- Vâng. Cụ tôi rên suốt đêm. Bác sĩ trực có đến tiêm hai lần.
Mặt cụ Isikura đỏ bừng, hơi thở không đều, trong ngực có tiếng
khò khè và lục bục như trong bệnh viêm phổi.
- Cụ mệt lắm phải không? - Naôê hỏi một cách dịu dàng. - Phải
chịu khó một chút.
Cụ Isikura khẽ nhúc nhích.
- Tiêm mêtilon và co ôxy, - Naôê ra lệnh cho Nôrikô và lại cúi
mình trên giường bệnh: - Cố chịu đựng một chút nữa, sẽ đỡ ngay.
Quả nhiên một lát sau nhiệt độ giảm, và cụ Isikura bắt đầu thiêm
thiếp ngủ. Nhưng sự thuyên giảm chỉ là nhất thời, và đến chiều
cột thủy ngân lại lên ngang nấc "ba mươi tám".
Nôrikô tìm thấy Naôê trong phòng điều hành - ông đang nghỉ sau
một phầu thuật, chiếc blouse mặc khi mổ cũng chưa kịp cởi.
Nôrikô báo cho ông biết là cụ Isikura lại sốt.
- Dễ hiểu. - Naôê đưa mắt nhìn theo làn khói thuốc lá đang tan
dần trong không khí. - Hơi thở thế nào?
- Thở hơi gấp.
Naôê nói rất khẽ, như thể tự nói thì thầm với mình:
- Xong... Thế là hết.
- Không thể làm gì được nữa ạ?
- Có thể sẽ kéo được hai ba ngày nữa.
- Thế thì vừa đúng ngày tết...
- Phải, đúng thế... - Naôê thở ra một hơi khói. - Tiêm thêm cho
ông cụ một ống mêtilon.
- À, anh ạ...
- Cái gì?
- Không ạ, không có gì.
Nôrikô định nói đến cuộc nói chuyện hôm qua vơi bà y tá trưởng,
nhưng rồi nghĩ sao lại thôi. Cô không đủ can đảm. Cô im lă/ng ra
khỏi phòng điều hành, đi chuẩn b. tiêm thuốc mêtilon như Naôê đã
ra lệnh.
Đến đêm nhiệt độ của cụ Isikura lên đến bốn mươi, cụ bắt đầu
ngạt thơ?.
Bác sĩ trực hôm ấy là Kôbasi. Sau khi đi thăm qua các phòng bệnh
nhân, anh gọi người con trai của cụ Isikura ra ngoài và nói rằng
ông cụ bắt đầu có chứng phù phổi và tình hình rất nguy kịch. Cần
phải báo cho những người thân biết.
Nôrikô đổi phiên với Kawai và ở lại trực.
Đến tảng sáng cụ Isikura bắt đầu hôn mê: họ tiếp tục tiêm cho
cụ, đặt bình tiếp huyết thanh, nhưng đến tám giờ sáng cụ tắt
nghỉ một cách êm lặng. Ông cụ chỉ đau đớn khoảng hai ba mươi
phút, rồi sau đó dường như thiếp dần đi và chết mà không cảm
biết những phút cuối cùng của mình.
Naôê đến bệnh viện sau mười giờ như thường lệ. Ông được bà y tá
trưởng báo cho biết cụ Isikura đã chết.
- Tôi đã cho rửa ráy thi hài và đưa xuống nhà xác. Trong mấy
ngày tết lò thiêu không làm việc, cho nên lễ vĩnh biết với người
quá cố sẽ tiến hành hôm nay. Ngày mai sẽ làm lề an tháng - hình
như vào lúc chín giờ sáng.
Naôê thản nhiên nghe Sêkiguchi nói, rồi cầm lấy tập bệnh án của
bệnh nhân Yôsiđzô Isikura, mở nó ra và ở mục "biến diễn bệnh"
ông viết bằng bút dạ đỏ: "Đã chết".
Chương 18
Ngày 31 tháng mười hai tuyết rơi từ sáng sớm, rồi đến
trưa trời ấm lên và bắt đầu đổ mưa.
Ở phòng ngoại trú hôm nay không khám bệnh, nhưng xe cấp cứu có
chở đến năm người. Ba bệnh nhân bị cảm lạnh, bệnh nhân thứ tư bị
thương trong một tai nạn giao thông - người này bị giập đầu gối,
còn người thứ năm bị bong gân nhẹ. Nói chung không có gì nghiêm
trọng. Họ đều khám, được tiêm những thuốc cần thiết, được chỉ
định cách điều trị và cho về nhà.
Đến tám giờ tối khi bắt đầu buổi đi thăm các bệnh nhân, trời
tạnh mưa và quang hẳn mây, trăng sáng. Tôkyô ở giữa một vùng khí
áp cao, những khối không khí từ lục địa tràn ra thành những đợt
gió lạnh làm cho nhiệt độ trên thành phố hạ xuống.
Bệnh viện rất vắng: đa số bệnh nhân đều về nhà ăn Tết với gia
đình, chỉ còn lại độ một phần ba.
Tết giao thừa, bệnh nhân tụ tập thành những nhóm nhỏ trong các
phòng nằm ăn sôba và các món ăn ngày tết.
Đến chín giờ tối Nôrikô đi tắt các đèn trong bệnh viện. Nhiều
phòng bệnh nhân không có lấy một bóng người. Trong căn phòng của
cụ Isikura trước đây cũng tối om. Trong ngực Nôrikô có một cảm
giác ớn lạnh khi cô ghé nhìn vào khung cửa hé mở của căn phòng
này.
Ánh trăng chiếu lên cái giường của cụ Isikura nằm trước đâu. Tử
thi đã đưa xuống nhà xác, chăn trải giường đã tháo hết, và trên
cái đệm trần đây đó hay còn lại những chỗ lồi lõm.
Nôrikô vội vã đi qua thật nhanh, gần như chạy, quanh xuống cầu
thang đến tầng thứ ba, và bước vào phòng y tá. Trong phòng điều
hành có ánh đèn - như vậy tức là Naôê vẫn con ở đấy. Cô rất mừng
vì có thể yên tâm đến gặp anh. Huống hồ cô y tá trực hôm nay là
Unô, một cô gái hơi khờ khạo, và nếu nói với cô ta rằng mình cần
gặp bác sĩ có việc cần thì cô ta sẽ không nghi ngờ gì.
Trước cửa phòng, Nôrikô phân vân đứng lại, rồi lấy hết can đảm,
cô gõ cửa khe khẽ.
- Mời vào.
Nôrikô thở phào nhẹ nhõm: "May quá, giọng của Naôê".
Cô bước vào phòng điều hành và đóng cửa lại cẩn thận.
- Em vừa đi tắt hết đèn ở các phòng bệnh nhân.
- Tốt.
Naôê đặt cuốn sách xuống, thọc tay vào thúi lấy ra một bao thuốc
lá.
- Anh uống trà nhé?
- Cám ơn. Không cần.
Trên chiếc bàn trước mặt Nao6ê có một chai sakê đặt cạnh một cái
ly đã uống cạn một nửa.
- Lúc đi ngang căn phòng cụ Isurika nằm trước đây, em thấy rợn
quá...
Naôê châm thuốc lá hút, vươn vai rồi nhìn Nôrikô nói.
- Em ngồi xuống cạnh anh đi.
- Sao ạ? - Nôrikô không dám tin ở tai mình nữa. Ở bệnh viện đây
là lần đầu có nghe Naôê nói với mình như vậy.
Naôê dẹp mấy tờ báo lại để lấy chỗ cho Nôrikô ngồi. Nôrikô hối
hả đi rửa cái gạt tàn và lau bàn xong rồi mới ngồi xuống cạnh
Naôê.
- Em uống sakê nhé? - Naôê hỏi.
- Không, em đang làm việc...
- Thôi, hôm nay là ngày lễ. Năm hết tết đến rồi.
Naôê đưa ly rượu của mình đang uống cho Nôrikô. Nôrikô nha6 p
môi một chút rồi đặt lại trên bàn.
- Mai anh đi Sappôrô ạ?
- Ừ.
- Thế bao giờ anh về?
- Sẽ ở đấy hai ba ngày.
- Chỉ thế thôi à? - Norikô quyết định ngay lập tức là nếu vậy tô
sẽ rời Niigata về đây sớm hơn.
- Sappôrô chắc bây giờ tuyết phủa trắng xóa...
Naôê im lặng cầm ly lên uống.
Nôrikô tưởng tượng anh đang bước trên những đường phố phủ tuyết
của thành phố Sappôrô.
- Chúng mình cùng đi đin!- Đột nhiên Naôê đề nghị.
- Hả? - Nôrikô bàng hoàng cả người: lời đề nghị này đối với cô
quá bất ngờ.
- Em có muốn đi Sappôrô, đến đảo Hôkkaiđô không?
- Anh... nói thật đấy chứ? - Nôrikô sửng sốt nhìn Naôê. - Anh
muốn em cùng đi với anh ư?
- Nhưng bây giờ ở đấy lạnh lắm.
"Có sao đâu. Dù tuyết rơi, dù băng igá cũng mặc, miễn là được ở
bên cạnh anh!" - Nôrikô nghĩ thầm.
- Nhưng em định mai đi Niigata kia mà?
- Em không đi nữa cũng được.
- Mẹ em đợi em ở quê phải không?
- Em sẽ gặp mẹ em lúc khác: lúc nào mà chả được.
Naôê lại uống một ngụm sakê.
Nôrikô lấy làm lạ về những lời lẽ vừa rồi của mình. "Em gặp em
em lúc nào mà chả được"... Làm như thể mình sẽ không bao giờ còn
gặp lại Naôê nữa.
- Vậy thì mai chúng ta đi.
- Mai ư? - Nôrikô lại ngạc nhiên.
"Cái gì thế này? Một ý thích thoáng qua trong chốc lát chăng? Dù
sao cũng không thể nào bỏ lỡ một cơ hội như vậy được!"
- Thế còn... Anh cũng về thăm mẹ kia mà?
- Anh sẽ ở khách sạn.
- Sao lại thế? Anh có nhà ở Sappôrô...
- Anh sẽ ở nhà với mẹ một ngày thôi.
- Em không làm phiền anh chứ?
- Không. Chỉ có điều là trong khi anh về nhà thăm mẹ, em ở lại
khách sạn.
Nôrikô chưa bao giờ đến Hôkkaiđô và chưa bao giờ được đi cùng
với Naôê. Niềm vui bất ngờ làm cho cô đỏ bừng mặt lên.
- Mấy giờ ta sẽ đi?
- Máy bay cất cánh lúc ba giờ. Vé của em anh sẽ gọi điện đặt
ngay hôm nay.
- Thế còn phòng khách sạn?
- Gần tết chắc khách vãng lai cũng nhiều, nhưng không sao, đấy
không phải là một thành phố nhỏ, thế nào cũng còn.
Nôrikô vẫn chưa dám tin vào hạnh phúc của mình.
- Anh cho em đi thật đấy à?
- Thì tôi đã nói rồi.
- Em mừng quá...
Nôrikô nhìn ra cửa sổ. Cô có cảm giác hạnh phúc đang chạy đến
đón mình. Chỉ cần lắng tai một chút là có thể nghe thấy tiếng
bước của nó đang lại gần. Cô không dám động đậy, sợ làm cho nó
kinh động, cô sợ phải nghe một câu gì như: " Không phải, cô hiểu
lầm tôi rồi..."
- Em nghĩ gì thế?
- À không... có gì đâu... - Nôrikô cười và nép vào vai Naôê.
- Đừng quên mang măng-tô nhé.
- Thế còn ủng?
- Không nhất thiết, đi bốt-tin cũng được.
Nôrikô có mỗi một chiếc áo măng-tô mỏng, chỉ thích hợp với khí
hậu ở Tôkyô. Bốt-tin thì có thể mua ở Sappôrô cũng được. Cái
va-li nhỏ quả hơi sờn, nhưng cũng không sao. Đáng tiếc là rốt
cục cô vẫn không may bộ đồ mà cô mơ ước từ lâu. Cô định về
Niigata thăm mẹ, mà về đấy thì chẳng phải diện làm gì. Nhưng
Hôkkaiđô là dĩ nhiên là chuyện khác... Đágn tiếc là cô không
biết trước, chứ không thì đã có thì giờ chuẩn bị cho chu đáo.
Bây giờ thì dĩ nhiên là không còn kịp chuẩn bị gì nữa... Anh ấy
không nói sớm hơn thì cũng đành vậy. Anh ấy xưa nay vẫn thế. Rất
cóthể là cái ý mời mình nẩy ra ngay lúc ấy, thế là anh mời luôn.
- Chắc ở Sappôrô mùa đông đẹp lắm nhỉ? Nhà cửa đường sá, mọi vật
đều phủ tuyết...
Nôrikô hình dung những dãy phố nhỏ yên tĩnh, những bông tuyết
quay cuồng trên không; những nếp nhà, những hàng cây, những vỉa
hè, những mặt đường, tất cả đều trắng xóa. Và hai người sẽ sánh
vai nhau đi... Xung quanh là sự tĩnh mịch và là màu trắng lấp
lánh. Nôrikô thấy chóng mặt vì hạnh phúc.
- Thế là năm đã sắp hết... - Naôê nói khe khẽ và uống nốt ly
sakê.
- Kể cũng lạ...
Đâu đây có tiếng hát vọng lại. Chắc các bệnh nhân đang xem
chương trình Tết trên ti-vi.
- Phải, một năm đang kết thúc... cũng như mọi sự trên thế gian
đều có lúc kết thúc...
Hai tiếng sau cùng Naôê nói vơi một giọng đặc biết gay gắt.
Nôrikô sợ hãi ngẩng mặt lêng.
Trong đôi mắt Naôê thoáng hiện một nụ cười. Nôrikô chưa bao giờ
được trông thấy ở Naôê một nụ cười hiền dịu như vậy. Vưa ấy yếm
nhìn nụ cười của Naôê, Nôrikô vừa đứng dậy.
- Thôi em đi nhé? Đem trái cây đến nhé?
- Không cần. Anh nằm ngủ một chút.
- Chúc anh ngủ ngon.
Ngày mồng một tháng giêng trời rất đẹp. Trên các đường phố tấp
nập những đám người qua lại. Những người phụ nữ mặc kimômô lễ
phục. Ai nấy đều rảo bước đến các đền thờ. Mọi vật đầu thắm đượm
cái không khí tưng bừng của ngày hội.
Ngày thường trong bệnh viện Oriental nhân viên làm việc thành
hai ca, nhưng vào ngày lễ thì theo đề nghị của các y tá, họ chỉ
làm một ca; tuy phải làm việc lâu, nhưng công việc lại ít, và
sau đó có thể nghỉ lâu hơn.
Những người phải trực vào ngày mùng một là Kôbasi và hai nữ y ta
- Takaghi và Hakanisi.
Sau khi giao ban, Nôrikô đã toan về nhà thì Kôbasi chạy đến gặp
cô.
- Naôê tiên sinh đây? - Anh hỏi, giọng xúc động.
- Chắc đang ở trong phòng của tiên sinh. Hôm nay tôi chưa gặp
tiên sinh.
- Ông ấy dậy chưa?
- Tôi không biết, tiên sinh thường dậy muộn.
- Tiên sinh sặp đi nghỉ phải không?
- Hình như thế.
- Vậy thì làm thế nào đây?!
- Có việc gì thế?
- Đã ba ngày tôi không đến bệnh viện; hôm nay vừa đến thì đây,
cô xem, tôi nhận được cái này...
- Cái gì thế?
- Một bức thư. Người ta khước từ việc thanh toán tiền tiếp máu
cho Uênô.
- Kôkichi Uênô? Bệnh nhân bị thiếu máu ấy à?
- Vâng! Mà bà vợ già cũng không làm việc được...
- Họ khước từ kể từ sang năm ạ? - Nôrikô hỏi.
- Mà hôm nay chính là ngày bắt đầu cái "sang năm" ấy đây.
- Nhưng chúng tôi tiếp máu rồi. Lúc sáng sớm.
- Họ không chịu chi trợ cấp. Họ bảo là bệnh nhân phải trả lấy.
- Trả lấy là thế nào? Hai ông bà già làm gì có tiền?
- Dĩ nhiên. Làm sao họ có thể trả gần mộ trăm ngày yên mỗi
tháng? - Kôbasi giận dữ khua khua cái phong bì.
- Tại sao bỗng dưng họ lại khước từ?
- Tôi cũng chịu!
- Có thể là một sự nhầm lẫn gì đây chăng?
- Nhầm gì mà nhầm... mọi sự đều trình bày rất rõ trong thư.
Nôrikô đọc qua bức thư. Đúng thật: "...cho nên chúng tôi đề nghị
kể từ ngày đầu năm chấm dứt việc truyền máu cho bệnh nhân
Kôkichi Uênô".
- Họ bảo là họ không đủ phương tiện.
- Phương tiện gì thế không biết? - Nôrikô cũng phẫn. - Không
truyền máu thì ông cụ chết ngay!
- Vấn đề chính là ở chỗ ấy...
- Vậy bây giờ làm thế nào?
- Tôi không biết. Tôi không hiểu mấy thằng cha công chức ấy nghĩ
gì.
- Phải hỏi lại cho thật chính xác.
- Nhưng hôm nay là mồng một tháng giêng rồi còn gì?
- Ôi, hôm nay dĩ nhiên là chẳng có ai làm việc.
- Đành phải đợi đến mồng bốn, - Kôbasi nói.
- Thế từ đây đến đấy thì làm gì?
- Tiếp tục truyền máu. Chính tôi sẽ trả tiền. - Kôbasi kiêu hãnh
ưỡn ngực ra.
Tính cách trẻ trung và cương trực của Kôbasi không hiểu sao làm
cho Nôrikô có một cảm giác bực bội âm ỉ.
- Có lẽ nên hỏi ý kiến bác sĩ Naôê - Cô đề nghị.
