1. XUẤT XỨ
Năm 1953 trên một nhật báo xuất
bản ở Hà-nội, có kể huyền thoại về vua thứ nh́ triều
Nguyễn Việt-Nam là Minh-Mệnh (1791-1840), một
đêm có thể giao hoan 6 lần. Sau 6 lần giao hoan với
6 bà phi tần đó, th́ 5 bà thụ thai sinh ra 5 người
con. Sỡ dĩ vua Minh-Mệnh đang là người bị bất lực,
phục hồi sức khỏe lạ lùng như vậy, v́ ngài được danh
y đương thời cắt cho một thang thuốc bổ.
Huyền thoại viết ra người đọc không nắm vững vấn đề,
tưởng rằng với một thang thuốc duy nhất, có thể tạo
cho con người một thần lực tuyệt vời đến độ đang là
người bất lực, mà một đêm có thể giao hoan 6 lần, sự
giao hoan đó không cần cố gắng miễn cưỡng,
hơn nữa dồi dào sinh lực, đến độ trong 6 cuộc giao
hoan, 5 cuộc kết quả thụ thai. Sau đó vua Minh Mệnh
trở thành ông vua rất mạnh về Sex, có 147 người con.
Sự thật như thế nào? Vấn đề là không có ǵ huyền bí
cả. Vua Minh-Mệnh bị chứng phong thấp (Tư-chứng)
đă trị khỏi, rồi được bổ dưỡng mà có sức lực như
trên. Các lương y đương thời (1953) sau khi
đọc bài báo trên, bèn mang huyền thoại trong y-sử
Việt-nam về y-sư Trần Ngạn-Xuân trị bệnh cho vua
Minh-Mệnh ra kể, nhưng không vị nào biết rơ thang
thuốc đó nội dung có những vị ǵ ? Bào chế ra sao ?
Thế rồi người ta căn cứ vào sự thực, vua Minh Mệnh
có 147 người con, mà
kết luận : Bài báo kia đúng chứ không sai
đâu.
Năm 1955, Thủ-tướng Ngô Đ́nh-Diệm đảo chính
Quốc-trưởng Bảo-Đại, một đơn vị quân đội tiến vào
hoàng cung cố đô Huế. Viên chỉ huy quân đội không
ngăn cấm được quân sĩ, nên nhiều bảo vật bị lấy cắp
đi mất, c̣n sách vở, tài liệu, th́ vất bừa băi.
Triều đ́nh có hai nơi tàng trữ thư tịch mật là :
Quốc-sử quán và Tôn-nhân phủ . Quốc-sử
quán là nơi chứa sách vở, tài liệu liên quan đến
việc triều chính, sử kư và địa dư học. Tôn-nhân phủ
là cơ quan tối cao của hoàng tộc, có trách nhiệm
kiểm soát nhà vua, có trách nhiệm đề cử những vị vua
kế vị. Tôn-nhân phủ chứa tất cả tài liệu tối cơ mật
của triều Nguyễn, mà chỉ người thân thích trọng yếu
hoàng gia được biết mà thôi. Trong những tài liệu cơ
mật của triều Nguyễn, có một số y-án do danh y triều
Nguyễn là Nguyễn Miên-Thanh (1830-1877) biên
chép. Nguyễn Miên-Thanh là con thứ 51 của vua
Minh-Mệnh, ông nổi tiếng là thần-y đương thời.
Nguyễn Miên-Thanh đă chép tất cả những bí ẩn về bệnh
lư của hoàng cung triều Nguyễn.
Từ cuộc binh biến đó sách vở hoàng cung bị lọt ra
ngoài, người ta mới được biết rơ về phương thuốc xưa
kia vua Minh-Mệnh uống, thang thuốc ấy không phải là
thần dược ǵ lạ lùng, mà đă có nguồn gốc rất sâu sa.
Nguyễn Miên-Thanh chép c̣n thiếu sót, so với sư phụ
ông là Trần Ngạn-Xuân đă chép.
Bẵng đi 13 năm sau, năm 1966, trên nhật báo Sống,
xuất bản tại Sài-g̣n, nhà văn Chu Tử (Chu
Văn-B́nh) trong mục Ao thả vịt có viết
giản lược rằng ông được một ẩn sỹ tặng cho thang
thuốc bổ thận của vua Minh-Mệnh xưa kia, tên là
Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử . Chu Tử c̣n giải
thích : Sau khi vua Minh-Mệnh xử dụng, một đêm nhà
vua có thể giao hợp 6 lần, trong 6 lần đó, sau sinh
ra 5 người con.
Xét thang thuốc mà nhà văn Chu Tử chép trên Sống th́
thiếu một vị và cách pha chế th́ cũng khác xa với cổ
nhân. Từ đó trong dân gian Việt-nam người ta cứ pha
chế uống bừa băi, cho rằng bổ thận tráng dương. Họ
không biết rơ tại sao lại có những vị thuốc ấy.
Những vị thuốc ấy tác dụng như thế nào ? Bản chất
thang thuốc từ đâu mà có, công dụng ra sao? Có người
uống vào thu được kết quả, có người uống vào chỉ
thấy ngon mà không có hiệu quả ǵ. Lại cũng có người
uống vào th́ tuyệt hẳn đường sinh dục, vài người lăn
đùng ra chết !
Năm 1978, các đồng nghiệp ARMA, IFA đă cùng chúng
tôi thử nghiệm lại rồi đem giảng dạy. Hiện nay trong
nước cũng như bên Hoa Kỳ, nhiều cơ sở thương mại căn
cứ vào tài liệu này pha chế ra bán, cũng có nơi lại
chế thành viên.
Vậy lai lịch thang thuốc đó như thế nào?
2. NGUỒN GỐC
Nguồn gốc thang thuốc có nhiều tên, những tên dùng
trong y-học gọi là Phục dương đại bổ tửu .
Thang thuốc có nguồn gốc từ thế kỷ thứ 12.
2.1. Thiền-sư Minh Không
Niên hiệu Hội-tường Đại-thánh thứ 6 (1115)
Thiền-sư Nguyễn Minh-Không (tức Lư Quốc-sư)
chữa chứng bất lực cho vua Lư Nhân-tông
(1066-1128) và Sùng Hiền hầu (sinh 1068),
v́ cả hai anh em các ngài đều bị chứng bất lực.
