Toa thuốc này truyền tụng từ lâu ở Huế, được đồn là do vài vị ngự y chép
được. Trong sách Nguyễn triều cố sự ; Huyền thoại về Danh lam xứ Huế
(1996), tác giả Bửu Kế chép ra hai bài thuốc vua Minh Mạng như sau theo
tài liệu của Lương Y Tuệ Tâm:
I. Nhất dạ ngũ giao
Thành phần:
1 - Nhục thung dung 12g
2 - Táo nhân 8g
3 - Xuyên Qui 20g
4 - Cốt toái bổ 8g
5 - Cam cúc hoa 12g
6 - Xuyên ngưu tất 8g
7 - Nhị Hồng sâm 20g
8 - Chích kỳ 8g
9 - Sanh địa 12g
10 - Thạch hộc 12g
11 - Xuyên khung 12g
12 - Xuyên tục đoạn 8g
13 - Xuyên Đỗ trọng 8g
14 - Quảng b́ 8g
15 - Cam Kỷ tử 20g
16 - Đảng sâm 10g
17 - Thục địa 20g
18 - Đan sâm 12 g
19 - Đại táo 10 quả
20 - Đường phèn 300 g
(Toa này có người nói là „Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử“ nghĩa là có một
lần làm thụ thai... song sinh!!)
Cách ngâm:
Đường phèn để riêng, 19 vị thuốc trên đem ngâm với 3 lít rượu nếp
ngon trong 5 ngày đêm. ngày thứ sáu, nấu nửa lít nước sôi với 300 g
đường phèn cho tan ra, để nguội, rồi đổ vô thẩu, trộn đều đến ngày thứ
10 th́ đem ra dùng. Ngày 3 lần sáng, trưa , tối, mỗi lần 1 ly trà. Dùng
liên tục.
II. Nhất dạ lục giao
Thành phần:
1-Thục địa 40g
2- Đào nhân 20g
3-Sa sâm 20g
4- Bạch truật 12g
5 Vân qui 12g
6- Pḥng phong 12g
7- Bạch thược 12g
8- Trần b́ 12g
9-Xuyên khung 12g
10- Cam thảo 12g
11- Thục linh 12g
12- Nhục thung dung 12g
13- Tần giao 8g
14-Tục đoạn 8g
15- Mộc qua 8g
16- Kỷ tử 20g
17-Thường truật 8g
18-Độc hoạt 8g
19- Đỗ trọng 8g
20- Đại hồi 4g
21- Nhục quế 4g
22- Cát tâm sâm 20g
23- Cúc hoa 12g
24- Đại táo 10 quả
Cách ngâm:
24 vị thuốc trên ngâm với hai lít rưỡi rượu tốt trong ṿng 7 ngày.
Lấy 150 g đường phèn nấu với một xị nước sôi cho tan, để nguội rồi đổ vô
keo rượu thuốc, trộn đều, đến ngày thứ 10 đem dùng dần. Ngày 3 lần, mỗi
lần 1 ly nhỏ, sáng, trưa , chiều trước bữa ăn. Bă thuốc c̣n lại ngâm
nước hai với một lít rưỡi rượu ngon- một tháng sau dùng tiếp.
Chủ trị:
Cả hai bài trên có tác dụng đại bổ thận, bồi bổ thần kinh, gia tăng khí
huyết, tăng cường sinh lực, mạnh gân cốt, bán thân bất toại, dương sự
kém, tăng tuổi thọ.
Vài nhận xét của người viết
Tôi mạn phép có vài nhận xét sau:
a- Trong hai bài thuốc, về cân lượng người ta dùng đơn vị Gramme (g).
Ngày xưa ở Trung quốc dùng cân (chin), lượng (liang), phân (fen). Nhưng
ngay bây giờ, ở Trung quốc, người ta dùng những hệ thống khác nhau về
cân lượng như 16 lượng, 12 lượng, 10 lượng; thậm chí ở các vùng quê hẻo
lánh, người dân dùng hệ thống. 18 lượng, 20 lượng và 24 lượng.