- Dĩ nhiên là phải hỏi chứ... - Hình như Kôbasi muốn nhờ Nôrikô
đánh thức Naôê.
- Tôi chắc tiên sinh đã dậy rồi. Có thể gọi điện.
- Tôi sẽ gọi thử, - Kôbasi đáp.
Nôrikô chạy xuống cầu thang.
Chừng mười phút sau Naôê bước vào phòng y tá. Ông mặc săng-đai
và vét-tông; mái tóc rối bù, gương mặt thiếu ngủ. Có thể thấy
rằng ông nằm mãi không ngủ được, tuy tối qua ông đi ngủ sớm, vào
khoảng mười giờ.
- Xin chúc năm mới, - Kôbasi, Akikô và Hubanisi nói.
Naôê đáp lại lời chúc tết: hình như đến bây giờ ông ta mới nhận
ra rằng năm mới đã đến. Chắc hẳn đối với ông cũng thế thôi: năm
mới thì mới nhưng công việc thì cũ.
- Xin lỗi tiên sinh vìe đã phải đánh thức...
- Không sao, đằng nào thì cũng đã đến lúc phải dậy.
- Tiên sinh sắp điHôkkaiđô ạ?
- Vâng. - Naôê gật đầu và thọc tay vào túi lấy thuốc lá. - Anh
có việc gì cần nói với tôi phải không?
- Vâng. Có một việc... Đây, có bức thư này vừa nhận được.
- Naôê mở bức thư ra và bắt đầu đọc. Dưới ánh nắng từ cửa sổ
chiếu vào, những ngón tay dài và mảnh của ông trông như trong
suốt.
Đọc xong, Naôê lật phía sau xem thử mặt bên kia có viết gì nữa
không, rồi nhìn lại cái phong bì một lần nữa.
- Chẳng còn ra thế nào cả! - Kôbasi lên tiếng - Khác nào ký lệnh
xử tử ông già! Tôi không hiểu được bọn công chức cần gửi cho
chúng ta một bực thư như thế này làm gì.
- Ở tòa thị chính có hỏi han gì về bệnh nhân Uênô không?
- Không... Hình như không... - Kôbasi lẩm bẩm một cách thiếu quả
quyết và quay về phía Akikô đang đứn gsau lưng anh, để tìm chỗ
dựa.
- Đúng ạ, không có ai hỏi gì về Uênô đâu, - Akikô xác nhận.
- Anh vẫn gửi hóa đơn cho họ đấy chứ?
- Dĩ nhiên. Tháng nào tôi cũng viết hóa đơn.
- Anh thử nhớ xem, có ai hỏi gì về hiệu quả điều trị không? Qua
điện thọai chẳng hạn.
Kôbasi liếc mắt về phía Akikô.
- Nói chung thì... có một lần người ta... gọi điện thọai hỏi
tôi... - Anh trả lời ngần ngừ.
- Hỏi gì?
- Hỏi xem cụ Uênô được truyền máu như vậy thì có khỏi bệnh
không?
- Thế anh trả lời thế nào?
- Tôi nói rằng dĩ nhiên là không. Việc truyền mau giữ cho bệnh
nhân sống, nhưng không làm khỏi bệnh được.
- Thế... Nhưng anh không biết giấy tờ gì chứ?
- Có viết ạ. Khoảng một tháng trước đây họ có gửi cho tôi một tờ
phỏng vấn, và tôi đã trả lời như vừa nói.
Naôê gảy tàn thuốc lá và lắc đầu.
- Bây giờ thì rõ rồi.
- Cái gì rõ ạ?
- Bức thư này là câu trả lời cho tờ giấy của anh.
- Nhưng tôi nói đúng! Với tư cách là thầy thuốc tôi hòan tòan
đúng! truyền máu chỉ làm cho bệnh nhân thấy đỡ trong một thời
gian.
- Dĩ nhiên anh đúng. Nhưng bọn công chức cũng đúng.
- Thế nào ạ? - Kôbasi chống hai tay lên mép bàn.
- Có lệ cấm trả trợ cấp nếu việc điều trị không có hiệu quả mà
lại kéo dài. Lại còn rất đắt nữa.
- Như vậy thì dã man quá! Vì bệnh nhân sẽ chết ngay! Không kéo
lấy được một tuần.
- Đúng.
- Vậy tiên sinh thấy nên thế nào? Đành chịu à?
- Chuyện này dĩ nhiên là khủng khiếp, nhưng... cũng khá lô-gích.
- Với tư cách là thầy thuốc tôi không thể chấp nhận như vậy
được!
- Đúng. Nhưng anh phải hiểu cả mặt bên kia nữa: nếu chấp thuận
một cách điều trị không có hiệu quả, thì có những bác sĩ sẽ tìm
cách trục lợi... Trong cách lập luận của họ cũng có cái lô-gích
của nó.
- Vậy thì bây giờ phải làm gì?
Mặt Kôbasi nhợt nhạt như tờ giấy.
Akikô lo lắng quan sát hai người.
- Giá viết sai sự thật đi thì khôn ngoan hơn.
- Nói dối à?
- Nói dối. Viết rằng việc truyền máu có một hiệu quả thần diệu.
- Lẽ nào có thể làm như vậy?
- Cần phải làm như vậy.
- Ừ thì làm... Chẳng khó gì. Tôi sẽ viết ngay bây giờ.
- Không, bây giờ muộn rồi.
- Tại sao?
- Anh đã viết một lần rồi. Anh đã cho họ biết tình hình thật.
Bây giờ viết khác đi họ không tin anh nữa đâu.
- Thế thì làm thế nào?
- Chẳng làm thế nào được.
Naôê thấy khô cổ; ông đứng dậy vặn vòi nước vào ly và nốc một
hơi hết sạch.
Kôbasi vẫn đứng ở tư thế cũ, hai tay chống vào bàn, và im lặng.
- Thế. Rõ cả, - cuối cùng anh ta nói. Chính tôi sẽ trả tiền
truyền máu.
- Làm như vậy sẽ chẳng đưa đến đâu hết.
- Không, tôi đã quyết. Vì chính tôi có lỗi.
Akikô kéo ống tay áo Kôbasi.
- Nếu không, tôi không thể nào yên tâm được. - Kôbasi nói tiếp,
giọng khản đi vì xúc động.
- Nhưng anh phải hiểu rằng việc truyền máu sẽ giúp cho Uênô ssốn
tthêm được một tháng, giỏi lắm là hai. Chỉ thế thôi. Anh cho
rằng chỉ cần có thế là anh sẽ yên tâm hay sao?
- Vâng. Dù chỉ thêm được một tháng cũng vậy.
- Anh làm dáng một cách hoàn toàn ngu xuẩn! - Naôê nói khẽ,
nhưng rất rõ ràng, làm cho mọi người sửng sốt. - Anh là một
thằng công tử bột thuộc loại tệ hại nhất! - Kôbasi ngạc nhiên
trố mắt nhìn ông nhưng rồi lại cụp mắt xuống. Akikô và Hakanisi
quên cả công việc, kinh hãi hết nhìn Kôbasi lại nhìn sang Naôê.
Naôê cầm tập bệnh án để trên bàn, giở qua mấy tờ. Rồi ông nói,
giọng khô khan:
- Bà cụ dã biết rằng chồng bà sẽ không khỏi bệnh. Đặt bình
truyền đi.
- Bình truyền gì?
- Truyền glucoza nhuộm đỏ cho bệnh nhân.
- Nhuộm đỏ? Để làm gì?
- Để cho dung dịch trông giống như máu. - Naôê không che giấu
nỗi bực bội.
- Nhưng như thế là lừa b... - Kôbasi bỗng im bặt giữa chừng.
Naôê khoanh hai tay trước ngủc nhìn ra cửa sổ.
- Tiên sinh đề nghị giải quyết vấn đền bằng cách lừa dối ư? Giả
vờ như thể vẫn tiếp tục truyền máu chứ gì?
- Hoàn toàn đúng.
- Không được, như thế là dối trá, là bịp bợm. Như thế không xứng
đáng với người thầy thuốc!
- Xứng đáng, không xứng đáng... Vấn đề không phải ở chổ ấy.
Không có lối thoát nào khác.
- Nhưng... - Kôbasi nhìn Naôê như thể đang trông thấy trước mặt
mình một quái vật. - Ông già sẽ chết ngay... - Giảng giải điều
này cho Naôê thì thật là ngu xuẩn, nhưng Kôbasi không kìm nổi. -
Chẳng lẽ tiên sinh không cần biết đến điều đó hay sao?
- Thì ngay việc tiếp máu cũng chỉ làm cho ông cụ sống thêm được
vài tháng là cùng.
- Rút ngắn thời hạn ấy là bất lương!
- Bất lương ư? - Naôê sấn tới sát người Kôbasi. - Anh nói là bất
lương phải không? - Ông nhìn Kôbasi từ đầu đến chân một cách căm
giận đến nỗi anh bất giác lùi lại.
- Không phải sao? - Kôbasi bàng hoàng nói lắp bắp. - Nhuộm
glucoza, giả làm máu mà là lương thiện ư?
- Khi không còn có thể làm gì nữa, thì phải làm sao cho người ta
được chết một cách bình yên. Dĩ nhiên huyết thanh nhuôm đỏ không
thể lừa được anh. Vì anh đã biết hết sự thật. Nhưng Uênô và cụ
bà không biết. Phải để cho họ tin rằng chúng tra đã làm hết
cách.
Kôbasi ngẫm nghĩ. Có lẽ trong những lời Naôê vừa nói có một phần
sự thật chăng? Không. Đối với người thầy thuốc con đường ấy
không thể chấp nhận được. Làm như vậy thì còn gì là ý thức bổn
phận.
- Người thầy thuốc có bổn phận cứu giúp bệnh nhân, làm cho bệnh
nhân tất cả những gì có thể làm được, - Kôbasi một mực không
nhượng bộ. - Và nếu khả năng bị hạn chế thì phải cố kéo dài cuộc
sống của bệnh nhân dù chỉ là một ngày.
- Câu trích dẫn ấy đúng.
- Chỉ là một câu trích dẫn thôi ư?
- Tiếc thay thế giới của chúng ta không phải là một thế giới lý
tưởng.
Kôbasi cũng hiểu điều đó nhưng vẫn không sao đồng tình với Naôê
được. Anh cãi tiếp:
- Người thầy thuốc trước hết phải là một con người nhân đạo.
- Chà, nhân đạo! - Naôê mỉm một nụ cười chua chát và ngồi lại
cho thoải mái, chân này ghếch lên kia. - Thế anh có biết rõ nhân
đạo nghĩa là gì không?
- Tôi biết. Có nghĩa là trân trọng tính mạng của con người nói
chung, có nghĩa là thương yêu đồng loại...
- Anh không lẫn lộn nhân đạo với từ bi đấy chứ?
- Không, tôi không lẫn lộn. Bất kỳ ai cũng phải tìm cách duy trì
sự sống một khi nó còn thoi thóp trong con người.
- Duy trì sự sống... Hừm ... - Naôê nhếch mép trong một nụ cười
méo mó. - Như vậy tức là hteo anh, nhân đạo là ở chổ duy trì sự
sống. Còn sống như thế nào thì không quan trọng, miễn là sống.
- Dĩ nhiên có thể có những hoàn cảnh đặc biệt, nhưng về nguyên
tắc tất cả những điều tôi nói đều đúng.
- Ừ... Như vậy là anh chẳng hiểu gì hết. Trong các bệnh viện đại
học của anh, các anh bị cách ly ra khỏi cuộc sống thực.
- Căn cứ vào đâu mà tiên sinh kết luận như vậy? - Kôbasi mới từ
bệnh viện của trường đại học chuyển về bệnh viện Oriental chưa
được bao la6u, cho nên lời lẽ của Naôê làm cho anh thấy bị xúc
phạm trực tiếp.
- Để trở thành một người thấy thuốc và có kiến thức về đạo
đứchọc, và thuộc lòng những nguyên lý của thực tiễn y học. Ngoài
ra còn phải biết cách giúp cho người ta chết.
- Giúp cho người ta chết ư?
- Chính thế. Nhiều khi cần phải giúp cho bệnh nhân chấp thuận
cái chết, làm sao cho bản thân bệnh nhân cũng như những người
thân của họ đừng tự trách cứ chúng ta...
- Ở trường đại học không có một giáo trình nào như vậy. Trong
chương trình không thấy có...
- Nếu trong chương trình có một giáo trình như vậy, chắc chắn
tôi sẽ là một chuyên gia. - Naôê đưa hai bàn tay lên xoa xoa đôi
má hóp.
- Giáo trình đào tạo những kẻ sát nhân?
- Đáng tiếc là gần đúng như vậy! ... Mỗi người thầy thuốc đều có
phần nào là một kẻ sát nhân ; cứ như hiện nay thì trong khá
nhiều trường hợp bổn phận nghề nghiệp của anh ta là làm sao
thuyết phục cho bệnh nhân thấy rõ rằng mình không thể nào thoát
chết được.
- Nhưng sứ mệnh của chúng ta là cứu sống! Và trên thực tế, chúng
ta đang cứu người ra khỏi nanh vuốt của cái chết.
- Cứu à? - Naôê đưa về phía Kôbasi một cái nhìn đối địch. -
Chúng ta không cứu đâu. Chính con người tự cứu lấy mình - người
nào chưa cạn kết sức vật lộn với cái chết. Còn người thầy thuốc
chỉ chìa tay ra giúp họ một chút đúng vào lúc cần thiết. Và chỉ
có thế thôi.
- Dù sao thì hạ thấp vai trò của người thầy thuốc đến như vậy
cũng...
- Đáng tiếc là có những lúc phải như vậy. - Naôê rời ghế đứng
dậy. - Thôi, tôi đi đây.
- Thế còn Uênô thì sao? ... - Kôbasi nói, nhưng Naôê không để
cho anh nói hết câu.
- Anh là bác sĩ điều trị Uênô, cho nên tôi sẽ không nói gì thêm
với anh nữa. Anh thấy thế nào là đáng thì cứ thế mà làm.
- Nếu tôi... làm theo lời khuyên của tiên sinh, thì sau đó tôi
biết nói thế nào với Uênô và vợ ông ấy.
- Sau một hai ngày tình trạng của bệnh nhân sẽ xấu đi. Lúc bấy
giờ anh sẽ nói: chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể làm
được, nhưng đáng tiếc là hoàn toàn vô hiệu.
- Thế còn cái... thứ nước đỏ ấy thì tiếp mấy lần?
- Cũng như từ trước tới nay: một lần sáng, một lần chiều. Theo
tôi hai lần là đủ. Đến khi bệnh nhân bắt đầu thấy mệt nặng thì
thêm lần và tăng liều lượng. Cái chính là làm sao bệnh nhân cũng
như vợ ông ta đều tin chắc rằng mình đang đười điều trị đến mức
tối đa.
- Không tiếp máu nữa thì bệnh nhân sẽ kéo được bao nhiêu lâu?
- Theo tôi thì độ năm sáu hôm.
- Tiên sinh sẽ trở về vào ngày mùng năm?
- Có thể.
- Có thể gọi điện cho tiên sinh ở Sappôrô được không?
- Tôi trọ ở khách sạn G., cứ hỏi ở phòng tiếp tân của khách sạn.
- Xin tiên sinh về sớm sớm.
- Vâng-vâng.
Naôê đi ra cửa, nhưng bỗng dừng lại. Ông quay về phía sau và đưa
mắt nhìn mọi người - Kôbasi, Akikô, Hakanisi với một ánh mắt dịu
dàng, thân ái mà không ai có thể ngờ là ông có được. Sau đó ông
mở mạnh cánh cửa và đi ra hành lang.
Chương 19
Trong phi cảng hành khách
không đông. Hôm nay trong những gian phòng mà thường ngày tiếng
ồn ào không lúc nào ngớt, đều im lặng lạ lùng. Đa số các hành
khách đều đã về nhà hay về các gia đình thân thuộc từ những ngày
cuối năm, và những chuyến máy bay, những chuyến xe lửa trước đây
mấy hôm còn đông nghịt thì bây giờ đều vắng khách. Tuy vậy hoạt
động vận chuyển dĩ nhiên cũng không hề ngưng trệ trong những
ngày đầu tháng giêng này.
Cửa lớn dẫn vào căn phòng đợi rộng mênh mông làm toàn bằng kinh
của phi chảng được trang hoàng bằng những nhánh thông; ở các
quầy điểm tâm đều có bày bánh tráng bột gạo, quít, là những món
Tết thuộc một truyền thống nhiều thế kỷ; sau các quầy là những
cô bán hàng mặc kimônô lộng lẫy, tóc chải theo kiểu cổ.
Bên ngoài mấy bức thường bằng kính, trời nắng nhưng lạnh. Mấy
chiếc xe chở hành khách lần lượt đỗ trước phi cảng.
Nôrikô đứng trong phòng đợi của các tuyến bay nội địa và nhìn ra
ngoài đường qua bức tường bằng kính. Cô mặc áo măng-tô màu xanh
thẫm, tay cầm một cái túi màu trắng.
Giờ cất cánh là 3 giờ 10 buổi chiều; Naôê có hứa là sẽ đến trước
nửa giờ. Đồng hồ trên tường chỉ 2 giờ 40 phút. Chắc anh ấy sẽ
đến ngay. Nhưng có lẽ vi sắp sửa đồ đạc rềnh ràng cho nên đến
chậm. Hồi sáng Nôrikô có gọi điện cho anh: "Có lẽ để em đến giúp
anh xếp va-li nhé", nhưng Naôê trả lời: "Không cần!". Sau một
câu trả lời như vậy mà vẫn đến thì không tiện, nhưng giá được
cùng nhau từ nhà ra đi thì tuyệt biết mấy! Mà lại không phải sốt
ruột ngồi đợi như thế này. Bây
giờ Nôrikô thấy hôi hận là đã không ghé nhà Naôê trước khi ra
sân bay.
