Phần II - Chương 11
Chuông điện thoại dưới lầu reo inh ỏi.
- Đừng trả lời – Hắn nói, khi thấy Ellen định đi. Giọng
nói của nàng thất thần.
- Em biết ai gọi rồi.
- Không. Đừng trả lời. Hãy nghe anh – Bàn tay rắn chắc
của hắn nắm lấy vai nàng – Chắc chắn có người nghe
tiếng súng nổ. Trong vài phút nữa cảnh sát sẽ đến đây.
Cả bọn nhà báo nữa – Hắn để cho câu nói lắng lại – Có
lẽ em không muốn báo chí làm rùm beng vì chuyện này,
phải không? Họ sẽ bới móc lại chuyện về Dorothy, những
hình ảnh của em…
- Làm sao ngăn cản báo chí được?
- Sao lại không được. Anh có xe ở dưới. Anh đưa em về
khách sạn, rồi sau đó trở lại đây ngay – Hắn tắt đèn –
Nếu cảnh sát chưa xuất hiện, anh sẽ gọi họ. Em sẽ không
có mặt ở đây để bọn nhà báo khỏi cấu xé em. Anh sẽ
không trả lời cho đến khi nào chỉ còn lại anh và họ.
Cảnh sát sẽ thẩm vấn em sau, nhưng báo chí sẽ không
biết em có dính trong vụ này.
Hắn đưa nàng ra hành lang rồi nói tiếp:
- Khi em gọi điện thoại cho bố em hay sự việc xảy ra, ông
có đủ uy tín để buộc nhà báo buông trôi mọi việc dính
líu đến em và Dorothy. Báo chí sẽ viết rằng Powell đang
say và có ý định bắn anh, hay một việc như thế.
Chuông điện thoại không còn reo nữa.
- Em cảm thấy ra đi như thế này chẳng phải chút nào… -
Ellen nói khi nàng và hắn đi xuống lầu.
- Tại sao không đúng? Anh là người đã làm chuyện đó,
chứ đâu phải là em. Cho dù anh có che dấu việc em có
mặt ở đây chăng nữa, anh vẫn cần đến em để em thuật lại
câu chuyện này. Tất cả điều anh mong muốn là bịt miệng
bọn nhà báo trong những ngày sắp tới – Hắn quay snag
nhìn nàng – Hãy tin anh, Ellen! – Hắn cầm lấy tay nàng.
Nàng thở dài như muốn trút hết bao nhiêu nỗi âu lo,
trách nhiệm ám ảnh nàng.
- Vâng – Ellen nói – Anh đừng đưa em về, em đón xe cũng
được.
Như đọc được ý nghĩ của nàng, hắn nói ngay:
- Lúc này không phải là lúc gọi điện thoại, anh biết xe
buýt đã ngừng chạy vào lúc mười giờ.
Hắn cầm lấy áo khoác của nàng.
- Xe đâu mà anh có vậy? – Nàng hỏi, giọng buồn rầu.
- Anh mượn – Hắn trả ví lại cho nàng – của một người
bạn.
Tắt đèn, hắn mở cửa ra cổng chính.
- Đi nhanh em – Hắn hối thúc – Ta không còn nhiều thì giờ
lắm đâu. Đừng để mất thời gian vô ích.
Xe đậu bên kia đường, cách cổng khoảng ba thước. Một
chiếc xe màu đen cũ kỹ. Hắn mở cửa cho Ellen vào, rồi
đi vòng qua phía kia, mở cửa ngồi vào tay lái, mở công
tắc xe. Ellen ngồi im lặng, tay để trên đùi.
- Em khỏe chứ? – Hắn hỏi.
- Khỏe lại rồi – Giọng nói của Ellen yếu ớt, mệt mỏi –
Đúng là hắn định giết em – Nàng thở dài – Ít ra, về
trường hợp Dorothy, em đã xét đúng. Em biết Dorothy không
bao giờ tự tử như vậy – Nàng nhếch môi cười, lộ vẻ
trách móc – Anh lại ngăn không cho em đi!
Hắn cho máy nổ.
- Em đúng lắm! – Hắn nói. Nàng ngồi im lặng một chốc –
Dẫu sao đi nữa, chuyện này thế mà lại hay.
- Hay cái gì, hả em? – Hắn hỏi và gài số cho xe vọt về
đằng trước.
- Anh đã cứu em – Ellen nói – Anh đã thực sự cứu em. Nhờ
việc này, ba em sẽ không còn phản đối chuyện của chúng
ta nữa. Vậy anh hãy đến gặp ba em và trình bày chuyện
của hai đứa.
Xe đã chạy trên đại lộ Washington vài phút, Ellen bắt
đầu ngồi sát vào hắn hơn, ngại ngùng ôm lấy cánh tay
hắn, sợ làm cản trở tay lái của hắn. Cảm thấy một
vật cưng cứng khẽ đụng vào đùi, nàng biết đấy là khẩu
súng nhưng vẫn không dịch lui.
- Ellen này, việc này sẽ gây nhiều tai tiếng lắm nghe em!
- Anh nói sao?
- Anh sẽ bị giam giữ vì tội giết người.
- Nhưng anh đâu có ý định giết hắn! Anh chỉ tìm cách
đoạt súng của hắn – Ellen thắc mắc.
- Anh biết là như thế nhưng người ta vẫn giam giữ anh…
Bằng mọi cách người ta sẽ buộc tội anh – Hắn liếc nhìn
khuôn mặt chán chường bên cạnh hắn, rồi quay lại nhìn
thẳng trước đầu xe. – Ellen à, khi mình đến khách sạn,
em sẽ chạy nhanh vào nhặt nhanh tất cả đồ đạc và trả
phòng ngay. Trong vài tiếng đồng hồ nữa, mình sẽ có
mặt ở Caldwell.
- Anh Bud! – Giọng nàng thảng thốt đầy vẻ ngạc nhiên lẫn
trách móc – Mình không thể làm như thế được.
- Sao không được? Hắn giết Dorothy của em, phải không? Hắn
phải trả giá những gì hắn đã gây ra. Tại sao mình lại
dây vào đó làm gì chứ?
- Không thể được. Mình không thể xử sự như thế – Ellen
phản đối – Dẹp qua một bên việc làm sai trái ấy đi, giả
dụ bằng cách nào đó người ta phát hiện ra là anh… anh
giết hắn. Sau đó họ thấy không phải, với điều kiện anh
đừng chạy trốn.
- Anh thấy là họ không có cách nào biết anh đã giết
hắn được – Hắn nói giọng tự tin – Anh mang găng tay, không
để lại dấu vân tay đâu. Chẳng ai thấy anh ở đấy cả, trừ
em và hắn.
- Nhưng giả dụ họ tìm ra thì sao? Hoặc là họ sẽ kết
tội một ai khác thì sao? Anh sẽ thấy thế nào? – Hắn im
lặng – Một khi ba em nghe được câu chuyện, em biết ông sẽ
lo luật sư và mọi việc sẽ êm đẹp. Em nghĩ đó sẽ là
một việc khủng khiếp vô cùng. Nhưng chạy trốn…
- Một đề xuất ngu xuẩn – Hắn nói, vẻ bực mình – Anh
thấy không có hy vọng gì thuyết phục em được.
- Đúng vậy, anh Bud. Anh không muốn xử sự như thế chứ?
- Anh chỉ cố gắng tìm một phương sách cuối cùng thôi –
Hắn nói và bất chợt bẻ tay lái về bên trái một vòng,
bỏ đại lộ Washington sáng rực, chạy về phía con đường
ngoại ô tối đen.
- Sao anh không chạy theo đại lộ Washington nữa? – Nàng
hỏi.
- Lối này nhanh hơn. Dễ tránh xe.
- Có điều em vẫn chưa hiểu – Ellen nói, gõ gõ điếu
thuốc trên mép cái gạt tàn – Tại sao hắn không làm gì
em cả khi em và hắn ở đó, trên mái nhà?
Nàng ngồi thoải mái, nghiêng người sang dựa vào hắn,
tréo hai chân vào nhau và phả hơi khói ấm áp trong xe.
- Chắc chắn là mọi người thấy em đến đó vào lúc tối –
Hắn nói – Có thể hắn sợ người điều khiển thang máy hay
ai đó sẽ nhớ mặt hắn.
- Đúng, cho là thế đi, nhưng không nguy hiểm bằng khi hắn
đưa em về nhà… và thanh toán em tại đấy.
- Có khả năng là hắn không có ý định giết em tại nhà
hắn. Có thể hắn sẽ buộc em lên một chiếc xe nào đó
rồi chở em về miền quê hẻo lánh hay đến một nơi nào đó
thuận tiện hơn.
- Hắn làm gì có xe!
- Thì hắn ăn cắp, khó gì chuyện ấy – Aùnh đèn đường
hắt lên khuôn mặt trắng nhợt của hắn rồi khuôn mặt hắn
lại chìm trong bóng tối.
- Hắn bịa ra đủ chuyện, nào là “tôi yêu Dorothy”, nào là
“tôi ở New York…”, “tôi cảm thấy có trách nhiệm…”. Lạy
Chúa!
Ellen ngao ngán lắc đầu, dập tắt điếu thuốc trong cái
gạt tàn. Hắn ném cái nhìn sang nàng.
- Chuyện gì thế? – Hắn hỏi.
Giọng nói của Ellen giống như của một người mới ốm
dậy.
- Hắn đưa cho em xem giấy chuyển trường của đại học New
York. Hắn ở New York…
- Giấy giả mạo đấy. Hẳn là hắn quen ai đó trong phòng
giáo vụ. Họ làm cho hắn một tờ giấy giả, thế thôi.
- Nhưng nếu không phải… Nếu hắn nói sự thật thì sao?
- Hắn sẽ đi theo em với khẩu súng. Điều đó chưa đủ bằng
cớ cho thấy là hắn nói dối à?
- Anh tin thế à, anh Bud? Anh chắc chắn hắn không… Biết
đâu hắn lấy súng ra vì một chuyện gì khác? Còn quyển
sổ tay của hắn?
- Hắn đang đi đến cửa khẩu súng.
- Ôi, nếu hắn không giết Dorothy… - Ellen im lặng – cảnh
sát sẽ điều tra – Nàng nói một cách dứt khoát – Họ sẽ
chứng minh là hắn ở Blue River? Họ sẽ thấy chính hắn
là kẻ đã giết Dorothy.
- Đúng như vậy – Hắn đồng ý.
Loay hoay, nàng duỗi chân rta1i ra. Nàng nheo mắt nhìn
đồng hồ tay: 10 giờ 25.
- Lẽ ra mình đã tới nơi rồi.
Hắn không trả lời.
Nàng nhìn ra cửa xe. Không một ngọn đèn đường, không một
ngôi nhà ở hai vệ đường. Chỉ có một màn đêm mịt mùng
dưới bầu trời cao thăm thẳm với những vì sao treo lơ
lửng xa tít mù trên kia.
- Anh Bud! Đâu phải đường vào thành phố?
Hắn không trả lời.
Trước mũi xe, vệt trắng của con lộ nhỏ hẹp vun vút
lướt qua ánh đèn xe.
- Anh Bud! Đâu phải đường này.
Phần II - Chương 12
- Cậu cần gì ở tôi? – Giọng cảnh sát trưởng Eldon
Chesser lè nhè hơi men. Ông ta đang nằm ngửa, hai chân dài
lòng thòng gác lên thành ghế tựa bọc nệm hoa hòe, hai
tay khoang lại trước ngực trên chiếc áo sơ mi màu đỏ
chói, đôi mắt đen sâu thẳm mơ màng nhìn lên trần nhà.
Gant đang đứng giữa phòng nhìn cảnh sát trưởng, nói:
- Đuổi theo chiếc xe đó. Tôi chỉ cần chừng đó thôi.
- Ha! Ha! – Cảnh sát trưởng cười hô hố – Một chiếc xe
màu đen. Người bên cạnh nhà chỉ biết chừng ấy. Sau khi
nghe súng nổ, ông ta thấy một người đàn ông và một
người đàn bà ra khỏi nhà và leo lên một chiếc xe màu
đen. Trời, cậu biết có bao nhiêu xe màu đen trong thành
phố trên đó có một người đàn ông và một phụ nữ không?
Chúng tôi cũng hoàn toàn không biết một nét cụ thể nào
về hình dáng của cô gái mãi đến khi cậu đến. Lúc đó
thì bọn chúng đã ở tận chân trời góc biển nào rồi.
Ngay cả khi chúng đỗ xe ở một gara nào đó cách đây hai
dãy nhà cũng không biết được nữa là bây giờ.
Gant đi đi lại lại một cách nóng nảy.
- Thế chúng ta phải làm gì?
- Đợi. Thế thôi. Tớ đã báo cho lính của tớ trên xa lộ
biết rồi. Có thể đấy là một băng đêm. Sao cậu không
ngồi xuống một chốc?
- Nhất định phải ngồi rồi – Gant xẳng giọng – Nàng có
khả năng bị hắn thủ tiêu – Chesser im lặng – Năm ngoái em
gái của nàng, giờ đến lượt nàng…
- Đấy, ta lại bàn về vấn đề ấy nữa. Em gái của nàng
tự tử! – Ông ta kéo giọng ra – Chính mắt tớ đã thấy
bức thư kia. Một chuyên viên về chữ viết… - Gant gây một
tiếng động – Ai giết nàng? – Chesser hỏi – Cậu nói Powell
có thể là kẻ đó, nhưng giờ thì không phải, bởi ví cô
gái đã để lại cho cậu một lời nhắn là Powell đứng đắn
và cậu đã tìm thấy tờ giấy của trường đại học New
York cho thấy trong mùa xuân vừa qua hắn không có mặt ở
Blue River. Như thế người mà chúng ta nghi ngờ đã không
thể làm việc ấy, vậy thì ai? Câu trả lời: Không ai cả!
- Ellen nhắn lại là Powell biết rõ tên đó là ai. Tên sát
nhân chắc chắn biết là Powell… - Giọng nói của Gant căng
thẳng.
