầu côn bị tiện đứt rơi lả tả.
- Cung thủ đâu ! Bắn đi ! Bắn đi !
- Đừng bắn. Gần quá, trúng anh em mất !
Một đồ tử Hoa Sơn lẩn ra phía sau Thạch Đạt Lang, dùng trường thương
đâm vào lưng hắn. Nghe tiếng vù, mũi thương chưa tới đích, Thạch Đạt
Lang đã nghiêng mình tránh kịp, bắt cây thương kéo giật về phía
trước. Người cầm thương ngã chúi vào một đệ tử khác. Thuận tay,
Thạch Đạt Lang thét một tiếng lớn chém luôn cả hai, kẻ từ bả vai xẻ
đến rốn, kẻ mất luôn cánh tay cầm thương, ngã chồng lên nhau giẫy
đành đạch. Số còn lại kinh hoảng, đánh dứ vài chiêu rồi nới lỏng
vòng vây, kêu gọi đồng bọn dưới chân núi lên tiếp sức.
Gốc cổ tùng ở đó đã lâu ngày, có đến vài thế kỷ. Vỏ thông xù xì,
cành thông rậm rạp đã chứng kiến nhiều cuộc giao tranh ghê rợn, kể
cả lần triệt thoái đẫm máu của đoàn quân tướng Đông Điền Dã Hạc từ
cổ thành Kyoto lên phương bắc và những trận hạ sơn của phái tăng lữ
Hồ Phong làm áp lực với hoàng gia; nhưng chưa bao giờ thấy một cuộc
tranh sống quyết liệt và dã man như lần này. Không biết có phải mùi
máu tanh và xương thịt của người chết đã đổ ra thấm xuống gốc tùng
làm cho nó xanh tốt hay không mà nó run lên như được ngửi mùi quen
thuộc. Cành cổ tùng xao động rì rào, đổ lên xác kẻ chết và vai người
sống những giọt sương mai lạnh buốt.
Thạch Đạt Lang dựa lưng vào gốc tùng. Dưới chân hắn, xác người, cánh
tay, mảnh sọ còn dính tóc cùng với những đoạn binh khí gãy lẫn lộn.
Áo quần hắn loang lổ những máu, mồ hôi trộn với máu làm ngón tay hắn
nhớp nháp.
Thân cây tùng già to đến ba bốn người ôm không xuể là một lá mộc tốt
chắn cho hắn phía sau lưng nhưng không phải là chỗ thủ thế lâu dài.
Địch thủ có cung tên. Một kẻ dùng hỏa khí đã bị diệt, nhưng biết đâu
không còn những tên khác nữa.
Thạch Đạt Lang thấy phương cách hiệu quả hơn hết vẫn là lối đánh xáp
lá cà, tìm chỗ nhược của địch tấn công vào, rồi khi vòng vây bị phá
vỡ sẽ do lối ấy mà thoát. Sức người có hạn, hắn không thể cứ đơn độc
cầm cự với chiến thuật xa luân cho đến khi trời sáng.
Tiếng người ồn ào càng lúc càng gần. Đồ chúng Hoa Sơn dưới chân núi
leo lên mỗi lúc một đông, ánh đuốc lập lòe sau những bụi cây thưa
lá.
Thạch Đạt Lang giữ vững tay kiếm, mắt như mắt vọ, bao quát khắp vùng
đồi trước mặt. Không một ý đồ nào của địch thủ qua được mắt hắn,
nhưng trong óc, hắn đương lượng giá sự cường nhược của các địch thủ
ở gần.
- Gốc cổ tùng ! Gốc cổ tùng ! Nó đứng đó.
Một tiếng nổ chát chúa. Ánh lửa lóe ra trong đêm tối, tiếp theo là
vật gì đụng mạnh vào thân cây kêu đánh “phụp”. Viên đạn hỏa mai ghim
vào vỏ cây chỉ cách đầu hắn chừng hơn tấc.
Tóc dựng đứng, thét lên một tiếng ghê rợn, Thạch Đạt Lang như ngọn
cuồng phong nhảy đến sát bên một đệ tử Hoa Sơn gần nhất. Gã kinh
hoảng, giật lùi né tránh nhưng chậm quá. Lưỡi gươm Thạch Đạt Lang đã
đâm suốt qua bụng gã. Rút gươm ra, Thạch Đạt Lang phóng chạy. Tiếng
la hét đuổi theo:
- Anh em ! Chớ để nó thoát ! Nó bị thương rồi ! Nó bị thương rồi !
Thực ra Thạch Đạt Lang chưa bị vết thương nào trầm trọng, nhưng dưới
ánh sáng vừng đông vừa rạng, trông hắn ghê gớm quá. Máu bê bết khắp
mình. Mặt hắn chỗ đỏ chỗ đen nhem nhuốc, chiếc khăn bịt đầu không
còn màu vàng nguyên thủy mà đỏ sẫm.
Hắn chạy theo hình chữ chi để tránh đạn và tên, đồ chúng Hoa Sơn
tưởng hắn trúng thương, say máu không giữ nổi thăng bằng nữa. Đến
ngã ba, gặp toán phục kích đổ lên, toán sau ập tới, như một con thú
nguy hiểm bị dồn vào góc rừng, Thạch Đạt Lang gầm lên. Bản năng tự
vệ nổi dậy, mắt rực đỏ màu hổ phách, hắn vung kiếm đâm hữu phạt tả,
đem hết khả năng bảo toàn sinh mạng.
Thạch Đạt Lang sử dụng kiếm khác hẳn với các kiếm sĩ đương thời.
Phần lớn trong kiếm thuật bấy giờ, nếu lưỡi kiếm chém hụt, tất cả uy
lực của chiêu kiếm bị mất vào quãng không và người dùng kiếm phải
rút kiếm về, bắt đầu một chiêu khác. Dù nhanh đến đâu đi nữa, sự rút
kiếm về như vậy cũng mất thời gian và cả uy lực của chiêu kiếm trước
coi như mất hết. Thạch Đạt Lang trái lại đã không rút kiếm về. Hắn
tiếp tục sử dụng uy lực của chiêu nọ tiếp chiêu kia, liên tu bất tận
dù cả khi kiếm trúng đích. Lẽ dĩ nhiên dụng kiếm như thế phải có
công lực hết sức dồi dào, lưỡi kiếm sắc bén, chặt xương như gọt
khoai vậy. Cho nên trong trận giao tranh hiện nay, đường kiếm của
Thạch Đạt Lang như hai vệt sáng đan nhau, hay nói khác đi như hai lá
thông nối đầu với nhau vậy. Cách biến chiêu của hắn cũng thần tốc và
dũng mãnh lạ kỳ, hắn đã tự phát minh và khai triển khi ở trong rừng
nhìn những lá thông cuồn cuộn trong một trận cuồng phong, đâm vào
đầu và mặt hắn.
Lối sử kiếm này chẳng theo chiêu thức nào nhất định, không thuộc
trường phái nào nên không ai biết và dĩ nhiên chẳng được coi là
chính thống. Nhưng chính thống hay không, Thạch Đạt Lang không cần,
miễn nó nhanh và hữu hiệu. Quả vậy, trong trường hợp một mình phải
chống với số đông, lối sử kiếm của Thạch Đạt Lang thật vô địch.
Đồ chúng Hoa Sơn kể cả những cao thủ của môn phái, không rõ điều đó,
cứ lăn xả vào và trở thành mồi ngon cho lưỡi gươm của Thạch Đạt
Lang.
Thấy địch thủ quá dũng mãnh, Ưng Đằng, một trong bảy cột trụ còn lại
của Hoa Sơn phái, thận trọng hơn, huy động đệ tử dàn thành thế trận.
Ông đã có chủ ý:
vô hiệu hóa những đường gươm tàn độc của Thạch Đạt Lang bằng cách
dùng trường thương giữ cho hắn ở xa. Dưới ánh sáng của vầng đông
càng lúc càng rạng, hắn sẽ trở thành cái bia dễ dàng cho súng hỏa
mai và cung nỏ.
Không rõ Thạch Đạt Lang có biết ý ấy không, nhưng hắn đã không rơi
vào bẫy.
Đường gươm dũng mãnh của Thạch Đạt Lang rít lên vù vù, tiện đứt đầu
các cây thương ở gần, gọn gàng như chém chuối.
Không đầy chớp mắt, hắn đã phạt ngang hạ bàn một đệ tử Hoa Sơn rồi
hươi ngược kiếm chém vào ngực Ưng Đằng. Ưng Đằng kịp thời ngửa mình
ra sau tránh khỏi, nhưng cũng bị rách áo. Ông phóng chiêu phản kích
liền, nhằm vào bụng Thạch Đạt Lang hy vọng hắn sẽ phải thu kiếm về.
Không ngờ Thạch Đạt Lang khi chiến đấu, cực kỳ liều lĩnh và vì hắn
không học trường phái nào nên chỉ tùy cơ ứng phó. Khi mũi gươm đến
gần, Thạch Đạt Lang thót bụng nghiêng mình né tránh rồi xoay người
đưa ngược lưỡi kiếm của hắn vào gáy Ưng Đằng. Biến chiêu hết sức mau
lẹ và chính xác:
lưỡi kiếm xuyên qua gáy lão cao thủ Hoa Sơn, lòi ra đằng trước đến
một tấc. Ưng Đằng không thốt được lời nào, ngã sấp. Thạch Đạt Lang
rút kiếm ra, máu tuôn có vòi.
Sự kinh hoàng gần như làm tê liệt những đệ tử còn lại. Nhân cơ hội,
Thạch Đạt Lang xông vào chém giết không tiếc tay, mở đường máu nhằm
thoát khỏi vòng vây. Xác đồ chúng Hoa Sơn chết nằm la liệt trên đồi
cỏ, máu loang thành vũng. Bóng Thạch Đạt Lang vùn vụt chạy xuống dốc
khi ẩn khi hiện, nhấp nhô sau những hòn quái thạch hai bên sơn đạo.
Đao, thương phóng theo, tiếng reo hò dậy đất lẫn với những tiếng kêu
rên của kẻ sắp chết gây thành cảnh tàn bạo, hỗn độn và bi thương vô
tả.
- Thạch Đạt Lang ! Đồ súc sinh hèn nhát !
- Thằng du đãng khốn kiếp kia ! Hãy quay trở lại ! Chúng ta không để
mày trốn thoát.
Mặc ! Thạch Đạt Lang cứ chạy. Dường như hắn không lưu ý gì đến những
lời nguyền rủa, chỉ mong ra khỏi chỗ nguy hiểm này. Cuộc chiến càng
kéo dài càng bất lợi cho hắn.
Về phương đông, trời đã sáng hẳn. Tay hắn nhớp nháp những máu tanh
nồng, hắn vừa chạy vừa đổi tay kiếm, lau vào vạt áo ngoài trên đó
máu với óc nhuộm loang lổ từng mảng cứng như da trâu và đỏ sẫm.
Thình lình, một toán đệ tử Hoa Sơn có đến hai chục người mặt mũi
nhem nhuốc dưới lớp bùn hóa trang, từ chỗ mai phục nhô lên, hò hét.
Thạch Đạt Lang đã thấm mệt.
Hắn muốn tránh đám đông giận dữ ấy nhưng không lối thoát. Bên phải
là vực sâu, bên trái là vách đá trơ trọi, đằng sau địch quân đuổi
gần tới. Những tiếng la “Giết ! Giết !”, tiếng chân rậm rịch dội vào
vách đá vang động đồi núi.
Bị dồn vào tuyệt lộ, Thạch Đạt Lang nhất quyết bán đắt sinh mạng.
Thần chết là kẻ đồng hành với người kiếm sĩ. Câu ấy đối với hắn
không lúc nào có nghĩa hơn lúc này.
Hắn nhảy đến ẩn vào bóng tối một tảng đá lớn.
Khi đồ chúng Hoa Sơn từ trên sườn đồi đổ xuống tiếp sức được với
toán ở chân núi chạy lên thì không còn thấy Thạch Đạt Lang đâu nữa.
- Không lý gì thằng súc sinh ấy biến mất. Nó chỉ trốn đâu đây thôi !
Anh em hãy lục tìm cho kỹ.
- Bèn chia nhau thành từng bọn dùng giáo và chĩa ba đâm vào các bụi
rậm.
- Thạch Đạt Lang ! Mày ở đâu ? Đồ hèn nhát ! Chuột nhắt !
Vù một cái, một bóng người từ sau tảng đá nhảy ra, như chớp xẹt,
lưỡi gươm chém bay đầu một tên cầm giáo.
Cả bọn thất kinh, không thể tưởng tượng Thạch Đạt Lang lại có thể
xuất thủ nhanh như thế. Nhưng độc đạo chật hẹp, vực sâu hiểm trở,
Thạch Đạt Lang khó thi triển kiếm pháp mà địch thủ của hắn cũng khó
lợi dụng số đông áp đảo hắn được.
Như cá lội ngược dòng nước, Thạch Đạt Lang tiến một cách khó khăn.
Đường kiếm hắn bây giờ thu nhiều hơn công. Phóng xong một chiêu,
trúng hay không hắn cũng lui về thế thủ. Có những đồ tử Hoa Sơn hoặc
sơ hở hoặc vụng về để mất thăng bằng, có thể là mồi ngon của Thạch
Đạt Lang mà hắn cũng không giết. Phần lớn địch thủ của Thạch Đạt
Lang sử dụng trường thương, ước lượng tầm chính xác của mũi gươm thì
dễ chứ mũi thương thì khó. Hắn không dám khinh địch.
Thạch Đạt Lang lùi dần, không biết vì chủ ý hay vì mệt mỏi. Hơi thở
hắn nhanh, sắc mặt hơi tái. Những đường gươm của hắn cũng không còn
uy mãnh như trước.
Đồ chúng Hoa Sơn gia tăng áp lực. Càng lúc số người bao vây Thạch
Đạt Lang càng đông, nhưng không ai dám đến gần. Họ mong hắn vấp rễ
cây hay tảng đá ngã ra là xông lại.
Dưới chân đồi có tiếng ngựa hí, lừa kêu he he. Dân chúng đã bắt đầu
một ngày sinh hoạt mới, thồ vật dụng và nông phẩm từ các làng lân
cận đến Cổ Thành đổi bán.
Họ tụ tập đằng xa, thấy đánh nhau, nghểnh mặt nhìn lên vừa kinh hãi
vừa tò mò bàn tán.
Chỉ trong mấy khắc giao tranh, hình dáng bề ngoài của Thạch Đạt Lang
đã biến đổi. Khăn buộc đầu và tóc hắn bê bết máu, mồ hôi. Quần áo
loang lổ bùn đất, máu từng mảng khô đen đóng cứng. Lông mày dựng
ngược, mắt đỏ như than hồng, trông chẳng khác gì một con quỷ dữ vừa
từ địa ngục trồi lên. Hắn thở hổn hển, thân áo phía trước rách toang
để lộ bộ ngực trần phập phồng như thổi bễ.
Trong cơn nguy cấp, Thạch Đạt Lang rút đoản kiếm. Đoản kiếm trong
tay trái ngang tầm mắt, trường kiếm trong tay phải chênh chếch dưới
bụng. Hắn dùng đoản kiếm phóng ra những hư chiêu để đối phương bối
rối rồi dùng trường kiếm đâm tới hoặc phạt ngang. Kết quả không mấy
khi không đạt được:
địch thủ thường bị tiện đứt đùi hay bị đâm thủng bụng. Kỹ thuật phối
hợp song kiếm này Thạch Đạt Lang về sau có hoàn chỉnh và chú thích
rất cặn kẽ trong cuốn Ngũ Đại Kỳ Thư, “cách dùng song kiếm chống số
đông khi bị bao vây”, nhưng bây giờ hắn chỉ áp dụng nó vì bản năng
tự vệ.
Theo những tiêu chuẩn về kiếm thuật, Thạch Đạt Lang không phải là
tay sành kiếm học. Trường phái, truyền thống, hay lý thuyết gì gì
...hắn cũng mặc kệ. Trong cuộc giao tranh mà sinh mệnh như ngàn cân
treo sợi tóc này, hắn phải chiến đấu một cách thực tiễn. Thắng đã,
rồi lý thuyết sau !
Từ dưới chân đồi vẳng lên nhiều tiếng la ó, những câu khích lệ và
những lời giục hắn chạy trốn.
- Chạy đi ! Chạy đi ! Chạy không trễ mất ! Trễ là toi mạng.
- Tên kia ! Chiến đấu đơn độc như thế có lợi ích gì ? Chết vô ích !
Những lời ấy theo gió thoảng đưa lên, nhưng Thạch Đạt Lang dường như
không nghe thấy. Núi có đổ, trời có sập cũng thế thôi, hắn chẳng
quan tâm. Điều hắn quan tâm là một bãi lau hắn vừa thấy ở cách chỗ
hắn đứng chừng hơn trượng.
Bãi lau cao hơn đầu người nhiều, trải dài đến tận khe núi bên một
khu rừng già, có thể dùng làm đường rút an toàn được. Thạch Đạt Lang
múa tít song kiếm. Đồ chúng Hoa Sơn e dè, nới giãn vòng vây. Hắn
nhảy lui, tiến tới, giương đông kích tây, cốt làm cho địch nghi ngờ
không rõ chủ ý của hắn. Đến gần bãi lau, đột nhiên Thạch Đạt Lang
nhảy xuống triền núi nhanh như một con lợn rừng tháo chạy.
Ba bốn đệ tử Hoa Sơn đuổi theo, phóng thương vùn vụt. Thạch Đạt Lang
vẫn chạy như bay, chẳng mấy chốc đã lẩn vào bãi lau mất dạng.
Đồ chúng Hoa Sơn đứng trên sơn đạo hô hoán chửi rủa rầm trời.
- Nó còn ở đó ! Anh em, bao vây nó !
- Không ! Nó chạy rồi ! Kia kìa !
Mọi người chỉ trỏ một bóng đen xa xa đang rảo bước bên hàng cây.
Không ai biết chắc có phải đấy là Thạch Đạt Lang không và cũng không
ai dám nhảy xuống khu rừng lau lục soát để tìm hắn cả.
Trời đã sáng rõ. Một buổi sáng đẹp trời cũng như những buổi sáng
khác.
Hồi 48
Món Lễ Vật
Từ hơn trăm năm
nay, khu rừng Sinh Minh vẫn là nơi ẩn náu của giáo phái Hồ Phong.
Tuy mang danh giáo phái nhưng các tăng sĩ trụ trì, ngoài Phật sự ra,
còn có nhiều hoạt động thế tục. Vào hậu bán thế kỷ thứ mười sáu,
phái này đã huy động một số lớn tăng sĩ và dân quê xuống núi làm áp
lực với hoàng gia đòi quyền lợi về chính trị.
Trấn thủ đương nhiệm Kyoto thời bấy giờ, tướng Ô Đà Thạch Trung Giả,
nhận lệnh hoàng cung, đã phản ứng mạnh mẽ và trong một đêm kinh
hoàng, ba ngàn đền miếu của giáo phái Hồ Phong bị thiêu rụi gần hết.
Biến cố xảy ra đã bốn thập niên. Ngày nay những ngôi đền của phái Hồ
Phong chưa hoàn toàn đổ nát đã được sửa chữa, nhưng kỷ niệm đêm ấy
vẫn còn ghi một ấn tượng kinh hoàng trong trí những nhà sư sống sót.
Tăng sĩ Hồ Phong bây giờ không còn hoạt động chính trị nữa, tuy
nhiên họ vẫn mang nặng mặc cảm bị đàn áp và tự nhiên sinh lòng
thương xót những kẻ cô thế.
Trong khu rừng Sinh Minh, trên một ngọn đồi về phía nam có căn chòi
gỗ mệnh danh là Khổ Độ Am, nơi tăng nhân Hồ Phong dành cho khách lỡ
độ đường tạm trú. Am nhỏ nhưng đủ tiện nghi, trông ra cảnh trí u
tịch. Vào những hôm trời u ám, quanh am mây thấp phủ đầy, nhưng
trong am vẫn ấm áp vì củi đốt chẳng thiếu và cửa ngõ kín đáo.
Am thường bỏ không. Sáng chiều, cảnh thanh vắng chỉ bị ngắt quãng
bởi tiếng chim lảnh lót hay tiếng gió rì rào trong lá trúc.
Nhưng hôm nay sao lại có tiếng niệm Phật văng vẳng đưa ra. Tiếng
niệm trầm, giọng đàn ông đọc kinh Liên Hoa, trước nhỏ sau to rồi lại
nhỏ dần, dường như người niệm đang trong cơn mê giật mình sực tỉnh.
Mãi đến khi một chú tiểu bước vào, tiếng niệm kinh mới dứt.
Chú tiểu bưng cái khay trên để liễn cơm, đĩa rau cùng bát đũa. Khay
cơm đạm bạc thường thấy dọn ra hàng ngày vào chính ngọ. Chú để cơm
trên bàn, đánh tiếng:
- A di đà Phật !
Người đàn ông dường như không để ý. Hắn ngồi trước quyển kinh trên
một cái bồ đoàn trải lên sàn gỗ mộc đen bóng, quay mặt vào tường như
một nhà tu đang nhập định.
Tấm áo rộng màu tro nhạt khoác trên mình, trông tưởng là tăng nhân,
nhưng hắn không có cái vẻ khắc khổ của kẻ tu hành. Trái lại, với vóc
dáng cao lớn, tóc buộc gọn trên đỉnh đầu, hắn có phong thái của một
giang hồ kiếm sĩ. Không thấy người đàn ông trả lời, chú tiểu nói
thêm:
- A di đà Phật ! Mời thí chủ dùng cơm.
Thạch Đạt Lang, người đó chính là Thạch Đạt Lang, quay ra mỉm cười,
hàm răng trắng bóng dưới làn da nâu sạm nắng:
- Cám ơn chú. Đã đến giờ ngọ rồi đấy !
- Thí chủ dùng cơm ngay chứ ?
- Phải, chú để đấy cho ta.
Trong khi Thạch Đạt Lang ăn cơm, chú tiểu nhìn quanh quẩn. Thấy gần
chỗ Thạch Đạt Lang ngồi có nhiều vỏ gỗ bạch đàn vương vãi, chú hỏi:
- Thí chủ tạc tượng phải không ? Tượng gì thế ?
- Tượng Phật.
- Đức Phật Di Đà ?
- Kiếm. Ta muốn tạc tượng đức Phật Bà Quan Âm nhưng không kinh
nghiệm nên chẳng biết bắt đầu ra sao. Còn vụng lắm. Chưa ra hình thù
gì đã đứt tay rồi.
Nói đoạn, chìa tay ra cho chú tiểu xem.
Nhưng chú tiểu không nhìn chỗ tay đứt mà lại để ý đến cánh tay buộc
vải của hắn.
- Vết thương thí chủ ra sao ?
- Đã đỡ nhiều. Chắc mai tháo vải ra được. Nhân thể nhờ chú trính với
các vị thủ tòa ta thành thật đa tạ lòng bao dung của các vị.
- Thí chủ cứ ở đây tĩnh dưỡng cho đến khi khỏi hẳn. Nếu thí chủ muốn
tạc tượng đức Quán Thế Âm thì phải lên chính điện xem pho tượng ngài
ở đó mới được. Đẹp lắm !
Hay để tiểu tăng dẫn thí chủ đi. Cũng gần đây thôi, chỉ cách chỗ này
khoảng chừng vài chục trượng.
Thạch Đạt Lang rất mừng, ăn vội bữa cơm, chờ dọn dẹp xong rồi theo
chân chú tiểu ra ngoài.
Đã mười ngày nay, Thạch Đạt Lang tá túc ở Khổ Độ Am không bước chân
ra cửa, phần vì muốn giữ kín tung tích, phần muốn tĩnh dưỡng cho
bình phụ hẳn. Vết thương ở tay không lấy gì làm nặng nhưng hắn bị
một vết giáo đâm vào đùi khá sâu. Trong lúc say máu, Thạch Đạt Lang
không biết, mãi khi tới chùa mới rõ.
Nhờ lòng trắc ẩn và bao dung của các tăng lữ Hồ Phong, hắn được săn
sóc chu đáo và cho trú ngụ tại am này. Tuy vết thương ở tay và đùi
đã lên da non, nhưng Thạch Đạt Lang đi đứng vẫn còn ngượng. Hắn phải
lấy bao kiếm dùng làm gậy chống tạm.
Không khí trong lành, gió núi nhẹ mơn man. Ngoài vết thương ở chân
còn hơi nhức, Thạch Đạt Lang thấy trong mình khỏe khoắn và trận
chiến trên đồi Sinh Minh đối với hắn bây giờ chỉ còn là cơn ác mộng.
- Thí chủ học võ phải không ?
- Phải.
- Nếu học võ thì tạc tượng đức Quán Thế Âm làm gì ?
Thạch Đạt Lang lặng thinh.Bồ tát Quán Thế Âm theo sự hiểu biết của
hắn là hiện thân của lòng từ bi, trắc ẩn. Nhân dịp được nhàn rỗi,
hắn muốn tạc tượng ngài dâng lên Tam Bảo để tỏ lòng biết ơn và cầu
siêu cho các vong hồn đã vì hắn mà oan khuất.
Nhưng không tiện trả lời chú tiểu, Thạch Đạt Lang chỉ giữ yên lặng.
- Sao thí chủ không để thì giờ luyện tập võ nghệ ?
Câu hỏi làm Thạch Đạt Lang đau nhói. Tuổi chú tiểu có lẽ cũng bằng
tuổi Hoa Sơn Tuệ Tâm, vóc dáng cũng tương tự. Trong cái ngày hôm ấy,
bao nhiêu người đã bị thương tật hoặc chết dưới đường gươm của hắn,
hắn không biết. Hắn cũng chẳng nhớ đã làm cách nào thoát khỏi vòng
vây và sự may mắn kỳ lạ nào đã giúp hắn tránh hết được những lằn
tên, đạn. Nhưng có hai điều đã ghi sâu vào tiềm thức Thạch Đạt Lang
và cứ lẵng nhẵng theo hắn ngay cả trong giấc ngủ:
ấy là tiếng thét kinh hoàng của Hoa Sơn Tuệ Tâm và cái xác không đầu
của cậu bé lăn trên nền cỏ bên gốc thông già dưới chân hắn.
Đã mấy lần Thạch Đạt Lang giở sổ tay, xem lại những điều đã ghi chép
từ trước.
Bắt gặp câu:
“không làm gì để rồi phải hối tiếc”, lòng Thạch Đạt Lang se lại.
Trong bầu không khí thanh tịnh, an bình của căn am nhỏ, hắn quả đã
hối tiếc, và cái chết đau thương của Tuệ Tâm, nếu cho đó là điều cần
thiết phải làm trên con đường hắn đã chọn, thì con đường ấy sao mà
man rợ và bi thảm !
Thạch Đạt Lang quay hỏi chú tiểu đi bên:
- Này chú, phải chăng chư tăng thuộc quý phái như Vô Trụ và Nhất
Quán đại sư đều có vẽ tranh hoặc tạc tượng các vị bồ tát đặt ở chùa
?
- Tiểu tăng không rõ, nhưng nghe nói các vị đã góp rất nhiều vào
việc tô tượng và vẽ hình bồ tát. Tiểu tăng nghĩ nếu ta vẽ tranh, đúc
tượng Phật càng nhiều bao nhiêu thì càng gần niết bàn bấy nhiêu.
Thạch Đạt Lang mỉm cười:
- Nói thế cũng được. Vẽ hình Phật là cốt để noi theo hầu đạt được
tâm cảnh Phật.
Niết bàn chính là tâm cảnh của Phật. Ta học võ công cũng thế, giữ
tâm cho ngay đừng mê vọng. Những lời dạy trong kinh sách chỉ ta niết
bàn chẳng khác nào ngón tay chỉ mặt trăng. Lời dạy thì nhiều, bảo
chúng ta cùng hướng về mặt trăng, chúng ta chớ lầm mặt trăng với
hướng tay chỉ.
Thạch Đạt Lang bỗng ngừng lại, thấy mình nói những câu chẳng ra đầu
đuôi gì, liếc nhìn chú tiểu đánh trống lảng:
- Cái bia bên hàng cây kia là bia gì đó chú ?
- À, đấy là bia ghi lời tiên tri của một thiền sư đời trước. Thí chủ
muốn coi cứ tự tiện.
Đến gần, Thạch Đạt Lang tò mò đọc:
Giới luật nhiệm mầu Như dòng nước cạn Gió hồ lạnh căm Vẫn theo pháp
nạn Đọc xong, Thạch Đạt Lang ngạc nhiên. Lời tiên tri thật ứng
nghiệm. Sau cái đêm pháp nạn ba nghìn đền miếu ra tro ấy, giáo phái
Hồ Phong vẫn còn có kẻ u mê. Một số tăng lữ tiếc nhớ uy quyền cũ
thoát ly ra lập chùa riêng, lợi dụng chúng sinh vào những mục đích
riêng tư. Thay vì phổ độ họ, những người này đã ngụp lặn trong biển
mê vọng và kéo chúng sinh cùng chìm đắm trong biển ấy. Thạch Đạt
Lang định hỏi chú tiểu thêm vài câu nữa, bỗng từ xa có một tăng nhân
chạy đến:
- Sĩ Niên, sao lâu thế ? Chú đi đâu, sư bác tìm mãi không thấy ?
- Tiểu đệ dẫn thí chủ này lên chính điện chiêm bái đức Quán Thế Âm.
- Lần khác không được sao ? Về ngay gặp sư bác.
Thạch Đạt Lang vội chen lời:
- Xin thứ lỗi. Tại hạ không rõ chú này bận việc. Vậy nhà chùa cứ dẫn
chú ấy về, để khi khác tại hạ đi lấy cũng được.
Nhưng tăng sĩ đã quay sang Thạch Đạt Lang:
- Không ! Không phải chỉ có chuyện Sĩ Niên mà thôi. Có người muốn
gặp thí chủ trên phương trượng.
- Gặp tại hạ ?
- A di đà Phật ! Bần tăng chẳng muốn làm phiền, nhưng các vị đó cố
đòi cho được gặp thí chủ.
Thạch Đạt Lang vội vã theo chân vị tăng.
Bước vào phương trượng, đã thấy mười nhà sư mặc áo đen, thắt khăn
nâu, mặt hầm hầm chờ sẵn. Họ cũng là tăng nhân thuộc giáo phái Hồ
Phong nhưng đã thoát ly.
Nhìn Thạch Đạt Lang một cách ngạo mạn, họ tự cho mình có quyền thi
hành giới pháp và không giấu vẻ mục hạ vô nhân trên nét mặt:
- Ngươi là Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto ?
Giọng nói hách dịch, đầy thù nghịch.
- Chính thị. Các vị có điều gì dạy bảo ?
- Chúng ta đến cáo tri cho ngươi biết bản quyết định của Kim Cương
Điện. Hãy dỏng ta ra mà nghe đây:
“Cáo tri cho Thạch Điền Đạt Lang ở Miyamoto. Núi Hồ Phong là nơi
thanh tịnh thiêng liêng, không bao giờ dung dưỡng kẻ gây thù chuốc
oán. Lại càng không thể dùng làm chỗ ẩn náu cho những tên du đãng đê
hèn hay sinh sự. Bản điện đã điều tra kỹ và ban lệnh này, truyền
Thạch Điền Đạt Lang sinh quán làng Miyamoto phải lập tức rời khỏi
vùng núi Sinh Minh. Nếu bất tuấn sẽ bị trừng phạt theo đạo pháp, bấy
giờ đừng trách”.
Thạch Đạt Lang sững sờ, nhưng cũng lễ phép thưa:
- Tại hạ xin tuân lệnh thủ tòa Kim Cương Điện. Tuy nhiên bây giờ đã
quá ngọ và vì chưa chuẩn bị gì, tại hạ xin phép được lưu lại đến
sáng mai. Và xin cũng cho biết thêm lệnh này được phát xuất từ đâu ?
Tại hạ nhớ kỹ khi đến đây đã trình lên vị thủ tòa và được ưng thuận
cho tá túc. Không hiểu sao lại có sự thay đổi như vậy ?
Một nhà sư áo đen đáp:
- Nếu nhà ngươi thực muốn biết thì ta nói rõ cho nghe. Lúc đầu chúng
ta cũng thương tình vì ngươi đơn độc chống lại với hàng trăm người,
đã tỏ ra khá dũng cảm.
Nhưng sau lại có kẻ đến cho biết ngươi chẳng qua chỉ là một tên vô
lại làm nhiều điều càn rỡ cần bị trừng trị nên chúng ta buộc lòng
phải xét lại, không thể để ngươi ẩn náu ở đây được !
À ra thế. Thạch Đạt Lang nghĩ. Chắc lại phái Hoa Sơn đấy thôi. Oán
cừu chồng chất, phái này hẳn đã đặt điều nói xấu hắn nhiều lắm.
Nhưng không biết trong số đệ tử Hoa Sơn còn sống sót, ai đã làm việc
vu cáo đê hèn ấy. Dù sao đi nữa, hắn vẫn phải phòng bị. Mối thù quá
sâu đậm, không thể khinh xuất.
Thạch Đạt Lang chẳng muốn tự bào chữa, lạnh nhạt đáp:
- Té ra là vậy ! Ngày mai tại hạ sẽ đi sớm.