Thời gian đưa hành khách và hành lý lên máy bay kết thúc trước
giờ cất cánh hai mươi phút. Nôrikô xem đồng hồ tay, rồi đưa mắt
nhìn lên tường: cả hai cái đồng hồ đều chỉ giờ như nhau: ba giờ
kém mười lăm. Bắt đầu lo lắng thật sự, Nôrikô ra đứng ở cửa. Xa
lộ hôm nay vắng, đi mất một giờ là cùng. Vậy thì tại sao đến bây
giờ anh vẫn chưa đến?
Loa phóng thanh cho biết rằng giờ ghi tên đi chuyến máy bay
Sappôrô cất cánh lúc mười lăm giờ mười phút đã sắp kết thúc.
Nôrikô nhìn lên đồng hồ treo tường một lần nữa: đúng ba giờ.
Vừa lúc ấy trước thềm có một chiếc tắc-xi phanh rít lại, và từ
trên xe một người đàn ông mặc măng-tô màu xám thẫm bước xuống.
Naôê.
"May quá!" - Nôrikô thở phàọ
Naôê trả tiền cho người lái tắc-xi, đóng sập của xe lại và bước
vào phòng đợi. Trống ngực Nôrikô đập thình thịch: lần này hạnh
phúc không tuột khỏi tay cô nữa, ước mơ đang trở thành sự thật.
Naôê vừa đưa mắt nhìn quanh vừa bước nhanh đến quầy ghi tên.
Nôrikô chạy lại cạnh anh.
- Sao anh muộn thế?
- À em đến rồi đấy.
- Em lo quá... Em sợ anh không đến kịp.
- Có người gọi điện thành ra đi muộn.
Trong hành lang ra sân bay ồn ào, náo nhiệt như ngày hội, những
ta áo kimônô lộng lẫy qua lại rất vui mắt.
Nôrikô đi máy bay lần này là lần đầu; cô có cảm giác la ai cũng
nhìn mình, đâm ra luống cuống. Trong khi đó Naôê, cổ áo xốc cao
lên, mắt thản nhiên nhìn về phía trước, bước vội vã trên sàn
hành lang di động.
Máy bay cất cánh chậm mười phút.
Như một đứa trẻ tò mò, Nôrikô nhổm người trên ghế, cố nhìn qua
cửa sổ máy bay. Người đàn ông đứng tuổi ngồi sát cửa sổ né sang
một bên để cho cô dễ nhìn hơn. Thành Tôkyô ở phía dưới trông như
đồ chơi, và chẳng bao lâu đã mất hút. Sau mấy phút chiếc máy bay
nghiêng hẳn sang một bên và đổi hướng đi về phía bắc. Dòng chữ
"Không hút thuốc" đã tắt. Những khu phố của thành phố khổng lồ
đã nhường chổ cho những cánh đồng, những dãy núi. Nôrikô thấy cái
gì cũng thú vị: những con đường trông mảnh như sợi chỉ, những
ngôi nhà nép sát vào nhaụ
Naôê im lặng hút thuốc. Một lát sau, khi nah giụi tắt điếu thuốc
và ngả lưng dựa vào phía sau ghế, Nôrikô nói:
- Sáng nay bác sĩ Kôbasi tìm anh.
- Anh biết.
- Anh có nói chuyện với anh ta chứ?
- Vâng.
Lúc này rõ ràng là Naôê không thích nói chuyện. Anh quay mặt đi
và nhắm mắt lại.
Chiếc máy bay đã lấy đủ độ cao và bắt đầu bay rất êm. Trong gian
hành khách rất yên tĩnh, chỉ có tiếng động cơ dội vào đều đềụ
"Máy bay của chúng ta đang bay qua hồ Inawasirô" - một cô chiêu
đãi viên nói qua loa phóng thanh, và Nôrikô lại nhìn ra cửa sổ.
Giữa một vùng núi, cái hồ sáng lấp lánh như một cái bảng lớn
bằng kim loại. Núi non, thung lũng và hồ nước đều tràn ngập ánh
sáng ngày tết. Mặt trời của năm mới đang chuyển dần về phía tây,
và những tia nắng chênh chếch trược trên kính cửa sổ.
Tiếng động cơ đều đều ru ngủ các hành khách. Naôê hình như đang
thiu thiụ Người đàn ông đứng thuổi gồi sát cửa sổ cũng đã ngủ.
Chỉ riêng Nôrikô chẳng bụng dạ nào mà ngủ cả.
Cô chiêu đãi viên lại thông báo rằng mấy phút nữa sẽ trông thấy
vịnh Matsusima nổi tiếng. Đágn tiếc cho Nôrikô, chỉ có ngồi dãy
ghế bên kia mới trông thấy vịnh. Cô nhìn những sườn núi mỗi lúc
một dốc đứng lên; phía trước hiện rõ dần một dãy núi trắng xóa. Tuyết trên các đỉnh núi lấp loáng dưới ánh nắng.
"Chúng mình đang bay mỗi lúc một xa về phương bắc", - Nôrikô thì
thầm và liếc mắt nhìn trộm Naôê. Hai mắt anh nhắm nghiền; đường
sống mũi thanh tú của anh trắng một cách thiếu tự nhiên - như
lớp tuyết phủ trên các đỉnh núi.
Không hiểu tại sao, Nôrikô chợt thấy lo sợ; cô bỗng có cảm giác
là hai người đang bị đuổi gấp phải chạy về phương bắc, - về vùng
băng tuyết, nơi mà không bao giờ ssẽ có ai tìm ra họ. Lòng cô se
lại vì một nỗi buồn da diết.
Cuối cùng các dãy núi tản ra, và trước mắt thấy dịu hẳn đi trước
màu xanh đậm của vịnh Sangara dưới ánh sáng nhẹ của tà dương.
Bên cạnh màu xanh của vịnh, những chóp núi phủ tuyết trông cành
rực rỡ hơn. Những đường viền sắc nhọn một cách khắc nghiệt của
nó làm cho Nôrikô nhớ tới một bức ảnh đăng trong một tờ tạp chí
nào đấy: một vùng núi làm sào huyệt cho các quỉ thần.
Dòng suy tư của Nôrikô bị cắt đứt vì tiếng loa phóng thanh: "Mấy
phút nữa máy bay của chúng ta sẽ hạ cánh xuống phi cảng Titôsê".
Nghiêng cánh sang bên phải, chiếc máy bay giảm dần độ cao. Phía
trên còn lại một lớp mây. Mặt biển xanh ngắt hiên ra, viền bọt
trắng ven bờ. Những khu rừng thông phủ tuyết vẽ thành một đường
rỡ nét.
Đảo Hôkkaiđô.
Naôê mở mắt ra như thể nãy giờ không hề ngủ.
- Hình như đến rồi anh ạ, - Nôrikô nói.
- Đến rồi, - Naôê xác nhận và nhìn xuống phía dưới.
Những cánh đồng màu trắng rộng mênh mông được những vạch đen
chia ra thành những hình chữ nhật đều đặn; những khu rừng và
những con đường cắt ngang làm thành những hình kỷ hà bọc rắc rối. Trên nền trời màu xanh sáng, mặt trời mùa đông trôi lơ lửng như
một quả cầu da cam.
- Hình như trời khá lạnh, - Nôrikô nhận xét.
- Ừ.
Chiếc máy bay chuẩn bị hạ cánh, mặt đất gần lại rất nhanh. Đã
trông thấy rõ những con đường, những nếp nhà. Và đây là đường
băng của phi trường rắc tuyết; những ngọn cây vút qua gần ngay
một bên. Một khoảnh khắc sau, chiếc máy bay chạm đất, nẩy lên
một chút, chạy dọc đường băng và dừng lại trước nhà ga.
Naôê rời ghế đứng dậy với tay lên giá lấy hai cái áo măng-tô của
anh và của Nôrikô.
- Sắp ra khỏi máy bay phải xốc ngay cổ áo lên, - Naôê vừa nói
vừa trao áo cho Nôrikô.
Khi Nôrikô bước từ thân máy bay ra cầu thang, một ngọn gió lạnh
buốt phả vào mặt cô.
Trên tường nhà ga màu đen đều giữa cánh đồng trắng, có một cái
biển sáng; nhiệt độ không khí là 5 độ dưới không, tốc độ của gió
ba mét một giây.
- Đi cẩn thận, khéo trượt, - Naôê dặn.
Các hành khách chạy về phía ga, cổ rụt lại, người co ro vì gió
lạnh. Naôê bước nhanh về phía trước, Nôrikô cố chạy theo cho
kịp.
Quá năm giờ họ mới về đến khách sạn. Tòa nhà màu nâu dễ chịu và
rất ấm cúng.
- Ông bà cần một phòng hai giường ạ? - Người tiếp tân ân cần hỏi
họ.
Naôê điền vào tờ giấy thuê phòng và đề tên Nôrikô vào đấy.
Căn phòng ở tần thứ sáu. Dưới hai cửa sổ có một con đường đi qua,
và ở bên kia đường là một tòa nhà lớn, dáng dấp nặng nề. Tuy
bóng hoàng hôn đã khá dày đặc, trên các cửa sổ không thấy có ánh
đèn. Những luồng sáng từ đèn pha của các xe hơi qua đường chiếu
vào những đống tuyết hai bên đường.
- Kia có phải là những cây phong không? - Nôrikô đưa ngón tay
chỉ mấy cây cao ở bên trái khách sạn.
- Ừ, phong đấy... Em mệt lắm phải không?
- Chẳng mệt chút nào.
Sau phiên trực, Nôrikô không được ngủ, vì còn phải chuẩn bị cho
chuyến đi. Nhưng cô không cảm thấy mệt, không
biết vì có Naôê bên cạnh hay chỉ vì đang nô nức với chuyến đi.
- Ta đi tắm rồi đi ăn tối.
- Thế anh không về nhà mẹ hôm nay à?
- Để sau.
Nôrikô lấy áo quần và đi vào buồng tắm. Còn Naôê ngồi đọc mấy tờ
báo mới được để sẵn trong phòng trọ.
- Hay anh tắm trước? - Nôrikô đề nghị.
- Ta cùng tắm, - Naôê vừa đáp vừa đặt tờ báo xuống.
Khi họ đi xuống phòng ăn ở tầng bốn thì đã hơn bảy giờ. Ở đây
cũng như ở phòng đợi của khách sạn, rất vắng - mọi người đều ăn
tết ở nhà. Chỉ thấy có mấy tốp người không đông ngồi ở cuối
phòng ăn, vả lại đó đều là những gia đình. Không khí hôm nay yên
tĩnh và trang nghiêm.
Nôrikô lần đầu tiên được nếm thử những món ăn địa phương nấu
bằng cua, tôm, awabi. Cô lại còn nảy ra cái ý muốn uống rượu , và
xin Naôê gọi shisky và sôđa. Cô uống hết hai xuất, và bây giờ
trong đầu cô có tiếng ong ong khe khẽ.
Về đến phòng, Nôrikô kéo kín rèm lại, và quay về phía Naôê, cô
lại hỏi:
- Bây giờ anh về nhà mẹ chứ?
- Lẽ ra... - Naôê đã lên nằm trên giường từ khi về phòng. Bỗng
nhiên anh vùng dậy.
- Tiêm hộ anh.
- Tiêm ạ?
Naôê lấy trong túi du lịch ra một hộp luộc kim và một ống thuốc
rất nhỏ.
- Em tiêm dùm anh - anh nhờ một lần nữa.
- Nhưng đó là...
- Phải, đây là ma túy. - Naôê cở ca-vát và xắn tay áo lên.
- Để làm gì?
- Em biết rồi đấy.
Nôrikô bàng hoàng nhìn Naôê.
- Anh đau lắm... Đau lắm, em hiểu chưa?
Tay cầm cái ống thuốc, Nôrikô lo lắng nhìn Naôê.
- Anh làm sao thế? Anh nói đi!
- Em đừng sợ. Tiêm nhanh lên. Naôê chìa cánh tay ra: có thể sẽ
thấy rõ những vết tiêm thâm thâm.
Mái tóc Nôrikô xòa tung trên chiếc gối, dưới ánh đèn ngủ dìu
dịu, những giọt mồ hôi nhỏ li ti lấp lánh trên trán. Mọi vật đều
lịm đi trong cảnh bất động. Không có lấy một tiếng động, ngoài
tiếng vo vo rất khẽ của máy điều hòa không khí. Naôê và Nôrikô
nằm yên như một đôi chim mỏi cánh; ngay đến tiếng thở của họ
cũng không thể nghe thấy được...
Nôrikô mở mắt. Cô thấy bải hoải khắp người. Naôê đang ngủ rất say.
Khẽ nhấc cánh tay của anh đang đặt trên ngực, Nôrikô xuống
giường và mặc pyjama vào.
Mười một giờ. Chưa khuya lắm, nhưng khách sạn đã chìm trong bóng
tối. Nôrikô ra cửa sổ, vén rèm ra một chút.
Tuyết... Trời hãy còn trong khi họ rời phòng ăn trở về buồng.
Như vậy tức là khi họ đã đi ngủ rồi thì trời mới bắt đầu đổ
tuyết...
Nôrikô đưa ngón tay trỏ chầm chậm trên tấm kính lạnh, và cảm
giác mát rượi trên đầu ngón tay làm cho cô thích thú. Những bông
tuyết từ trên bầu trời đen rơi xuống dần dần hòa tan trong cái
bóng đêm; và chỉ có xung quanh những ngọn đèn trong cái vòng
sáng ấy mới trong thấy những bông tuyết quay cuồng trong một vũ
điệu rắc rối cầu kỳ. Tĩnh mịch. Thỉnh thoảng mới nghe một tiếng
phanh rít, rồi sau đó một sự tĩnh mịch đến phát sợ lại bao trùm
lên mọi vật. Chốc chốc, bóng một người đi đường cô độc lại hiện
ra trong khoảnh khắc rồi mất hút ngay trong màn đêm.
Tối hôm ấy rốt cục Naôê không về nhà mẹ. Nôrikô nghĩ rằng anh
làm như vậy là không phải, nhưng rồi lại quên ngay ý nghĩ ấy đi. Cô đang quá bận tâm vì những ý nghĩ khác.
Thêm một chiếc xe nữa đi qua, hoàn toàn không có tiếng động.
Chắc vì là xe đi trên tuyết. Không một hơi gió. Tuyết rơi chậm
rãi từng bông mềm. Đến sáng sẽ có những đống tuyết dày. Thành phố
đang ngủ yên dưới màn tuyết. Vương quốc của giấc ngủ... Một
vương quốc chết...
Nôrikô thở dài, kéo kím rèm lại và đi vào buồng tắm.
Nôrikô, theo thói quen, dậy rất sớm, lúc tám giờ. Naôê hãy còn
ngủ. Rất khẽ, để đừng lam cho Naôê tỉnh giấc, có trườn ra khỏi
chăn và đi ra cửa sổ. Những ngôi nhà ở trước mặt đỏ rực lên vì
ánh bình minh nhưng mọi vất ở chung quanh đều trắng xóa. Tuyết
phủ trên các cảnh những cây phong mọc trên sân phủ tổng đốc -
tòa nhà mà hôm qua Nôrikô trông như một tảnh đá lớn tối om;
tuyết phủ lên những cây thông đã được những bàn tay ân cần bọc
chiếu lại, tuyết lấp lánh trên các mái nhà, và ngay cả những cột
đèn tín hiệu ở các ngã tư cũng đội những mảng tuyết nho nhỏ. Chỉ
có lớp nhựa đường trên đó xe hơi qua lại là có màu xám thẫm;
hình như lúc bình minh người ta đã rửa sạch đường sá. Mấy người
bộ hành đi đâu sớm bước vội vã, miệng phà ra những đám hơi mờ
mờ.
Naôê dậy lúc mười giờ. Tác dụng của mũi tiêm đã hết, nhưng mặt
anh vẫn xanh nhợt nhạt, mắt thâm quầng.
Họ ăn sáng trong buồng.
- Hôm nay thì thế nào anh cũng phải về thăm mẹ, - Nôrikô nói,
giọng trách móc.
- Được rồi, được rồi, - Naôê gật đầu, mắt không rời tờ báo.
Nôrikô cũng chẳng hiểu được anh có định đi hay không.
Ăn sáng xong, Naôê tắm. Trong khi mặc áo quần, anh nói:
- Anh về thăm nhà, đến tối anh quay lại.
- Có lẽ anh nên ở lại đêm nay thì hơn. - Nôrikô gợi ý một cách
rụt rè.
- Không, tối anh sẽ quay về đây.
- Anh chịu khó cho mẹ vui. Anh từ xa về, mẹ mong anh từ lâu. Còn
em thì anh đừng lo. Hôm nay các nhà hàng đã bắt đầu làm việc, em
chẳng phải ngồi buồn đâu...
- Đến tối anh quay về.
- Anh lạ thật đấy.
Naôê quay về sau năm giờ chiều, như đã hứa. Nôrikô cũng vừa mới
về khách sạn khi đi mua găng tay và giầy ấm.
- Mẹ có khỏe không anh?
- Khỏe.
- Mẹ có giữ anh ngủ lại không?
- Để một lần khác.
- Em ngượng quá... Chỉ vì em...
- Không phải vì em, - Naôê cắt ngang.
Anh cởi áo ngoài, ngồi xuống cạnh Naôê và nói:
- Mai ta đi chơi hồ Sikôtsu nhé?
- Đi đâủ Chơi hồ à?
- Ừ. Cách đây không xa, đi xe mất nửa tiếng. Một cái hồ yên
tĩnh, tuyệt vời, chỉ có vùng bắc mới có những cái hồ như vậy.
- Nhưng chắc nó đóng băng rồi còn gì? Dưới lớp băng sẽ chẳng
trông thấy gì đâu nhỉ?
- Không. Hồ này không đóng băng.
- Thế mình ngủ lại ở đâu?
- Ở đấy phải có một khách sạn tử tế.
