Vĩnh Khôi dịch và giới thiệu
Lời giới thiệu
TÌNH YÊU - THAM VỌNG - TỘI ÁC là ba phạm trù xoắn tít
nhau tạo nên nhân vật “hắn”.
Hắn là ai?
- Là người chúng ta bắt gặp trên đường phố, trong công
viên, trong quán ăn, trong rạp hát, trong nhà trường… trong
xã hội đó – xã hội mà nhà văn nổi tiếng của Mỹ, ATR
BUCHW ALD gọi là Xã Hội Vĩ Đại. Vĩ đại là vì nó đã
sản sinh ra những đứa con sẵn sàng
thản-nhiên-đến-lạnh-lùng gây tội ác để thực hiện những
ước mơ, tham vọng cuồng điên.
Hắn là ai?
- Là một sinh viên hai mươi bốn tuổi đã khiến chúng ta
phải rùng mình ghê sợ trước cái vẻ lì lợm, trâng tráo
và tính tàn ác độc địa của hắn, là người vẫn còn
bình tĩnh tự đánh giá về mình ngay sau khi đã phạm tội
ác tầy đình:
“Mày là một thằng điên!… Nhưng thực sự thì không bao giờ
hắn gán cho mình là một thằng điên cả. Hắn nghĩ hắn
là một thằng thông minh, gan da, anh hùng và liều lĩnh”.
Đấy! Hắn đấy – sản phẩm của một nền giáo dục bị tha
hóa bởi sự sùng bái Danh Vọng và Tiền Tài Vật Chất.
Chúng tôi giới thiệu “hắn” trong cái hôn của tử thần,
dịch từ nguyên bản tiếng Anh – A Kiss Before Dying - của Ira
Levin; bản in lần thứ 4, năm 1964 của nhà xuất bản
Pyramid Publications, Inc – New York.
Trong khi dịch chúng tôi giữ nguyên bằng tiếng Anh những
tên riêng, địa danh… để bạn đọc dễ theo dõi.
Mong được sự góp ý phê bình của bạn đọc.
31-5-1988
Người dịch
~~~~~~~~~~~~~~~~ o0o ~~~~~~~~~~~~~~~~
Phần Một - DOROTHY
Phần I - Chương 1
Kế hoạch của hắn đang tiến hành thông suốt thì giờ đây
nàng lại làm hỏng đi. Một nỗi căm giận bùng lên phủ
chụp xuống người hắn khiến khuôn mặt hắn trở nên méo
mó một cách thảm hại. Cũng may đèn lúc này tắt.
Còn nàng đang nằm trong bóng tối, úp mặt trên chiếc
ngực trần của hắn khóc rấm rứt. Hơi thở của nàng phả
ra nóng bỏng. Hắn muốn đẩy nàng ra.
Nét mặt hắn dần dần dịu lại. Hắn choàng tay qua ôm và
nhẹ xoa tấm lưng trần của nàng. Cái lưng hâm hấp nóng
hay tại vì bàn tay hắn giá lạnh? Đôi chân hắn cựa quậy
mãi như mỗi khi có điều gì làm hắn điên tiết lên hoặc
khiến hắn không tiên liệu được. Hắn nằm yên lặng một
chốc, đợi cho cơn giận lắng xuống. Hắn với tay kéo cái
mền đắp lên đôi vai tròn trĩnh của nàng.
- Khóc chẳng làm được cái quái gì cả – Hắn nói nhỏ.
Ngoan ngoãn nghe lời hắn, nàng cố ngăn chặn tiếng nấc,
lấy cái lai mền đã sờn lau nước mắt.
- Em biết từ lâu, đã mấy tuần qua… nhưng em không dám
nói, đợi xem chắc chắn…
Bàn tay trên lưng nàng bỗng nóng rực hơn.
- Em có nhầm lẫn không? – Hắn thấp giọng dù căn phòng
vắng vẻ.
- Không
- Bao lâu rồi?
- Khoảng hai tháng.
Nàng ngẩng đầu lên. Trong bóng tối hắn nhìn thấy đôi
mắt nàng đang nhìn hắn chăm chú.
- Mình làm gì bây giờ hả anh?
- Em không nói tên thật cho bác sĩ biết chứ?
- Không, nhưng bác sĩ biết em nói dối. Thật khó… nếu ba
em hay được… - Nàng lại ngã đầu lên ngực hắn. Hắn khẽ
nhấc thân hình, một phần như để nhấn mạnh điều hắn sắp
nói, một phần muốn đẩy nàng ra vì sức nặng đè nặng
trên ngực làm hắn khó chịu.
- Dorrie, nghe anh nói. Anh biết em muốn anh phải nói rằng
chúng ta sẽ làm đám cưới vào ngày mai – cưới ngay! Em
muốn anh phải nói rằng anh rất muốn lấy em làm vợ –
Hắn ngừng, tìm lời. Thân hình nàng xoăn vào hắn, đợi
chờ – Nhưng nếu ta cưới nhau theo kiểu này, bản thân anh
trước đây chưa từng gặp ba em, vài tháng sau đứa bé lại
chào đời… Em hẳn rõ ba em sẽ làm gì rồi.
- Ba em không làm gì được – Nàng phản đối – Ba em chẳng
làm gì được.
- Anh không có ý nói đến việc hủy bỏ đám cưới hay đại
loại việc gì như thế.
- Vậy anh muốn đến cái gì? – Nàng sẵng giọng.
- Vấn đề tiền bạc – Hắn trả lời – Dorrie, em biết ba em
thuộc hạng người như thế nào không? Em đã kể cho anh nghe
về ba em và thứ đạo đức thánh thiện của ông rồi. Mẹ em
chỉ một phút lầm lỡ; tám năm sau ông phát hiện được và
đã ly dị mẹ em không một chút thương tiếc, bất kể đến
em, bất kể đến chị em của em, bất kể đến sức khỏe suy
yếu của mẹ em. Nào, em thử nghĩ ba em sẽ đối xử với em
ra sao? Ông sẽ không còn biết em có mặt trên cõi đời này
nữa đâu. Em sẽ không đụng được đến một hào nào của ông
hết.
- Em không cần – Nàng sôi nổi nói – Anh tưởng em cần tiền
đó lắm à?
- Em không cần nhưng anh cần – Bàn tay hắn nhè nhẹ mơn
trớn lưng nàng – Không phải cần cho riêng anh, anh thề có
trời đất chứng giám. Anh chỉ nghĩ đến em. Chuyện gì sẽ
xảy ra cho chúng ta? Cả anh lẫn em đều phải thôi học. Em
chăm sóc con. Anh đi làm. Anh sẽ làm gì? Một gã chỉ có
hai năm đại học, không một mảnh bằng, sẽ làm cái nghề
ngỗng gì đây hử? Một chân thư ký quèn? Một thợ vô dầu
mỡ tại một nhà máy dệt? Hoặc là gì gì đó nữa?
- Không quan trọng…
- Sao lại không? Em có hiểu là nó cực kỳ quan trọng
không? Em mới mười chín tuổi và lâu nay trong tay em luôn
luôn có sẵn tiền. Thử hỏi em sẽ sống ra sao nếu em không
có một đồng xu teng nào cả? Bản thân anh thì quá rõ
điều này. Chúng ta suốt năm sẽ cấu xé nhau không biết
mệt.
- Không, không bao giờ có chuyện ấy.
- Em cho rằng ta yêu nhau thì không thể có chuyện như thế
xảy ra phải không? Em nghĩ chúng ta sẽ ở đâu? Ở trong
một phòng trọ rẻ tiền? Aên mãi một món xpagéti suốt
tuần suốt tháng? Nếu anh thấy em sống trong điều kiện
như vậy và biết là lỗi tại anh nên mới ra cớ sự… - Hắn
ngừng một lúc rồi hạ giọng nói tiếp – Anh sẽ đi bảo
hiểm sinh mạng, sau đó lao mình vào mũi xe ô tô.
Nàng lại bắt đầu thút thít khóc. Hắn nhắm mắt, mơ
màng, giọng quyến rũ:
- Anh đã vẽ ra trong óc một chương trình tuyệt đẹp. Vào
dịp hè này chẳng hạn, em đưa anh lên New York giới thiệu
với ba em. Chắc chắn ba em sẽ thích anh. Ba em để tâm đến
cái gì, thích cái gì, ghét cái gì, anh đều biết. –
Hắn ngừng lại – Và sau khi tốt nghiệp, mình sẽ làm lễ
kết hôn, hoặc ngay vào dịp hè này luôn. Chúng ta sẽ trở
lại đây vào tháng chín, chuẩn bị cho hai năm đại học
cuối cùng. Và một căn nhà nho nhỏ gần khu đại học…
Nàng ngẩng đầu dậy.
- Anh định làm cái trò gì thế? – Nàng gằn giọng – Tại
sao anh lại nói đến những chuyện này chứ?
- Em nghĩ xem lúc đó em đẹp biết dường nào! Em thấy
không?
- Anh tưởng anh biết thôi à? – Giọng nàng nghẹn lại vì
khóc – Nhưng bây giờ em đang có thai. Hai tháng rồi, anh
biết không? – Một sự im lặng bỗng sụp xuống như thể
tiếng động cơ ô tô bất chợt chết máy – Anh đang lẩn
tránh sự thật này phải không? Anh muốn bỏ rơi em phải
không? Anh muốn thế chứ gì?
- Ồ, không có chuyện đó đâu em – Hắn bấu vai nàng, kéo
khuôn mặt nàng lại sát mặt hắn – Không có chuyện ấy
đâu, Dorrie.
- Vậy anh sẽ làm gì cho em? Mình phải làm đám cưới
ngay. Không còn sự lựa chọn nào khác.
- Có chứ, Dorrie – Hắn nói cảm thấy tấm thân tê dại của
nàng đang ép chặt vào người hắn.
Nàng thì thào hốt hoảng:
- Anh, đừng làm thế, anh ơi! – Nàng vùng vẫy, lắc đầu vẻ
sợ hãi.
- Hãy nghe anh, Dorrie – Hắn vỗ về, tay vẫn bíu vai nàng
– Không có mổ đâu. Không hề gì cả – Hắn nâng cằm nàng,
vuốt má nàng, ghì chặt lấy nàng – Em hãy nghe anh. Hắn
đợi cho cơn giận của nàng dịu lại – Anh có thằng bạn ở
trong khu đại học, thằng Hermy Godsen. Chú của nó bán
cửa hàng thuốc tây ở đấy. Nó có thuốc viên em à.
Hắn buông nàng ra. Nàng không nói gì cả.
- Em hiểu không? Ta cứ thử xem sao. Anh nghĩ mọi chuyện
sẽ ổn thôi.
- Thuốc viên hả anh? – Giọng nàng đứt khoảng như thể lần
đầu tiên trong đời, nàng mới nghe từ đó.
- Đồng ý em nhé!
Nàng lắc đầu tuyệt vọng.
- Ôi lạy Chúa! Em chẳng biết ra sao nữa…
Hắn choàng tay ôm siết lấy nàng.
- Bé của anh, anh yêu em. Anh sẽ tìm cách không làm em đau
đớn.
Nàng tựa đầu vào vai hắn.
- Em không biết… Em không biết…
- Hãy yên tâm, em yêu – Hắn nói, tay mơn trớn – Một ngôi
nhà nhỏ xinh xinh thuộc hẳn về mình… Khỏi phải đợi bà
chủ nhà chết tiệt kia đi xem chiếu bóng…
Sau cùng nàng nói:
- Nhưng làm sao biết thuốc có tác dụng hay không, hả anh?
Lỡ ra thuốc không công hiệu thì sao?
Hắn thở mạnh.
- Nếu thuốc không… - Hắn hôn trán nàng, hôn má nàng, hôn
lên khóe môi nàng… - Nếu thuốc không hiệu nghiệm thì
mình làm lễ cưới ngay, có gì đâu, mặc xác ba em, mặc
xác công ty Kingship Copper kia. Anh sẽ cưới em ngay, bé yêu
của anh.
Hắn khám phá ra một điều là nàng rất thích được gọi
bằng bé. Khi hắn gọi nàng “bé yêu của anh” và ôm nàng
trong vòng tay thì hầu như hắn nói gì nàng cũng làm
theo lời hắn cả. Hắn nghĩ đến điều đó và quyết tâm
gợi lên ở nàng sự lạnh nhạt đối với ông bố.
Hắn tiếp âu yếm nàng, nhỏ to những lời yêu thương nồng
nàn. Dần dần nàng dịu lại, ngoan ngoãn dễ thương như
trước.