Rồi quay gót, theo sau là tiếng cười chế giễu và những lời khinh mạn
của bọn tăng sĩ áo đen:
- Thế mới biết họ đồn hão. Thằng này tầm thường quá, ra quái gì !
- Trẻ tuổi ngông nghênh.
- Thật xấu lây cả những người cầm kiếm !
Thạch Đạt Lang quay phắt lại, cau mặt:
- Các vị nói gì ?
- Nói gì thì người đã nghe rõ đấy.
- Này, ta bảo cho mà biết, vì tôn trọng quý giáo, ta sẵn sàng tuân
lệnh thủ tòa, nhưng nếu các vị buông lời hỗn xược, thanh kiếm này
không để yên đâu ! Phải chăng quý vị muốn gây sự ?
Bọn tăng sĩ áo đen đấu dịu:
- Ấy là chúng ta nói thế. Đệ tử nhà Phật không sát sinh, nhưng những
kẻ như ngươi cần được giác ngộ. Khi ra khỏi vùng này hãy coi chừng,
tiếng đồn về ngươi chẳng có gì đáng hãnh diện.
- Ta chẳng làm điều gì quấy. Khi giao đấu với Hoa Sơn, ta không hề
có hành động gì đáng phải hổ thẹn.
- Láo !
- Vậy hành động gì quấy nói ta nghe !
Tiếng cười nhạt:
- Ngươi còn dám hỏi à ?
- Này, ta cảnh cáo, nếu không nói hay nói bậy ta cắt lưỡi.
- Ha ! Được lắm ! Ta chỉ hỏi một câu, một câu thôi ! Chúng ta biết
ngươi đã chống trả phái Hoa Sơn dũng mãnh. Nhưng tại sao lại giết
một đứa trẻ mới mười ba, không biết võ công gì. Hành động ấy không
gọi là dã man, hung tợn thì còn gọi là gì nữa ?
Mặt Thạch Đạt Lang xám lại. Đột nhiên, hắn thấy yếu hẳn trước những
lời buộc tội gay gắt ấy. Tăng nhân áo đen nói thêm:
- Sĩ Khánh tàn phế, đã đi tu. Điền Chính cũng bị ngươi giết. Chỉ còn
Tuệ Tâm, truyền nhân độc nhất của dòng họ Hoa Sơn, ngươi cũng giết
nốt, khiến dòng Hoa Sơn tuyệt diệt. Thật quá ư bất nhân và tàn nhẫn
! Thử nghĩ hành động ấy có đáng gọi là kiếm sĩ không ? Cái dũng của
người cầm kiếm không phải chỉ có biết giết người mà còn phải xét xấu
tốt, nên hay không chứ ! Nếu không giúp cũng dung tha người yếu
đuối. Thạch Đạt Lang ! Ngươi là kẻ tàn bạo, không có lòng trắc ẩn.
Chiếu đạo pháp, phương trượng trục xuất ngươi khỏi nơi này !
Thạch Đạt Lang điếng lặng. Những lời trách cứ của bọn tăng sĩ áo đen
đúng một phần, nhưng ở địa vị hắn trong trường hợp đặc biệt sáng hôm
ấy, hắn đã làm điều phải làm.
Là con người trọng nguyên tắc, Thạch Đạt Lang không thể không giết
Tuệ Tâm. Vì phái Hoa Sơn đặt thiếu niên này vào địa vị chưởng môn,
Tuệ Tâm không còn là người thường nữa mà là chủ soái của cả môn
phái. Chừng nào Tuệ Tâm còn sống, phái Hoa Sơn vẫn còn. Thạch Đạt
Lang dù có giết mười, hai mươi đệ tử đi nữa, Hoa Sơn vẫn không mất.
Nhưng ngay từ lúc đầu, nếu hạ thủ Tuệ Tâm, đương nhiên trên danh
nghĩa, hắn đã tiêu diệt địch thủ. Sau này dù có chết trong đám loạn
quân, hắn cũng vẫn là kẻ chiến thắng. Đồ chúng Hoa Sơn không thể
viện cớ gì để lật đổ cái thế ấy được. Đó là luật võ lâm và đó là
nguyên tắc. Thạch Đạt Lang phải bảo vệ nguyên tắc ấy.
Nhưng hình ảnh hãi hùng của một đứa trẻ cụt đầu nằm lăn trên đất,
máu loang thấm ướt cả áo ngoài, cảnh tượng ấy man rợ quá, gây xúc
động bi thương cùng cực và để lại trong lòng hắn một niềm ngao ngán
không dứt được. Hành động tàn bạo ấy chính hắn cũng thấy ghê tởm.
Cho nên Thạch Đạt Lang đứng lặng.
Bọn tăng nhân áo đen bỏ đi đã lâu, Thạch Đạt Lang trở lại Khổ Độ Am,
lòng buồn vời vợi. Hắn tự hỏi:
“Chân tướng kiếm đạo ở đâu ? Có thể nào người cầm kiếm phải vứt hết
những quan niệm về nhân luân, lòng trắc ẩn, tình yêu thương đi mới
mong đạt được hay không ? Để trở thành một vật vô tri vô giác, một
hòn đá ?”. Những ý nghĩ chán nản ấy không phải đây là lần đầu tiên
hắn có. Nhiều lần trước, sự hoài nghi len lỏi vào tâm tư, Thạch Đạt
Lang đã có lúc muốn tung hê tất cả, trở về làng cũ cưới Oa Tử rồi
cùng sống với nàng một cuộc đời bình thường như mọi người.
Sống cuộc đời bình thường như mọi người ! Thạch Đạt Lang thở dài
liên tưởng đến Hải Chính Hành, đến Mã Xuyên, đến Lạc Thiên quán. Và
lắc đầu:
“Nếp sống ấy không phải của ta. Ta sẽ trở thành con cá mắc cạn chết
trong vũng nước tù hãm mất !”.
Bầu trời chiều trong và dịu, báo hiệu một đêm thanh tĩnh. Vài cánh
hoa anh đào rơi nhè nhẹ như bông tuyết, để lại trên cành những đài
hoa trơ trụi. Thạch Đạt Lang ví những đài hoa ấy với lòng mình,
không nơi ẩn náu trước những giằng co ray rứt của trách nhiệm, tình
yêu và lòng trắc ẩn. Kể từ sau cuộc chiến trên đồi Sinh Minh, tâm
hồn hắn đã đổi khác đi nhiều.
Thạch Đạt Lang châm đèn, mang pho tượng đang khắc dở ra làm tiếp.
Mai đi rồi, tối nay hắn cố khắc cho xong. Dù xấu hay đẹp, hắn cũng
phải hoàn tất pho tượng, cúng vào chùa để làm lễ vật cầu siêu cho
vong linh Tuệ Tâm và các đệ tử Hoa Sơn khác.
Đèn lụi dần, hắn đổ thêm dầu và khêu bấc. Giữa đêm sâu, trong cái
yên lặng gần như tuyệt đối của ngôi am nhỏ, người ta chỉ nghe tiếng
mũi đoản kiếm đục vào gỗ và những miếng vỏ bào mỏng nhẹ nhàng rơi
trên chiếu. Mùi gỗ bạch đàn thơm thoang thoảng.
Thạch Đạt Lang chăm chú điêu khắc, để cả tinh thần cũng như thể chất
vào công việc. Tính hắn xưa nay vẫn thế. Đã không làm thì thôi, làm
thì tập trung mọi năng lực cho đến khi xong, bất kể nhọc mệt hay
chán nản.
Pho tượng càng lúc càng rõ nét, tuy thô kệch nhưng không đến nỗi
không ra hình thù gì. Khi tương đối trông được, Thạch Đạt Lang lau
sạch, quét dọn chỗ ngồi, đặt tượng lên bàn rồi cúi đầu ba lần lâm
râm khấn nguyện.
Ngày mai, hắn sẽ mang pho tượng Quán Thế Âm lên chùa đặt chung với
nhiều tượng khác. Tượng không đẹp nhưng hắn đã để hết tâm hồn vào
đó, sáng tạo nên bằng lòng thành và niềm ân hận sâu xa, với hy vọng
vong linh những người quá vãng sẽ được Phật bà cứu độ đời đời.
Đêm đã khuya, trống sang canh điểm từ lâu. Thạch Đạt Lang sắp xếp
vật dụng vào đẫy rồi ra nhà sau tắm. Căn phòng vắng vẻ. Hàng cây mềm
cạnh am thì thầm và ánh trăng hạ huyền tuy mờ nhạt cũng đủ in lên
nền giấy mỏng trên song cửa bóng hàng cây xao động.
Bỗng nghe sột soạt rồi cửa lùa xịch mở. Gió đêm thổi ngọn đèn nhỏ
lung lay. Một bóng đen chui vội vào rồi cửa lại được khép ngay tức
khắc.
Thạch Đạt Lang ở nhà sau bước ra, mình còn quấn tấm khăn ẩm. Hắn
trải chiếu dọn chỗ nằm và tắt đèn, túi hành trang để cạnh. Lúc sau
đã nghe tiếng hắn thở đều và tiếng ngáy nho nhỏ.
Từ dưới gầm bàn thờ, bóng đen chui ra êm nhẹ như một con mèo. Tiếng
ngáy dừng lại. Bóng đen vội nằm ép xuống sàn. Đến khi tiếng ngáy trở
lại đều đều, bóng đen mới tiếp tục bò đến gần chiếu.
“Mày !”. Một giọng khàn khàn đồng thời ánh thép loáng lên dưới ánh
trăng chênh chếch chiếu qua song. “Xem mày có thoát ...”. Nhưng câu
nói chưa dứt, bóng đen đã bị hất ra ngoài cửa sổ đánh rầm ! Song cửa
gẫy răng rắc cùng với tiếng thân người rơi bịch trên nền đất. Tiếng
kêu đau đớn, cành lá rơi lả tả, rồi cảnh vật trở về yên tĩnh như cũ.
Thạch Đạt Lang đã ngồi dậy từ bao giờ, dựa lưng vào vách, nắm chặt
chuôi kiếm, lắng nghe động tĩnh. Thấy không có gì lạ, hắn vội vàng
xách kiếm ra hiên. Nhìn bóng đen nằm co quắp dưới hè, Thạch Đạt Lang
thận trọng đến gần. Nghe rên rỉ, hắn sực nhớ lúc nãy khi vùng dậy
gạt mũi dao, hắn cảm thấy nhẹ hẫng. Như một cục bông. Không biết kẻ
này là ai, định ám sát hắn sao đường dao yếu thế, như chẳng có công
lực gì cả.
Thạch Đạt Lang quát:
- Ngươi là ai ? Sao vào đây hành thích ?
- Ừ ...ừ ...Thạch Kinh Tử ! Đã đến nước này ...ối chao, đau ... !
- Ủa, bà Hồ Điểu !
Thạch Đạt Lang ngạc nhiên. Té ra không phải là đệ tử Hoa Sơn hay
tăng nhân Hồ Phong vì ghét hắn mà đâm lén khi hắn ngủ. Hắn cúi
xuống, vực bà lên, nói:
- Để con dìu bà vào am. Ngoài này lạnh.
Bà Hồ Điểu không hơi sức đâu chống cự nữa, mặc hắn muốn làm gì thì
làm !
Nhưng bà luôn mồm kêu đau:
- Thạch Kinh Tử, bây giờ mày bắt được ta thì hãy giết ta đi. Ối !
Đau quá ! Chắc gãy lưng mất !
Thạch Đạt Lang bế bà Hồ Điểu đặt lên chiếu, đắp chăn và gối đầu cho
bà. Hắn an ủi:
- Bà nằm đây, con đi pha trà. Bà nằm nghỉ đến sáng mai hãy hay.
Nhưng bà Hồ Điểu lắc đầu đáp yếu ớt:
- Không ! Ta không uống trà của mày. Thằng súc sinh ...
Thạch Đạt Lang lúng túng, không biết xử trí ra sao. Hắn xích ra xa
thầm nghĩ:
“Không biết bà đã gặp Mãn Hà Chí chưa ? Chắc bà là người lên chùa kể
tội, nói xấu ta với các tăng nhân phái Hồ Phong. Thảo nào họ thay
đổi ý kiến !”. Nghĩ vậy nhưng hắn vẫn vào nhà trong đun nước.
Lúc mang trà ra, bà Hồ Điểu đã thiếp đi từ bao giờ. Thạch Đạt Lang
để cho bà nằm nghỉ, ngồi uống trà một mình, canh chừng cho tới sáng.
Khi chú tiểu Sĩ Niên đến dọn dẹp xong, Thạch Đạt Lang theo chú lên
yết kiến thủ toà. Hắn trình bày tự sự, cúng pho tượng do chính tay
hắn tạc, đồng thời cũng thỉnh cầu để cho bà Hồ Điểu lưu lại chùa ít
lâu đến khi bình phục.
Bấy giờ vị hoà thượng thủ toà mới vỡ lẽ. Tuy nhiên ông xét để cho bà
Hồ Điểu lưu lại chùa có điều bất tiện. Nhân có sư thầy thuê bò từ
trấn Ô Tu chở phẩm vật lên núi, ông đề nghị để con bò ấy cho bà Hồ
Điểu cưỡi đến trấn Ô Tu rồi nhờ Thạch Đạt Lang trả bò cho chủ hộ.
Thấy cách này thuận tiện, Thạch Đạt Lang vui vẻ nhận lời.
Hồi 49
Bình Sữa Đổ
Sơn đạo từ đỉnh
đồi Sinh Minh đến trấn Ô Tu gập ghềnh vòng vèo như rắn lượn. Thạch
Đạt Lang dẫn bò thong thả xuống dốc. Trên lưng bò, bà Hồ Điểu nằm
sấp, hai tay ôm cổ con vật miệng rên khe khẽ.
Sợ bà lão mệt, Thạch Đạt Lang quay lại:
- Hay ta dừng chân chỉ một chút. Đường núi khó đi mà bà với con cũng
chẳng có gì vội ...
Bà lão lặng thinh như không nghe thấy.
Đặt được bà Hồ Điểu lên lưng bò cũng là một điều khó khăn. Bà lão
nhất định không đi và cũng nhất định không cưỡi bò. Để thuyết phục,
Thạch Đạt Lang phải nói khéo, nhấn mạnh rằng chùa là nơi thanh tĩnh,
phụ nữ lưu lại không tiện, phiền đến sự thanh tu của các tăng sĩ.
Bấy giờ bà mới nghe và vì bị cái ngã đau quá, toàn thân ê ẩm nên bà
đành phải cưỡi bò vậy.
Bà Hồ Điểu tỏ vẻ khó chịu mỗi khi Thạch Đạt Lang hỏi han hay săn
sóc. Sự ân cần của gã thanh niên chỉ làm tăng thêm sự nhục nhã và
niềm uất hận của bà mà bà không làm gì được. Bà yên lặng biểu lộ sự
khinh bỉ.
Thạch Đạt Lang không hiểu sao mẹ người bạn cũ của mình lại có thái
độ ấy. Đã bao lần hắn bị phiền. Những mẹo vặt của bà khiến hắn suýt
chết mấy lần. Nhiều lúc mất bình tĩnh, hắn muốn giết phứt bà đi cho
rồi, nhưng nghĩ lại thì không nỡ, nhất là lúc này bà yếu trông thấy,
đi không được mà cũng chẳng thốt ra tiếng.
Nhớ lại những lời nói độc địa của bà Hồ Điểu, Thạch Đạt Lang mỉm
cười. Bây giờ nằm yên như thế kia, không rủa xả được, chắc bà tức
lắm.
- Đường núi khấp khểnh mà con bò lại gầy. Bà chịu khó một chút, đến
trấn Ô Tu, con tìm thầy và mua thuốc trị thương cho bà.
Bà Hồ Điểu vẫn im lặng.
- Hay là bà ngồi xuống vệ đường này nghỉ, cho nó giãn gân cốt ...
Rồi không đợi trả lời, Thạch Đạt Lang buộc bò vào gốc cây, đỡ bà lão
xuống. Bà dựa đầu vào thân cây, tóc xõa rũ rượi, gạt tay Thạch Đạt
Lang ra, miệng lẩm bẩm câu gì không rõ.
Buổi sáng đầu mùa hạ đẹp vô cùng. Gió ấm mơn man và ở dưới chân đồi,
mặt hồ Biwa lóng lánh như tấm gương trong.
- Chắc bà khát ? Thạch Đạt Lang vừa hỏi vừa tháo đẫy. Con có mang
nước và cơm nắm. Bà ăn một chút cho đỡ đói nhé ?
Bà Hồ Điểu vẫn bướng bỉnh lắc đầu.
- Từ hôm qua bà chẳng ăn uống gì. Như thế thì càng bệnh thêm thôi.
Quanh đây không có thầy thuốc, chứ nếu có, con đã mời đến chữa cho
bà rồi. Hay con chia đôi phần ăn này, bà dùng với con một nửa ?
- Không đời nào !
- Bà nói gì ?
- Ta dù có chết đói, xác để cho quạ tha chứ không đời nào ăn cơm của
kẻ thù !
Rồi quay đi, bà nhổ bọt.
Thạch Đạt Lang lắc đầu. Hắn không lấy thế làm giận, chỉ tội nghiệp
cho bà lão.
Không ngờ sự hiểu lầm của bà sâu xa và dai dẳng đến thế. Có lẽ nếu
gặp con trai, sự tức giận ấy sẽ giảm bớt và giúp bà thông cảm với
hắn hơn. Thạch Đạt Lang nghĩ bà đã giã, cũng như mẹ mình nên hắn cố
tìm lời an ủi:
- Bà nghĩ lại đi. Bà yếu lắm, phải ăn chút gì để sống mà gặp Mãn Hà
Chí chứ. Bà có muốn gặp Mãn Hà Chí và thấy hắn thành công không ?
Bà lão trừng mắt:
- Việc gì đến mày ? Rồi mày biết, nó sẽ thành công, không cần mày
nhắc.
- Con cũng nghĩ thế. Nhưng bà phải giữ gìn sức khỏe để còn nhìn thấy
hắn chứ.
- Đồ giả nhân nghĩa. Đừng tưởng nói khéo thì ta quên mối thù đâu !
Thạch Đạt Lang buồn thấy bà lão cứ hiểu lầm hắn mãi. Nói với bà lão
chẳng khác gì đánh bùn sang ao. Hắn bực mình bỏ đi, để mặc bà ngồi
bên gốc cây với con bò cái.
Xách đẫy bước tới sau một tảng đá lớn, hắn giở cơm nắm ra ăn. Nắm
cơm gói trong lá khô cùng với đậu nấu đường, hắn thấy ngon miệng,
nhưng cũng chỉ ăn một nửa, còn một nửa bọc lại cất vào đẫy, phòng
khi nào bà Hồ Điểu hỏi đến.
Nghe tiếng lào xào, Thạch Đạt Lang quay nhìn về phía chỗ bà Hồ Điểu.
Một người đàn bà nhà quê tóc cắt ngắn, y phục tương tự như y phục
các phụ nữ trong vùng nhưng gọn ghẽ hơn, đang đứng nói chuyện với bà
lão:
- Trong quán cháu có người khách trọ Ốm. Cô ấy muốn uống sữa. Lão bá
cho cháu vắt sữa con bò này được không ?
- Ta không biết. Vùng ta ở không nuôi bò sữa, chẳng hiểu nó có sữa
không ?
- Để cháu thử.
- Ngươi biết vắt sữa bò à ?
- Dạ biết.
Nói đoạn ngồi xuống bên con vật, rút trong bọc ra một cái bình nhỏ
thường dùng để đựng rượu, lúi húi vắt. Chẳng mấy chốc đã được lưng
bình. Khi đầy, người đàn bà đứng dậy cười toét miệng:
- Cám ơn lão bá. May quá, không phải xuống núi.
Rồi lấy vải bọc miệng bình, tong tả quay gót.
- Này chị kia !
Tiếng bà Hồ Điểu gọi giật lại. Bà ngó trước trông sau không thấy ai,
bèn ghé tai người đàn bà ấy nói nhỏ:
- Cho ta một hớp được không ? Một hớp thôi, ta khát quá !
Người đàn bà ngạc nhiên nhìn bà lão, lưỡng lự một lát rồi mở miếng
vải, đưa bình sữa cho bà.
Bà Hồ Điểu vồ ngay lấy tu ừng ực, sữa tràn cả ra hai bên mép. Lát
sau bà nhăn mặt, đưa trả:
- Sữa gì vừa nhạt vừa tanh, còn khó uống hơn thuốc. Nhưng cũng đỡ
khát.
- Lão bá sao thế ? Ốm à ?
- Ừ, ốm, nhưng thường thôi. Ta cảm gió xoàng.
Bà đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh. Không thấy ai, bà có vẻ khỏe hẳn
ra. Bà hỏi:
- Này chị, đường này đi đâu thế ?
- Đến trấn Ô Tu dưới núi.
- Ta muốn đi tắt, có đường nào không ?
Người đàn bà ngạc nhiên nhưng cũng đáp:
- Có, mà lão bá định đi đâu ?
- Đâu cũng được. Ta chỉ muốn tránh mặt thằng vô lại kia thôi.
Nói đoạn hất hầm về phía Thạch Đạt Lang ngồi. Người đàn bà nhìn theo
chẳng thấy ai lại càng ngạc nhiên lắm.
- Đường nào ? Chỉ ngay cho ta đi !
- Lão bá đi độ một quãng nữa thì có con suối. Rẽ trái ngược lên phía
bắc rồi cứ thế mà đi thẳng, chừng đến trưa là tới Ô Tu.
- Vậy được. Trời Phật phù hộ ngươi.
Rồi hạ thấp giọng:
- Nếu gặp ai hỏi, chớ nói chỉ đường cho ta nghe !
Đoạn tay giữ áo, tay cầm gậy lẩn vào đám cỏ tranh đi mất. Người đàn
bà ngẩn ngơ chẳng hiểu ra sao, hết đứng nhìn con bò lại nhìn quãng
đường bà Hồ Điểu vừa cất bước.
Tiếng cười của Thạch Đạt Lang ở phía sau làm người đàn bà giật mình.
- Bác ở gần đây phải không ? Chồng bác đốn củi hay làm rẫy ?
Nhìn chàng thanh niên cao lớn có vẻ giang hồ đãng tử đột nhiên xuất
hiện, người đàn bà hơi sợ. Nhưng dường như quen với những mẫu người
như thế qua lại vùng này nhiều lần, chị ta mạnh dạn đáp:
- Không. Chúng tôi mở quán trọ.
- Xa không ?
- Cũng gần thôi, dưới triền núi.
- Vậy hay lắm. Ta muốn nhờ một việc, đưa hộ phong thư này cho người
quen, bác giúp được không ? Ta sẽ trả tiền sòng phẳng.
Người đàn bà bán quán tỏ vẻ ngần ngại.
- Ta không phải tên vô lại như bà cụ vừa rồi nói với bác đâu. Ta chỉ
có ý định giúp bà cụ nhưng bây giờ bà ấy đã khỏe, đi được rồi thì
càng tốt, ta khỏi phải bận tâm nữa.
- Nhưng còn người bệnh ở quán. Làm sao mang sữa về ?
- Không khó gì. Ta sẽ mang về giúp và đợi bác ở quán.
Thấy được mối hàng lại có tiền công, người đàn bà vui vẻ nhận lời.
- Vậy khách quan định đưa thư cho ai ?
- Cho một người tên Oa Tử ngụ tại dinh tướng công Lưu Cát, khu bắc
ngoại thành.
Vừa đi vừa về thì khoảng nửa đêm bác đã trở lại nhà được rồi, có gì
mà ngại.
Thỏa thuận xong, Thạch Đạt Lang lấy giấy bút viết mấy câu cho người
thiếu nữ mà khi ở Khổ Độ Am không đêm nào hắn không nghĩ đến, rồi
trao cho người đàn bà. Tần ngần trông theo đến khi người ấy khuất
dạng, hắn mới cầm thừng dẫn bò đi. Lòng hắn buồn vui lẫn lộn.
“Không ngờ ta còn có cơ hội gặp lại Oa Tử. Giờ này không biết nàng
đã bình phục hẳn chưa. Nhận được thư ta, chắc thế nào nàng cũng lên
đường ngay. Giang cũng thế.
Trễ lắm là trưa mai ta đã gặp lại cả hai rồi”.
Thạch Đạt Lang háo hức như khi còn bé chờ mẹ đi chợ về, đợi ăn cái
bánh bỏng mẹ hứa.
Rồi mặc cho bò nhẩn nha bước một, vừa đi vừa gặm cỏ, chàng thanh
niên thong thả theo sau. Cốt cách ngang tàng của một kiếm sĩ nhưng
dáng điệu lại thư thái nhàn du, trông hắn bây giờ không ai bảo là kẻ
mười ngày trước đó đã gây chấn động võ lâm, trên đồi Sinh Minh, ngã
ba Quan Ngoại.
Mấy câu Thạch Đạt Lang viết cho Oa Tử thật giản dị:
“Cầu Hanada trước đây nàng đợi ta. Bây giờ ta đợi nàng ở cầu Kara,
trấn Ô Tu. Gặp nhau, nhiều chuyện muốn nói”.
Hắn muốn viết thêm vài lời âu yếm nữa để tỏ tình ý thiết tha, nhưng
lại thôi. “Ồ, chắc Oa Tử sẽ hiểu”. Nghĩ đến “nhiều chuyện muốn nói”
viết trong thư, hắn mỉm cười.
Đến quán, Thạch Đạt Lang buộc bò vào gốc cây rồi xách bình sữa tới
trước cửa quán. Cũng như đa số các quán trọ thời đó, quán này có một
mái hiên rộng, ở phía trước kê vài cái bàn gỗ tạp thô sơ để lữ khách
ngồi ăn những món điểm tâm thườ ng hoặc uống trà. Nếu muốn dùng cơm
thịnh soạn hơn và có người hầu thì vào phòng trong, bên lò sưởi và
đồng thời cũng là chỗ nấu bếp. Thạch Đạt Lang đến gần bàn ngoài hiên
hỏi vọng vào:
- Quán có ai không ? Ta mang sữa tới đây này !
Một người đàn bà trung niên chạy ra. Thạch Đạt Lang giao bình sữa
cho mụ và nói:
- Sữa của khách.
Người đàn bà trố mắt nhìn, vẻ không hiểu. Thạch Đạt Lang giải thích
rõ đầu đuôi, bấy giờ mụ mới vỡ lẽ, bèn gọi người đàn ông đang lúi
húi bên bếp lửa ở trong nhà:
- Qúy khách ! Sữa quý khách sai đi mua đã mang về đây này !
Người đàn ông chùi tay vào vạt áo quay ra. Gã còn trẻ nhưng nét mặt
gầy, buồn và có vẻ chán chường. Mí mắt hùm hụp, đỏ hoe, chẳng hiểu
vì thức khuya hay vì rượu.
Đỡ bình sữa từ tay người đàn bà, gã nhìn chàng thanh niên đứng ngoài
hiên. Bỗng kinh ngạc, mồm há hốc:
- Thạch Kinh Tử !
- Ủa ! Mãn Hà Chí !
Thạch Đạt Lang cũng kêu lớn, kinh ngạc không kém. Và giơ tay ra đón
bạn. Mãn Hà Chí cũng giơ tay. Bình sữa rơi vỡ toang, mảnh tung tóe
trên nền đất, sữa đổ lênh láng.
Hai người bạn ôm lấy nhau, cánh tay siết chặt. Thạch Đạt Lang vỗ nhẹ
lên lưng Mãn Hà Chí:
- Đã bao lâu rồi không gặp mày ! Thật không ngờ ...Có lẽ từ sau vụ
Sekigahara đấy nhỉ ...
- Ờ ...sau trận Sekigahara ...Đồi Ibuki ...
Họ bỏ nhau ra mà vẫn còn nắm chặt tay nhau, trìu mến. Thạch Đạt Lang
nhìn thẳng vào mặt bạn:
- Mày già hơn trước nhiều.
- Hơn sáu năm rồi còn gì ...Bao nhiêu biến chuyển. Tao đã hăm bốn.
Mùi sữa thoảng bay ngòn ngọt, bao bọc lấy hai người như đưa họ lùi
về dĩ vãng, lúc cả hai còn là những đứa trẻ ngây thơ bên gối mẹ
trong một làng nhỏ vùng sơn cước.
- Thạch Kinh Tử ! Giờ mày nổi tiếng lắm rồi, đâu còn là thằng Kinh
Tử ngày xưa nữa. Để tao gọi mày là Thạch Đạt Lang cũng như mọi
người. Chuyện mày một mình đánh nhau với cả phải Hoa Sơn trên đồi
Sinh Minh ai cũng biết. Lại còn những chuyện trước đây nữa, tao có
nghe kể lại ...
Thạch Đạt Lang ngượng, hơi đỏ mặt:
- Ồ, còn phải học nhiều. Tao ở vào thế bắt buộc phải tự vệ đấy thô
i. Trên đời này xem ra nhiều kẻ có danh mà không có thực nên kể như
tao may mắn. Thôi, nói chuyện mày đi. Mày trọ Ở đây đấy à, Mãn Hà
Chí ?
- Ừ, cũng đã được mươi ngày. Tao bỏ Kyoto đi Edo nhưng được nửa
đường thì có trở ngại ...
- À ra vậy ! Họ bảo tao trong quán này có người ốm nhờ mua sữa. Mày
ốm hả ?
- Ờ ...không ...không ...Đấy là người đi với tao.
- Cũng phiền nhỉ ...Gặp mày tao mừng quá. Lần chót nhận được tin mày
đến nay đã ba năm. Mày viết bức thư đưa thằng bé làm ở quán rượu
chuyển, nhớ không ? Bấy giờ tao đang trên đường đi Nara ...
Mãn Hà Chí cúi đầu, hy vọng Thạch Đạt Lang quên những lời khoác lác
của gã viết trong thư hồi đó. Hắn mà nhắc lại thì thật là xấu hổ.
Nhưng trong cơn vui mừng, Thạch Đạt Lang kéo tay Mãn Hà Chí:
- Ra ngoài này nói chuyện cho tự nhiên. Ai cùng đi với mày thế ?
- Người quen. Mày để ý làm gì !
Cả hai dắt tay nhau ra khỏi quán.
- Bây giờ mày làm nghề gì sống ?
- Tao không có tài, nên kiếm chỗ quyền quý dựa dẫm cũng khó ...
- Vậy có nghĩa là mày thất nghiệp ? Trước đây cũng thế, không làm gì
hết à ?
- Cũng có chút đỉnh vài nghề cực nhọc. Nhưng thôi, đừng nhắc đến
những chuyện ấy nữa. Tao buồn lắm.
Mắt Mãn Hà Chí mờ đi. Những hình ảnh của quá khứ tủi cực bên cạnh
Ôkô trong một căn phòng nhỏ hẹp, hôi hám, sặc mùi ẩm mốc và mùi rượu
sa-kê rẻ tiền hiện về, làm gã nghẹn họng. Tâm trạng ấy không qua
được mắt Thạch Đạt Lang. Hắn kéo Mãn Hà Chí ngồi xuống cỏ:
- Ngồi xuống đây. Kể hết chuyện mày cho tao nghe đi. Sự thể ra sao
mà khốn khổ thế ?
- Cũng tại Ôkô hết. Mụ ấy mê hoặc tao ...
Rồi Mãn Hà Chí kể cho Thạch Đạt Lang nghe quãng đời gã sống bên
người đàn bà sa đọa ấy. Thạch Đạt Lang ngao ngán, vừa thương hại vừa
phẫn nộ cho bạn. Tại sao Mãn Hà Chí lúc nào cũng tự coi mình kém cỏi
như vậy ? Tại sao hắn lại đổ lỗi cho người khác, dường như muốn quy
hết trách nhiệm cho họ về những ngu xuẩn, hèn yếu của mình ?
- Mãn Hà Chí ! Mày cứ nói tại Ôkô thế này, tại Ôkô thế nọ, nhưng mày
có bao giờ nghĩ rằng mày đã thiếu tự chủ và dại dột không ?
Giọng hắn trở nên nghiêm khắc:
- Chỉ có mình mới có thể tạo cho mình một cuộc đời đáng sống. Ngoài
mày ra, không ai làm gì cho mày được !
Mãn Hà Chí thở dài, giọng thiểu não:
- Ta cũng nhận phần nào có lỗi, nhưng định mệnh cả. Nếu không gặp
Ôkô ...
- Lại thế rồi ! Thời đại này mà mày còn nói thế thì đời mày vất đi,
không bao giờ thành đạt. Mày muốn đi Edo lập nghiệp thì cứ đi, nhưng
đó là chỗ bon chen danh lợi, rập khuôn theo kẻ tầm thường tất không
khá. Phải có những hành động hơn người.
- Thì lúc trước ở làng tao cũng muốn theo nghề cung kiếm ...
- Ừ, đời còn dài, sự cố gắng là cần thiết. Có người nói tài năng chỉ
do tập luyện.
Tao nghĩ đúng. Ngoại trừ những kẻ tài năng xuất chúng không kể, còn
nếu muốn đạt được một trình độ tài năng bình thường nào đó thì phải
bền chí tập luyện. Ở Edo, mày nên kiếm một nghề độ nhật đã và đừng
quên lập chí.
Mãn Hà Chí bứt một cọng cỏ đưa lên miệng cắn. Lòng gã nặng trĩu hổ
thẹn. Gã hối hận đã để trôi qua sáu năm thanh xuân quý báu.