- Em rất thích, nhưng...
Nôrikô rất muốn đi, nhưng cái ấn tượng là mình có lỗi đối với
gia đình Naôê dày vò cô.
Ngày hôm ấy cũng vậy, tuyết dường như chỉ đợi đến tối: trời vưa
bắt đầu tối là nó đổ xuống dày đặc, không lúc nào ngớt. Trời khá
ấm cho nên tuyết rơi từng bông rất lớn, như những miếng bông
gòn.
Ra khỏi khách sạn, Naôê và Nôrikô lập tức vướng vào một màn
tuyết trắng.
- Khi tuyết rơi bao giờ cũng ấm hơn, - Naôê nói.
Quả nhiên trời ấm thật, gần như ở Tôkyô.
Các cửa hàng đã mở cửa, và ban ngày người ra vào khá đông, nhưng
đến tối còn đóng cửa sớm hơn ngày thường.
Nhộn nhịp nhất trong thành phố là khu Susukinô, nơi thanh niên
thường đến giải trí. Nhưng vào những ngày này ở đây cũng chỉ có
mấy quan bar mở cửa, chứ phần lớn những nơi giải trí đều đóng
cửa; những cành thông bên cửa ra vào và những dòng chữ chúc tết
sặc sỡ nhắc người ta nhớ đến ngày tết.
Nôrikô và Naôê tìm được một quá ăn nhỏ chuyên dọn các món cá.
Khách ăn rất ít; ba người đầu bếp vẻ mặt chán chường, đang ngồi
xem ti-vi.
Khi Naôê vào Nôrikô ăn xong và ra đường, tuyết rơi càng dày hơn.
- Ta đi bộ đến khách sạn, anh nhỉ?
- Xa lắm.
- Không sao, em muốn đi bộ xa xa một chút! - Nôrikô cãi.
Cô ngửa mặt lên đón lấy những bông tuyết. Trên đôi má ấp áp của
cô, những bông tuyết ấy tan đi, biến thành những giọt nước và
chảy xuống cổ. Tuyết, tuyết, đâu đâu cũng tuyết - trên bầu trời,
trong không khí, trên mặt đất. Tuyết tràn đầy cả thế gian, phủ
kín nó lại: cách bốn bước đã không trông thấy gì, người qua lại
chỉ là những cái bóng mờ mờ.
Họ đã đi quá Minami-ichiđzyô, và bước ra một đại lộ rộng rãi. Hai
bên đường mở ra những cái khung đen của cửa sổ nhà hàng, quán
bar và hiệu ăn. Ánh đèn của những chiếc xe đi qua trượt dài trên
tuyết. Lác đác có một cái cây bên vệ đường hay là một tấm cửa
xếp của một nhà hàng vẽ thành một vệ tối; còn lại là vương quốc
trắng của tuyết.
Nôrikô nép vào người Naôê, đút tay vào túi áo măng-tô của anh.
Họ trôi giạt trên đại dương của tuyết, và màn tuyết đang rơi
xuống tách họ ra khỏi thế gian: khỏi những đường phố, những ngôi
nhà, những dãy núi mà hôm qua họ đã bay qua, khỏi cái sân bay
vắng vẻ...
- Tuyết dày quá... Thế này mà mai mình vẫn đi chơi hồ sao?
- Em đừng sợ. - Naôê siết tay Nôrikô.
- Em không sợ đâụ - Nôrikô hoàn toàn phó thác mình cho Naôê.
Xa xa có một cái gì sáng hẳn lên; tưởng chừng như chỉ có ở đấy
còn giữ được sự sống. Đi được mấy thước, họ bỗng thấy mình đứng
trước thềm khách sạn.
Sau khi rũ hết tuyết, họ bước vào một thế giới khác- thế giới
của hơi ấm và ánh sáng. Trên thang máy, những bông tuyết còn bám
vào họ tan hẳn.
- Em mệt không?
- Không.
- Ta xuống bar nhé?
Nôrikô ưng thuận, tuy cô chẳng muốn đi đâu. Thời tiết này ở lại
với Naôê trong phòng dễ chịu hơn nhiều.
Như đọc được ý nghĩ của cô, Naôê ngả lưng xuống giường.
- Có lẽ ngủ thì hơn.
Nôrikô chợt nhớ ra rằng ban chiều cô định nói cái gì đó với
Naôê, nhưng cảm thấy hai tay anh ôm lấy mình, cô lại quên hết
mọi sự trên đời.
Sáng hôm sau họ ăn sáng ở phòng ăn ở khách sạn, sau đó họ ghé
vào cửa hàng tạp hóa và đến hai giờ thì lên tắc-xi ra khỏi thành
phố.
Tuyết lấp lánh dưới ánh nắng, chói cả mắt.
Xe họ đi qua phi cảng Títôsê và rẽ về phía hồ Sikôtsu. Nôrikô
kinh ngạc: con đường này, thẳng tắp như mũi tên, hai bên chạy
dài những đống tuyết cao, - đêm qua cô đã trông thấy trong giấc
mơ.
Bên phải và bên trái đều là rừng: toàn những cây lớn, những cây
thông, những cây tùng. Giữa cái hoang mạc trắng xóa, màu xanh
của rừng cây thật vui mắt.
Họ dừng lại ở một khách sạn xây trên đỉnh một ngọn đồi không cao
lắm. Đứng bên cửa sổ có thể bao quát được một cảnh đẹp tuyệt vời
- qua đám cành trụi lá của những cây sồi, những cây bạch dương,
những cây phong, có thể trong thấy mặt hồ màu sẫm lặng ngắt
trong khí lạnh mùa đông.
Một cô hầu phòng bước vào, dùng vỏ bạch dương nhóm lò sưởi lên.
Ngọn lửa chập chờn nhảy múa, mấy súc củi lớn đỏ rực phát ra
những tiếng nổ lách tách tươi vui.
- Sắp tối rồi, - Nôrikô thở dài.
- Xuống hồ đi lối nàỏ - Naôê hỏi cô hầu phòng.
- Xuống dốc rồi rẽ sang phải, - cô ta vừa giảng giải vừa ném
thêm vào lò mấy súc củi nữa.
Lối đi xuống hồ là một con đường mòn hẹp. Naôê và Nôrikô đi
xuống đồi và ra bờ hồ.
Nhìn gần, hồ khác hẳn lúc đứng bên cửa sổ khách sạn nhìn ra. Mặt
hồ gợn lên những làn sóng lăn tăn trông như làm bằng chì, mờ mờ
ánh lên.
Hồ này có một nguồn góc hỏa diệm sơn: xưa kia địa chấn đã làm
hình thành một cái cực rất sâu, và nước đã tràn đầy cái vực ấy. Xung quanh chen chúc những ngọn núi cao. Đây đó trên những sườn
dốc đứng, mấy khóm thông vẽ thành những vệt tối sẫm.
- Xa xa kia là ngọn núi lửa Tarumaê, còn kia là ngọn Futsubusi,
- Naôê giảng giải, chốc chốc lại hắt đầu cho những món tóc bị
gió thổi rũ xuống trán khỏi vướng.
Nôrikô nhìn theo hướng Naôê chỉ. Bên trái, ngọn núi lửa Tarumaê
uy nghi vươn cao trên nền trời, đỉnh núi bốc khói, phía đối diện
là hòn núi đá Futsubusi trơ trọi dựng thành một khối đen ngòm.
Những ngọn núi này ở tận xa, bên kia bờ hồ; vầng tà dương đang
khuất dần sau những ngọn núi ấy, nhuộm bầu trời thành màu huyết
dụ.
Hai người đi trên con đường mòn dẫn xuống bến.
Cách đấy khoảng hai mươi thước, cái khách sạn nhỏ đứng lẻ lo một
mình. Hôm nay đã có người đi xuống bờ hồ: trên tuyết còn lại một
chuỗi dài những vết giầy đi xuống đến mép nước thì hết.
- Không thấy bóng dáng một sinh linh nào, - Nôrikô nói thì thầm.
Một ngọn gió giá băng vật vờ thổi trên mặt hồ. Hai con người nhỏ
bé đứng trên bờ nhìn xuống vực thẩm giá lan. Im lìm... Bất
động... Chỉ có gió thổi vào mặt rát bỏng.
- Ở đây ảm đạm quá...- Nôrikô rùng mình. Cô mường tượng như có
một cái gì chuyển động. Không đó chỉ là tiếng ngân của im lặng.
- Hồ rất sâụ Và rất đáng sợ, nhất là khi có bão, - Naôê nói.
- Mà nước bây giờ chắc lạnh như băng...
- Trước kia ở đây đã có mấy lần có người chết đuối, nhưng chưa
bao giờ có ai trông thấy xác họ nổi lên.
- Tại sao? - Thuở trước, khi hình thành vực thẳm, lớp đất đã sụp
xuống đáy cùng với cây cối.
- Như vậy tức là đáy hồ có cả một rừng cây?
- Đúng. Cái xác chìm xuống vướng vào các cành cây nên không thể
nổi lên được nữa.
- Thế thì người ta chưa tìm được người nào cả?
- Chưa.
Với một nỗi kinh hoàng không sao hiểu được, Nôrikô nhìn đăm đăm
xuống mặt hồ gợn sóng lăn tăn. Nước hồ này phủ lên bao nhiêu
người... Ở một nơi nào đó, dưới đáy hồ kia, có những thây ma rữa
nát, ghê sợ...
- Em sợ... - Nôrikô dấu mặt vào ngực Naôê. Cô cảm thấy hồ nước
đang gọi cô, thu hút cô. Kho6ng, đừng nhìn hồ nữa còn hơn! - Ta
đi đi anh...
Naôê gật đầu, nhưng mắt anh vẫn không sao rứt ra khỏi mặt hồ.
Bỗng phía sau có tiếng xao xác. Nôrikô nhìn là và trông thấy một
đàn quạ rất đông bay từ khu rừng về phía núi Futsubusi. Đàn quạ
nhỏ dần, rồi thu lại thành một chấm đen và mất hút trong những
tảng đá mà ánh tà dương đã nhuộm thành màu huyết dụ.
Nôrikô và Naôê đưa mắt nhìn nhau, và không nói nửa lời, cùng
quay về.
Về đến khách sạn họ ngồi xuống ăn bữa tối. Đêm đã xuống hẳn.
Ngoài cửa sổ, sân khách sạn hiên lên mờ mờ , và bên kia sân là
một vùng bóng tối vô biên. Không trông thấy hồ.
Naôê nhìn Nôrikô.
- Em sao thế?
- Không...
- Ta uống tí rượu nhé?
- Má em nóng quá... - Nôrikô áp hai lòng bàn tay lên mặt.
Naôê lặng lẽ uống sakê. Rồi với một vẻ mặt buồn buồn rất lạ anh
nhìn Nôrikô.
- Mai em về chứ? - Anh hỏi.
- Thế thì sao ạ, có cần không?
- Từ ngày mai anh sẽ ở nhà mẹ.
- Phải, đúng đấỵ..
Quả đúng như vậy, chứ chẳng lẽ lại ở mãi đây, trên đảo Hôkkaiđô
này. Naôê đã gọi, và Nôrikô đã đi theo anh, vậy thì kế theo phải
làm đúng như anh nói. Dĩ nhiên anh ấy cần ở lại nhà ít hôm với
mẹ.
- Vậy mai em sẽ về Tôkyô.
- Ngày mai mới mồng ba, đến mồng bảy em mới phải làm việc. Còn
lại ba ngày. Em về sớm mà nghỉ cho thật khỏe...
- Vâng-vâng, dĩ nhiên.
- Tốt nhất mà anh đưa em đến cái nơi vắng vẻ nàỵ..
- Ồ, anh nói gì thế, em thích lắm mà!
- Em không quên chuyến đi này chứ?
- Không bao giờ!
Naôê nhìn vào mắt Nôrikô. Tại sao trong khóe nhìn của anh lại âu
yếm đến như vậy?
- Tiên sinh, thế bao giờ anh về?
- Anh sẽ ở đây mấy ngày nữa.
- Chắc vừa rồi em làm phiền anh... Anh về với mẹ ít hôm đi.
Naôê uống nốt ly sakê và hỏi:
- Em không muốn nói gì với anh trước khi ra về
sao?
- Em ấy à?
- Em.
- Nhưng chỉ ít hôm nữa... - Nôrikô ngạc nhiên "Không thể hiểu
được. Chỉ mấy hôm nữa lại sẽ gặp nhau mà".
- Nếu em muốn nói gì thì nói bây giờ đi.
Quả Nôrikô có một cái gì để nói. Đêm qua cô chưa nói được.
- Em định nói...
- Cái gì?
Nôrikô cụp mắt xuống.
- Em... Em đã có...
- Em đã có thai ư?
Nôrikô im lặng gật đầu.
Naôê mân mê cái chén trong tay một hồi lâu. Rồi anh nốc một hơi
cạn chén rượụ
- Em không đẻ nữa cũng được... - Nôrikô cụp mắt xuống. - "Tại
sao mình lại nói như vậy? Anh ấy đã trả lời gì đâu".
- Em không muốn ư?
- Thì vì... - Nôrikô mở đầu, nhưng rồi nghẹn lại không biết nói
tiếp như thế nào.
- Anh muốn em biết điều này: anh không có ý lấy vợ. Không lấy ai
cả... Nhưng nếu chúng mình sẽ có con thì anh sẽ làm cho em tất
cả những gì anh có thể làm được.
- Vậy thì anh cho phép em sinh nó?
- Anh muốn như thế.
- Thật ư?! - Nôrikô không sao trấn áp được niềm xúc cảm đột
nhiên làm cho cô run bắn lên. Cô nhắm mắt lại. Vừa qua chẳng có
gì xảy ra cả, nhưng không hiểu sao nước mắt cứ trào ra trên má
cô.
- Em đừng khóc... - Naôê đến sát Nôrikô từ phía sau âu yếm ôm
lấy cô. - Sao em lại khóc?
- Vì em mừng quá.
Mấy ngón tay dài và mảnh của Naôê vuốt lên tóc cô.
Nôrikô ngẩng lên, khuôn mặt đầm đìa nước mắt.
- Em xin anh một điều. - Điều gì vậy?
- Xin anh đừng dùng ma túy nữa. Được không anh?
Bà y tá trưởng và ông bác sĩ trưởng đang nghi anh đấy.
- À, ra em muốn nói chuyện ấy... - Một nụ cười thoáng hiện trên
gương mặt Naôê.
- Anh sẽ không dùng nữa nhé? Đừng nhé?
- Anh sẽ không dùng nữa.
Vẫn mỉm cười, Naôê nhìn vào bóng đêm ngoài cửa sổ.
Chương 20
Trong ba ngày tết Yutarô ở nhà, như một ông chủ
gia đình nề nếp. Quả tình ông luôn luôn có khách - khách từ Hội
lương y đến, khách trong Hội đồng thị chính, bạn đồng nghiệp.
Khách nào Yutarô cũng mời rượu, cho nên ông cũng chẳng có thì
giờ đâu mà buồn chán. Nhưng dù sao thì ông cũng hầu như không ra
khỏi nhà - nếu không kể cuộc thăm viếng đền Mêiđziđzingu là một
bổn phận không thể xao nhãng và một vài cuộc thăm viếng tới nhà
một số nhân vật có thế lực trong Hội đồng thị chính và trong Hội
lương y.
Mãi đến ngày mồng bốn tháng giêng môi mới chuồn đi được, sau khi
nói với Ritsukô là ông muốn ghé bệnh viện xem công việc ra sao.
Bệnh viện Oriental đã trở lại làm việc theo thời biểu bình
thường, tuy chưa phải là tất cả mọi người đều đã trở về bệnh
viện: những người phải trực đêm giao thừa đều được nghỉ đến mồng
bảy tháng giêng.
Sau khi đã nắm chắc rằng mọi việc đều chạy và các bệnh nhân về
nhà ăn tết đều đã trở vào bệnh viện, Yutarô chuẩn bị lên xe đi
nơi khác.
- Về nhà ạ? - Nômura hỏi.
Yutarô suy nghĩ một chút rồi nói:
- Ta tạt vào đằng kia một chút.
Cả hai người đều hiểu. "Đằng kia" có nghĩa là khu Êbisu. Chừng
hai mươi phút sau xe đỗ trước nhà Mayumi.
- Cám ơn. - Ra khỏi xe, Yutarô như thường lệ giúi cho Nômura một
tờ một nghìn yên. Món tiền này không phải là ít, tiền đi tắc-xi
còn ít hơn nhiều, nhưng Yutarô trả món này là để mua sự yên
lặng. Ông sợ vợ ông hơn hết mọi thứ trên đời.
- Ghé đón tôi lúc năm giờ nhé, - Yutarô nói, mắt nhìn đồng hồ.
Mayumi đang ngồi nhà. Quán cà-phê cô làm việc mở cửa từ ngày
mùng năm. Nhưng mãi sau ngày mùng bảy các cô phục vụ cũng như
các khách quen mới đến đông đủ, và quán mới trở lại náo nhiệt
như ngày thường.
Mayumi ăn tết với mẹ ở Tachikawa, nhưng đến mùng ba tháng giên
đã trở về nhà. Dĩ nhiên thỉnh thoảng cũng nên về thăm cha mẹ,
nhưng cũng chỉ có thể kiên nhẫn chịu được hai ngày là cùng, đến
ngày thứ ba thì chán đến tận óc.
-Papa! Em mong papa quá.
Yutarô chưa kịp đóng cửa phòng lại thì Mayumi đã hót lên cổ ông.
- Thật không?
- Chứ còn sao! Suốt mười ngày không thấy mặt mũi đâu!
Những lạc thú yêu đương chẳng mấy chốc đã làm cho Yutarô mệt
nhừ.
- Ê, papa, dậy đi, ngủ mãi thế à! - Mayumi gọi giật giọng. -
Chơi với papa chán bỏ xừ...
Yutarô uể oải nhổm dậy, ngồi lên đi-văng.