Hắn và nàng chia nhau điếu thuốc. Dorothy gắn điếu thuốc
lên môi hắn trước , rồi mới đến nàng. Nàng nhả từng
làn khói mỏng nhẹ vờn bay trên mái tóc, uốn lượn trước
đôi mắt to màu hạt dẻ của nàng.
Nàng quay đầu thuốc đang cháy đỏ về phía hắn, đưa qua
đưa lại, vẽ những vòng tròn tạo nên những đốm sáng lập
lòe trong bóng tối.
- Em cuộc với anh là bằng cách này em có thể mê hoặc
một người nào đó – Nàng vừa nói vừa ve vẩy điếu thuốc
trước mặt hắn. Trong ánh sáng chập chờn, lờ mờ, những
ngón tay thon thon của nàng cử động liên tục – Anh là nô
lệ của riêng em. Anh phải phục tùng, không được cưỡng
lại lệnh em.
Cử chỉ hồn hiên, trẻ thơ của nàng khiến hắn mỉm cười.
Điếu thuốc tắt. Hắn nhìn chiếc đồng hồ tay có dạ quang
của hắn, rồi vẫy vẫy tay trước mắt nàng.
- Mặc áo quần vào em. Bây giờ là mười giờ hai mươi, em
phải về cư xá trước mười một giờ.
Phần I - Chương 2
Hắn sinh trưởng ở Menasset, vùng phụ cận của Fall River
Massachusetts, là con trai độc nhất của gia đình. Bố hắn
là thợ vô dầu mỡ tại nhà máy dệt ở Fall River. Những
khi gia đình túng quẫn mẹ hắn phải nhận thêm đồ may vá.
Họ gốc Anh lai Pháp, sống ở khu ngoại ô đông dân, cạnh
những gia đình người Bồ Đào Nha. Ông bố ít khi than vãn
về cuộc sống, nhưng bà mẹ lúc nào cũng phiền muộn, âu
sầu. Bà là một người vợ bất hạnh và chịu nhiều thua
thiệt. Lấy chồng sớm, những mong chồng có một nghề gì
khấm khá hơn là chân thợ vô dầu mỡ nghèo mạt rệp này.
Ngay lúc còn bé, hắn biết mình khá đẹp trai. Khách
khứa vào những ngày chủ nhật đến chơi, cứ trầm trồ
khen mãi thằng nhỏ có mái tóc đẹp quá, có đôi mắt xinh
quá. Ông bố luôn có mặt những khi ấy, lắc đầu khiển
trách mấy người bạn. Bố mẹ hắn hay gây gổ nhau, thường
là vì vấn đề tiền bạc mà mẹ hắn đã đổ ra may mặc,
sắm sửa cho hắn.
Bà mẹ ngăn cấm không được chơi đùa với lũ nhỏ quanh
xóm; nên những ngày học đầu tiên ở trường là một thứ
cực hình đối với hắn. Hắn cảm thấy lạc lõng trong đám
học sinh. Bọn con trai thường hay trêu chọc bộ áo quần
tươm tất của hắn, trêu chọc sự cẩn thận quá mức của
hắn để khỏi làm bẩn áo quần trong sân chơi. Một ngày
kia, không chịu đựng được nữa, hắn xông thẳng đến thằng
bé cầm đầu bọn con trai hay hiếp đáp hắn, và dẫm chân
lên đôi giày thằng bé kia. Thế là một cuộc ẩu đả chớp
nhoáng nhưng thật dữ dội xảy ra. Cuối cùng hắn đè ngửa
được kẻ thù, lấy gối chằn lên ngực, rồi dộng đầu
thằng bé kia liên hồi xuống nền đất. Một thầy giáo vội
chạy đến can thiệp. Mọi việc được dàn xếp êm đẹp và
hai thằng trở thành bạn chí cốt.
Ở trường hắn luôn luôn đạt điểm số cao. Bà mẹ rất đỗi
tự hào về hắn, ngay cả ông bố cũng không tiếc lời tán
dương thằng con trai của ông. Hắn vẫn tiếp tục được điểm
tốt cho dù ngồi cạnh một cô gái không lấy gì làm đẹp
nhưng được cái thông minh. Cô gái đã ban cho hắn những nụ
hôn vụng dại trong phòng để quần áo, đến nỗi suốt kỳ
thi cô ta không sao làm bài được.
Thời kỳ học sinh là thời kỳ hạnh phúc nhất trong đời
hắn. Các cô nữ sinh thích cái nhìn của hắn, yêu cái
duyên dáng của hắn. Các thầy cô đều mến thương hắn vì
sự lễ phép và thái độ học tập chăm chỉ của hắn. Hắn
gục gặc đầu mỗi khi thầy cô khẳng định một sự kiện
quan trọng gì đó. Hắn mỉm cười mỗi khi thầy cô nói
những câu bông đùa nhẹ nhàng. Trước mặt bọn con trai thì
hắn lại tỏ ra phớt lờ, không ưa bọn con gái lắm; do đó
bọn con trai cũng đâm ra khoái hắn. Ở nhà, hắn là ông
trời con. Ông bố, cuối cùng ngả về phe bà mẹ, lúc nào
cũng tán tụng hắn.
Khi hắn bắt đầu có những buổi hẹn hò với các cô gái,
phần lớn là các cô con gái nhà giàu có trong thành
phố, thì bố mẹ hắn lại bắt đầu to tiếng với nhau về
những khoản tiền bà mẹ dành may mặc cho hắn. Tuy nhiên
những lần tranh cãi này rất ngắn ngủi vì ông bố miễn
cưỡng dè xẻn chiếu lệ đấy thôi. Bà mẹ thường đề cập
với hắn về việc cưới hỏi một cô gái con gia đình giàu
có. Dĩ nhiên bà nói như có vẻ bông đùa nhưng bà cứ mãi
lặp lại chuyện này.
Hắn là trưởng ban đại diện các lớp cuối cấp ở trường
phổ thông. Thi tốt nghiệp đứng thứ ba, hạng ưu về môn
toán và khoa học. Trong quyển sổ lưu niệm hằng năm của
nhà trường, hắn đạt được nhiều danh hiệu: người khiêu
vũ đẹp nhất, người nổi tiếng nhất, người thành công
nhất.bố mẹ hắn mở tiệc khoản đãi những thành tích
của hắn; hầu hết các cô, các cậu con nhà có máu mặt
trong thành phố đều đến dự buổi tiệc. Hai tuần sau, hắn
bị gọi đi quân dịch.
Những ngày đầu ở trại huấn luyện, hắn cứ vương vấn
mãi những ngày tháng vinh quang bỏ lại ở phía sau. Nhưng
rồi thực tại xóa mờ dần sự luyến tiếc kia. Hắn nhận
ra cái uy quyền lạnh lùng vô nhân đạo của quân đội đã
dẫm đạp lên nhân cách con người gấp ngàn lần những ngày
đầu tiên theo học ở trường. Nơi đây, nếu hắn xông thẳng
đến tên trung sĩ, đạp lên đôi giày của tên rtung sĩ đó
thì chắc chắn cuộc đời còn lại của hắn sẽ vĩnh viễn
chôn vùi trong trại giam. Hắn nguyền rủa cái hệ thống
thui chột đã ném hắn vào bộ binh, nơi đây, hắn bị bủa
vây toàn một lũ thô bạo, ngu ngốc chỉ đọc có một thứ
sách nhảm nhí rẻ tiền. Nhưng sau một thời gian, chính
hắn cũng đâm ra say mê đọc loại sách đó, bởi vì hắn
không sao ngốn được quyển truyện ANNA KARENITA mà hắn đã
mang theo từ ngày nhập ngũ. Hắn đánh bạn với một vài
người, mua bia ở căng tin đãi họ, vẽ vời những câu
chuyện tục tĩu để châm biếm các sĩ quan. Hắn coi thường
mọi việc học hành, rèn luyện.
Khi được đưa xuống tàu đi San Francisco, hắn đã nôn mửa
suốt cuộc hành trình trên Thái Bình Dương; hắn biết
nguyên nhân một phần là do sự chao đảo của con tàu. Hắn
nghĩ hắn không sao thoát chết được.
Trên một hòn đảo vẫn đang còn bị Nhật chiếm đóng, hắn
lạc khỏi đồng đội. Hắn kinh hãi giữa khu rừng già tĩnh
mịch. Hắn tuyệt vọng, băng lối này, lội qua lối kia,
hoàn toàn mất phương hướng. Bỗng một phát súng vang lên.
Viên đạn xẹt ngang tai. Tiếng chim kêu hốt hoảng, xé toạc
bầu không khí yên tịnh. Hắn liền ngã người xuống đất,
trườn đến một bụi cây, đau nhói với ý nghĩ cái chết
cận kề.
Tiếng chim khoét sâu cảnh vắng lặng. Hắn thấy một tia
nắng xuyên cành ngay trên đỉnh đầu và nhận ra một tên
lính Nhật đang ẩn nấp trên lùm cây. Hắn khẽ lê người
đến gần bụi cây hơn, nhè nhẹ kéo khẩu súng theo. Toàn
thân hắn lạnh toát, mồ hôi vã ra như tắm. Đôi cah6n hắn
run lẩy bẩy. Hắn nghĩ tên Nhật sẽ nghe được tiếng lá
kêu sột soạt dưới đôi chân hắn. Khẩu súng bỗng dưng nặng
lên một cách không tưởng tượng được.
Chỉ còn cách cây vài tấc, hắn nhìn lên, nhận ra một
khuôn mặt lấp ló trên kia. Hắn nâng súng, ngắm bóp cò.
Tiếng chim bay tán loạn. Thân cây vẫn không lay động.
Bịch! Một khẩu súng rơi ngay bên cạnh hắn. Hắn thấy tên
lính Nhật đang bám thân cây, khó nhọc trèo xuống. Tên
lính Nhật ngã sóng soài tên mặt đất., hai tay đưa cao lên
trời. Một tên lính da vàng nhỏ thó, quanh người quấn
đầy lá và cây con, miệng đang líu lô líu la đầy kinh
hãi.
Chĩa thẳng súng vào tên lính Nhật, hắn đứng lên. Tên
Nhật cũng sợ hãi như hắn, khuôn mặt vàng sậm nhăn nhúm
khủng khiếp, hai đầu gối run bần bật. Kinh khủng hơn
nữa, một vết thương sâu hoắm bê bết máu trên ngực tên
Nhật.
Hắn nhìn khuôn mặt kia, kinh tởm. Đôi chân hắn giờ đây
không còn run rẩy nữa. Mồ hôi hết xối xả. Khẩu súng
trở nên nhẹ tênh. Hắn nâng cây súng, trông giống như cánh
tay duỗi thẳng ra bất động, nhắm thẳng vào cái thây
người đang lắc lư bủn rủn.tiếng xi xô xi xao của tên Nhật
nhỏ dần như van vỉ, như cầu xin. Hai bàn tay chắp vào
nhau lạy lạy trong không khí.
Hắn từ từ siết cò súng. Khẩu súng giật lùi lại, hắn
không mãy may nhúc nhích. Hắn chẳng để ý đầu báng súng
thúc mạnh vào bả vai, cứ mải mê đưa mắt nhìn sững cái
lỗ sâu hoắm máu đỏ tươi nơi ngực tên lính Nhật. Cái thân
hình nhỏ bé hèn mọn kia đổ nhào trên nền đất của khu
rừng già. Tiếng kêu sắc nhọn của chim muông như những con
bài tây đang được ném tung vào không gian trầm lắng. Nhìn
cái thây người gầy guộc của kẻ thù một chốc, hắn quay
lưng bỏ đi. Bước chân của hắn giờ đây nhẹ nhàng, vững
hải như lần nào hắn bước ngang qua sân khấu nhận lãnh
mảnh bằng tốt nghiệp.
Tháng giêng năm 1947, hắn nhận được bằng tuyên dương công
trạng, xuất ngũ với huy chương đồng do thành tích một
vết thương ở bả vai. Trở về nhà, hắn mới biết tin bố
hắn đã chết trong một tai nạn ô tô vào lúc hắn bước
xuống tàu đi San Francisco.