Những ấn định về đo lường trong nhiều triều đại đă làm cho vấn đề cực kỳ
phức tạp. Kể từ năm 1979, miền Hoa lục đă chuyển theo hệ thống thập phân
(metric system) thay v́ là hệ thống cân lượng, nên trong nhiều sách
thuốc in tại Hoa Lục , hệ thống trọng lượng được thống nhất như sau, để
dễ bề tính toán:
1 lượng = 30 g (hiện nay chính xác hơn là 31 .25 g)
1 tiền = 3g
1 phân = 0.3g
Vậy về phân lượng trong 2 toa thuốc Minh Mạng thang trên, ta không rơ
lương y Việt Nam đă dựa vào toa nguyên gốc mà đổi ra gờ ram hay phỏng
chừng đổi theo cách thực dụng mới cho tiện việc cân khi mua thuốc.
b- Trong toa Nhất dạ ngũ giao, những vị thuốc bắt buộc
phải kén chọn theo nguồn gốc sản xuất, v́ các tên thuốc có kèm tên vùng
thổ sản như Tứ Xuyên, Cam túc, vùng Lưỡng Quảng, ví dụ chẳng hạn như
phải đ̣i hỏi thuốc từ Tứ Xuyên như Đương Qui, Ngưu Tất, Tục đoạn, Đỗ
trọng, Xuyên khung.
Trong khi trong toa Nhất nhật lục giao, th́ chỉ có Vân Qui và Xuyên
Khung là gốc Vân Nam và Tứ Xuyên, c̣n những vị Tục đoạn, Đỗ trọng, Kỷ tử
th́ không nói rơ từ ở đâu
c- Điều này rất quan trọng là phân lượng những thành phần kê ra trong
một toa thuốc Bắc phải dựa trên t́nh trạng của mỗi bệnh nhân như thể
chất yếu hay khỏe, bịnh trạng nặng hay nhẹ, bệnh t́nh mới hay lâu.
Thành ra hai bài thuốc kê trên không phải là loại “one size fits all”.
Do đó, với tư cách người biên khảo vô tư nhưng rất thận trọng về ư thức
trách nhiệm, tôi khuyến cáo bạn đọc không thể đơn phương quyết định áp
dụng sự tự điều trị cho cá nhân ḿnh mà không tham khảo những vị lương y
có thẩm quyền chuyên nghiệp, nhất là những nữ bệnh nhân mang thai, hay
những người có chứng huyết áp cao hay những rối loạn bệnh lư hiểm nghèo
khác.
Một vị thuốc tuy có vẻ hiền lành nào cũng có thể có những phó tác- dụng
bất ngờ nhất là thuốc Bắc chưa được kiểm nghiệm như thuốc hiện đại trước
khi bán ở thị trường.
d- Một điều thứ hai tôi muốn nêu ra về công
hiệu của những ngự tửu.
Trường hợp của Minh Mạng thang với những tên “Nhất dạ ngũ giao” hay
“Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” có tính cách khoa trương huyền thoại
chăng?
Ta hăy thử duyệt lại số con cái của vua chúa nhà Nguyễn Chín đời chúa
là:
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1525-1613) có 12 con: 10 trai và 2 gái
Chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635) có 15 con: 11 trai và 4 gái
Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1601-1648) có 4 con: 3 trai và 1 gái
Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1620-1687) có 9 con: 6 trai và 3 gái.
Chúa Ngăi Nguyễn Phúc Thái (1650-1691) có 10 con: 5 trai và 5 gái
Chúa Minh vương (Quốc chúa) Nguyễn Phúc Chu* (1675-1725)
có 42 con: 38 trai và 4 gái
Chúa Ninh vương Nguyễn Phúc Thụ (1697-1738) có 9 con: 3 trai và 6 gái
Chúa Vơ vương Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765) có 30 con:
18 trai và 12 gái
Chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần (1753-1777) có một gái
[* Chúa Minh vương (Quốc chúa ), theo nhiều sử sách có đến 146 con!]