Trời đẹp tuyệt. Ánh nắng rực rỡ tràn vào ban công.
- Phải, tôi có chuyện muốn hỏi cô đây. - Yutarô lấy điếu thuốc
lá. - Cô có gặp Mikikô đấy à?
- Còn em thì cứ nghĩ bụng không biết papa sẽ nói sao đây. -
Mayumi cười khúc khích.
- Chẳng có gì mà cười cả. Cô gặp nó làm gì vậy?
- Thế Mikikô chưa nói với papa à? - Như thể không có gì xảy ra,
Mayumi lấy ở trên bàn một miếng sô-cô-la bỏ vào mồm nhai. -
Chẳng có gì dính dáng đến papa cả.
- Sao lại "không dính dáng"?! Con gái tôi mà lại gặp cô... Tôi
nghe nói mà suýt té xỉu luôn.
- Sao, bà Ritsukô cũng biết à?
- Không. May phước lúc bấy giờ bà ấy không có nhà, nhưng tôi thì
phát điên lên được!
- Vậy Mikikô kể thế nào? - Mayumi háo hức nhích sát vào Yutarô.
Ông đưa điếu thuốc lá lên miệng, đợi cho người ta quẹt diêm cho
ông châm xong rồi mới nói:
- Ngày ba mươi tháng chạp tôi gọi nó vào phòng làm việc. Tôi bắt
đầu nói chuyện nghiêm chỉnh với nó về chuyện chồng con. Nhưng nó
chỉ làm thinh.
- Mỗi người đều có quyền giữ kín những chuyện thuộc đời tư của
mình.
- Tôi mới mắng nó: "Năm tháng cứ qua đi mà mày không biết lo gì
cả. Mày nghĩ đến cái gì thế?" Thế là nó vặn lại ngay: "Thế ba
nghĩ gì khi ba hẹn hò với cô Mayumi?"
- Chết cười nhỉ!
- Tôi còn bụng dạ đâu mà cười! Tôi nghẹn họng không nói được
nữa. Nhờ cô cả đấy... Bây giờ nói chuyện với con ruột cũng không
nói được nữa.
Không sao nín được, Mayumi cười phá lên, đôi chân để trần khua
lia lịa.
- Không, cô phải trả lời cho tôi đi, cô cần gặp nó để làm gì?
- Chúng em nói với nhau về bác sĩ Naôê.
- Cái gì-ì? - Yutarô giãy nảy lên. - Sao lại có cả Naôê vào đây?
- Nếu papa không biết thì em sẽ nói.
- Nào nói đi!
- Con gái papa mê ông ta tít thò lò.
- Mikikô ấy à?
- Papa chậm hiểu quá. Em đã nói với papa từ lâu mà: ở đây có một
cái gì không ổn.
- Nhưng Naôê hơn nó đến hai mươi tuổi.
- Thì đã sao? Em đây chẳng hạn, em cũng thích những người đàn
ông trạc tuổi Naôê.
- Chắc cô cũng mết ông ta rồi chứ gì?
- Rất có thể... - Mayumi rút điếu thuốc lá trong miệng Yutarô,
rít một hơi và thở khói ra thành một cái vòng tròn.
- Thôi được... Nhưng tại sao cô lại kết luận rằng Mikikô yêu
Naôê?
- Chính cô ta nói với em mà.
- Nó có quen em đâu.
- Thì có sao?
- Nó có đến đây à?
- Không. Chưa. Thế nào, kể tiếp nhé?
- Thôi đừng nhem thèm nữa.
- Thế papa có mua không nào?
- "Mua" cái gì?
- M-m-m... Cái áo lụa.
- Được-được, anh sẽ mua. Nào, có nói hay không thì bảo?!
Yutarô có cái vẻ của một con thú bị săn đuổi. Ông rút một điếu
thuốc lá khác và lại châm hút.
Mayumi nhìn ông một cách ranh mãnh.
- Có một hôm em trông thấy Naôê đi chơi với một cô gái. Hôm ấy
em còn nghĩ bụng: đẹp đôi quá! Hợp nhau đến thế là cùng... Em
đoán được ngay đó là Mikikô. Quả tình nó chẳng gióng papa chút
nào, nó giống mama nhiều hơn, giống như đúc ấy. Ông anh em cũng
có kể cho em nghe một vài điều. Papa ạ, em thế chứ chuyện gì em
cũng biết đấy... Thế là em lập tức gọi điện cho Naôê - chẳng qua
để nghịch cho vui. Em mới hỏi: "Cô gái đi chơi với ông là con
gái của bác sĩ trưởng phải không?" Thế là ông ta liền kể cho em
nghe hết. Theo em thì Mikikô còn đến nhà ông ta nữa kia, -
Mayumi nói thêm, hướng câu chuyện về phía cái mục tiêu mà cô đã
nhắm. - Anh em nói là cá cô y tá kháo nhau như vậy.
- Nhưng mà Naôê... đã có người yêu là Simura rồi kia mà.
- Chẳng có gì lạ. Một người đàn ông như thế thì đến mấy người
yêu liền cũng có.
- Thôi đừng tán láo nữa. Anh chẳng tin lắm những chuyện em nói
đâu.
- Không tin thì thôi. Nhưng bác sĩ Naôê là một tay sở khanh có
tiếng. Nghe nói là giữa ông ta với Đzyunkô Hanađzyô cũng có
chuyện gì đấy.
- Chả phải.
- Đúng đấy. Có papa lãng tai thì có!
Yutarô như thể bị ai giội nước lạnh.
- Bây giờ thì papa đã hiểu tại sao con gái papa trốn buổi xem
mắt rồi chứ? Chẳng qua cô ta nhất định không chịu nghe nói đến
ai khác cả!
- Ờ... Nghe cũng có lý, - cuối cùng Yutarô mới thừa nhận một
cách miễn cưỡng.
- Chứ còn gì nữa! Một khi chính Mikikô đã nói...
- Ừ-ừ-ừ... Không biết đã đến mức nào rồi?
- Em cũng không biết nữa. Theo em thì cho đến nay họ vẫn chưa có
con với nhau.
- Ê! Bỏ ngay cái lối đùa ấy đi! - Đôi mắt ti hí của Yutarô hình
như chỉ chực bật ra ngoài.
- Papa có nhớ là có một hôm Mikikô không về nhà không? Có lẽ hôm
ấy nó ở nhà Naôê đấy.
- Ban đêm ấy à?
- Chứ sao?
- Chính nó nói thế à?
- Không, không nói nhưng chuyện ấy không dấu được em đâu.
Yutarô hoảng hốt thực sự. Mayumi đắc thắng.
- Em cho là chuyện hai người khá nghiêm trọng, - cô kết luận,
giọng hả hê.
- Đồ ngốc!
- Không muốn tin thì thôi.
Giá có thể không tin thì Yutarô sẽ rất mừng, nhưng cái giọng của
Mayumi làm cho ông bối rối.
- Dù sao tôi cũng không hiểu nổi nó nói với cô những chuyện
gì...
Mayumi đun nước pha cà-phê.
- Cũng phải coi chừng chứ cái cô gì... à cô Nôrikô ấy... Cô ta
có thể đánh ghen đấy.
- Nhưng anh có hề nghe gì đâu. Cả Ritsukô cũng chẳng nói gì với
anh, - Yutarô rên rỉ.
- Làm bố mẹ mà chẳng biết con cái sống ra sao.
- Xì, "chẳng biết" với lại "chẳng hay". Dù có hỏi chúng nó cũng
có nói khố.
- Trong nhà papa chẳng ai nói với ai gì mấy nhỉ.
- Lẽ ra nó phải nói thật: "Con yêu Naôê..."
- Cứ thử tưởng tượng lúc bấy giờ papa sẽ trả lời ra sao.
- Sao lại ra sao? Naôê là một bác sĩ giỏi và là một người tốt.
- Ừ, cứ cho là như thế, - Mayumi nhún vai nói. - Cứ cho họ lấy
nhau đi thì đã sao? Simura thì nước non gì. Chỉ cần papa muốn...
- Không, như thế không được.
- Đứa con gái duy nhất phải lòng giai...
- Trước hết anh phải nói chuyện với Mikikô.
- Nhưng đừng có để hở ra là em nói đấy. Chứ không cô ấy sẽ thù
em.
- Em đừng lo. Anh chẳng ngu đến thế.
- Kìa papa... Còn nếu Mikikô không muốn lấy ông ta thì để em lấy
cho.
- Em? Lấy ai?
- Lấy Naôê chứ còn ai.
- Em thật quá quắt! - Yutarô cười hô hố. - Không xong đâu:
ông
ta biết rằng em là bồ của anh.
- Thì đã sao? Ông ta tán em mãi đấy.
- Ồ thôi, đừng bịa!
- Sao, papa không tin hả? Ông ấy thì ai ông cũng tán tuốt.
Yutarô vẫn chưa dứt trận cười.
- Và nhân thể cũng xin nói, - Mayumi tiếp, - đối với vợ ai đó
ông ta cũng có ý đồ.
- Vợ ai?
- Vợ papa chứ còn ai! Ritsukô phu nhân ấy.
- Thôi đủ rồi!
Đến nước này thì Yutarô không sao chịu nổi nữa. Mặt ông đỏ gay
lên như con cua luộc, và mắt ông quắc lên nhìn Mayumi trừng
trừng. Mayumi vẫn điềm nhiên nói nốt:
- Kìa việc gì papa phải giận dữ thế? Naôê thì muốn bao nhiêu đàn
bà mà chẳng có... Xét cho cùng nếu vợ papa có hạ cố để ông ta
lọt vào mắt xanh thì cũng chẳng có gì đáng trách.
Mayumi bỏ vào chén một miếng đường và thong thả khuấy.
Phải, Yutarô có lý do để tực giận: ông nhớ ra rằng thời gian gần
đây chỉ cần có ai nhắc đến Naôê một cái là mắt Ritsukô sáng lên
và bà cứ sôi nổi lên đến mức không còn nhận ra được nữa.
- Ông ta kỳ lạ thế nào ấy. - Uống hết cà-phê Mayumi châm thuốc
hút, - Ông ta nghiên cứu cái cột sống của mình...
- Để làm gì?
- Sao, cả chuyện ấp papa cũng không biết à? Ông ta cho chụp
X-quang mỗi tháng mấy lần.
- Sao em biết được chuyện đó?
- Anh em nói.
"Nếu là Sawađa nói thì chắc là đúng..." - Yutarô nghĩ thầm rồi
nói:
- Lần đầu anh nghe thấy đấy.
- Lại còn chuyện này nữa.
- Lại còn chuyện gì?
- Ông ta rủ đàn bà về nhà... tiêm ma túy.
- Hừm... - Yutarô nhớ lại rằng cách đây nửa tháng bà y tá trưởng
có gặp ông than phiền rằng bác sĩ Naôê sử dụng quá nhiều ma túy.
- Chính em trông thấy à?
- Không... Nhưng gần đây em có đến gặp ông để khám bệnh, trông
ông ấy sợ lắm: mắt đục ngầu, trống hoắc. - Mayumi đã tránh được
một đề tài nguy hiểm.
- Vào lúc nào thế? Ban ngày à?
- Dĩ nhiên. Em đến bệnh viện là đến ban ngày, chứ còn đến vào
lúc nào được?
"Kho6ng thấy Sêkiguchi nói chuyện này. Nhưng nếu Mayumi nói đúng
và Naôê nghiện ma túy thật thì sao? - Yutarô đâm hoảng. - Nếu
quả như vậy thì phải có cách: đây là việc hình sự rồi..."
- Không biết tại sao ông ta lại đổi trường đại học lấy một bệnh
viện tư vớ vẩn nào đấy?
- "Bệnh viện tư vớ vẩn" là thế nào?
- Chứ sao? Lẽ ra ông ấy có thể chọn một chỗ nào đàng hoàng hơn.
Thật ra chính Yutarô cũng thấy việc ấy là kỳ lạ. Thế mà bây giờ
lại thêm những tin tức như thế kia...
- Giá ở địa vị papa em sẽ theo dõi ông ta kỹ hơn, - Mayumi
khuyên.
- Ở trường đại học người ta đánh giá phẩm cách của Naôê rất cao.
- Thế thì tại sao ông ta lại bỏ trường đại học mà đi?
- Anh nhận ông ta theo lời giới thiệu của bác sĩ Iidzilo - một
người bạn của anh trong ban quản trị Hội lương y.
- Vậy papa thử hỏi ông bạn ấy xem sao.
- Ông ta bỏ trường đại học ra đi thì việc gì tôi lại phải biết
rõ lý do! Miễn là ở bệnh viện của tôi ông ta làm việc tốt. Ông
ta là một bác sĩ thượng thặng.
Yutarô nói rất quả quyết, mặc dầu mối ngờ vực đã len lõi vào
lòng ông: "Quả là cần phải theo dõi Naôê sát hơn".
Chương 21
Mùng bảy tháng giêng ngày thứ hai. Sau một tuần nghỉ Tết, Nôrikô
lại đến bệnh viện làm việc.
Những ngày hội hè đã kết thúc. Hôm nay mọi người đều tề tựu ở
bệnh viện. Ông bác sĩ trưởng mời các nhân viên vào phòng làm
việc và đọc một bài diễn văn. Ông chúc mừng năm mới rồi kêu gọi
mọi người làm việc chăm chỉ hơn nữa. Để kết luân, ông tỏ ý mong
muốn rằng mọi người sẽ có thái đô "quan tâm thường xuyên" đối
với nhau.
Nôrikô nghe ông ta nói một cách lơ đãng. Chỉ có lúc ông ta nói
đến sự quan tâm cô mới bất giác giật mình: có phải ông ta nghĩ
đến Naôê không?
Từ ngày thứ hai bắt đầu những công việc bình thường, nhưng Naôê
vẫn chưa thấy đến.
Sau một thời gian gián đoạn dài, công việc rất nhiều; từ ságn
sớm trong phòng tiếp bệnh nhân ngoại trú đã đông nghịt.
Bà Sêkiguichi ghé mắt vào phòng các nữ y tá.
- Có ai biết bác sĩ Naôê hiện nay ở đâu không?
Bà ta hỏi mọi người, nhưng Nôrikô có cảm giác là bà ta hỏi chính
mình.
- Bao nhiêu là bệnh nhân đang chờ, mà bác sĩ Kôbasi thì không
thể ra khỏi các phòng nằm lấy một giây... Tôi cũng chẳng biết
làm thế nào bây giờ, - bà Sêkiguchi càu nhàu.
Quả nhiên bác sĩ Kôbasi luôn luôn phải túc trực bên cạnh ông già
Kôkichi Uênô. Anh mới ghé vào phòng họp một chút thì đã có một
cô y tá chạy đến gọi anh về phòng bệnh nhân.
Kể từ mồng ba tháng giêng, Kôbasi, theo đúng lời khuyên của
Naôê, đã chấm dứt việc truyền máu. Ngay tối hôm ấy Uênô bắt đầu
sốt; trong hai ngày kế theo nhiệt độ tăng vọt lên, và đến ngày
mùng sáu thì ngay từ sáng đã lên quá ba mươi tám độ. Da bệnh
nhân lại vàng ra.
Đến chiều bệnh nhân bắt đầu sốt thực sự. Mặt ông đỏ bừng và ông
thở một cách khó nhọc. Cái chết có thể đến bất cứ phút nào, như
Naôê đã nói trước, trong ngày thứ năm sau khi thôi truyền máu.
"Có lẽ phải gọi điện đến nhà Naôê chăng?" - Nôrikô nghĩ. Cô có
cảm giác là mọi người đều chờ đợi cô làm như vậy.
Naôê có nói rằng anh sẽ ở lại Sappôrô chừng hai ngày là cùng.
Đến mồng bảy hay mồng tám anh sẽ trở lại đi làm. Hay là anh đã
quyết định ở với mẹ thêm số ngày mà Nôrikô đã lấy mất của anh...
bây giờ Nôrikô cứ tự trách mình là ích kỷ.
Bà Sêkiguchi lại dòm vào phòng y tá.
- Hình như bác sĩ Naôê về Hôkkaiđô nghĩ Tết có phải không? - Bây
giờ bà ta hỏi thẳng Nôrikô.
- Vâng, tôi cũng có nghe như vậy...
- Tôi đã gọi điện đến nhà ông. Bà gác cổng nói rằng ông ấy chưa
về.
- Có lẽ ông ấy có việc gì giữ lại ở Sappôrô?
- Nhưng ông ấy thừa biết là phải có mặt hôm nay!
Bản thân Nôrikô cũng đã mấy lần gọi điện cho Naôê, nhưng không
có kết qua? Thành thử những lời bà y tá trưởng nói không hề làm
cho cô ngạc nhiên chút nào, nhưng không hiểu tại sao nghe bà
nói, cô vẫn thấy lo sợ.
- Có lẽ ông ấy định đi chuyến máy bay buổi sáng chắng? Rồi từ
phi trường về thẳng đây? - Bà Sêkiguchi phỏng đoán.
- Phải, phải dĩ nhiên là như thế, - Nôrikô lúng búng. - Dù sao,
nếu định về chậm ông ấy cũng phải báo trước.
- Mong sao ông ấy về cho sớm...
Từ phòng ngoại trú cứ năm phút lại có điện gọi lên hỏi xem Naôê
đã đến chưa. Kôbasi không thể tiếp bệnh nhân được, vì buổi đi
thăm bệnh nhân chưa kết thúc, mà cũng không thể rời cụ Uênô lâu
được.
Ngoài của có tiếng gót giầy lóc cóc, và Kawai chạy vào phòng.
- Bệnh nhân Uênô ra sao rồi? - Sêkiguchi hỏi.
- Lại sốt, - Kawai vừ trả lời vừa chạy vào, hối hả lấy cái gối
oxy rồi chạy ra ngay.
- Lạ thật. Rất lạ... - Sêkiguchi băn khoăn nhắc đi nhắc lại và
xem đồng hồ không biết đến lần thứ mấy.