Nguồn gốc của chứng bất lực đó do vua cha là Lư
Thánh-tông (1023-1072) đă bị bất lực, được
ngài Minh-Không trị khỏi, nhưng đến đời các con là
vua Nhân-tông và Sùng-Hiền hầu v́ dâm đăng quá độ mà
bị bất lực nữa. Thiền sư Minh-Không chẩn mạch cho
hai ngài. Cả hai bị thận âm, thận dương đều hư,
nên ngâm rượu thang thuốc gồm 17 vị.
2.1.1. Lư triều đệ tam
hoàng đế thang
Thang thuốc này c̣n có tên là Lư triều đệ tam hoàng
đế thang. V́ vua Lư Thánh-tông là vị vua thứ ba của
triều Lư.
2.1.2. Thành phần
Thang thuốc này gồm có
- 6 vị đại bổ huyết.
Trong y học Á-châu bổ huyết tức là bổ âm. Bởi theo
học thuyết âm dương th́ huyết thuộc âm. Đó là các vị
:
Sa-sâm, Thục-địa, Bạch-thược, Đương-qui,
Câu-kỷ-tử và Đào-nhân.
– 6 vị bổ khí.
Bổ khí tức là bổ dương. Đó là các vị :
Nhân-sâm, Đại-táo, Cam-thảo, Đỗ-trọng,
Bạch-truật, Tục-đoạn.
– 2 vị làm cho hoạt huyết.
Tức làm cho huyết lưu thông tốt, là:
Xuyên-khung, Đại-hồi.
– 3 vị bổ tỳ.
Theo y-học Á-châu, muốn bổ dương th́ phải bổ tỳ. Bởi
tỳ là gốc của hậu-thiên-khí, bổ tỳ để cho ăn uống
ngon miệng, tiêu hóa tốt. Đó là :
Trần-b́, Nhục-quế, Phục-linh.
– 1 vị đại bổ nguyên dương (thận dương).
Làm cho sinh tinh tủy cực kỳ mănh liệt là:
Lộc-nhung.
Cộng chung là 18 vị. Hai anh em vua Lư đều khỏi
chứng bất lực, nhưng nhà vua th́ không thể có con
trai, c̣n Sùng-hiền hầu th́ có con.
Phương thuốc này, được lưu truyền dưới các tên sau :
– Minh-Không bổ dương thang,
– Nhân-tông phục dương đại bổ thang,
– Lư triều đệ tam (hoặc tứ) hoàng đế thang.
Hồi đó vua Nhân-tông cũng như Sùng-hiền hầu đều được
phục hồi sinh lư. Cả hai đều có nhiều con. Nhưng vua
Nhân-tông chỉ sinh công chúa, mà không sinh hoàng
tử. Sùng-hiền hầu th́ có cả thế tử lẫn quận chúa.
Vua uống tới 25 thang. Sùng-hiền hầu uống 15 thang.
Dưới đây là phân lượng dùng cho vua Nhân-tông và
Sùng-hiền hầu. Phân lượng thứ nhất là của vua
Nhân-tông, phân lượng thứ nh́ là của Sùng-hiền hầu.
1. |
Sa-sâm |
1 tiền |
1 tiền |
2. |
Thục-địa |
2 tiền |
1,5 tiền |
3. |
Bạch-thược |
2 tiền |
1,5 tiền |
4. |
Đương-qui |
3 tiền |
3 tiền |
5. |
Cam kỷ-tử |
3 tiền |
2 tiền |
6. |
Đào-nhân |
3 tiền |
1 tiền |
7. |
Nhân-sâm |
1,5 tiền |
1 tiền |
8. |
Đại-táo |
1,5 tiền |
2 tiền |
9. |
Cam-thảo |
1 tiền |
1 tiền |
10. |
Đỗ-trọng |
2 tiền |
2 tiền |
11. |
Bạch-truật |
2 tiền |
2 tiền |
12. |
Tục-đoạn |
2 tiền |
2 tiền |
13. |
Xuyên khung |
2 tiền |
2,5 tiền |
14. |
Đại-hồi |
1 tiền |
1 tiền |
15. |
Trần-b́ |
1,5 tiền |
2 tiền |
16. |
Nhục-quế |
2 tiền |
1,5 tiền |
17. |
Phục-linh |
2 tiền |
3 tiền |
18. |
Lộc-nhung |
2 tiền |
2 tiền |
Thang thuốc này tùy theo từng bộ
phận trong người mạnh hay yếu, tùy theo biến chứng,
tùy theo thời khí của bệnh nhân mà cho vị nào nhiều
hay ít, được lưu truyền xử dụng trong suốt triều nhà
Lư, sang đầu triều Trần. Các y gia sau Lư Quốc-sư có
sửa đổi đôi chút, nhưng căn bản vẫn nguyên vẹn. Kết
quả tốt. Nhưng phải chẩn đoán cho đúng là Thận
dương và âm đều hư th́ mới dùng được. Nếu
thận-âm hư mà dùng th́ nguy hiểm, nhất là những
người bị chứng âm-hư sinh nội nhiệt như : Tai kêu,
áp-huyết cao (HTA), v.v... mà dùng th́ tai vạ không
nhỏ.
Thang thuốc trên chỉ dùng trong trường hợp thận
dương hư hoặc Thận âm, thận dương đều hư
mà thôi.
2.1.3. Cách pha chế
Thông thường th́ ngâm rượu làm hai nước. Nước
thứ nh́ giảm hiệu năng 2 phần. Vậy những vị khá giả
hoặc sống ở Mỹ-Úc, thuốc rẻ th́ chỉ nên ngâm một
nước thôi.
a. Nước thứ nhất
– Khi cắt th́ yêu cầu dược pḥng gói thành 2 gói.
Một gói lớn gồm 16 vị, một gói gồm 2 vị Nhân-sâm,
Lộc-nhung.
– Dùng 200 đến 300 g đường phèn, bỏ vào 2 lít nước
đun sôi, chờ đường tan th́ để nguội.
– Nghiền 16 vị gói lớn dập dạp, lớn khoảng hạt ngô.
Rồi bỏ vào nước đường.
– Ngâm khoảng 3 đến 4 giờ.