- Không có tên giết người nào cả cho đến đêm nay – Chesser
nói thẳng thừng – Cô em gái đã tự tử! – Đôi mắt ông ta
mở to, nhìn lên trần nhà. Gant trừng trừng nhìn ông ta,
rồi bắt đầu đi đi lại lại trong phòng.
Lát sau, Chesser nói:
- Thôi được, bây giờ để tớ diễn lại quá trình câu
chuyện cho cậu nghe.
- Cậu tưởng tớ nằm thế này là lười phỏng. Phải nằm
vắt chân lên cao mới suy nghĩ được, làm thế máu sẽ dồn
về óc. Cung cách làm việc của tớ như vậy đấy – Ông ta
hắng giọng – Vào khoảng mười giờ kém mười lăm, hắn đã
đập cửa để vào nhà. Ông hàng xóm có nghe tiếng gương
bể loảng xoảng nhưng không hề nghĩ đến việc ấy. Không
có một dấu hiệu nào khác cho thấy các phòng kia bị
phá vỡ. Như vậy Powell là người hắn nhắm vào. Vài phút
sau Powell và cô gái về. Hắn đã ẩn mình trên lầu. Hắn
núp trong tủ áo quần của Powell vì áo quần bị xô dạt
qua một bên. Powell và cô gái vào nhà bếp. Cô ta bắt đầu
chế cà phê, mở radio. Powell lên lầu để treo áo, hoặc là
vì Powell nghe tiếng động trên lầu. Hắn xuất hiện. Trước
đó hắn đã cố mở vali – chúng tớ đã tìm thấy dấu găng
tay trên đó. Hắn buộc Powell mở vali và lục soạn. Đồ
đạc ném lung tung giữa nhà. Có thể hắn tìm kiếm cái
gì đó hoặc kiếm tiền. Powell nhảy xổ vào hắn, thế là
hắn bắn ngay. Có thể vì hoảng sợ, chứ hắn không có ý
định giết Powell – bọn chúng không bao giờ làm thế,
chúng mang theo súng chỉ cốt dọa người ta. Nhưng luôn luôn
kết thúc bằng cách là giết. Đạn cỡ 45, loại súng colt
45 của nhà binh. Hiện có hàng triệu khẩu đang được dùng
trong thành phố đấy cậu ạ.
Tiếp sau đó là cô gái chạy lên lầu – dấu tay trên khung
cửa y hệt dấu tay trên các chén dĩa, đồ dùng trong nhà
bếp. Hắn sợ hãi, không có thì giờ để… Hắn bèn dùng
vũ lực ép nàng theo hắn.
- Tại sao? Tại sao hắn không giết nàng luôn ở đó như đã
giết Powell?
- Đừng có hỏi tớ. Có thể hắn không có gan làm việc
ấy. Cũng có thể hắn nảy ra một ý định nào đó. Thường
khi mang súng, chúng hay nổi hứng bất tử, nhất là khi
chúng gặp gái.
- Cám ơn anh – Gant nói – Câu chuyện khiến tôi yên tâm một
phần nào. cám ơn anh nhiều.
- Thì cậu hãy ngồi xuống đã nào – Chesser thở dài –
Chúng ta chẳng biết làm gì hơn là chờ đợi.
Gant ngồi xuống. Anh bắt đầu lấy tay xoa trán. Cuối cùng
Chesser thôi không nhìn trần nhà nữa, ông ta chăm chú theo
dõi Gant đang ngồi phía bên kia.
- Cô gái là gì của cậu? Bồ cậu à?
- Không - Gant nói, anh nhớ lại lá thư mà anh đã đọc ở
trong phòng Ellen tại khách sạn. – Không, người yêu của
nàng ở Wisconsin.
Phần II - Chương 13
Chiếc xe như mũi tên lao vun vút trên mặt đường trải nhựa
thẳng tắp, tiếng bánh xe rít lên đều đều nghe đến lạnh
người. Cây kim dạ quang nơi đồng hồ cây số chỉ con số 80.
Bàn chân nhấn ga không nhúc nhích, trông như bàn chân của
một tượng đá.
Hắn lái xe bằng tay trái, thỉnh thoảng cho xe lượn qua
phải, qua trái để tránh cơn buồn ngủ do sự yên tĩnh của
con đường trường ban đêm gây ra. Ellen ngồi thu người sát
cửa, toàn thân bất động, mắt mở trừng trừng nhìn bàn
tay đang nắm chặt chiếc khăn tay để ở trên đùi. Giữa chỗ
ngồi của hắn và nàng, bàn tay phải mang găng của hắn
trông như con rắn đang dí họng súng vào bụng nàng.
Nàng đã thét lên, kêu gào, than khóc, những tiếng ục ục
trong cổ họng nàng tưởng chừng như tiếng ùng ục của
một con vật đang bị cắt tiết, nghe đau thương còn hơn
nhìn thấy những dòng nước mắt đầm đìa trên mặt nàng.
Hắn đã kể cho Ellen nghe mọi chuyện một giọng cay đắng.
Thỉnh thoảng hắn lại ném cái nhìn độc ác lên khuôn mặt
xám xịt của cô gái yếu đuối đang run rẩy kia. Hắn có do
dự khi kể chuyện nhưng là cái do dự của một tên lính
được về nhà, đang kể lại cho những người dân hiền hòa
trong thành phố nghe những chiến tích của hắn. Làm thế
nào hắn có được huân chương, làm thế nào hắn đâm được
lưỡi lê nhọn hoắt vào bụng, vào ngực kẻ thù. Đôi lúc
hắn có cái vẻ khinh khỉnh đối với đám người đang nghe
hắn kể chuện, vì chưa bao giờ họ biết ngoáy lưỡi lê
vào bụng ai như hắn đã từng làm. Người ta hỏi và hắn
kể huyên thuyên. Như thế đấy! Hắn đã kể cho Ellen nghe
nào là những viên thuốc, nào là mái nhà cao ngất, nào
là tại sao hắn phải giết Dorothy, hắn phải sắp xếp một
chương trình tỉ mỉ để chuyển về Caldwell rồi theo đuổi
Ellen, người mà qua các lần trò chuyện với Dorothy, đã
biết Ellen thích cái gì, không thích cái gì và làm
cách nào để trở thành mẫu người đàn ông Ellen đang mong
đợi. Nghĩ cũng thật buồn cười. Hắn đã dùng mọi mánh
khóe, thủ đọan để chiếm cho bằng được cô con gái nhà
giàu. Nhưng giờ đây… Hắn kể với thái độ hận thù, căm
ghét. Ellen lấy hai tay bịt miệng, kinh hoàng tưởng chừng
nàng đang nằm trên một tảng băng giá buốt, trôi bồng
bềnh giữa đại dương. Nàng không biết rằng lâu nay nàng
đang nằm trong miệng ác thú. Toàn thân nàng tê dại như
thể phần trên đã chết tự lúc nào, không phải chết vì
viên đạn mà chết vì cái chất thép lạnh lẽo của họng
súng vô hồn.
Nàng nghe, nàng khóc, nàng kêu gào. Nàng không hiểu cái
gì đã gây nên nỗi đau đớn bàng hoàng cho nàng. Tiếng kêu
thét của nàng là tiếng rú, tiếng tru thê thảm của con
vật bị cắt cổ, nghe xót xa, đau thót con tim. Nàng ngồi
bó người sát cửa xe, nhìn bàn tay bấu chặt chiếc khăn
tay đặt trên đùi.
- Anh đã bảo là đừng đi! – Hắn nói, giọng the thé, giận
dữ – Anh đã van xin, lạy lục em hãy ở lại Caldwell, phải
không? – Hắn liếc mắt nhìn như để thấy nàng xác nhận –
Nhưng không, em dứt khoát không chịu. Em phải là nữ thám
tử mới được! “Đừng coi thường khả năng phụ nữ” – Hắn
nhại lại lời Ellen viết trong thư – Ừ, giờ đây là những
gì nữ thám tử phải gánh chịu – Mắt hắn nhìn thẳng
trước mũi xe – Nếu em biết anh đã sống như thế nào kể
từ thứ hai vừa rồi! – Hắn nghiến chặt hàm răng. Hắn
nhớ lại thế giới đã sụp đổ dưới chân hắn ra sao khi
Ellen gọi điện thoại cho hắn vào sáng thứ hai: “Dorothy
không tự tử! Em sẽ đi Blue River.” Và hắn đã bổ nhào
một cách tuyệt vọng xuống nhà ga để mong lôi kéo nàng
ở lại, cố nài nàng ở lại, nhưng nàng đã bước lên tàu.
“Em sẽ viết thư cho anh. Em sẽ giải thích mọi chuyện”.
Nàng đi, để hắn đứng đây. Nhìn nàng đi, người hắn đẫm
mồ hôi, bàng hoàng, sợ hãi. Cứ nghĩ đến là đã thấy
khiếp sợ.
Ellen lầm bầm.
- Em nói gì?
- Họ sẽ bắt anh!
Hắn im lặng, một lúc sau hắn nói:
- Em biết có bao nhiêu người họ chưa tóm được không? Năm
mươi phần trăm. Nhiếu quá phải không? Còn hơn thế nữa em
à! – Hắn lại im lặng – Hừ, bọn chúng làm thế nào bắt
được anh? Dấu tay? – Không. Nhân chứng? – Không. Bằng
chứng? – Bọn chúng chẳng có bằng chứng đếch nào cả!
Thậm chí bọn chúng chẳng hề nghĩ đến kẻ đó lại là
anh. Còn khẩu súng? Em biết không, anh phải lặn lội qua
tận Mississipi mang về Caldwell. Thế là bọn chúng bó tay
nhé! Chiếc xe ư? Có gì khó đâu, hai ba giờ sáng anh đem
vất nó cách ba dãy nhà nơi anh đánh cắp xe. Bọn chúng
sẽ nghĩ là mấy thằng sinh viên điên khùng nào đó lấy
cắp thôi. “Bọn thanh thiếu niên hư hỏng chứ còn ai!” –
Hắn cười – Cũng như đêm qua, anh ngồi cách em và Powell
hai dãy ghế ở trong rạp; ở phía cuối hành lang anh nhìn
thấy thằng chó đó hôn từ biệt em – Hắn liếc nhìn xem
phản ứng của Ellen. nàng không nhúc nhich. Hắn quay lại
nhìn con đường. Nét mặt hắn bỗng sa sầm lại – Bức thư
đó của em, khi nhìn thấy bức thư , anh sợ chết điếng cả
người. Mới đọc tưởng không có gì, vì em đang tìm thằng
đó trong lớp tiếng Anh với Dorothy ở học kỳ mùa thu.
Trong lúc mãi đến tháng giêng anh mới học với Dorothy ở
lớp triết kia. Nhưng tên em đang tìm quả là thằng bồ cũ
của Dorothy – Anh gọi hắn là thằng bồ mang bít tất màu
lá mạ. Hắn với anh cùng học một lớp toán. Hắn gặp anh
và Dorothy vài ba lần. Anh nghĩ là hắn biết tên anh. Và
hắn bắt buộc hắn phải khai tên anh ra để em tin là hắn
không giết Dorothy.
Thình lình hắn đạp thắng xe, chiếc xe trườn tới và
đứng lại. hắn bẻ tay lái sang bên trái, gài số. Hắn
nhấn ga, chiếc xe chầm chậm lùi lại. Phía bên phải, có
một căn nhà nằm trong bóng tối. Hắn cho xe chạy vòng
đến căn nhà đó. Để máy nổ, hắn bóp một hồi còi thật
dài. Tiếng còi xe vang inh ỏi trong đêm. Đợi một chốc
hắn lại bóp thêm một hồi còi nữa. Vẫn yên lặng. Các
cửa sổ vẫn đóng im ỉm, không một ngọn đèn bật sáng.
“Nhà không có người” – Hắn nghĩ. Hắn liền tắt đèn xe,
gài số. Trong bóng đêm, chiếc xe chồm về phía trước, rẽ
trái, chạy ra phía sau căn nhà đó, rồi hắn lái xe chạy
đến cuối bãi đất trống. Hắn gài số an toàn, vẫn để
máy nổ.
- Đừng anh, đừng anh… - Giọng Ellen thảng thốt.
- Em tưởng anh thích làm thế này lắm sao? – Hắn nói – Em
tưởng anh khoái chí với ý định này lắm à? Ta gần hứa
hôn với nhau rồi mà! – Hắn mở cửa xe bên trái – Em phải
thông minh… - Hắn bước ra khỏi xe, đặt chân lên mặt đường
đầy hắc ín, súng vẫn chĩa thẳng vào người Ellen. Khuôn
mặt nàng co rúm đến khủng khiếp – Đến đây! – Hắn ra
lệnh – Bước ra phía này!
- Anh, van anh…
- Em bảo anh phải làm gì bây giờ hả Ellen. Anh không thể
để em thoát được, phải không? Anh đã nói em hãy quay về
Caldwell và đừng nói gì cả, phải không? – Hắn lấy khẩu
súng một cách giận dữ – Bước ra!
Nàng trườn người ra khỏi cửa xe, tay ôm chặt cái ví, run
rẩy đặt chân xuống lòng đường.
Hắn lấy khẩu súng ra hiệu Ellen đi nửa vòng, đến khi
nàng đứng lại, phía sau lưng nàng là bóng tối dày đặc.
Họng súng vô hồn vẫn chĩa vào người nàng.
- Đừng, đừng…
Ellen lấy ví đưa lên che mặt.
Phần II - Chương 14
Clarion Ledge ra ngày thứ năm 15-3-19…
HAI XÁC CHẾT
Cảnh sát lùng bắt tên mang súng bí mật
Đêm qua, trong vòng hai tiếng đồng hồ, một kẻ lạ mặt đã
dùng súng giết người một cách dã man. Nạn nhân là Ellen
Kingship, hai mươi mốt tuổi, ở thành phố New York và
Dwight Powell, hai mươi ba tuổi, ở Chicago, sinh viên năm thứ
ba đại học Stoddard.