Ở Menasset, hắn được giao cho một số việc làm nhưng hắn
từ chối vì những loại công việc đó chẳng hứa hẹn gì
cho tương lai hắn. Số tiền bảo hiểm của bố hắn đủ nuôi
sống hai mẹ con. Ngoài ra bà mẹ còn nhận đồ may vá
thêm. Sau hai tháng sống trong sự ngưỡng mộ của những
người dân trong tỉnh và mỗi tuần nhận được hai mươi đô la
của chính phủ liên bang trợ cấp, hắn quyết định lên New
York. Mẹ hắn có bàn ra nhưng hắn đã trên hai mươi tuổi
nên hắn làm theo ý hắn. Một số người rất ngạc nhiên vì
thấy hắn không có ý định theo học đại học trong lúc
hắn được nhà nước đài thọ. Hắn nghĩ đại học là chỗ
ngừng chân không cần thiết đối với tham vọng của hắn.
Hắn biết con đường hoạn lộ đang mở rộng chờ đón hắn ở
phía trước.
Ở New York hắn khởi sự làm việc tại một cửa hàng phát
hành sách. Người quản lý cam đoan với hắn rằng nơi đây
hắn sẽ có một tương lai sáng lạng vì hắn là một thanh
niên có tài năng. Nhưng sau hai tuần làm việc, tiền lương
chỉ vừa đủ cho hắn thanh toán tiền thuê phòng ở khu thợ
thuyền.
Sau đó hắn làm thư ký ở gian hàng bán áo quần đàn ông
ở một cửa hàng tổng hợp. Hắn đã ở đây được một tháng
chỉ đơn giản là vì hắn mua áo quần được giảm 20%.
Khoảng cuối tháng tám, khi hắn đã ở New York được năm
tháng và đã làm đến sáu nghề khác nhau, thì hắn lại
rơi vào trạng thái bất an, lạc lõng trong đám đông xô bồ
hỗn độn – nỗi bất an hắn không bao giờ có những khi hắn
một mình. Nơi đây không một ai tôn sùng ngưỡng mộ hắn và
không một dấu hiệu nào hứa hẹn cho tương lai của hắn.
Hắn ngồi trong căn phòng trọ, dành hết mọi thì giờ để
tự đánh gái, kiểm điểm bản thân một cách nghiêm khắc.
Nếu sáu nghề vừa qua không gây một hứng thú nào trong
hắn thì nhất định những nghề sau này cũng sẽ không mang
lại niềm phấn khởi nào cho hắn. Hắn lấy bút, giấy rồi
ghi chú từng đức tính, từng sở thích, từng khả năng
của hắn.
Tháng chín, hắn ghi học tại một trường kịch nghệ. Các
giáo viên đặt nhiều hy vọng ở hắn: đẹp trai , thông minh
, giọng nói hay . Thoạt đầu hắn cũng tin như thế. Nhưng
về sau hắn thấy đề trở thành một kịch sĩ, người ta
đòi hỏi ở hắn quá nhiều việc. Những bài tập “ Hãy
nhìn vào bức ảnh này “. “ Hãy diễn xuất theo cảm xúc
do bức ảnh gợi trong ảnh “ nghe buồn cười kệch cỡm không
ngửi được, mặc dù các bạn đồng khóa với hắn thực
hành cực kỳ nghiêm túc. Bài tập duy nhất hắn thấy có
thể áp dụng được cho bản thân là cách luyện phát âm.
Hắn lúng túng mỗi khi nghe từ “Trọng âm” chỉ dành riêng
cho hắn đến nỗi hắn bị ám ảnh mãi từ đó như thể một
thứ mà tất cả những người khác đều có, trừ hắn ra.
Tháng mười hai, vào ngày sinh nhật thứ hai mươi hai của
hắn, hắn gặp gỡ một góa phụ đẹp, gợi cảm. Bà ta độ
bốn mươi tám tuổi và rất giàu. Họ gặp nhau ở góc đại
lộ Năm và đường 55. Rất lãng mạn và tình tứ, hai người
bỗng hợp ý nhau. Cả hai đi lùi lại một nơi gần khúc
quanh để tránh xe buýt, người đàn bà cởi bỏ áo quần
và ngã vào vòng tay rắn chắc của hắn. Bà ta thoáng
bối rối và run rẩy. Hắn pha trò về kinh nghiệm và sự
cẩn thận của các bác tài trên tuyến đường đại lộ Năm.
Sau đó, hai người xuống phố, vào một quán giải khát
sang trọng, mỗi người uống một ly rượu Máctini. Hắn trả
tiền bằng ngân phiếu của hắn. Những tuần lễ kế
tiếp,họ đi xem chiếu bóng ở khu đông, ăn nhà hàng ở nhà
hàng hạng nhất. Cuối bữa ăn, hắn hào phóng cho tiền
trà nước những người hầu bàn. Hắn trả nhiều ngân phiếu
hơn nữa nhưng không phải là ngân phiếu của hắn như mọi
lần.
Sự gắn bó của hắn và người đàn bà góa kéo dài được
hai tháng. Suốt thời gian đó, hắn bỏ học ở trường kịch
nghệ không một chút đắn đo. Hắn dành hết thì giờ để
đưa người tình già đi mua sắm cho bà, đồng thời cũng cho
hắn luôn. Thoạt tiên hắn cảm thấy khó chịu, ngượng ngịu
thế nào ấy khi đi bên cạnh bà ta vì tuổi tác quá chênh
lệch giữa bà và hắn. Nhưng rồi hắn cũng dần quen. Tuy
nhiên hắn không còn hứng thú như thuở ban đầu vì hai lý
do: trước hết, khuôn mặt người góa phụ rất gợi cảm,
nhưng khốn nỗi thân hình của bà ta lại không được hấp
dẫn như thế. Sau nữa, lý do quan trọng hơn là hắn được
người đưa thang máy cho biết hắn chỉ là một trong số
những chàng trai trước sau rồi sẽ được thay thế trong
vòng sáu tháng thôi. Hắn suy nghĩ:” Không thể đùa chơi
được. Chỗ này cũng chẳng có tương lai gì”. Năm tháng
trôi qua, khi nhận thấy bà ta không còn bận tâm đến những
lần vắng mặt của hắn, hắn đoán ra được ý đồ của
người thiếu phụ ấy nên hắn nói với bà hắn phải trở
về nhà vì mẹ hắn ốm nặng.
Sau khi bán mấy bộ đồ và mang chiếc đồng hồ hiệu Patek
Philippe đi cầm, hắn trở lại quê nhà. Suốt những ngày
đầu tháng sáu, hắn quanh quẩn mãi trong nhà, thầm tiếc
sao người đàn bà góa ấy không trẻ đẹp hơn, quyến rũ hơn
để hắn duy trì dài lâu mối tình đó.
Chính những ngày này, hắn bắt đầu hoạch định kế hoạch
cho tương lai. Hắn quyết tâm theo học đại học. Vì vậy
trong dịp hè, hắn nhận làm việc ở cửa hàng bán lương
khô. Số tiền nhà nước trợ cấp không đáp ứng được mức
tiêu pha của hắn, hắn quyết định theo học ở một trường
đại học nổi tiếng.
Cuối cùng hắn chọn đại học Stoodard ở Blue River, bang
Iowa. Đó là trường đại học hầu như dành riêng cho con
cái những gia đình gìau có ở miền trung tây. Hắn được
thu nhận vào không có gì trở ngại vì thành tích dưới
trung học của hắn quá xuất sắc.
Năm đầu tiên ở đại học, hắn làm quen với cô con gái của
một ông giám đốc cửa hàng bán công cụ nông nghiệp. Cô
gái rất xinh. Cả hai đi chơi, cùng nhau trốn học, và ăn
ngủ với nhau.
Tháng năm, cô gái nói cho hắn biết là nàng đã hứa hôn
với một chàng trai vừa mới hồi hương và mong rằng hắn
không lấy thế làm buồn.
Năm thứ hai, hắn gặp Dorothy.
Phần I - Chương 3
Hermy trao cho hắn những viên thuốc màu trăng trắng “Mất
toi năm đô la!” - Hắn nghĩ thầm.
Vào lúc tám giờ, hắn sẽ gặp Dorothy ở điểm hẹn thường
gặp, chiếc ghế dưới tàng cây xum xuê ngay giữa bãi cỏ
cạnh nhà Nghệ thuật và hiệu thuốc tây. Khi rời khỏi
lối đi lát đá xi măng trắng và đi băng qua vùng bóng tối
thì hắn thấy Dorothy, hai tay đan vào nhau để trên đùi,
đã có mặt ở đó rồi. Nàng mặc áo len đen để chống lại
cơn giá lạnh tháng tư. Ánh đèn đường hắt xuống, in một
vệt đen chạy dài trên khuôn mặt Dorothy.
Hắn ngồi xuống bên cạnh, hôn má nàng. Nàng dịu dàng
chào đón hắn. Âm thanh thánh thót của những chiếc đàn
dương cầm vọng ra từ khung cửa sổ hình chữ nhật sáng
choang của nhà Nghệ thuật.
- Thuốc có đây rồi, Dorrie à – Hắn nói.
Một đôi nam nữ đang băng qua bãi cỏ tiến về phía hai
người. Thấy ghế có đã có người ngồi, đôi nam nữ quay ra
phía đường lát đá trắng. Giọng người nữ tiếc nuối:
- Trời đất! Ghế nào cũng có người.
Hắn lấy bì thư ở túi ra dúi vào tay nàng. Qua lần
giấy, Dorothy sờ lấy những viên thuốc.
- Em uống một lần hai viên – Hắn nói – Em sẽ bị sốt một
chút, có thể bị nôn mửa nữa.
Nàng bỏ bì thư vào túi áo khoác.
- Chất gì trong đó hà anh?
- Ký ninh và một vài thứ khác. Anh cũng không rõ. Không
sao đâu em.
Hắn nhìn khuôn mặt Dorothy. Thấy nàng đăm đăm nhìn cái
gì đó bên kia nhà Nghệ thuật, hắn quay lại theo hướng
nhìn của nàng về phía ánh sáng đỏ rực cách xa đó vài
dặm. Nổi bật lên ở đấy cái tháp đài truyền thanh địa
phương và sừng sững một tòa nhà cao ngất ở Blue River:
Tòa nhà hành chính, văn phòng kết hôn ở trong đó. Hắn
tự hỏi có phải vì thế mà Dorothy chăm chú nhìn hướng
đấy không, hay vì ánh đèn lấp lánh rực đỏ lôi cuốn
nàng. Hắn cầm lấy tay nàng – bàn tay lạnh ngắt.
- Chẳng có gì để lo lắng cả, Dorrie – Hắn thầm thì –
Mọi việc sẽ êm đẹp thôi.
Cả hai ngồi không nói năng gì. Lát sau Dorothy nói:
- Đêm nay em muốn đi xem phim. Có phim do Joan Fontaine thủ
vai đang chiếu ở rạp đấy.
- Không được. Anh có nhiều bài tập tiếng Tây Ban Nha phải
làm tối nay. Thế mình đến Tổng hội sinh viên, em sẽ làm
hộ cho anh.
- Em nói gì vậy? Định hối lộ anh đấy phỏng?
Hắn tiễn nàng ngang qua làng đại học. Đến trước cư xá
nữ sinh viên, hai người hôn nhau từ biệt.
- Sáng mai hẹn gặp em ở lớp – Hắn nói.
Nàng gật đầu, hôn hắn một lần nữa. Toàn thân nàng run
rẩy.
- Nào, bé yêu của anh, có gì mà em phải lo bấn lên thế
kia. Nếu thuốc không công hiệu thì mình cưới nhau. Em có
nghe anh nói không? Tình yêu sẽ giúp ta vượt qua tất –
Nàng đợi hắn nói tiếp – Anh yêu em vô cùng, vô cùng em ạ
– Hắn hôn nàng. Khi rời môi nhau, Dorothy gượng mỉm cười.
- Chúc em ngủ ngon, bé của anh.
Hắn về phòng trọ. Hắn không sao làm bài được. Ngồi
chống khuỷu tay lên bàn, hai tay ôm lấy đầu, hắn miên man
nghĩ đến những viên thuốc. “Lạy Chúa! Thuốc sẽ hiệu
nghiệm. Chắc chắn! Nhưng thằng Hermy đã nói tao không thể
viết giấy bảo đảm cho mày được. Nếu con bồ mày đã có
thai hai tháng…”
Hắn cố gắng không nghĩ đến việc ấy nữa. Hắn đứng lên,
đi lại tủ mở ngăn kéo cuối cùng, lấy dưới những bộ áo
quần áo ngủ được xếp gọn gàng ra hai quyển sách nhỏ,
bìa mềm mại có viền giấy bạc lóng lánh.