– Đổ 2 lít rượu nếp trắng trên 40 độ (Rượu đế, rượu
đậu nành, rượu chuối đều được). Nếu không có th́
dùng Thiệu-hưng tửu, Mai-quế lộ.
– Để vào chỗ ấm áp, khô ráo. Tuyệt đối không được
chôn dưới đất, hoặc cất vào nơi lạnh, ẩm ướt.
– Mỗi ngày đảo
một lần.
– Sau 20 ngày th́ gạn nước cốt ra. Nếu khá giả th́
đổ bă đi. Bằng tiếc th́ ngâm nước thứ nh́.
– Bỏ nước cốt vào b́nh khác, bấy giờ mới ngâm nước
cốt với Lộc-nhung, Nhân-sâm.
– Sau khi ngâm 7 ngày th́ bắt đầu uống.
b. Nước thứ nh́.
– Dùng 100 g đường phèn vào 1 lít nước đun sôi.
– Để nguội, rồi đổ bă vào ngâm. Sau 7 ngày th́ đổ
vào 1 lít rượu ngâm tiếp trong 20 ngày. Sau đó vớt
bă vứt đi.
– Nước này lại ngâm với Lộc-nhung, Nhân-sâm.
2.1.4. Hiệu năng
Bổ thận dương,
Sinh tinh, ích tủy.
2.1.5. Chủ trị
a. Dùng bồi bổ sức khỏe,
Những người không bệnh, t́nh trạng âm dương thăng
bằng, dùng phương thuốc này vô hại. Hơn nữa làm tăng
tiến sức khỏe, giữ được tuổi xuân (của cả quư ông,
quí bà).
Đừng ngại ngùng, khi dùng thuốc này thấy:
– Người nóng lên, tim đập mau, (trong lúc say).
– Ăn ngon.
– Tinh thần minh mẫn,
– Làm việc bằng trí óc hiệu quả tăng.
– Cường độ sex tăng.
Ghi chú dành cho các vị bác sĩ
:
Những người âm dương thăng bằng khi thử nghiệm máu,
tất cả đều b́nh thường. Sau khi uống liền 3 thang
th́ thấy :
– Hồng cầu tăng.
– Bạch cầu giảm.
– T3-TSH đều tăng.
– Glycémie tăng.
– Cholestérol b́nh thường.
– Triglycéride b́nh thường.
Tuy tăng, giảm nhưng vẫn ở trong t́nh trạng giới
hạn.
b. Chủ trị, (Chỉ định)
Thận dương hư hoặc dương hư theo y học cổ
truyền.
– Sắc mặt trắng bệch,
– Sợ lạnh, chân tay lạnh (Huyết áp thấp, nhiệt độ
trong người thấp,
tim đập chậm),
– Tinh thần mề mệt,
– Lưng đau, gối mỏi,
– Bất lực : Dương vật không cử, hoặc cử mà không
kiên.
– Nữ th́ bào cung lạnh, không thụ thai.
– Chất lưỡi lợt, rêu lưỡi trắng.
– Mạch trầm-tế vô lực.
Theo y học Á-châu, công năng của thận như sau:
Tàng tinh, chủ cốt, sinh tủy, thông năo.
Khi thận dương hư sẽ sinh ra:
– Nam bất lực sinh lư. Nữ lănh cảm.
– Bần tinh (Oligospermies), tinh nhược
(Asthénospermies) hoặc cả hai
(Oligo-Asthénospermies).
– Xương cốt suy nhược: Người lớn mệt mỏi, trẻ con
chậm lớn, xương kêu lọc cọc, đi đứng khó khăn, tuổi
già lưng c̣ng.
– Răng là xương, v́ vậy răng yếu, không bóng.
– Óc không được bồi dưỡng, kém linh hoạt, tinh thần
thất thường.
Thận khai cùng ở nhị âm, quan của thận là tai,
Khi thận dương hư suy sinh ra:
– Tiện bí.
– Tiểu tiện bất lợi (Tiểu đêm, tiểu vặt, văi đái,
trẻ con đái dầm).
– Văi đái (Incontinence),
– Tiền liệt tuyến suy nhược (Prostatite).
– Tai điếc.
Hoa của thận là tóc.
Khi thận dương hư suy sẽ sinh ra chứng rụng tóc (C̣n
chứng tóc bạc sớm là do thận âm hư).
c. Phần dành cho các vị bác sĩ
Chúng tôi dùng rượu này trị bệnh phụ nữ, rất hữu
hiệu trong trường hợp sau:
– Xáo trộn hormone, v́ thần kinh, v́ suy nhược.
– Phụ nữ không thụ thai, do cơ thể suy nhược
(Infertilité).
– Phụ nữ trong thời kỳ mới thụ thai bị nôn mửa, suy
nhược.
– Tử cung co giật khi mang thai ( Contractions
ultérines).
– Tử cung bị sa (Prolapsus génital.)
– Kinh nguyệt không đều.
– Thời kỳ chuẩn măn kinh (Pré-ménopauses.) Tuy nhiên
phải cẩn thận, đă có nhiều tai nạn: Khi phụ nữ sắp
đến thời kỳ măn kinh, không ngừa thai, uống rượu này
sẽ thụ thai.
– Sản phụ thiếu sữa.
2.1.6. Dụng pháp, dụng
lượng
– Ngày uống hai lần làm rượu khai vị.
– Mỗi lần uống từ 10 tới 20 cl. Không nên uống quá
40cl một ngày.
– Uống nguyên chất. Tuyệt đối không nên uống với
nước đá.
– Khi uống, tuyệt đối trong ngày không uống bất cứ
loại rượu nào khác, kể cả bia. Nước ngọt th́ được.
– Đàn ông, đàn bà; già, trẻ đều uống được. Phụ nữ
mang thai, trong thời gian hành kinh cũng uống được.
2.1.7. Cấm kỵ
Các trường hợp sau đây không nên uống rượu này:
– Thận âm hư, âm hư nội nhiệt.
– Nhiệt chứng (tim đập nhanh trên 90 lần một phút).
– Huyết áp cao.
– Khi bị nhiễm trùng tạm ngừng. Sau khi trị nhiễm
trùng khỏi th́ uống trở lại được. (Cảm mạo, nhiễm
trùng đường hô hấp, tiểu tiện, siêu vi gan,
AIDS-SIDA) v.v.)