Powell đã bị giết vào khoảng mười giờ tối, tại căn nhà
của bà Elizabeth Honig, số 1520 đường 35 khu tây, nơi Powell
ở trọ. Theo cảnh sát cho biết, Powell về nhà, lúc chín
giờ mười phút cùng đi có cô Kingship. Nạn nhân lên phòng
ở tầng hai và chạm mặt với tên trộm vũ khí. Tên trộm
đã lẻn vào nhà trước khi họ về bằng cửa sau.
Theo kết quả xét nghiệm của các bác sĩ thì cô Kingship
bị giết vào khoảng nửa đêm. Tuy nhiên mãi đến bảy giờ
hai mươi sáng mới phát hiện ra thi thể của nàng, khi ông
Willis Herne ở gần khu vực xảy ra thảm kịch, đi ngang qua
để đến cơ quan.
Do nguồn tin của Gordon Gant, nhân viên của đài KBRI, cảnh
sát đã được biết nạn nhân chính là chị của cô gái đã
nhãy lầu tự tử vào tháng tư năm vừa qua tại tòa Hành
chính.
Leo Kingship, chủ tịch công ty Kingship Copper, cha của cô
gái bị giết, sẽ đến Blue River trưa nay, cùng đi với cô
con gái đầu là Maroin Kingship.
Báo Clarion Ledge thứ năm tháng 4-19…
GORDON GANT BỊ SA THẢI
Trong việc sa thải Gordon Gant khỏi nhiệm sở, ban Giám
đốc đài KBRI cho biết: mặc dầu đã nhiều lần được nhắc
nhở, cảnh cáo, Gordon Gant vẫn cứ dùng điện đài của cơ
quan để quấy nhiễu và phát biểu có tính cách phỉ báng
Sở cảnh sát. Sự kiện trên hình như có liên quan đến cái
chết Ellen và Powell cách đây một tháng, việc mà Gant
rất quan tâm.
Việc chỉ trích công khai của Gant là thiếu thận trọng,
nhưng quả thật, nói cho cùng, Sở cảnh sát vẫm dậm chân
tại chỗ và chưa có một nỗ lực nào trong việc điều tra
vụ án. Chúng tôi gần như bắt buộc phải chấp nhận luận
cứ của Gant là đúng.
Phần II - Chương 15
Cuối năm học, hắn quay về Menasset. Hắn quanh quẩn mãi
trong nhà với thái độ chàn chường. Mẹ hắn cố gắng tìm
cách dẹp bỏ vẻ ủ rũ của hắn và sau đó bà trách mắng
hắn. Hai mẹ con tranh cãi nhau một trận dữ dội. Để bứt
ra khỏi nhà, hắn nhận việc tại cửa hàng bán đồ lót
đàn ông. Từ chín giờ sáng đến năm giờ ba mươi chiều,
hắn đứng sau cửa kính quầy hàng mà không một lần nhìn
đến những sợi dây đồng viền quanh quầy.
Vào một ngày tháng bảy, hắn lấy từ trong tủ áo quần
ra một chiếc hộp bằng sắt. Hắn để trên bàn rồi mở hộp
lấy ra những mẩu báo viết về vụ Dorothy tự tử, xé nhỏ
thành những mảnh vụn và vất vào sọt rác. Hắn vứt luôn
những bài viết về Ellen và Powell. Sau đấy hắn lôi quyển
sách nói về công ty Kingship mà hắn đã viết thư xin lần
thứ hai khi hắn bắt đầu quen Ellen. Tay vừa xé quyển
sách, hắn chợt nghĩ đến Dorothy và Ellen, môi mỉm nụ
cười buồn thảm.
Hình như hắn vừa nghĩ đến những tờ Trung thành Hy vọng
và một từ vừa mới nảy sinh trong đầu hắn: Nhân đạo, cho
cân xứng với ba tên: Dorothy, Ellen… Marion.
Hắn cười thầm và định xé mấy quyển sách kia. Nhưng
bỗng nhận ra là không nên làm như thế, hắn chầm chậm để
mấy quyển sách nhỏ lên bàn, đưa tay vuốt thẳng những
nếp gấp một cách máy móc.
Hắn đẩy cái hộp và những quyển sách vào trong hộc
bàn, ngồi xuống và lấy một mảnh giấy, ghi ở trên đó
chữ “Marion”, rồi vạch một đường chia làm hai cột, một
cột đề chữ “thuận”, cột kia chữ “chống”.
Hắn ghi dày đặc ở cột “thuận”: những lần nói chuyện
với Dorothy, với Ellen, những vấn đề liên quan đến Marion,
sở thích của Marion, những điều nàng không ưa thích, quan
điểm, quá khức của Marion. Hắn biết Marion thích đọc
loại sách nào mặc dù chưa từng gặp nàng. Hắn biết cả
sự cô độc, nỗi cay đắng, cách sống tách biệt của nàng…
Cột này được ghi khác đầy đủ và hoàn hảo.
Tình cảm của hắn cũng ghi ở cột “thuận”.
“Thử thời vận một lần nữa xem sao – Hắn nghĩ – Hai lần
trước xôi hỏng bỏng không. Lần thứ ba là con số may
mắn…”.
Lần thứ ba may mắn, trong chuyện cổ tích thời thơ ấu
đầy rẫy sự thử thách lần thứ ba, lời ước thứ ba,
người cầu hôn thứ ba…
Hắn nhận thấy chẳng có vấn đề gì để ghi ở cột
“chống” cả. Đêm đó hắn xé bỏ mảnh giấy ghi
“thuận-chống” và làm lại một bảng khác ghi những đặc
tính của Marion, những quan niệm, những sở thích và
những điều không ưa thích của nàng. Hắn luôn ghi chú thêm
vào và trong những tuần kế tiếp hắn cứ đều đặn thêm
vào những chi tiết mới về Marion.
Vào những giây phút rảnh rỗi, hắn lại thả hồn lần về
những buổi nói chuyện với Dorothy và Ellen trong những
buổi ăn trưa, giữa các tiết học, trong những lúc đi dạo,
khiêu vũ, lần mò từng từ, từng nhóm từ, từng câu trong
ký ức của hắn. Đôi khi hắn dành trọn một buổi dài để
nằm dài ra miên man suy nghĩ, nhớ lại những chi tiết nhỏ
nhặt nhất liên quan đến Marion.
Khi bản kê khai đã dày đặc, người hắn phấn chấn hẳn
lên. Đôi lúc hắn mở chiếc hộp sắt, lấy bản ghi ấy ra
nhìn để tự thán phục mình: sự tinh vi, kế hoạch chặt
chẽ, giống như những gì hắn đã tính toán, đã hành
động đối với Dorothy và Ellen.
- Mày là một thằng điên – Một ngày kia hắn bỗng thốt
lên như thế khi nhìn bảng ghi kia – Mày là một thằng gàn
dỡ – Hắn nói lộ vẻ thích thú. Thực ra không bao giờ
hắn tự gán cho mình là một thằng điên cả. Hắn nghĩ
hắn là một người thông minh, gan dạ, anh hùng và liều
lĩnh.
- Con sẽ không đi học nữa – Một ngày vào tháng tám, hắn
nói với mẹ hắn như vậy.
- Cái gì? – Bà mẹ dáng người nhỏ, ốm yếu, đứng ở cửa
phòng hắn, tay vuốt mái tóc bạc, hỏi lại.
- Vài tuần nữa con sẽ lên New York.
- Con chưa tốt nghiệp kia mà! – Bà than vãn. Hắn im lặng
– Con sẽ làm gì, làm cái nghề ngỗng gì ở đó chứ?
- Con không biết, nhưng con sẽ có nghề. Con có ý định
tiếp tục làm việc. Đó là dự định, đại loại là như
thế mạ ạ.
- Nhưng con phải tốt nghiệp, Bud! – Bà do dự nói.
- Con không có phải gì hết – Hắn xẳng giọng. Im lặng –
Nếu ý định của con lần này bị thất bại, điều đó con
không nghĩ đến đâu, thì con có thể thi tốt nghiệp vào
năm đến.
Bà mẹ lấy mép áo lau trán, vẻ căng thẳng, phiền muộn.
- Nhưng con đã trên hai mươi lăm tuổi rồi còn gì. Con
phải… phải tốt nghiệp và tạo cho mình một chỗ đứng.
Con không thể cứ mãi…
- Xem kìa! Mẹ phải cho con sống cuộc đời của con chứ.
Bà mẹ trừng mắt nhìn hắn:
- Cha mày cũng thường nói với tao như thế!
Bà im lặng bỏ đi.
Hắn đứng cạnh bàn học một lúc, nghe tiếng lầm rầm
giận dữ vang lên trong nhà bếp. Hắn lấy báo đọc, làm
như không quan tâm đến những gì xảy ra.
Vài phút sau hắn đi vào nhà bếp. Mẹ hắn đang đứng
trước chậu rửa chén, lưng xoay về phía hắn.
- Mạ à – Hắn năn nỉ – Mẹ biết là con cũng lo lắng như
mẹ. Con cũng muốn có một chỗ đứng nào đấy – Bà mẹ
cũng không quay lại – Mẹ nên hiểu là con sẽ không bỏ học
nếu ý định này không quan trọng như thế – Hắn đi đến
gần bàn, ngồi xuống ngay sau lưng mẹ hắn – Nếu công việc
không thành, năm tới con sẽ thi tốt nghiệp, con xin hứa
với mẹ như vậy.
Bất đắc dĩ bà quay lại.
- Dự định gì thế? – Bà chậm rãi hỏi – Một phát minh
chăng?
- Không phải. Con không thể nói cho mẹ nghe được – Hắn
nói một cách ân hận – Chỉ là… mới phác họa thôi mẹ ạ.
Con xin lỗi…
Bà mẹ thở dài, lấy khăn lau tay.
- Con thử đợi đến năm tới rồi thực hiện không được hay
sao? Đến lúc nào con mới đỗ đạt?
- Chậm nhất là sang năm, mẹ à.
Bà bỏ khăn xuống.
- Mẹ mong con nói cho mẹ biết mọi chuyện.
- Không được, mẹ ạ. Con cũng muốn nói cho mẹ nghe lắm.
Nhưng thú thật, việc này con không sao giải thích với mẹ
được.
Bà xoay hẳn người lại, đặt tay lên vai hăn. Bà đứng như
thế rất lâu, nhìn xuống gương mặt lo âu của hắn đang
ngẩng lên nhìn bà.
- Thôi được – Bà nói – Mẹ mong đó là một ý định tốt!
Hắn nhìn mẹ, mỉm cười sung sướng.
Phần Ba - MARION
Phần III - Chương 1
Khi Marion tốt nghiệp đại học, ông bố vội vàng đề nghị
ông giám đốc phụ trách phòng quảng cáo cho công ty
Kingship Copper lưu ý đến trường hợp của nàng. Do đó
người ta định giao cho nàng công việc viết quảng cáo.
Mặc dù rất thích công việc này, nhưng Marion từ chối
lời đề nghị trên. Cuối cùng nàng tự xoay sở tìm cho
mình một chỗ làm ở một chi nhánh không lớn lắm. Ở đó
người ta cho phép nàng viết quảng cáo cho những cơ sở
nhỏ với điều kiện việc ấy không ảnh hưởng đến công
việc hành ngày của nàng.
Một năm sau, khi Dorothy theo Ellen làm cổ động viên cho
những trận đấu bóng và bắt đầu có những buổi hẹn hò,
trao đổi những nụ hôn với bạn trai, Marion vẫn sống thui
thủi trong tòa nhà rộng lớn với ông bố. Nhưng hai cha con
sống như hình với bóng, thầm lặng đi bên nhau. Dù ông bố
phản đối quyết liệt, Marion vẫn quyết định ra ở riêng.
Nàng đến thuê một căn nhà có hai phòng ở tầng trên của
một gia đình khá giả ở khu đông. Nàng sửa soạn, trang
trí căn phòng rất cẩn thận. Bởi vì hai phòng quá nhỏ,
không rộng lớn như nhà ông bố, nàng không thể mang hết
đồ dùng đ theo. Do đó Marion phải cân nhắc, chọn lựa kỹ
lưỡng những vật gì nàng thích nhất, có ý nghĩa với
nàng nhất. Việc này phải làm một cách chính xác mới
được. Nhưng khi treo những bức tranh lên, khi sắp xếp sách
lên giá sách, nàng mới thấy nàng trình bày không phải
cho cảm quan của mình mà cho thị hiếu, ý thích của bất
cứ ai tình cờ đến viếng thăm nàng, dù người khách đó
là nam hay nữ. Mỗi đồ vật đều phản ánh tâm tư, tình
cảm của nàng, từ cái gạt tàn thuốc đến tranh ảnh, đĩa
nhạc, sách, mỗi đồ dùng đều được nàng chọn lựa tỉ
mỉ. Với nàng, sách là một vật phản ánh rõ nét nhất
bản chất của người đọc, do đó nàng đã đầu tư nhiều
thời gian trong việc chọn sách. Có thể nói căn phòng
của nàng là một thư viện thu nhỏ lại, một phòng triển
lãm bỏ túi. Tranh của Charles Demuth, nhạc của Brahms,
Grieg, Rachmanioff, và Stravinski…, sách của Proust… (*) Tuy
nhiên, nhìn chung sự bày biện ấy càng cho thấy nỗi lẻ
loi cô độc của nàng. Nếu là một họa sĩ, hẳn Marion có
thể phác họa chân dung của mình một cách chính xác. Vì
qua sự trình bày trong phòng, một ngày nào đó sẽ có
một người khách đọc được, đoán được những tâm tư tình
cảm thầm kín của nàng, phát hiện ra con người sâu lắng
của nàng và sẽ thấy thật khó giao cảm với nàng.