Những chuyện Mãn Hà Chí nghe kể lại về Thạch Đạt Lang đúng hay
không, không biết nhưng trước mặt gã bây giờ là Thạch Đạt Lang bằng
xương bằng thịt, khuyên gã những lời chân thành, đôi khi nghiêm
khắc, với phong thái chững chạc, tự tin, thật khác xa với gã. Nhưng
dù Thạch Đạt Lang vẫn mày tao với gã, coi gã như bạn thân, Mãn Hà
Chí thấy thái độ nghiêm nghị ấy gần như cao ngạo. Gã đau đớn ý thức
sự hèn kém của mình.
- Mãn Hà Chí ! Mày phải cố gắng !
Thạch Đạt Lang vỗ vai bạn, khuyến khích, nhưng đồng thời cũng linh
cảm qua cái vỗ ấy, một tâm hồn bạc nhược, nếu không được nâng đỡ,
dìu dắt hàng ngày thì khó mà thoát khỏi những cám dỗ bên ngoài.
- Thôi, việc đã qua thì cho qua, đừng nghĩ đến nữa. Mày đã để mất
sáu năm thì coi như mày bắt đầu trễ sáu năm. Những năm ấy là một bài
học quý giá. Nhưng phải bắt đầu lại ...
Mãn Hà Chí cúi mặt lặng thinh. Thạch Đạt Lang đổi sang chuyện khác.
- À, tao mới gặp bà cụ.
- Mẹ tao hả. Bà đi đâu vậy ?
- Lên chùa lễ Phật.
- Ờ. Bà cụ thì không chùa nào không đến. Chẳng biết bây giờ bà có
khỏe không ?
- Tao lấy làm lạ sao mày không thừa hưởng được sức mạnh và đức kiên
trì của bà cụ. Thật khó có người đàn bà nào ở tuổi bà mà được thế.
Nhìn Mãn Hà Chí, Thạch Đạt Lang không hiểu sao gã lại là con bà Hồ
Điểu được.
Bỗng nảy ra ý nghĩ:
nếu Mãn Hà Chí nên người khá, có lẽ bà bớt hiểu lầm hắn.
- Này Mãn Hà Chí ! Sao mày có người mẹ như thế mà mày không làm điều
gì cho bà cụ được vui lòng. Tao không còn cha mẹ, không làm gì được,
chứ mày ...Tao có cảm tưởng mày chẳng phải là đứa con hiếu thảo. Tao
nghĩ không gì sung sướng cho bằng có người để chia sẻ nỗi vui buồn.
Tao chẳng phải là nhà đạo đức đi thuyết giảng những giá trị luân lý
gì đâu, tao chỉ là một lãng tử. mày không biết nỗi cô đơn đứt ruột
của tao khi đứng trước một cảnh đẹp mà không có người thân để cùng
chia sẻ niềm vui thích.
Ngừng một lát, Thạch Đạt Lang cầm tay Mãn Hà Chí:
- Mày biết những lời tao nói là thành thực, giữa một người bạn và
một người bạn.
Hơn nữa lại là người cùng xóm, thân nhau từ hồi còn uống chung một
bình sữa. Mãn Hà Chí ! Chúng ta hãy lấy lại cái tinh thần của chúng
ta hồi trước khi dự trận Sekigahara.
Bây giờ chiến tranh hết rồi, nhưng sự chiến đấu để sống còn trong
một thế giới hòa bình không phải là dễ. Phải có kế hoạch, phải có
tinh thần tranh đấu. Nếu mày quyết tâm làm lại cuộc đời, tao sẽ cố
hết sức giúp ...
Tay cầm cọng cỏ mà nước mắt chảy tràn trề, Mãn Hà Chí nghe những lời
bạn nói thật chí tình, không như những lời mắng nhiếc của mẹ gã. Gã
xúc động, quệt nước mắt:
- Mày nói đúng. Cảm ơn mày đã chỉ cho tao đường ngay. Tao sẽ làm
theo lời mày bảo, trở nên người khác ngay từ bây giờ. Nếu không
thành được kiếm sĩ danh vọng thì cũng lập thân được. Đến Edo, tao sẽ
tìm thầy để học.
- Vậy tốt. Tao sẽ tìm cho mày một thầy giỏi để chỉ bảo cho mày. Có
chí thì vừa làm vừa học cũng thành công.
- Nhưng Thạch Đạt Lang ...
- Gì ?
- Còn một chuyện nếu không cho mày biết thì áy náy quá ...
- Có gì mà áy náy. Tao hứa giúp thì giúp tận tình, đừng lo lắng về
tiền bạc ...
- Không ! Không phải chuyện ấy. Chuyện người đồng hành với tao kia
...Người đó là một thiếu nữ.
Thạch Đạt Lang cười:
- Thì có sao !
- Nhưng người thiếu nữ này mày cũng biết.
- Ai ?
- A Kế Mỹ !
Thạch Đạt Lang bất giác “ồ” lên một tiếng. Hắn định nói:
“Thế thì tệ quá !” nhưng ngừng ngay được.
A Kế Mỹ không sa đọa như mẹ, nhưng ngụp lặn trong nếp sống phóng
đãng từ nhỏ, nàng rồi cũng sẽ như mẹ nàng mà thôi. Huống chi sau khi
bị thất thân với Sĩ Khánh, nàng còn cặp kè với Cát Xuyên Mộc, giờ
lại ở với Mãn Hà Chí. Không biết sợi dây oan nghiệt nào đã buộc Mãn
Hà Chí với mẹ con Ôkô như vậy !
Thấy Thạch Đạt Lang không nói, Mãn Hà Chí tưởng hắn ghen.
- Mày giận tao đấy hả ? Tao nói thực vì chẳng muốn giấu mày điều gì.
- Đồ ngốc ! Điều tao quan tâm là mày chứ không phải A Kế Mỹ. Không
biết mày tự chuốc lấy khó khăn hay tại định mệnh khắc nghiệt. Tao
tưởng sống với Ôkô, mày đã học được bài học đắt giá rồi !
Như đứa trẻ phạm lỗi bị mắng, Mãn Hà Chí lặng thinh.
- Qúy khách ! Thị nữ tìm các vị mãi không thấy.
Người hầu trong quán chạy ra, hớt hải:
- Cô nương có ở đó không ?
- Cô nương nào ? A Kế Mỹ hả ?
- Cô nương ốm nằm trong phòng. Thị nữ mang thức ăn vào không thấy ai
hết.
Dường như có linh tính báo trước. Thạch Đạt Lang đoán được tự sự,
nhưng hắn vẫn nói:
- Ta trở lại quán coi !
Trong phòng, chiếc chiếu vẫn còn trải ở góc. Gối xô lệch, chăn chưa
gấp. Mãn Hà Chí mở ngăn kéo và cửa phòng xếp hành trang:
- Quần áo đem đi hết ! Cả tiền bạc ! Không còn đến cái lược hay cái
khăn nữa !
Trời ơi !
Mãn Hà Chí mắt lạc thần, sắc mặt trắng bệch. Gã tất tả chạy ra hiên
rồi lại trở vào, mở tủ tìm kiếm, bối rối:
- Nàng bỏ ta ! Sao lại bỏ ta ? Đem cả tiền bạc đi ! Làm sao bây giờ
?
Mụ người làm và chủ quán đứng trước cửa quán ngơ ngạc nhìn nhau rồi
nói:
- Chắc chưa xa đâu. Khách quan đi tìm ngay còn kịp. Biết ngay mà,
khi mới đến, ta đã đoán nàng giả ốm.
Mãn Hà Chí chạy ra hiên, đứng nhìn con đường ngoằn ngoèo thoai thoải
dốc ở chân núi ẩn hiện giữ những bụi lau cao. Gã chẳng rõ và cũng
không đoán được A Kế Mỹ đã cao chạy xa bay rồi hay còn lẩn quất đâu
đây.
Bên gốc cây, con bò nghểnh cổ kêu một tiếng “bò ... O ...” dài. Lá
reo xào xạc.
Nắng hè bắt đầu gay gắt.
- Mãn Hà Chí ! Âu đó cũng là điều may. Hãy để nàng tìm nơi hợp ý,
sống cuộc đời nàng ưa thích.
Một con bướm vàng cánh mong manh dưới nắng, theo gió thổi, chao đi
chao lại rồi mất hút dưới vực sâu.
Thạch Đạt Lang nhìn bạn nói tiếp:
- Mày vừa hứa với tao làm lại cuộc đời thì đây là lúc thuận tiện
nhất, còn chờ gì nữa ?
Mãn Hà Chí cắn môi để khỏi bật khóc. Gã ừ một tiếng khẽ. Tiếng ừ
dường như không thoát ra khỏi miệng và cũng dường như chẳng có một
chút nhiệt thành nào, trong khi mắt gã vẫn đăm đăm nhìn con đường
trước mặt.
Thạch Đạt Lang lay vai gã:
- Nghe tao, A Kế Mỹ đi đâu cũng chẳng nên theo, vì không phải đấy là
chỗ của mày. Hãy tìm gặp bà cụ thân sinh ra mày ngay. Đi bây giờ còn
kịp, đến suối rẽ lên phía bắc về trấn Ô Tu.
Rồi không đợi Mãn Hà Chí phản ứng, Thạch Đạt Lang vào phòng mang dép
và hành trang ra cho bạn. Hắn rút ở bọc ra túi bạc vụn:
- Tao không có nhiều nhưng có thể chia cho mày một nửa. Nếu mày đi
Edo, tao sẽ đi với mày. Ngày mai, đến cầu Kara, tao sẽ đợi mày ở
quán gần đó.
oo Mãn Hà Chí đi rồi, Thạch Đạt Lang lui vào trong nhà nằm nghỉ trên
ghế dài kê gần hiên. Hắn muốn đợi thư phúc đáp của Oa Tử.
Khí hậu dễ chịu và ánh nắng đang thịnh của một ngày hè ấm áp làm
Thạch Đạt Lang lim dim mắt, thả hồn theo giấc mộng. Nhìn hai cánh
bướm chập chờn trên những cụm hoa dại ven đồi, hắn tưởng một trong
hai cánh bướm ấy là ... Oa Tử.
Bỗng những tiếng cười nói xôn xao phía ngoài vọng vào làm Thạch Đạt
Lang chú ý:
- Bọn ấy hữu danh vô thực.
- Ừ. Hồ Điểu trước tiếng nổi như cồn, bây giờ tệ quá. Đời nào cũng
thế, xem ra hậu duệ không bằng tổ phụ. Hoa Sơn ở đời thứ ba này
không còn được ai kính trọng nữa.
- Đúng vậy. Con cháu không đáng an táng cạnh tiền nhân.
- Sao không ? Khi chết tớ sẽ được táng gần mộ cụ tổ nội tớ ở đồi
này.
Tiếng cười ha hả:
- Chúng mình là những thằng thợ đá thì kể làm gì ! Ấy là nói chuyện
các nhà quyền thế, có danh vọng kia. Như Hoa Sơn ... như Bạch Hạc.
Bọn công nhân chất phác này, ngày nào cũng vào khoảng cuối giờ mùi,
thường kéo nhau lên quán nhấm nháp vài ly rượu trước khi tản mát về
các ngả trong xóm. Họ cười nói oang oang, bàn đủ mọi thứ chuyện.
Những ngày gần đây, chiến tích của Thạch Đạt Lang, một mình chống cự
với cả phái Hoa Sơn, là đầu đề cho bọn họ bàn tán không dứt.
Một anh thợ đá còn trẻ hoa chân múa tay, thuật lại những chiêu kiếm
của Thạch Đạt Lang cứ như thật. Y kể vanh vách danh tính các cao thủ
Hoa Sơn bị người “anh hùng dân gian” (danh từ của y) giết ra sao, sự
tấn công vũ bão của người anh hùng ấy vào đám đồ chúng Hoa Sơn như
vào chỗ không người như thế nào khiến cả bọn gật gù tán thưởng.
Chuyện này chắc y kể đã nhiều lần và mỗi lần kể lại thêu dệt thêm
vài chi tiết mới nên cử tọa khoái lắm, nhất là kèm theo lời tường
thuật, y còn lấy cái chổi ở góc phòng, bắt chước biểu diễn những
chiêu kiếm ấy một cách sống động nữa.
Bọn thợ đá chăm chú ngồi nghe không để ý tới bốn người đàn ông vừa
bước vào quán. Họ ăn mặc ra dáng kiếm sĩ nhưng ba người khoác tăng
bào đen phái Hồ Phong, còn một người trẻ tuổi cao lớn lại trang phục
diêm dúa và sặc sỡ như con nít, lưng đeo kiếm dài. Người trẻ tuổi ấy
chính là Giang Biên Liễu Cát Xuyên Mộc.
Cả bốn hách dịch ngồi vào bàn ngay ngoài hiên, khinh mạn nhìn bọn
thợ đá khiến bọn này nhột nhạt không dám bàn cãi gì nữa. Cát Xuyên
Mộc gọi trà bánh rồi cùng các tăng sĩ châu đầu vào nhau nói nhỏ
những gì không ai nghe rõ.
Bọn thợ im lặng một lúc, sau đó lại ồn ào hơn trước. Câu chuyện vẫn
không ngoài sự tán tụng võ nghệ của Thạch Đạt Lang, người mà đối với
họ là hiện thân của lòng dũng cảm tuyệt đối.
Nhưng lời tán tụng ấy có lẽ làm rát tai các tăng sĩ Hồ Phong và Cát
Xuyên Mộc, vì thấy cả bốn ngưng nói chuyện. Cát Xuyên Mộc cau mày
quay ra lớn tiếng, gọi:
- Này chú kia !
Bọn thợ giật mình. Một người đáp:
- Đại hiệp gọi chúng tôi ?
- Ừ, cái chú trẻ tuổi ngồi ngoài đó. Có vẻ chú đã chứng kiến trận
đánh ngay từ đầu.
Phải chăng chú phục Thạch Đạt Lang lắm ?
Người thợ tre gãi tai ậm ừ rồi gật:
- Giỏi chứ !
- Chú nói bậy bạ. Ta là Cát Xuyên Mộc, ngoại hiệu Giang Biên Liễu,
đứng lược trận ấy từ lúc khởi thủy không thể nhầm lẫn được. Thường
thì đối với những kẻ không hiểu võ nghệ, ta chẳng lý đến, nhưng các
chú huênh hoang tài năng tên đó quá độ, có thể làm cho những ai
không được thấy tận mắt như các vị đây, đánh giá nó sai lầm nên ta
phải chỉnh.
Có tiếng lẩm bẩm. Một số lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng không ai phản đối
gì. Được đà, Cát Xuyên Mộc lại tiếp:
- Phải biết rằng tên Thạch Đạt Lang đó rất xảo quyệt. Hắn gây hấn
với Hoa Sơn, một kiếm phái nổi danh, chỉ cốt để lấy tiếng trong võ
lâm. Phái Hoa Sơn ai còn lạ gì, bây giờ đang suy yếu. Phái ấy như
cái cây mục, đẩy một cái là gãy, ai cũng có thể làm được chứ Thạch
Đạt Lang tài cán gì ? Sở dĩ không ai làm vì không ai nỡ và vì lòng
kính trọng Hoa Sơn Khổ Bích là người sáng lập ra môn phái ấy mà
thôi.
Thạch Đạt Lang đã hèn hạ làm chuyện không đáng làm, lại còn đánh
lén. Trong những trận giao tranh với Hoa Sơn Sĩ Khánh, Hoa Sơn Điền
Chính, và ngay cả vừa rồi trên đồi Sinh Minh nữa, hắn đều đánh bất
ngờ. Đấy không phải là hành động đường hoàng mà là một thủ đoạn đáng
khinh bỉ.
Có tiếng người cắt ngang:
- Nhưng Thạch Đạt Lang đã đơn độc giao chiến với hàng trăm kẻ địch
...
- Đúng. Mới xem thì tưởng hắn anh dũng. Nhưng không phải ! Đó chỉ là
mành lới bày ra để khoa trương thanh thế và lấy tình cảm của võ lâm.
Ta chứng kiến vụ này từ đầu. Những chiêu kiếm của hắn toàn là tránh
né hoặc dùng mẹo vặt, không phải là những chiêu chính thống. Nếu nói
hắn có tài thì cái tài độc nhất nằm ở đôi chân hắn.
Khi gặp dịp, hắn chạy trốn nhanh không ai bì kịp.
Nói đoạn Cát Xuyên Mộc cười ha hả, rót mọt chén trà tự thưởng câu
nói vừa rồi mà hắn cho là ý nhị. Các tăng sĩ áo đen cũng cười phụ
họa, duy bọn thợ ngồi trên ghế loay hoay tỏ vẻ khó chịu.
- Lại còn chuyện này nữa:
hắn giết Hoa Sơn Tuệ Tâm, một đứa bé mới mười ba tuổi không biết võ
công. Thật dã man, hành động tàn nhẫn ấy không xứng đáng với tư cách
người cầm kiếm, đó là hành động đáng phỉ nhổ chỉ thấy ở những tên vô
lại ...
Rồi lan man, Cát Xuyên Mộc kể lại những chuyện xấu xa trong thời
niên thiếu của Thạch Đạt Lang ở làng Miyamoto, những hành vi mà gã
nghe thuật lại qua miệng các nhà sư áo đen phái Hồ Phong.
- Thế mà các chú phục hắn, tâng bốc hắn, coi hắn như bậc anh hùng.
Ta không có liên hệ gì với kiếm phái Hoa Sơn mà cũng không thù hằn
gì Thạch Đạt Lang. Ta chỉ đứng giữa, lấy điều công bằng mà nói. Một
người theo kiếm đạo như ta chỉ biết phục vụ sự thật và lẽ phải.
Cát Xuyên Mộc ngưng lại, uống một ngụm trà rồi quay qua các tăng sĩ
Hồ Phong:
- Trời đã ngả bóng. Bây giờ chúng ta chia tay ở đây để quý vị lên
đường kẻo trễ.
Ba tăng sĩ áo đen đứng dậy cùng thi lễ rồi bước ra ngoài. Bọn thợ
ngơ ngác một lúc rồi như tù được thả, ùa nhau ra khỏi quán, theo sơn
đạo tản mát vào các đường mòn khắp chỗ. Bóng núi ngả dần trùm lên
khu rừng và những bụi lau thưa rải rác. Một tiếng chim họa mi vang
trong buổi chiều tà, như giục kẻ tha hương mau tìm về tổ ấm.
Cát Xuyên Mộc trả tiền xong, bước ra cửa. Bỗng như sực nhớ điều gì,
hắn lại quay vào hỏi chủ quán:
- À ông quán, có bấc đèn không ?
- Dạ có, treo trên vách, sát cột. Khách quan cứ tự tiện lấy.
Trong quán chưa lên đèn. Cát Xuyên Mộc quờ quạng đến gần cây cột,
rứt vài sợi.
Túm bấc đèn rớt xuống đất. Gã cúi nhặt, bỗng thấy có hai bàn chân đi
dép cỏ duỗi song song trên chiếc ghế dài cạnh đấy. Theo bàn chân, gã
nhìn ngược lên. Một người nằm tên ghế. Nhìn mặt người nằm, gã giật
mình đánh thót, tưởng như vừa bị gáo nước lạnh hắt vào mặt. Gã nhảy
lui thủ thế.
- Kìa, bằng hữu !
Thạch Đạt Lang nhỏm ngay dậy. Đoạn cười, hàm răng trắng bóng trong
cảnh tranh tối tranh sáng của gian quán. Mắt hắn chòng chọc nhìn Cát
Xuyên Mộc.
Cát Xuyên Mộc ngượng. Gã có cảm tưởng như Thạch Đạt Lang đã nghe hết
những lời gã nói và trong cái cười ấy hàm ý chế giễu. Gã lấy lại
được bình tĩnh ngay, nhưng trong một thoáng, quả đã biểu lộ sự bẽn
lẽn.
- Kìa Thạch huynh ! Nằm trong này hồi nào mà kín tiếng thế ? Gặp lại
Thạch huynh, đệ rất mừng.
Nhưng vừa nói xong, gã hối ngay:
câu nói vừa sáo vừa giả dối. Gã chữa:
- Lần trước thật tiếc không được cùng đi với nhân huynh. Võ công của
huynh quả là tuyệt thế. Không ai tưởng tượng được một người chiến
đấu đơn độc mà lại có thể làm cho toàn phái Hoa Sơn phải xính vính
như vậy.
Thạch Đạt Lang mỉm cười đáp lễ:
- Đa tạ quý bằng hữu đã đứng làm trọng tài phân xử. Và cũng đa tạ
quý bằng hữu về những lời phê bình võ công của tại hạ. Không mấy khi
được nghe người khác phê bình mình, nay được cái hân hạnh ấy, tại hạ
thêm sáng mắt. Tại hạ không bao giờ quên.
Lời nói rất ư lễ độ, không mang một chút thù hận, nhưng khiến Cát
Xuyên Mộc rùng mình. Gã cười gượng:
- Tại hạ cũng vậy, không quên cuộc gặp gỡ hôm nay !
Nói đoạn cúi chào, bước ra cửa đi thẳng.
Hồi 50
Cây Liền Cành
Giang hớn hở
bước qua cổng. Chỗ Oa Tử và Giang ở bây giờ là một căn nhà gỗ nhỏ,
khuất sau khu vườn trúc cạnh một con suối hẹp. Căn nhà ra. đơn sơ do
một cư sĩ bạn Lưu tướng công cho mượn. Trước cổng treo tấm bảng “Sơn
Nguyệt Trang”, chữ đã mờ và nền gỗ nứt nẻ. Tuy đơn sơ, nhưng bầu
không khí thanh tịnh của cảnh vật thật hợp với tâm hồn Oa Tử, người
thiếu nữ đa cảm và đau yếu đang cần tĩnh dưỡng này.
Bệnh Oa Tử thuyên giảm nhiều. Mấy hôm nay nàng đã ăn được chút ít và
sắc diện hồng hào hơn. Nhưng mối u tình của nàng vẫn như một màng
lưới vô hình ngăn cách nàng với thế giới xung quanh.
Ngồi dưới hàng hiên, Oa Tử lơ đãng nhìn những đám mây trôi. Nắng
chiều đã nhạt. Vài con chim én chao đi chao lại bắt mồi nhắc nàng
liên tưởng đến quãng đời thơ ấu xưa kia trên chùa Tiểu Sơn. Lúc ấy
nàng cũng ngồi như thế này mơ mộng vẩn vơ. Bấy giờ nàng còn là một
cô bé thơ ngây, chưa biết buồn phiền, lo nghĩa; nhưng bây giờ, hình
bóng và tâm trạng ấy chỉ còn trong dĩ vãng. Và Oa Tử khẽ thở dài.
- Cô Oa Tử ! Em đã về !
Tiếng Giang vui vẻ gọi đột nhiên kéo nàng khỏi giấc mộng. Giang chùi
chân trên bãi cỏ trước nhà rồi bước lên hiên đến gần Oa Tử.
- Cô nghĩ gì mà thừ người ra thế ?
- Không ! Nghĩ gì đâu ! Có tin gì lạ không em ?
- Có. Tin này chắc làm cô vui lòng.
- Tin gì ? Oa Tử náo nức hỏi.
- Tin sư phụ. Nghe nói ông ẩn trên núi.
- Ồ !
Oa Tử vui mừng kêu. Nàng lấy tay ôm ngực. Sự xúc động khiến mặt nàng
hơi tái.
- Có người bảo hình như ông ở chùa Hồ Phong trong rừng Sinh Minh.
- Vậy cũng đỡ lo. Chắc không xảy chuyện gì nguy đến tính mệnh.
- Cô đi thăm không ? Em kiếm cái gì ăn rồi chúng ta cùng đi, kẻo ông
bỏ chỗ ấy thì chẳng biết đường nào mà tìm.
- Ừ, em vào lấy cơm ăn đi, cô để phần trong hộp ấy. Cô ăn rồi.
- Vâng, cô sửa soạn là vừa, em xong ngay bây giờ.
Giang nhảy chân sáo xuống bếp. Nó ăn vội vàng rồi lên nhà, nhưng
ngạc nhiên thấy Oa Tử vẫn còn ngồi bên cạnh bàn ngoài hiên, bất
động.
- Kìa ! Sao cô không sửa soạn đi ?
- Có lẽ cô không đi đâu, em ạ !
Giang sửng sốt:
- Sao vậy ? Lúc cô muốn gặp thầy em, lúc lại không, thế là thế nào ?
Oa Tử cầm tay Giang kéo xuống ghế.
- Cô nghĩ kỹ rồi. Cái đêm gặp thầy em trên núi, cô đã nói hết những
điều u uẩn trong lòng. Thầy em có lý tưởng riêng và không muốn sự gì
ràng buộc. Trên đời này, có lẽ thầy em và cô chẳng bao giờ còn cơ
hội gặp nhau nữa. Cô không rõ có phải thầy em muốn ẩn giấu tung tích
hay không nhưng được biết ông đã thoát hiểm là cô yên tâm rồi.
Nếu thầy em không cho người đến tìm cô thì cô gặp ông bây giờ chỉ
làm phiền ông mà thôi ...
- Vậy nếu không ai đến tìm cô, cô sẽ sống thế này mãi à ?
Oa Tử gật.
- Ứ ! Không được !
Giang dậm chân phản đối.
Oa Tử phân vân chẳng biết có nên giải thích cho thằng bé hiểu rõ ý
mình không, nhưng nhìn nét mặt hờn giận của Giang và nghĩ đến lòng
nhiệt thành của nó, nàng không thể không nói. Vả nó đã lớn, có lẽ
giãi bày tâm sự cho nó hiểu càng làm tăng sự cảm thông giữa hai
người.
- Giang. Em đã biết đấy. Cô yêu Thạch Đạt Lang với tất cả tâm hồn.
Trước đây cô tưởng mối tình không được đáp ứng, nhưng sau khi gặp
lại thầy em sau gần năm năm xa cách, cô đã hiểu và tin cậy ở chàng
vô cùng. Thạch Đạt Lang với cô bây giờ như cây liền cành, dù phải xa
nhau hàng vạn dặm hay có bị chia lìa vì cái chết thì hai người cũng
vẫn như một. Cho nên cô không thấy cô độc nữa. Cô có thể cứ sống như
thế này suốt đời để cầu nguyện cho thầy em tìm được con đường muốn
đi và đạt được lý tưởng thầy em theo đuổi ...
- Cô nói dối ! Thế sao cô vẫn muốn gặp ông và khi không được gặp, cô
lại khóc ?
Cô có bằng lòng cuộc sống như thế này đâu ?
Oa Tử rút khăn lau nước mắt. Giang cầm tay nàng lắc mạnh:
- Đấy ! Cô lại khóc rồi !
Oa Tử ngẩng nhìn Giang, mắt đỏ hoe nhưng miệng mỉm cười:
- Cô mềm yếu quá phải không em ? Tại cô không cầm được xúc động mỗi
khi nghĩ đến thầy em. Em ăn cơm rồi à ?
- Ăn rồi.
Giang đáp sẵng. Nó giận Oa Tử vì có cảm tưởng như bị lừa dối. Mấy
ngày nay, Giang đã mất nhiều công dò hỏi tin tức sư phụ, hy vọng khi
tìm được chỗ ẩn của Thạch Đạt Lang, chắc thế nào Oa Tử cũng đến
thăm. Ngờ đâu nàng không cùng một ý. Giang bỏ ra suối ngồi.
Chiều xuống thong thả. Bóng núi đổ trên những khu rừng xa loang to
dần thành từng mảng màu lam sẫm. Giang lấy chân khỏa nước. Nước
trong nhưng lạnh khiến nó vội vàng rụt chân lại, xuýt xoa:
- Chà, lạnh dữ !
Ngồi một lúc, cơn giận dường đã tan, Giang đứng lên về nhà. Bỗng một
gia nhân trong dinh Lưu tướng công hối hả chạy đến:
- Giang ! Có thư !
Vừa nói vừa lấy trong bọc ra một cuộn giấy nhỏ trao cho thằng bé.
Trao xong, còn dặn:
- Tướng công nói cô nương phải bảo trọng sức khỏe. Nếu cần giúp đỡ
gì, cứ đến dinh.
Giang gật đầu, cầm thư. Nhìn chữ đề bên ngoài, nó thốt kêu mừng rỡ:
- Ô ! Đúng chữ thầy ta đây ! Vậy là ông còn sống !
Rồi định bật niêm giở ra đọc, nhưng dừng ngay lại kịp. Thư gửi cho
Oa Tử, không phải cho nó. Hờn giận lại kéo đến, Giang xịu mặt, lững
thững đi vào. Oa Tử hỏi:
- Thư của ai đấy em ?
- Của sư phụ !
Nét mặt Oa Tử tươi hẳn lên:
- Thư gửi cho cô hả ?
- Gửi cho cô ! Nhưng ông ở đâu, cô để ý làm gì ?
Oa Tử mỉm cười thấy Giang giấu thư ra sau lưng. Nàng định giật lấy
nhưng Giang né tránh, chạy vòng quanh bàn.
- Giang ! Em ác lắm nhé !
Oa Tử đuổi theo. Hai, ba vòng thấm mệt, nàng ngồi thở dốc. Thằng bé
ái ngại đến bên, chìa cuốn thư ra:
- Em xin lỗi. Thế mà cô bảo không muốn đi thăm. Không muốn đi thăm
mà mới nghe nói có thư đã rối rít cả lên !
Nhưng Oa Tử không quan tâm đến lời Giang chế giễu. Nàng cầm thư chạy
ngay vào phòng.
Những ngón tay run rẩy trắng bệch bật vội sáp niêm. Đèn mới khêu mà
hoa đèn đã nở, chắc có tin vui. Oa Tử đọc đi đọc lại không biết chán
những chữ thân yêu, nét mực còn đen nhánh. Trong thư, Thạch Đạt Lang
hẹn rõ nơi gặp. Hai hàng lệ chứa chan, nàng không ngờ có được cơ hội
và hạnh phúc như thế.
Bất giác liên tưởng đến câu thơ của Bạch Cư Dị tả nàng Dương Qúy Phi
lúc ở âm cảnh được tin vua Đường gửi xuống:
Ngọc dung tịch mịch lệ lan can Lê hoa nhất chi xuân đới vũ Oa Tử
thẹn, chùi nước mắt, tự nhủ:
“Chắc bây giờ chàng đang đợi ta. Ta phải sửa soạn hành trang ngay
mới được !”. Bèn viết vài hàng vội vã cáo biệt chủ nhân cùng Lưu
tướng công rồi xếp quần áo vào đẫy.
Ra khỏi phòng, thấy Giang vẫn còn ngồi ngoài hiên, nét mặt ủ rũ, Oa
Tử gọi:
- Giang ! Em vào sắp quần áo rồi đi với cô chứ !
Thằng bé chẳng đáp mà cũng chẳng nhìn Oa Tử. Nàng đến bên đặt tay
lên vai nó:
- Em vẫn giận cô đấy à ?
- Sao không giận được ? Thư sư phụ nói những gì mà cô giữ bí mật thế
?
- Ấy chết ! Cô quên ! Tại mừng quá đấy mà. Không có lý do gì mà cô
lại giấu em.
Đây, Giang đọc đi !
- Không đọc nữa. Em chả muốn đọc.
- Giang ! Đọc đi ! Đây là cái thư đầu tiên thầy em gửi cho cô và hẹn
gặp cô. Cô mừng quá !
Nét mặt Oa Tử rạng rỡ khiến Giang cũng vui lây. Nó quên hết những
điều hờn giận trước.
Tuy trời tối nhưng cả hai đều muốn đi ngay để hôm sau đến kịp nơi
hẹn.
- Hôm nay có trăng. Đi ban đêm càng mát, cô nhỉ.
oo Thạch Đạt Lang đến trấn Ô Tu lúc trời hửng sáng. Vài sợi khói
xanh nhạt mỏng manh bốc lên nhẹ nhàng từ những mái rạ. Qua bầu không
khí ướt sương, hắn đã nhìn thấy mờ mờ những con đường ngang dọc
trong trấn. Thạch Đạt Lang tự hỏi không biết Oa Tử đi đường nào tới.
Thư đến tay nàng chắc cũng phải nửa ngày. Ban đêm nàng phải nghỉ,
chắc buổi sáng mới khởi hành. Với sức đi bộ của Oa Tử thì đến được
chỗ hẹn ở cầu Kara buổi chiều cũng là sớm. Cho nên hắn cứ thong thả
dẫn bò đi, vừa đi vừa ngắm cảnh.
Qua một cây đền có nhiều cây anh đào cổ thụ, hoa mới nở còn động
sương mai, Thạch Đạt Lang thích thú thưởng ngoạn từng thế cành, từng
bông hoa hàm tiếu. Những cây anh đào này chắc đã được trồng từ lâu
lắm nên gốc mới vặn vẹo nghiêng ngả vì mưa gió. Có cây cong trĩu
xuống như người lễ Phật, có cây giơ cành ra tựa như chào đón khách
thập phương. Mỗi cây một vẻ, cây nào cũng đẹp.
Nhưng điều Thạch Đạt Lang ưa thích nhất là sức sống mãnh liệt của
chúng. Cành non vươn lên, thẳng và mạnh như những nét phát của một
họa sĩ tài hoa, lấy sinh lực luân lưu trong lòng thớ gỗ cổ thụ để
nuôi dưỡng hoa mới, truyền lại đời sau một mầm sống tốt đẹp.