– Trong thời gian xử dụng rượu không nên ăn, uống
thức mát (Rau má, đậu xanh, giá sống, khổ qua, hoa
cúc v.v.)
– Ung thư phổi, gan.
– Tai biến mạch máu năo (AVC).
– Đây là loại rượu làm tăng khả năng Sex, v́ vậy các
nhà tu nên tránh, để giữ thanh quy, ngũ giới. Tuy
nhiên các vị tu sĩ của Hồi-giáo, của Tin-lành th́...
tha hồ!
2.2.
Công chúa Thủy-Tiên
Năm 1294 Thuỷ-Tiên Công-chúa (1254-1359),
dưỡng nữ của Hưng-Đạo vương, phu nhân của danh tướng
Phạm Ngũ-Lăo (Sự thực tước phong của Ngài là
Thạc-ḥa Đoan-duệ, hiếu khang công chúa) trị
bệnh cho vua Trần Anh-tông (1267-1320) đă xử dụng
lại. Vua Anh-tông nhà Trần nhân v́ bị huyết-hư,
tỳ-dương, thận dương hư nên bị chứng phong-thấp.
Công-chúa dùng châm cứu để khu phong, tán-hàn và
trục-thấp.
Nguyên tắc trị phong-thấp bằng dược Á-châu hay
châm-cứu học, th́ chỉ trị cho khỏi đau, nếu khéo giữ
ǵn, th́ bệnh khó tái phát. C̣n không th́ bệnh tái
phát rất dễ dàng. Trị bệnh th́ chỉ có khu phong,
tán-hàn là dễ, c̣n thấp th́ không bao giờ trục tuyệt
cả. Loại tà này vẫn c̣n ở dưới một mức độ nào đó,
nên khi ra ngoài, gặp hàn, gặp phong, là bị tái phát
ngay. Bởi vậy sau khi Thủy-Tiên Công-chúa dùng châm
cứu trị cho nhà vua, th́ lại dùng thang thuốc của
Minh-Không thiền-sư để bổ dưỡng Thận-dương, bổ-huyết
và bổ-khí để bệnh không tái phát. Tuy nhiên trong
người nhà vua vẫn c̣n bị ngoại tà phong, hàn, thấp
cho nên bà đă dùng 5 vị để trị phong-thấp đó là :
Thương-thuật, Khương-hoạt,
Tần-gia, Hổ-cốt, Mộc-qua.
V́ vậy thang thuốc đang từ 18 vị tăng thành 23 vị.
Hiệu năng cũ là bổ thận-dương hoặc cả thận dương
và thận âm nay trở thành thang thuốc : Bổ
dưỡng thận dương, thận âm, bổ khí, bổ huyết và trừ
Phong-thấp ở mức độ thấp. Chủ trị bây giờ thành
:
– Trị chứng bất lực do di chứng của phong-thấp.
– Hoặc trị chứng bất lực cho những người ở vùng
hàn-đới.
Bởi người ở vùng hàn-đới th́ không thể nào không mắc
phải chứng phong-thấp, nhưng bệnh ở mức độ thấp nên
không phát tác đau ốm. Tóm lại, thang thuốc trị
chứng bất lực có 8 phần, th́ trị phong thấp 2 phần.
Những người bị chứng âm hư nội nhiệt như đă nói
trên, hoặc huyết áp cao, đang thời gian nhiễm trùng,
cảm cúm th́ không nên dùng.
2.3. Các y gia đời Lê
Năm 1433, con trưởng của vua Lê Thái-tổ là quận
vương Lê Tư-Tề (1408-1438) nhân v́ trọn đời
niên thiếu theo vua cha chinh chiến, nên bị chứng
bất lực như vua Trần Anh-tông xưa kia. Thiền sư Trần
Quang-Từ (1384-1462) lại dùng thang thuốc
trên chữa cũng khỏi. Thang thuốc được dùng nhiều
trong suốt thời nhà Lê gần 400 năm.
3. PHỤC DƯƠNG ĐẠI BỔ
TỬU
Năm 1824, vua Minh-Mệnh bị chứng phong
thấp. Nguồn gốc do ngài cư ngụ ở vùng nhiệt đới
(Gia-định) suốt thời thơ ấu, lại bôn ba vất vả v́ theo
phụ hoàng là vua Gia-Long chinh chiến nhiều. Y-sư Trần
Ngạn-Xuân dùng thang thuốc Phong thấp tửu (xem phần thứ
3, chương thứ 5) trị phong thấp cho nhà vua. Trong thang
thuốc này cũng có những vị trị phong thấp và một số ít vị bổ
dưỡng. Khi nhà vua gần khỏi chứng phong thấp th́ chứng bất
lực cũng khỏi, nhà vua vẫn uống thuốc, nhưng đêm đêm vui
chơi với cung nga. Y-sư Trần Ngạn-Xuân phải dọa nhà vua rằng
: Thang thuốc mà nhà vua dùng uống chỉ để trị phong thấp mà
thôi. Nhà vua cần uống hết hai thang trị chứng phong thấp.
Khi chứng này gần tuyệt, bấy giờ y-sư mới thực sự trị chứng
bất lực cho nhà vua. Nhà vua hỏi tại sao chỉ mới uống phong
thấp mà ngài đă thèm pḥng sự ? Y-sư trả lời rằng : Chứng
phong thấp của nhà vua, một là do thuở thiếu thời Nguyên khí
suy, lao khổ, ở trong vùng nóng, rồi lớn lên ở vùng lạnh
(Huế), bởi vậy bệnh càng nặng. Chính phong, hàn, thấp làm
cho cơ thể tổn hại thêm, thành ra bất lực. Trong thang thuốc
trị phong thấp th́ có đến 8 phần trị bệnh và có 2 phần trị
bất lực tức bổ dương. Khi trị phong thấp th́ cơ thể không bị
tà khí làm ngăn trở, nên t́nh dục trở lại, được thêm 2 phần
bổ thận dương nữa, nên nhà vua cảm thấy người khỏe mạnh. Sự
thực sự khỏe mạnh đó chưa phục hồi. Đợi sau khi nhà vua uống
hết hai thang thuốc trị phong thấp, rồi lại được uống hai
thang thuốc bồi bổ cơ thể nữa th́ mới thực sự khỏe mạnh.