Nhưng theo Richard Orband trong Les tombeaux des Nguyễn(1914) và Nguyễn
Phúc tộc thế phả (1995) th́ ghi là 42 con
Mười ba đời vua là:
Gia long (1762-1819) có 31 con :13 trai và 18 gái
Minh Mạng (1791-1840) có 142 con: 78 trai và 64 gái
Thiệu trị (1807-1847) có 64 con: 29 trai và 35 gái
Tự Đức (1829-1883) không có con tuy nhiều vợ
Dục Đức (1853- 1883) có 19 con: 11 trai và 8 con gái chết v́ bị giam đói
Hiệp Ḥa (1847-1883) có 17 con: 11 trai và 6 gái chết v́ bị ép uống
thuốc độc
Kiến Phúc (1869-1884) chưa có vợ con , chết bí mật
Hàm Nghi (1871- 1943) một vợ, có 3 con: 1 trai và 2 gái
Đồng Khánh (1864-1889) có 5 vợ, 10 con: 6 trai và 4 gái
Thành Thái (1878-1954) nhiều vợ, có 45 con: 19 trai và 26 gái**
Duy Tân (1900-1945) có 2 đời vợ , có 3 trai và 2 gái
Khải Định (1885-1925) có 1 trai
Bảo Đại (1913-1997) có 5 con: 2 trai và 3 gái
[** Riêng Vua Thành Thái là một người phát dục rất sớm. Số con của ông
c̣n rơi rớt rất nhiều mà thế phả nhà Nguyễn chưa kiểm tra được.
Cung tần chưa đủ cho ngài gần gũi mà c̣n muốn vi hành ra ngoài nên mới
có câu: Kim luông con gái mỹ miều, Trẫm thương, trẫm nhớ trẫm liều, trẫm
đi!]
Duyệt qua danh sách trên, ta thấy có hai đỉnh
cao về con số đông con:
- Đỉnh cao thứ nhất trong đời các chúa với Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu và
Vơ vương Nguyễn Phúc Khoát ứng vào giai đoạn mà Chúa Nguyễn ở Nam hà
tuyên bố xác định vương quyền độc lập chống lại vua Lê chúa Trịnh Bắc hà
bằng sự dùng vương ấn và lập sẵn kinh đô ở Thuận Hóa.
- Đỉnh cao thứ hai trong đời các vua với vua Minh Mạng ứng với giai đoạn
tuyên xưng đế quyền tuyệt đối với sự ban bố bài Đế Hệ thi 20 chữ trong
tham vọng con cháu của ông sẽ làm vua trong 20 đời nữa.
Chính ư niệm xác định Vương quyền và Đế quyền phải chăng tạo ra nhu cầu
sinh sản nhiều tử tức hậu duệ. Và “bộ máy đẻ” của nhà Nguyễn là hệ thống
cung tần mỹ nữ.
Đời Vơ vương, vợ lớn nhỏ của chúa không gọi là Chánh hay Thứ phu nhân
như bá tính mà đổi ra gọi vợ cả là Tả hành lang và vợ thứ là Hữu hành
lang, con cái đẻ ra sợ chuyện ma quỉ bắt (nạn hữu sanh vô dưỡng ) nên
Chúa mới đặt ra tục gọi các con trai là Mệ, Mụ.
Trong cung cấm nhà Nguyễn, có chín bậc gọi các bà vợ vua từ cao đến thấp
gọi là Cửu giai. Vua nhà Nguyễn không phong vợ lớn là Hoàng Hậu (trừ vua
Bảo Đại sau này) v́ sợ nạn quốc thích chuyên quyền như các triều Lư,
Trần , tước hiệu Hoàng Hậu chỉ phong sau khi chết.