Cạnh đền, trên một cái gò thấp, dựng một bia đá. Thạch Đạt Lang tò
mò đến gần xem, thấy có chữ li ti khắc trên bia. Thì ra là một bài
ngụ ngôn hắn đã biết và thuộc lòng từ nhỏ. Bài ngụ ngôn kể chuyện
một vị tăng già đang đứng chiêm ngưỡng bóng đức Phật Quan Âm ánh
trên mặt hồ trong cung, bỗng thấy một phi tần hái hoa đi ngang đấy.
Phi tần đẹp tuyệt vời khiến vị tăng già không sao kềm chế được lửa
dục. Bao nhiêu đạo đức thu thập được sau gần một kiếp tu hành bỗng
nhiên mất hết. Vị tăng trở về căn nhà cỏ, đốt hương trước Phật đài
cầu nguyện. Nhưng trông đâu cũng chỉ thấy mặt mỹ nhân.
Trông song cửa tưởng lược cài, trông mây tưởng tóc ...chỗ nào cũng
có bóng dáng người đẹp. Mấy ngày đêm như thế, tâm hồn hoang mang,
dao động, vị tăng già buồn bã, hổ thẹn. Ông không mong gì thấy niết
bàn nữa nên nhất quyết đi tìm nàng cung phi để thổ lộ nỗi lòng, dù
có chết cũng được bình yên mà chết ... Đến trước hoàng cung, ông cắm
gậy xuống đất đứng chờ ... suốt ngày ... suốt đêm ... Suốt ngày ...
suốt đêm ...
Thạch Đạt Lang vừa dắt bò vừa lẩm nhẩm đọc bài ngụ ngôn như người
đọc kệ, nhưng không sao nhớ lại được đoạn cuối ra thế nào.
- Đại hiệp ! Đại hiệp dắt bò ! Dừng lại đã !
Một tráng niên dáng nông phu chạy theo. Thạch Đạt Lang dừng lại. Gã
nông phu để tay lên đầu con vật và xoa mũi nó. Dường như nhận ra
người quen, con bò vẫy tai kêu “bò ...ò ...” ra vẻ bằng lòng lắm.
- Đại hiệp ở trên chùa Hồ Phong xuống ?
- Phải ! Sao bác biết ?
- Tôi cho sư thầy trên chùa thuê con bò này để chở đậu. Sao đại hiệp
lại dẫn nó đi đâu ?
- Ồ ! Thế ra bác là chủ bò đấy ? Trên chùa nhờ tôi dẫn nó về trả
bác. Nhưng tôi muốn thuê nó ít lâu nữa để đi Edo, bác thuận không ?
- Tôi không phải chủ mà chỉ là người làm ở trại. Đại hiệp muốn thuê
cứ dắt đến trại. Cũng gần đây thôi, tiện đường lắm.
Quả nhiên trại ở ngay ngã ba sông, rất tiện cho khách thương hồ đi
lại. Chỉ còn vài dặm là đến trấn Ô Tu, chỗ này có thể coi như cửa
ngõ vào trấn nên hàng quán đông đúc.
Sau khi thuê bò xong, Thạch Đạt Lang dùng điểm tâm ngay tại quán gần
đấy, mua vài thức lặt vặt rồi lại thong thả giong bò đi.
Hắn nghĩ đến lúc được hội ngộ Oa Tử mà lòng xốn xang. Trước đây, tuy
yêu Oa Tử thành thực, Thạch Đạt Lang vẫn sợ những ràng buộc. Nhưng
bây giờ, sau khi đã gặp nàng trên núi, hắn không còn e ngại nữa.
Oa Tử thông minh, xinh đẹp, nhiệt thành và nhất là thông cảm mối ưu
tư của hắn, nên hắn tin tưởng vô cùng. Thạch Đạt Lang nguyện sẽ
không từ chối bất cứ điều gì Oa Tử muốn nhưng ngược lại, nàng phải
tôn trọng nếp sống kiếm sĩ của hắn. Dù sao chăng nữa, Thạch Đạt Lang
không muốn lưỡi kiếm sắc của mình bị nhụt.
Mỉm cười, Thạch Đạt Lang nói thầm như tự nhủ:
- Không khéo thành ông sư già trong truyện ngụ ngôn mất. Bây giờ đến
lượt ta, phải giữ sao đừng để cho sóng tình dìm mình chết đuối.
Trời sáng hẳn. Cầu Kara hiện rõ ở phía chân trời. Cầu gồm hai nhịp,
nối liền với nhau bằng một đảo nhỏ. Trên đảo một cây liễu lớn mọc
vượt hẳn lên trên những tàn cây khác, từ xa trông rất rõ nên khách
thập phương dùng nó làm mốc gọi là Liễu Kiều. Lên tới giữa nhịp cầu
thứ nhất, Thạch Đạt Lang đã nghe tiếng reo vui mừng của tên học trò
nhỏ:
- Kia rồi ! Sư phụ kia rồi !
Giang vừa nhẩy cẫng lên vừa chỉ trỏ cho Oa Tử trông thấy. Nàng ở
quán trà dưới gốc liễu bước ra, lấy tay che ánh nắng sớm làm chói
mắt.
- Đó ! Ông đi ở trên cầu đó ! Ồ, mà sao ông lại dắt con bò ?
Giang cắm đầu chạy lên cầu đón thầy. Thạch Đạt Lang cười, phô hàm
răng trắng bóng, giơ hai tay ôm chặt lấy Giang vào lòng:
- Lâu ta không gặp con. Con nhớ ta không ?
Không đáp, Giang chỉ gật. Nó thấy cay cay ở mắt. Giang cầm lấy dây
dắt bò cho thầy, đi bên cạnh, liến thoắng:
- Cô Oa Tử kia kìa ! Ở trước quán. Thầy mua bò làm gì ? Để cưỡi đấy
à ? Thầy đau chân hay bị thương không đi được ?
Thạch Đạt Lang mỉm cười:
- Không, ta không sao. Bò ta thuê cho Oa Tử cưỡi đi Edo.
Giang mừng rỡ:
- Vậy con cũng cưỡi.
Nói đoạn quay lại kêu “bò” nhại con vật. Con bò không biết gì cũng
đáp bằng một tiếng “bò ... Ò” dài như trêu tức nó làm cả hai thầy
trò cùng cười vui vẻ.
Đến trước quán, Thạch Đạt Lang nhìn Oa Tử và Oa Tử nhìn hắn. Bốn mắt
đầy tình ý yêu thương nhưng chẳng ai nói một lời. Trước mặt khách
lạ, họ sượng sùng không muốn biểu lộ cảm nghĩ.
Nhìn về phía sau, giàn hoàng đậu đã trổ hoa. Thạch Đạt Lang bảo Oa
Tử:
- Hoa mới nở đẹp quá.
Rồi bước ra vườn. Oa Tử đi theo, có Giang bên cạnh liến láu kể
chuyện ở Sơn Nguyệt trang cho thầy rõ. Sự ngượng ngùng nhờ thế cũng
hết và một lát sau, người ta đã nghe tiếng cười và tiếng nói chuyện
nho nhỏ giữa hai người.
Một làn chớp bỗng lóe lên trong không khí, tiếp theo là tiếng sấm
vang động làm Oa Tử giật mình, run rẩy.
Chủ quán chạy ra, tay ô tay nón vẫy gọi:
- Các vị vào thôi. Sắp bão đến nơi rồi !
Đằng xa, phía đỉnh núi, mây đen từng đám đùn lên chẳng mấy chốc đã
kín cả bầu trời. Gió thổi ào ào làm rung động các chùm hoa vàng trên
giàn hoàng đậu và những con ong vò vẽ cuối cùng cũng đã bỏ đi nơi
khác từ bao giờ.
Vài giọt mưa bắt đầu rơi lộp độp.
Giang thích thú vỗ tay reo:
- Mưa ! Ồ mưa ! Thật là đúng lúc !
Đối với Giang, mưa đến thật là đúng lúc nhưng đối với Thạch Đạt Lang
và Oa Tử, cơn mưa làm cả hai bối rối. Cùng đi vào phòng cả thì có vẻ
như là một đôi tình nhân hẹn hò nhau trong tiểu thuyết nên Thạch Đạt
Lang nấn ná ngoài vườn. Oa Tử bước vào hiên, tà áo vàng của nàng run
rẩy không khác gì những chùm hoa hoàng đậu.
Hồi 51
Thác Phu Phụ
Hôm sau, cả ba
người, Oa Tử, Thạch Đạt Lang và đồ đệ rời quán trà Liễu Kiều lên
đường đi Edo. Trời quang đãng, ánh nắng đầu mùa chan hòa, vạn vật
dường tươi đẹp hẳn lên. Màu lá cây xanh non, không khí trong vắt.
Ven suối, những cánh hoa rừng rụng sau trận mưa vừa rồi còn rải rác
trên nền cỏ ướt.
Oa Tử cưỡi bò, Thạch Đạt Lang thong dong đi cạnh. Cả hai nét mặt hớn
hở. Bao nhiêu sầu muộn trước đây hình như họ đều để lại đằng sau cả.
Giang chạy nhảy như con sóc. Nó lấy lá cuộn thành kèn thổi te te và
đuổi bắt những con sáo sậu đậu ở vệ cỏ.
Mặt trời mỗi lúc một cao, Giang đã thấy mồ hôi vã lấm tấm. Nó lấy
tay quệt:
- Nóng quá ! Mới sáng mà đã nóng. Đây là đâu thế thầy.
- Đèo Mã Yên Sơn. Nghe nói khúc này khó đi lắm, sang bên kia, đường
mới khá hơn.
- Thảo nào con thấy mệt !
Thạch Đạt Lang phì cười:
- Tại con chạy nhảy nhiều. Đường còn dài, muốn đi lâu phải giữ sức
chứ !
Oa Tử xen vào:
- Mình chả có gì vội. Đường vắng, cứ thong thả, đến Edo lúc nào thì
đến.
Giang phản đối:
- Tại cô cưỡi bò. Thử đi bộ như em xem !
Nhưng vừa than mệt xong, Giang đã quên ngay. Thấy đằng xa có thác
nước, Giang vội reo lên:
- Ồ ! Đằng kia có cái thác. Ta lại xem đi thầy !
Thạch Đạt Lang cũng phụ họa:
- Ờ phải đấy, ta lại đó nghỉ chân.
Cả ba rẽ vào đường mòn. Càng vào sâu, cảnh càng hoang dã. Cỏ cao
ngang đầu gối, hoa dại rụng đầy, sau trận mưa, nước suối dâng cao
kéo theo những cành khô gẫy dạt vào bờ từng đám.
Tiếng nước đổ ầm ầm nghe mỗi lúc một rõ, muốn nói chuyện với nhau
phải cao giọng hơn bình thường.
Đến gần thác, thấy có gian lều gỗ chẳng biết ai đã dựng lên, dùng
làm chỗ trú chân thật hợp ý.
Giang đỡ Oa Tử trên lưng bò xuống, rồi dẫn con vật buộc vào gốc cây
hòe gần một thảm cỏ mướt. Oa Tử chỉ tấm biển gỗ dựng bên thác:
- Kìa ! Tấm biển đề tên thác nước:
Meoto no taki - thác Phu Phụ - tên nghe lạ quá!
Chàng biết tại sao có tên ấy không ?
Thạch Đạt Lang lắc đầu. Cả hai lẳng lặng đứng nhìn nước từ trên núi
ầm ầm đổ xuống, tung bọt trắng phau. Họ đoán có lẽ dòng nước, khi
đến chỗ dốc trước khi đổ xuống vực sâu đã bị chia hai, một bên chảy
hùng tráng mạnh mẽ, một bên thong thả êm đềm, nên mang tên thế
chăng.
Dù thế nào đi nữa, thác nước thật đẹp. Hai dòng song song bổ túc cho
nhau trước khi nhập chung làm một, đổ từ trên cao hàng chục trượng
xuống một cái hồ lớn rồi chia thành nhiều nhánh len lỏi giữa những
ghềnh đá xanh rêu như những con rắn bạc mất hút trong đám cỏ lau và
cây rừng rậm rạp dưới chân núi.
Nước chảy liên miên, tiếng thác nước ầm ầm đổ khiến phong cảnh sống
động và như tiếp cho Giang một nguồn sinh lực mới. Thằng bé nhảy
trên những hòn đá ngổn ngang, la hét vang trời, thỉnh thoảng ngưng
lại để nghe giọng mình dội vào vách đá vang vang, lấy làm thích thú.
- A ! Có cá ! Có cá !
Giang nhặt đá ném. Hết con này đến con khác, cứ thế mê mãi đuổi cá
theo dòng suối xuống vùng hạ lưu. Chẳng bao lâu tiếng la hét của nó
loãng đi và bị tiếng thác nước khỏa lấp, không còn nghe thấy gì nữa.
Trong bóng mát của gian lều, Thạch Đạt Lang và Oa Tử ngồi cạnh nhau,
giữa hằng hà sa số những vòng hào quang sặc sỡ như những chiếc cầu
vồng nhỏ do ánh mặt trời chiếu lên trên nền cỏ ướt. Oa Tử nói:
- Không biết thằng bé chạy đâu ? Mười bốn mười lăm rồi mà còn nghịch
ngợm quá!
- Nó còn trẻ con. Ở tuổi ấy, ta nghịch hơn thế nữa. Trái lại, Mãn Hà
Chí lại khác ta. Hắn hiền như bụt. Chẳng biết bây giờ hắn đâu. Hắn
đáng phải để ý hơn là thằng bé.
- Nói đến Mãn Hà Chí, thiếp mới sực nhớ, mong hắn đừng có mặt.
- Sao vậy ? Có mặt Mãn Hà Chí mình sẽ giải thích để hắn khỏi hiểu
lầm. Tốt chứ.
Oa Tử bứt cỏ:
- Chẳng biết hắn có hiểu không ? Mẹ con bà Hồ Điểu nhiều thành kiến
và bướng lắm, không như mọi người đâu.
- Oa Tử ! Có chắc nàng không đổi ý không ?
Oa Tử ngạc nhiên, hỏi lại:
- Đổi ý về việc gì ?
- Về lòng mình. Ta muốn nói nàng có hối hận đã từ hôn Mãn Hà Chí
chăng ?
Oa Tử cau mày như vừa nghe một điều trái ý.
- Không ! Thiếp không bao giờ hối hận !
Thiếu nữ mặt ửng đỏ, gục đầu, lấy tay bưng mặt. Cử chỉ ấy cùng những
rung động nhẹ của đôi vai nàng, tất cả đều như gào lên một sự thật:
“Lòng thiếp thuộc về chàng, chàng không biết ư ? Thiếp là của chàng
chứ chẳng phải của ai hết”.
Tiếc đã lỡ lời, Thạch Đạt Lang quàng vai Oa Tử tha thiết. Mấy ngày
nay, nhìn ánh sáng đùa giỡn trên thân hình người thiếu nữ, ban đêm
dưới ngọn đèn mờ lay động, ban ngày dưới ánh dương quang lộng lẫy,
nhìn làn lông tơ lấm tấm mồ hôi, hắn nghĩ đến một bông sen mới nở
còn ướt sương mai.
Trong quán trà, chỉ nằm cách nhau một tấm bình phong mỏng, hắn đã
ngửi mùi hương từ mái tóc người thiếu nữ bay ra phảng phất lẫn với
mùi da thịt nồng ấm. Giờ đây, tiếng thác đổ ngoài kia khích động hắn
vô cùng. Mạch máu hắn chảy mạnh. Thạch Đạt Lang cảm thấy nhộn nhạo
khác thường, bèn bỏ ra xa, đến gần chỗ nước chảy, ngồi khuất trong
đám cỏ cao.
Được một lúc, Oa Tử cũng tới bên, ôm gối hắn và ngước mắt nhìn bộ
mặt đăm chiêu thoáng chút hốt hoảng của người yêu.
- Giận thiếp đấy ư ? Nếu có điều gì không phải, cho thiếp xin lỗi.
Thạch Đạt Lang không đáp. Mặt hắn đanh lại, cố làm ra vẻ nghiêm
trang. Oa Tử bỗng ôm lấy cổ hắn ghì chặt. Mùi hương của thiếu nữ và
cử chỉ nồng nàn ấy khiến Thạch Đạt Lang ngây ngất. Hắn không còn tự
chủ nổi, ôm chặt lấy Oa Tử và đè nàng xuống cỏ.
- Oa Tử ! Oa Tử !
Nhưng Oa Tử vùng vẫy, cố thoát khỏi vòng tay lực lưỡng của hắn.
- Đừng ! Đừng ! Thạch Lang, chàng mà cũng thế ư ?
Lệ ứa ra hai bên khóe mắt, tiếng nức nở và nét mặt van lơn của người
thiếu nữ làm Thạch Đạt Lang sửng sốt. Hắn bỏ Oa Tử ra. Nàng kinh hãi
chạy về lều.
Một chiếc túi nhỏ đựng đồ trang sức từ tay áo Oa Tử rớt xuống đất
nằm trên cỏ, bên một cánh hoa nhàu nát. Thạch Đạt Lang đăm đăm nhìn
cái túi, thảng thốt:
- Ta đã làm gì ? Ta đã làm gì Oa Tử ?
Xấu hổ và hối hận tràn ngập lòng người trẻ tuổi. Hắn bị lạc hướng và
có cảm tưởng như vừa bị xúc phạm. Oa Tử lừa dối hắn sao ? Nhưng lời
nói của nàng, mắt nàng, môi nàng, tóc nàng, cả thân thể và dáng điệu
của nàng nữa, đều mời mọc hắn, thổi bùng ngọn lửa đam mê trong lòng
hắn, rồi khi ngọn lửa ấy đã phừng cháy, cũng lại chính nàng dập cho
nó tắt.
Sao vậy ? Thạch Đạt Lang không ý thức được trinh tiết đối với Oa Tử
quý trọng đến mức nào và sự cố gắng của nàng để người yêu không bị
ràng buộc bởi những trách nhiệm khác ngoài kiếm đạo. Hắn chỉ nhìn
thấy sự thất bại chua cay của mình trong sự không kềm chế nổi lòng
ham muốn. Hình như bao nhiêu cố gắng để trở thành người phi thường
của hắn đều hư ảo, hão huyền cả.
Thạch Đạt Lang phục xuống cỏ. Hắn tự nhủ chưa làm điều gì xâm phạm
nhưng sao lương tâm hắn vẫn không an ổn. Mùi đất ẩm xông lên, Thạch
Đạt Lang dần dần lấy lại được bình tĩnh. Khi đứng dậy, mắt hắn không
còn ngọn lửa đam mê nữa mà nguội lạnh như tiền. Dường như hắn vừa
nghe tiếng gọi, tiếng gọi của sông rộng núi cao, của lý tưởng hắn đã
nguyện phục vụ. Lông mày hắn cau lại như trước kia hắn đã cau lại
lúc phải đơn phương lâm trận với hàng trăm đệ tử Hoa Sơn dưới gốc cổ
tùng. Một đám mây che khuất vầng thái dương. Con chim rừng bay qua,
buông tiếng kêu lanh lảnh. Cơn gió đổi chiều làm tiếng thác nghe
khác lạ. Thạch Đạt Lang phanh ngực áo, thong thả đến gần chân thác
nước.
Như con chim sẻ nhỏ sợ hãi, Oa Tử đứng sau gốc sồi lớn chứng kiến
tất cả những băn khoăn lo lắng của người tình. Nàng không biết Thạch
Đạt Lang có hiểu cho nàng không. Thấy Thạch Đạt Lang đau đớn, đã mấy
lần Oa Tử muốn chạy ra giải thích cho chàng rõ, nhưng hình như có
cái gì cầm chân nàng lại. Lần đầu tiên, nàng thấy thần tượng của
nàng, người mà nàng đã dâng hiến cả linh hồn, không phải là hiện
thân của đạo đức như nàng tưởng. Sự phát hiện ra trong con người
Thạch Đạt Lang một con thú trần trụi với dục tính mãnh liệt khiến
mắt Oa Tử mờ đi vì buồn rầu và kinh hãi.
Oa Tử muốn chạy, tìm một chỗ nào thật vắng vẻ ẩn tránh. Nàng muốn
bình tĩnh hơn để suy nghĩ, nhưng đi một quãng lại lo sợ và bất định.
“Có lẽ Thạch Đạt Lang khác mọi người. Lòng ham muốn và sự tỏ tình
của chàng cũng khác. Ta đã làm khổ chàng”.
Bèn quay trở lại chỗ Thạch Đạt Lang đứng, nhưng chẳng thấy ai, chỉ
thấy hơn nước như sương bao phủ và tiếng thác đổ ầm ầm rung chuyển
cả căn lều gỗ.
- Cô Oa Tử ! Cô Oa Tử đâu ?
Tiếng Giang gọi thất thanh.
- Cô đây.
- Sư phụ ngã xuống thác rồi ! Cô đứng đây, em xuống xem sao.
Giang nắm dây leo, chuyền xuống giữa những phiến đá trơn trượt.
Nhưng Oa Tử làm sao mà có thể cứ đứng ở đây được. Nàng cũng tìm cách
theo chân thằng bé.
Đến lưng chừng ghềnh, Oa Tử thấy một vật gì như phiến đá trắng ở
giữa thác.
Chính là Thạch Đạt Lang, tựa một sinh vật tí hon giữa cảnh hùng vĩ
của thác nước cao hàng chục trượng trên đầu !
Hai tay chắp trước ngực, trần truồng, hắn cầu nguyện.
- Sư phụ !
- Thạch Đạt Lang !
Nhưng những tiếng hét ấy chẳng bao giờ hắn nghe được. Như nghìn
nghìn vạn vạn con rồng bạc điên cuồng gầm thét xung quanh, đưa móng
vuốt ra quấn lấy vai lấy tay hắn, sẵn sàng lôi hắn đi, những dòng
nước nghìn cân nặng của thác Phu Phụ có thể đưa hắn tới cái chết tăm
tối. Một chút sơ hở, mất thăng bằng, một hơi thở sai lại khiến công
lực suy giảm, Thạch Đạt Lang sẽ bị cuốn vào vực sâu, không cách gì
trở lại.
Hắn có cảm tưởng như tim phổi và cơ thể hắn bị sức nặng của cả dãy
Mã Yên Sơn đè lên. Hắn không thể khinh xuất.
Ngọn lửa dục vọng trong lòng hắn lụi dần ...lụi dần ...Ngọn lửa ấy
giống như lòng tham vọng trước đây đã đẩy hắn ra trận Sekigahara, đã
là động lực thôi thúc hắn thực hiện những võ công phi thường. Nhưng
nếu hắn không hướng dẫn, chế ngự được tham vọng, nó sẽ biến hắn
thành giống thú hung bạo. Mà với một kẻ thù vô hình, nguy hiểm như
thể ẩn tàng trong xương thịt, đau đớn thay cho Thạch Đạt Lang, lưỡi
gươm của hắn lại vô dụng !
Ý thức sự thất bại hiển nhiên của mình, Thạch Đạt Lang hoang mang
bối rối.
Đứng dưới thác nước điên cuồng, hắn cầu nguyện, mong tìm sự quân
bình của thể xác và tâm hồn trong khi tranh thắng với cơn thịnh nộ
của trời đất, cũng như trước kia hắn đã tranh thắng ngọn Đại Bàng
Sơn.
- Sư phụ ! Sư phụ đừng bỏ con !
Tiếng thét của Giang giờ đây là một lời van xin nức nở. Nó cũng chắp
tay trước ngực, mặt nhăn lại, cùng chia xẻ với thầy sức nặng ghê gớm
của khối nước, niềm đau và sự buốt lạnh thầy nó đang gánh chịu.
Giang không hiểu sao sư phụ mình lại làm thế. Đứng dưới thác nước
cho đến chết chăng ?
Bỗng nó giật mình:
cô Oa Tử cũng không còn trên bờ bên kia nữa. Hay lại ngã xuống suối
rồi ?
Đột nhiên, giữa những tiếng gió hú và thác đổ ầm ầm, Giang nghe
tiếng thầy.
Tiếng được, tiếng mất, không rõ ràng, chẳng biết là lời niệm kinh
hay là những lời tự trách, nhưng tiếng thầy nó mạnh lắm, đôi lúc át
cả tiếng gió gào và tiếng thác đổ.
Rồi thầy nó thận trọng bước ra khỏi thác. Vẻ trẻ trung và mãnh liệt
giờ đây lồ lộ trên tấm thân cùng tráng của Thạch Đạt Lang. Tâm, thân
hắn đã được thanh lọc để sẵn sàng bắt đầu một đời sống mới.
Hiểm họa đã qua. Giang thở phào. Nếu cô Oa Tử không còn ở trên bờ
nữa thì chắc cô cũng đã về lều, vì cô tin rằng sư phụ nó không sao
cả.
- Cô Oa Tử chắc hiểu thầy mình hơn mình.
Nó nghĩ thế rồi nhảy từng bước nhẹ nhàng trên những hòn đá, tìm
quãng suối hẹp lội sang bờ bên kia.
Khi đến gần lều, Giang rón rén nhìn vào trong thấy Oa Tử ôm áo và
kiếm của sư phụ, mặt đầm đìa nước mắt, nhưng môi lại như mỉm cười.
Oa Tử không giấu mình khóc. Giang thấy lần này những giọt nước mắt
của cô Oa Tử khác những giọt nước mắt những lần trước. Nó không hiểu
tại sao, chỉ linh cảm một chuyện gì quan trọng lắm đã xảy ra giữa
hai người.
Giang bỏ đi, ra chỗ gốc hòe, nằm xuống thảm cỏ cạnh con bò và nói:
- Cứ thế này thì bao giờ mới đến Edo ?
Hồi 52
Một Vụ Cưỡng Bức
Trên đỉnh núi
bên kia đèo, tuyết chưa tan, trắng lóa mắt nhưng ở chân đồi, hai bên
bờ sơn đạo, nơi Oa Tử và Giang thong dong bước, cây cỏ xanh mát.
Gió thổi nhẹ hiu hiu, đồng cỏ lau gợn sóng.
Giang dong bò cho Oa Tử cưỡi. Nó đang tuổi lớn, tuy dáng người mảnh
khảnh nhưng màu da bánh mật và ánh mắt tinh anh tiềm ẩn một sức sống
dồi dào. Nhìn Giang, Oa Tử đã thấy trước một thanh niên dũng cảm và
quả quyết, nhưng lằn ranh giữa lòng quả cảm và bướng bỉnh mảnh như
tơ, khó mà phân định.
Càng lớn, Giang càng bướng bỉnh và đòi hỏi, nhất là nó lại quen sống
nếp sống phóng túng không gì câu thúc.
Tính bướng bỉnh ấy khiến Oa Tử nhiều khi bực mình, nhất là sự háu ăn
của nó, thật không giới hạn. Khi đi ngang qua một quán ăn hay một
cửa hàng thực phẩm, thế nào Giang cũng đòi mua một thứ gì. Nếu không
thì ì ra, không chịu dẫn bò đi nữa.
Qua xóm Suhara, đã ăn bánh bỏng ở một quán ven đường rồi, mới được
vài dặm, Giang đã kêu đói. Cả hai phải tạt vào dùng bữa sáng tại một
hàng cơm cuối xóm. Ăn xong, Giang lại nói với Oa Tử:
- Vùng này hồng khô ngon có tiếng. Cô mua một ít mang theo để ăn
đường chứ !
Nhưng Oa Tử lờ đi như không nghe thấy.
Đến Fukushima, một thị trấn khá quen thuộc có nhiều món ăn đặc biệt,
ngửi mùi thơm từ trong bếp bay ra, Giang không nhịn được, nài nỉ:
- Cô Oa Tử, hay ta nghỉ chân ở đấy một lát.
Oa Tử lặng thinh. Thằng bé hểnh mũi hít hà:
- Thơm quá ! Cô không ngửi thấy gì à ?
- Mình mới ăn xong mà, cứ dừng lại luôn như thế, bao giờ mới đến nơi
!
- Nhưng em đói ...
Vừa nói, Giang vừa giữ chặt dây thừng. Con bò, dường như đồng tình
với nó, cũng dừng lại gặm cỏ.
- Giang hư lắm. Nếu em cứ thế, cô sẽ xuống đi bộ và mách thầy em ...
Giang phụng phịu. Nó không sợ vì dư biết Oa Tử chỉ dọa chứ không dám
làm.
Trong thâm tâm, Oa Tử rất chiều nó.
Quả nhiên, thấy nét mặt Giang không vui, nàng trên lưng bò tuột
xuống rồi cùng vào quán. Thằng bé ngồi ngay vào bàn, gọi luôn hai
đĩa bánh dày đậu.
- Hành phi trộn với đậu ngọt rắc lên bánh dầy. Ngon tuyệt ! Em thèm
rỏ dãi ra đây này.
- Giang ! Em phải giữ ý tứ ! Gọi cho cô ấm trà.
- Cô không ăn bánh ư ?
- Không, cô không đói. Ăn nhiều thành con lợn, xấu lắm.
Giang không để ý đến lời nhắc khéo. Nó vơ vào:
- Nhưng em đã gọi hai đĩa. Vậy để em ăn luôn phần của cô vậy.
Nói đoạn nó gọi thêm trà, buộc lại cây kiếm gỗ ra phía sau lưng cho
khỏi vướng, rồi ngồi ngay ngắn chờ bánh mang ra.
Nhìn dáng điệu trịnh trọng của Giang, Oa Tử không khỏi mỉm cười.
Ăn một loáng hết hai đĩa bánh, Giang mới quay nhìn xung quanh. Bỗng
nó há hốc mồm, chạy bổ ra cửa.
Tuy ngạc nhiên nhưng Oa Tử cũng uống hết chén trà. Tra tiền chủ quán
xong và sắp sửa đứng dậy thì Giang trở về. Thằng bé thở hổn hển, đến
bên thiếu nữ, ghé tai thì thầm:
- Mãn Hà Chí ! Em vừa thấy Mãn Hà Chí !
Oa Tử tái mặt:
- Hắn đến đây làm gì ?
- Không biết. Nhưng ông ấy nhìn vào quán. Thấy em, ông ấy bỏ đi, em
đuổi theo để coi cho chắc. Đúng là Mãn Hà Chí !
Nhìn vẻ mặt nghi ngờ của Oa Tử, Giang nói:
- Cô không tin à ? Hay để em gọi ông ấy lại.
- Đừng ! Đừng làm thế !
Đoạn, ghé tai Giang, Oa Tử hỏi khẽ:
- Thầy em có cách xa đây không ?
Giang lắc đầu:
- Em không biết. Chắc xa. Tại con bò này đi chậm quá !
Oa Tử hồi hộp. Tim nàng đập dồn dập. Sợ càng chùng chình, Thạch Đạt
Lang đi càng xa, nàng vịn vai Giang trèo lên lưng bò, bảo nó dẫn lên
đường ngay tức khắc.
Trên lộ, Oa Tử và Giang không nói lời nào, mỗi người theo đuổi một ý
nghĩ riêng.
Oa Tử thì lo lắng, nàng không biết xử trí ra sao nếu gặp lại Mãn Hà
Chí. Còn Giang thì lấy làm lạ không hiểu tại sao thầy nó lại bỏ đi
trước, chỉ dặn nó ở lại cùng đi với Oa Tử và giúp đỡ nàng.
Tuổi trẻ tò mò, không nhịn được, Giang bèn hỏi:
- Cô và sư phụ giận nhau đấy à ?
Thấy Oa Tử không đáp, nó hỏi lại:
- Sao từ khi ở thác, sư phụ không nói gì với cô nữa, lại bỏ đi
trước, bảo đợi cô ở Edo là sao ?
Oa Tử quay đi, kín đáo chùi giọt lệ trên khóe mắt. Nàng chẳng biết
trả lời thế nào cho phải vì chính nàng cũng chưa tìm được lời giải
đáp thích đáng về hành động của Thạch Đạt Lang.
Hồi tưởng lại sáu bảy năm trước khi còn ở chùa Tiểu Sơn, Oa Tử cũng
đã bị một viên đội trưởng làm hỗn. Bây giờ thấy hành động ấy ở Thạch
Đạt Lang, nàng bối rối.
Mặc dầu hai trường hợp hoàn toàn khác nhau, nàng vẫn không hiểu rõ
thái độ dùng sức mạnh để chiếm đoạt như vậy có phải là thường tình
của đàn ông hay không và thái độ cự tuyệt của nàng có hợp với hoàn
cảnh ấy không ? Mớ ý tưởng hỗn độn và nỗi băn khoăn khiến Oa Tử
phiền muộn. Mối u tình nàng mang trong lòng bấy lâu nay như dòng
suối êm đềm, bỗng trở thành thác lũ.
Oa Tử liên tưởng đến tiếng thác đổ ầm ầm, tiếng kêu thét ngỡ ngàng
của lòng nàng trước hành động của người yêu và vẻ ngạc nhiên trên
nét mặt Thạch Đạt Lang. Nàng lại càng hoang mang hơn nữa vì nếu cứ
như thế này mãi, cả hai không hiểu nhau thì sự theo chàng như một
cái bóng thật là phi lý.
Thấy Oa Tử mắt đỏ hoe, sự bối rối hiện rõ trên gương mặt, Giang thôi
không hỏi nữa. Và nó cũng quên ngay những điều vừa hỏi.