Bị dọa, nhà vua không c̣n dám pḥng sự nữa, cứ kiên tâm uống
thuốc, nhưng thực sự ngài rất thèm pḥng sự, mà không dám,
sợ bị bất lực vĩnh viễn như y-sư dọa. Sau khi uống hết thang
thuốc trị phong thấp thứ nh́, y-sư cho nhà vua uống thang
thuốc mà thành phần như sau :
Lấy thang thuốc của Thủy-Tiên Công-chúa, mà thêm vào một số
vị.
3.1. Thành phần
Những vị thêm vào là:
– 3 vị trị phong thấp: Pḥng-phong, Độc-hoạt,
Hồng-cúc.
– 1 vị đại bổ can, thận : Hà-thủ-ô.
Như vậy thành phần cuối cùng của thang thuốc mà vua
Minh-Mệnh được uống là :
Phục dương đại bổ tửu
– 8 vị bổ thận-âm, bổ huyết và tinh khí :
Sa-sâm 5 tiền, Thục-địa 5 tiền, Đương-quy 5 tiền, Kỷ-tử 1
tiền, Đào nhân 5 tiền, Xuyên khung 3 tiền, Bạch thược 5
tiền, Hà-thủ-ô 5 tiền.
– 10 vị đại bổ nguyên dương (Thận dương),
Đại táo 5 tiền, Cam thảo 2 tiền, Đỗ trọng 3 tiền, Tục
đoạn 2 tiền, Bạch truật, 3 tiền Trần b́ 3 tiền, Nhục quế 3
tiền, Đại hồi 2 tiền, Nhân sâm 4 tiền.Lộc nhung 5 tiền.
– 9 vị trị Phong thấp:
Thương thuật 2 tiền, Hồng cúc 2 tiền, Khương hoạt 2 tiền,
Tần gia 2 tiền. Hổ cốt 2 tiền, Phục linh 3 tiền, Pḥng phong
3 tiền, Độc hoạt 2 tiền, Mộc qua 2 tiền.
Cộng chung 27 vị nặng 8 lượng 6 tiền (268,75 g)
Tóm lại diễn tiến của thang thuốc từ khởi thủy là Minh-Không
thiền sư cho đến y-sư Trần Ngạn-Xuân như sau :
Minh-Không . Xử dụng 18 vị để trị chứng bất lực,
không con cho 2 vị đời Lư vào năm 1115. Thuốc chỉ trị chứng
bất lực nguồn gốc do di truyền. Đời cha đă bất lực, đời con
pḥng sự quá độ bị bất lực và không con. Thang thuốc bổ cả
thận âm, lẫn thận dương. Kết quả hai bệnh nhân khỏi bất lực,
nhưng chỉ 1 người có con.
Thủy-Tiên Công chúa . Xử dụng thang thuốc của Minh
Không, để trị chứng bất lực do di chứng của phong thấp. Bởi
bệnh nhân là vua Trần Anh-tông bị bất lực, mới sinh
phong-thấp nay dùng châm cứu trị phong-thấp, rồi thêm 5 vị
trị phong-thấp vào thang thuốc bổ thận của Minh-Không để trị
chứng bất lực và một phần phong-thấp c̣n lại trong cơ thể.
Nhà vua khỏi bệnh có nhiều con.
Trần Quang-Từ . Dùng lại thang thuốc của Thủy-Tiên
Công-chúa trị chứng bất lực cho quận vương Lê Tư-Tề. Nguyên
do chứng bất lực là bị phong-thấp đưa đến như vua Trần
Anh-tông. Kết quả : Bệnh nhân khỏi hẳn.
Trần Ngạn-Xuân . Xử dụng thang thuốc của Thủy-Tiên
công-chúa trị chứng bất lực cho vua Minh-Mệnh (1824), nhân
nhà vua bị phong-thấp sinh bất lực. Y-sư thêm vào ba vị nữa
đó là Pḥng-phong, Hồng-cúc, Độc-hoạt để trị
phong-thấp và một vị đại bổ thận-can nữa là Hà-thủ-ô.Vua
Minh-Mệnh khỏi bệnh có 147 con.
Tương truyền sau khi uống hết thang thuốc bổ, khi y-sư Trần
Ngạn-Xuân thấy nhà vua có thể pḥng sự được, đồng ư cho nhà
vua nhập hậu cung.Vua Minh-Mệnh trong một đêm đă pḥng sự
với sáu người cung nga. Sau đó 6 người cung nga đă thụ thai
và sinh ra 7 người con, bởi có một người sinh đôi... Huyền
thoại đó truyền ra ngoài, dân chúng gọi thang thuốc đó là
Nhất dạ lục giao sinh thất tử , nghĩa là một đêm giao
hợp 6 lần sinh 7 người con. Nhưng chính ra thang thuốc có
tên là Phục dương đại bổ tửu .Trong bẩy người con đó
có 5 hoàng tử, 2 công chúa. V́ đương thời trọng nam, khinh
nữ, nên người ta c̣n gọi là Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử
.
3.2. Cách pha chế
3.2.1. Nguyên tắc tổng quát
Khi cắt thuốc, yêu cầu gói làm bốn gói.
– Các vị Hà-thủ-ô, Nhân-sâm, Lộc-nhung gói làm ba gói
khác nhau . Đây là phần ngâm sau.
– Gói thứ tư, gồm tất cả các vị c̣n lại tất cả gói chung một
gói. Đây là phần ngâm trước.
3.2.2. Cách ngâm rượu
a. Các vị ngâm trước mang nghiền dập dập ra, lớn bằng hạt
bắp là được không cần thiết nghiền nhỏ thành bột. Thục địa
không nghiền được th́ thái nhỏ ra.
b. Lấy 2 lít nước đun sôi với 200-300 g đường phèn. Nếu
không có đường phèn, th́ thay bằng đường thẻ cũng được. Tất
cả các loại đường khác đều không dùng được.
c. Sau khi đun sôi để nguội.
d. Đổ tất cả số thuốc ngâm trước vào nước đường. Nhớ để
nguội mới ngâm, ngâm khi nước c̣n nóng th́ hỏng. Ngâm khỏang
6-12 giờ th́ đổ vào 2 lít rượu thật ngon (45 độ trở lại).