Những công việc quan trọng trong tuần của nàng là vào
tối thứ tư nàng dùng cơm tối với ông bố, ngày thứ bảy
dọn dẹp, lau chùi căn phòng. Việc đầu tiên là vì bổn
phận, việc thứ hai là vì yêu thích lao động. Nàng đánh
bóng và chùi sạch kính, phủi bụi, xếp đặt lại đồ
dùng một cách cẩn thận đến ngạc nhiên.
Nàng vẫn có khách đấy chứ. Đó là hai cô em gái, Ellen
và Dorothy, mỗi dịp nghỉ hè đều về thăm nàng và đôi
lúc cả hai người đều thấy ganh tị với chị, vì quả
thật Marion là một phụ nữ khéo léo, đảm đang. Ông bố
cũng đến thăm và khi lên hết cầu thang thì ông mệt lử,
ngao ngán nhìn căn phòng ngủ tù túng và cái bếp chật
hẹp. Thỉnh thoảng một vài cô bạn gái ở cơ quan đến
chơi, đánh bài, khiến cho căn phòng ồn ào náo nhiệt cả
lên, ta có cảm tưởng nơi đây đạo và đời đang diễn ra một
cách gay gắt. Một lần có chàng thanh niên thông minh, đẹp
trai, học ngành tư pháp đến thăm nàng, nhưng đôi mắt anh
ta cứ chăm bẳm nhìn chiếc đivăng trong phòng.
Khi Dorothy tự tử, Marion về ở với bố được hai tuần. Khi
Ellen chết, nàng về ở hơn một tháng. Nhưng không vì thế
mà hai bố con gần gũi nhau thêm dù cả hai người đã cố
tìm cách. Đến cuối tháng, ông bố, chưa bao giờ cảm thấy
lúng túng và khó khăn đến thế, đề nghị Marion dọn về
ở với ông. Marion từ chối. Ý nghĩ phải rời khỏi căn
nhà đang thuê là điều nàng không hề nghĩ đến, như thể
nàng đã tự nhốt kín mình ở nơi đó vậy. Tuy nhiên sau
thời gian ấy, nàng thường về ăn tối với ông bố mỗi
tuần va lần thay vì một lần như trước kia.
Cứ vào những ngày thư bảy, nàng chùi nhà, và mỗi
tháng một lần nàng lại mở tất cả các quyển sách ra
để bìa khỏi rít lại.
Vào khoảng tháng chín, một buổi sáng thư bảy, chuông
điện thoại vang lên. Marion lúc đó đang quì gối khom
người chùi mặt dưới chiếc bàn lót kính, ngước nhìn về
phía điện thoại hy vọng người ta gọi nhầm số. Chuông
điện thoại lại reo. Miễn cưỡng, Marion đứng dậy đi về
phía điện thoại, tay vẫn cầm giẻ lau nhà.
- Alô. Ai gọi đó? – Giọng nàng hời hợt.
- Có phải cô Kingship không ạ? – Giọng xa lạ của một
người đàn ông,
- Vâng, chính tôi.
- Cô không biết tôi. Tôi là bạn của Ellen – Bỗng nhiên
nàng cảm thấy lúng túng – “Bạn Ellen, một người đẹp
trai, ăn nói hoạt bát… nhưng bên trong là một người trầm
buốn, âu sầu…” – Marion nhớ lại những gì Ellen đã kể cho
nàng nghe. Tuy nhiên Marion chẳng bận tâm đến. Nàng trở
lại bình thường…
- Tôi là… - Giọng người đó tiếp tục – Burton Corliss… Bud
Corliss.
- Ồ, vâng vâng, tôi có nghe Ellen nói về anh… - “Em rất yêu
anh ấy”, Ellen nhắc mãi đến điều đó khi đến thăm Marion
lần cuối cùng, “Anh ấy cũng yêu em lắm”. Marion mừng cho
em, nhưng đêm về, lòng nàng thấy buồn buồn thế nào ấy.
- Tôi có thể gặp cô được không? – Hắn nói – Tôi có một
vài vật Ellen để lại. Trong số đó có quyển sách Ellen
đã cho tôi mượn trước khi nàng đi Blue River. Tôi nghĩ là
cô muốn lấy lại quyển sách đó.
“Thứ sách ba ba xu chứ gì?” Marion nghĩ thầm nhưng rồi
tự trách tính nhỏ nhặt ấy của mình, nàng vội nói:
- Ồ cám ơn. Thế thì tốt quá.
Đầu dây bên kia im lặng một chốc, rồi giọng người ấy
lại vang lên.
- Tôi sẽ đem lại ngay. Tôi ở cùng ven đô gần đây.
- Ồ không không, tôi phải đi bây giờ! – Nàng nói nhanh.
- Thôi mai vậy.
- Ngày mai tôi cũng không có ở nhà đâu – Nàng thấy hổ
thẹn vì đã nói dối, vì chẳng muốn hắn có mặt trong
căn phòng này. “Có thể hắn không đến nỗi nào”, Marion
nghĩ – Hắn đã yêu Ellen và giờ đây Ellen đã chết, hắn
muốn trả lại những gì của Ellen. Chẳng có gì phải
ngại, nghĩ thế nên nàng nói:
- Chiều nay ta gặp nhau ở đâu đấy cũng được.
- Vậy thì hay quá – Hắn đáp.
- Tôi sẽ đến đại lộ Năm.
- Ta sẽ gặp nhau trước tượng đồng ngay trung tâm
Pockefeller, chỗ mà ngày xưa Atlas đã dựng lên thế giới.
- Vâng, tôi sẽ đến đó.
- Vào lúc ba giờ được không?
- Được. Cám ơn anh đã gọi điện.
- Có gì đâu – Hắn nói – Chào Marion nhé! – Im lặng – Tôi
gọi thế được chứ? Ellen hay kể về Marion lắm.
- Cũng chẳng sao – Marion lại bối rối, không biết nên gọi
hắn là Bud hay là cậu Corliss – Xin chào.
- Chào Marion – Hắn đáp lại.
Nàng gác máy, đứng nhìn máy điện thoại một lúc, rồi
quay lại bàn tiếp tục lau chùi. Chưa bao giờ nàng nôn
nóng đến thế bởi vì trọn buổi chiều nay xem như không
làm gì được rồi.
(*) Johannes Brahms: (1833 – 1897) nhạc sĩ người Đức.
Edw ard Grieg: (1843 – 1907) nhạc sĩ người Na Uy.
Rachmaninoff: (1873 – 1943) nhạc sĩ người Nga.
Proust: (1871 – 1922) nhà văn người Pháp (ND).
Stranvinski: nhạc sĩ người Nga.
Phần III - Chương 2
Hắn, trong bộ quần áo trắng tinh, tay cắp một gói hàng
được bao giấy cẩn thận, đang đứng trong bóng che của bức
tượng đồng, quay mặt ra đại lộ Năm. Người qua lại đông
đúc. Những dòng xe buýt, xe tắc xi nối đuôi nhau chạy như
mắc cửi trên đường. Hắn chăm chú nhìn các bà, các cô
áo quần hợp thời trang, khăn quàng cổ đủ màu sắc, đầu
ngẩng cao như thể các ông phó nhòm đã đứng sẵn đâu dưới
kia vậy. Hắn vừa đưa mắt nhìn, vừa nhớ lại tấm hình
Dorothy đã đưa cho hắn xem trước kia. “Chị Marion khá đẹp,
chỉ vì chị rẽ tóc kiểu này…”. Hắn cười, nhớ nét cau
mày của Dorothy lúc nàng hất ngược mái tóc ra sau khi
nói thế. Hắn mân mê tờ giấy bao phía ngoài, mơ màng.
Marion từ phía bắc đang đi đến. Hắn nhận ra nàng khi
nàng còn cách hắn một trăm thước. Nàng cao lớn, hơi
gầy, trang phục giống như các phụ nữ khác quanh nàng.
Bộ áo quần nâu, khăn quàng cổ màu vàng, vai đeo xách tay
lủng lẳng, trông nàng có vẻ ngượng nghịu như thể có ai
đang ngắm nghía, đánh giá nàng. Tóc nâu, đôi mắt to cũng
màu nâu giống như đôi mắt của Dorothy, nhưng khôn mặt lớn,
gò má hơi cao nên trông nàng đẹp hơn hai cô em gái. Khi
đến gần, nàng mới nhìn thấy hắn. Nàng tiến lại, miệng
mỉm cười ngại ngùng như thầm hỏi và cảm thấy lúng
túng trước cái nhìn soi mói của hắn. Hắn để ý thấy
sáp môi của nàng màu hồng nhạt, hắn vẫn nghĩ đó là
biểu hiện bản chất e thẹn của tuổi mới trưởng thành.
- Marion?
- Vâng – Nàng ngại ngùng đưa tay ra – Chào anh- Nàng nói,
mỉm cười nhìn xuống. Bàn tay có những ngón tay thon
dài, lành lạnh.
- Chào Marion – Hắn nói – Mong được gặp cô quá.
Nàng và hắn vào một quán giải khát gần góc đại lộ.
- Tôi không thể ở lâu được – Marion nói, ngồi thẳng người
nơi mép ghế, hai tay nắm chặt ly nước ngọt.
- Những người đàm bà đẹp luôn luôn chạy đi đâu vậy? –
Hắn cười gạn hỏi, nhưng ngay tức khắc hắn nhận thấy
thân mật như thế là sai lầm. Nàng cười, vẻ khó chịu.
Hắn băn khoăn nhìn Marion, đợi cho câu nói của hắn lắng
xuống, rồi hỏi – Cô làm ở chi nhánh quảng cáo phải
không?
- Vâng – Nàng trả lời – Anh vẫn theo học ở Caldwell?
- Không.
- Sao Ellen nói anh còn một năm nữa?
- Đúng thế nhưng tôi phải thôi học. – Hắn uống một hớp
rượu ngọt – Bố tôi mất. Tôi không muốn mạ tôi phải làm
lụng nữa.
- Ồ xin lỗi anh…
- Có lẽ năm đến tôi mới thi ra trường. Hoặc đi học lớp
đêm. Cô học đại học nào?
- Đại học Columbia. Anh ở New York đến?
- Không, ở Massachusetts.
Cứ mỗi lần hắn cố bắt chuyện về đời tư nàng thì nàng
lại hướng câu chuyện về chính hắn, về thời tiết, hoặc
về điều gì đấy.
Cuối cùng nàng hỏi:
- Quyển sách đâu?
- Có đây, Dinner at Antoine’s (Bữa cơm tối tại gia đình
Antoine), Ellen muốn đọc quyển này. Nàng có ghi chú cảm
nghĩ của mình nơi tờ giấy rời, tôi nghĩ là Marion sẽ
thích thú lắm. – Hắn trao cái gói cho Marion – Riêng tôi –
Hắn nói tiếp – quyển sách đó không có ý nghĩa gì lắm.
Marion đứng lên.
- Tôi phải đi đây. Xin lỗi anh.
- Nhưng cô chưa uống hết ly nước kia mà.
- Rất tiếc – Nàng nói nhanh, nhìn xuống cái gói đang
cầm ở tay – Tôi có hẹn về công việc. Không thể trễ
được.
- Tuy nhiên… - Hắn đứng dậy.
- Xin lỗi – Nàng nhìn hắn, lúng túng.
Hắn để tiền lên bàn. Họ đi trở lại đại lộ. Đến góc
đường, nàng đưa tay ra bắt. Bàn tay vẫn lạnh ngắt.
- Rất hân hạnh được gặp anh. Cám ơn anh đã đãi tôi uống
và cám ơn về quyển sách. Thành thật… - Nàng quay đi,
nhập vào đám đông.
Lạc lõng, hắn đứng đó một chốc, rồi mím môi rảo bước
đi theo, cách nàng một khoảng khá xa. Nàng đi ngược lên
đường 49, băng qua đại lộ, thẳng hướng về phía đông. Hắn
biết nàng đi đâu rồi. Hắn nhớ lại địa chỉ ghi trên cuốn
danh bạ. Marion băng qua công viên, bước vào ngôi nhà nàng
ở. Hắn đứng ở góc đường, nhìn theo cho đến khi nàng
bước hẳn vào trong nhà.
“Hẹn công việc” – Hắn lẩm bẩm. Hắn đứng đợi một lúc.
Hắn cũng chẳng hiểu hắn đợi cái gì nữa, rồi chầm
chậm quay trở lại đại lộ Năm.
Phần III - Chương 3
Trưa chủ nhật, Marion đến viện Bảo tàng Nghệ thuật. Trên
tầng chín vẫn còn trưng bày chiếc xe trước đây nàng đã
thấy và chẳng còn lưu tâm đến nữa. Tầng hai không đông
người như mọi khi. Nàng đến cầu thang lên tầng ba, đi thơ
thẩn giữa những bức tranh và những tác phẩm điêu khắc
quen thuộc, vui mắt: những đường nét mềm mại của bức
“GIRL WASHING HER HAIR”, và chất thơ lai láng nơi tác phẩm
“BIRD IN SPACE…” (1).
Có hai người đang ngắm những tác phẩm điêu khắc của
Lehmbruck nhưng khi Marion bước vào, họ đi ngay để một
mình nàng với hình khối lạnh lùng của hai bức tượng,
một nam một nữ, tượng nam đứng, tượng nữ quỳ gối, thân
hình đôi nam nữ thon dài toát ra một vẻ đẹp man mác
buồn. Cái nét mong manh đó khiến cho bức tượng như thoát
khỏi cuộc sống, mông lung trông giống như một tác phẩm
tôn giáo đến nỗi Marion có thể nhín ngắm mãi mà không
một ý nghĩ xấu xa nào gợn lên trong tâm hồn như những
lần nàng ngắm nhìn những bức tranh, bức tượng khỏa thân
khác. Nàng đi quanh tượng điêu khắc người trai trẻ trung
ấy.
- Xin chào! – Một giọng nói đầyy vẻ ngạc nhiên và thích
thú vang lên phía sau lưng nàng.
“Ai chào mình thế – Nàng nghĩ – Vì có ai ở đây ngoài
mình ra đâu”. Nàng quay người lại.
Bud Corliss đang đứng ở cửa ra vào.