Cửu giai là:
Nhất giai Phi
Nhị giai Phi
Tam giai Tân
Tứ giai Tân
Ngũ giai Tiếp Dư
Lục giai Tiếp Dư
Thất giai Quư Nhân
Bát giai Mỹ Nhân
Cửu giai Tài Nhân
và cuối cùng là Tài Nhân vị nhập giai (nghĩa là chưa vô ngạch mà chuẩn
bị thôi, như chức Chuẩn Úy của quân đội)
Trong thế phả Nguyễn Phúc tộc, tôi thấy một bà Cung Nga có lẽ là cung nữ
chưa vô ngạch Cửu giai!
Chính v́ hệ thống phi tần mỹ nữ đă là cho những ông ngự y phải t́m những
thang thuốc bổ thận cho vua chúa và những toa thuốc dưỡng thai cho các
vợ vua khi mang bầu, như thế làm ǵ không đông con.
Thức ăn ngự thiện đương nhiên gồm những thứ bổ béo mà bá tính cung tiến.Vua Minh Mạng chỉ sống đến 50 tuổi v́ nghe đâu chết v́ té ngựa, thế mà
đă có 142 con, nếu vua thọ thêm 20 năm nữa, con cái trực hệ c̣n đông đến
đâu. Hệ của Minh Mạng là hệ nh́ chánh (hệ nhứt chánh là hệ hoàng tử
Cảnh), là hệ đông nhất gồm 56 pḥng và phái nam đươc 1800 người.
Theo tôi những cái tên Nhất dạ Ngũ giao hay Lục giao của Minh Mạng thang
là những cái tên đời sau bịa ra cho thần kỳ, chứ mỗi khi một cung phi
nào được vua vời tới long sàng th́ tên tuổi và ngày tháng ấy đều được
ghi chép cẩn thận để sau này c̣n chẩn đoán thai kỳ và xác nhận phụ hệ.
Những chuyện về:
Cái đêm hôm ấy đêm ǵ.
Bóng dương trùng bóng trà mi chập chùng
là chuyện thâm cung bí sử, ai mà rơ “ ngũ giao” hay “ lục giao”. Trong
đống văn khố chứa trong Tàng thơ lâu , giả thử c̣n lưu lại những y án
hay phương dược của các ngự y dâng lên vua, đâu là tài liệu xác nhận
rằng vào một đêm nào đó có 5 bà phi trong bụng tiếp nhận “ long chủng”
qua lần ân ái với vua và tên những hoàng nam hay hoàng nữ đó là ai?
Dựa vào kiến thức y học, câu chuyện “lục giao sanh
ngũ tử “ có lẽ là ngoa ngôn hay phóng đại. Chỉ ở trong thần thoại Hy
lạp, mới có thần Hercule trong một đêm gần ... 50 cô gái đă làm thụ thai
49 cô. Dẫu sao, xét về số con của vua Minh Mạng th́ hậu thế phải công
nhận ông thuộc vào loại có khả năng tính dục tuyệt luân.
Tính theo mỗi lần giao cấu chỉ bắn tinh khí ra khoảng 2 phân khối rưỡi
đến 3 là cùng sau nhiều ngày kiêng giao cấu, mà muốn làm thụ thai, mỗi
phân khối tinh khối phải chứa 100 triệu tinh trùng và số tinh trùng quái
dị phải dưới 20 %.
Khối lượng và sự đậm đặc của tinh khí thường giảm xuống mau chóng sau
nhiều lần giao cấu liên tục. Như vậy trong một đêm 5 lần 6 lượt tính
giao thường không phải sinh con mà sinh ra .... bắn súng nước hay bắn
khói!