Ngay khi gặp Dorothy lần đầu, nhờ người thư ký phụ trách
ghi danh, hắn đã biết rằng Dorothy chính là con gái của
Leo Kingship – Giám đốc công ty Khingship Copper giàu sụ.
Hắn liền viết một lá thư giao dịch gởi cho phòng tổ
chức công ty ở New York. Trong thư hắn tỏ ý muốn bỏ vốn
đầu tư với công ty Kingship Copper (thực ra đâu phải thế),
và yêu cầu họ gởi cho hắn những quyển sách nói rõ về
những cổ phần của công ty ấy.
Hai tuần sau, trong lúc hắn đang mải mê đọc quyển
Rebecca (hắn làm ra vẻ say mê quyển này vì Dorothy thích
nó) và Dorothy đang mải đan cho hắn một đôi tất màu lá
mạ mà trước đây một bạn trai của Dorothy cũng thích –
với Dorothy, đan tất là một biểu hiện tình yêu sâu đậm
của nàng – thì những quyển sách nhỏ được gửi đến cho
hắn. Hắn trịnh trọng mở bì thư. Ôi! Tuyệt quá! Những
quyển chỉ dẫn về kỹ thuật luyện kim, nói về khai thác
những mỏ đồng, một quyển “Kẻ tiên phong trong hòa bình
và chiến tranh”. Những quyển sách có nhiều hình ảnh
minh họa: hầm mỏ, lò luyện kim, máy lọc, lò thổi… Hắn
đọc chúng hàng trăm lần đến nỗi hắn thuộc lòng từng
lời chú thích. Những lúc rảnh rỗi, hắn lại đem ra đọc,
nghiền ngẫm: đôi môi luôn luôn nở nụ cười thích thú như
một thiếu nữ đang ngấu nghiến đọc bức thư tình.
Nhưng… tối nay, những quyển sách chẳng còn hấp dẫn hắn
nữa…” Một mỏ vừa mới khai thác ở Michigan. Chỉ riêng mỏ
này, sản lượng năm…”
Cơn giận bùng lên dữ dội, chính Dorothy phải gánh chịu
hậu quả này. Hắn chỉ muốn đưa Dorothy về căn phòng của
hắn một lần thôi – thi hành đúng sự giao ước này với
bà chủ nhà, hắn sẽ được trả tiền thuê nhà thấp hơn.
Cũng vì Dorothy mới nên cớ sự hôm nay. Đôi mắt nhắm lại
một cách ngây thơ, và nỗi đam mê ham hố của nàng, nàng
giống như một đứa bé mồ côi thiếu ăn, cứ nằng nặc đến
hoài đến mãi. Hắn đấm mạnh tay lên bàn: “Đúng là tại
con bé. Khốn kiếp!”
Hắn hướng dòng tư tưởng trở về lại các quyển sách,
nhưng chẳng được nữa. Một chốc sau, hắn gạt sách sang
bên, gục đầu vào hai bàn tay. “Nếu thuốc không công hiệu…
Mình phải thôi học ư? Bỏ rơi con bé? Chẳng ích gì. Con
bé biết địa chỉ của mình ở Manesset. Cho dù con bé
không làm gì đi nữa thì bố con bé sẽ ra tay. Dĩ nhiên
họ không có một bằng cớ xác đáng nào cả (mà nếu có
thì sao?), nhưng với lão Kingship, lão sẽ tìm mọi cách
gây khó dễ cho mình”. Hắn hình dung ra sự liên kết chặt
chẽ giữa bọn nhà giàu có thế lực, những phe cánh bảo
vệ cho nhau giữa chúng, và hắn như thể nghe lão Kingship
nói: “Phải theo dõi thằng khốn kiếp đó. Nó là một
thằng bất lương. Nhận thấy trách nhiệm, bổn phận của
bậc làm cha, làm mẹ, tôi thông báo cho các ông bà biết
điều đó…”
Còn gì nữa? Lại chui rúc trong xó xỉnh ở khu thợ
thuyền? Giả dụ mình cưới con bé? Con bé sẽ sinh đẻ, có
con, rồi không rút tỉa được một xu nào của cái lão già
kia. Lại đi thuê phòng lần này đèo thêm một con vợ… một
tí nhau nữa chứ. Trời ơi! Lạy
Chúa cho thuốc có tác
dụng! Tất cả phụ thuộc vào những viên thuốc ấy. Nếu
thất bại, không biết mình sẽ xoay sở ra sao đây?”
Hộp diêm nhạt nhòa với dòng chữ DOROTHY KINGSHIP in trên
giấy bạc. Vào mỗi dịp lễ Giáng sinh, công ty Kingship
Copper thường tặng những hộp diêm cá nhân cho tất cả nhân
viên, khách hàng, bạn bè. Dorothy phải quẹt mất bốn que
diêm mới châm được điếu thuốc, ánh lửa rung rung như có
một làn gió nhẹ thoảng qua. Nàng ngả người ra sau, cố
định tâm nhưng đôi mắt vẫn không rời cánh cửa buồng tắm
đang mở toang đằng kia, chiếc phong bì màu trắng, ly nước
trên thành buồng tắm đang đợi nàng! Dorothy nhắm mắt
lại. Giá nàng kể cho chị Ellen nghe. Một lá thư sáng nay
vừa đến. “Thời tiết tuyệt diệu quá Dorothy ơi… Chủ tịch
sinh viên năm thứ nhất tổ chức một buổi nghe nhạc ngoài
trời cho các sinh viên năm thứ tư… Em đã đọc quyển truyện
mới nhất của Marquant chưa?”. Một lá thư khác với những
dòng chữ khách sáo vô hồn giữa hai chị em kể từ giáng
sinh năm ấy, từ buổi hai chị em gây gỗ lẫn nhau. “Nếu
mình nghe được lời khuyên của Ellen. Nay mình viết thư kể
cho chị ấy nghe, như mình vẫn làm trước kia…”
Khi Leo Kingship ly dị vợ, Dorothy lúc đó mới lên năm,
Ellen được sáu tuổi và người chị đầu mười tuổi. Khi ba
chị em mất mẹ – lần trước vì bố mẹ ly dị nhau, cách
năm sau mẹ mất – Marion là người cảm thấy sự mất mát
đó một cách thấm thía hơn cả. Marion không sao quên được
những lời buộc tội, những câu nói lăng mạ, nhục nhã
của ông bố và Marion đã kể lại cho hai cô em gái nghe khi
hai người em đã khôn lớn. Ở một mức độ nào đó, Marion
đã nhấn mạnh đến tính độc ác của bố mình. Năm tháng
lạnh lùng trôi qua, Marion sống âm thầm tách biệt, cô
độc, vùi mình trong những chồng sách.
Dorothy và Ellen quay sang đùm bọc, yêu thương nhau, tình
thương từ lâu cả hai chị em không tìm thấy ở ông bố
nghiêm khắc. Ông lúc nào cũng lạnh lùng xa cách. Ngay cả
người vú nuôi mấy chị em cũng đâm ra thờ ơ, nhạt nhẽo
với hai chị em. Dorothy và Ellen cùng học một trường,
cùng tham gia những buổi trại, cùng sinh hoạt ở một câu
lạc bộ, cùng tham dự những buổi khiêu vũ (nhưng lúc nào
cũng phài cầm chừng về nhà theo giờ giấc ông bố quy
định). Ellen đi đâu, Dorothy theo đó.
Ellen vào đại học Caldwell, bang Wisconsin và Dorothy dự
định năm đến sẽ theo chị lên đó luôn. Ellen phản đối.
Ellen nói Dorothy đã lớn khôn, phải tự lập. Ông bố đồng
ý – tính tự lập là thước đo để ông đánh giá những
người khác. Thế là Dorothy được gửi lên đại học
Stoddard, cách Caldwell một trăm dặm. Vào cuối tuần, hai
chị em đến thăm nhau. Một vài lần thăm viếng nhau rồi
những lần thăm viếng đó thưa dần và cuối cùng dứt hẳn.
Dorothy đã mạnh dạn tuyên bố rằng ngay năm đầu tiên nàng
đã sống tự lập được rồi. Lễ Giáng sinh vừa qua, xảy ra
một cuộc tranh vãi dữ dội giữa hai chị em vì một việc
nhỏ nhặt: “Nếu em muốn mặc chiếc áo dài của chị thì
ít ra em phải hỏi ý kiến chị đã chứ?”. Thế rồi suốt
mùa hè, Dorothy ủ ê mãi, không nói
năng gì. Khi quay về
lại trường, những lá thư thưa dần, thưa dần…
Nhưng còn chiếc máy điện thoại kia, Dorothy nhận ra nàng
đang nhìn cái máy. Chỉ cần trong tích tắc nàng có thể
trò chuyện với Ellen ngay. “Nhưng… không bao giờ, không bao
giờ. Tại sao mình phải là người đầu tiên xuống nước
nhân nhượng chị ấy chứ?”. Nàng gạt thuốc vào cái gạt
tàn. “Hơn nữa giờ mình đã bình tĩnh lại rồi. Tại sao
mình sợ hãi, do dự? Mình phải uồng thuốc thôi. Nếu
thuốc hiệu nghiệm, mọi việc sẽ êm đẹp. Nếu không, anh
ấy sẽ cưới mình, có sao đâu – Nàng mường tượng sự việc
sẽ thông suốt tốt đẹp – Dù bố mình có nổi cơn thịnh
nộ chăng nữa thì cũng vậy thôi. Mình sẽ không thèm xin
một đồng nào cả”. Nàng đi đến cửa phòng khách, khóa
cửa lại, đột nhiên nàng nghe ớn lạnh cả cột sống vì
có bao giờ nàng sống trong một tình huống đầy kịch
tính thế này đâu.
Trong phòng tắm, nàng cầm lấy bì thư, mân mê những viên
thuốc trong lòng bàn tay. Chúng có màu trăng trắng, nhờn
nhờn, trông giống như những viên ngọc bích được kéo dài
ra. Nàng ném bì thư không vào sọt rác, bỗng một ý nghĩ
chợt lóe lên trong óc nàng – “Giả dụ mình không uống?
Đám cưới sẽ được tiến hành ngay vào ngày mai, thay vì
phải đợi đến mùa hè, hoặc chi đến khi tốt nghiệp –
phải đợi đến hai năm nữa – không, tối mai phải cử nhành
lễ cưới mới được.
Nhưng nếu mình không uống là mình thiếu ngay thật. Mình
đã hứa với anh. Tuy nhiên vào ngày mai…”.
Nàng nâng ly, bỏ thuốc vào miệng, rồi uống ực một hơi.
Phần I - Chương 4
Lớp học được đặt trong một tòa nhà mới xây dựng ở
Stoddard. Phòng học hình chữ nhật, sáng sủa với tường
bằng kính khung nhôm. Tám dãy bàn ghế đối diện với bục
giảng của giáo viên. Mỗi dãy mười chỗ ngồi, ghế có tay
dựa phía bên mặt được uốn cong ra trước bàn viết.
Hắn ngồi ở cuối phòng, chỗ thứ hai tính từ cửa sổ
vào. Chỗ phía bên tay trái hắn còn trống: Chỗ ngồi của
Dorothy. Tiết học thứ nhất buổi sáng – môn khoa học xã
hội – là tiết học duy nhất học chung với nhau ở học kỳ
đầu. Giọng giáo viên vang vang trong bầu không khí chói
chang ánh mặt trời.
Hôm nay, như những ngày khác, nàng luôn cố gắng đến đúng
giờ. “Con bé có biết mình đang thấp thỏm, sợ hãi chờ
đợi đây không? Không biết mình sẽ lên thiên đàng hay địa
ngục? Hạnh phúc hay khổ đau? Mình chẳng thèm bận tâm
nữa, mệt óc! – hắn nhìn đồng hồ tay: 9 giờ 8 phút –
Khốn kiếp!”.
Hắn loay hoay mãi trong ghế, tay mân mê chùm chìa khóa
một cách bồn chồn, tức tối. Hắn nhìn tấm lưng cô gái
ngồi trước mặt, nhẩm đếm những chấm nhỏ li ti trên áo
cô ta.
Cửa bên hông phòng học nhẹ mở. Hắn quay đầu, nhìn. Trông
nét mặt Dorothy có vẻ hãi hùng. Da mặt nàng trắng bệch
đến nỗi phấn hồng như một lớp bột sơn trét lên đó. Đôi
mắt nàng thâm quầng. Cánh cửa vừa mở, nàng đã nhìn
hắn khẽ ra hiệu, lắc đầu.