- Chào anh – Marion cười bối rối.
- Thế giới nhỏ thật – Hắn nói rồi đến gần nàng – Tôi
đi ngay sau lưng cô ở tầng dưới, nhưng không dám chắc là
cô. Mạnh khỏe chứ?
- Cám ơn anh, rất khỏe – Một thoáng im lặng ngượng ngùng
– Còn anh thế nào? – Nàng hỏi.
- Mạnh như trâu, cám ơn Marion.
Cà hai quay lại bức tượng. “Tại sao trông mình có vẻ lố
bịch, lúng túng thế? Có phải vì hắn đẹp trai? Vì hắn
là người yêu của Ellen, đã từng đi xem bóng đá, hôn nhau
và làm tình?”.
- Cô thường đến đây chứ? – Hắn hỏi.
- Vâng.
- Tôi cũng thường đến đây.
Bức tượng bây giờ khiến nàng ngường ngượng vì có Bud
Corliss đứng bên cạnh. Nàng đi về phía người nữ đang
quỳ. Hắn theo sát bên nàng.
- Hôm đó cô đến đúng hẹn chứ?
- Vâng, đúng hẹn – Nàng trả lời. “Cái gì đưa đẩy hắn
đến đây? Người ta có thể nghĩ hắn đang dong chơi với
Ellen ngày nào đó trong công viên”.
Cả hai nhìn bức tượng. Lát sau hắn nói:
- Thú thật, khi ở dưới lầu, tôi không ngờ lại là cô.
- Tại sao?
- Ellen không phải là người yêu thích chốn này.
- Có phải chị em thì phải luôn luôn giống nhau đâu!
- Đúng, tôi cũng nghĩ thế – Hắn bắt đầu đi vòng quanh
bức tượng – Phòng Nghệ thuật ở Caldwell là một viện
bảo tàng rất nhỏ – Hắn nói – Hầu hết là những tác
phẩm được phục chế lại và những bản mô phỏng. Đôi ba
lần, tôi có kéo Ellen đến đấy. Tôi có ý muốn Ellen cảm
thụ thêm về Nghệ thuật – Hắn lắc đầu tỏ vẻ bất lực –
Nhưng không gặp may lắm!
- Ellen không để tâm đến nghệ thuật lắm.
- Vâng, quả thế. Thật buồn cười khi ta muốn người khác
cũng có cùng sở thích như ta.
Marion nhìn hắn đứng phía bên kia bức tượng.
- Có một lần tôi đưa Ellen và Dorothy đến đây, Dorothy là
em út của tôi…
- Tôi biết…
- Tôi đưa chúng đến đây khi chúng mới lên mười. Trông hai
đứa có vẻ không thích thú lắm. Tôi nghĩ có lẽ chúng
còn nhỏ quá, chưa biết thưởng thức.
- Tôi không rõ – Hắn nói, rồi vòng đến bên nàng – Vào
tuổi đó, gái như ở thành phố tôi sống cũng có một
viện bảo tàng như thế này… Cô đến đây lúc mười hai hay
mười ba tuổi?
- Vào độ tuổi ấy.
- Lúc đó cô hiểu chứ? – Hắn nói, nụ cười của hắn như
muốn nói rằng trong nhóm người hắn quen biết không thể
nào có tên Dorothy và Ellen được.
Đôi vợ chồng nào đó và hai đứa con đang cười như nắc nẻ
đi vào phòng.
- Ta đi thôi – Hắn đề nghị, vẫn đứng sát bên Marion.
- Tôi…
- Hôm nay chủ nhật – Hắn nói – Chẳng có hẹn hò công
việc gì cả, phải không Marion? – Hắn nhìn nàng, cười,
nụ cười thật duyên dáng, hiền lành, thoải mái – Tôi lẻ
loi, cô cũng một thân một mình. – Hắn nhẹ nắm lấy khuỷu
tay nàng – Nào ta đi – Hắn nói, nụ cười đầy vẻ thuyết
phục.
Cả hai đi hết tầng ba, xuống nửa tầng hai, vừa đi vừa
phê bình, nhận xét những tác phẩm. Họ cùng xuống tầng
dưới, đi ngang qua những chiếc xe cũ kỹ lỗi thời ở giữa
phòng và ra cửa kính đi vào ngôi vườn phía sau viện bảo
tàng. Họ đi chầm chậm từ tượng này sang khác, dừng lại
trước mỗi bức tượng. Họ đến bức tượng người đàn bà
của Maillol, bức tượng toàn thân, mạnh bạo. – Người cuối
cùng của loài có vú – Hắn nói, Marion cười:
- Tôi có thể nói với anh điều này. Tôi luôn thấy ngượng
ngùng khi nhìn bức tượng như thế này.
- Nó cũng làm tôi ngượng chín cả người đấy – Hắn mỉm
cười – Không phải khỏa thân, nhưng lõa lồ.
Cả hai bật cười lớn.
Sau khi đã xem xong những bức tượng, họ ngồi xuống chiếc
ghế ở sau vườn và châm thuốc hút.
- Anh và Ellen gắn bó với nhau lắm phải không?
- Chưa đúng lắm.
- Tôi nghĩ…
- Chưa chính thức, tôi muốn nói thế. Dẫu sao gắn bó ở
trường cũng khác gắn bó ở ngoài đời.
Marion hút thuốc, không nói gì,
- Chúng tôi có nhiều cái chung với nhau nhưng đó chỉ là
bề ngoài: học cùng lớp, cùng quen một số bạn bè, cùng
quan tâm đến những gì liên quan đến đại học Caldwell. Tuy
đã một thời tôi và Ellen sống với nhau ở trường đại
học, nhưng tôi không nghĩ là… chúng tôi sẽ cưới nhau –
Hắn nhìn chằm chằm điếu thuốc trên tay hắn – Tôi rất
thích Ellen. Tôi mến nàng hơn bất cứ cô gái nào tôi đã
từng quen biết. Tôi vô cùng khổ tâm khi Ellen chết. Nhưng…
tôi không biết… nàng không phải là người sâu sắc – Hắn
ngừng – Tôi mong sẽ không làm cô phật lòng.
Marion lắc đầu, nhìn hắn.
- Mọi chuyện giống như câu chuyện về viện bảo tàng vậy.
Tôi nghĩ ít ra cũng có thể khiến Ellen quan tâm đến
những nghệ sĩ bình thường, chẳng hạn như Hopper hay Wood.
Nhưng không thành công! Ellen chẳng bận tâm đến cái gì
cả. Đến sách, chính trị cũng thế. Bất cứ điều gì có
vẻ nghiêm túc nàng đều không thích. Nàng luôn luôn muốn
làm một điều gì đó.
- Ellen có một cuộc sống riêng biệt trong gia đình. Có
lẽ Ellen muốn xây dựng cuộc sống như thế.
- Đúng. Hơn nữa nàng nhỏ hơn tôi đến bốn tuổi – Hắn dập
tắt điếu thuốc – Dẫu sao Ellen vẫn là cô gái tuyệt vời
nhất mà tôi biết được.
Không gian trầm xuống, không một tiếng động.
- Ta không bao giờ tìm thấy những gì mà ta đã bỏ công
sức ra làm – Hắn nói một cách bi quan.
- Đâu phải dễ dàng…
Họ ngồi, không nói năng gì với nhau một lúc. Sau đó họ
lại tiếp tục chuyện trò về những việc lý thú để làm
ở New York, về viện bảo tàng, về cuộc triển lãm của
Matiss (2) sắp đến.
- Cô biết tôi thích nghệ sĩ nào không? – Hắn hỏi.
- Ai thế?
- Tôi không biết cô có quen thuộc những tác phẩm của ông
ta không. Đó là nghệ sĩ Chales Demuth.
(1) Girl Washing Her Hair: điêu khắc của Maillol (1861- 1944).
Bird in space: điêu khắc của Brancusi (ND).
(2) Matiss(1982 – 1942) Họa sĩ người Mỹ.
Phần III - Chương 4
Leo Kingship đang ngồi chống khuỷu tay lên bàn, những ngón
tay đan vào nhau quanh ly sữa đá, ông chăm chăm nhìn một
lý rượu màu vui mắt.
- Con thường gặp cậu ta phải không? – Ông hỏi làm như
không có gì quan trọng lắm.
Cẩn thận, Marion đặt ly cà phê xuống cái đĩa màu xanh
kẻ vàng, nhìn bố, nhìn khuôn mặt đỏ au hiền lành và
đôi mắt nhấp nhóa vì ánh đèn phản chiếu sau kính mắt
của ông.
- Gặp Bud, hả ba? – Nàng hỏi, dù biết bố muốn hỏi đến
hắn. Leo Kingship gật đầu.
- Vâng, con hay gặp anh ấy – Nàng nói thẳng thắn và
ngừng lại một thoáng rồi nói tiếp – Tối nay anh ấy đến
thăm con, khoảng mười lăm phút nữa…
Nàng nhìn xem bố có phản ứng gì không, vừa hy vọng sẽ
không có cuộc tranh luận nào xảy ra, bởi vì nó sẽ làm
vẩn đục cả buổi tối nay, nhưng cũng hy vọng sẽ có một
cuộc tranh luận như thế, để xem sức mạnh ở Bud có thể
thuết phục được bố không.
- Nghề nghiệp của cậu ta? – Ông bố bỏ ly sữa xuống, hỏi
– Hướng đi ra sao?
Sau một giây im lặng, Marion trả lời:
- Anh ấy đang học ở trường bồi dưỡng nghiệp vụ – Nàng
ngừng lại – Vài tháng nữa anh ấy sẽ ở trong ban giám
đốc. Ba hỏi làm gì vậy? – Nàng khẽ mỉm cười.
Leo Kingship xoay xoay cái ly. Aùnh mắt ông lúng túng nhìn
khuôn mặt lạnh lùng của Marion.
- Con đã dẫn cậu ta đến ăn cơm tối, một việc chưa bao
giờ con làm như thế trước đây, phải không Marion? Ba không
có quyền hỏi như vậy à?
- Anh ấy đang ở trọ. Khi không ăn cơm tối với con thì anh
ấy ăn một mình. Do đó, một tối kia con đã mời anh ấy đi
ăn.
- Những tối con không ăn ở đây, con đi ăn với cậu ta?
- Dạ, hầu như thế. Tại sao hai đứa con cứ phải thui thủi
ăn một mình mãi, trong khi cơ quan tụi con cách nhau có
năm dãy nhà – Nàng tự hỏi tại sao mình có vẻ lẩn trốn
như thế khi có gì sai quấy đâu – Tụi con ăn chung với nhau
vì thấy ăn như thế thật vui – Nàng nói dứt khoát – Tụi
con yêu nhau.
- Vậy thì ba có quyền đặt câu hỏi phải không? – Ông nói,
giọng trầm tĩnh.
- Anh ấy là người con yêu, không phải là người xin vào
làm việc cho công ty Kingship Copper.
- Marion…
Nàng lấy điếu thuốc trong hộp bằng bạc và châm thuốc
hút.
- Ba không thích anh ấy, phải không ba?
- Ba không nói thế!
- Bởi vì anh ấy nghèo – Giọng nàng chua cay.
- Không phải vậy, con à. Con biết rõ điều ấy.
Một thoáng im lặng.
- Thôi được – Ông nói – Cậu ta nghèo. Cậu ta đã đau khổ
phải nói điều đó đến ba lần và cậu ta lải nhải mãi
về người đàn bà – mẹ cậu ta – phải may vá thuê.
- Có gì là xấu, nếu mẹ anh ấy phải đi may vá thuê hả
ba?
- Không, không có gì xấu cả. Cậu ta nói điều đó một
cách bình thường thôi. Con có biết cậu ta làm ba liên
tưởng đến ai không? Đến một người ở câu lạc bộ, chân bị
tật, đi hơi khập khiễng. Mỗi khi bọn ba đánh “gôn”, ông ta
thường hay nói: “Các vị đi trước lão đi, lạo thọt đi sau
vậy”. Thế là mọi người đi hết sức chậm và nếu muốn
đánh bại ông ta thì mọi người đều ao ước tại sao ông ta
không có thêm cái gót chân vào.
- Con nghĩ sự so sánh ấy chẳng đúng chút nào – Marion
nói, rồi đứng lên khỏi bàn, đi về phía phòng khách,
mặc cho bố vuốt mái tóc bạc một cách thất vọng.
Cửa sổ phòng khách nhìn ra con sông phía đông. Marion
đứng ở cửa sổ, một tay nắm bức màn cửa. Nàng nghe
tiếng chân người bố đi vào phòng phía sau lưng nàng.
- Marion à, con hãy tin ba. Ba chỉ mong con được hạnh phúc
– Ông nói một cách khó nhọc – Ba biết chưa lúc nào ba
lại quan tâm đến như thế, mặc dù sau cái chết của
Dorothy và Ellen, ba vẫn chưa làm gì tốt hơn cả.
- Con biết – Marion miễn cưỡng chấp nhận. Ngón tay nàng
nhịp nhịp trên bức màn cửa sổ – Nhưng thực tế con đã
gần hai mươi lăm tuổi rồi… một phụ nữ đang trưởng thành.
Ba không thể đối xử với con như vậy…
- Ba chỉ mong con chớ hấp tấp quyết định một việc gì
đấy thôi, Marion à.
- Ba đừng lo – Nàng ôn tồn nói.
- Ba chỉ mong có thế.
Marion nhìn trừng trừng ra ngoài cửa sổ.
- Tại sao ba không ưa anh ấy?
- Ba không thích cậu ta. Ba cũng chẳng rõ, ba…
- Có phải ba sợ con sẽ bỏ ba một mình? – Nàng hỏi một
cách chậm rãi như thể ý tưởng đó vừa mới hiện ra trong
đầu nàng.
- Con luôn luôn sống cách xa ba, phải không? Vì con sống ở
căn nhà kia!
Nàng quay lưng lại cửa sổ, nhìn bố đang đứng phía bên
kia.
- Ba biết đấy, con rất mang ơn Bud. Con sẽ kể cho ba nghe.