Nếu không có rượu trắng (Nếp) th́ ngâm với Mai-quế-lộ,
Thiệu-hưng tửu càng tốt. Tất cả các loại rượu khác đều không
dùng được. Người Pháp có loại rượu trắng là Eau de vie
dùng để ngâm các loại hoa quả, tuyệt đối không nên dùng thứ
này, không ích lợi, mà c̣n có kết quả ngược lại nữa.
e. Sau 7 ngày th́ chắt lấy nước cốt, bỏ bă ra.
– Nước cốt lại ngâm với những vị ngâm sau là
Hà-thủ-ô, Nhân-sâm, Lộc-nhung.
Không nên ngâm nước cốt với cả ba loại ngâm sau, mà phải căn
cứ vào bệnh lư.
Muốn biết ḿnh nên dùng vị nào trong ba vị Hà-thủ-ô, Lộc
nhung, Nhân-sâm th́ xem phần Phân tích dược lư.
f. Sau khi gạn nước cốt, th́ bă c̣n lại cũng dùng được. Đun
sôi 100 g đường phèn, để nguội, đổ vào với bă, đổ thêm vào 1
lít rượu loại như trên. Cứ ngâm như vậy càng lâu, càng tốt.
Đợi sau khi uống hết nước cốt thứ nhất th́ lại vớt bă ra lấy
nước cốt thứ nh́, ngâm với loại ngâm sau (Hà-thủ-ô,
Lộc-nhung, Nhân-sâm) nói ở trên. Nước thứ nh́ không tốt bằng
nước thứ nhất.
Nếu có phương tiện (nhiều tiền) th́ không cần phân làm hai
nước. Ngay khi ngâm nước thứ nhất để trong ṿng một tháng
mới vớt ra, ngâm với các vị ngâm sau, bă th́ bỏ đi.
4. CÁCH TÀNG TRỮ
– Ngâm trong một b́nh thật kín, nút kín, nếu để bay hơi,
thuốc mất một phần công hiệu.
– Nên cất vào những chỗ ấm áp,
– Tuyệt đối không được cất vào những chỗ ẩm ướt, lạnh lẽo.
– Khi uống cũng tuyệt đối cấm uống với nước đá. Bởi bản
thân tên là Phục dương đại bổ tửu chuyên về bổ dương,
mà để vào chỗ ẩm ướt, lạnh lẽo hoặc uống với nước đá là loại
âm hàn làm mất công hiệu của thuốc. Trước đây có một vị
lương-y không rơ nguyên lư dược tính, mang thuốc đi chôn
dưới đất, bởi vậy khi dùng, mất gần hết công hiệu.
5. HIỆU NĂNG
Đại bổ khí huyết, đại bổ thận.
Trừ di chứng phong-thấp.
6. CHỦ TRỊ
6.1. Chủ trị tổng quát
– Các chứng Phong-thấp nhẹ, thỉnh thoảng mới phát.
– Sau khi trị phong-thấp bằng các phương pháp khác, uống bản
tửu th́ bệnh sẽ không tái phát. Những độc khí của phong-thấp
trong người sẽ được trục ra ngoài hết. Hoặc dùng bản tửu trị
chứng phong-thấp cùng một lúc với những phương pháp khác
(Tây dược, các loại thuốc Bắc, Nam, châm cứu, giác hơi, tẩm
quất.)
– Những người sợ lạnh, cư trú ở vùng nhiệt đới, mới đến vùng
hàn đới, cần uống để bảo vệ sức khỏe, giữ được độ ấm trong
người, chống trả với khí hậu lạnh.
– Những người cần làm việc dưới nhiệt độ lạnh : Như nông
dân, trong pḥng lạnh, làm việc ngoài trời lạnh, cần uống
chống lạnh.
– Các chứng đại tiện lỏng kinh niên, sôi bụng kinh niên, ăn
uống đầy ứ khó tiêu, bao tử lạnh. Hoặc tỳ không chịu làm
việc sinh ra đại tiện chảy. Tóm lại tất cả các bệnh sinh ra
ăn khó tiêu, bao tử, ruột lạnh sinh ra đại tiện lỏng, phân
màu bạc, v.v.
– Phụ nữ bị huyết trắng sinh ra đau bụng kinh, không thụ
thai, kinh nguyệt tới trễ.
– Các chứng lănh cảm của phụ nữ.
– Các chứng sinh ra gầu nhiều, tóc rụng v́ ở vùng khí hậu
lạnh.
– Các chứng sinh ra bàn chân, bàn tay lạnh người lạnh, sợ
lạnh.
6.2. Chủ trị các của đàn ông, bất
lực dưới các h́nh thức sau :
– Khi pḥng sự, lúc đă chuẩn bị, th́ dương vật lại bị uỷ
thoái (Cbk tức cử bất kiên).
– Tinh xuất quá sớm (Bệnh gà).
– C̣n trẻ (dưới 30 tuổi) mà nhịp độ giao hoan thưa (1 tuần
trở đi mới giao hoan được 1 lần).
– Bất lực do hàn lănh, do bao tử, ruột lạnh.
– Bất lực do di chứng hay do chứng phong-thấp.
– Bất lực do làm việc dưới khí hậu lạnh lẽo.
– Bất lực do di chứng bệnh tật như những người ở tù ra, bị
đánh đập...
– Bất lực do tâm lư :chán nản không muốn giao hợp (Dcl
tức dương cử lăn).
– Bất lực do tuổi già hoặc thời niên thiếu trác táng
(rượu, gái) quá độ. Thông thường những người từ 30 tuổi trở
đi, th́ thận-khí bắt đầu suy, kể cả nam lẫn nữ. Cần uống để
phục hồi tuổi xuân : Yêu đời, và tái pḥng sự được. Bởi vậy
bản dược thường tự coi là thuốc hồi xuân, trường sinh bất
lăo.
– Các chứng phù thủng, người đầy nước. Những người mập nước,
uống vào nước sẽ bị tống ra ngoài.
6.3. Bổ dưỡng
Dùng cho người đau mới khỏi, sản phụ mới sinh. Kiệt sức.