Đến Kozengi, Giang dẫn bò, rẽ sang một đường lớn nhiều người qua lại
hơn. Ngay chỗ rẽ là một căn lều gỗ dùng làm trụ sở cho lính tuần tra
xét những khách bộ hành để tìm bắt kẻ gian phi và đôi khi cả những
kiếm sĩ đối nghịch với chính quyền.
Oa Tử và Giang cũng bị lính tuần chặn giữ, nhưng nhờ có chứng thư
của Lưu Cát tướng công nên không bị làm khó dễ gì. Tiếp tục cuộc
hành trình, qua nhiều quán xá ven đường, lần này Giang ngoan ngoãn
dắt bò đi, không đòi ăn như những lần trước.
Hết quãng đường phố tương đối đông dân cư, lại đến quãng đường vắng
vẻ, cây cao và bụi gai mọc chi chít. Giang bỗng hỏi Oa Tử:
- Cô Oa Tử ! Huyền Trang là ai ?
- Huyền Trang ?
- Vâng. Khi qua quán đằng kia, có người chỉ cô và nói “Huyền Trang
cưỡi bò” !
Vậy Huyền Trang là ai vậy ?
Oa Tử cười:
- Không rõ có đúng không, cô chỉ biết Huyền Trang là một vị sư nhà
Đường bên Tàu, sang nước Thiên Trúc thỉnh kinh và mang về Trung Hoa
nhiều bộ kinh quý giá lắm.
- À, cháu biết rồi ! Đấy là ông sư Tam Tạng. Vậy nếu cô là Huyền
Trang thì cháu là Tôn Ngộ Không rồi !
Oa Tử cười như nắc nẻ. Nhìn thằng bé đen đủi, chân tay dài múa may
như con vượn, nàng trêu nó:
- Ừ, vừa là Tôn Ngộ Không lại vừa là Trư Bát Giới nữa. Vì em háu ăn
lắm.
Không vừa, Giang đáp lại:
- Như vậy mới xứng với sư Tam Tạng hay khóc !
Cả hai cùng cười vang, không nhớ gì đến những chuyện buồn phiền
trước đấy nữa.
- Tại sao Huyền Trang lại cùng đi với Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới
hả cô ?
Oa Tử biết chuyện Tam Tạng thỉnh kinh từ khi còn ở chùa Tiểu Sơn,
nhưng nghe thằng bé hỏi thì hơi lúng túng. Nàng chỉ đáp đại khái:
- Ngộ Không tượng trưng cho sự khôn ngoan tháo vát, Bát Giới là lòng
dục của con người, còn Huyền Trang, lòng sùng đạo.
Sự giải thích ấy chẳng biết có thỏa mãn được tính tò mò của Giang
không, nhưng không thấy nó hỏi thêm gì nữa.
oo - Đứng lại !
Tiếng quát kèm theo bóng người trong bụi nhảy xổ ra chặn đường khiến
Oa Tử và Giang giật mình thất sắc. Định thần nhìn kỹ, thì ra là Mãn
Hà Chí; một Mãn Hà Chí gầy đen, quần áo xốc xếch. Gã trợn mắt, chỉ
tay vào mặt Oa Tử, giọng hằn học:
- Con tiện tỳ kia ! Xuống ngay !
Cơn ghen tức lộ trên nét mặt, gã hùng hổ sấn đến đầu con bò Oa Tử
đang cưỡi.
Từ khi giã biệt Thạch Đạt Lang trên sơn đạo ở sườn đồi Sinh Minh,
Mãn Hà Chí nghe theo lời khuyên của bạn, đến Edo lập nghiệp. Gã có ý
đợi Thạch Đạt Lang tại Liễu kiều để cùng đi. Nhưng số phận run rủi,
gã vừa tới Liễu kiều đúng lúc thấy Thạch Đạt Lang sánh vai Oa Tử vào
quán trọ. Sự hân hoan trên nét mặt hai người khi tương hội khiến Mãn
Hà Chí nổi cơn ghen, quên luôn những lời khuyên chí tình của bạn,
cho đó chỉ là những lời dối trá. Gã theo dõi Thạch Đạt Lang và Oa Tử
suốt dọc hành trình, đôi lúc lạc dấu vết, mãi đến bây giờ mới được
dịp ra tay.
Ngạc nhiên cực độ, Oa Tử không thốt nên lời, trừng trừng nhìn gã.
- Xuống ngay ! Mày theo thằng Thạch Kinh Tử, thất thân với nó rồi
phải không ?
Phẫn nộ và khinh bỉ thay cho ngạc nhiên, Oa Tử xám mặt.
- Ta không xuống ! Ta không liên quan gì đến ngươi cả !
- A ! Mãn Hà Chí giận dữ thét. Nhưng ta có liên quan ! Ngươi xuống
không ?
Thét đoạn, hắn sấn đến nắm áo Oa Tử. Giang gạt gã ra:
- Ông làm gì thế ? Cô ấy không muốn xuống thì không xuống. Ông có
quyền gì ...
Mãn Hà Chí nhảy lui:
- Thằng oắt này là ai ?
- Là ai không cần biết, nhưng ông không được động đến cô Oa Tử.
- A ! Láo ! Ta nhớ ra rồi ! Mày là thằng oắt con bưng rượu ở quán
Kitano !
- Mà ông là gã say rượu ở quán ấy ! Phải rồi, ông sống bám vào mụ
điếm già, bây giờ bị mụ bỏ chứ gì !
Câu nói của thằng bé khiến Mãn Hà Chí nhảy lên như có ai cầm nắm
muối xát vào vết thương đang rướm máu của gã.
- Đúng không ?
Mắt Mãn Hà Chí trợn ngược:
- Nhãi con khốn nạn ! Ai dạy mày thế ?
Gã nhoài tay ra định túm cổ Giang. Nhưng nhanh như cắt, Giang đã
luồn qua bụng bò, chuồn sang bên kia, ngoái cổ lại hét:
- Đồ tồi ! Hèn nhát ! Bắt nạt trẻ con !
Con bò vùng lên chạy, mang theo Oa Tử trên lưng. Nàng kinh hãi kêu
cứu. Giang chạy theo, định đỡ Oa Tử xuống thì bị Mãn Hà Chí túm
được.
- Oắt con ! Tao bắt được mày rồi ! Nói lại những điều vừa rồi tao
nghe thử !
Giang vung tay đấm vào mặt gã:
- Đồ tồi ! Đồ hèn nhát ! Ăn bám vào gái điếm !
Mãn Hà Chí túm ngực áo nó nhấc bổng lên. Thằng bé vừa định rút kiếm
gỗ ra liền bị Mãn Hà Chí tức giận ném ngay vào bụi rậm. Đầu va vào
gốc cây, Giang nằm sóng soài bất tỉnh.
Mở mắt ra, con đường mòn vắng hoe, Giang không nhớ chuyện gì đã xảy
ra. Một tiếng chim lảnh lót từ trên ngọn cây cao vọng xuống, nó nghe
như tiếng sáo ai thổi đột nhiên bị cắt đứt.
Hồi 53
Hiệp Sĩ Đất Kiso
Thạch Đạt Lang
ngồi nghỉ chân trên lưng chừng đồi chờ Oa Tử và Giang đi tới. Đợi
lâu không thấy bóng hai người, hắn có vẻ đã hơi sốt ruột. Nhìn những
đám mây trắng trên nền trời xanh, Thạch Đạt Lang vẩn vơ dõi xem
những đám mây ấy bay về hướng nào hay cứ nằm yên như thế mãi, lơ
lửng treo trên ngọn đồi giữa hắn và khu rừng thưa dưới chân núi.
Bỗng mí mắt hắn giật lia lịa. Linh cảm một chuyện gì không hay xảy
ra cho Oa Tử, Thạch Đạt Lang đứng dậy, đi đi lại lại.
Thạch Đạt Lang vẫn thường nghĩ đến Oa Tử và càng nghĩ đến nàng bao
nhiêu, hắn càng tự giận mình. Tiếng kêu lo sợ, trách móc của Oa Tử
còn như đồng vọng bên tai cùng với tiếng thác đổ. “Thạch Đạt Lang !
Chàng mà cũng thế ư ?”. Hắn đã biểu lộ hành động xấu xa gì để Oa Tử
phải trách móc như thế ? Oa Tử yêu hắn hay không ? Yêu hắn vì hắn là
Thạch Đạt Lang hay chỉ yêu cái phần phi thường của một kiếm sĩ trong
hắn ?
Thạch Đạt Lang định gạt đi, không muốn bận tâm đến nữa. Đã hứa đi
cùng Oa Tử đến Edo, để nàng ở đó theo học môn gì nàng thích, bề nào
hắn cũng có trách nhiệm.
Nhưng còn thanh kiếm đeo bên sườn đây mà hắn coi như người tình
không rời nửa bước, hắn phải đối xử ra sao ? Đã nhiều ngày nay, thì
giờ tập luyện và tu dưỡng của Thạch Đạt Lang không được điều hòa.
Nhìn dãy núi xanh biếc phía xa cùng cảnh trí bao la trước mặt. Thạch
Đạt Lang tự thẹn thấy mình nhỏ mọn.
Trời đã ngả bóng. Mãi không thấy Oa Tử và Giang đến, Thạch Đạt Lang
bồn chồn tự hỏi:
“Hay là họ bị giữ lại ở ngã ba Kozengi rồi !”. Linh tính báo cho hắn
biết thực sự đã có chuyện chẳng lành. Quàng túi hành trang lên vai,
sửa lại quai nón và bao kiếm, hắn vội vàng đổ dốc.
Đi chừng một quãng, bỗng gặp một khách bộ hành nhìn hắn hỏi:
- Phải chăng đại hán là người vừa ở ranh tỉnh tới, cùng đi với một
thiếu nữ và một tiểu đồng ?
Lo lắng, Thạch Đạt Lang đáp:
- Phải ! Có chuyện gì thế ?
- Thiếu nữ bị bắt cóc rồi. Người ta thấy nàng bị dẫn vào rừng.
- Mô Phật ! Thế còn thằng bé ?
- Không biết. Chẳng ai rõ nó đi đâu !
Lòng nóng như lửa đốt, Thạch Đạt Lang không kịp cảm ơn người cho
tin, hớt hải chạy xuống đồi trở lại phía ngã ba ranh tỉnh chỗ có đồn
canh. Đến nơi, trời vừa chạng vạng. Cửa đồn đóng và hàng rào cản tre
cũng đã được buông xuống. Trong các quán xá, người ta đang lục đục
dọn đồ.
Thạch Đạt Lang tiến đến gần một ông già hỏi tin tức. Ông già nghễnh
ngãng, hắn phải hỏi đi hỏi lại hai ba lần, ông lão mới nghe ra:
- À, tráng sĩ muốn hỏi thăm nữ lang ngồi trên lưng bò trông như nhà
sư Tam Tạng ấy chăng ?
- Phải, cùng với một tiểu đồng đeo kiếm gỗ dài trên lưng. Lão trượng
biết họ đâu không ?
- Ờ ờ, có thấy cả hai qua đây.
- Bây giờ họ đâu ?
- Lão không rõ.
Nghe trả lời, Thạch Đạt Lang toan bỏ đi nhưng cũng thêm:
- Có người nói họ bị bắt dẫn đi về phía này.
Ông lão gật gù:
- Có thể lắm. Vùng ranh tỉnh này nhiều dư đảng vô lại. Nếu quả họ bị
bắt cóc thì không bị dẫn trở lại ngã ba này đâu. Chúng theo đường
lên mả ngụy rồi ra hồ Nobu rồi.
Cảm ơn ông lão, Thạch Đạt Lang vội vàng quay gót, dạ bồi hồi lo sợ.
Oa Tử yếu đuối, vạn sự trông vào hắn lúc đi đường, nếu xẩy chuyện gì
e rằng ...e rằng ...nàng khó sống.
Đêm xuống dần, tuy chưa tối hẳn nhưng trên trời đã lốm đốm sao thưa.
Thạch Đạt Lang cắm cúi đi, không một ý niệm gì về kẻ đã bắt cóc Oa
Tử là Mãn Hà Chí. Hắn đồng ý với ông già, đồ chừng kẻ đó là một
trong những tên vô lại hay thảo khấu thường ẩn nấp ở nơi hoang dã
vùng biên giới để dụ dỗ và bắt cóc những thiếu nữ khờ dại đem bán.
Càng đi, trời càng tối. Dưới tàng cây rừng, Thạch Đạt Lang nhìn phía
trước không xa được quá vài thước. Hắn có cảm tưởng dường như đang
lên dốc chứ không có dấu hiệu gì thoai thoải xuống bờ hồ. Nghi đi
lạc, hắn trèo lên ngọn cây khoáng đãng nhìn sao và quan sát tứ phía
để định hướng.
Trong bóng đêm, lờ mờ ẩn hiện một mái nhà với rặng cây. Ánh đèn đỏ
quạch hắt ra như một đốm nhang ai thắp trên mộ.
Không còn cách nào khác, Thạch Đạt Lang quyết định tiến tới, hy vọng
gặp người để hỏi thăm đường và nếu biết được tin tức gì thêm thì
càng tốt. Đi mãi, đi mãi. Ánh đèn lúc ẩn lúc hiện. Thạch Đạt Lang
lấy làm kỳ, đôi lúc nghĩ đó là ma trơi, nhân trời lặng gió hiện lên
lơ lửng như thế, đến gần gặp hơi người thì tắt chứ chẳng phải đèn
đóm gì hết.
Đột nhiên vừa từ trong rừng ra, rẽ khỏi một lùm cây lớn, hắn trông
ngay thấy đốm lửa đó. Và một căn trại.
Căn trại không to nhưng vững chắc, mặc dầu mái ra. dày đã lõm nhiều
chỗ. Ánh đèn thực ra là lửa đốt trong lò. Và bên cạnh lò, một bóng
người đang hoạt động.
Thạch Đạt Lang cúi mình, nhẹ nhàng men đến bên vách. Phía tay mặt có
một gian bếp. Bên bếp buộc một con bò lang. Thạch Đạt Lang tin chắc
đấy là con bò mà hắn đã thuê cho Oa Tử cưỡi.
Nấp trong bóng tối bên vách, nín thở, hắn nghe có tiếng lọc cọc đều
đều như tiếng guồng tơ quay.
Bỗng giọng đàn ông từ sau bếp vọng ra, mạnh và hơi khàn:
- Khuya rồi, mẹ đi nghỉ thôi. Mẹ cứ than mỏi mắt mà vẫn làm trong
tối, rồi thành lòa đấy.
Bóng đen đáp gì hắn không nghe rõ, nhưng lát sau không thấy tiếng
guồng tơ quay nữa. Có bóng đàn bà đi đi lại lại trước ánh lửa, cúi
xuống đứng lên như đang mải dọn dẹp.
Giọng đàn ông lại tiếp:
- Con rửa tay chân xong là vào ngay đấy ! Mẹ hâm canh lên là vừa.
Một lúc, nghe tiếng người đến bên con bò vỗ đầu nó mà nói lớn:
- Mẹ đã coi con bò con mang về chưa ? Bò cái, dáng nhiều sữa, tốt
lắm.
Con vật rùng mình, dậm chân. Người kia vỗ nhè nhẹ lên vai nó. Tiếng
bà mẹ trong nhà vọng ra:
- Để đấy mai hãy hay, trời tối thế này coi gì được.
Lợi dụng cơ hội tốt, Thạch Đạt Lang đổi chỗ nấp. Hắn lẳng lặng trườn
đến dưới cửa sổ, nép mình bên tảng đá, hé mắt nhìn vào gian phòng
chính trong nhà. Ngoài ánh sáng từ lò lửa phát ra còn ánh sáng một
cây đèn nhỏ để ở góc phòng, nên tương đối trông khá rõ mọi thứ. Vật
đầu tiên khiến hắn chú ý là một cây thương dài treo trên vách, gác
vào một cái giá mồ hóng đã đóng đen. Mũi thương bóng loáng. Những
vòng vàng hoặc đồng cẩn trên cán thương đỏ rực, chứng tỏ vũ khí ấy
đã được sử dụng thường xuyên và vẫn được lau chùi một cách trìu mến.
Thạch Đạt Lang lấy làm lạ. Theo luật hiện hành, nhà nông không được
dùng vũ khí dù họ có đủ tiền mua. Đó là những vật dụng không được
tàng trữ trong nông trại, đừng nói gì đến dùng nó.
Gã đàn ông bước vào phòng. Gã còn trẻ, trạc ngoài hai mươi nhưng
thoạt trông đã biết không phải là một nông dân thường.
Mắt gã tinh nhanh và sắc sảo. Gã mặc áo màu chàm theo kiểu nông dân,
ngắn tới gối nhưng chân quấn xà cạp và đi dép cỏ. Mặt tròn, tóc rậm
buộc túm về phía sau bằng sợi dây thừng ngắn. Trông gã nặng nề, bước
đi chậm chạp nhưng vững vàng như bước đi của một con gấu. Từ trong
bếp mùi khói tỏa ra, cay và khét. Khói sộc vào mũi khiến Thạch Đạt
Lang khó chịu, muốn hắt hơi. Hắn cố giữ, đưa tay che mũi song quá
trễ.
Tiếng hắt hơi bị ngắt quãng làm bà mẹ từ trong bếp nói vọng ra:
- Ai đó ?
Không nghe đáp, bà tiếp:
- Lâm Bằng ! Cổng ngoài đóng kỹ chưa ? Ta nghe tiếng ho, hình như có
người lạ trong vườn !
Thạch Đạt Lang rón rén bước khỏi chỗ nấp dưới cửa sổ, đến ẩn sau một
gốc cây.
- Phải tiếng ho không hay mẹ nghe lầm tiếng chuột rúc đấy ?
- Ta đâu điếc. Chắc khói bếp làm nó ho. Ngươi ra coi xem.
Im lặng một lúc, rồi tiếng chân bước. Những bước vững vàng, chắc
chắn.
Người có tên Lâm Bằng nhẹ nhàng kéo cánh cửa chính. Thong thả, từ
tốn, gã phóng tia mắt ngờ vực nhìn bốn phía, đầu hơi đưa về phía
trước. Dáng điệu gã có một vẻ gì thận trọng khiến Thạch Đạt Lang
phải e dè. Hắn không biết Lâm Bằng có mang võ khí gì không nhưng khi
thấy gã bước ra hiên và ánh sáng trong nhà hắt lên lưng, Thạch Đạt
Lang thấy rõ một cây gậy gã giấu đằng sau. Cây gậy khá dài, bằng tre
lên nước bóng loáng. Nhìn cách cầm cây gậy sát vào người, Thạch Đạt
Lang tin rằng gã đã sử dụng cây gậy này nhiều lần và thành thuộc
lắm.
Từ chỗ nấp sau gốc cây, hắn nhảy ra:
- Yên tâm ! Ta không phải kẻ đạo chích. Ta đến tìm một người.
Lâm Bằng khựng lại, phóng tia mắt sắc như dao yên lặng nhìn Thạch
Đạt Lang, đánh giá địch thủ.
- Ngươi hãy đem trả thiếu nữ và đứa nhỏ bị bắt lúc nãy. Nếu họ không
sao thì ta bỏ qua, coi như không có chuyện gì. Nhưng nếu họ bị
thương, ta sẽ không tha thứ ...
Yên lặng. Tuyết tan trên đỉnh núi khiến dòng suối sau trại dềnh lên,
nước chảy róc rách càng làm tăng sự yên lặng nặng nề.
- Mang họ ra đây ! Lập tức !
Giọng Thạch Đạt Lang cất cao, quyền uy và cấp bách. Nhưng Lâm Bằng
đâu phải là người dễ bị áp đảo. Tay phải giữ đầu gậy tre áp sát vào
mình, gã sẵn sàng tung đòn chí tử.
- Đồ dòi bọ ! Ngươi là ai, tên gì ? Sao dám đến đây bảo ta bắt cóc
con nít ?
- Ngươi thừa biết người thiếu nữ cưỡi con bò kia và đứa trẻ yếu đuối
không thể tự vệ nên đã hèn hạ cưỡng bách bắt đi, còn chối nỗi gì !
Một tiếng rít. Cây gậy tung ra nhanh như chớp. Thạch Đạt Lang chưa
kịp nhận ra đâu là đầu gậy, đâu là cánh tay người cầm thì gậy đã tới
sát bên sườn. Hắn nhảy chéo, tránh miếng đòn sát thủ.
- Khoan ! Đừng manh động, ngươi sẽ hối không kịp !
Nhưng Lâm Bằng dường như không để lời cảnh cáo ấy vào tai. Thạch Đạt
Lang lùi ba bước thì gã cũng tiến ba bước, liên tiếp phóng chiêu bổ
trên, phát ngang và quạt là là mặt đất.
Thạch Đạt Lang tiếp tục tránh né. Hai lần, hắn định rút kiếm nhưng
lần nào cũng không được. Vì đưa tay rút kiếm, khuỷu tay phải của hắn
sẽ bị hở. Đòn gậy tre của địch thủ vù vù trước mặt, nhanh và mạnh
như vũ bão, tất nhiên không để hắn làm việc ấy.
Thạch Đạt Lang thấy địch thủ không phải kẻ tầm thường. Chỉ một chút
khinh xuất cũng có thể mất mạng. Hắn giữ thế thủ, chú tâm quan sát
đối phương, thấy gã rất bình tĩnh, tấn vững vàng, thủ kín đáo mà
công mau lẹ. Thạch Đạt Lang nghĩ thầm:
Gã nông dân này học lối đánh côn ở đâu thật xuất sắc. Gã đã làm chủ
được cây gậy của mình, kỹ thuật còn cao hơn nhiều người sử dụng gươm
bén. Nhưng Thạch Đạt Lang không có thì giờ lượng định lâu. Đòn này
tiếp đòn khác, lúc tay trái, lúc tay phải, lúc cả hai tay, Lâm Bằng
sử dụng cây gậy tre cực kỳ xảo diệu đôi lúc làm Thạch Đạt Lang tránh
đòn xong mà kinh hãi toát mồ hôi. Gươm còn có cán, có mũi, nhưng cây
gậy của gã nông dân này có hai đầu, đầu nào cũng chí tử. Gã tung
lên, bổ xuống, phạt ngang, đâm trước, thúc sau, quay tít cây gậy như
tay thợ rất mực lành nghề bắt bột làm kẹo:
lúc dài, lúc ngắn, lúc cao, lúc thấp, lúc kéo bột nhỏ như tơ, lúc cô
đặc thành cục, chỗ nào cũng thấy đầu gậy, lúc nào cũng thấy đầu gậy
cả.
Tiếng bà mẹ từ trong nhà vọng ra:
- Lâm Bằng ! Thằng này chẳng phải đồ thảo khấu tầm thường.
Thanh âm bà có vẻ quan ngại như chính bà đang giao đấu.
- Không hề gì.
Giọng Lâm Bằng bình tĩnh. Những chiêu thức kỳ quái lại tiếp tục được
phóng ra, mạnh và nhanh hơn trước. Dường như thấy có mẹ đứng quan
sát, gã lên tinh thần và càng thêm phấn khởi.
Mẹ Lâm Bằng hô lớn:
- Cẩn thận ! Nó ở bên trái. Sử đòn Liên Hoa Lạc.
Nhưng bộ vị của Thạch Đạt Lang chỉ là hư bộ. Lợi dụng lúc Lâm Bằng
bị phân tâm, Thạch Đạt Lang tiến sát đến bên gã, chộp cổ tay Lâm
Bằng nắm cứng rồi dùng một thế nhu quyền vật ngã quay lơ ra đất. Cây
gậy văng ra xa. Mặt Lâm Bằng nhăn lại vì đau đớn. Bà mẹ kêu thét
nhảy vào nhà trong rồi tung cửa ra ngoài.
Trên mặt cỏ, Lâm Bằng nằm ngửa. Gã nghiến răng, cong người, hai chân
đạp xuống đất bành bạch, cố hết sức hất Thạch Đạt Lang đang quỳ đầu
gối trên ngực. Hai địch thủ công lực có phần tương đương nhưng Thạch
Đạt Lang nhờ nhanh nhẹn đã chiếm được thượng phong. Những ngón tay
cứng như sắt của hắn đã ghì Lâm Bằng xuống mạnh và chắc như những
sợi dây lòi tói. Thế mà hắn cũng phải vất vả lắm mới giữ được địch
thủ khỏi vùng dậy. Cả hai không nói một lời, không phát ra một tiếng
kêu.
Chỉ nghe phì phì như hơi thở của loài mãng xà trong bóng tối.
- Lâm Bằng ! Đừng sợ !
Nghe tiếng mẹ Lâm Bằng, Thạch Đạt Lang tưởng trong tình thế này, thế
nào bà cũng xin tha cho con trai. Và hắn cũng chẳng hẹp hòi gì mà
không thuận.
Nhưng hắn lầm. Bà mẹ Lâm Bằng chạy ra, trong tay đã lăm lăm cây
thương từ bao giờ. Dưới ánh đèn hắt qua khung cửa vừa mở, mũi thương
và những vòng đồng trên cán thương lóe sáng. Và lưng hắn sẽ là cái
đích dễ dàng cho mũi thương ấy.
Thạch Đạt Lang cảm thấy nhột nhạt, dường như tia mắt của bà cũ đã
xoáy vào gáy hắn trước khi ngọn thương đâm tới.
Hắn tiếc đã phản ứng chậm, không giải quyết cuộc đấu sớm hơn để bây
giờ đứng trước một tình thế khó xử. Lối thoát độc nhất của Thạch Đạt
Lang là phải bỏ ngay gã nông phu. Như mũi tên bật khỏi dây cung,
Thạch Đạt Lang tức khắc tung mình đánh vút, chớp mắt đã nhảy ra khỏi
sân, xa hơn một trượng. Hắn lăn mình đến gần gốc cây, thanh mộc kiếm
sẵn sàng cầm trong tay lăm lẳm.
Mũi thương cũng vừa phóng tới, cắm ngập xuống đất chỉ cách chỗ Lâm
Bằng nằm chừng hơn gang, cán thương còn rung rung dưới sức ném của
bà lão.
- Ái chà ! Thằng này giỏi ! Ngươi tưởng chúng ta là những nông dân
quê mùa nên đến đây tác quái chăng ?
Lâm Bằng vùng đứng dậy. Gã xốc lại áo và khoát tay:
- Khoan ! Con nghĩ đây là một chuyện hiểu lầm. Ta chẳng nên vì
chuyện hiểu lầm mà giết hại nhau vô ích !
Đoạn quay sang phía Thạch Đạt Lang:
- Túc hạ là ai không rõ, nhưng bất luận là ai cũng xin thu kiếm về.
Đây là một sự hiểu lầm đáng tiếc.
Thấy thái độ khoan hòa của địch thủ, Thạch Đạt Lang gật đầu tra kiếm
vào vỏ:
- Tại hạ cũng có điều không phải, xin thứ lỗi.
Bèn tự xưng danh tính, rồi cả ba bước vào nhà.
Phân ngôi chủ khách xong, Thạch Đạt Lang trình bày lý do tại sao đến
đây và hỏi về lai lịch con bò cái.
- À ra thế ! Lâm Bằng vỗ đùi đáp. Vì con bò mà ngờ vực. Cũng chẳng
có gì đâu, do ngẫu nhiên thôi. Số là kẻ thô lậu này lúc chiều đi câu
cá, thấy con bò vị sa lầy gần đầm cỏ lác. Nó không lên được, cứ đứng
đấy mà kêu rống. Chỗ hoang dã chẳng có ai, nghĩ âu là của trời cho
nên cố gắng buộc dây kéo lên. Ở chốn thôn ổ, có con bò như có thêm
người giúp việc. Huống chi đây lại là con bò cái, sữa tốt lắm. Không
ngờ lại là bò của tráng sĩ ...
Nghe những lời chất phác, Thạch Đạt Lang mỉm cười:
- Cũng chẳng phải của tại hạ. Đấy là bò thuê để người bạn đồng hành
cưỡi. Thật đáng tiếc đã không trình bày rõ ràng để đến nỗi suýt nữa
thì xẩy ra thù oán !
Mẹ Lâm Bằng xen vào:
- Tráng sĩ nói phải. Nhiều khi có những chuyện không đâu mà làm lụy
đến nhiều người. Đây là bài học quý giá. Ta sống đã quá nửa đời rồi
nhưng hành động quả còn hấp tấp. Lâm Bằng, ngươi dẫn tráng sĩ đi xét
khắp các nơi đi, để tráng sĩ yên lòng chúng ta không giấu những
người bạn của tráng sĩ ở trong nhà.
Đoạn quay sang Thạch Đạt Lang, bà nói:
- Xin tráng sĩ cứ tự tiện lục soát.
Lâm Bằng cũng phụ họa:
- Để các hạ nghi ngờ, tại hạ thật vẫn còn áy náy. Nào xin mời các
hạ.
Nhưng Thạch Đạt Lang gạt đi:
- Thôi, bất tất ! Lời lão bá và Lâm bằng hữu cũng đủ cho tại hạ tin
rồi. Tại hạ làm phiền lão bá và bằng hữu đã nhiều. Xin cho cáo biệt.
- Không được. Mẹ Lâm Bằng lại nói. Lâm Bằng, ngươi ăn cơm đi rồi dẫn
tráng sĩ đến khu rừng ven hồ. Ta chắc nếu chúng bắt cóc cô nương thì
cũng đem đến quanh đó thôi. Chỗ ấy là nơi tụ tập của nhiều du đãng
bất lương lắm.
oo Lúc đầu gió còn thổi nhẹ, sau mạnh dần, ào ào qua những tàn cây
lớn và kéo rạp đầu các bụi lau sậy. Bó đuốc trong tay Lâm Bằng đã
phải mồi lại mấy lần mà xem chừng gió chưa đứng.
Số nông dân trong vùng này đếm được khoảng mười nhà. Lâm Bằng dẫn
Thạch Đạt Lang đi hỏi tin tức đã đến chín. Vẫn không kết quả. Đến
đâu cũng chỉ gặp những bộ mặt e dè hoặc ngái ngủ. Không ai trông
thấy bất kỳ một thiếu nữ hoặc thiếu niên nào có hình dạng như Thạch
Đạt Lang mô tả.
Lâm Bằng bảo bạn đồng hành:
- Còn một căn nữa ở cuối xóm. Gia đình này vừa làm nghề trồng rẫy
vừa săn thú.
Nếu không có tin gì khác thì đêm nay ta đến phải ngưng. Quanh đây
không còn ai để hỏi thăm nữa.
- Đa tạ bằng hữu đã nhọc công. Nếu không ai biết hay nghe nói gì thì
chắc chúng không dẫn qua đây rồi.
- Có gì mà nhọc công. Đi bộ tại hạ không ngại, đi cả đêm cũng chẳng
sao. Có điều không biết đường hướng gì mà cứ đi thì thật vô ích.
- Đúng thế.
- Hai người đó với các hạ liên hệ ra sao ? Thân thuộc, bạn bè hay nô
bộc ?
- Họ là những người thân nhất của tại hạ.
Thấy Thạch Đạt Lang đáp lửng lơ, Lâm Bằng cũng không hỏi thêm. Cả
hai yên lặng đi dưới ánh đuốc. Mặc dầu gió đã dịu hơn trước nhiều
nhưng ngọn lửa vẫn chiếu ánh sáng bập bùng đỏ quạch lên những cành
cây khiến chúng trông như những cánh tay của những hình thù quái dị
đang múa may trong đêm tối.
Thạch Đạt Lang muốn biết thêm về kỹ thuật sử côn của người nông phu
nhưng không tiện hỏi. Buổi sơ kiến hắn không muốn tỏ ra tò mò quá.
Hắn tự nhủ “Thôi để chờ dịp khác. Thế nào ta cũng phải tìm hiểu mới
được. Một kỹ thuật trác tuyệt như vậy mà mình không học hỏi thì thật
đáng tiếc !”.
Đã đến cuối xóm. Lâm Bằng chỉ căn trại nằm khuất sau một bụi tre
cao, những gốc tre lớn bằng bắp chân lá rậm xào xạc và thân tre cọ
vào nhau kẽo kẹt.
- Đến nơi rồi. Các hạ đứng đây để tại hạ vào hỏi thì hơn. Họ biết
tại hạ nên không nghi ngờ gì, có thể cho mình tin tức tốt.
Lâm Bằng đi vào con đường đất nhỏ. Lát sau nghe tiếng gã đập cửa.
Khi cầm đuốc đi ra, trông gã có vẻ vội vàng hơn trước. Gã nói:
- Người chồng không biết gì, nhưng vợ hắn cho một tin chắc các hạ
phải hài lòng.
Dáng điệu và lời nói của Lâm Bằng khiến Thạch Đạt Lang bồn chồn. Hắn
nhướng lông mày ra dáng hỏi.
- Mụ vợ nói lúc chiều có gặp một thằng bé chừng mười bốn mười lăm
tuổi, quần áo lem luốc, lưng đeo thanh gươm gỗ dài, nét mặt hớt hải.
Nó hỏi thăm mụ đường đến văn phòng quận lỵ. Mụ hỏi nó đến để làm gì
thì nó nói để thưa việc cô nó bị một tên du đãng bắt đi nên nhờ văn
phòng và lính tuần tìm giúp.
Mụ khuyên thằng bé không nên đến, vô ích. Lính tuần không bao giờ
tìm giúp những người dân thường bị bắt. Nếu kẻ đó là hàng quý tộc
thì lính tuần mới làm, còn không thì mặc kệ. Những chuyện bắt người
dẫn đi như thế này xảy ra hằng bữa, sáng, trưa, chiều, tối, ai hơi
đâu !