Theo sử sách, hằng đêm, vua thức khuya để coi chương sớ từ các phiên
trấn gửi về đến canh ba (11 giờ khuya) mới đi ngủ. Hoạt động chăn gối về
đêm hăng như thế mà ban ngày vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết mệt
chứng tỏ Minh Mạng là một người có một “thể chất tiên thiên “ bẩm sinh
cường tráng.
Những toa thuốc mà vua dùng chỉ là trợ lực cho đường sinh lư chứ không
phải là chủ trị quyết định. Xem trường hợp vua Tự Đức (1847- 1883) thể
chất tiên thiên bất túc và lúc mới lớn bị đậu mùa, dù là vua có nhiều vợ
và được các ngự y chữa trị vẫn không có con.
Nh́n vào thành phần những món thuốc trong hai toa Minh Mạng thang nói
trên, tôi thấy toàn là những vị bổ dược mà tiệm thuốc bắc nào cũng có và
hiệu lực của chúng theo y lư được coi là tư âm bổ dương, tăng cường tinh
khí, nâng đỡ thể trạng chứ không phải là những thức khích hứng nhất thời
làm cương cử ngọc hành hay những vật liệu chế từng những tạng phủ hay bộ
phận của những thú vật nổi tiếng mạnh về sinh lư.
Thành ra Minh Mạng thang là một loại bổ dược chống mệt mỏi tổng quát,
chứ không giống như những viên thuốc hứng dục (aphrodisiac) như viên
Okasa dạo nào của Pháp chứa Testostérone và Yohimbine, Cantharidine hay
những viên Viagra hiện nay chỉ có tác dụng cục bộ làm cương cử ngọc
hành.
Nhiều y sĩ cho rằng sự mệt mỏi thường là nguyên nhân làm giảm hứng thú
khi ân ái. Vua Minh Mạng vốn là một người có thực lực tính dục quán
chúng do bẩm sinh nên vấn đề dùng thuốc bổ là một sự trợ lực. Nếu phàm
nhân tục tử vốn liếng chẳng bao nhiêu không biết tự lượng sức ḿnh, mỏi
gối chồn chân mà cứ dùng thuốc khích hứng để tiếp tục trèo th́ quả là
tai hại!
Nhận định về công hiệu của Minh Mạng thang.
Vấn đề này cần một sự khảo sát và phân tích thâm cứu
dựa trên những dữ kiện khoa học mà hiện nay chưa có. Tôi nghĩ rằng một ư
kiến có thẩm quyền nhất là ư kiến của bác sĩ Nhật Akira Ishihara. Ông đă
cọng tác với Howard S. Levy là đồng tác giả cuốn The Tao of Sex.
Cuốn sách này rất hay v́ dựa vào nhiều tài liệu hiếm quí về tính dục học
cũng như y dược của Trung Hoa và Nhật bản. Y dược Á Đông theo nguyên lư
Âm Dương Ngũ hành và được chế biến từ những nguyên liệu từ thiên nhiên
mà hiện nay chưa có một sự phân chất thí nghiệm qui mô. Dược liệu Trung
Y qua hơn 5 ngàn năm lịch sử từng chứng tỏ công hiệu trên nhiều phương
diện.
Ví dụ như Nhung gạt hươu non chứa nhiều kích thích tố , dùng trích tinh
để thí nghiệm trên chuột th́ thấy chuột tăng cường về sinh lư rơ ràng.
Nhục thung dung là một loại nấm chứa nhiều Manganese thường có trong
nhiều thuốc khích dục. Thành ra không phải y dược Á đông không có hiệu
nghiệm, nhưng hiệu nghiệm này c̣n rất ẩn áo hầu như có tính chất huyền
thoại, phải theo kinh nghiệm lâu đời (empirical) của cổ nhân mà dùng lâu
ngày mới thấy. Một yếu tố đáng kể là thể tạng của từng bệnh nhân đă đáp
ứng ra sao với sự trị liệu nên thuốc dùng cho người này th́ tốt mà dùng
cho kẻ khác th́ không. Vấn đề tâm lư của người dùng thuốc(linh tại ngă,
bất linh tại ngă) cũng là một yếu tố quyết định.