7. DỤNG PHÁP, DỤNG LƯỢNG
Mỗi ngày uống khoảng 10 cl đến 20 cl. Không nên uống quá 40
cl mỗi ngày. Muốn uống thêm, nên hỏi thầy thuốc gia đ́nh.
Uống làm rượu khai vị, trước bữa ăn.
Uống vào buổi sáng trước khi đi làm việc ở nơi lạnh lẽo.
8. CẤM KỴ
Bởi là một loại thuốc đại bổ dương, nên các trường hợp sau
đây cấm uống :
– Các bệnh nhiễm trùng. Đợi sau khi hết bệnh hăy uống.
– Các chứng cảm mạo.
– Các chứng táo bón (Đi cầu phân cứng).
– Các chứng huyết áp cao (HTA).
– Nhiệt chứng (Mạch nhảy trên 90 lần một phút).
– Các chứng đái đường loại nặng.
– Trong khi dùng thuốc trụ sinh, (Antibiotiques) hay
Cortisone ngừng uống bản tửu.
– Âm hư, dương thăng. (Xem biểu h́nh cấm kỵ ở phần trên nói
về Lư triều đệ tứ hoàng đế thang).
9. PHÂN TÍCH DƯỢC LƯ
Bản dược thuộc loại đại bổ toàn cơ thể.
9.1. Gồm 8 vị đại bổ thận âm, bổ
huyết, bổ tinh khí
Những vị này bổ huyết trong trường hợp huyết hư như thiếu
máu, thiếu hồng huyết cầu, hoặc trong máu có những bất
thường. Bổ thận âm, bởi thận âm chỉ sinh ra xương, tủy, năo,
nên bổ thận âm sẽ làm cho xương, tủy được bổ sung, dùng cho
người già yếu xương cốt yếu, người làm việc sức lực nhiều
xương cốt mỏi. Hoặc bệnh phong thấp làm cho xương cốt tổn
hại. Bổ thận âm tức bổ năo, trị chứng già hay quên, hoặc v́
bất cứ lư do ǵ trí nhớ giảm thiểu, làm việc trí năo, đầu óc
mệt mỏi.
V́ đại bổ thận âm, nên những người thiếu tinh khí, nhất là
phụ nữ âm hộ bị khô do lớn tuổi, sẽ được bổ dưỡng, nam th́
bần tinh ( Asthénospermies, Oligo-spermies), lâu ngày mới
pḥng sự được
một lần. Những người bị bệnh mụn, nhọt do huyết
hư. Phụ nữ kinh nguyệt ít đưa đến không con, hoặc mất kinh
quá sớm, hoặc kinh kỳ tới trễ.
9.2. Gồm 10 vị đại bổ thận dương
tức bổ dương, bổ khí
Những vị này làm cho phụ nữ hết lănh cảm, tử cung nóng lên,
trị được huyết trắng và đau bụng kinh. Nam th́ dương vật khó
cử, hoặc cử mà không kiên, được bổ dương khí giúp dương vật
cử dễ dàng, cử cứng, chắc. Bổ dương tức làm nóng cơ thể lên,
người cảm thấy khỏe mạnh, làm nóng bao tử, ruột, chống được
các chứng tiêu chảy, phù thủng. Dương khí làm con người
chống được lạnh, người linh mẫn, hoạt động làm việc được
nhiều.
9.3. Dùng để trừ tà khí
Nếu bản dược chỉ có các vị bổ âm, bổ dương không, th́ là một
thứ bổ âm, dương, nhưng thêm vào 9 vị trừ phong thấp, mà vị
trừ Phong thấp nào cũng có tính chất làm nóng cơ thể, cho
nên bản dược thiên về bổ dương cực mạnh, mới gọi là Phục
dương đại bổ tửu. Trong 9 vị, có vị để khu phong, có vị
để trừ thấp, nhưng vị nào cũng làm nóng cơ thể tức tán hàn.
Phong thấp do phong, hàn, thấp nhập vào cơ thể mà thành. Như
vậy trong 9 vị đều làm nóng cơ thể cả, mà c̣n giải phong, và
nhất là trừ thấp. Trừ thấp làm nóng cơ thể, th́ nước trong
người sẽ được tống ra ngoài, bởi vậy người bị phù thủng trị
cũng được. Hàn và thấp thường làm cho bao tử lạnh, ruột lạnh
sinh ra đại tiện chảy, phụ nữ bị huyết trắng, bởi vậy 9 vị
này hợp với các vị bổ dương trên, thành một thứ trị hàn
thấp, phong thấp sinh ra đau nhức, huyết trắng và phù thủng,
đại tiện rất tốt.
Riêng ba vị thuốc gói riêng để ngâm sau th́ tác dụng
khác nhau rất nhiều. Tùy theo t́nh trạng bệnh nhân mà dùng,
chứ không nên tham lam dùng cả một lượt.
Nhân-sâm.
Tính vị: Cam (ngọt), vi khổ (hơi đắng), vi ôn (hơi
ấm).
Qui kinh: nhập tỳ, phế kinh.
Công hiệu : Đại bổ nguyên khí, bổ tỳ ích khí, định thần
ích khí, sinh tân (Nước nhờn trong người).
Lộc-nhung.
Tính vị : Cam (ngọt), hàm (mặn), ôn (hơi ấm).
Quy kinh : Nhập can, thận kinh.
Công hiệu : Bổ can, thận ; ích tinh huyết.
Hà thủ ô.
Tính vị: Khổ (đắng), vi ôn.
Quy kinh : Nhập can, thận kinh.
Công hiệu: Bổ can, ích huyết .
– Cả ba vị đều có tính chất vi ôn ( hơi ấm), tức là làm nóng
thiên về bổ dương cả. Nhưng nhân-sâm th́ nhập tỳ-kinh,
phế-kinh. C̣n 2 vị kia th́ nhập can, thận-kinh.
Vậy :
– Bệnh nhân ăn ít, hô hấp khó khăn, bị bệnh phổi, mũi, th́
cho dùng Nhân-sâm. Ngâm thêm với Nhân-sâm th́ phế, tỳ sẽ
mạnh hơn lên, hơi thở dễ dàng, ăn uống ngon miệng. Khi tỳ,
phế mạnh th́ hậu thiên khí (Gồm khí trời và thực vật ăn uống
mà thành) mạnh lên do vậy trí nhớ tăng.