Con chẳng muốn đưa anh ấy về đây ăn cơm đâu. Khi con gợi ý
đó, con đã ân hận. Nhưng Bud nằng nặc hối thúc con mãi:
“Đó là bố của em, chớ ai xa lạ đâu” – Anh ấy nói thế,
“Em phải nghĩ đến tình cảm của bố chứ”. Ba thấy đó,
tình cảm gia đình trong anh rất mạnh, con đâu được thế.
Vì vậy ba phải biết ơn Bud, chứ không nên thù địch anh
ấy. Bởi vì Bud có làm gì chăng nữa cũng là để bố con
mình gần gũi nhau thêm, ba à – Nàng quay lại nhìn ra cửa
sổ.
- Thôi được – Leo Kingship nói – Có thể cậu ta là một
người tuyệt vời. Ba chỉ muốn xem con có lầm lẫn gì
không?
- Ba nói gì thế? – Nàng quay phắt lại nhìn bố, toàn
thân như tê dại.
- Ba không muốn con lầm lỡ, thế thôi – Ông ngần ngừ nói.
- Ba còn hỏi gì về anh ấy nữa không? Hay sẽ hỏi những
người khác? Ba đã cho ai đi điều tra về anh ấy chưa?
- Không.
- Giống như ba đã xử sự với Ellen?
- Lúc đó Ellen mới mười bảy tuổi. Và ba đúng phải
không? Thắng đó có gì tốt không?
- Con bây giờ đã hai lăm tuổi và con biết con muốn gì.
Nếu cho người đi điều tra Bud…
- Ba không hề có ý nghĩa đó!
Aùnh mắt Marion nhìn sững người bố.
- Con yêu Bud – Nàng nói, giọng chắc nịch – Con yêu anh ấy
vô cùng. Ba có biết điều ấy có ý nghĩa như thế nào
không? Cuối cùng, con đã tìm được người yêu thương…
- Marion, ba…
- Nếu ba làm bất cứ điều gì, bất kể chuyện gì, để anh
ấy thấy là mình bị bạc đãi, bị khinh rẻ, để anh ấy
cảm thấy không xứng đáng với con… thì con sẽ không nhân
nhượng ba nữa. Con thề với trời đất là sẽ không bao giờ
nói chuyện với ba cho đến khi con chết mới thôi.
Marion lại quay lưng, nhìn ra cửa sổ.
- Ba chưa bao giờ có ý tưởng đó, Marion à. Ba thề…
Ông lén nhìn tấm lưng bất động của con gái rồi thở
dài, ngồi xuống, dựa lưng vào ghế nệm.
Vài phút sau, chuông ở cửa trước reo vang. Marion rời cửa
sổ, băng qua phòng đi về cánh cửa lớn dẫn ra phòng
ngoài.
- Marion… - Người bố đứng lên.
Nàng đứng lại, quay lui nhìn ông. Từ phòng ngoài có
tiếng mở cửa và tiếng nói chuyện thì thầm.
- Mời cậu ta ở lại một chốc… uống trà với ba – Kingship
nói.
Một phút trôi qua.
- Vâng – Nàng trả lời. Đến ngưỡng cửa, nàng do dự một
giây – Con xin lỗi vì đã nói với ba như thế. – Nàng đi
ra.
Ông bố nhìn theo đứa con, rồi quay nhìn lò sưởi. Ông
nhích lui một bước, ngắm mình trong gương. Ông nhìn người
đàn ông béo tốt trong bộ áo quần đắt tiền, ba trăm bốn
chục đô la, đang ở trong ngôi nhà mà tiền trả thuế mỗi
tháng là bảy trăm đô la.
Sau đó ông đứng thẳng người lên, cố tạo một nụ cười
trên môi, xoay người đi về phía cửa, đưa tay ra:
- Chào cậu Bud – ông nói.
Phần III - Chương 5
Sinh nhật của Maron nhằm vào ngày thứ bảy tháng mười
một. Sáng sớm nàng đã lo lau chùi nhà cửa. Lúc một
giờ, nàng đến một quán ăn nhỏ trong một khu yên tĩnh ở
đại lộ gần công viên, trên cánh cửa ngôi nhà có gắn một
miếng kim loại cho biết nhà đã có người ở. Bên trong
cánh cửa sơn màu trắng, Leo Kingship, ngồi chễm chệ trong
chiếc ghế bọc nệm thời vua Louis XV, đang đọc tạo chí
Gourmet. Ông đặt tờ báo xuống, đứng lên, hôn lên má
Marion, chúc mừng sinh nhật nàng. Người chủ tiệm hai tay
xoa xoa vào nhau, hướng dẫn họ đến bàn ăn đã dành trước
cách biệt với những bàn ăn khác. Với thái độ xun xoe
hiếm thấy nơi ông, ông chủ quán mời hai người ngồi vào
bàn trên đó có một bình hoa hồng. Trước mặt Marion có
một chiếc hộp nhỏ bọc giấy màu trắng buộc dây nơ kim
tuyến màu vàng. Leo Kingship làm như không để ý đến
chiếc hộp đó. Trong lúc ông xem bản thực đơn, ghi tên các
loại rượu và thức ăn ( - Thưa ngài, ngài nên uống…) thì
Marion mở gói quà, đôi má nàng ửng hồng, ánh mắt ngời
sáng. Giữa lớp bông gòn là một sợi dây chuyền vàng gắn
những hạt ngọc nhỏ bé lấp lánh. Marion khẽ kêu lên, kinh
ngạc, mừng rỡ và khi chủ quán rời khỏi bàn, Marion rối
rít cảm ơn bố, siết nhẹ bàn tay của ông như thể bàn tay
ấy tình cờ để cạnh tay nàng.
Sợi dây chuyền chưa hẳn hợp với sở thích của nàng vì
không phải do nàng tự chọn mua nhưng nỗi vui mừng của
nàng thật chính đáng, thành thật, không phải vì giá
trị của món quà nhưng cách tặng của ông bố đã thực sự
làm nàng hạnh phúc. Những lần trước, nhân sinh nhật của
các con ông Leo Kingship thường tặng họ một tấm ngân
phiếu một trăm đô la ký gửi ở ngân hàng trên đại lộ Năm
và mọi thủ tục do người thư ký của ông chu toàn.
Khi chia tay với ông bố, Marion đến thẩm mĩ viện, sau đó
về nhà trọ. Xế chiều, có tiếng chuông reo. Nàng bấm
nút cho cửa dưới lầu mở ra. Vài giây sau, một người đưa
tin xuất hiện trước cửa phòng nàng, thở hổn hển như
thể đang xách một vật gì nặng lắm. Tiền trà nước đã
giúp anh ta điều hòa trở lại.
Trong hộp, dưới lớp giấy sáp màu xanh lục, một nhánh
hoa phong lan trắng với tấm danh thiếp vỏn vẹn một chữ
“Bud”. Đứng trước gương, Marion thử ướm đóa hoa trên mái
tóc, trên khuỷu tay, trên vai. Rồi nàng đi vào nhà bếp,
đặt đóa hoa vào lại trong hộp và để nó vào tầng trên
của tủ lạnh, trước đó nàng đã nhỏ vài giọt nước lên
cánh cửa.
Hắn đến vào khoảng sáu giờ, bấm chuông hai lần, đứng
đợi trong lối đi ẩm thấp, cởi găng tay để lấy sợi vải
dính trên ve áo khoác hải quân. Lát sau có tiếng bước
chân vang nhẹ trêm cầu thang. Cánh cửa có màn che mở ra
và Marion xuất hiện, rực rỡ, cành hoa phong lan trắng
nổi bật trên chiếc áo ngoài màu đen của nàng. Họ bắt
tay nhau. Hắn chúc nàng một ngày sinh nhật hạnh phúc và
hôn đôi má nàng tô son đậm hơn ngày đầu tiên hắn gặp
nàng.
Hai người đến một quán trên đường 52 và ăn món cá
nướng. Giá tiền trên thực đơn đối với Marion chẳng có
gì là quá đáng so với những buổi ăn của nàng, nhưng
lần này đọc trong ánh mắt hắn, nàng thấy hình như giá
tiền quá cao. Nàng đề nghị Bud tự chọn thức ăn. Họ ăn
súp hành cá nướng và dùng rượu Champange – Mừng sinh
nhật Marion. Cuối bữa ăn, lúc đặt mười tám đô la trên
khay của người hầu bàn, bắt gặp cái nhíu mày của
Marion, hắn mỉm cười, vui vẻ.
- Ồ, hôm nay là sinh nhật của em, phải không?
Từ quán ăn, họ đi tắc xi đến rạp hát xem vở kịch Saint
Joan. Họ ngồi trong phòng nhạc, hàng thứ sáu ngay ở
giữa. Trong lúc giải lao, Marion trở nên nhí nhảnh khác
mọi khi, mắt nàng long lanh khi nói về Shaw (1), về nghệ
thuật diễn kịch, về một người nổi tiếng đang ngồi ở
dãy phía trước họ. Suốt buổi diễn, tay nắm tay, họ ngây
ngất trong hạnh phúc.
Sau đó nàng đề nghị về nhà nàng, bởi vì nàng nghĩ
tối nay Bud đã tiêu quá nhiều tiền rồi.
- Anh thích như một người đi hành hương, cuối cùng được
phép vào nơi thánh địa – Hắn nói và tra khóa vào cửa.
Hắn vặn khóa đồng thời vặn nắm cửa luôn.
- Anh nói gì nghe mà khiếp thế – Marion nói, giọng nàng
liến thoắng – Thật đấy anh ạ. Nhà thì hẹp, bếp thì
chật chội.
Hắn đẩy cửa, rút chìa khóa trao lại cho Marion. Nàng
bước vào, đưa tay bấm công tắc đèn trên tường cạnh cửa
lớn. Aùnh sáng chan hòa cả căn phòng. Hắn bước theo vào,
đóng cửa sau lưng. Marion quay lại nhìn hắn. Hắn lướt
mắt nhìn các bức tường sẫm màu, những màn cửa kẻ sọc
trắng và xanh, các đồ dùng bằng gỗ sồi. Hắn thì thầm
đánh giá.
- Chật quá phải không anh ?
- Nhưng rất xinh xắn. Đẹp !
- Cám ơn anh đã khen – Nàng quay đi, gỡ hoa phong lan ra
khỏi áo, bỗng nhiên nàng thấy ngượng nghịu như lần đầu
mới gặp nhau. Nàng để nhánh hoa trên tủ trà, cởi áo
choàng. Hắn đưa tay đỡ áo cho Marion.
- Trình bày khéo thật – Hắn nói qua vai nàng.
Nàng treo áo vào tủ một cách máy móc, rồi soi mình
trong gương. Những ngón tay nàng lóng ngóng gắn hoa lên
vai áo màu rượu chát, nhìn ảnh nàng chồng lên hình ảnh
Bud trong gương. Hắn đi đến giữa phòng.
Đứng trước cái bàn nhỏ, hắn cầm cái đĩa hình vuông
bằng đồng lên xem. Nhìn nghiêng, mặt hắn không hề đổi
sắc, chẳng biết là hắn thích hay không thích cái đĩa
đó. Marion cảm thấy toàn thân nàng cũng bất động.
- À, à – Cuối cùng hắn nói – Anh cuộc đây là quà của
bố em.
- Không phải – Marion nói, nhìn trong gương – Ellen tặng em
đấy.
- Ồ thế à – Hắn nhìn cái đĩa một lúc rồi bỏ xuống.
Tay mân mê cổ áo, nàng quay lại nhìn hắn vừa lúc hắn đi
ngang qua phòng một cách ung dung thoải mái. Hắn đứng
trước kệ sách không cao lắm, nhìn bức tranh treo trên
tường phía trên kệ. Marion dõi mắt nhìn theo.
- Tác phẩm lâu đời của Demuth – Hắn nói, liếc mắt nhìn
nàng, mỉm cười. Nàng cười lại. Hắn ngắm bức tranh một
lần nữa. Lúc sau, Marion đi đến bên hắn.
- Anh không hiểu và không nghĩ ra vì sao ông ta gọi bức
tranh này là: “Máy hút lúa” là “My Egypt” (*) – Bud nói.
- Em cũng chịu thôi.
- Tuy nhiên đấy là bức tranh đẹp – Hắn quay lại nhìn
Marion – Chuyện gì thế? Mũi anh bị bẩn hay có gì mới
lạ nơi anh, hả em?
- Em không hiểu.
- Em đang nhìn…
- Ồ, có gì đâu. Anh uống gì chứ?
- À ha.
- Không có gì cả ngoài rượu.
- Tuyệt!
Marion đi về phía nhà bếp.
- Trước khi em đi… - Hắn lấy trong túi ra một chiếc hộp
nhỏ – Anh mừng sinh nhật em.
- Ồ, anh Bud, anh khách sáo quá!
Hắn nhại lại nàng:
- Anh khách sáo quá! Nhưng em có thích anh tặng em như
thế không?
Quà tặng là một đôi bông tai bằng bạc, ba cánh sáng
ngời, trông thật đơn giản.
- Ôi cám ơn anh. Xinh quá, anh à – Marion thốt lên một
cách thích thú và ôm hôn hắn.
Nàng vội đến trước gương, đeo vào thử. Hắn đến sau lưng,
nhìn nàng trong gương. Khi nàng đeo xong, hắn xoay người
nàng lại.
- Đúng là đẹp thật.
Khi đôi môi rời nhau, hắn nói:
- Nào, rượu mời anh đâu?
Marion từ trong nhà bếp đi ra, hai tay cầm cái khay trên
đó có chai rượu Bardolino và hai cái ly. Bud đã cởi bỏ
áo vét, đang ngồi xếp bằng trên sàn nhà trước kệ sách,
một quyển sách mở ra ở trên đùi hắn.
- Anh không biết em lại thích proust đến thế – Hắn nói.
- Thích lắm anh à! – Nàng để khay trên bàn.
- Để khay chỗ này em – Hắn nói, lấy tay chỉ kệ sách.