Theo ý tại hạ, thằng bé ấy có thể là người các hạ muốn tìm. Các hạ
nghĩ sao ?
Thạch Đạt Lang gật đầu:
- Đúng rồi. Thế bây giờ nó đâu, đi về hướng nào ? Người đàn bà có
cho biết thêm tin tức gì không ?
- Co. Mụ bảo mụ khuyên thằng bé đến Narai, quá ngã ba Yabuhara. Ở
đấy có một lão hiệp tên Đại Cổ, chuyên buôn bán dược thảo lại hay
cứu giúp người khốn khó. Đến đấy mà tìm.
Thạch Đạt Lang mừng lắm, cảm ơn Lâm Bằng:
- Đa tạ bằng hữu. Nhờ quý bằng hữu, tại hạ mới biết phải làm gì. Tại
hạ xin đi ngay gặp vị lão hiệp ấy, may ra ...
- Bây giờ thì trễ rồi, mà đi đêm xuyên rừng cũng khó. Chi bằng xin
mời về nghỉ tạm ở tệ xá, để sáng mãi cũng không muộn.
- Được không ? Sợ phiền lão bá ...
- Có gì mà phiền. Ta băng qua hồ này, đỡ được nửa đường. Tại hạ đã
hỏi mượn thuyền của chủ nhân căn trại vừa rồi. Xin cứ theo tại hạ.
Cả hai men theo đường xuống hồ, tới một bực đá quả nhiên có chiếc
thuyền con buộc đó.
Gió đã yên từ bao giờ. Mặt hồ, phẳng như mặt trống, phản chiếu bóng
núi Koma đen sẫm cắt trên nền trời đầy sao lấp lánh.
Thạch Đạt Lang giơ cao đuốc, Lâm Bằng chống sào đẩy chiếc thuyền con
lướt nhẹ trên mặt hồ phẳng lặng. Ánh đuốc phản chiếu mặt hồ đỏ rực,
hồng hơn cả ngọn lửa bó đuốc hắn cầm trên tay.
Hồi 54
Vết Răng Rắn Độc
Ánh đuốc trông
xa tựa đôi chim lửa đang vờn nhau trên mặt hồ, trong một chuyện thần
thoại.
Bên bờ hồ, Mãn Hà Chí nhìn sững, khẽ thốt:
- Có người ! Có người đấy !
Gã kéo dây thừng buộc chéo tay Oa Tử lại với nhau, lôi nàng đứng
dậy. Nhưng Oa Tử ghì xuống, nhất định không đứng.
- Đứng dậy !
- Không !
Mãn Hà Chí nắm đầu dây quất vào vai Oa Tử. Nàng vẫn ngồi lì.
- À bướng ! Này, bướng ! Này, bướng !
Sau mỗi tiếng, gã lại quất đầu dây thừng vào vai, vào lưng thiếu nữ.
Oa Tử đau, nhăn mặt, nước mắt chảy ràn rụa nhưng tuyệt nhiên không
thốt một lời van xin hay mắng nhiếc. Thái độ ấy như khiêu khích và
càng làm cho Mãn Hà Chí giận dữ hơn, gã nắm cổ áo kéo nàng đứng dậy.
- Đứng lên ! Muốn hay không cũng phải đi theo ta !
Rồi đẩy Oa Tử một cái. Thiếu nữ ngã sấp. Tay bị trói, nàng đang cựa
quậy uốn mình định ngồi dậy thì bị Mãn Hà Chí nắm tóc giật mạnh
khiến nàng bật ngửa. Đau và tức giận, Oa Tử dùng chân đạp gã rồi kêu
cứu ầm lên. Mãn Hà Chí giơ tay bịt vội miệng nàng, tay kia xé vạt áo
nhét vào miệng Oa Tử. Oa Tử chỉ còn ú ớ. Một vệt máu đen rỉ ra bên
khoé mép. Mặc kệ ! Mãn Hà Chí cúi xuống nắm cổ áo Oa Tử lôi đi như
lôi một con vật.
Đến một ngôi miếu nhỏ bỏ hoang bên rặng liễu, Mãn Hà Chí đẩy cửa,
kéo Oa Tử vào. Miếu hôi hám, mùi ẩm mốc xông lên nồng nặc nhưng trên
bệ gạch thờ đã đổ nát còn lưu lại một bát hương bằng sành và hai cái
chén gỗ.
Mái miếu thủng một lỗ lớn, ánh sao đêm chiếu lờ mờ hình vẽ một con
rắn quấn chung quanh cái cột, đầu ngóc lên như đe dọa. Bất giác Oa
Tử ước trở thành con rắn để có thể chui qua khe miếu mà trốn thoát.
Đưa mắt nhìn quanh, thấy không có gì khả nghi, Mãn Hà Chí đẩy Oa Tử
vào sát bệ thờ rồi ra khỏi miếu, khép cửa. Ngồi chặn bên ngoài, gã
nhìn ánh lửa đuốc trên mặt hồ xa dần và suy nghĩ miên man. Bữa nay
thật là một ngày khó nhọc. Lúc bắt Oa Tử dẫn vào rừng, gã có ngờ đâu
nàng bướng đến thế. Có lúc Oa Tử đòi cắn lưỡi tự tử. Mãn Hà Chí biết
tính nàng, những lời đe doa. ấy chẳng phải là những lời dọa suông.
Bị khinh miệt quá sức, Mãn Hà Chí đã có ý tưởng sát nhân nhưng không
dám thực hiện. Âu cũng là điều may, vì ngồi đây bây giờ, nếu làm
việc ấy gã sẽ hối hận biết chừng nào.
Mãn Hà Chí không hiểu tại sao đàn bà lại ưa Thạch Đạt Lang hơn gã
trong khi lúc đầu thì khác hẳn. Oa Tử đấy, trước đây đã chẳng là vị
hôn thê của gã là gì ? Ôkô nữa, lúc đầu chọn đi theo gã, sau lại coi
gã như một miếng giẻ thừa, muốn vất đi cho rảnh nợ. Lại cả A Kế Mỹ !
Người đàn bà nào khi gặp Thạch Đạt Lang cũng so sánh nó với gã. Chỉ
có một lý do để cắt nghĩa:
Thạch Đạt Lang đã nói xấu gã sau lưng, thế thôi ! Cho nên nó đã
chiếm được lòng Oa Tử. Nghĩ đến đấy, Mãn Hà Chí tức giận vô kể, tự
trách mình ngu hết sức. “Mình đã tin vào những lời giả nhân giả
nghĩa của nó”. Mãn Hà Chí tự nhủ.
“Nào suốt đời làm bạn, nào giúp đỡ lẫn nhau, nào tìm thầy dậy nghề
cho mình để làm lại cuộc đời ! Láo ! Láo hết ! Trong khi ấy nó đi
với vợ mình”. Cơn ghen khiến Mãn Hà Chí mờ mắt.
- Thằng đểu !
Gã thốt ra lời chửi tục tằn và rủa thầm Thạch Đạt Lang đã lừa dối:
“Bây giờ ta mới biết. Thì ra trên đời này có những thằng bên ngoài
được mọi người kính nể mà bên trong toàn dòi bọ. Đọc thiên kinh vạn
quyển ? Trau dồi kiếm đạo ? Để làm gì ? Hừ ! Để trở nên thằng phản
bạn, lừa lọc, đạo đức giả à ?”.
Mãn Hà Chí nắm chặt hai tay đạp vào đùi:
“Nhất định ! Phen này ta nhất định phải làm cho nó biết tay. Ta còn
thở ngày nào là còn phải nghĩ đến trả thù ngày đó !”.
Gã đạp tung cửa, nhảy vào trong miếu. Nhìn Oa Tử nằm co quắp bên bệ
gạch, gã hét:
- Con kia ! Trả lời tức khắc câu ta hỏi lúc nãy !
Im lặng.
- À ra nó khinh mình ! Nó ra gan ! Nó ...
Sực nhớ ra nùi giẻ vẫn còn trong miệng Oa Tử, Mãn Hà Chí cúi xuống
giật mạnh.
- Oa Tử ! Hãy trả lời câu ta hỏi !
Tiếng Oa Tử yếu ớt:
- Ta không có gì phải trả lời. Nếu ngươi muốn giết ta thì cứ giết,
nhưng nên xử sự đĩnh đạt, xứng đáng là kẻ nam nhi ...
Mãn Hà Chí cười khẩy:
- Đừng nói bậy. Ta giết ngươi làm gì. Ý ta đã quyết phải cho ngươi
và thằng Kinh Tử đau khổ suốt đời vì chúng bay làm hại đời ta.
- Mãn Hà Chí ! Ngươi lầm rồi. Chính ngươi đã quyết định đời ngươi.
Ngươi đi theo Ôkô mới ra nông nỗi ...
- Nói láo !
Lời nói của Oa Tử đã khơi dậy nỗi đau và sự bất lực trong lòng gã.
Gã lớn tiếng:
- Câm mồm ! Ta cấm nói đến chuyện ấy.
Oa Tử thở dài thất vọng:
- Mẹ con ngươi là những kẻ lạ đời. Sao cứ ngoan cố đổ tội cho kẻ
khác và nuôi lòng oán hận phi lý ...
- Không nói lôi thôi ! Ta chỉ muốn hỏi ngươi có bằng lòng lấy ta
không ? Nghĩ đi rồi trả lời cho ta biết.
Giọng Oa Tử yếu ớt nhưng cương quyết:
- Việc gì phải nghĩ nữa. Trong đời này và tất cả những đời sau, ta
chỉ yêu có Thạch Đạt Lang. Lòng ta là của chàng rồi ! Sẽ không bao
giờ thuộc về một tên hèn hạ như ngươi cả !
- A !
Toàn thân Mãn Hà Chí run lẩy bẩy. Gã nhếch mép cười độc ác.
- Dù muốn hay không, đêm nay mày cũng ở trong tay ta ...
Oa Tử rùng mình:
- Ta không cha không mẹ. Không một ai thân thích khác. Ta không sợ
chết.
- Hừ ! Ai nói đến cái chết ! Giết ngươi để làm gì ? Ta sẽ làm thế
này ...
Mãn Hà Chí vồ lấy Oa Tử, một tay bịt chặt miệng nàng, một tay nắm
lấy tay Oa Tử. Mãn Hà Chí cắn lên vai thiếu nữ. Oa Tử thét lên đau
đớn nhưng tiếng thét bị chặn ngay trong cổ họng như tiếng con vật bị
chọc tiết. Máu loang ra thấm cả áo ngoài, chảy theo cánh tay trần
của Oa Tử xuống đến tận lòng bàn tay Mãn Hà Chí. Oa Tử dãy dụa, mặt
tái dần rồi ngã lăn ra bất tỉnh. Mãn Hà Chí bỏ nàng xuống. Trên trán
Oa Tử, mồ hôi vã ra lạnh ngắt. Mãn Hà Chí lo sợ, cúi xuống cạy miệng
thiếu nữ xem nàng có cắn đứt lưỡi không. Thấy không có máu, gã yên
tâm, giật tóc mai và gọi cho nàng tỉnh.
Lúc sau, Oa Tử mở mắt. Trong cơn hôn mê, nàng lắp bắp gọi tên Giang
cầu cứu.
Đến khi định thần lại và biết mình đang ở đâu, Oa Tử mới thôi. Cơn
đau kéo đến khiến vai tê dại, nàng cố giữ cho khỏi bật ra tiếng khóc
to nhưng nước mắt vẫn ràn rụa hai bên má.
Trong bóng tối của gian miếu hoang, sự yên lặng chỉ bị cắt đứt bởi
những tiếng thút thít và tiếng rên nho nhỏ.
- Đau hả ? Đó là bài học để ngươi ghi nhớ suốt đời. Dù vết cắn trên
vai ngươi có lành nhưng vẫn còn vết sẹo. Để ngươi biết ngươi là của
ta, đã thuộc về ta. Để thằng Kinh Tử cũng phải biết thế. Bây giờ thì
trốn đi. Muốn trốn ta cho trốn nhưng không thể quên ta được !
Oa Tử muốn đứng dậy nhổ vào mặt tên vô sỉ hèn hạ, nhưng không đủ
sức. Mệt quá rồi, nàng chẳng còn nghe thấy gì nữa, chẳng còn làm gì
được nữa dù biết rằng gã hèn hạ ấy đang quỳ bên cạnh tháo dây trói
cho nàng.
Mãn Hà Chí với tay lên bệ thờ, cầm chiếc chén gỗ ra hồ múc nước. Vừa
bước khỏi cửa, thấy ngay một bóng đen ù té chạy. Gã đuổi theo bén
gót, ôm được, vật ngay xuống.
Thì ra là một lão nông.
- Xin đại nhân tha mạng. Già này chẳng làm gì nên tội. Nhân dẫn lừa
mang thóc ra chợ bán, thấy có tiếng khóc trong miếu thì tò mò dòm
xem mà thôi ...
- Thật không ? Hay định dò xét cái gì ?
- Bẩm thật, lão đã già không dám nói dối ...
- Vậy lừa đâu ?
- Dạ Ở đằng kia.
- Dẫn ta lại coi, nếu không thì coi chừng cái đầu lão !
Vừa dọa, Mãn Hà Chí vừa mân mê chuôi kiếm đeo bên sườn.
- Dạ dạ ...
Đi khỏi ba gốc liễu, quả nhiên thấy con lừa trên lưng tải hai bịch
thóc. Mãn Hà Chí bảo ông già:
- Bỏ thóc đi, dẫn lừa theo ta trở lại miếu.
Tội nghiệp ông già chất phác, gặp người đeo gươm thì sợ hãi, chẳng
quan quân cũng phường thảo khấu, đều có quyền sinh sát cả. Lão líu
ríu vâng lời.
- Chúng ta muốn đi Edo, cần con lừa của ngươi để cô nương cưỡi.
- Dạ dạ ...
- Mà chúng ta không muốn đi đường đông đúc. Ngươi hãy dẫn lừa theo
đường mòn trong rừng, càng vắng càng tốt.
- Dạ, xin đại nhân lấy con lừa, còn tha cho già này về cày cấy. Vợ
già đau ốm, chỉ trông cậy vào có mình già.
- Không được ! Đừng có lôi thôi. Muốn ta thử gươm trên cái đầu hói
của lão hả ?
- Dạ dạ ...Nhưng đi đường rừng phải trèo cao, mệt nhọc lắm, chẳng
biết già này có kham nổi không ?
- Mặc kệ !
Mãn Hà Chí túm cổ ông lão, bắt cột hành trang rồi vực Oa Tử lên lưng
lừa. Cả ba người cùng với con vật qua khỏi rặng liễu thì trực chỉ
khu rừng chân núi.
Đường mòn càng lúc càng dôc thêm, ông già dẫn lừa thở phì phò mà con
vật xem chừng bước chân cũng không được vững nữa. Sỏi đá đổ rào rào.
Dưới chân họ, mây mù tụ từng đám nhưng ở xa xa, về phương đông, trời
đã hửng sáng.
Oa Tử nằm phục trên lưng lừa từ khi còn tối, chẳng nói một lời. Khi
nhìn ánh dương quang vừa hé, nàng bảo Mãn Hà Chí:
- Mãn Hà Chí ! Tha ông già về và trả con lừa lại cho người ta. Ta
thấy đã có thể đi bộ được.
- Ngươi có trốn không ?
- Không. Ta cam đoan không trốn.
Rồi với nụ cười héo hắt, nàng tiếp:
- Trốn làm gì khi ta còn phải mang trên vai vết răng của loài rắn
độc.
Hồi 55
Lời Cảnh Giác Của Một Người Mẹ
Con đã dùng
những đòn đặc biệt, nhưng nó khoẻ và nhanh vô cùng. Sợ không làm gì
được ...
Mẹ Lâm Bằng cắt ngang:
- Nói nhỏ chứ ! Khua nó dậy đấy hả ? Mày thua nó chỉ vì sơ xuất. Từ
trước mày chưa gặp đối thủ nào xứng đáng nên thiếu kinh nghiệm, bây
giờ là lúc có cơ hội tốt để học hỏi ...
Bà nói dịu dàng nhưng cương quyết và khích lệ, nghe như lời răn bảo
một đứa trẻ lên năm.
- Phải có ý chí và quyết tâm mới nên người được chứ ! Đừng để uổng
công ta nuôi dạy.
Thạch Đạt Lang tỉnh đã lâu. Những lời đối thoại của mẹ con gã nông
phu ở phòng kế tuy nhỏ nhưng nghe khá rõ, làm hắn ngạc nhiên. Cuộc
đụng độ tối qua tưởng như kết thúc, Thạch Đạt Lang coi đó chỉ là một
sự hiểu lầm giữa đôi bên, không ngờ có hậu quả nghiêm trọng trong
gia đình này đến thế.
Một tiếng nấc nhỏ, cơ hồ gã nông phu không giữ được xúc động bật lên
khóc. Rồi tiếng bà mẹ nghiêm nghị:
- Vô ích ! Khóc không giải quyết được gì cả. Hãy thách nó giao đấu
lần nữa để giữ vững lòng tự tin. Ta xem đường côn của mày đâu đến
nỗi ...
- Nhưng con không đủ sức. Xin mẹ tha thứ cho con, mẹ cho con bỏ võ
công để làm một nông dân thường. Con cầm cuốc có lẽ còn có ích hơn
cầm côn.
Thạch Đạt Lang nhẹ nhàng tung chăn ngồi dậy, đến bên vách ghé mắt
dòm qua khe cửa. Trời mới rạng đông, phòng còn tối nhưng hắn cũng
thấy mẹ Lâm Bằng ngồi trên chiếu đối diện với người con trai trước
bàn thờ gia tiên. Tuy đã có tuổi, vậy mà lưng bà chưa còng và phong
cách chững chạc trong thế ngồi rất nghiêm túc của bà chứng tỏ bà đã
thừa hưởng một quá khứ vinh hiển từ một dòng họ hào hùng. Bất giác
Thạch Đạt Lang đem lòng kính nể và có hảo cảm với người đàn bà cương
nghị ấy.
Lâm Bằng vẫn mặc bộ y phục ngày hôm trước, vóc dáng to lớn thô kệch
trái hẳn với thái độ khiêm cung của gã lúc bấy giờ.
Bà cụ sẵng giọng:
- Mày nói cái gì ? Muốn làm nghề nông cả đời hay sao ?
Lâm Bằng lặng thinh, đầu cúi gục. Bà bèn nhích lại gần, kéo đầu con
trai đặt vào lòng mình rồi nói bằng một giọng ôn tồn và âu yếm:
- Lâm Bằng ! Ta cố gắng đến ngày nay là để mong con trở thành hào
kiệt, khôi phục lại danh dự của cha ông. Con biết đấy, ta không nề
khổ cực, sinh nhai đạm bạc cũng chỉ vì mục đích ấy. Bây giờ bỏ cả,
như thế là thế nào ? Con không nghĩ gì đến công phu tập luyện hàng
chục năm nay, không thương ta, không quan tâm đến dòng máu hiệp sĩ
đất Kiso nữa hay sao ?
Nói xong, dường như không cầm được xúc cảm, bà khóc. Xúc cảm hay
lây. Lâm Bằng cũng chan chứa nước mắt.
- Sao bây giờ con khác trước ? Can đảm để đâu ?
Bà lau nước mắt:
- Nó còn ở phòng bên. Chừng nào nó tỉnh dậy, con hãy tìm cách khiêu
khích nó để giao tranh lần nữa. Nếu con để mất lòng tự tin thì họ
nhà ta coi như đến đây là tuyệt diệt.
Lâm Bằng lắc đầu:
- Nó khôn ngoan lắm. Đêm qua đi thuyền trên mặt hồ, con đã rình cơ
hội thuận tiện để tấn công nó nhưng không lúc nào nó lộ chút sơ hở.
Nhiều lần con đã tự nhủ tên đó chỉ là một võ sĩ giang hồ tầm thường,
nhưng không hiểu sao con không dám ...
- Bởi ngươi hèn nhát, khiếp nhược. Bà gắt lên. Phải ngươi đã thề với
ta sẽ lập một môn phái riêng để rạng danh tổ phụ không ? Ngươi quên
rồi chăng ?
- Con không quên, nhưng sợ lúc đó con quá chủ quan, tin tưởng vào
sức mình.
Chưa đủ chính chắn, làm sao dám lập môn phái ? Con trộm nghĩ thà bẻ
côn đi cày con hơn để mẹ chịu cảnh cơ hàn trong lúc tuổi mẹ thì cao
và sức khoẻ kém dần.
Bà cụ trừng mắt:
- Nói bậy ! Mày từ bỏ võ công để săn sóc ta không làm ta sung sướng
gì hơn. Trước nay, mày chưa được dự trận nào quan trọng, mới thua
một lần đã tỏ ra khiếp nhược. Ta không nói nữa. Lâm Bằng ! Khi nó
dậy, mày phải khiêu khích nó. Nếu lần này thua, bấy giờ gác côn cũng
chưa muộn.
Thạch Đạt Lang thong thả quay về chỗ nằm. Nếu gã nông phu khiêu
khích, nhất định hắn không thể từ chối được, mà nếu hắn xuất thủ dù
chỉ để tự vệ, hắn cũng sẽ thắng dễ dàng. Trận đánh này quyết định
tương lai của Lâm Bằng và tuổi thọ của bà lão, vì bất luận thế nào,
cục diện cũng sẽ làm tinh thần bà chấn động, không chắc sống được.
Bình tĩnh thu nhặt hành trang, hắn yên lặng mở cửa lẻn ra ngoài.
Mặt trời mới rạng. Những ngọn bạch dương trồng trước trại ửng hồng
như vừa được rắc phấn. Men theo vách nhà bếp, Thạch Đạt Lang thấy
con bò hắn thuê nằm thản nhiên, mắt lơ đãng nhìn ra xa, miệng nhóp
nhép. Hắn đưa tay chào từ giã con vật, xuyên qua rặng bạch dương rồi
rảo bước lẩn vào những bụi cây thấp ở ven rừng. Hôm ấy, núi Koma
trông rõ mồn một từ chân cho đến đỉnh. Thỉnh thoảng mới có vài cụm
mây hồng nhẹ nhàng trôi theo gió sáng.
“Giang còn nhỏ, Oa Tử thì yếu đuối. Không biết cả hai có gặp nguy
hiểm gì không.
Nếu phen này không tìm ra tung tích thì âu cũng là Trời Phật đã an
bài !”. Thạch Đạt Lang tự nhủ thầm để tìm sự yên tĩnh. Sau biến cố ở
thác Phu Phụ, mặc dầu đã giữ vững ý chí quyết tâm theo con đường
kiếm thuật, tâm hồn hắn đôi khi vẫn bị xao động vì tình yêu và bổn
phận. Trước gió sớm bay vừa, lòng hắn cũng xôn xao như những lá bạch
dương, không kềm giữ nổi.
Đến Narai, trời đã quá trưa. Trấn Narai đương hồi thịnh. Có tiệm bán
đồ da, trưng ra đủ thứ loại da thuộc và lông thú. Tiệm khác trang
hoàng mỹ lệ chuyên về nghề làm lược, một đặc sản đất Kiso.
Thấy một cửa hàng treo bảng hiệu vẽ con gấu lớn với chữ đề to tướng
“Đại Hùng Dược Phòng” và ngay cạnh cửa có cái cũi nhốt con gấu đen,
Thạch Đạt Lang bước vào.
Trong hiệu la liệt bảng gỗ nêu tên các vị thuốc đã được bào chế sẵn
bằng mật gấu.
Mãi pha trà, chủ nhân không để ý, chỉ hỏi:
- Khách quan cần gì ?
- Xin lỗi, tại hạ muốn hỏi thăm một người tên Đại Cổ, nghe nói
chuyên buôn bán dược thảo ở trấn Narai này.
Chủ nhân quay ra, nhướng mày, cặp kính trễ xuống mũi:
- Đại Cổ ư ? Ông ấy ở đằng kia, gần ngã ba, cách đây một quãng.
Vừa lúc ấy, một thằng bé ăn mặc ra dáng tiểu đồng bước vào. Chủ nhân
vội nói:
- Này Isu, tráng sĩ muốn tìm Đại Cổ tiên sinh, mày dẫn ông ấy đi chỉ
nhà cho tường tận rồi về đây ta bảo.
Tiểu đồng đầu cạo trọc chỉ để lại túm tóc phía sau gáy, ra hiệu cho
Thạch Đạt Lang đi theo. Nghe chủ tiệm bào chế gọi Đại Cổ bằng tiên
sinh thì chắc lão hiệp này rất được dân địa phương kính nể, Thạch
Đạt Lang mừng thầm thấy công của mình không đến nỗi là công cốc. Đến
ngã ba Yabuhara, thằng bé chỉ căn nhà phía trái bên kia đường và
nói:
- Đấy, chỗ ấy.
Rồi tong tả quay gót.
Thạch Đạt Lang ngạc nhiên. Ngôi nhà không có vẻ gì là một cửa hiệu
có bán dược thảo. Mặt tiền, dài đến hai trượng, bốn dãy liếp gỗ mắt
cáo che gần hết. Tường cao bao bọc hai gian nhà kho lớn, cổng ra vào
bằng đá khá kiên cố, cửa lúc bấy giờ đang đóng kín. Hắn đến trước
cổng, ngần ngừ một lát rồi vừa đằng hắng, vừa đẩy cửa vào, thấy mình
đứng ngay trong một căn phòng rộng.
- Có ai trong nhà không ?
Phòng rộng nhưng vắng, sáng mờ mờ làm hắn liên tưởng đến một tiệm
nấu rượu Sakê. Nền đất nện khiến không khí mát mẻ, dễ chịu khác
thường.
Thạch Đạt Lang đằng hắng nhắc lại câu hỏi. Đợi khá lâu mới thấy một
người từ phòng trong bước ra. Phòng này trải chiếu, có lẽ là văn
phòng. Người vừa bước ra hất hàm có ý hỏi. Thạch Đạt Lang trình bày
mục đích xong, ông ta chậc lưỡi, nói:
- Thì ra tráng sĩ đến vì thằng bé đấy !
Bèn mời vào, lấy thêm gối đặt lên chiếu để khách ngồi rồi tiếp:
- Tiếc quá, tráng sĩ đến hơi trễ. Thằng bé tới đây hồi nửa đêm, bấy
giờ chúng tôi đang chuẩn bị hành trang để chủ nhân đi du ngoạn. Theo
lời kể hình như nó đi cùng với một nữ lang, nửa đường bị cưỡng bức
bắt đi. Nếu tên vô lại đó là thảo khấu hay cường đồ thì truy ra cũng
dễ, nhưng đằng này không phải. Dường như cũng lại là một kẻ lữ hành
khác không phải ở địa phương này.
Thấy thằng bé tứ cố vô thân lại tỏ ý sợ hãi, Đại Cổ tiên sinh dẫn nó
theo, may ra trên đường đi, tìm gặp được người mà nó gọi bằng cô,
tên là ...tên là ...
- Oa Tử.
- Phải rồi ! Oa Tử ! Thằng bé ấy đối với tráng sĩ là thế nào ?
- Nó là học trò tại hạ.
- Thật tiếc ! Nếu tráng sĩ đến sớm chút nữa thì gặp. Đại Cổ tiên
sinh mới đi khoảng đầu giờ dần.
- Các hạ biết tiên sinh đi đâu không ?
- Khó mà biết được. Vì cửa hiệu chúng tôi không giống các hiệu khác
nên chủ nhân ít khi ở nhà. Mỗi năm hai lần, vào mùa xuân hay mùa
thu, những kẻ hái thuốc trên núi mới mang thuốc xuống giao để chúng
tôi bào chế. Lúc ấy mới bận. Còn những tháng khác, Đại Cổ tiên sinh
thường đi du ngoạn các nơi, khi thì suối nước nóng, khi thì chùa
miếu, chỗ nào cảnh đẹp lại dừng chân nghỉ vài ngày, có khi hàng tuần
khó mà lường trước.
Lần này chắc tiên sinh đi thăm thiền viện Zenkoji rồi tiện đường đến
Edo, nhưng đấy chỉ là dự đoán, chủ nhân chúng tôi không nói rõ đi
đâu bao giờ. Tráng sĩ dùng trà ?
Thạch Đạt Lang gật đầu cảm ơn. Người đàn ông mang trà ra, Thạch Đạt
Lang lại hỏi thêm về niên kỷ cùng vóc dáng Đại Cổ.
- Ồ ! Tráng sĩ gặp chủ nhân tôi thì nhận ra ngay. Ông đã quã ngũ
tuần nhưng còn khoẻ, dáng đẫy đà, da đỏ hồng và mặt có vài vết rỗ,
thái dương bên phải tóc hoa râm hơi thưa ...
- Thế y phục ra sao ?
Người kia gật gù:
- Ờ ...ờ ...Tráng sĩ có hỏi mới nhớ. Lần này ông vận y phục đặc
biệt:
kimono bằng vải sọc Trung quốc đặt mua ở Sakai riêng cho cuộc hành
trình này. Mới nhập cảng, ít người biết, có khi chưa ai mặc cũng
nên. Tráng sĩ thấy là nhận ra tức khắc.
Nghe mô tả, Thạch Đạt Lang cũng mường tượng được phong cách của Đại
Cổ và có đôi chút khái niệm về nếp sống của ông. Hắn uống cạn chén
trà, cảm ơn người làm công rồi ra khỏi hiệu.
Nắng chiều chênh chếch. Thạch Đạt Lang tự nhủ cứ đà này thì không
thể nào đuổi kịp Đại Cổ trước khi trời tối nữa rồi, nhưng nếu đi tới
khuya để sáng sớm hôm sau trèo lên đèo Shiojiri thì có thể đợi Đại
Cổ ở đó được.
Gần đến chân đèo, ánh tà dương đã tắt hẳn. Màn sương mỏng xanh phơn
phớt đã bắt đầu phủ lên mặt lộ. Trong bóng núi đổi màu đen sẫm, đây
đó vài đốm lửa tiều mới nhóm càng làm tăng vẻ cô tịch đìu hiu của
vùng sơn dã.
Còn đến năm chục dặm đường nữa mới đến đèo, Thạch Đạt Lang cứ lầm
lũi đi, mặc cho bóng tối bao vây tứ phía. Đi đã lâu, xem chừng thấm
mệt, gặp một tảng đá nhẵn, hắn ngồi xuống giở lương khô ra ăn rồi
nằm nghỉ ngay trên tảng đá.
Gió mát hiu hiu, Thạch Đạt Lang lâng lâng dõi theo những vì sao nhấp
nhánh và ngủ quên lúc nào không biết.
Giấc ngủ của người kiếm khách giang hồ say và lâu, mãi đến khi nghe
những tiếng nói lào xào, hắn mới tỉnh.
Trời đã sáng rõ. Thạch Đạt Lang nhỏm dậy nhìn quanh không thấy ai.
Ngôi miếu nhỏ chênh vênh trên mỏm đá ở đỉnh đèo trông càng nhỏ giữa
cảnh bao la của trời đất.
- Lên đây ! Lối này ! Tiếng đàn ông vọng lại. Ở đây trông thấy núi
Phú Sĩ !
Thạch Đạt Lang quay nhìn tứ phía. Quả nhiên, sau lưng hắn, lềnh bềnh
trên một biển mây, ngọn Phú Sĩ uy nghi hồng rực phản chiếu ánh thái
dương vừa hé. Núi cao và hùng vĩ, trên ngọn tuyết phủ trắng xóa, có
giải mây năm sắc vắt ngang mang một vẻ đẹp huyền bí hắn chưa bao giờ
thấy. Thạch Đạt Lang kêu lên khoái trá. Từ nhỏ, được xem nhiều tranh
vẽ cảnh Phú Sĩ sơn, hắn cũng có đôi chút ý niệm, nhưng đây là lần
đầu tiên được thấy tận mắt ngọn danh sơn này. Và cảnh thật gợi trong
lòng hắn nhiều hoài cảm bao la khiến hắn xúc động vô tả.
Từ sau trận chiến dưới gốc cổ tùng, đôi khi Thạch Đạt Lang đã dám có
ý tưởng cao ngạo trên đời này mấy ai đủ khả năng là đối thủ của hắn.
Nhưng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, trước vẻ sáng lạn huy hoàng và
bền vững của ngọn Phú Sĩ sơn, niềm ý thức sự nhỏ bé của mình và sự
phù du của kiếp sống khiến hắn tự thẹn đã đặt quá nhiều quan trọng
vào những võ công đạt được.
Thiên nhiên là cái thước để con người tự lượng. Hạt cát trên sông
Hằng, thân phận con người là thế trong cái trình tự tạo hóa đã an
bài, không cách gì thoát khỏi. Mặc cảm tự ti xâm chiếm lòng hắn,
Thạch Đạt Lang quỳ xuống chắp tay cúi đầu lâm râm khấn nguyện xin
được tha thứ về những ý tưởng ngạo mạn của mình, đồng thời cầu cho
vong hồn mẹ hắn an nghỉ đời đời, chị hắn, Oa Tử và Giang được an
lành trong cuộc sống. Sau hết, lại xin tiền nhân phù hộ cho hắn đủ
nghị lực làm rạng danh tổ quốc và dân tộc, dù công nghiệp ấy hắn
không dám sánh cùng núi non hùng vĩ trước mặt.