Chúa ơi! Hắn quay nhìn chùm chìa khóa nơi tay, nghe chết
điếng cả người. Hắn nghe tiếng bước chân của Dorothy đi
vòng quanh sau lưng hắn. Hắn nghe rõ mồn một tiếng sách
vở nàng bỏ trên sàn nhà giữa lối đi. Hắn lại nghe
tiếng viết nguệch ngoạc trên tờ giấy, rồi nghe tiếng
giấy bị xé khỏi vở.
Hắn đưa mắt nhìn sang. Nàng chìa tay ra với mảnh giấy
màu xanh đã được gấp đôi lại. Nàng nhìn sững hắn, đôi
mắt to mở lớn, lo lắng đợi chờ.
Hắn cầm lấy mảnh giấy, để lên đùi, mở ra đọc. “Em bị
sốt, ói mửa, nhưng không có chuyện gì xảy ra sau đó”.
Hắn nhắm mắt lại một lúc, rồi mở mắt nhìn nàng. Nét
mặt không biểu lộ một cảm xúc nào. Nàng gượng cười,
có vẻ băn khoăn. Hắn cố thử mở miệng cười nhưng không
thể nào cười được. Hắn đưa mắt nhìn lại tờ giấy. Hắn
gấp đôi mảnh giấy, gấp nữa, gấp nữa đến khi mảnh giấy
được cuộn tròn lại như cái nút chai, rồi hắn nhét vào
túi quần. Hắn ngồi đó, những ngón tay đan vào nhau,
nhìn giảng viên.
Một lúc sau, hắn mới có thể quay nhìn Dorothy, nở nụ
cười trấn an nàng, thì thào:
- Em đừng lo.
Lúc chín giờ năm lăm phút, chuông reo tan học, họ rời
khỏi phòng. Các sinh viên khác cười nói ầm ĩ, xô đẩy
nhau, bàn tán, than vãn về kì thi sắp đến, những buổi
hẹn hò lở dở với người yêu… Ra đến bên ngoài, hắn và
Dorothy bỏ lối đi đông đúc, tách vào dưới hiên một ngôi
nhà với những bức tường xây bằng bê tông.
Đôi má của Dorothy ửng hồng trở lại. Nàng liến thoắng
nói.
- Em tin mọi việc tốt đẹp. Anh vẫn tiếp tục học. Nhà
nước sẽ trợ cấp thêm cho anh, phải không anh? Vì anh có
vợ mà!
- Với số tiền một trăm năm mươi đô mỗi tháng ấy à? –
Hắn nói với giọng điệu chua chát.
- Bao nhiêu người phải sống lang thang… sống chen chúc
trong các toa xe goòng thì sao. Mình sẽ xoay sở.
- Hắn bỏ sách vở lên thảm cỏ. “Điều quan trọng nhất –
hắn nghĩ thầm – là mình phải có thời gian để tính
toán, để tìm lối thoát”. Hắn cảm thấy lo sợ, hai đầu
gối hắn bắt đầu run run. Hắn đặt tay lên vai nàng, cười.
- Anh chỉ nghĩ thế thôi. Không cò gì lo lắng hết. Để anh
lo liệu – Hắn thở mạnh – Trưa thứ sáu mình sẽ đến
phòng kết hôn…
- Sao lại thứ sáu hả anh?
- Bé không thấy à, hôm nay thứ ba. Còn ba ngày nữa, có
gì khác đâu.
- Em nghĩ ta nên đi ngay hôm nay.
- Dorrie, không được đâu – Hắn sửa lại cổ áo choàng của
nàng – Em phải thực tế mới được. Biết bao nhiêu chuyện
mình phải chuẩn bị hả em. Việc trước tiên là anh đi thử
máu. Không thể không làm chuyện này được. Sau đó vào
ngày thứ sáu, mình làm lễ thành hôn. Cuối tuần đi
hưởng tuần trăng mật. Anh sẽ dành phòng trước ở New
Washington House.
Dorothy khẽ nhíu mày, do dự.
- Ba ngày nữa có gì khác, hả bé yêu của anh?
- Thôi cũng được – Nàng thở dài chấp nhận.
- Thế mới đúng là bé yêu của anh chứ!
Dorothy cầm lấy tay hắn.
- Em biết đó là cách làm ngoài ý muốn của mình, nhưng
anh… anh vui, phải không anh?
- Em lại nghĩ gì thế nữa? Tiền không phải là tất cả,
em à. Anh chỉ lo cho em và chỉ nghĩ đến em thôi.
Aùnh mắt nàng ấm lại, xa vắng. Hắn nhìn đồng hồ tay.
- Mười giờ em có tiết học, phải không?
- Solamente el Espagnol (*). Em bỏ học cũng được.
- Đừng em. Mình sẽ có lý do chính đáng hơn để bỏ học
những tiết buổi sáng – Nàng siết chặt tay hắn – Hẹn
tám giờ gặp em ở ghế đá – Nàng miễn cưỡng rời khỏi
mái hiên ra về – À Dorrie này…
- Gì vậy anh?
- Em không kể gì với chị Ellen của em đấy chứ?
- Chị Ellen hả? Không, anh à.
- Ừ, tốt hơn là em đừng kể gì hết. Đợi đến khi nào
mình cưới nhau hãy hay.
- Em nghĩ nên nói trước cho chị ấy biết. Bọn em thân nhau
lắm. Em không thể làm như thế mà lại không cho chị ấy
hay biết chi cả.
- Nếu chị ấy đã giận em… lâu nay…
- Không giận đâu!
- Em nói vậy chứ! Dẫu sao, chị ấy có bổn phận thưa
chuyện với ba em. Ba em sẽ ngăn chặn cho xem.
- Ba em làm được gì nào?
- Anh biết sao được? Theo ý anh, ba em sẽ bằng mọi cách
làm gì đó, phải không em?
- Thôi được, anh muốn làm gì đấy thì làm.
- Khi xong việc, em gọi điện thoại ngay cho chị Ellen.
Mình sẽ công bố cho mọi người đều biết.
- Ừ.
Nàng nhoẻn miệng cười, rồi đi vào con đường nắng chói
chang, mái tóc nàng óng ánh vàng. Hắn nhìn theo, đến
khi Dorothy khuất sau những dãy nhà. Hắn nhặt sách vở
lên, đi ngược về hướng khác. Tiếng bánh xe ô tô rít lên
ở đâu đây khiến hắn giật thót cả người. Hắn tưởng
chừng nghe tiếng chim vang vọng nơi khu rừng già!
Hắn đành lòng bỏ học những tiết còn lại sáng nay. Hắn
đi lang thang khắp thành phố. Hắn đi xuống bờ sông, nước
sông vẩn đục xám xịt. Hắn đứng dựa lưng vào thành cầu
trên đường Morton, châm thuốc hút, nhìn con nước trầm
ngâm, tư lự.
“Đây rồi! – Một ý nghĩ bất chợt xâm chiếm đầu óc hắn,
phủ chụp xuống con người hắn như con nước vẩn đục vỗ
vào chân cầu – Cưới con bé hoặc bỏ con bé. Mình phải
chọn một trong hai con đường. Hoặc là đèo bồng vợ con
không một xu dính túi, hoặc là bị lão Kingship săn đuổi,
bêu xấu – “Ông không biết tôi. Tôi là Leo Kingship. Tôi muốn
trình bày với ông về gã thanh niên ông vừa mới tuyển
dụng… gã thanh niên mà con gái ông đang mật thiết giao
du…”. Rồi cái gì xảy ra tiếp theo sau đó? Mình sẽ không
còn một chốn để nương thân, không một nơi nào ngoài gia
đình”. – Hắn nghĩ đến mẹ hắn. Những tháng năm tự hào,
những nụ cười kẻ cả coi thường con cái xóm giềng, mẹ
hắn sẽ ra sao khi nhìn thấy hắn trở về, cắm đầu cắm
cổ giữ chân thư ký trong cửa hàng bán lương khô, đâu phải
chỉ làm trong dịp hè mà mãi mãi chôn vùi cuộc đời ở
đấy hay ở một nhà máy lụp xụp rtong xó xỉnh nào đó.
“Ôi! Ông già mình đã không đáp ứng được lòng mong mỏi
khát khao của bà, tình yêu nồng cháy của bà trở thành
nỗi cay đắng, nhẫn nhục”. Bà sẽ đối xử với mình như
vậy không? Người ta sẽ xì xào nhỏ to sau lưng mình. Ôi!
Những viên thuốc tai hại, chết tiệt kia sao không giết con
bé khốn kiếp đi cho rồi.
Nếu mình ép con bé lên bàn mổ? Không được. Nó đã quyết
tâm đòi cưới hỏi thì cho dù mình có van xin, cầu khẩn,
có trình bày thiệt hơn đi nữa hoặc gọi nó là bé yêu
từ đây cho đến ngày tận thế thì chắc chắn con bé vẫn
sẽ gọi Ellen hỏi ý kiến. Dẫu làm gì thì làm, mình
đào đâu ra tiền chứ? Giả sử một việc chi đó xảy đến,
giả thử con bé chết thì sao? Mình sẽ bị liên lụy ngay
tức khắc, vì chính mình là người thu xếp việc giải
phẫu. Mình phải bắt tay không được có một sơ hở nào,
để lão Leo Kingship không tóm mình được. Cái chết của
con bé sẽ gây cho mình những tai hại khó lường.
“Nếu con bé không chết cách ấy?”
Trên thành cầu sơn đen có khắc hình trái timbị một mũi
tên xuyên thủng. Hắn xoi mói nhìn dấu khắc họa đó, lấy
móng tay khảy khảy lớp sơn, xem thử như thế nào. Những
lớp nước sơn chồng chất lên nhau, màu đen, màu da cam,
màu đen và cứ thế. Hình ảnh này khiến hắn chợt nhớ
lại tấm hình về địa tầng của đất đá trong bài học
địa chất, khiến hắn nhớ lại những thời đại đã chết.
CHẾT!
Một lúc sau hắn nhặt sách vở lên, chậm rãi rời xa cầu.
Những chiếc xe phóng nhanh về phía hắn, vút qua với âm
thanh chát chúa.
Hắn ghé vào một quán ăn tồi tàn ven sông, gọi bánh
sănguýt kẹp thịt và một tách cà phê. Hắn ngồi ở chiếc
bàn nhỏ trong góc phòng. Vừa nhấm nháp cà phê, hắn vừa
lấy vở và bút ra.
Ýù nghĩ đầu tiên đến trong đầu hắn là khẩu súng côn 45
mà hắn đã lấy được khi giải ngũ. Tìm đạn hơi khó. Tuy
nhiên hắn biết sẽ hành động như thế nào rồi. Do đó vấn
đề dùng súng không hợp với ý đồ của hắn. Chuyện đó
phải xảy ra giống như một tai nạn hay tương tự như một
vụ quyên sinh. Khẩu súng sẽ gây rắc rối.
Hắn nghĩ đến thuốc độc – “Nhưng lấy ở đâu? Hỏi thằng
Hermy Godsen? Không được. Lấy trộm ở phòng y dược? Vào
đó cũng dễ thôi. Mình phải đến thư viện nghiên cứu xem
loại chất độc nào…
Chuyện đó phải xảy ra giống như một vụ tai nạn hay tương
tự như một vụ quyên sinh! Bởi vì lộ ra vẻ gì khác lạ,
mình là người đầu tiên sẽ được cảnh sát hỏi thăm sức
khỏe, không sai trật đâu được.
Thật điên cái đầu. Mình biết phải làm gì rồi. Hôm nay
thứ ba. Đám cưới không thể trì hoãn sau ngày thứ sáu,
bằng không con bé sẽ hoảng lên và cầu cứu con chị nó.
Thứ sáu là kỳ hạn cuối cùng. Mình phải có một kế
hoạch chớp nhoáng, thận trong”.
Hắn nhìn những dòng chữ hắn ghi chú:
1. Súng (loại bỏ)
2. Thuốc độc
a. Chọn thuốc
b. Nhận thuốc
c. Thực hiện
d. Biểu hiện bên ngoài
- Tai nạn
- Tự tử
“Tất nhiên mình đã thấy con đường phải hành động rồi.
Đây chỉ mới cân nhắc, tính toán, mình cần phải triển
khai thêm nữa. Dù sao đây cũng là một cách rèn luyện tư
tưởng”.
Rời khỏi quán ăn, hắn đi về hướng thành phố, bước chân
thoải mái, tự tin và cả quyết.