Cảm nhận được ý trách móc, Nôrikô cúi đầu rửa mấy cái ống tiêm.
Mãi đến mười một giờ Kôbasi mới xuống phòng khám ngoại trú. Một
số bệnh nhân đợi mãi không thấy bác sĩ đến đã ra về, nhưng vẫn
còn khoảng ba mươi người kiên nhẫn ngồi lại ở phòng khám.
Kôbasi im lặng làm việc. Anh thấy giận Naôê kinh khủng, nhưng
không nói ra, vì cho rằng làm như vậy là quá thấp hèn đối với
phẩm giá của anh: nỗi công phẫn của anh chỉ được thể hiện bằng
sự im lặng.
Nôrikô trực bên giường Uênô. Chỉ có một lần cô vắng mặt một phút
để gọi điện cho Naôê, nhưng chỉ nghe những tiếng tuýt tuýt kéo
dài.
"Chẳng lẽ lại tiêm ma túy rồi ngủ say quá không nghe chuông điện
thoại hay sao?" Nỗi lo sợ lại tràn vào lòng cô. Nhưng anh ấy đã
hứa là không dùng nữa. Cái đêm bên hồ bây giờ như một giấc mơ
thần kỳ, và Naôê không thể nào tin được rằng tất cả những cảnh
ấy đã diễn ra thật...
Hình như bác sĩ trưởng cũng đã được báo rằng Naôê không đến làm
việc; ông bước vào phòng y tá, gắt: "Chả còn biết làm ăn thế nào
với cái ông này!" - và ghé tai bà y tá trưởng nói thì thầm cái
gì không rõ. Bà này ngơ ngác nhìn ông rồi đến tủ đựng phiếu bắt
đàu giở xem tất cả các bệnh án bắt đầu từ chữ A.
Kôkichi Uênô mỗi lúc một nặng. Buổi sáng ông già lên cơn run,
rồi sau đó lại đỡ, nhưng đến chiều ông lại bắt đầu run dữ dội
hơn. Ông ta hãy còn tỉnh. Khi gọi tên ông, ông hơi mở mắt, nhưng
hình như không nhận mặt được ai.
Kôbasi rất khổ sở vì bị lương tâm cắn rứt: ngay trước mặt anh,
một con người đang hấp hối, và anh phải chịu trách nhiệm về cái
chết này. Kôbasi đặt bình tiếp nước, tiêm thuốc an thần, nói tóm
lại, anh làm tất cả những gì có thể làm được, nhưng lòng anh vẫn
nặng trĩu. Từ sáng sớm anh đã chạy khi thì vào phòng bệnh nhân,
khi thì vào phòng các nữ y tá.
Đến ba giờ chiều Nôrikô lại xuống phòng khám ngoại trú quay số
điện thọai. Một tiếng tuýt dài. Lại một tiếng nữa. "Bây giờ anh
ấy sẽ cầm ống máy lên đây". Nhưng không, vẫn những tiếng tuýt,
chỉ có những tiếng tuýt mà thôi. Hình như anh ấy vẫn chưa về...
Nôrikô đang bước chậm chậm trên cầu thang thì bỗng thấy buồn
nôn. Cô áp hai bàn tay lên ngực, thở vào mấy lần thật sau, nhưng
dạ dày vẫn co thắt một cách đau đớn. Cô lấy bàn tay bịt chặt
miệng rồi chạy vào toa-lét. Nôrikô no6n hầu như trên ngưỡng của
toa-lét: có cảm giác như cơ thể bị lộn trái ra. Nôrikô đợi cho
đến khi hết những cơn co thắt; ngực cô như bị ép giữ một đôi
gọng kìm.
Cuối cùng cô bắt đầu thấy đỡ. Rửa mặt xong, Nôrikô từ từ ngước
mắt lên tấm gương. Ở hai khóe mắt cô những giọt lệ đọng lại.
Nôrikô ngẫm nghĩ. Xưa nay cô chưa bao giờ đau dạ dày, những thức
ăn hôm nay đều tươi, cơn buồn nôn ập đến cũng một cách đột ngột
như khi nó mất đi, - những hiện tượng như vậy ở cô chưa bao giờ
thấy có.
"Mình ốm nghén rồi", - Nôrikô kết luận. Cô thấy người bải hoải.
Nhìn thấy gương mặt phờ phạc của mình trong gương, cô nhớ đến
Naôê.
Trong phòng y tá Kôbasi đang nói chuyện với bà y tá trưởng.
- Ông ấy sẽ chết tối nay hoặc đêm nay.
- Ai sẽ trực đêm nay? - Bà y tá trưởng đến cạnh bản trực treo
trên tường. - À, Simura và Kawai.
- Em lúc nào cũng xui! - Kawai phụng phịu.
- Thế sao, Naôê tiên sinh vẫn chưa đến ạ? - Kôbasi ngạc nhiên.
- Cách đây một giờ tôi có gọi điện. Không có nhà.
- Tiên sinh trọ tại khách sạn nào ở Sappôrô? Hình như ở khách
sạn G.? - Giá có thể nói chuyện điện thọai một chút nếu tiên
sinh còn ở đấy...
- Bác sĩ cần nói chuyện với tiên sinh?
- Rất cần. Tôi muốn hỏi ý kiến tiên sinh về ông Uênô. Có lẽ nên
cho ông ta uống prednin chăng?
- Ta thử gọi điện nữa đi. - Sêkiguchi đề nghị...
Tim Nôrikô nhó lên: "Khách sạn G."... Năm ngày trước đây cô còn
ở đấy với Naôê. Còn đứng bên cửa sổ nhìn ra thành phố phủ tuyết.
Naôê ôm lấy cô... Mới năm ngày mà tưởng chừng như đã lâu lắm
rồi.
Sappôrô trả lời ngay. Đó cũng là chuyện bình thường, nhưng không
hiểu sao Nôrikô hết sức kinh ngạc.
- Allô, allô... - Bà y tá trưởng hét vào máy - Sappôrô phải
không? Khách sạn G. phải không?
Tay vẫn không ngừng quấn tăm bông, Nôrikô cố hết sức lắng tai
nghe.
- Na-ô-ê... vâng-vâng... đúng rồi .. ông Naôê Kyôsukê ở Tôkyô...
Bà y tá trưởng nhìn ra Kôbasi lúc bấy giờ đang đứng ở cửa.
"Nếu anh ấy còn ở khách sạn, lát nữa mình cũng sẽ kín đám gọi
điện cho anh", Nôrikô nghĩ thầm.
- Thế ạ? Rõ... - Bà y tá trưởng nói trong ống máy.
Nôrikô nín thở.
- Vâng-vâng, tôi hiểu rồi, cám ơn nhiều lắm.
Đặt ống máy xuống, Sêkiguichi quay về phía Kôbasi:
- Cách đây ba ngày ông ấy đã rời khách sạn.
- Đi đâu?
- Ông ấy nói rằng gia đình ông có nhà ở thành phố. Có lẽ ông đã
về ở với gia đình.
- Không biết được số điện thọai của gia đình ông ấy à?
- M-m-m... không rõ tên người chủ nhà. Tôi sẽ thử hỏi, nhưng...
- Có thể là ông ấy cũng không còn ở nhà gia đình nữa.
- Vâng-vâng, ông ấy sẽ bay giờ đây ngày mai...
- Thôi được, không cần. Tôi sẽ tự lo liệu.
- May ra ngày mai ông ấy sẽ đến làm việc, - bà y tá trưởng nói.
- Mai thì chậm mất rồi... - giẫu môi ra phía trước, Kôbasi đứng
lại một lát rồi ra khỏi phòng.
Đến năm giờ chiều Uênô bất tỉnh. Có thể thấy rõ rằng ông ta sắp
chết đến nơi, và Kôbasi quyết định đổi phiên cho bác sĩ nội khoa
Kawahara để ở lại trực đêm.
Chất Glucôza nhuộm đỏ được truyền vào người Uênô một cách chu
đáo, nhưng không dem lại một sự thuyên giảm nào.
Từ hôm qua Kôbasi đã bảo bà vợ Uênô mời những người thân thuộc
đến, nhưng bà cụ vẫn ngồi một mình bên giường chồng.
Đến năm giờ kém năm, ông Uênô thở hắt ra lần cuối cùng và nhắm
mắt lại. Ông đã vật vã trong cơn mê sảng suốt ba ngày, nhưng lại
tắt nghỉ một cách nhẹ nhàng êm ả.
Ba cụ Chiyô không khóc bên xác chồng - hình như buổi nói chuyện
với Naôê đã chuẩn bị tinh thần cho bà. Bà chỉ đi đi lại lại, hai
tay long ngóng không biết để đâu.
Người ta rửa ráy thi hài, thông báo cho chính quyền biết. Ban
đầu người ta định chở xác ông cụ về nhà, nhưng rồi lại quyết
định rằng sáng mai bà Chiyô cùng với người công chức ở ban cứu
trợ xã hội sẽ đưa thẳng thi hài người quá cố vào lò thiêu.
Kôbasi và các nữ y ta đều quên khuấy cả bữa ăn. Mãi đến khuya,
khi mọi việc đều đã xong xuôi họ mới nhắc nhau đi ăn bữa tối.
Bữa ăn có canh đậu phụ, cá rán, dưa chuột dầm giấm. Nôrikô không
thấy muốn ăn chút nào, cô chỉ lấy mấy quả dưa chuột và mua thêm
mấy quả quít ở cửa hiệu bên cạnh. Cô tự an ủi rằng Kawai hãy còn
trẻ con nên sẽ không hiểu cái chứng bệnh của mình. Sau bữa ăn
tối, Kôbasi đến chỗ các nữ y tá và ngồi lên đi-văng.
- Đấy, thế là hết, - anh buồn bã thở dài.
Trông anh hốc hác hẳn đi, những nỗi khó nhọc của ngày vừa qua đã
để lại những dấu vết rõ rệt.
Thở phào như được trút bỏ gánh nặng sau cái chết của một bệnh
nhân là điều phản tự nhiên. Nhưng đối với các bác sĩ và y tá thì
đây chỉ là sinh hoạt hàng ngày, là sự vụ, cho nên bây giờ họ tận
hưởng sự yên tĩnh vừa đạt được.
- Tôi cứ sợ bà cụ đoán ra được sự dối trá... - Kôbasi nói.
- Khổ thật đấy tiên sinh ạ, hai cái chết liền nhau... Hết cụ
Isikura lại đến cụ Uênô.
- Lạy trời, như vậy cũng đủ lắm rồi.
- Tiên sinh, có mặt ở đâu là có tử vong ở đấy. Từ rày em không
trực với tiên sinh nữa đâu. - Kawai nói.
- Chính cô mang nó kè kè bên lưng thì có, - Kôbasi đùa, giọng
không vui.
Đột nhiên Nôrikô có cảm giác là ngoài cửa có ai đang đứng.
- Ai đấy? - Cô mở cửa ra và trông thấy bà cụ Chiyô.
- Xin phép vào một chút có được không?
- Bà cần gặp bác sĩ ạ?
Bà cụ khẽ gật đầu.
- Bà tìm tôi ạ? - Kôbasi đứng dậy đi ra cửa.
Bà cụ cúi chào, đưa ra một cái gói và một cái hộp.
- Gì thế ạ?
- Vì chúng tôi mà tiên sinh phải chịu bao nhiêu khó nhọc...
- Bà cụ làm gì lạ thế?! - Kôbasi gạt bàn tay cầm tặng phẩm. -
Giá chúng tôi có thể cứu được ông nhà...
- Sao lại không cứu? Các vị truyền cho bao nhiêu là máu! Các vị
đã hết sức hết lòng...
- Không nên.
- Ông nhà tôi biết ơn các vị quá! Mà vợ chồng tôi lại chẳng có
tiền trả... Đội ơn các vị. - Bà cụ cúi mình trước Kôbasi, rồi
trước Nôrikô và đặt cái gói với cái hộp lên bàn.
- Kìa bà cụ, đừng làm thế! Bà cụ phải hiểu cho, làm như thế
không được! Chẳng có gì mà phải thế... - Kôbasi nói hối hả, chỉ
thiếu chút nữa anh đã khóc òa lên.
Để tặng phẩm lại, bà cụ Chiyô lúp xúp bước ra cửa, nhưng đến
ngưỡng của bà đứng lại lần nữa:
- Cám ơn các vị.
Trông theo cái bóng dáng bé nhỏ khô cằn của bà cụ cho đến khi
khuất hẳn, Kôbasi và Nôrikô cùng nhìn lên bàn.
- Bà cụ đã cố chạy đi mua mấy thứ này về... - Nôrikô thở dài.
Trong gói có mấy quả hồng và mấy quả quít, trong hộp có một chai
whisky. Chắc hoa quả là để tặng các cô y tá, con chai rượu là để
tặng Kôbasi.
- Rốt cuộc đâm ra dở quá, - Kôbasi nhìn chai rượu nói, mặt sa
sầm xuống. - Chúng ta nào có cứu giúp gì được ông già cho cam.
- Món này đối với bà cụ không phải là nhỏ, - Nôrikô nhận xét.
- Nhận quà biếu của bà cụ thật là xấu hổ.
- Bà cụ thiết tha quá, chỉ cố sao làm cho chúng ta vui lòng.
Không, không thể khước từ được. - Nôrikô nghĩ rằng nếu có Naôê ở
đây, hẳn anh sẽ không từ chối.
Kôbasi châm điếu thuốc lá rồi lẩm bẩm một mình:
- Có lẽ mình làm theo lời Naôê thế mà đúng.
Lúc bấy giờ đã gần chín giờ. Nôrikô chuẩn bị đi tắt đèn ở các
phòng. Ngoài cửa sổ bầu trời tối sẫm chi chít những vì sao. Trời
đang lại trở lạnh.
Một hồi chuông điện thoại xé tan sự im lặng trong phòng. Nôrikô
lúc bấy giờ đứng gần máy nhất. Cô cầm máy lên.
- Allô, Tôkyô phải không? Bệnh viện Oriental phải không? - Bên
kia đường dây có tiếng một người đàn bà đứng tuổi.
- Vâng.
- Tôi gọi điện từ Sappôrô. Họ tôi là Naôê...
- Sao?
- Tôi là chị của Kyôsukê Naôê.
- Tôi nghe bà đây... - Tim Nôrikô chỉ chực vỡ tung. - Có việc gì
xảy ra thế ạ?
- Hôm qua... Kyôsukê đã từ trần...
- Sao?! - Nôrikô lạnh toát cả người.
- Kyôsukê chết rồi.
- Chết rồi...
Kôbasi và Kawai kinh hãi đứng phắt dậy.
- Ai?...
- Kyôsukê đã tự sát.
Nôrikô nghe mà không sao thốt ra được nửa lời.
- Em tôi đã trầm mình ở hồ Sikôtsu...
Nôrikô đánh rơi ống máy điện thọai và áp hai lòng bàn tay lên
mặt. Rồi cô từ từ, như trong một đọan phim quay chậm, rơi phịch
xuống sàn. Ống máy điện thoại tuột ra khỏi bàn tay và đung đưa
từ bên này sang bên kia.
Chương Kết
Khi Nôrikô tỉnh lại, cô thấy mình nằm trên đi-văng, mình đắp một
tấm chăn.
- Hình như chị ấy tỉnh rồi!
Ngay sát một bên hiện ra gương mặt một người nào không rõ. Rồi
những nét mặt của người ấy rõ dần ra.
- Sêkiguchi-san... - Nôrikô thì thào.
- May quá, tỉnh rồi. - Bà y tá trưởng vuốt tóc Nôrikô.
Có một cái gì đó xảy ra trước khi cô ngất đi... Nôrikô cố nhớ
cho ra.
- Naôê tiên sinh?...
Bà y tá trưởng gật đầu. Bên cạnh thấy có Kawai và Akikô, lại có
cả Kaôru - chắc hẳn mới từ bên cư xá chạy sang. Mọi người đều
nhìn cô.
- Vâng... Dĩ nhiên... Tôi cũng sẽ đi... - Có tiếng ai nói điện
thoại. - Vâng, xin mời.
Nôrikô nhận ra giọng nói của Kôbasi.
Cô từ từ nhỏm dậy.
- Chị cứ nằm đi thì hơn.
Nôrikô lắc đầu: không, cô sẽ dậy.
Trong phòng không có gì thay đổi. Trên bàn vẫn có mấy quả hồng,
mấy quả quít, chay whisky, bên tường vẫn có cái tủ thuốc, bên
cạnh có treo một cái stêtô. Phía dưới là cái nồi khử trùng mở
nắp.
- Có chóng mặt không?
- Tiên sinh chết rồi ư? - Nôrikô nhìn trừng trừng vào mặt bà y
tá trưởng. Bà im lặng cụp mắt xuống.
- Tại sao?...
- Cô phải đi đến khu Ikêđziri, đến nhà tiên sinh.
- Để làm gì ạ?
- Bà chị tiên sinh dặn như vậy.
- Tôi à?! - Nôrikô nhất đầu lên và lại nhìn Sêkiguchi.
- Bà ấy yêu cầu cô lấy chìa khóa ở viên quản lý vào nhà và mở
cửa phòng Naôê tiên sinh.
- Để làm gì ạ?
- Ở đấy có một bức thư gửi cô.
- Thư ạ?...
- Tiên sinh có để lại cho cô một bức thư tuyệt mệnh. Bà chị của
tiên sinh yêu cầu làm sao để cho cô vào phòng trước tiên và xem
xét nhà cửa của tiên sinh.
Nôrikô trầm ngâm nhìn bà y tá trưởng, không sao hiểu được bà
đang nói gì.
- Allô, có phải khoa phẫu thuật trường đại học T. không? Chúng
tôi ở bệnh viện Oriental xin mạo muội làm phiền các vị. Ở
Sappôrô vừa gọi điện cho chúng tôi. Bác sĩ Naôê đã từ trần. Tiên
sinh đã tự vẫn... - Giọng Kôbasi quá linh hoạt và yêu đời. -
Vâng... Vâng.. Ở hồ Sikôtsu, cách Sappôrô không xa. Vâng... Tự
sát...