Nhưng cầu nguyện xong, nhìn lưỡi gươm bên sườn, hắn lại có ý tưởng
khác. Ừ, con người nhỏ bé thật, nhưng cái gì đã khiến cho con người
ý thức được mình nhỏ bé ? Thiên nhiên chỉ cao cả qua nhãn tuyến của
con người. Thần linh chỉ hiện hữu khi cảm thông được với người.
Chính con người, sinh vật có tâm linh và ý thức chứ không phải gỗ đá
vô tri, đã phát hiện ra sự cảm thông ấy. Cho nên con người nếu hợp
nhất với thiên nhiên, không phân chia nhĩ, ngã, không phân biệt với
ngoại cảnh, biết lấy cái tâm bình đẳng với vũ trụ, cái tâm chân như
của nhà Phật để làm căn bản hành động, thì khó gì không thực hiện
được những công nghiệp vĩ đại ? Và với thanh kiếm ba thước này, hắn
đâu còn nhỏ bé so với ngọn Phú Sĩ sơn kia ...
Nghĩ đến đấy, Thạch Đạt Lang khoan khoái lạ thường. Tuy cách xa trăm
dặm, ngọn núi dường như gần gũi hơn, trên cùng một bình diện với
hắn.
Tiếng chân người rộn rịp cùng với tiếng gọi nhau í ới càng lúc càng
gần. Dưới chân đèo, khách hành hương, tay nải, vai gánh đã thấy
đông.
Thạch Đạt Lang nghĩ thầm “Sớm muộn gì Đại Cổ cùng với Giang cũng qua
đây, nếu lời dự đoán của người làm công là đúng. Có lẽ nên thảo vài
chữ để lại chỗ này, may ra thằng bé để ý. Mình lên mỏm đá cao trên
kia nhìn xuống bao quát được khoảng núi rộng hơn và thấy họ dễ hơn”.
Bèn lấy miếng vải và bút mực trong bọc ra viết vội:
“Đại Cổ tiên sinh nhã giám, vãn bối là sư phụ tiểu đồng cùng đi với
tiên sinh. Rất mong gặp tiên sinh ở miếu trên đỉnh đèo, xin tiên
sinh lưu ý”. Rồi buộc vào cành cây và rời khỏi tảng đá.
Đi được một quãng bỗng nghe phía dưới có người nói:
- Ở trên kia ! Hắn đấy !
Âm thanh quen thuộc lắm, gợi cho Thạch Đạt Lang nhớ đến tiếng rít
của cây gậy tre. Quả nhiên, giọng Lâm Bằng tiếp ngay:
- Thạch Đạt Lang ! Ngươi bỏ chạy không dám giao đấu với ta ! Hèn
nhát !
Thạch Đạt Lang quay lại. Đứng giữa hai tảng đá trên cao, hắn yên
lặng nhìn xuống. Mẹ Lâm Bằng cưỡi bò phía sau, cách xa con trai
chừng hai trượng.
Thấy Thạch Đạt Lang lặng thinh và không tỏ vẻ gì muốn giao đấu, Lâm
Bằng nói:
- Mẹ đợi đây ! Con lên bắt nó !
- Không được ! Tiếng bà cắt ngang. Lúc nào mày cũng hấp tấp, nóng
nảy. Trước khi giao tranh phải dự đoán ý nghĩ của địch đã. Nó đứng
trên cao lăn đá xuống trong khi mày trèo thì mày nghĩ sao ?
Hai mẹ con nói nhỏ với nhau, gió thổi tạt, Thạch Đạt Lang nghe không
rõ, nhưng về mặt chiến thuật, rõ ràng hắn đã chiếm thượng phong.
Thạch Đạt Lang không ngại giao đấu nhưng điều làm hắn khó xử là sự
tháo gỡ mối oán giận của nhà này. Nếu Lâm Bằng lại thua nữa, mối
hiềm khích gia tăng và sẽ không bao giờ chấm dứt. Từ sau cuộc đụng
độ với phái Hoa Sơn, Thạch Đạt Lang đã ý thức sự điên rồ của những
cuộc tranh chấp chỉ nhằm mục đích thù hận. Nhìn bà mẹ Lâm Bằng, hắn
liên tưởng tới bà Hồ Điểu, một người đàn bà bướng bỉnh, yêu con và
yêu đảng tộc đến thành mù quáng. Khẽ lắc đầu, hắn trở góc, tiếp tục
trèo lên.
- Thạch đại hiệp !
Giọng bà mẹ Lâm Bằng rõ ràng như có ý cầu khẩn. Thạch Đạt Lang dừng
bước, quay lại. Bà đã từ lưng bò tuột xuống, và trước sự kinh ngạc
của hắn, bà quỳ xuống sụp lạy.
Bối rối, Thạch Đạt Lang không biết xử sự ra sao. Trên cao, bên những
hòn loạn thạch ngổn ngang, hắn cố gắng đáp lễ, giơ tay như mời bà
đứng dậy.
- Đại hiệp ! Già này thật lấy làm thẹn đã đuổi theo đại hiệp, xin
đại hiệp thứ lỗi và đừng lầm là già ngoan cố. Hành động của già
chẳng phải vì ác cảm hay oán thù, chỉ xin thương đứa con già, mười
năm tự học không thầy, không bạn, không kinh nghiệm.
Xin đại hiệp dạy cho nó một bài học để soi sang đường nó đi ...
Thạch Đạt Lang nghe, không thốt một lời. Giọng bà cụ trở nên xúc
động:
- Đại hiệp bỏ đi, già ngạc nhiên quá. Kỹ thuật thằng Lâm Bằng còn
kém nhưng nó đã dày công khổ luyện. Nếu vì lý do gì nó chán nản
không tập luyện thì già này phải chết không dám nhìn mặt tổ tiên
nữa. Xin đại hiệp rủ lòng thương giáo huấn cho nó.
Nói đoạn, bà lại khấu đầu làm lễ.
Thạch Đạt Lang vội vàng bước xuống cầm tay bà đỡ lên lưng bò rồi bảo
Lâm Bằng:
- Túc hạ dẫn bò cho lão bá. Tại hạ cần suy nghĩ. Nhận hay không sẽ
trả lời túc hạ sau.
Hắn đi trước vài bước, và mặc dầu đã hứa trả lời, lúc lâu sau cũng
chẳng thấy nói gì. Lâm Bằng nhìn lưng Thạch Đạt Lang, tay gã ngứa
ngáy khó chịu, thỉnh thoảng lại cầm đầu dây thừng quất nhẹ vào chân
bò một cái, ra vẻ bồn chồn lắm. Mẹ Lâm Bằng có dáng tư lự.
Bỗng Thạch Đạt Lang quay lại:
- Được rồi ! Tại hạ nhận.
Lâm Bằng đứng khựng, tay nắm chặt côn tre hơn:
- Vậy ngươi đã sẵn sàng ?
Không để ý đến câu hỏi, Thạch Đạt Lang nhìn bà mẹ:
- Trận đấu này quyết định sự sống chết của đôi bên, mặc dầu võ khí
có khác. Xin lão bá chuẩn bị ...
Lần đầu tiên Thạch Đạt Lang thấy bà lão mỉm cười:
- Già biết điều đó. Nếu con già thua trong tay đại hiệp, một người
còn trẻ tuổi hơn hắn, thì hắn cũng nên bẻ côn mà quy ẩn. Vậy sống
chết có gì khác đâu ? Và nếu chuyện đó xảy ra, già cũng không oán
hận !
- Vậy được !
Thạch Đạt Lang cúi nhặt đầu dây thừng, bảo với Lâm Bằng:
- Ta chẳng nên tỷ thí ở đây, phiền người qua lại. Để buộc bò vào gốc
cây rồi ra khu khoảng khoát đằng kia, túc hạ muốn giao đấu bao lâu
tại hạ cũng bồi tiếp.
Khu khoảng khoát ở lưng chừng đồi, rải rác vài hòn đá tảng mặt đã
nhẵn vì sương tuyết. Cả ba yên lặng đến đó. Tới nơi, Thạch Đạt Lang
là người đầu tiên lên tiếng:
- Chuẩn bị !
Không đợi nhắc lần thứ hai, Lâm Bằng đã nhảy ra giữa bãi, côn tre
cầm tay khoảng một phần chiều dài, đầu côn chỉ xuống đất. Thạch Đạt
Lang tay buông thõng, dáng tự nhiên, nhưng mắt long lanh như mắt vọ
nhìn địch thủ.
- Sao ngươi không chuẩn bị ?
- Tại hạ đã sẵn sàng !
- Ngươi đấu tay không chăng ?
Thạch Đạt Lang nhếch mép, tay trái đặt lên bao kiếm. Đã đến lúc hắn
không muốn phí công lực vào lời nói.
Trong góc, mẹ Lâm Bằng ngồi như tượng đá.
Hai địch thủ gờm nhau. Lâm Bằng hơi gù, tấn đứng vững chãi, hít một
hơi dài như gom khí lực của khắp cả miền đồi núi vào trong lồng ngực
để cây gậy tre trong tay gã bung ra với tất cả sức mạnh mong muốn.
Thạch Đạt Lang, tia mắt sắc như dao chuyển dần sang màu hổ phách,
nhìn Lâm Bằng tưởng xuyên thấu tim gan gã. Tia mắt ấy có ma lực ghê
gớm. Phóng ra đúng lúc, nó có thể lũng đoạn tâm ý khiến địch thủ tổn
thương còn hơn là đao kiếm. Trúng nhược điểm, nó là mũi dùi mở đường
để lưỡi kiếm theo sau tàn phá. Chưa ai xuất thủ, nhưng trận chiến đã
bắt đầu.
Bỗng mẹ Lâm Bằng kêu lớn:
- Khoan !
Thạch Đạt Lang tung mình nhảy về phía sau chừng một trượng.
- Đại hiệp sử võ khí gì ? Thiết kiếm hay mộc kiếm ?
- Thiết kiếm hay mộc kiếm không quan hệ, kiếm nào cũng vậy ?
- ... ?
- Kiếm, dù gỗ hay thép, là một tuyệt đối. Trong trận thư hùng như
trận này, không có nửa chừng. Kẻ nào sợ thì chạy.
Bà lão im lặng rồi gật đầu:
- Phải lắm. Vậy hai bên hãy khai rõ danh tính và môn sư theo đúng
nghi thức để khỏi phải hối tiếc về sau. Sợ khi giao đấu xong thì đã
muộn ! Lâm Bằng ! Ngươi hay khai trước.
Lâm Bằng thu côn về, trịnh trọng cúi đầu trước địch thủ:
- Tiện danh là Lâm Bằng, tổ phụ phụng thị dưới trướng tướng quân
Yoshimida đất Kiso. Đời tiên phụ chẳng may bị vết nhơ, xin miễn khai
rõ, gia đình phải bỏ đi lang bạt.
Tại hạ nguyện khôi phục lại danh dự cho tiền nhân nên đã khổ công
tập luyện và khai triển một kỹ thuật về trúc côn, lại có ý định lập
riêng môn phái.
Tại hạ đã sẵn sàng, xin lãnh giáo !
Thạch Đạt Lang cúi đầu đáp lễ rồi cũng khai danh tính:
- Tiện danh là Thạch Điền Đạt Lang, sinh quán ở Miyamoto đất Harima.
Tại hạ thụ huấn võ công đầu tiên của tiên phụ, sau tự học để lập chí
theo kiếm đạo. Hiện không còn ai thân thích, nếu bị bại, xin đừng
quan tâm đến di hài tại hạ.
Đoạn rút kiếm giơ ngang mày, lưỡi kiếm lóe sáng tựa hào quang. Mẹ
Lâm Bằng nín thở. Không như những bà mẹ khác, bà đã đi tìm và buộc
đứa con còn lại độc nhất của mình, đối đầu với một mối nguy hiểm gã
chưa bao giờ gặp. Để lấy kinh nghiệm. Để duy trì lòng tự tin. Và để
khôi phục lại danh dự. Bà cho rằng đó là con đường phải đi và đó là
cách duy nhất. Tất cả hoài vọng của bà đặt lên cánh tay đứa con ấy.
Ngồi trên góc đồi quạnh vắng, bà cầu nguyện không bằng lời mà bằng
tất cả lòng tin tưởng vào thần Phật, thỉnh cầu các vị xuống hỗ trợ
cho con bà chiến đấu.
Nhìn mũi kiếm của Thạch Đạt Lang, Lâm Bằng lạnh người. Thạch Đạt
Lang hôm nay không giống như Thạch Đạt Lang gã thấy hai hôm trước.
Hai hôm trước, hắn lưu hoạt, uyển chuyển hơn nhiều trong dáng đi
cũng như cách đứng. Tuy là đối thủ, hắn vẫn có vẻ cởi mở, thân
thiết, ví như những nét chữ thảo với vẻ bay bướm, phóng dật. Bây
giờ, Thạch Đạt Lang nghiêm nghị đến khô khan. Mũi kiếm hắn chỉ về
đằng trước như một nét chữ chân phương không mang cả đến sơ bút,
tuồng như những thế kiếm sắp tung ra đã được chuẩn bị, cân nhắc kỹ
càng, bất di bất dịch:
những nét chữ khắc vào đá.
Thái độ của Thạch Đạt Lang khiến Lâm Bằng phân vân. Gã chưa dám tấn
công, cây côn tre vẫn ở thế chờ đợi.
Vạt sương cuối cùng buổi sáng vừa tan hết. Thình lình một tiếng
“chát” ghê rợn xé bầu không khí tĩnh mịch. Bộ vị hai địch thủ đã
thay đổi. Không ai biết rõ là tiếng gậy hay tiếng gươm vừa được
phóng ra. Hư ảo như là tiếng vỗ của một bàn tay.
Lâm Bằng vừa trượt đòn phạt ngang vai địch thủ mà chiêu kiếm của
Thạch Đạt Lang hớt xéo lên cũng hụt, cách thái dương gã đến non nửa
tấc.
Thạch Đạt Lang biến chiêu lập tức, lợi dụng uy lực của đường kiếm
hụt, bổ xuống.
Chiêu này hắn đã ứng dụng trong trận đánh Hoa Sơn dưới gốc cổ tùng
ngày nào, giết hại có đến chục đồ chúng. Nhưng Lâm Bằng, bề ngoài
thô kệch mà thật ra nhanh nhẹn dị thường. Gã tránh chiêu kiếm sát
thủ ấy, hai tay đưa ngược cây côn tre lên đỡ, khuỷu tay phải cao hơn
vai trái để cây côn tiếp xúc với lưỡi kiếm phần gần lá chắn cho giảm
bớt sức mạnh của lưỡi kiếm chém xuống.
Kiếm và côn giao nhau trên đầu gã. Tình trạng không khác gì tình
trạng hai bên khóa kiếm, một chút sai lầm có thể mất mạng trong nháy
mắt. Nhưng côn khác kiếm.
Côn không lưỡi, không sống, không mũi, không chuôi, nhưng trong tay
một hảo thủ như Lâm Bằng, nó có đủ cả mọi đặc điểm ấy. Lại dài hơn
kiếm, nó có thể dùng như một cây thương ngắn.
Thạch Đạt Lang không dám thu kiếm về. Hắn chưa đoán được đòn kế tiếp
của Lâm Bằng nên phải vận toàn công lực đè lên võ khí của gã.
Phần Lâm Bằng, gã ở trong tình trạng nguy khốn hơn. Đang giữ thế
thủ, mọi sơ hở để cây gậy lệch đi, tất lưỡi kiếm chém xuống, chẻ đôi
đầu. Mặt gã tái ngắt, hai hàm răng cắn chặt vào nhau làm cổ bạnh ra.
Mồ hôi rỏ giọt lên những vết nhăn ở khóe mắt. Cây côn trên đầu đã
hơi run và tiếng thở của gã đã nặng hơn trước.
Mẹ Lâm Bằng hoảng sợ, sắc diện tái hơn sắc diện người con trai trong
cuộc. Bà vươn cổ, mắt lồi khỏi tròng:
- Lâm Bằng, hông mày cao quá !
Vừa kêu vừa vỗ vào hông trái, rồi như không chịu nổi sự căng thẳng
tinh thần, bà ngã sấp.
Sau lời cảnh giác của bà mẹ, côn và kiếm rời nhau tức khắc, mạnh và
nhanh không ai nhìn kịp. Chỉ thấy Thạch Đạt Lang hơi lạng đi và
tiếng Lâm Bằng rống lên như bò bị chọc tiết. Rồi một thân người đổ
xuống bất tỉnh.
Thạch Đạt Lang giơ tay áo quệt mồ hôi. Hắn tra kiếm vào vỏ, đến bên
mẹ Lâm Bằng đỡ bà ngồi dậy. Mắt bà lão như lạc thần.
- Tại hạ chém đằng sống.
Thạch Đạt Lang ôn tồn nói. Bà lão dường như không hiểu, ngước nét
mặt đần độn lên nhìn hắn.
- Lâm Bằng chắc chỉ bị thương xoàng, không can gì. Lão bá đến gọi
cho tỉnh để tại hạ đi lấy nước.
Nghe Lâm Bằng bị thương xoàng, bà ngạc nhiên. Lết đến gần, sờ tay
con, mạch vẫn còn đập, áo không dính máu, bà mừng rỡ cuống quít vừa
lay vừa gọi. Lát sau, Lâm Bằng tỉnh dậy. Mắt lờ đờ, gã nhìn Thạch
Đạt Lang, lẩm bẩm:
- Tại hạ không phải đối thủ của đại hiệp. Đa tạ đã lưu tình ...
Thạch Đạt Lang nắm tay Lâm Bằng không đáp. Lát sau mới vạch áo
ngoài, chỉ một vết đỏ bầm trên ngực mà nói:
- Nếu không nhanh mắt, tại hạ cũng ra người thiên cổ rồi.
Đoạn nhìn bà mẹ, hỏi:
- Sao lão bá biết mà cảnh giác Lâm Bằng hắn đã để hông cao quá.
- Già không hiểu võ công, nhưng thấy nó dồn hết tâm lực vào việc giữ
cho kiếm khỏi bổ xuống đầu thành ra không tiến thoái được. Nếu biết
hạ thấp hông trái xuống một chút, lưỡi kiếm sẽ tuột đi theo chiều
cây côn và đầu côn tự nhiên bung ra đập vào ngực đối thủ, già bèn
bảo nó ...
Thạch Đạt Lang gật đầu. Hắn đã học được một kinh nghiệm bổ ích.
Trong cuộc viễn du vào biên giới của sự sống và chết vừa qua, lời
cảnh giác của bà mẹ Lâm Bằng hiển nhiên chẳng phải là một lời phù
phiếm.
Hồi 56
Cuộc Gặp Gỡ Tình Cờ
Vết thương ở
ngực Thạch Đạt Lang bây giờ tím bầm, tay hắn cử động hơi khó.
Vận khí thấy huyết mạch vẫn điều hoà, hắn không quan tâm lắm, nhưng
không muốn la cà ở dọc đường hỏi tin tức về Giang và Oa Tử nữa mà
đổi ý theo hướng đông rẽ sang quan lộ đi Shimosawa. Ở đấy, nếu vết
thương có biến chứng gì cũng dễ trị.
Shimosawa là một trấn lớn bên bờ hồ Suwa, dân cư khá đông, nổi tiếng
về suối nước nóng và những nhà tắm hơi công cộng. Các gia đình quyền
quý và thương gia giàu có dựng nhà nghỉ mát kể có hàng ngàn. Tại các
lữ điếm dành cho phái quý tộc, phòng tắm hơi đều có mái che, còn ở
những nhà tắm công cộng để giới bình dân dùng thì chỉ là vài cái bồn
gỗ quây sơ sài trong một khu lộ thiên gần suối.
Thạch Đạt Lang dừng chân trước một trong những nhà tắm công cộng ấy,
cởi trang phục máng lên cành cây rồi bước vào bồn nước. Gối đầu lên
phiến đá, ngâm mình trong bồn nước ấm hơi nóng bốc mù mịt, hắn thấy
sảng khoái vô cùng. Bao nhiêu mệt mỏi dường như theo hơi nước tiêu
tan đi mất cả. Hắn đưa tay xoa nhẹ vết thương, cảm thấy dễ chịu, lim
dim mắt nhìn ra bên ngoài rào gỗ.
Trời đã xế chiều. Mặt hồ Suwa phẳng lặng phản chiếu ánh hoàng hôn
hồng nhạt qua những căn lều thưa thớt của xóm dân chài. Trong thửa
vườn nhỏ, rộng mỗi bề chừng chục thước, một người đàn bà lúi húi
tưới rau. Gần đấy là ngôi hàng xén bán dầu đèn cùng vài thứ cần dùng
khác cho khách. Trước hiên, một người đàn ông trung niên vận trang
phục lữ hành ngồi trên ghế đẩu đang thử đôi dép cỏ. Khách vừa thử
vừa hỏi chủ quán:
- Ông chủ thấy có ai tên Thạch Đạt Lang đi qua đây không ?
Chủ quán lắc đầu. Khách lại tiếp:
- Hắn có bản lĩnh ghê hồn, dám một mình một kiếm giao chiến với cả
trăm người phái Hoa Sơn mà không ai làm gì được. Đảm lược ấy ngày
nay không mấy ai có.
- Lão không nghe nói. Thế hắn chừng bao nhiêu tuổi, ăn mặc ra sao ?
Khách không đáp, xem ra cũng chẳng rõ gì hơn ngoài cái tên Thạch Đạt
Lang vừa thốt, chỉ yên lặng lúi húi buộc quai dép, trả tiền rồi đứng
dậy lẩm bẩm:
- Thế nào cũng phải tìm hắn cho bằng được.
Thạch Đạt Lang nheo mắt nhìn. Khách lạ vào trạc tứ tuần, da nâu vì
sương nắng, tóc hai bên thái dương lốm đốm bạc, nét mặt phong sương
và cương nghị. Y phục bằng vải tốt và thanh kiếm đeo bên hông chuôi
nhẵn bóng. Hắn đoán người đó phải là một kiếm sĩ có địa vị và từng
trải, đã xông pha nhiều trận.
“Không lẽ lại là đệ tử Hoa Sơn ?”. Thạch Đạt Lang nghĩ thầm nhưng
vội gạt ngay ý nghĩ ấy, vì nếu là đệ tử Hoa Sơn thì tất biết rõ tầm
vóc, tuổi tác hắn. Vả nghe giọng nói, không thấy vó vẻ gì hằn học
hay thù hận. “Nhưng là ai, không hiểu tại sao lại tìm mình ?
Lạ quá !”.
Chờ cho khách đi khỏi, Thạch Đạt Lang mới bước ra ngoài bồn tắm. Với
quần áo mặc vào, trả tiền xong, hắn ung dung đi ra đường lớn, trong
lòng vẫn không khỏi thắc mắc về danh tính và mục đích của kẻ đó. Như
một khách thừa lương, hắn bước thong thả, cẩn trọng trông chừng từng
bụi cây và các chỗ khuất.
Được quãng xa, đến một khúc quanh, bất ngờ lại gặp chính ngay người
khách lạ mặt ấy. Dưới chiếc nón nan, đôi mắt khách sắc như dao liếc
nhanh về phía hắn.
Thạch Đạt Lang tảng lờ như không biết, cứ tiếp tục đi. Người kia đến
gần, hỏi:
- Tráng sĩ phải chăng là Thạch Điền Đạt Lang ?
Thạch Đạt Lang khẽ gật và kín đáo đề phòng.
Người kia tỏ vẻ mừng rỡ:
- Quả không lầm ! Thật là hạnh ngộ !
- Tôn ông là ai ? Theo tại hạ có việc gì ?
Thạch Đạt Lang hỏi.
- Xin tráng sĩ tha lỗi đường đột. Tiện danh là Mạc Khải Kỳ, thủ túc
thân tín của tướng công Liêu Chính Mộ Đức đất Mitsu. Tại hạ có ý tìm
tráng sĩ từ lâu ...
- Rất hân hạnh. Nhưng tìm tiểu nhân có việc gì ?
- Đứng đây nói chuyện không tiện, xin mời tráng sĩ tới lữ quán dùng
cơm chiều, tại hạ sẽ trình rõ.
Thạch Đạt Lang do dự, ý muốn từ chối. Mạc Khải Kỳ lại tiếp:
- Buổi sơ kiến mà xử sự như thế này thật vô phép, xin tráng sĩ đừng
nghi kỵ. Tại hạ chính là người có vị thế lớn dưới trướng Liêu tướng
công, bổng lộc trên vạn gia. lúa, giannhân hàng chục người, ngựa tốt
trăm con. Vì ngưỡng mộ tài năng của tráng sĩ mà đi tìm chứ không có
ý gì khác. Xin chớ phụ lòng.
Trước thái độ vồn vã ân cần của khách lại, Thạch Đạt Lang không tiện
thoái thác, Khải Kỳ bèn níu áo lôi đi.
Đến chỗ trọ, không ngờ là một lữ điếm sang trọng vào bậc nhất trấn
Shimosawa, tì nữ ra đón vào, cầm đèn lồng hướng dẫn qua một lối đi
riêng giữa hai hàng tùng xanh trúc biếc. Thạch Đạt Lang lại càng
không đoán được lý do nào mà một kiếm sĩ có địa vị như thế lại cất
công đặc biệt tìm mình.
Thị tỳ mang áo mới đến, thứ áo mềm lót bông để khách dùng trong nhà,
đặt trên hai cái khay sơn then khảm xà cừ và nạm bạc. Mạc Khải Kỳ
cầm áo nói:
- Đường xa bụi bặm, tại hạ mạn phép vào phòng tắm một lát. Mời tráng
sĩ cùng vào một thể.
- Xin cứ tự nhiên, tiểu nhân vừa tắm rồi.
Khải Kỳ không ép, đi vào nhà trong, đồng thời sai nữ tỳ mang rượu
tới. Thạch Đạt Lang bước ra hiên. Thị trấn đã lên đèn, tiếng ồn ào
cũng giảm bớt. Xa xa, nước hồ đổi từ màu chàm sang màu đen sẫm khiến
hắn liên tưởng tới màu mắt đen của Oa Tử lo lắng nhìn hắn đêm nào
dưới ánh trăng trên triền núi. Áy náy và hối hận tràn ngập trong
lòng, Thạch Đạt Lang tự hỏi không biết giờ này Oa Tử ở đâu, an nguy
ra sao và tự trách mình đã bỏ phí thì giờ đến một chỗ không cần
thiết. “Kẻ nào bắt cóc Oa Tử tất không đời nào dẫn qua một nơi đông
đúc như thế này !”. Tưởng tượng nghe tiếng Oa Tử kêu cầu cứu đâu
đây, lòng hắn bồn chồn như lửa đốt.
Khải Kỳ tắm xong đã trở lại phòng khách. Thấy bộ áo của lữ quán vẫn
còn nguyên để trên khay, Khải Kỳ ngạc nhiên hỏi:
- Tráng sĩ không thay áo ?
- Tiểu nhân mặc thế này cũng đủ. Trong nhà, ngoài đường hay bất kỳ
lúc nào, tiểu nhân cũng mặc thế này. Âu là thói quen, vả mặt thế này
thoải mái hơn, xin miễn thứ.
Đoạn mỉm cười ra chiều xin lỗi. Mạc Khải Kỳ gật gù:
- Chắc tráng sĩ muốn luôn luôn sẵn sàng. Liêu tướng công thấy thế
hẳn phải vừa lòng lắm !
Thạch Đạt Lang nhướng mày ra ý hỏi, nhưng Khải Kỳ chỉ cười, cầm chén
tráng vào bát nước nóng để bên rồi thân hành rót rượu mời.
Thạch Đạt Lang từ tạ mà nói:
- Buổi đầu gặp gỡ, tiểu nhân được tôn ông quá biệt đãi, dành cho
nhiều cảm tình như thế này, không hiểu vì lý do gì, nên thắc mắc mà
không dám nhận.
Khải Kỳ cười ha hả, cầm chén rượu uống cạn:
- Tráng sĩ ngạc nhiên là phải. Nhưng có gì đâu ! Lý do cũng dễ hiểu.
Tại hạ bị ma lực của tráng sĩ quyến rũ đấy !
Nói xong lại cười khiến Thạch Đạt Lang cũng cười theo, nhưng sau
những tiếng cười ấy, mỗi người có một ý tưởng khác.
Khải Kỳ chưa biết rõ Thạch Đạt Lang, chưa dám bộc lộ tâm tình nên
nghĩ rằng giải thích như vậy cũng đủ. Trái lại, lời giải thích của
Khải Kỳ càng làm Thạch Đạt Lang hoang mang hơn. Hắn còn trẻ, bản
tính chân thật, chưa từng trải bao nhiêu trong sự giao tiếp với xã
hội, nên không bao giờ tưởng rằng một người đàn ông lại có thể bị
quyến rũ bởi một người đàn ông khác. Riêng hắn, không bao giờ hắn
cảm thấy như thế cả. Đại Quán nhiều lúc đùa cợt nhưng những lời ông
nói hàm ý tứ sâu xa, hắn coi như bậc thày.
Cổ Huy Đạo sống ở một thế giới khác. Trúc Mộ lão nhân thì đã rút
khỏi vòng hệ lụy của nhân sinh, ngưỡng mộ hay không ngưỡng mộ Ông
nào có khác gì ? Có lẽ Khải Kỳ nói như thế chỉ có mục đích tâng bốc.
Nhưng Thạch Đạt Lang nhìn mắt người đối thoại, thấy không phải là
một kẻ xiểm nịnh tầm thường, bèn hỏi thẳng:
- Tôn ông nói bị ma lực của tiểu nhân quyến rũ là thế nào ?
Khải Kỳ thôi không cười nữa, nghiêm trang đáp:
- Có lẽ vì diễn không hết ý hoặc dùng chữ sai nên tráng sĩ không
hiểu rõ. Tại hạ chỉ muốn nói từ khi được nghe đại danh sau trận hỗn
đấu trên đồi Sinh Minh, và được diện kiến, tại hạ hết sức cảm phục
và đem lòng yêu mến chẳng khác nào bị mê hoặc.
Thạch Đạt Lang đỏ mặt gạt đi:
- Tôn ông quá khen, tiểu nhân quả không xứng đáng. Nhưng sao tôn ông
biết tiểu nhân đi đường này ?
- Tại hạ có xem mảnh vải yết thị treo trên cây của tráng sĩ.
- À ra thế !
Thật trớ trêu ! Mảnh vải viết để tìm một người thì một người khác
lại tìm đến.
Chẳng hiểu rồi ra có liên quan gì đến những việc sau này không. Con
tạo có những xếp đặt bất ngờ thật !
Khải Kỳ lại tự tay rót rượu mời Thạch Đạt Lang.
- Anh em bốn bể một nhà, huống chi chúng ta đều trong võ lâm cả. Xin
tráng sĩ chớ làm khách, hãy nhận chén rượu này, tại hạ thành thật
mong được tráng sĩ coi là bạn.
Thạch Đạt Lang cầm chén rượu nâng ngang mày rồi vui vẻ uống cạn.
- Lúc nãy tại hạ đã tự giới thiệu là thủ túc của Liêu Chính Mộ Đức
tướng quân, chắc tráng sĩ chỉ mới nghe danh chứ chưa rõ nhiều về
ngài, vậy xin nói rõ.
Liêu tướng công là vị sứ quân đứng đầu một lãnh địa đang hồi phong
thịnh lại rất hào phóng. Vùng đất Mitsu phương bắc rộng tới vạn mẫu,
bổng lộc hàng năm kể mấy triệu gia. lúa, dưới trướng không biết bao
nhiêu là kiếm sĩ nhưng xét cho kỹ, chẳng mấy ai được như tráng sĩ.
Tráng sĩ còn trẻ, nếu nghĩ đến tương lai, xin đừng bỏ qua cơ hội.
Thạch Đạt Lang đăm đăm nhìn khay rượu, không đáp. Tiếng đàn từ phòng
bên vọng tới cùng với bóng tỳ nữ qua lại ngoài hiên in lên nền giấy
dán trên song cửa. Bỗng nhiên, Khải Kỳ đột ngột hỏi:
- Thạch tráng sĩ ! Tráng sĩ luyện kiếm cho ai ?
Bị hỏi bất ngờ, Thạch Đạt Lang không biết trả lời sao, vì hắn chẳng
bao giờ nghĩ đến chuyện ấy. Hắn ngay thật đáp:
- Thì cho tiểu nhân !
Khải Kỳ mỉm cười:
- Tráng sĩ nói đùa rồi ! Mưu cầu danh lợi cá nhân chẳng phải là mục
đích tối hậu của người cầm kiếm, nhất là người cầm kiếm ấy là tráng
sĩ. Xin đừng giấu nhau nữa !
Vô tình hay hữu ý, Khải Kỳ đã đưa dần Thạch Đạt Lang đến mục đích
chính của cuộc gặp gỡ. Lặng yên một lúc, Khải Kỳ tiếp:
- Toàn thể nước Nhật ngày nay đều đặt dưới quyền thống trị của Tôn
Điền Tùng Cương. Hòa bình và thịnh vượng này, như tráng sĩ biết, chỉ
là giả tạo. Dân chúng có được gì không ? Qua bao nhiêu thế kỷ nối
tiếp nhau, phái quân phiệt luôn luôn nắm chính quyền, áp bức không
những dân chúng àm còn cả hoàng gia nữa. Lợi lộc đều về tay đảng tộc
của họ, còn dân chúng vẫn chịu cảnh cơ cực. Dưới thời Tôn Điền Tùng
Cương xem ra dân còn lầm than hơn nữa, và thời đại này chẳng qua
cũng chỉ là kéo dài sự chuyên chế tàn bạo của những thời đại trước
mà thôi.