(*) Solamente el Espagnol: bài học tiếng Tây Ban Nha. (ND)
Phần I - Chương 5
Hắn đến khu đại học vào lúc ba giờ và đi thẳng vào thư
viện. Trong bảng danh mục, hắn tìm thấy sáu quyển sách
hắn đang cần: bốn quyển chỉ dẫn cách bào chế thuốc
độc, hai quyển kia hướng dẫn điều tra những tội phạm
liên quan đến thuốc độc. Hắn nghĩ không nên nhờ người
thủ thư lấy dùm sách cho nên hắn đến bàn đăng ký rồi đi
vào kho chứa sách.
Trước đây chưa khi nào hắn vào chỗ này. Ba tầng nhà
chứa toàn sách là sách. Một chiếc cầu thang hình xoắn
ốc nối các tầng bên trên. Một trong sáu quyển sách hắn
cần tìm không thấy. Những quyển còn lại hắn tìm thấy
dễ dàng trên kệ sách ở tầng ba. Ngồi xuống cái bàn kê
sát tường, hắn bật đèn sáng, lấy bút vở ra và bắt
đầu đọc.
Một tiếng đồng hồ trôi qua, trong tay hắn đã có năm chất
độc hắn có thể tìm thấy được ở phòng dược liệu. Cả
năm thứ chất độc này sẽ gây những phản ứng và triệu
chứng trước khi nạn nhân chết. Mọi việc đều phù hợp
với chương trình hành động của hắn, chương trình hắn đã
phát họa trong đầu khi rời khỏi cái cầu trên đường
Morton.
Hắn ra khỏi thư viện và khu đại học, rồi đi thẳng về
phòng trọ. Khi đi qua hai khu phố, hắn thoáng nhìn thấy
một cửa hàng bán áo quần, gắn những bảng hiệu kẻ chữ
lớn. Một trong những bảng hiệu phác họa một chiếc đồng
hồ cát với dòng chữ LAST DAYS OF SALE ( Những ngày bán
cuối cùng). Hắn nhìn cái đồng hồ cát một chốc, rồi
quay trở lại khu đại học.
Hắn vào cửa tiệm bán sách ở khu đại học. Sau khi đọc
tờ ghi chú sách gắn trên bảng, hắn hỏi mua quyển Kỹ
thuật bào chế thuốc, quyển sổ tay thực hành thực hành
của sinh viên dược các lớp trên.
- Học kỳ này vậy là trễ rồi đấy – Người bán sách nói
khi đưa sách cho hắn. Quyển sách khá lớn, bìa màu xanh
lá cây.
- Sách của cậu đâu? Mất hả?
- Không, bị mất cắp.
- Mua gì nữa không?
- Cho vài bì thư.
- Cỡ nào?
- Bình thường. Để bỏ thư.
Người bán hàng để tập bì thư trên quyển sách. Một đô la
bảy mươi xu. Cộng thêm tiền thuế, tất cả là một đô la
bảy mươi chín xu.
Đại học dược khoa là một tòa nhà xưa, ba tầng, tường
xây bằng gạch màu vàng. Những bậc thềm lát đá lớn dẫn
vào lối chính. Hai bên có những bậc thềm đi xuống hành
lang chạy thẳng đến tầng hầm nơi có phòng dược liệu. Ổ
khóa hiệu Yale gắn dính nơi cửa phòng. Tất cả nhân viên
thường của khoa dược, các sinh viên dược lớp trên đều có
chìa khóa vào đó tự do. Các phân khoa đại học, nếu sử
dụng phòng dược liệu, phải chấp hành nội quy để bảo
quản đồ dùng khỏi hư hại. Hầu hết những ai ở khu đại
học đều biết rõ nội quy này.
Hắn băng qua cổng chính, bước vào một gian rộng lớn qua
phòng khách. Nơi đây một sòng bài đang ồn ào sôi nổi,
đây đó một số sinh viên quây quần đọc sách, tán gẫu.
Một vài sinh viên ngước mắt nhìn hắn. Hắn đến chỗ treo
áo quần trong góc phòng, để sách lên kệ ở phía trên
móc áo và cởi áo ngoài treo lên đấy. Hắn lấy xấp bì
thư ra, chọn đúng ba cái, còn lại bỏ cất. Hắn ra khỏi
phòng, sách cầm tay.
Hắn men theo cầu thang xuống tầng hầm. Một phòng dành
riêng cho nam ở phía mặt cầu thang. Sau khi cúi nhìn dưới
cửa chắc chắn không có người trong phòng điện thoại,
hắn ném quyển sách lên sàn nhà, lấy chân dẫm lên hai ba
lần, rồi đá quyển sách lê khắp phòng. Khi hắn nhặt
sách lên, quyển sách mới toanh, giờ đã lem luốc, cũ kỹ.
Bỏ quyển sách trên thành bồn rửa mặt, hắn soi gương,
cởi khuy nút ở tay áo, xắn tay áo lên cao, mở cổ áo,
nới lỏng cà vạt. Sau đấy, hắn ra khỏi phòng, sách kẹp
dưới nách.
Phòng dược liệu ở giữa cầu thang và phía cuối hành
lang. Một bảng dán thông cáo dựng cách bức tường vài
bước. Hắn đi đến bên bảng thông cáo, đứng đọc, lưng hơi
xoay về phía cuối hàng lang để hắn có thể liếc nhìn
thấy cầu thang. Hắn đứng đó, sách kẹp dưới nách tay
trái, tay phải chống cạnh sườn, chùm chìa khóa lủng
lẳng nơi đầu ngón tay.
Một cô gái từ phòng dược liệu bước ra, đóng cửa lại.
Cô cầm quyển sách bào chế màu xanh lá cây và một ống
nghiệm đựng một chất lỏng sền sệt như sữa. Hắn đưa mắt
nhìn khi cô gái bước lên cầu thang.
Từ cánh cửa sau lưng hắn, một vài người đi vào. Họ đi
ngang qua hắn, chuyện trò nho nhỏ. Ba người tất cả. Họ
đi thẳng xuống hành lang, khuất mình sau cánh cửa đằng
cuối đó. Hắn tiếp tục giả vờ đứng đọc.
Lúc năm giờ chuông reo. Vài phút sau một cảnh huyên náo
tấp nập ở hành lang diễn ra. Khoảnh khắc sau quang cảnh
vắng vẻ yên tĩnh trở lại. Còn lại một mình hắn. Một
tài liệu về phiên họp ở đại học Zurich dán nơi bảng.
Hắn đọc.
Một người đàn ông hói đầu nhô lên ở cầu thang. Ông không
có sách trên tay nhưng theo góc độ hướng đi và chùm chìa
khóa nơi tay, hắn đoán ông đến phòng dược liệu. Hình như
ông ta là giảng viên. Quay lưng lại hắn vờ đọc. Hắn nghe
tiếng khóa lách cách, tiếng cửa mở, tiếng cửa khép
lại. Phút sau, tiếng cửa lại mở, rồi tiếng cửa đóng
lại, tiếng bước chân nhỏ dần trên cầu thang.
Hắn trở về tư thế ban đầu, châm thuốc hút. Hít một hơi,
hắn ném điếu thuốc, lấy chân dụi tắt. Một cô gái hiện
ra, đi về phía hắn đang đứng. Tay cầm sách. Tóc nâu. Mang
kính. Cô gái đang lấy chìa khóa ra khỏi túi. Hắn lần
lần chuyển cuốn sách dưới nách xuống cầm nơi tay trái,
để lộ cái bìa màu xanh ra ngoài. Ngón tay vừa lật trang
cuối cùng của tập tài liệu, thì hắn vội xoay người
nhắm hướng phòng dược liệu đi tới, làm như không thấy cô
gái đang tiến gần đến. Hắn đang mân mê chùm chìa khóa
như thể vừa lấy trong túi ra thì cô gái cũng vừa đến.
Hắn loay hoay như thể đang chọn chìa khóa để mở cửa
phòng đến nỗi không để ý sự có mặt của cô gái mải
đến khi cô gái tra chìa vào ổ khóa, mở cửa he hé, cười
nhìn hắn.
- Ồ cám ơn chị – Hắn vui vẻ vừa nói vừa lấy tay đẩy
cánh cửa, tay kia luồn xâu chìa khóa vào túi quần và
theo chân cô gái vào phòng dược liệu.
Gian phòng không rộng lắm, trên quầy, kệ, tủ đầy ắp
chai, lọ, hộp, những thiết bị hình dáng kỳ dị. Cô gái
bật đèn sáng, những lọ thủy tinh bỗng trở nên linh động
hơn bên cạnh những đồ dùng đã lỗi thời. Cô gái đi sang
phía bên kia phòng, mở sách để trên quầy.
- Anh học lớp với Aberson? – Cô gái hỏi.
Hắn đi qua phía bên kia, đứng quay lưng lại cô gái, trước
mặt các chai lọ.
- Vâng! - Hắn trả lời.
Tiếng chai lọ chạm vào nhau nghe lách tách hòa lẫn với
âm thanh sắc nhọn của các đồ dùng bằng kim khí.
- Cánh tay anh ấy thế nào? – Cô gái thắc mắc.
- Cũng vậy thôi! – Hắn nhanh nhẩu đáp, đồng thời cố ý
cụng chai vào nhau để cô gái khỏi tò mò hỏi thêm.
- Thật ra điên rồ – Cô gái nhận xét – Tôi nghe nói anh ấy
mà không mang kính thì y như người mù.
Mỗi chai lọ đều có dán nhãn, chữ màu đen. Một số chai
lọ có dán thêm nhãn đỏ: Độc dược. Hắn liếc nhìn các
dãy chai, lọ nhưng hắn chỉ chú ý đến những chai lọ dán
nhãn đỏ. Danh sách tên thuốc nằm trong túi áo hắn nhưng
chúng hiện ra trong đầu hắn như thể được in trên một bức
màn trong suốt trước mắt hắn. Hắn đã nhìn thấy một
chai bột màu trắng, chỉ ở trên tầm mắt khoảng hai tấc.
Chất asênic – AS406 – độc dược. Hắn với tay lên nhưng bỗng
khựng lại.
Từ từ hắn quay lưng liếc nhìn cô gái. Cô ta đang đổ một
thứ bột màu vàng vào cốc thủy tinh. Hắn lại quay mặt
vào tường, mở quyển sách để trên quầy ra. Hắn nhìn
những mô hình, những lời chú thích, chẳng hiểu gì.
Điệu bộ loay hoay của cô gái chứng tỏ cô ta đã gần xong
việc, đĩa cân đẩy ra xa; đóng hộc bàn, sắp lại chai lọ…
Hắn gập người sát quyển sách, ngón tay chạy theo những
dòng chữ. Tiếng chân đi về phía cửa.
- Chào anh nhé – Giọng cô gái vang lên.
- Chào chị.
Tiếng cửa đóng lại. Hắn đưa mắt nhìn quanh phòng. Chẳng
có một ai khác. Hắn lấy trong túi ra chiếc khăn tay và
các bì thư. Lấy khăn quấn bàn tay mặt xong, hắn cầm chai
asênic để trên quầy, mở nắp. Chất thuốc mịn như bột mì.
Hắn đổ một muỗng lớn vào bì thư nghe rào rào, rồi gấp
đôi bì thư bỏ vào bì thư thứ hai, sau đó nhét vào túi
quần. Đậy nắp chai lại, để vào chỗ cũ, hắn đi chầm
chậm quanh phòng, nhẩm đọc các nhãn dán trên hộc tủ,
các hộp, các chai, bì thư thứ ba đã cầm sẵn trong tay.
Chỉ trong vài phút, hắn đã có những thứ cần thiết:
một thứ đựng đầy bao con nhộng bằng chất Dêlatin óng
ánh như những bóng đèn điện hình ôvan. Hắn lấy ra sáu
bao không bỏ vào bì thứ ba, nhè nhẹ bỏ vào túi để
khỏi làm dẹt chúng. Tìm xong, mọi thứ, hắn cầm sách,
tắt đèn, ra khỏi phòng.
Hắn trở lại phòng khách, lấy sách vở, mặc áo khoác
vào, rời khu đại học. Hắn thở dài nhẹ nhõm. “Thế là
an toàn. Những bước đầu tiên của kế hoạch thực hiện như
thế là khá nhanh và chính xác. Tuy nhiên đấy chỉ mới
nằm trong sự trù tính, mình phải tiến hành hoàn thành
kế hoạch một cách hoàn hảo, không vấp phải một sai sót
nào. Mình phải làm gì cho bước kế tiếp? Cảnh sát sẽ
thấy Dorothy uống quá liều lượng không phải là không có
chủ ý. Mình phải tạo ra một vụ tự tử không thể tránh
được dưới mắt người khác, nhất là với cảnh sát. Phải
có một lá thư hay cái gì đó để qua mắt họ mới được.