Tôi tự xét, không học ǵ về Đông Y mà chỉ là con mọt sách, ghi chép lượm
lặt để viết lách, nên kính mong sự chỉ giáo của các bậc cao minh.
Tôi c̣n nhớ trước 1975 có đọc quyển Vạn thị Phụ Nhân khoa do ông Nguyễn
văn Tỷ chủ nhà thuốc Hồi Xuân đường Nguyễn thiện Thuật, Bàn cờ Sài g̣n.
Trong sách có một đoạn bàn về các toa thuốc bổ tính dục và bí quyết sinh
quí tử mà tôi viết lại theo trí nhớ:
Đàn ông muốn sanh quí tử phải đạt đủ ba điều kiện trên ba tiêu chuẩn gọi
là Tam chí (Can chí, Tâm chí, Thận chí). Can tức là gan. Can chủ về mộc
cân tức là gân. Gân khỏe (Can chí) th́ gân mới đủ sức cương cử mà hành
sự; Tâm tức là tim, chủ về huyết hỏa hay năng lượng. Tim tốt (Tâm chí)
th́ trí năo quân b́nh, năng lực phương cương, sức lực bề dai, tinh trùng
mới đủ sức bơi ngược gịng tử cung để thụ thai:
Thận tức là cơ quan tính dục gồm dịch hoàn và các hạch nội tiết nang
thượng thận, chủ về thủy, tức là tinh khí. Thận khỏe (Thận chí) th́ tinh
khí đặc, chứa nhiều tinh trùng nên dễ thụ thai.
Suy diễn như trên, ta thấy sự tính giao lư tưởng là một độ cương dương
vật đầy đủ, một trí óc quân b́nh, một nguồn sản xuất tinh khí dồi dào về
phẩm và lượng. Như thế, một người thận yếu, tinh khí loăng, cợ thể bạc
nhược, gân thịt bèo nhèo mà dùng thuốc khích hứng chẳng khác nào quất
roi thúc con ngựa c̣m ṛm tiến bước trên con đường xa gập ghềnh.
Một toa thuốc bổ dương hoàn toàn không phải là một toa thuốc chỉ bổ thận
khích dục mà theo biện chứng của Đông Y phải là nhắm vào chủ đích bổ
dưỡng toàn thân, bằng cách bồi bổ ba nội tạng Can, Tâm, Thận. Tôi nghĩ
đây là một minh chứng về quan niệm khác nhau giữa Tây Y và Đông Y:
*Tây Y chủ trương đánh thẳng và mau vào ngọn nên hữu hiệu vào những
trường hợp cấp tính
*C̣n Đông Y đánh bền và lâu vào gốc bệnh ly, nên thích hợp cho các chứng
kinh niên mạn tính.
Nh́n chung, dùng rượu thuốc là một tập quán, một đặc thù văn hóa của dân
Việt ta đă chịu ảnh hưởng của Trung Hoa qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên,
sống trong thời hiện đại, người ta phải có một thái độ suy luận thận
trọng trên thực tế khi phải dùng thuốc, ngay cả khi dùng thuốc bổ không
phải thuốc bổ nào cũng tốt cả như „ one size fits all“ như cái tên khoa
trương „ ngũ giao“, „ lục giao“... Một vị thuốc nào cũng vậy, bên cạnh
công năng trị liệu, c̣n có thể có nhiều "phó tác dung".
Rượu làm khí huyết lưu thông (Tửu năng dẫn huyết) nhưng đối với những
người có chứng huyết áp cao và chứng thống phong (gout) th́ không nên
dùng. Tóm lại, rượu thuốc vẫn là rượu bổ nhưng nên dùng thận trọng.
BS Lê Văn Lân
Nguồn:
batkhuat.net
[Trở
Về Đầu Trang] |