Liêu tướng công và một số bạn hữu ngài ý thức điều đó rõ hơn ai hết
nên có ý định hành động ...
Mạc Khải Kỳ nói một hơi dài rồi dừng lại, liếc nhìn Thạch Đạt Lang,
thấy hắn vẫn im lặng lễ phép ngồi nghe và không phản ứng gì thì
chẳng biết ý tứ hắn ra sao.
Nhìn xuống khay rượu, Khải Kỳ mượn cớ:
- Rượu nguội cả rồi ! Nào xin cạn chén đi chứ ! Tử lượng tráng sĩ
chắc phải hơn tại hạ.
- Không, tiểu nhân uống ít lắm.
- Người phương bắc vùng tại hạ uống rượu không biết say, một phần vì
thói quen, một phần để chống lại hàn khí. Liêu tướng công là một
trong những người uống rượu rất hào, uống cả đêm được mà sắc mặt vẫn
không đổi.
Chén thù chén tạc, câu chuyện đổi sang nếp sống thường nhật của dân
chúng phương bắc và lòng trung thành của Liêu tướng công đối với
hoàng gia.
Trong khi Khải Kỳ thao thao bất tuyệt ca tụng chủ soái với hậu ý kết
nạp Thạch Đạt Lang thì hắn chỉ tỏ thái độ dè dặt. Tuy nhiên, nghe
lời nói và xét ý tứ của Khải Kỳ, hắn cũng rõ khá nhiều về đường
hướng và lý tưởng chính trị của Liêu Chính Mộ Đức, coi kiếm đạo như
con đường độc nhất để khắc kỷ và giải quyết mọi vấn đề xã hội.
Kiếm đạo có từ thời cổ, từ lúc có giai cấp võ sĩ, nhưng ngày nay
nghĩa vụ và giá trị tinh thần của nó không còn nữa. Thảng hoặc có
người nhớ đến thì chỉ là những khái niệm mơ hồ. Trong cuộc nội chiến
giữa các sứ quân vào thế kỷ mười lăm và mười sáu, tinh thần võ sĩ
đạo đã bị bóp méo và phần lớn bị thu hẹp trong nghĩa vụ của người võ
sĩ đối với chủ soái mà thôi. Bây giờ thì bất cứ người cầm kiếm nào
cũng có thể tự phong cho mình là kiếm sĩ, không quan tâm gì đến ý
nghĩa của con đường họ theo đuổi nữa.
Những kẻ đó đa số tâm địa còn thấp kém hơn cả tâm địa những người
dân quê ngu dốt.
Hồi tưởng lại những năm trong thạch thất ở lâu đài Himeiji, Thạch
Đạt Lang nhớ đã xem qua một cuốn sách viết về cốt tủy của kiếm đạo,
mục tiêu và kỹ thuật của nó do Phú Sĩ Khang viết. Phý Sĩ Khang chính
là bút hiệu của viên võ tướng nổi danh Quang Nguyên Phổ. Lý tưởng
cùng phép ứng dụng kiếm đạo vào xã hội của ông đã khiến lãnh địa do
ông cai quản trở thành một trong những lãnh địa giàu mạnh nhất thời
ấy. Những lời Mạc Khải Kỳ vừa nói xem ra phản ánh phần nào quan niệm
cai trị của Quang Nguyên Phổ.
- Tráng sĩ tha lỗi cho tại hạ đã dài dòng. Tai nghe không bằng mắt
thấy. Nếu tráng sĩ không nề, ngay ngày mai, tại hạ xin dẫn đường đến
Mitsu để tráng sĩ đích thân mục kích sự sinh hoạt trong lãnh địa.
Chắc chắn Liêu tướng công sẽ rất hân hạnh được đón tiếp tráng sĩ.
Đêm đã khuya. Khay rượu được dọn đi và thay vào bằng những món ăn
nóng.
Thạch Đạt Lang rất lưu ý đến những lời mời mọc của Mạc Khải Kỳ nhưng
vẫn chưa tỏ thái độ rõ rệt.
- Đa tạ tôn ông đã có hảo ý, nhưng tiểu nhân cần suy nghĩ trước khi
trả lời dứt khoát ...
Bữa cơm tiếp diễn trong bầu không khí tương đắc giữa hai người bạn
mới gặp cho đến cuối canh hai mới dứt.
Về phòng riêng, Thạch Đạt Lang không thể không nghĩ đến những lời
chí tình của Mạc Khải Kỳ. Hắn cũng đồng ý mục đích tối hậu của người
cầm kiếm không phải chỉ là trau dồi kỹ thuật cho cao để trấn áp kẻ
khác mà kiếm đạo phải là con đường giải thoát; giải thoát con người
khỏi những ẩn ức; giải thoát xã hội khỏi sự đè nén. Mục tiêu tối hậu
của người cầm kiếm là không dùng kiếm. Ý tưởng ấy hắn học được ở
đâu, bây giờ hiện ra sáng chói. Để có dịp, Thạch Đạt Lang sẽ đến
thăm Liêu tướng công và nếu con đường ông theo quả có mục đích ấy
thì hắn sẽ hợp tác. Lần đầu tiên Thạch Đạt Lang nhận thấy có cơ hội
mang đến cho kiếm đạo một tinh thần nhân bản, dọn đường cho con
người hợp nhất với thiên nhiên như lòng hắn mong ước.
Hồi 57
Món Quà Tặng
Tỉnh dậy, Thạch
Đạt Lang nghĩ ngay đến Oa Tử và Giang. Hắn biết trong lúc này không
thể nào đi cùng với Mạc Khải Kỳ đến Mitsu được.
Lúc cáo biệt, Khải Kỳ tỏ vẻ buồn và thất vọng:
- Thật tiếc không được làm bạn đồng hành với tráng sĩ. Hy vọng những
lời nói hôm qua trong bữa rượu không bị tráng sĩ bỏ ngoài tai. Nếu
đến nơi, tráng sĩ không vừa ý thì cũng xin coi đó như một cuộc du
ngoạn. Phong cảnh bắc phương đẹp có tiếng, tráng sĩ chắc biết.
Thạch Đạt Lang cảm động vì những lời thành thật ấy. Hắn ấp úng nói:
- Tiểu nhân cũng rất tiếc nhưng có việc riêng phải làm ngay. Có dịp
sẽ cùng tôn ông tái ngộ.
Khải Kỳ chia tay đi về phía đèo Hòa Đa còn Thạch Đạt Lang thì rẽ
sang hướng Nakasendo. Đến ngã ba Koshu, đang phân vân không biết
theo đường nào và đặt kế hoạch ra sao để tìm tung tích Oa Tử thì có
một bọn người rảo bước đi tới. Bọn này ăn mặc ra dáng phu khuân vác
hoặc người giữ ngựa, quấn khăn đầu rìu, áo ngắn, chân mang xà cạp.
Chúng bâu đến Thạch Đạt Lang. Một tên khoanh tay trước ngực nhìn
hắn, lỗ mãng nói:
- Khách quan có vẻ lo lắng. Muốn tìm ai chăng, người đẹp hay con hầu
?
Thạch Đạt Lang lắc đầu, quay đi chỗ khác. Không biết rõ nên làm thế
nào, hắn định rảo quanh khu đó hỏi thăm. Nếu không được tin tức gì,
có lẽ đến phải lên phương bắc đi Mitsu vậy. Âu cũng là định mệnh đã
an bài, biết làm sao được !
Đang suy nghĩ thì một tên khác lại mò tới:
- Nếu khách quan thực tâm muốn tìm người quen thì bọn nô tài có thể
giúp được, còn hơn là đứng nắng hay đi hỏi cầu âu. Người quen của
khách quan ra sao ? Bọn tiểu nhân không dám đặt tiền công đâu, tùy
hảo tâm của khách quan cho bao nhiêu cũng được !
Nghĩ rằng như vậy lại hơn, Thạch Đạt Lang bèn tả hình dáng Oa Tử và
Giang cho bọn kia biết. Chúng quay ra hỏi nhau một lúc rồi một đứa
nói:
- Bọn này không ai trông thấy người mà khách quan tả cả, nhưng có
thể chia nhau đi tìm, thế nào cũng gặp. Kẻ bắt cóc chỉ theo một
trong ba đường núi giữa hai trấn Suwa và Shiojira mà thôi. Khách
quan không biết đường nhưng tụi này biết.
Thạch Đạt Lang nghe, không lấy gì làm tin tưởng lắm, nhưng cũng bảo:
- Vậy tốt, các chú đi tìm ngay đi !
- Rồi ! Làm ngay !
Một tên dáng chừng đầu nậu, họp cả bọn dưới gốc cây, chỉ trỏ người
này kẻ kia có vẻ phân công cho từng đứa một. Chúng gật gù cười nói,
đoạn tên đầu nậu đên bên Thạch Đạt Lang, xoa hai tay vào nhau, lễ
phép nói:
- Nô tài đã cắt đặt xong cả rồi, chỉ còn chuyện này hơi khó xử. Ờ
... à ... khó nói quá! À ... à ... chắc khách quan cũng biết, bọn
này là thợ thất nghiệp, tiền bạc không có, từ sáng chưa được hột cơm
nào. Nhịn đói mà chạy việc cho khách quan thì sợ không được việc,
khách quan lại quở trách. Vậy xin ứng trước cho nửa ngày công, nếu
hơn chút đỉnh thì càng tốt để bọn nô tài ăn chút gì dằn bụng trước
khi đi. Xin bảo đảm với khách quan thế nào cũng tìm thấy.
Thạch Đạt Lang tính nhẩm rồi gật đầu:
- Thế cũng được. Ta cũng có ý định đưa trước cho các chú một số tiền
nhỏ. Bao nhiêu ?
Tên kia đưa ra một con số. Thạch Đạt Lang thấy cao hơn số tiền hắn
có thì khựng lại. Hắn cũng biết giá trị của đồng tiền nhưng sống một
mình, không thân thích phải giúp đỡ, nhiều khi hắn chẳng để ý đến
tiền bạc. Trên bước đường giang hồ, gặp người ái mộ ủng hộ chút ít
để chi phí thì tốt, bằng không, vào ở đậu trong chùa hoặc ngủ qua
đêm trong rừng hay bờ suối, có khi quên cả ăn, hắn cũng không quản
ngại.
Những ngày gần đây, Oa Tử nhờ được sự giúp đỡ của Lưu Cát, đã xuất
tiền ra lo hết mọi việc chi tiêu, hắn chẳng phải để tâm gì đến. Như
một người vợ hiền, thỉnh thoảng nàng lại còn bỏ vào bọc hắn ít bạc
vụn để làm tiền túi.
Thạch Đạt Lang khều số bạc ấy ra, chỉ giữ lại chút đỉnh, còn bao
nhiêu đưa cả cho tên phu đầu nậu. Mặc dầu hy vọng được nhiều tiền
ứng trước hơn, gã phu cũng không từ chối và bằng lòng đi tìm, vì
“cảm tình đặc biệt” với khách.
- Khách quan tới đợi ở tam quan chùa Thạch Phật, tụi này sẽ tới đó
trước khi mặt trời lặn.
Nói đoạn, cả bọn chia nhau số bạc, rồi giải tán đi các ngả.
Một mình chẳng biết làm gì, Thạch Đạt Lang thả bộ quanh vùng, thăm
trấn Shimosuwa và lâu đài Takashima, dừng chân quan sát địa hình
cùng cách dẫn thủy vào lâu đài để rộng kiên văn, phòng sau này cần
đến. Hắn cũng không quên hỏi thăm Oa Tử và danh tính những kiếm sĩ
trong vùng, nhưng chẳng biết thêm được điều gì hữu ích.
Mặt trời xế bóng, Thạch Đạt Lang đến chùa Thạch Phật ngồi đợi trên
bậc thềm đá dưới tam quan. Khá lâu chẳng thấy ai đến, hắn đảo quanh
chùa ngoạn cảnh vườn cho khỏi cuồng cẳng, nhưng lòng bồn chồn, mới
được vài bước đã quay lại chỗ cũ dưới tam quan ngồi đợi.
Trời bắt đầu chạng vạng. Nghe tiếng ngựa hí đâu đây, Thạch Đạt Lang
hơi ngạc nhiên. Đợi lúc nữa cũng không thấy ai đến, hắn theo tiếng
ngựa hí đi tới thì thấy ở cái chuồng nhỏ sau chùa có người mã phu
già đang dội nước tắm cho hai con ngựa bùn đất còn bám đầy móng.
Thấy Thạch Đạt Lang, người mã phu dừng tay nhìn, tỏ vẻ ngờ vực:
- Tối rồi, thí chủ đến đây làm gì thế ? Cần gì chăng ?
Thạch Đạt Lang nói rõ lý do. Người mã phu bèn cười hô hố mãi không
dứt khiến Thạch Đạt Lang cau mày khó chịu. Đợi tin tức thì có gì
đáng cười ? Hắn toan phản đối nhưng chưa kịp mở miệng, người mã phu
đã nói:
- Thí chủ từ đâu đến ? Ngây thơ thế đáng lẽ chẳng nên đi một mình
mới phải. Thí chủ tưởng rằng tụi đó đi tìm người cho thí chủ đấy hẳn
? Nếu trả tiền trước rồi thì ôi thôi... coi như nước lã ra sông,
đừng hòng nhìn lại nữa !
- Vậy ra lão cho rằng chúng đóng trò để lừa tiền mỗ chăng ?
Người mã phu tỏ vẻ thương hại:
- Đúng thế ! Chúng bày kế cướp tiền của thí chủ rồi ! Lão mới về
nhưng nghe nói trên đường đi, có chục tên du đáng họp nhau ở bên kia
đồi đánh bạc, uống rượu. Hẳn chúng nó chứ không ai. Những vụ lừa đảo
như thế bây giờ xẩy ra như cơm bữa. Tệ thật !
Rồi lão thuận miệng kể vài vụ cũng khách thương bị côn đồ gạt vào
bẫy, lấy nhẵn cả tiền và hàng hóa, rồi kết luận:
- Ối dào ! Đời bấy giờ ấy mà ...Từ nay thí chủ nên cẩn thận !
Nói xong, gánh đôi thùng không xuống đồi múc nước, để Thạch Đạt Lang
đứng một mình, sượng sùng với lời khuyên, trong bóng chiều bắt đầu
buông dày đặc.
Thạch Đạt Lang vừa tức vừa buồn cười, tự trách mình quá khờ khạo.
“Ta tự hào không sơ hở để địch thủ đâm hông được mà lại bị một bọn
dốt nát lừa gạt. Thật không khác gì bị cái tát. Vậy mà mơ những
chuyện cao xa, chỉ huy binh đội, lãnh đạo chiến tranh thì làm thế
nào được !”.
Trèo những bậc đá lên chùa, hắn tự nhủ thầm sẽ thận trọng hơn trong
sự tiếp xúc với xã hội bên ngoài. Đến tam quan, bỗng thấy một trong
những người thợ ban sáng đang đứng đợi.
- À ! Khách quan đây rồi ! Làm nô tài chờ mãi !
Thạch Đạt Lang cau mặt, nhưng cũng hỏi:
- Có tin gì không ?
- Có ! Có tin một trong hai người !
- Ai ! Thiếu nữ hay tiểu đồng ?
- Tiểu đồng ! Nhỏ đó với một người đứng tuổi tên Đại Cổ ở Narai đi
về phía đèo Hòa Đa. Không thấy tận mắt nhưng nô tài đã cất công đến
tận Seba mới được tin đấy !
Bọn kia đã ai về báo tin cho khách quan biết chưa ?
- Chưa. Nhưng ta chắc chúng lừa ta, lấy tiền đi đánh bạc chứ tìm cái
gì !
Người thợ gật gù:
- Thường thì như vậy, nhưng nô tài thì không. Thấy khách quan đứng
đắn, nô tài cố giúp.
Hơi ngượng vì đã có ý vơ đũa cả nắm, Thạch Đạt Lang nói chữa:
- Cám ơn chú đã cho tin.
Rồi móc số bạc vụn ra. Hắn ước tính số bạc chỉ đủ để trả tiền bữa
cơm tối nên ngần ngừ một lát. Nhưng lại nghĩ lòng thành thật không
thể không được tưởng thưởng, bèn dốc cả số bạc vụn vào tay người
thợ. Biết đâu chẳng vì thế mà những ngày sắp tới gã chẳng giúp thêm
được vài người nữa, tin rằng người thật thà sẽ được đền đáp xứng
đáng ?
Người thợ được tiền, mừng rỡ nâng ngang mày tỏ ý cảm ơn rồi tất tả
quay gót.
Trời tối hẳn. Bóng đêm lẫn với bóng núi mờ mờ, vài đốm sao mới xuất
hiện nhấp nháy. Tiết trời mát mẻ và trong người dễ chịu, Thạch Đạt
Lang quyết định đi đêm đến đèo Hòa Đa, hy vọng sẽ gặp Đại Cổ và
Giang ở đó vào buổi sớm. Hắn dời chùa Thạch Phật, và một lần nữa lại
được hưởng cái thú đi đêm một mình trên con đường vắng. Hắn cảm thấy
khoan khoái vô cùng, được nghe chính bước chân mình rào rạo trên sỏi
đá, lắng nghe cái yên lặng của đất trời rất sinh động chung quanh,
quên hết cả để tận hưởng sự hiện hữu của chính mình. Giữa đám đông
ồn ào và vội vã trong các thị trấn, Thạch Đạt Lang đôi khi cảm thấy
buồn và cô độc, nhưng trong cảnh tịch mịch của đêm khuya, không bao
giờ hắn thấy đơn côi hay bị ruồng bỏ. Trái lại, tâm hồn hắn dễ rung
động, tinh thần linh mẫn và ý tưởng cũng khoáng đạt hơn. Óc và tâm
hắn có lúc như rời hẳn nhau, giúp hắn có cái nhìn rất lạnh lùng và
khách quan để tự xét.
Qúa nửa đêm, Thạch Đạt Lang trông thấy ánh lửa đằng xa. Từ khi qua
khỏi cầu Ochi, đường dốc dần. Thạch Đạt Lang đoán có lẽ sắp tới chân
đèo. Ánh lửa có thể do tiều phu trong rừng đốt sưởi ấm hoặc của một
quán ven đường nào còn mở cửa.
Nghĩ đến quán, Thạch Đạt Lang sực nhớ chưa ăn cơm chiều và tự nhiên
bụng hắn cồn cào sôi sục. Từ khi dời trấn Shimosuwa, lần đầu tiên
hắn thấy đói.
Đến nơi, quả nhiên là một cái quán ven đường. Bên ngoài trống bốn
cây cột để buộc ngựa nhưng không có ngựa. Tuy nhiên có tiếng lè nhè
từ trong quán vọng ra lẫn với tiếng củi cháy nổ lách tách. Thạch Đạt
Lang đứng trước hiên, do dự. Nếu là một căn lều của nông dân hay
tiều phu, hắn không ngại gì mà không xin ngủ đậu nhưng đây lại là
một quán hàng. Mà trong bọc hắn không còn đồng tiền nào cả. Mùi cơm
và thịt nấu bay ra xộc vào mũi, Thạch Đạt Lang nuốt nước bọt. Sực
nhớ đến pho tượng mang theo, một pho tượng Quan Âm nhỏ, gọt bằng gỗ
mận trong những lúc nhàn rỗi, hắn định đem ra đổi lấy bữa cơm. “Mình
sẽ giải thích cho chủ quán rõ, chắc họ chẳng nỡ từ chối”.
Bèn đẩy cửa bước vào. Ba người khách ngồi cạnh lò quay ra nhìn. Râu
ria lởm chởm, quần áo xốc xếch, trong cảnh tranh tối tranh sáng bên
ngọn lửa bập bùng, không ai đoán được họ bao nhiêu tuổi. Quán nghèo
nàn. Hai cái bàn thấp đóng bằng ván cũ với ghế đẩu kê trong góc.
Trên bếp, cũng dùng làm lò sưởi, treo cái nồi nấu thịt, mùi thơm tỏa
ngào ngạt. Bên cạnh, một hũ sành chắc đựng rượu hâm nóng.
Thạch Đạt Lang ngồi vào bàn. Một người khách hỏi:
- Muốn gì ?
- Ai là chủ quán ? Cho cái gì ăn chứ ?
Tức thì cả ba cùng nói:
- Quán ! Có khách !
Một người từ nhà sau bước ra, hất hàm hỏi:
- Dùng gì ?
- Cơm, canh, gì cũng được, mà nhanh lên !
Lát sau, thấy chủ quan bưng ra một liễn cơm nguôi và một bát canh
rau cùng đũa bát:
- Khách quan ăn tạm. Nhà hết cơm nóng mà thịt lợn rừng thì chưa
chín.
Thạch Đạt Lang gật đầu:
- Cũng được !
Rồi bắt đầu ăn ngấu nghiến. Những người kia cũng không nhìn Thạch
Đạt Lang nữa, tiếp tục quay vào cạnh lò nói chuyện, thỉnh thoảng lại
nhổ nước miếng đánh bẹt một cái vào lửa.
Nhân thấy chủ quán đứng gần, Thạch Đạt Lang bèn hỏi:
- Ông quán có thấy ai tên Đại Cổ qua đây không ?
Chủ quán không đáp. Thạch Đạt Lang nói thêm:
- Đại Cổ trạc năm mươi, tóc hoa râm, đi cùng với một thằng bé khoảng
mười lăm tuổi.
Chủ quán bèn quay hỏi những người khách kia:
- Hồ Định ! Lão có thấy ai tên Đại Cổ chừng tuổi dẫn thằng bé qua
đường này không ?
Ba người kia đưa mắt nhìn nhau như hỏi ý rồi cùng lắc đầu. Chủ quán
nói:
- Chắc không có, hay chưa tới cũng không biết chừng.
Thạch Đạt Lang lại tiếp tục dùng bữa. Khi đã lửng dạ, hắn mới nghĩ
đến việc trả tiền. Sở dĩ hắn không nói ngay lúc đầu vì không muốn có
vẻ như một tên khất thực trước mặt những người khách lạ. Hắn định
nếu chủ quán không nhận bức tượng Quan Âm, hắn sẽ thế con dao chuôi
bằng sừng hươu vẫn để trong bọc.
Cơm nước xong, Thạch Đạt Lang gọi chủ quán:
- Ông quán này ! Ta có chuyện muốn yêu cầu !
Chủ quán hất hàm ra ý hỏi:
- Ta không có tiền, nhưng cũng không muốn chịu tiền cơm của ông
quán. Ông có ưng nhận đồ vật thay cho tiền cơm không ?
- Đồ vật gì ?
- Một bức tượng.
- Tượng thật hay giả ?
- Tượng Quan Âm, chẳng phải do điêu khắc gia danh tiếng nào tạo ra,
nhưng do tay ta làm. Chẳng biết có đáng giá bữa cơm hay không nhưng
ông cứ xem trước. Nếu được ...
Vừa nói, Thạch Đạt Lang vừa lấy ra một cái túi vải và bắt đầu cởi
dây buộc. Ba người khách kia cũng ngưng nói chuyện, quay ra chăm chú
nhìn tay Thạch Đạt Lang cởi dây túi.
Cởi xong, Thạch Đạt Lang đổ tất cả lên bàn. Một quyển sổ con, một
cái bút với nghiên mực nhỏ, một pho tượng gỗ cùng với một cái túi
nhỏ nữa nặng hơn rơi ra lộn xộn.
Mấy đồng tiền vàng từ miệng cái túi nhỏ cũng lăn ra theo, một đồng
rơi xuống đất va vào bệ đá kêu đánh keng một tiếng.
Mọi người trố mắt nhìn, kể cả Thạch Đạt Lang. Hắn không hiểu sao,
nắn nắn cái túi vải, rồi thò tay vào rút ra một mảnh giấy. Mảnh giấy
ký tên Mạc Khải Kỳ, trên có ghi vài hàng chữ:
“Chút quà mọn, kính ái tặng tráng sĩ làm tiền lộ phí”.
Thạch Đạt Lang bấy giờ mới vỡ lẽ:
đấy là cách mua chuộc của Liêu Chính Mộ Đức.
Chẳng ai lạ gì sự bất mãn của một số sứ quân thời bấy giờ, bên ngoài
tuy ra vẻ thần phục lãnh chúa Tôn Điền, nhưng bên trong ngấm ngầm
chiêu binh nuôi ngựa làm phản. Liêu Chính Mộ Đức, một trong số những
sứ quân ấy, tất nhiên không qua khỏi thói thường. Ông đã sai thủ túc
Mạc Khải Kỳ đi khắp nước Nhật tìm tài năng lạ, nhất là thuộc giới võ
lâm giang hồ, lôi kéo về phe mình.
Nhận tiền của Liêu Chính Mộ Đức thật không ổn. Hắn không muốn chịu
ơn người mà hắn chưa biết rõ đức hạnh cùng chí hướng ra sao. Vả khi
nhận tiền rồi, tất bị ràng buộc, mà trong thâm tâm, Thạch Đạt Lang
chẳng muốn bất cứ sự ràng buộc nào, cho nên, tốt hơn hết, cứ coi số
tiền kia như không có. Bèn nhặt hết những đồng vàng vung vãi trên
bàn bỏ lại vào túi, rồi chìa bức tượng gỗ cho chủ quán:
- Đây, tượng đây ! Nếu được, ông quán cứ giữ thay cho tiền cơm.
Nhưng chủ quán khoát tay, lắc đầu:
- Không được !
- Sao, không ưng hả ? Tượng không đáng giá chăng ?
- Không phải vậy ! Khách quan không có tiền thì mới nhận. Khách quan
có tiền, phải trả tiền chứ !
Thấy chuyện lạ, những người ngồi bên bếp cũng dường như tỉnh hẳn
rượu, dời chỗ ngồi đến gần bàn Thạch Đạt Lang nhìn hau háu.
Nhận ra sự phi lý của mình, nhưng nghĩ cho cùng chẳng muốn giải
thích lôi thôi làm gì, Thạch Đạt Lang mở túi lấy một đồng vàng đưa
chủ quán.
- Nhiều quá ! Không có tiền thối.
- Không sao. Cứ giữ chỗ lẻ, ta không đòi lại đâu !
- Vậy ở lại chút nữa ăn thịt lợn rừng.
Nhưng Thạch Đạt Lang lắc đầu cảm ơn, đeo hành trang, cầm nón ra cửa.
Hắn hy vọng nêu không gặp chuyện gì trắc trở sẽ lên tới đỉnh đèo vào
đầu giờ mão.
Vùng này nổi tiếng nhiều giống hoa mua rừng rất đẹp, đủ màu sắc, nhỏ
bằng cái cúc cũng có và to bằng cái chén cũng có, mọc thành chùm đỏ
tươi, vàng óng, tím nhạt hay trắng muốt, mỗi thứ một vẻ không ai là
không thích. Rất tiếc, Thạch Đạt Lang lại qua đây vào ban đêm nên
chỉ trông thấy những lùm bụi đen ngòm, không thưởng thức được gì cả.
Khỏi quán chừng một dặm, bỗng thấy một bóng đen vội vã chạy theo rồi
có tiếng gọi giật:
- Khách quan ! Khách quan !
Thạch Đạt Lang dừng chân ngoái cổ lại. Bóng đen rảo bước đi tới:
- Khách quan quên cái này !
Nói đoạn lấy trong bọc ra một đồng tiền vàng đưa Thạch Đạt Lang.
- Đồng này lăn dưới gậm bàn, khách quan quên chưa nhặt.
Thì ra là một trong số ba người ngồi ở quán hồi nãy. Thạch Đạt Lang
cầm tiền, cảm ơn rồi tiếp tục cất bước. Không hiểu sao, hắn chẳng
thưởng cho người kia chút gì.
Đi được một lúc, người kia bắt chuyện:
- Khách quan cũng trong võ lâm hả ?
- Phải.
- Qúy danh tính là gì ?
- Tại hạ họ Thạch.
- Môn phái nào ?
- Không có môn phái.
Nghe những lời đáp nhát gừng như vậy, người khác tất chán nản bỏ đi,
nhưng gã này xem ra càng bám riết.
- Vậy đồng đạo rồi. Tiểu đệ cũng là kiếm sĩ, trước có đôi chút danh
vọng. Nhưng vì tình thế, bây giờ phải tạm lánh trong rừng.
- Thế à !
- Tiểu đệ săn thú, kiếm củi lấy tiền độ nhật, chờ gặp minh chủ. Thật
chẳng khác gì rồng nằm trong ao hẹp !
Thạch Đạt Lang mỉm cười:
- Tiếc quá nhỉ ! Thế bằng hữu đứng về phía Osaka hay Edo ?
- Chẳng về phía nào. Nhưng cần gì, phía nào cũng được, miễn có người
dùng.
Thạch Đạt Lang quay nhìn kẻ đồng hành, cố nhớ xem gã là ai trong ba
kẻ ngồi bên lò sưởi ở quán, nhưng trời tối quá trông không rõ.
Thạch Đạt Lang rảo bước nhanh hơn, cố ý bỏ rơi gã đồng hành. Chẳng
phải tay vừa, gã theo sát nút phía sau về bên trái, một hành động
chuẩn bị chiếm ưu thế khi sắp tấn công mà không một kiếm sĩ nào
không biết.
Nhưng Thạch Đạt Lang không tỏ vẻ bận tâm. Hắn thản nhiên bước những
bước dài và nhanh, đều đều trên đường núi dốc.
Gã kia lại tiếp:
- Từ đây đến Edo cũng còn xa. Qua đèo Hòa Đa lại phải trèo đèo Đại
Môn, cao và dốc lắm. Nếu không quen đường thì khá mệt.
- Bằng hữu thông thạo vùng này lắm nhỉ ?
- Đương nhiên. Tiểu đệ Ở vùng này đã mấy năm, chung với hai gã kia,
ngay sau ngọn đồi trước mặt. Ờ, mà tại sao huynh không đến nghỉ chân
ở nhà tiểu đệ ! Nhà đệ tuy nhỏ nhưng cũng đủ chỗ cho khách trú qua
đêm. Như thế chẳng tiện lắm ư ?
Một lần nữa, Thạch Đạt Lang lại liếc nhìn phía sau. Có một cái gì
khác thường khiến hắn nghi ngờ nhưng không nói. Bản tính ưa mạo hiểm
lại tò mò muốn biết gã kia định giở trò gì, hắn coi lời mời như một
sự thách đố. Bèn gật đầu nhận:
- Qúy xá có xa đây không ?
- Không xa mấy, qua con suối sau đồi này là tới.
- Thế hai ông bạn kia, họ đồng ý chăng ?
- À, hai thằng đó đêm nào chả say như chết ! Chắc bây giờ còn ngồi
uống rượu ở quán. Mọi lần đệ phải dìu về nhưng hôm nay thì mặc kệ.
Đi một quãng nữa, bỗng gã nói to như báo hiệu:
- Gần đến rồi ! Cẩn thận, ở đây có cái lạch !
- Phải qua lạch không ?
- Qua chứ ! Huynh trèo lên cây cầu này sang bên kia rồi cứ theo bờ
mà đi.
Đoạn lùi lại, nhường Thạch Đạt Lang lên trước. Cầu là một thân cây
nhỏ không tay vịn, bắc qua chỗ trũng, trông xuống dưới tối om om, lờ
mờ dòng nước chảy.
Thạch Đạt Lang mới bước được vài bước, thình lình gã đi sau chồm
ngay tới, nhấc đầu cầu lên hất hắn xuống rạch.
Đã đề phòng trước, Thạch Đạt Lang mượn đà cây gỗ bị nhấc lên, nhảy
ngay về phía hòn đá nhô ra cạnh bờ, nhẹ nhàng như én đậu.
- Này, rồi đời tên cường đạo !
Gió kiếm nghe “vù”. Một tiếng thét trong đêm khuya rồi âm thanh của
thân cây va vào đá trước khi rơi xuống nước vang theo dòng lạch sâu,
kéo dài tưởng như bất tận.
Vài con chim rừng xào xạc bay lên, cánh vỗ phành phạch.
Xác gã thảo khấu vô danh nằm co quắp trên bờ. Có lẽ gã đã tắt thở
ngay sau đó, không biết và không ngờ Thạch Đạt Lang rút kiếm ra
chiêu nhanh đến thế.
Khi đồi Hòa Đa trở lại yên tĩnh, trên cao, một ngôi sao lạc kéo vệt
sáng dài từ đông sang tây rồi tắt như một linh hồn vừa lìa cõi thế.
Thạch Đạt Lang đọc lời cầu nguyện ngắn, thu nhặt hành trang, vừa
định bước đi thì một tiếng nổ chát chúa vang động cả thung lũng. Ánh
lửa nhoáng lên từ phía bên kia bờ. Tiếp theo là một tiếng nổ nữa.
Thạch Đạt Lang nằm sấp, nghe rõ ràng tiếng đạn bay rít trong không
khí. Hắn chú mục nhìn sang bên kia. Giữa những lùm bụi và thân cây
rừng thưa thớt, lờ mờ hai bóng đen đang thận trọng bò tới.
o0o
|