- A-a... - Nôrikô rên lên một tiếng và lại nhắm mắt.
Thân hình của Naôê từ từ chìm xuống cái vực sâu lạnh lẽo màu
chì... Một cách lặng lẽ, không một tiếng động. Hai cánh tay anh
quờ quạng trong làn nước trong, tìm một nơi bám víu... Đầu anh
ngả ra phía sau... Mỗi lúc một xa, mỗi lúc một sâu hơn... Từ đáy
hồ những cành cây vươn lên đón anh... Chúng đan vào nhau thành
vòm trên thân thể anh: Naôê nay đã là tù nhân của nước và cây
cối.
Nôrikô có cảm giác là mình đã thấy cảnh này từ lâu. Nhưng cô
không sao nhớ được là lúc nào. Trong giấc mơ chăng? Và bây giờ
cơn ác mộng đã biến thành sự thật...
- Vâng... Hôm nay mọi việc đã được xác nhận... Vâng-vâng. Được
ạ. Cám ơn.
Tuyết rơi, rơi mãi... Hồ nước đã nuốt chửng Naôê, những làn nước
đã khép lại trên mình anh, những vòng sóng rộng dàn ra và lần
lượt chạy vào bờ, rồi mặt hồ màu xám chì lại phẳng lặng như
trước... Một cõi tĩnh mịch có thể làm cho người ta phát điên.
- Nôrikô-san! Chị đã đỡ chưa?
- Đỡ ư? Chưa. Nhưng nằm thế này khổ quá.
- Chúng tôi đã gọi điện cho ông quản lý. Hai vợ chồng bác sĩ
trưởng sắp đến đây, và chúng ta sẽ cùng đến khu Ikêđziri.
Nôrikô gật đầu và đưa hai tay lên thái dương. Nhanh lên... Đến
nhà anh ấy. Cánh cửa sẽ mở ra, và anh sẽ đứng đấy. Tất cả những
chuyện kia chỉ là một cơn ác mộng, nó sẽ qua đi, chỉ cần mở mắt
ra là hết. Không nên xúc động quá như vậy.
Đó trước sau chỉ là một giấc mơ...
Lúc mười giờ họ đến nhà Naôê. Viên quản lý, mình mặc áo dài ngủ,
ra đón họ.
- Naôê tiên sinh đã từ trần ư? - Ông ta hỏi, toàn thân run bắn
lên như bị lạnh. Giương to đôi mắt sợ hãi, ông ta trao chìa khó
cho Nôrikô.
Tầng thứ năm. Từ thang máy quay sang phải. Cửa thứ ba từ cuối
hành lang, bên tay trái.
Cái biển nhỏ màu trắng: "Naôê".
Không nhận thức được mình đang làm gì, Nôrikô đứng lại trước
cửa, đưa tay lên bấm chuông.
Người ở trong nhà này không còn ở trên thế gian nữa. Căn nhà
trống không. Nôrikô biết như vậy, nhưng vẫn bấm chuông. Anh ấy
sẽ nghe. Sẽ ra mở cửa, mình mặc kimônô nhẹ, hai tay đặt trên
thắt lưng. Anh ấy sẽ ngạc nhiên: "Em?" và Nôrikô sẽ chạy vào nhà
nhẹ nhàng như con sóc, đóng nhanh cánh cửa và khóa lại từ bên
trong.
Sao anh ấy chậm thế? Có lẽ đang ngủ chăng? Hay là dạy rồi nhưng
không đủ sức xuống giường ra mở cửa? Hay đang đứng nhìn ra ngoài
qua mắt cửa?
- Không có ai ở trong ấy đâu... - Bà y tá trưởng nói, giọng dịu
dàng.
Nôrikô sực tỉnh, đưa chìa khóa cho bà.
Cô đã khát khao được cầm cái chìa khóa này biết chừng nào! Kể
cho đến tối hôm nay cô vẫn ước mơ điều đó. Giá được như vậy, cô
có thể đến đây gặp Naôê bất cứ lúc nào cô muốn. Nếu anh không có
nhà, cô sẽ dọn dẹp, nấu ăn và đợi anh về. Đến khi anh về, cô có
thể nấp vào một nơi và xồ ra dọa...
Nhưng rồi rốt cuộc Naôê vẫn không trao chìa khóa cho cô. Thật ra
thì cô cũng không hỏi xin. Vả lại dù cô có hỏi thì anh ấy cũng
chẳng đưa nào. Và giờ đây, khi anh đã không còn nữa, cái chìa
khóa lại nằm gọn trong lòng bàn tay cô. Mãi đến sau khi chết anh
mới chịu cởi mở tâm hồn cho cô.
Nôrikô thật trọng bước vào nhà, cố đi thật khẽ để khỏi gây tiếng
động.
Gian đệm, và sau bức màn là gian bếp. Giữa gian bếp đặt một cái
bàn ăn, xung quanh bày mấy cái ghế. Trên cái bể rửa chén đĩa
bằng kim loại có một chai sakê bọc giấy, bên cạnh là một cái ly
không - hình như Naôê đã uống rượu trước khi lên đường. Nôrikô
phải tự kiềm chế lắm mới không để cái chai lại cho đúng chỗ.
Bên kia bức màn là phòng ở. Cái giường ở bên trái, bên cạnh cửa
ra ban công là bàn viết. Cái lò kôtatsu. Trên giường, chăn đệm
đều được xếp đặt ngăn nắp.
- Bỏ trống... - Một cái gì hoàn toàn tự nhiên, nhưng lại làm cho
Nôrikô kinh ngạc.
- Đây rồi, bức thư tuyệt mệnh. - Bà y tá trưởng trông thấy cái
phong bì trắng đặt trên lò kôtatsu.
Trên phong bì có đề bằng bút lông: "Kính gửi tiểu thư Nôrikô
Samura".
Trong một phút Nôrikô thẫn thờ nhìn cái phong bì mà không trông
thấy nó, rồi sợ sệt cầm nó lên như một vật gì rất đáng sợ.
Trong phong bì có xếp mấy tờ giấy trắng viết chữ dày đặc.
"Chúng ta sẽ không còn gặp nhau nữa. Anh chưa biết việc ấy sẽ
diễn ra như thế nào, nhưng anh đã quyết định chết ở hồ Sikôtsu.
Tại sao phải đúng ở chỗ này? Cũng không có lý do gì đặc biệt.
Chẳng qua anh muốn chết ở vùng bắc, để đừng ai cản trở
anh. Ngoài ra thi thể của anh sẽ không bao giờ nổi lên mặt nước. Anh
muốn rằng cái thân thể mục nát của anh sẽ vĩnh viễn ở lại dưới
ấy, ở đáy hồ, giữa những cây cối đã chìm xuống dưới ấy từ xưa.
Anh chắc em đã hiểu rằng anh có bệnh. Anh bị bệnh ung thư xương.
Tên gọi chính xác của bệnh anh là mieloma. Anh biết mình có bệnh
này cách đâu hai năm. Hiện nay y học còn bất lực trước bệnh này,
không thể cứu anh được. Thật ra cũng có mấy phương pháp điều
trị, nhưng tất cả đều chỉ có thể giảm bớt những nỗi đau khổ của
anh, chứ không thể chữa khỏi bệnh được. Anh đã nghiên cứu bệnh
này từ lâu, thế rồi vì một sự mỉa mai độc ác của số phận, chính
anh đã mắc bệnh ấy. Thời hạn sống của anh chỉ còn được ba tháng.
Bây giờ u ác tính đã hiện rõ ở chân phải; một tháng sau anh sẽ
không còn đi được nữa.
Ổ bệnh trong cột sống đã phát sinh cách đây tám tháng. Em cũng
biết là ở đấy có rất nhiều trung tâm thần kinh, cho nên thỉnh
thoảng anh lại bị những cơi đau không tài nào chịu nổi, chính vì
thế mà anh phải uống rượu nhiều và tiêm ma túy.
Anh rời bỏ trường đại học ra đi vì hiểu rằng mình không còn đủ
sức làm việc tiếp được nữa. Tốt hơn là nên nhường cho lớp trẻ.
Ngoài ra, anh lại nhận ma túy của bệnh viện trường đại học, cho
nên anh càng phải ra khỏi đó.
Anh biết em rất khổ tâm khi nghĩ rằng anh lạm dụng cương vị của
mình để lấy trộm ma túy trong bệnh viện. Em đừng phiền lòng nữa,
không phải thế đâu. Chỉ hạn hữu khi nào ở trường đại học lâu quá
không gửi cho anh, anh mới phải vay lạm của bệnh viện Oriental.
Anh đã gây nên nhiều buồn khổ. Nhất là cho em. Anh thấy rằng anh
chỉ đem lại cho em những nỗi đau mà thôi. Nhưng ngược trở lại,
anh được thấy rõ em nhân hậu đối với anh như thế nào. Vậy thì
tại sao anh lại làm khổ em? Anh sẽ cố trả lời thật ngắn gọn: chỉ
vì cái chết đang theo sát gót anh.
Có một điều kỳ lại là trên ngưỡng cửa của cái chết, anh đã học
được cách nhìn đúng thực chất của những con người, anh đã biết
nhìn ra họ không có những lớp sơn bên ngoài. Anh đã vứt bỏ cái
chủ nghĩa lý tưởng và niềm tin vào sự công bằng của anh trước
đây. Anh đã kiên trì cố gắng nhìn qua cái vỏ ngoài máu me của
những con người để nhận ra cái thiện và cái ác nguyên sơ của họ.
Có thể đó là một trong những nguyên nhân khiến cho Kôbasi-san có
ác cảm đối với anh... Anh phải xin lỗi Kôbasi-san về nỗi anh đã
thử thách sự kiên nhẫn của anh ấy trong một thời gian dài như
vậy.
Không ai có thể biết rõ hơn chính bản thân anh, người thầy
thuốc, bao giờ cái chết sẽ đến với anh. Cái chết không biết nghỉ
ngơi. Anh không tin rằng anh sẽ hóa thân vào đức Phật, anh không
tin vào sự bất tử của linh hồn. Sẽ không còn gì hết. Thổi một
dúm tro bay khỏi lòng bàn tay - thế là hết. Cái chết là như vậy
đấy.
Mấy tháng gần đây anh khao khát đi tìm phụ nữ. Nhưng không phải
vì bản chất anh như vậy. Không, anh cần họ để quên lãng. Có vẻ
như anh đang tự thanh minh, nhưng dù sao chỉ có họ và ma túy là
có thể giúp anh đừng nghĩ đến cái chết. Chỉ với họ, anh mới cảm
thấy mình thuộc về mình, còn tất cả những lúc khác anh đều là sở
hữu của hư vô...
Anh muốn để lại phía sau anh một kỷ niệm - những đứa con. Anh mơ
ước làm sao khi đã chết đi anh vẫn còn để lại thật nhiều con.
Điều này có thể tưởng chừng như ngược đời, nhưng cái chết càng
đến gần thì nguyện vọng ấy càng da diết hơn.
Vì chẳng bao lâu nữa anh phải tan biến trong hư vô...
Trong thư này anh muốn xin em tha thứ cho anh, vì không có ai bị
tình làm khổ như em. Và thêm một điều này nữa. Có lẽ em sẽ sinh
cho anh một đứa con - than ôi, điều đó sẽ xảy ra sau khi anh
chết.
Em hãy lấy cuốn sổ phiếu ngân hàng ở ngăn kéo bên phải bàn viết.
Tiền bạc của anh không có nhiều - chỉ năm sáu triệu, nhưng dù
sao... Em hãy dùng số tiền ấy khi nào em cần đến. Em có thể sử
dụng nó ngay cả trong trường hợp em muốn thoát khỏi đứa con.
Và còn việc này nữa. Trong cái tủ chìm, ở góc bên trái có ba cái
hộp các-tông với những tấm phim chụp X-quang và những điều ghi
chép về diễn biến của bệnh. Anh nghĩ rằng đến nay chưa có một
công trình nghiên cứu nào chi tiết hơn và khách quan hơn về bệnh
u tủy sống. Anh xin em chuyển mấy cái hộp đó cho phó giáo sư
Senđa ở khoa phẫu thuật của bệnh viện trường đại học. Ông là
người duy nhất đã hai năm nay biết về bệnh trạng của anh, và
chính ông đã gửi ma túy cho anh dùng.
Chỉ lát nữa anh sẽ gặp em ở phi cảng Hanađa. Kể cũng lạ: anh
đang viết tất cả những điều này cho người mà một giờ nữa sẽ cùng
ngồi với anh trên một chiếc máy bay.
Kể cho đến phút này anh đã lừa dối em, và em đã thật thà tin
anh. Anh xin lợi dụng lòng tin của em một lần cuối cùng. Anh hy
vọng rằng em sẽ là người bạn cuối cùng của anh.
KYÔSUKE NAÔÊ
Nôrikô ngồi trên đi-văng, đôi mắt trống rỗng nhìn ra phía xa.
Bức thư được bác sĩ trưởng, Ritsukô rồi bà y tá trưởng lần lượt
đọc; Akikô cũng xem ké qua vai bà.
Nôrikô không thấy muốn giật bức thư lại, giấu nó đi. Quả trong
thư có nói dến những gì làm thành điều bí mật riêng tư của hai
người - của cô và của Naôê. Bây giờ thì mọi người sẽ biết những
điều đó. Thôi cũng mặc.
Dù sao thì cũng chẳng giấu giếm gì được nữa.
Về cái lý do đã khiến cho Naôê tự tử thì đằng nào cũng phải nói
với bác sĩ trưởng và bà y tá trưởng. Thân nhân của Naôê ở
Sappôrô cũng có thể viết thư về cho họ. Mà như vậy còn tốt hơn
nữa là khác: những điều nghi kỵ xung quanh việc sử dụng ma túy
sẽ không còn nữa.
Về những mối quan hệ giữa Naôê và Nôrikô thì mọi người đã biết
từ lâu. Dĩ nhiên tạm thời giữ kín chuyến đi của họ về Sappôrô
thì tốt hơn, nhưng đó là việc riêng của họ. Về đứa con đang sống
trong bụng Nôrikô thì đằng nào cũng sẽ có lúc phải nói với bà y
tá trưởng, và bà ta thế nào cũng sẽ báo cho bác sĩ trưởng và
Ritsukô biết. Vậy thì che giấu, dối trá để làm gì? Cái chết của
Naôê có thể bị người ta lý giải sai lạc đi.
Một trạng thái đờ đẫn kỳ lạ bao trùm lên Nôrikô. Naôê không còn
nữa, thì tất cả những gì còn lại - cô sẽ ra sao, người đời sẽ
nghĩ gì, - tất cả những cái đó không còn có nghĩa lý gì nữa.
Không thể thay đổi một cái gì hết.
Nôrikô xưa nay bao giờ cũng phục tòng ý muốn của Naôê: anh nói
"trắng" thì cô nghĩ "trắng", anh nói "đen" thì cô nghĩ "đen". Và
bây giờ cô cũng không mảy may thay đổi: anh ấy không còn nữa,
thì cuộc sống lái cô về hướng nào cô sẽ phải sống theo hướng ấy.
Nhưng dù sao cũng phải làm một cái gì... tâm tư cô cứ bàng
hòang... Cô không sao tập trung lại được.
Cuối cùng cô nhớ ra cái cốc bẩn mà cô đã trong thấy khi đi vào
phòng. Trước kia mỗi lần cô đến nhà Naôê, việc dọn dẹp và rửa
chén đĩa vẫn đem lại cho cô một trạng thái yên tĩnh tuyệt đối về
tinh thần.
- Cái tủ chìm kia phải không? - Bác sĩ trưởng hỏi khi đọc xong
bức thư.
Nôrikô gật đầu, đến cạnh tủ và mở cánh cửa bên phải ra.
Ở phía trong, ba cái hộp các-tông vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Bác sĩ
trưởng lôi ra một cái hộp.
Trên nắp hộp có ghi: "Tháng mười - tháng mười hai".
Yutarô lấy ra một chiếc phong bì đựng phim chọn một tấm và đưa
soi lên ánh sáng.
Mọi người xúm lại.
- Ừ-ừ... - Yutarô nói.
- Ông chỉ xem, cái u ở đâu? - Ritsukô hỏi.
- Bà có thấy cái vết đen tròn tròn ở góc không? Chỗ lõm lõm ấy.
Chính nó đấy.
Nôrikô thấy rõ trên tấm phim có hình cái xương đòn gánh. Gần
phía vai, nơi ông bác sĩ trưởng chỉ, có thể nhìn thấy một cái
hốc đen tròn tròn. Cái xương cong lại một cách đều đặn, nhưng ở
chổ này quỉ sứ đã để lại cái dấu vết đen tối của nó.
- Tội nghiệp... - Bà Ritsukô đưa chiếc khăn mùi xoa lên mắt và
quay mặt đi. - Có thể tưởng tượng ông ấy đau đớn biết chừng
nào...
Nôrikô chậm rãi đứng dậy và đi sang gian bếp rửa cái cốc. Không
có ai yêu cầu cô cả. Chẳng qua việc đó đã đi vào tập quán của
cô.
Bây giờ Nôrikô hầu như lúc nào cũng ngủ.
Nói cho đúng ra, đó không phải là giấc ngủ. Cô nằm trên giường,
hai mắt nhắm nghiền nhưng óc của cô vẫn thức. Cô nghe thấy hết,
hiểu hết - tiếng gió rít cũng như những bước chân của người đưa
sửa cũng như tiếng giầy của người đưa thư chạy trên cầu thang
bê-tông.