Marion chuyển cái khay từ bàn qua. Nàng rót đầy hai ly
và đưa mời hắn. Một tay cầm ly, tay kia tháo giày, nàng
ngồi xuống cạnh hắn. hắn lật từng trang sách rồi nói:
- Anh sẽ chỉ cho em xem chương mà anh thích muốn điên lên
được – Hắn nói.
Hắn ấn nút. Cánh tay hắn vung vẩy chậm rãi theo điệu
nhạc giống như cái đầu rắn đang lắc lư ngẩng lên cao.
Đậy nắp máy hát, hắn trở lại chỗ, ngồi xuống cạnh
Marion trên tấm thảm màu xanh. Những nốt nhạc trầm bổng
của đàn dương cầm vang lên. Bài giao hưởng thứ hai của
Rachmanioff.
- Đúng là đĩa nhạc đó – Marion nói.
Dựa lưng vào tường, Bud lượng tính căn phòng trong ánh
sáng dìu dịu của những ngọn đèn mờ ảo.
- Nơi đây mọi vật thật tuyệt vời. Sao trước đây em không
mời anh về nhỉ? – Hắn nói nho nhỏ.
Tay mâm mê hàng nút áo, Marion khẽ nói:
- Em không biết… em tưởng anh không thích thế…
- Anh mà không thích ư?
Những ngón tay hắn bắt đầu chạy trên hàng nút áo của
nàng. Bàn tay nàng nóng bỏng úp trên bàn tay hắn, giữa
đôi vú nàng.
- Anh Bud, em chưa bao giờ… trước đây em chưa bao giờ. Bud!
Bud!
- Anh biết, em yêu. Em đừng nói với anh điều ấy.
- Trước đây, em chưa bao giờ yêu một ai.
- Anh cũng vậy. Chưa bao giờ yêu ai. Mãi đến khi gặp em.
- Anh muốn nói chuyện đó phải không? Phải không anh?
- Chỉ yêu em, một mình em!
- Ngay cả Ellen, anh cũng không yêu?
- Chỉ có em thôi, anh thề.
Hắn lại hôn nàng. Nàng bỏ tay hắn ra, đưa hai tay ôm lấy
đôi má hắn.
(1) Bernard Shaw (1856 – 1950) nhà viết kịch, người Aùi Nhĩ
Lan.
(2) My Egypt: Ai Cập của tôi (ND).
Phần III - Chương 6
New York Times, thứ hai ngày 24 tháng 12 năm 19… Marion J.
Kingship làm Lễ Thành hôn vào ngày thứ bảy.
Cô Marion Joyce Kingship, trưởng nữ của ông Leo Kingship ở
Manhattan và người vợ quá cố, bà Phyllis Hatcher, sẽ làm
lễ thành hôn với cậu Burton Corliss, trưởng nam của bà
Joseph Corliss ở Menasset, Mass, và người chồng quá cố,
ông Corliss, vào trưa thứ bảy, 29 tháng 12 tại nhà riêng
của thân sinh cô.
Cô Kingship tốt nghiệp trường trung học Spence ở New York
và nguyên là sinh viên đại học Columbia. Hiện nay là nhân
viên của chi nhánh quảng cáo Camdens và Galbraith.
Chú rể tương lai, đã phục vụ trong quân đội vào thời kỳ
chiến tranh thế giới lần thứ hai. Đã theo học đại học
Caldwell ở Caldwell, Wis, là nhân viên mới tuyển dụng của
công ty Kingship Copper.
Phần III - Chương 7
Ngồi ở bàn làm việc, Richardson duỗi thẳng cánh tay
phải trong một bộ điệu rất duyên dáng; liếc nhìn chiếc
vòng vàng ôm khít cổ tay tròn trịa của mình. Đeo chiếc
vòng trông quá trẻ, không hợp với mẹ được. “Mình phải
tìm chiếc khác cho mẹ thôi – Nàng nghĩ – và giữ chiếc
này lại cho mình”.
Cánh tay nàng bỗng nổi bật lên trên một cái nền xanh
thẫm với những đường sọc trắng. Nàng vội ngước mắt
nhìn, định mỉm cười nhưng lại thôi khi nhìn thấy anh
chàng quấy rối đó.
- Chào cô – Anh nói vui vẻ.
Richardson mở ngăn kéo, làm ra vẻ bận rộn với giấy tờ
phải đánh máy.
- Ông Kingship vẫn còn ăn cơm trưa – Nàng nói một cách hờ
hững.
- Thưa cô kính mến, ông ấy đã dùng cơm từ lúc mười hai
giờ trưa, bây giờ là ba giờ chiều. Ông ấy là cái gì
thế, con tê giác chắc?
- Nếu anh muốn hẹn gặp tuần đến…
- Tôi muốn là con chiên độc nhất của đức giáo hoàng trưa
nay thôi, cô thân mến ạ.
Richardson đóng ngăn kéo lại, lộ vẻ bực mình.
- Ngày mai lễ Giáng sinh – Nàng nói – Ông Kingship sẽ
nghỉ bốn ngày, kể từ hôm nay. Trừ phi quá bề bộn công
việc thì ông mới không nghỉ. Ông đã ra lệnh cho tôi là
không được quấy rầy ông, dù cho có việc gì đi nữa.
- Vậy thì đâu phải là ông ấy đang dùng cơm trưa.
- Ông đã nghiêm khắc ra lệnh cho tôi…
Người đàn ông thở dài. Vắt chiếc áo khoát, đã được
gấp lại, lên vai, anh rút một tờ giấy trong tập giấy
cạnh máy điện thoại trên bàn của Richardson.
- Xin phép cô nhé – Anh nói khi đã rút tờ giấy ra. Kê
giấy lên quyển sách màu xanh nãy giờ kẹp dưới nách, anh
lấy cây bút trong hộp đựng bút và bắt đầu viết.
- Tôi sẽ không chuyển thư đâu. Đừng hòng – Richardson nói
lớn – Tôi nói thật đấy, không đùa đâu.
Viết xong, anh để bút vào lại chỗ cũ, rồi thổi thổi
tờ giấy. Anh xếp tờ giấy làm tư một cách cẩn thận, đưa
cho Richardson:
- Cô hãy trao thư này cho ông Kingship, luồn vào dưới cửa
cũng được, nếu cần phải làm thế.
Cô thư ký trừng trừng nhìn anh, mở thư ra đọc. Cô nhìn
lên bối rối:
- Dorothy và Ellen?…
Mặt anh không đổi sắc. Richardson cựa quậy nơi ghế.
- Ông chủ bảo là không được quấy rầy ông, cho dù có
việc gì đi nữa. Nàng lặp lại câu ấy một cách nhỏ nhẹ
như thể chờ đợi Gant mách nước cho nàng xử sự thế nào
đây cho phải – Anh tên gì?
- Cô chỉ có việc đưa lá thư như thể cô là một thiên sứ
xuống đưa tin.
- Thì anh hãy…
Anh nhìn cô thư ký với vẻ trách móch dù giọng nói của
anh vẫn ôn tồn, định xông thẳng vào, Richardson khẽ nhíu
mày, liếc nhìn lá thư lần nữa, rồi gấp lại như cũ.
Nàng đứng dậy, đi về phía cánh cửa đang đóng kín.
- Thôi được – Nàng nói với vẻ bực tức – Rồi anh sẽ
thấy. Ông ấy đã dặn tôi.
Nàng nhẹ gõ cửa. Cửa mở. Nàng lướt vào, lá thư trên
tay.
Mấy phút sau nàng đi ra, vẻ mặt đầu hàng.
- Anh vào đi – Nàng nói giọng hờn dỗi.
Anh nhanh nhẹn đi qua mặt nàng, áo vắt trên vai, sách kẹp
dưới nách. Tiếng cửa khép lại nhè nhẹ. Leo Kingship
ngước mắt nhìn lên, mảnh giấy còn trên tay. Ông đứng sau
bàn làm việc, tay áo xắn lên cao, chiếc áo vét vắt
ngang qua phía sau ghế. Kéo đôi kính lên trán, ông băn
khoăn nhìn người đàn ông đang tiến về phía ông.
- À – Khi người đàn ông đến gần, bóng che khuất nắng
mặt trời, ông đã nhận ra khuôn mặt đó – Thì ra là cậu.
Ông nhìn xuống mảnh giấy và vò nát, vẻ lo âu biến mất,
nhường cho sự bực mình khó chịu.
- Kính chào bác Kingship – Anh nói, đưa tay ra. Ông bắt tay
người thanh niên đó không niềm nở lắm.
- Cậu không nói tên cho Richardson cũng phải.
Vừa mỉm cười, anh ngồi xuống ghế, để áo choàng vá
sách trên đùi.
- Gant? Không biết có đúng tên cậu không? – Ông hỏi.
- Vâng, Gant – Anh rung rung đôi chân đang vắt chéo, nét mặt
thỏa mãn – Gordon Gant, thưa bác.
Leo Kingship vẫn đứng.
- Tôi rất bận, cậu Gant à – Ông nói giọng dứt khoát, tay
chỉ chồng giấy để trên bàn – Nếu là những nguồn tin về
Dorothy và Ellen… - Ông đưa mảnh giấy vò nát trong tay lên
– như những giả thuyết cậu đã đưa ra ở Blue River…
- Chỉ một phần thôi, thưa bác – Gant nói.
- Xin lỗi, tôi chẳng muốn nghe đâu.
- Cháu biết bác không thích nghe vì cháu không phải là
ca sĩ số một hiện nay.
- Cậu muốn nói là tôi không thích cậu chứ gì? Không
phải thế đâu. Chẳng hề có chuyện đó. Tôi chấp nhận
những chứng cứ cậu ra đều hay, cậu rất giống con Ellen
nhà tôi, cậu có sự nhiệt tình của tuổi trẻ… nhưng không
đúng hướng, đi lệch đường, cách cậu xử sự khiến tôi đau
đớn thêm. Xâm nhập vào khách sạn gặp tôi sau khi Ellen
chết… Lúc ấy cậu còn nhắc lại làm gì chuyện quá khứ
nữa chứ… - Cậu tưởng tôi muốn tin rằng Dorothy thực sự
không tự tử chăng?
- Dorothy không tự tử!
- Thế còn lá thư? – Ông nhấn mạnh – Lá thư kia thì sao?
- Một vài câu viết mơ hồ cần phải đối chiếu, thamkhảo
với hàng chục dữ kiện khác bên cạnh việc tự tử. Biết
đâu nàng đánh lừa để rồi viết như thế – Gant chồm người
về phía trước – Dorothy đến tòa Hành chính để làm lễ
thành hôn. Lý luận của Ellen rất chính xác. Sự kiện
Ellen bị giết đã chứng minh điều đó.
- Không thể có việc như thế – Leo Kingship bắt bẻ – Hai
sự việc chẳng liên hệ gì đến nhau cả. Cậu có nghe cảnh
sát nói…
- Tên phá cửa vào nhà?
- Chớ còn ai khác nữa! Tại sao lại không phải là tên đó
chứ?
- Bởi vì cháu không tin vào những sự trùng hợp kỳ dị
ấy. Ngữ đó không phải…
- Một dấu hiệu thiếu chín chắn cậu Gant ạ!
Gant im lặng, sau đấy anh nói:
- Cả hai lần đều là tên đó!
Kingship mệt mỏi chống tay lên bàn, nhìn xuống mảnh
giấy.
- Tại sao cậu muốn làm sống lại toàn bộ câu chuyện
này? – Ông thở dài – Xen vào công việc của người khác
làm gì hả cậu Gant? Cậu nghĩ tôi sẽ có cảm tưởng như
thế nào… - Ông đẩy kính xuống sống mũi, ngón tay vuốt
thẳng mảnh giấy – Cậu hãy đi đi…
Gant chẳng tỏ vẻ gì là muốn đi cả. Anh vẫn ngồi thế.
- Cháu về quê nghỉ hè. Quê cháu ở White Plains. Không
phải cháu đến đây để hâm nóng lại những gì mà người ta
đã nói trong tháng ba vừa qua…
- Thế thì chuyện gì? – Leo Kingship nói lớn.
- Một bài viết trên báo TIMES phát hành buổi sáng, ở
trang xã hội.
- Chuyện về con gái tôi?
Gant gật đầu. Anh lấy gói thuốc trong túi ra.
- Bác biết gì về Bud Corliss? – Anh thình lình đặt câu
hỏi.
Kingship im lặng, đưa mắt nhìn Gant, rồi chậm rãi nói:
- Biết gì về cậu ta à? Cậu ấy sắp là con rể của tôi.
Anh ám chỉ gì khi hỏi tôi biết gì về Bud Corliss?
- Bác hẳn đã rõ hắn và Ellen có một thời yêu nhau?
- Biết chứ! – Leo Kingship đứng thẳng người lên – Cậu đang
định lái qua chuyện gì vậy?
- Chuỵên dài lắm, thưa bác – Gant nói, đôi mắt màu xanh
dưới đôi lông mày rậm ánh lên vẻ sắc sảo và cương
quyết. Anh làm một cử chỉ hướng về chiếc ghế của Leo
Kingship – Sự trình bày của cháu chắc chắn sẽ gây trở
ngại, nếu bác cứ đứng trước mặt cháu như thế này.
Ông ngồi xuống, nhưng bàn tay vẫn đặt nơi mép bàn trước
mặt như thể ông sẵn sàng đứng dậy bất cứ lúc nào. Gant
châm thuốc hút. Anh ngồi im lặng một lúc, mắt nhìn điếu
thuốc ra chiều nghĩ ngợi, răng cắn môi dưới như đang chờ
một hiệu lệnh. Sau đó anh nói một cách thông suốt và
tự nhiên.