Một khi cảnh sát nghi ngờ, dứt khoát họ sẽ mở cuộc
điều tra ngay. Và cô gái trong phòng dược liệu sẽ nhận
diện mình một cách dễ dàng.”
Hắn đi rất chậm vì sợ những viên con nhộng trong túi
quần bị bẹp dí.
Tám giờ hắn gặp Dorothy. Hắn và nàng lên phố xem phim do
Joan Fontain đóng. Đêm hôm trước vì bồn chồn lo lắng nên
Dorothy muốn đi xem phim. Thế giới của nàng khi đó trở
nên xám xịt như những viên thuốc hắn đưa cho nàng. Nhưng
đêm nay – đêm nay mọi vật đều rạng rỡ, sáng rực lên. Lời
hứa sẽ làm đám cưới nay mai đã xóa tan hết những lo âu
của nàng như luồn gió mát cuốn phăng đi những chiếc lá
khô cháy úa, không những lời hứa ấy đã xua đi những nỗi
buồn vì sự thai nghén mà còn quét sạch tất cả mọi
phiền muộn âm ỉ trong nàng lâu nay: nỗi cô đơn và niềm
day dứt. Chỉ còn một vết đen duy nhất ám ảnh nàng đó
là ngày bố nàng biết được sự thật nguyên nhân vì sao
có đám cưới thầm lén và vội vã này. Nàng ghét cái
đạo đức của bố nàng, nàng muốn thách đố cái đạo đức
ấy. Nàng đã coi thường nó bằng thái độ im lặng và
bằng hành động tội lỗi của nàng . Giờ đây nàng có thể
công khai đối đầu với ông bố trong vòng tay yêu thương che
chở của chồng. Bố nàng có thể bằng mọi cách bôi đen
cuộc hôn nhân nhưng nàng đã chuẩn bị, chờ đợi.
Nàng đã hình dung ra một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc
trong khu xe goòng, càng êm ấm, càng hạnh phúc hơn nữa
khi đứa bé mở mắt chào đời. Trong lúc xem phim, nàng
cảm thấy tù túng bực bội vì nó đã bứt nàng ra khỏi
thực tại muôn vàn đẹp hơn bất cứ cái đẹp một cuốn phim
nào có thể mang lại.
Riêng hắn, đêm hôm trước chẳng thích đi xem một tí nào
cả. Hắn chẳng khoái xem phim, đặc biệt hắn rất ghét
loại phim được hư cấu trên những cảm xúc quá đáng. Tuy
nhiên hôm nay, thanh thản trong bóng tối, tay choàng ôm
Dorothy, những ngón tay nhẹ chạm vào đôi vú căng tròn
của nàng, hắn tận hưởng giây phút thoải mái đầu tiên
kể từ chủ nhật đến nay – ngày nàng thổ lộ cho hắn
biết nàng đã có thai.
Hắn tập trung vào chuyện phim như thể hắn bắt gặp được
những câu giải đáp cho những thầm kín muôn thuở của hắn
ẩn dấu sau những thước phim. Hắn thả hồn thưởng thức
những tình tiết đang lần lượt diễn ra trên màn ảnh
trước mặt hắn.
Sau buổi xem phim, hắn về nhà chế thuốc. Hắn đổ thứ
bột màu trắng qua cái phễu làm bằng giấy vào những bao
con nhộng, xong lấy đầu kia đậy khít lại vào nhau. Phài
mất một giờ hắn mới xong việc, bởi vì trong quá trình
chế thuốc đã làm hỏng mất hai cái: một bao bị bẹp dí,
một bao bị nhão nhoẹt vì mồ hôi tay.
Sau đó, hắn đem những con nhộng bị hỏng và số thuốc
còn lại bỏ vào nhà xí kéo nước cho trôi đi. Hắn cũng
phi tang những bì thư đựng chất asênic và xé các bì thư
không dùng ra từng mảnh vụn. Hắn bỏ hai viên thuốc trong
bì thư mới, đem cất giấu dưới lớp áo quần. Những quyển
sách nhỏ của công ty Kingship Copper đang nằm ở ngăn kéo
cuối cùng trong tủ áo. Khi nhìn thấy những quyển sách
ấy, hắn nở một nụ cười đắc thắng.
Phần I - Chương 6
Thường lệ vào những ngày thứ tư, hắn đi học đầy đủ
các tiết. Tuy nhiên hắn không còn là thành viên của cuộc
sống và những sinh hoạt quanh hắn nữa, hắn là một cái
gì xa lạ với thế giới mà hắn đang bị nhận chìm. Hắn
muốn sống một thế giới riêng của hắn. Tất cả nguồn
năng lực của hắn đều hướng vào bên trong, tập trung vào
vấn đề làm cách nào để Dorothy viết lá thư tuyệt mệnh.
Nếu việc đó không thành thì phải moi óc tìm một phương
thức nào khác để cái chết của con bé xảy ra như một
vụ tự tử. Trong lúc ở trạng thái tinh thần như thế,
một cách vô thức, hắn đã đánh rơi cái vẻ lừng khừng
nửa muốn nửa không thi hành kế hoạch: giết Dorothy! Hắn
đã có thuốc trong tay và hắn biết hắn phải làm gì với
những viên thuốc ấy. Chỉ còn tồn tại một việc duy
nhất: sự quyết tâm.
Thỉnh thoảng trong các giờ học, tiếng nói vang vang,
tiếng phấn rít trên bảng đen đưa hắn về lại thực tại.
Hắn nhìn những sinh viên đồng lớp với vẻ ngạc nhiên.
Nhìn những đôi lông mày của những sinh viên nhíu lại
trước vần thơ tứ tuyệt của Browning (1), hay một câu nói
của Kant (2), hắn có cảm tưởng như sùng với một nhóm
người lớn đang chơi trò nhảy lò cò của lũ con nít.
Tiết học tiếng tây Ban Nha là tiết cuối cùng trong ngày,
nhưng như giáo viên vừa thông báo, nửa tiết học còn lại
dành kiểm tra bài tập. Bởi vì hắn kém môn này nhất nên
hắn cố ép mình dịch cho xong đoạn văn hoa mỹ bằng tiếng
Tây Ban Nha mà cả lớp đang học.
Hắn ngồi trầm ngâm, hoặc là vì công việc hiện tại đang
thôi thúc hắn, hoặc hắn tìm thấy được sự thanh thản –
sau một ngày miên man suy nghĩ – trong việc đang làm. Bỗng
nửa chừng, đang viết, một ý tưởng chợt lóe lên trong
đầu hắn. Tuyệt quá! Bất ngờ quá! Dorothy sẽ không sao
nghi ngờ được. Ý tưởng đó xâm chiếm cả tâm trí hắn đến
nỗi cuối giờ hắn chỉ làm xong có nửa bài tập. Chắc
chắn sẽ bị điểm xấu nhưng hắn chẳng bận tâm lo âu. Mười
giờ sáng mai, Dorothy sẽ phải viết lá thư tuyệt mệnh!
Tối đó, bà chủ nhà bận đi họp ở khu Đông, hắn đưa
Dorothy về phòng. Trong hai tiếng đồng hồ, hắn vồn vã,
âu yếm nàng như thâm tâm nàng đã từng ao ước nơi hắn.
Thật sự hắn cũng thích nàng, nhưng hắn biết đây là
những giây phút tình ái cuối cùng của đời nàng.
Dorothy để ý đến cử chỉ dịu dàng, thái độ vồ vập ham
hố của hắn, nàng ngỡ rằng chính vì gần ngày cưới của
hắn và nàng mà hắn như vậy. Nàng không phải là một cô
gái ngoan đạo nhưng nàng tin một cách sâu xa rằng sự kết
hôn mang một ý nghĩa thiêng liêng.
Sau đấy, hắn và nàng vào một quán ăn nhỏ gần khu đại
học. Không khí yên tĩnh nơi đây không thích hợp lắm đối
với sinh viên. Chủ quán là một người đã đứng tuổi, mặc
dù đã bỏ công sức ra để trang trí cửa sổ bằng những
giấy kếp màu xanh, màu trắng và những tua ren sản xuất
ở Stodard, ông cũng phải bực mình, không thích cái đám
sinh viên ồn ào, hiếu động phá phách kia.
Ngồi trong một phòng hẹp, tường sơn màu xanh da trời,
hắn và Dorothy ăn phó mát, bánh mật, sôcôla. Dorothy huyên
thuyên quảng cáo một loại kệ sách kiểu mới có thể dàn
rộng ra thành một chiếc bàn lớn, hắn ngồi nghe một
cách hờ hững, chờ câu chuyện độc thoại chấm dứt.
- Này em – Hắn nói – Em vẫn còn giữ tấm hình của anh
tặng em chứ?
- Dĩ nhiên, em còn cất giữ đây.
- Đưa cho anh mượn vài hôm. Anh đi phóng lại để gửi cho
mẹ anh. Làm thế rẻ hơn là đi chụp một tấm ảnh mới.
Nàng lấy cái ví màu xanh trong túi áo nàng xếp để bên
cạnh chỗ ngồi.
- Anh đã cho mẹ biết chuyện chúng mình chưa?
- Vội gì.
- Sao vậy?
Một thoáng ngập ngừng.
- Gia đình em chưa biết nên anh thấy chưa cần cho mẹ anh
hay. Cứ giữ kín chuyện đã – Hắn cười – Em có kể cho ai
nghe không?
- Chưa.
Nàng đang cầm trên tay một vài tấm ảnh nàng lấy trong
ví ra. Hắn đưa mắt nhìn sang. Aûnh của Dorothy và hai cô
gái khác. Hắn đoán là hai cô chị của nàng. Bắt gặp
cái nhìn của hắn, nàng trao cho hắn những tấm hình đó.
- Đứng giữa là chị Ellen, kia là chị Marion.
Ba cô gái đứng trước chiếc xe ô tô hiệu Cađidzắc. Mặt
trời phía sau lưng họ. Do đó những khuôn mặt những cô
gái bị đen lại, nhưng hắn vẫn nhận ra nét giống nhau
giữa mấy chị em. Đôi mắt to. Gò má cao. Mái tóc của
Ellen là sự dung hòa giữa màu tóc sáng của Dorothy và
màu tóc đen của Marion.
- Ai đẹp nhất hả em? – Hắn hỏi – Anh muốn nói là theo
sự nhận xét của em.
- Chị Ellen – Nàng trả lời – Rồi đến em. Chị Marion cũng
đẹp, chỉ vì chị ấy để kiểu tóc này thôi – Dorothy hất
ngược mái tóc ra phía sau vẻ trịnh trọng, đôi lông mày
khẽ nhíu lại. – Chị ấy là một nhà trí thức, anh nhớ
chứ?
- À, một đồ đệ của Proust (3).
Nàng đưa cho hắn tấm hình khác.
- Hình ba em.
- Chà chà! – Hắn lắc đầu lầm bầm. Rồi cả hai bật cười
lớn.
- Còn đây là người chồng sắp cưới của em – Nàng đưa tấm
ảnh chân dung hắn.
Hắn ngắm nghía hình thật kỹ, khuôn mặt trong hình cân
đối, sáng sủa thông minh.
- Anh không quen thằng cah này – Hắn lầu bầu, tay xoa cằm
– Trông thằng cha ăn chơi phóng đãng quá.
- Nhưng đẹp trai! Phải không – Nàng ca tụng – Qúa đẹp trai
đi.
Hắn cất tấm ảnh vào túi áo, dáng điệu tự mãn.
- Đừng làm mất của em đấy – Nàng nhắc nhở hắn.
- Mất sao được – Hắn nhìn quanh, ánh mắt ngời sáng lên.
Ở đằng cuối quán ăn trên bức tường cạnh chỗ ngồi của
hắn và Dorothy, có một máy chọn nhạc tự động.
- Nghe nhạc em nhé – Hắn tìm một đồng kên, đến bỏ vào
khe máy, đưa tay lướt theo hai hàng nút đỏ trong khi miệng
lẩm nhẩm đọc tên bài hát. Tay hắn dừng lại bài SOME
ENCHANTED EVENING, bài hát Dorothy rất thích, nhưng bài sau
đó là ON TOP OF OLD SMOKY, hắn suy nghĩ rồi chọn bài sau.