Đêm hôm ấy, Akikô trực thay cho Nôrikô. Từ căn phòng của Naôê,
bà y tá trưởng và Kaôru đưa Nôrikô về cư xá, đặt cô lên giường;
bà y tá trưởng luôn luôn vuốt tóc cô; Kaôru ngồi bên cạnh, vẻ
hiền lành, nhịn nhục như sau một trận mắng. Những gì tiếp diễn
theo sau, Nôrikô đều chỉ nhớ mang máng.
Chỉ có một việc cô nhớ rõ lạ lùng: sáng hôm sau có ai đến bấm
chuông, và hình như cô trả lời "vâng, vâng!" Nhưng cô không ra
khỏi giường, vì không đủ sức; và hình như người bấm chuông lại
bỏ đi, vì từ đấy xung quanh lại im lặng như cũ.
Cái gì đang diễn ra thế này? Nôrikô không thấy mệt, mà cũng
không thấy đau ở đâu cả. Nhưng thân thể cô không chịu phục tòng
ý cô; nó đã trở thành bạc nhược, cứ mềm nhũng ra như bông:
Nôrikô giận mình sao yếu ớt đến như vậy. Có ai gọi thì cô trả
lời, không có gì thì cô vẫn nằm như cũ.
Nôrikô nằm gần suốt ngày, cho đến bốn giờ.
Đến bốn giờ - từ đây trở đi, cô nhớ khá rõ - người ta đánh thức
cô dậy.
Cô mở mắt, bà Sêkiguchi đang ngồi trước mặt cô.
- Dậy rồi à? Cô thấy trong người thế nào? - Bà y tá trưởng cúi
xuống sát người Nôrikô lúc bây giờ đang nhìn lên trần với đôi
mắt ngái ngủ. - Sáng hôm nay tôi có ghé lại đâu. Tôi bấm chuông
thì thấy cô trả lời, thế là tôi yên tâm ra về.
Như vậy nghĩa là có người bấm chuông thật chứ không phải cô nằm
mơ...
- Bà chị bác sĩ Naôê đã đến.
- Bà chị?
- Tối hôm qua cô có nói điện thoại với bà ấy đấy...
Từ giây phút này trí óc Nôrikô bắt đầu làm việc một cách khẩn
trương.
- Bây giờ bà ấy ở đâu?
- Ở bệnh viện, lát nữa bà ấy sẽ đến đây.
- Thế thì tôi phải dậy...
- Không cần đâu. Nếu thấy mệt thì cứ nằm đi.
- Không, tôi sẽ dậy.
- Vậy thì tôi đưa bà ấy lại đây nhé?
Kể cũng lạ... Tấn bi kịch vừa xảy ra đã là cho bà y tá trưởng
càng linh hoạt hơn.
Bà đi rồi, Nôrikô ngồi dậy trên giường và đưa mắt nhìn quanh.
Mặt trời đã ngả về phía tây.
Hôm qua cô đang mặc thế nào thì cứ để thế mà nằm, không thay đồ
ngủ. Cô vội vã mặc săng-đai và váy rồi đến trước gương và bắt
đầu chải tóc. Vừa lúc ấy có tiếng gõ cửa.
- Chúng tôi đã đến đây, - giọng bà y tá trưởng nói ngoài cửa.
Nôrikô bối rối: tại sao họ đến nhanh thế? Đến nỗi mình cũng chưa
kịp sửa soạn gì. Cô toan yêu cầu họ đợi một chút, nhưng rồi lại
nghĩ lại. Tóc vẫn còn buông xõa, cô ra mở cửa. Bây giờ, khi Naôê
đã chết, người ta sẽ nhìn cô như là vợ anh.
- Xin lỗi... - Một người đàn bà đứng tuổi mặc kimônô bước vào
phòng. - Tôi là chị của Naôê.
- Nôrikô Simura... - Nôrikô cúi mình chào và đưa mắt lên nhìn
người đàn bà. Trông bà ta có một cái gì rất thân thuộc. Tuổi
trạc bốn mươi, khuôn mặt dài dài rất giống Naôê. Chiếc kimônô bà
mặc rất trang nhã, màu ca-rốt có hoa văn nhỏ.
- Cô đã giúp đỡ em tôi rất nhiều, xin cảm ơn... - Người đàn bà
cúi mình nói. - Thật đáng tiếc là trước đây tôi không được biết
gì về cô. Dĩ nhiên lẽ ra mẹ tôi phải lên đây - mẹ tôi rất muốn
được gặp cô, - nhưng sau những việc đã xảy ra mẹ tôi yếu hẳn đi.
Cho nên tôi phải thay mặt mẹ đến đây...
Nôrikô không biết nói gì. Cô nhìn người đàn bà và cảm thấy tim
mình như một tảng băng dần dần ta ra dưới một làn hơi ấm.
- Chắc cô phải giận chúng tôi... Sự thể đã như vậy. Nếu có thể
được, xin cô lượng thức.
- Tôi tuyệt nhiên không có gì để oán giận các vị.
- Tôi nghĩ giá em tôi được nghe lời này, em tôi sẽ rất mừng...
... Nôrikô nhìn người đàn bà không rời mắt. Một bóng đen lại
thoáng qua trên gương mặt cô, và Nôrikô tự nhủ: "Họ giống nhau
quá!"
- Anh ấy nhảy xuống hồ ư? - Nôrikô hỏi khẽ.
- Chiều hôm kia người ta tìm thấy trên hồ một cái thuyền không;
trên thuyền có cái áo măng-tô của em tôi và một bức thư.
- Có ai trông thấy anh ấy không? Trông thấy anh ấy ngồi trên
thuyền?
- Không. Không có ai trông thấy. - Người đàn bà lắc đầu chậm
chậm.
- Như vậy nghĩ là chưa biết đích xác?...
- Ngày mồng năm tháng giêng em tôi đi xe ra hồ. Người gác cổng
khách sạn có trông thấy em tôi đi xuống bờ hồ.
Con đường mòn hẹp phủ tuyết đi xuống dốc. Ở phía dưới là cái hồ
rộng mênh mông màu xám chì. Những cây bạch dương hắt bóng xuống
tuyết...
- Trên thuyền chỉ có cái áo với bức thư thôi ạ?
- Có bao thuốc lá với hộp diêm nữa.
Chèo thuyền ra khỏi bờ, Naôê đã hút thuốc. Anh nghĩ gì trong
những phút ấy? Nghĩ về bệnh chăng? Về công việc chăng? Hay về
Nôrikô? Nước mắt làm cho Nôrikô nghẹn ngào.
- Em tôi có yêu cầu chúng tôi chăm sóc cô. Hình như em tôi buồn
nhiều hơn cả, là khi nghĩ đến cô.
Nôrikô không tin sao được. Đã bao nhiêu lần cô cố gắng đi vào
tâm hồn Naôê, nhưng lần nào anh cũng đẩy cô ra. Nôrikô chưa bao
giờ dám nghĩ rằng trên đời cô có một người yêu mình. Cô vẫn nghĩ
rằng Naôê gặp cô chỉ vì cô có một cái gì thuận tiện cho anh, và
chỉ thế thôi.
- Em tôi rất muốn sống... muốn sống lâu... - Người đàn bà nói
qua nước mắt.
- Anh ấy có viết như vậy trong thư ạ?
- Không. Nhưng tôi biết. Chính là vì em tôi không hề viết một
chữ nào về chuyện ấy. - Người đàn bà lấy trong túi xách ra một
cái khăn tay.
Nôrikô mường tượng nhớ lại đôi mắt Naôê có những lúc hiền hậu
như thế nào. Có lẽ chính vì những khoảnh khắc ấy mà cô yêu anh
một các hết mình vậy chăng?
- Như vậy tức là chị cũng không biết gì cả? Về bệnh tình của anh
ấy?
- Không. Em tôi không nói gì với ai cả. Nhưng không hiểu sao xưa
nay tôi vẫn nghĩ rằng em tôi sẽ chết đúng như thế. Nó sẽ tắt đi
như thế.
- "Tắt đi" là thế nào ạ?...
- Làm sao mà cắt nghĩa được cho cô hiểu bây giờ... Em tôi sống
mà không hắt bóng.
- Hồi còn nhỏ cũng vậy ạ?
- Bây giờ tôi không còn nhớ rõ. Dù sao thì xưa nay em tôi cũng
xa chúng tôi, xa các anh chị em trong nhà, nó đi theo một con
đường riêng của nói, một con đường không ai hiểu.
Nôrikô thu người lại, như thể cảm thấy có một lưỡi dao lạnh ngắt
luồn vào sống lưng. Một nỗi buồn da diết thấm sâu vào cô. Cô
thấy thèm được trông thấy Naôê một cách nhức nhối.
- Bao giờ lễ an táng được cử hành ạ? - Sêkiguchi, nãy giờ im
lặng, cất tiếng hỏi.
- Thân quyến đã tụi tập lại ngày hôm qua. Còn chính thức thì...
Cái chết đã được xác nhận, nhưng di hài thì không có, cho nên...
không cần phải vội vã. Để sắp xếp đồ đạc của em tôi xong đã, rồi
đến khi tôi về Sappôrô sẽ...
- Hễ khi nào định được ngày, xin bà báo cho biết. - Sêkiguchi
nói. - Chắc khó lòng đến tận nơi được, nhưng chúng tôi ít nhất
cũng sẽ đánh điện, gửi hoa...
- Xin đa tạ. Còn cô, Nôrikô-san, có đến được không?
- Tôi ạ?
- Lộ phí và mọi khoản khác chúng tôi xin chịu.
- Không, tôi...
- Em tôi sẽ buồn nếu gia đình họp lại mà không có cô.
- Không... - Nôrikô ngẩng đầu lên nhìn ra cửa sổ: mặt trời đã
khuất sau mấy đám mây. - Không, tôi... Tôi không thể đi được.
- Tại sao ạ?
- Tôi rất muốn đi, muốn đi vô cùng... Nhưng tôi sợ...
- Cô sợ ư? Sợ gì?
- Tôi sợ đi một mình.
- Nhưng cả gia đình chúng tôi sẽ ở đấy mà.
- Tôi... không dám tin là mình sẽ...
Hồ Sikôtsu cách Sappôrô không xa. Nếu Nôrikô đi, sẽ có một cái
gì thu hút cô đến nơi mà Naôê đang nằm dưới lớp nước lạnh giá.
Điều đó rất khủng khiếp. Nhưng niềm ước vọng được gặp Naôê, cô
không dám tin rằng mình sẽ cưỡng lại được...
Khi khách đã ra về, đem sập xuống rất nhanh. Đã mấy ngày nay
Nôrikô không có chút gì trong bụng, nhưng cô không thấy muốn ăn.
Cô trầm ngâm đứng bên cửa sổ. Bên bệnh viện có ánh đèn. Giờ này
các bệnh nhân ăn tối sắp xong, chắc họ đang xếp bát đĩa vào cái
xe con của bà cấp dưỡng. Trong một phòng nằm nào đấy, một bệnh
nhân mới được cắt bỏ ruột thừa hình như trông thấy một cái gì
buồn cười lắm: anh ta cười lớn, tay phải ép vào bụng.
Naôê đã chết. Nhưng, vẫn như mọi khi, mặt trời lại lặn, đêm lại
xuống... Thật lạ lùng...
Nôrikô tô lại đôi môi, gom tóc lại thành búi, mặc áo măng-tô và
đi ra đường. Một ngọn gió mạnh thổi là là đang quét tuyết trên
mặt đường.
Chẳng biết đi đâu bây giờ. Nôrikô bước dọc phố Yamanôtê, đi về
phía đường Tamagawa: từ đấy có thể đi đến khu Ikêđziri.
Cô không nghĩ gì hết, cô chỉ muốn lẩn vào đám đông. Đôi chân như
cái máy đưa cô đi. Đột nhiên Nôrikô kinh ngạc nhận thấy mình
đang đi về phía Ikêđziri. Những chiếc xe hơi nối nhau thành một
giòng sông bất tận trên con đường lớn, nhưng cô không cần xe.
Tốt hơn, cứ đi bộ, bước vềphía trước không chut suy nghĩ: lúc
bấy giờ trong tâm hồn sẽ thấy nhẹ hơn một chút.
Những tiếng còi xe hơi rú lên, những tiến gphanh ken két trên
nhựa đường, những dãy đèn nhấp nháy lia lịa... Nôrikô bị xô đẩy,
nhưng cô không nhận thấy gì. Họ đi đâu mà vội thế? Tại sao họ
giận dữ khi có một cái gì cản trở lối đi? Sau cái chết của
Naôê...
Lúc bảy giờ rưỡi Nôrikô đến trước tòa nhà ấy. Tòa nhà trắng với
những khung cửa sổ sáng trưng trông như một thứ đồ chơi.
Nôrikô đi vào phòng đệm, nhảy vào thang máy. Hồi Naôê còn sống,
mỗi khi đến gặp anh bao giờ Nôrikô cũng vội vàng. Tầng thứ năm.
Bây giờ sang phải. Cánh cửa thứ ba kể từ cuối hành lang.
Tối hôm qua cô đã ở đây.
Nôrikô bấm chuông. Bấm lần nữa. Không, không có ai ra cả. Nhưng
bà chị Naôê có nói là sẽ đến dọn nhà. Chắc bà ấy đi rồi. Nôrikô
bấm chuông một lần nữa. Vẫn không có ai.
Thôi vậy... Cô quay trở lại thang máy.
Khi đi đến đây, cô biết Naôê không có nhà, chẳng qua qua cô muốn
biết thật chắc một lần nữa. Phải đến một mình. Nhưng anh ấy vẫn
không ra. Anh ấy không còn nữa. Bây giờ chắc rồi.
Nôrikô đi ra đường. Một buổi tối thật là kinh tởm. Cô đi lang
thang, lưng còng xuống, đôi mắt không chớp nhìn thẳng trước mặt.
Đèn xe, đèn quảng cáo, đèn trên các cửa sổ hòa lại làm một. Cần
phải đi. Đi đâu cũng được. Đi. Đi mãi. Chỉ có thế mới trốn thoát
được nỗi buồn.
Và đây là phố Yamanatê. Nôrikô vượt qua đường và đi ra ngã tư
Đôghenđzaka. Đâu gần đây có hiệu cà-phê "Phoenix", nơi mà cô và
Naôê đã gặp nhau nhiều lần. Đẩy cánh cửa kính, Nôrikô bước vào,
ngồi xuống cạnh cái bàn thứ hai bên phải. Cạnh chiếc bàn con này
họ đã ngồi đợi nhau. Một cô hầu bàn đến. Nôrikô gọi cà-phê.
Chín giờ mười. Một nhóm người ồn ào đi vào quán. Ở các góc phòng
có những đôi trai gái ngồi. Cứ mỗi lần cửa mở, Nôrikô lại ngẩng
đầu lên. Không, không phải Naôê.
Khoảng một giờ trôi qua. Nôrikô đứng dậy. Rốt cục Naôê vẫn không
đến. Anh sẽ không bao giờ đến quán cà-phê này nữa. Điều này bây
giờ cô cũng đã biết chắc.
Ánh phản chiếu của những ngọn đèn đêm làm cho bầu trời phơn phớt
đỏ.
Thọc hai tay vào túi áo măng-tô, người nghiêng về phía trước,
Nôrikô đi tiếp. Gót giầy cao, khó đi. Cô chưa bao giờ đi nhiều
như vậy. Chỉ còn một chút nữa, chỉ cần qua cái hẻm này là đến
bệnh viện. Nhỡ may? Nhỡ may anh ấy đang ở đâu trong bệnh viện
thì sao?
Cửa trước đã đóng; đèn trong các phòng bệnh nhân đã tắt, chỉ còn
một khung cửa sổ sáng - đó là phòng các nữ y ta. Thậm chí còn
trông thấy lưng ai thấp thoáng trong cửa sổ. Nôrikô dừng lại rồi
quả quyết đi về phía cửa ngách.
Trong phòng khám ngoại trú, trong phòng tiếp tân, trong phòng
X-quang đều tối om. Tiếng những bước chân của Nôrikô vang dội
trong khoảng trống.
Cô đứng lại trước phòng phẫu thuật. Ánh trăng phản chiếu trên
những tấm kính mờ của các cửa phòng. Nôrikô nhìn quanh rồi mở
cửa. Có vậy gì đánh "cách" một tiếng ngắn, rồi tất cả lại im
lặng. Ở đây cũng không có một mống người. Các cô y tá trực chắc
đang xem ti-vi trong phòng của họ.
Ở chính giữa gian phòng lát gạch men trắng là cái bàn mổ. Bằng
một cử chỉ quen thuộc Nôrikô bật đèn lên. Chỉ trong nháy mắt,
ngọn đèn mổ nháy nháy rồi sáng bừng lên. Ngọn đèn không hắt
bóng. Giống như một vần thái dương. Nôrikô tựa vào bàn và trầm
ngâm suy nghĩ. Hệ thống sưởi đã tắt, nhưng cô đi nhiều nên vẫn
thấy ấm.
Trước khi mổ bao giờ cô cũng đợi Naôê ở đây. Dưới ánh đèn này
không có một người nào hắt bóng. Những con người không có
bóng...
Naôê đeo tấm vải bịt mặt, mặc áo blouse xỏ tay vào đôi găng
cao-su và bắt tay vào việc.
Ngay bây giờ anh sẽ bước vào, sẽ trông thấy Nôrikô, gật đầu chào
cô rồi ném ra một câu ngắn gọn: "Dao mổ!" Trong cái khoảnh khắc
cô đưa dao mổ cho Naôê, hai trái tim của họ sẽ gặp nhau. Điều đó
ắt phải lập lại. Đêm sẽ tàn, mặt trời sẽ mọc, một buổi sáng mới
sẽ bắt đầu, và cái khoảnh khắc ấy sẽ đến. Không thể nào mọi vật
trên thế gian đều vẫn như cũ, mà trên chính cái thế gian này lại
không có Naôê. Không có thể nào như thế được!
Đứng im trong vùng ánh sáng rực rữ của ngọn đèn không hắt bóng,
Nôrikô kiên nhẫn chờ đợi Naôê.
Hết
|