- Khi rời khỏi Caldwell, Ellen có viết một lá thư cho Bud
Corliss. Tình cờ cháu đọc được lá thư đó ngay sau khi
Ellen đến Blue River. Bức thư ấy đã gây cho cháu một ấn
tượng sâu sắc, vì đã mô tả hình dáng tên bị tình nghi
giết người gần như là ám chỉ vào cháu vậy – Anh cười –
Cháu đọc bức thư đến hai lần, đọc rất cẩn thận, bác
có thể hình dung ra được việc ấy. Vào đêm Ellen bị
giết, Eldon Chesser, cái lão cảnh sát trưởng lười suy
nghĩ kia hỏi cháu: “Ellen có phải là người yêu của cậu
không?”. Có lẽ đó là lần suy nghĩ duy nhất trong suốt
cuộc đời thám tử của lão. Nhưng điều đó khiến cháu
nghĩ đến Bud Corliss. Một phần vì cháu lo lắng cho Ellen,
vì không biết nàng đang ở đâu với tên mang vũ khí đó –
Chỉ có trời mới biết được – một phần vì cháu yêu Ellen
và muốn biết người yêu của Ellen thuộc hạng người nào,
nên cháu chợt nghĩ đến lá thư mà lời lẽ vẫn còn in
rành rành trong đầu óc cháu, và đó là nguồn tin tức
độc đáo nhất cho biết về “tình địch” của cháu: Bud
Corliss.
Gant ngừng lại một lúc rồi nói tiếp:
- Một là: Hình như lá thư không chứa đựng điều gì cả
ngoài cái tên: “Anh Bud thân mến”. Rồi địa chỉ trên bì
thư “Bud Corliss, đường Roosevelt hay đường gì đó, Caldwell
bang Wisconsin”. Không một đầu mối nào khác. Nhưng suy
nghĩ kỹ, cháu phát hiện được một vài điều qua lá thư
của Ellen, và cháu kết hợp thành một lượng thông tin
khá lớn về Bud. Tuy nhiên cũng chưa có ý nghĩa gì lắm,
chỉ là một số dữ kiện bề ngoài, chứ chưa cho thấy
những đặc điểm về con người của hắn, điều mà cháu
quyết tâm tìm cho bằng được. Và dữ kiện vẫn còn ám
ảnh mãi ở cháu, nhưng đến hôm nay thì nó đã rõ ràng.
- Cậu cứ nói – Leo Kingship giục anh khi anh dừng lại để
hít một hơi thuốc.
Gant ngả người ra sau ghế.
- Trước hết, Ellen đã viết thư cho Bud nói rằng nàng sẽ
không bỏ dở việc học ở Caldwell trong thời gian nàng
không có mặt ở đó bởi vì Bud sẽ gửi thư thường xuyên
cho nàng. Bấy giờ Ellen là sinh viên năm thứ tư, có nghĩa
là nàng học trên hắn. Trong trường đại học, lớp học năm
thứ tư thường sát cạnh lớp học năm thứ nhất và năm thứ
hai. Nếu Bud gánh dùm cho Ellen những tiết học – Có thể
cả hai có một chương trình học chung – thì hắn phải là
sinh viên năm thứ hai, nhưng cũng có khả năng là sinh viên
năm thứ tư hoặc năm thứ ba.
Hai là: Có một chi tiết trong thư của Ellen nói về lối
sống của nàng trong ba năm đầu tiên ở đại học Caldwell,
lối sống hình như đã đổi khác sau cái chết của Dorothy.
Nàng đã mô tả nàng đã sống buông thả như thế nào – “Anh
sẽ không sao nhận ra em được”. – Cháu còn nhớ chính xác
những gì Ellen viết trong thư. Điều đó có nghĩa là và
chắc chắn là Bud đã không quen biết Ellen trong thời gian
ba năm đầu tại đại học Caldwell. Nếu là một trường đại
học cỡ đại học Stoddard, chuyện đó còn chấp nhận được,
nhưng chúng ta hãy nói đến điểm thứ ba.
Ba là: Cladwell là một trường đại học rất nhỏ, chỉ
bằng một phần mười trường đại học Stoddard thôi, Ellen
viết: “Em phỏng chừng như thế, chứ không dám nói là
chính xác”. Sáng hôm sau, cháu lật quyển niên giám ra xem
thì thấy đại học Stoddard có trên mười hai ngàn sinh
viên, trong lúc đại học Caldwell vỏn vẹn chỉ có tám
ngàn sinh viên. Hơn nữa Ellen còn nêu trong thư chuyện nàng
không cho Dorothy theo học ở đại học Caldwell là vì nơi
đây mọi hành vi, mọi cử động của mình đều dễ dàng bị
mọi người hay biết.
Giờ chúng ta hãy kết nối ba việc trên lại với nhau: Bud
Corliss là một sinh viên chuyển trường, hắn chuyển về
đại học Cladwell vào tháng chín năm đó, lúc Ellen mới
bắt đầu học vào năm thứ tư và sau khi Dorothy chết.
Leo Kingship nhíu mày:
- Tôi không thấy…
- Giờ hãy nói đến ngày hôm nay, ngày 24 tháng 12 – Gant
nói, dập tắt điếu thuốc trong cái gạt tàn – Khi mẹ
cháu miệng lâm râm cầu xin Chúa phù hộ lúc bà đem điểm
tâm cho thằng con lãng tử đang nằm trên giường, bà có
mang theo tờ New York Times buổi sáng nữa. Trên trang xã
hội có đăng tên Kingship. Cô MARION KINGSHIP SẼ KẾT HÔN VỚI
CẬU BURTON CORLISS. Bác hãy tưởng tượng sự kinh ngạc của
cháu như thế nào. Bấy giờ, ngoài việc óc tò mò chưa
được thỏa mãn, với một đầu óc thích phân tích, cháu
lại còn nghĩ lung tung. Tên hội viên mới trong gia đình
bác chưa đủ tư cách là một hội viên vì hắn là một kẻ
tham lam muốn vơ trọn cả công ty Kingship Copper vào tay
hắn…
- Này cậu Gant…
- Cháu thật không sao hiểu nổi – Gant nói tiếp – Mặt mũi
nào hắn lại có thể tán tỉnh người chị ngay sau khi
người em vừa chết. Hết là người yêu của em, rồi lại là
người em của chị. Hai người trên ba, con số cũng không
đến nỗi tệ. Sau đấy cũng vì đầu óc ưa phân tích và hay
nghĩ bậy bạ, cháu tiến xa hơn một chút. Đối với tên Bud
Corliss, hắn có ý đồ chuyển về đại học Caldwell vào
tháng chín năm đó thì con số ba mới là con số hắn mơ
tưởng.
Leo Kingship bật đứng lên, nhìn Gant trừng trừng.
- Ý nghĩ thật quái gỡ không sao tưởng tượng nổi phải
không bác? – Gnat vẫn bình tĩnh nói – Để đáng tan sự
nghi ngờ này cũng không lấy gì làm khó khăn cho lắm.
Bác chỉ cần làm một việc rất đơn giản là rời khỏi
bàn, đi lại kệ sách và lấy quyển THA STODDARD FLAME
(Ngọn lửa Stoddard) bác sẽ rõ ngay.
Gant chìa ra quyển sách lớn bìa bằng da màu xanh da trời
có in dòng chữ màu trắng “Khóa học năm thứ hai”. Gant
nói:
- Trong này có một số hình ảnh khá lý thú. Một tấm
ảnh của Dorothy và một của Powell, thật tiếc, cháu mất
cơ hội lưu danh hậu thế. Nhưng vẫn có nhiều sinh viên năm
thứ nhất được lưu danh, trong đó có… - Anh mở sách đến
trang có kẹp sẵn miếng giấy làm dấu, rồi xoay quyển
sách lại và để xuống trên bàn, lấy ngón tay chỉ vào
tấm hình, đọc dòng chữ ghi phía dưới tấm ảnh – Corliss
(Burton), tên thường gọi: Bud ở Menasset, Masschusetts – khoa
học nhân văn.
Leo Kingship lại ngồi xuống, nhìn tấm ảnh nhỏ bằng con
tem thư, rồi lại nhìn Gant. Gant chồm người ra trước, lật
vài trang nữa và chỉ một tấm ảnh khác. Aûnh của Dorothy
Kingship. Leo Kingship nhìn sững tấm hình, sau đó ngước
mắt nhìn lên. Gant nói:
- Cháu cũng đã ngạc nhiên như thế. Cháu nghĩ là bác
phải biết việc này.
- Tại sao – Ông hỏi một cách thản nhiên – Việc này dẫn
đến đâu?
- Trước khi trả lời câu hỏi của bác, xin phép được hỏi
bác một câu.
- Hỏi đi.
- Hắn không bao giờ nói cho bác biết là hắn đã học ở
đại học Stoddard phải không?
- Không. Chúng tôi chưa hề nói đến những điều như thế –
Ông vội giải thích – Chắc chắn hắn có nói cho Marion
biết.
- Cháu nghĩ cô ấy cũng không biết.
- Tại sao lại không – Ông gặng hỏi.
- Trên tờ báo Times đấy. Có phải Marion đưa tin cho bác?
Cô dâu nào cũng làm như vậy cả.
- Sao nữa?
- Chẳng nói gì đến đại học Stoddard. Trong những dịp
báo hỉ, thành hôn và đám hỏi, người ta thường nêu tên
những trường lớp mà người ta đã theo học.
- Có thể Marion áy náy sợ làm phiền đến họ nhiều.
- Cũng có thể như thế. Hoặc cô ấy không biết. Ngay cả
Ellen cũng có thể không biết nữa.
- Thôi được, cậu còn gì để nói nữa không?
- Bác đừng có giận cháu, bác Kingship. Sự thật là sự
thật, cháu đâu có phịa ra hay là dựng đứng câu chuyện –
Gant gấp quyển sách lại và để trên đùi – Có hai khả
năng – Anh nói tiếp – Hoặc là Corliss đã nói với Marion
là hắn có học ở Stoddard, có thể là một sự trùng hợp
tình cờ hắn học ở đó rồi chuyển về Cladwell và chẳng
biết gì về Dorothy, cũng như chẳng biết gì về cháu cả.
Hoặc là hắn không đá động tí xíu nào cả về việc đó.
- Điều đó có nghĩa gì? – Leo Kingship nói với giọng
thách thức.
- Điều ấy có nghĩa là chắc chắn hắn có dính líu đến
vụ Dorothy. Còn có lý do nào khác để hắn phải giấu
giếm chuyện kia chứ?
Gant nhìn xuống quyển sách trên đùi mình:
- Chỉ có một người muốn loại trừ Dorothy, bởi vì hắn
là tác giả của cái bầu ấy.
Leo Kingship nhìn Gant:
- Cậu lại quay về chuyện đó nữa. Có người giết Dorothy,
rồi lại giết Ellen… Cậu bị ám ảnh bởi chuyện này – câu
chuyện mang tính chất xinê lệch lạc – và cậu không muốn
chấp nhận… - Gant không nói gì cả, anh ngồi im lặng –
Cậu không muốn chấp nhận Bud phải không? – Ông hỏi đầy
vẻ nghi ngờ, ngả người ra sau ghế, lắc đầu, mỉm cười
thương hại – Nào, nói đi chứ! – Ông giục Gant – Thật điên
rồ, ngu xuẩn – Ông tiếp tục lắc đầu – Cậu nghĩ gì về
hắn? Một tên cuồng dâm? – Ông lại cười – Cậu có một ý
tưởng thật lạ đời.
- Vâng, đúng thế. Lạ đời thật – Gant nói – Thời gian sẽ
chứng minh. Tuy nhiên nếu hắn không đề cập gì đến việc
hắn học ở Stoddard thì dứt khoát hắn đã dính líu vào
Dorothy, không cách này thì cũng cách khác thôi. Và nếu
hắn đã liên hệ với Dorothy, rồi đến Ellen và bây giờ
lại với Marion thì rõ ràng là hắn đã quyết tâm phải
chiếm đoạt một trong ba cô gái của bác. Cô nào cũng
được hết.
Nụ cười biến mất trên khuôn mặt Leo Kingship. Sắc mặt
nhợt nhạt, ông để tay lên bàn.
- Nghe rất hợp lý, tôi sẽ xem xét lại.
Ông chớp chớp đối mắt, sửa soạn lại đôi kính và ngồi
thẳng lên:
- Tôi sẽ nói chuyện này với Marion – Ông nói.
Gant đưa mắt nhìn máy điện thoại.
- Không được – Leo Kingship nói như mất hồn – Điện thoại
của nó đã cắt rồi. Nó sẽ trả nhà để về ở với tôi
cho đến ngày cưới – Giọng ông lạc hẳn đi – Sau tuần trăng
mật hai đứa sẽ dọn về căn nhà căn nhà tôi đã mua cho
chúng ở Sutton Terrace… Thoạt tiên Marion không nhận, nhưng
hắn đã thuyết phục con bé phải nhận. Hắn rất tốt đối
với con tôi… Hắn giúp hai cha con tôi gần gũi, thân mật
với nhau – Ông và Gant nhìn nhau một thoáng, ánh mắt của
Gant cương quyết, thách đố. Leo Kingship có vẻ nhân
nhượng. Ông đứng lên:
- Bác biết cô ấy ở đâu chứ? – Gant ngần ngừ hỏi.
- Tại nhà nó… đang thu dọn đồ đạc – Ông mặc áo vét vào
– Chắc chắn thằng đó đã nói cho con bé biết chuyện học
hành của hắn tại Stoddard…
Khi hai người ra khỏi văn phòng, Richardson rời mắt khỏi
tờ tạo chí, ngước mắt nhìn lên.
- Hôm nay thế là được rồi, cô Richardson. Cô có thể dọn
dẹp bàn ghế của tôi.
Cô thư ký khẽ cau mày, ngạc nhiên:
- Vâng, thưa ông Kingship. Chúc ông một mùa Giáng sinh vui
vẻ.
- Cám ơn cô. Chúc cô một mùa Giáng sinh hạnh phúc.
Leo Kingship và Gant đi dọc theo hành lang đến phòng thang
máy. Trong lúc chờ thang máy, Leo Kingship nói:
- Tôi tin là hắn đã nói với Marion về chuyện đó rồi.
o0o
|