– Lộc-nhung dùng trong trường hợp thận yếu, can yếu đưa đến
mắt nh́n vật không rơ, làm cho mạnh thận dương, sinh ra
nhiều tinh khí, gân cốt mạnh. Bởi vậy bệnh nhân thiên về bất
lực, ít tinh, gân cốt yếu th́ dùng.
– Hà-thủ-ô thiên về bổ huyết nhiều hơn. Vậy bệnh phụ nữ kinh
nguyệt ít, đàn ông gầy g̣, hoặc sau khi bị bệnh lâu ngày th́
dùng đến.
Những người bị bao tử lạnh, đau bụng tiêu chảy th́ không nên
dùng Hà-thủ-ô. Nhất là những người bị bệnh phổi, bị bệnh có
đàm, bị nhức trong người nhiều tránh dùng Hà-thủ-ô.
Lộc-nhung đắt gấp mấy lần Nhân-sâm, tuy nhiên chính Nhân-sâm
cũng không rẻ cho lắm. Nếu muốn đỡ tốn tiền th́ dùng các vị
pha trước cũng đủ, không cần thiết đến các vị pha sau. Trước
đây chắc vua Minh-Mệnh bị chứng phong-thấp hành hạ lâu ngày,
khiến cho thận hư, can hư, huyết hư quá đáng nên y-sư Trần
Ngạn-Xuân mới phải dùng 3 vị pha sau.
Tóm tắt
– Bệnh nhân yếu phổi, ăn ít thêm Nhân-sâm.
– Bệnh nhân bệnh nặng hơn bất lực hoàn toàn hoặc già, trẻ
con chậm lớn thêm Lộc-nhung.
– Bệnh nhân người gầy g̣, tinh huyết khô, nhất là tóc sớm
bạc thêm Hà-thủ-ô.
Hà-thủ-ô dùng để trị những người đầu sớm bạc do thận hư.
Người ta thường huyền thoại hóa đi rằng Hà-thủ-ô có thể cải
lăo hoàn đồng, làm đầu bạc hóa đầu xanh, đó là nói quá đi.
Thực sự Hà-thủ-ô chỉ làm ngừng bạc tóc mà thôi.
C̣n nếu bệnh nhân quá hư nhược, bất lực, phong-thấp th́ dùng
cả ba thứ ngâm sau.
Từ sau năm 1955 trong dân gian Việt-nam thường truyền tụng
thang thuốc rượu thuốc vua Minh-Mệnh, hoặc Nhất dạ lục
giao sinh ngũ tử, nhưng thang thuốc không thấy nói hai
vị quan trọng là Hà-thủ-ô và Lộc-nhung. Thực sự bổ thận,
chữa bệnh bất lực th́ nhân-sâm không tốt bằng hai vị kia.
Thang thuốc bỏ mất hai vị kia, th́ công hiệu bổ thận giảm đi
một nữa. Có lẽ người phổ biến thang thuốc không có đủ tài
liệu, chỉ nắm được một phần, hoặc giả họ muốn dấu, mà chỉ
phổ biến có vị nhân-sâm, khiến cho bệnh nhân ăn ngon.
Thang thuốc khởi đầu do Lư Quốc-sư Nguyễn Minh-Không có tên
là Lư Quốc Sư Đại bổ tửu, do Lư Quốc-sư trị cho vua
Lư. Thang thuốc Thủy-Tiên Công-chúa trị cho vua Trần gọi là
Thủy-Tiên trường thọ tửu hay Đông-a phục dương
tửu, hay Trường xuân tửu. Đến y-sư Trần Ngạn-Xuân cải
sửa, trị cho vua Minh-Mệnh được gọi là Nhất dạ lục giao
sinh Thất tử hoặc Phục dương đại bổ tửu , nhưng
trong dân chúng lại gọi là Rượu thuốc vua Minh-Mệnh
hoặc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử.
10. KẾT LUẬN
Phương thuốc cổ thời, từ thế kỷ thứ 12, lưu truyền sửa đổi
măi cho đến thế kỷ thứ 19 th́ không sửa đổi ǵ nữa. Sở dĩ nó
bị coi là thang thuốc bí truyền, v́ chỉ nằm trong những gia
đ́nh quư tộc.
Hiện ở đâu có người Việt là thang thuốc này được lưu truyền,
pha uống bừa băi, không hiểu nguyên do tại sao, nhất là
thiếu mất ba vị căn bản.
Chúng tôi đă phân tích, thử nghiệm lại, và được dùng rất
rộng răi trong giới các bác sĩ Âu-Mỹ châu, sau khi tốt
nghiệp các đại học y-khoa, đă thấy một số bất lực y-học hiện
tại, nên t́m về y-học Á-châu giải quyết. Thang thuốc đă giúp
cho việc trị bệnh rất nhiều, kết quả rất tốt. Các bác sĩ ở
Châu-âu thường trị chứng phong-thấp cho bệnh nhân bằng châm
cứu, nhưng không biết làm thế nào cho chứng này hết tái
phát, bởi châm cứu mà bổ dưỡng th́ rất khó khăn, nhất là đối
với người già. Bởi vậy thang thuốc này được dùng tới. Bệnh
nhân bị chứng bất lực do phong-thấp ở mức độ thấp, chưa đến
tŕnh độ sưng nhức, hoặc di chứng phong-thấp làm cho bất
lực, các bác sĩ không biết làm sao giải quyết, nên đă trở về
với thang thuốc trên kết quả thực toàn vẹn.
Gần đây người ta hoặc dùng phương thuốc của Quốc-sư
Minh-Không, hoặc của Công-chúa Thủy-Tiên, hoặc của Y-sư Trần
Ngạn-Xuân, rồi ngâm rượu bán, hoặc chế thành viên, với những
tên khác nhau, nhưng không hướng dẫn tận tường, khiến người
mua dùng mà không kết quả, hơn nữa có nạn tiền mất không
phải tật mang, mà chết oan uổng:
– Hoàng đế đại bổ tửu,
– Trường xuân tửu,
– Rượu bộ vua Minh-Mạng.
– Minh Mạng hoàng đế hoàn.
– V.v. và v.v.
BS Trần Đại Sỹ
Nguồn:
batkhuat.net
[Trở
Về Đầu Trang] |