Hắn ấn nút. Máy tự động bỗng nhộn hẳn lên, hắt những
tia sáng lập lòe trên khuôn mặt của Dorothy.
Nàng nhìn đồng hồ tay, ngã người ra sau ghế, mắt nhắm
lại, tràn trề hạnh phúc.
- Ôi chỉ nghĩ đến… - Nàng thì thào, miệng nở nụ cười
tình tứ – Tuần đến chẳng còn phải hối hả trở về cư
xá nữa. – Tiếng đàn ghita dội ra – Mình không cầu xin ở
nơi xe goòng nữa hả anh?
- Trưa nay anh sẽ ghé lại – Hắn nói – cũng phải mất hai
ba tuần mới ổn định. Có thể đến ở tạm chỗ anh. Anh sẽ
nói với bà chủ nhà.
Một giọng ca nữ trầm buồn nhẹ cất tiếng hát:
Trên đỉnh Smoky cằn cỗi
Phủ đầy băng tuyết
Tôi đã mất người tình
Vì ngỏ lời quá chậm…
- Nhạc dân ca – Dorothy nói, châm thuốc hút, ánh lửa lóe
sáng nơi hộp diêm màu giấy mạ bạc.
- Anh chỉ ngại cho em thôi – Hắn nhún vai – Em là nạn nhân
của sự giáo dục quí tộc trưởng giả.
Giờ đây lời yêu thương là lạc thú
Nhưng chia tay là nỗi buồn đau
Và một người tình giả dối
Còn tệ bạc hơn một tên trộm vặt…
- Anh đã thử máu chưa?
- Rồi, mới trưa nay.
- Em khỏi chứ?
- Ừ.
- Em nhìn trong sổ niên giám thấy ghi là: cần xét nghiệm
máu cho những ai ở Iowa. Em cũng khỏi thử luôn?
- Anh đã hỏi. Khỏi. – Những ngón tay khéo léo rút tờ
giấy lau miệng thành từng mảnh vụn nhỏ tí.
Tên trộm sẽ cưỡng bức bạn
Tước đoạt những gì bạn có
Nhưng một người tình lừa đảo
Sẽ đưa bạn đến nấm mồ…
- Khuya rồi anh…
- Nghe xong bài nhạc này đã, anh thích bài này.
Hắn trải rộng tờ giấy ra, những chỗ bị xé trông rất
cân xứng, nghệ thuật: Một màng nhện chằng chịt. Hắn để
tiểu phẩm ấy lên bàn với vẻ hãnh diện.
Nấm mồ sẽ làm thối rữa bạn
Bạn sẽ hóa thành cát bụi
Không có người đàn ông
Để cô gái gửi trao…
- Anh xem, bọn đàn bà chúng em phải gánh chịu bao nhiêu
điều!
- Đáng thương! Thật đáng thương. Trái tim anh cũng phải
rướm máu.
Trở về phòng trọ, hắn cầm tấm ảnh đưa trên gạt tàn
thuốc châm lửa đốt. Đó là tấm ảnh đẹp nhất của hắn,
thâm tâm hắn chẳng muốn đốt, nhưng hắn đã đề tặng “Gửi
đến em tất cả tình yêu của anh” ở dưới tấm ảnh.
(1) Browing (1806 – 1861): nữ văn sĩ người Anh.
(2) Kant (1724 – 1804): triết gia người Đức. (ND)
(3) Marcel Proust (1871 – 1922): văn sĩ nổi tiếng người
Pháp (ND).
Phần I - Chương 7
Như thói quen Dorothy thường đến trễ tiết học lúc chín
giờ. Ngồi ở dãy ghế sau cùng, hắn nhìn những hàng ghế
sinh viên đã ngồi chật cứng. Trời bên ngoài mưa, những
giọt mưa từ cửa sổ chảy dọc theo vách tường. Chỗ ngồi
bên phía trái của hắn vẫn còn trống khi giảng viên bắt
đầu lên lớp dạy bài “Cơ cấu quản lý đô thị của nhà
nước”.
Mọi việc hắn đã chuẩn bị sẵng sàng. Cây bút để trên
quyển vở trước mặt, quyển truyện tiếng Tây Ban Nha ở
trên đùi: LA CASA DE LASFLORES NEGRAS. Một ý nghĩ thoáng
đến trong đầu khiến hắn lạnh toát cả người: “nếu hôm
nay con bé nghỉ học?”. Mai là thứ sáu, hạn cuối cùng.
Đây là cơ hội duy nhất để hắn có lá thư vì bằng mọi
cách hắn phải gởi lá thư vào tối nay. “Mình sẽ làm gì
đây nếu con bé không đến lớp?”.
Mười giờ mười lăm phút, Dorothy hiện ra, thở hổn hển,
một tay cầm sách vở, một tay cầm áo đi mưa. Nàng nhìn
hắn mỉm cười, nụ cười biến khuôn mặt nàng bừng sáng
lên. Nhẹ nhón chân, nàng băng qua phòng phía sau lưng hắn.
Nàng vắt áo đi mưa lên thành ghế ngồi xuống cạnh hắn.
Nụ cười vẫn còn đọng trên đôi môi khi nàng lấy sách vở
ra, những thứ còn lại nàng để trên lối đi giữa hai
người.
Nhìn thấy quyển sách đã mở trên đùi hắn, nàng nhướn
mắt tỏ ý hỏi. Hắn gấp quyển sách lại, ngón tay chắn
ở giữa sách; hướng bìa sách về phía nàng để nàng
nhìn thấy tên sách. Hắn lại mở sách ra, cầm bút chì
chỉ vào quyển sách ngầm bảo với nàng hắn phải dịch
mấy trang. Dorothy gật đầu thông cảm. Hắn chỉ giảng viên
và vở ghi chép của nàng ý bảo: “Em hãy ghi, chốc nữa
anh ghi lại”. Nàng gật đầu hiểu biết.
Mười lăm phút sau, chăm chú từng từ trong sách, chậm rãi
chép vào vở, hắn liếc nhìn nàng, thấy nàng đang lắng
nghe giảng viên chăm chú. Hắn xé một tờ giấy, vẽ nguệch
ngoạc đầy cả một mặt giấy, nào là hình vẽ, nào là
những dòng chữ gạch bỏ một cách nhớp nhúa, bẩn thỉu.
Hắn lật mặt kia lên. Ngón tay đè trên trên sách, hắn lúc
lắc cái đầu, chân rung rung nóng nảy, bực mình. Dorothy
nhìn thấy thái độ của hắn, quay sang gạn hỏi. Hắn nhìn
nàng thở dài, bối rối. Hắn giơ tay ngụ ý nói nàng hãy
đợi một chốc. Hắn bắt đầu hí hoáy viết trên mặt giấy
còn sạch sẽ, như thể chép từ quyển sách ra. Chép xong,
hắn đưa mảnh giấy cho nàng.
Traduction, per favor (làm ơn dịch dùm):
Querido,
Espero que perdonares per la infelicided que causaré.
No hay ninguna otra cosa que puedo hacer.
Nàng nhìn hắn thắc mắc bởi vì đoạn văn quá đơn giản.
Mặt không đổi sắc, hắn chờ đợi. Nàng lật tờ giấy sang
mặt kia nhưng hắn đã vẽ nghuệch ngoạc, xóa bỏ đầy cả
mặt giấy rồi. Nàng phải xé giấy trong vở nàng và
dịch. Nàng phải trả lại bản dịch cho hắn. Hắn nhẩm
đọc, gật đầu.
- Muchas gracias (cám ơn nhiều) – Hắn thầm thì. Để tờ
giấy trước mắt, hắn nhìn và chép vào vở. Dorothy vò
mảnh giấy của hắn ném xuống sàn nhà. Từ đuôi mắt, hắn
thấy miếng giấy nằm bên cạnh những giấy loại khác và
một vài tàn thuốc. “Chiều đến – hắn nghĩ – người ta sẽ
quét dọn, vun đống lại, đốt đi”. Hắn nhìn mảnh giấy
trước mặt một lần nữa, nét chữ của Dorothy nghiêng
nghiêng, rõ ràng!
Chị thân mến,
Em mong chị tha lỗi nỗi đau buồn em gây ra.
Em không thể làm gì khác được.
Hắn gấp tờ giấy lại, cẩn thận nhét trong bìa vở, xếp
sách. Hắn để quyển truyện trên quyển vở. Dorothy quay
nhìn quyển sách rồi nhìn hắn, như gạn hỏi: “Anh xong
chưa?” Hắn gật đầu, miệng mở nụ cười thỏa mãn.
Tối nay hắn và Dorothy giao hẹn sẽ không gặp nhau. Dorothy
muốn dành thì giờ gội đầu, làm tóc, sắp xếp vali
chuẩn bị đi hưởng tuần trăng mật cuối tuần ở New
Washington House. Nhưng vào lúc tám giờ ba mươi chuông điện
thoại trên bàn học nàng bỗng réo vang.
- Dorrie phải không? Có chuyện này quan trọng lắm.
- Anh nói gì?
- Anh cần gặp em.
- Lúc này em không đi được, em mới gội đầu.
- Chuyện quan trọng cực kỳ, Dorrie à!
- Anh nói cho em nghe bây giờ cũng được.
- Không, anh phải gặp em. Hãy đến điểm hẹn trong vòng
nửa giờ nhé.
- Ngoài trời đang mưa đấy anh. Anh không đến phòng khách
cư xá được sao?
- Không. Nghe anh, Dorrie, em biết chỗ đêm qua em với anh ăn
tối không? Quán Gideon đó! Ừ, gặp anh ở đấy!
- Em không hiểu sao anh không chịu đến phòng khách?
- Nào, bé yêu của anh…
- Chuyện… chuyện liên quan đến ngày mai không?
- Anh sẽ giải thích tại quán Gedion.
- Thật không?
- Thì em cứ đến hẵng hay. Mọi việc đều tốt đẹp. Anh sẽ
nói hết em nghé. Đúng giờ em nhé.
- Dạ.
Chín giờ kém mười, hắn mở ngăn kéo cuối cùng, lôi ra
hai bì thư dưới bộ quần áo ngủ. Một bì thư đã dán tem,
niêm lại rồi. Trên bì thư ghi địa chỉ:
Kính gửi: Cô Ellen Kingship
Khu nội trú phía Bắc
Trường đại học Caldwell
CALDWELL, WISCONSIN
Hắn đánh máy địa chỉ với loại máy chữ rất thông dụng
của sinh viên tại phòng Tổng hội sinh viên. Sáng nay hắn
đã bỏ bài dịch của Dorothy vào bì để gởi cho Ellen.
Phong bì lia đựng hai viên asênic.
Hắn bỏ hai bì thư vào túi áo khoác ngoài và ghi khắc
trong óc bì thư nào ở túi áo nào. Mặc áo đi mưa, cẩn
thận gài khuy, hắn soi gương lần cuối và rời khỏi
phòng.
Khi mở cánh cửa trước nhà, hắn thận trọng bước chân
phải trước và cười thầm cử chỉ ấy của mình.
Phần I - Chương 8
Lúc hắn đến quán ăn Gideon hầu như vắng khách. Chỉ hai
bàn có khách: Một bàn hai người đàn ông đứng tuổi ngồi
co ro chồm trên bàn cờ. Bàn phía bên kia, Dorothy ngồi,
hai tay nắm chặt lấy ly cà phê và nhìn nó chăm chăm như
thể đó là một quả cầu bằng thủy tinh của mấy bà phù
thủy. Đầu choàng một cái kkha8n trắng, hai bím tóc còn
ẩm hơi nước thả trước ngực nàng.
Nàng chỉ nhận ra hắn khi hắn đứng phía bên kia phòng
cởi áo đi mưa. Aùnh mắt màu hạt dẻ ngước lên nhìn hắn
đầy vẻ lo âu. Nàng không trang điểm. Vẻ xanh xao và mái
tóc ép sát vào khuôn mặt làm nàng có nét trẻ rtung
hơn.
- Chuyện gì thế anh? – Nàng hỏi khi hắn treo áo đi mưa
bên cạnh áo nàng.
Hắn khoan thai ngồi xuống đối diện nàng.
Gideon, một ông lão má hóp, đi đến cạnh bàn.
- Cậu dùng gì?
- Cà phê.
- Cà phê thôi à?
- Vâng.
Lão Gideon bỏ đi, bước chân kéo lê nghe lạch bạch nặng
nề. Dorothy nhổm người về phía trước.
- Chuyện gì vậy anh? – Nàng lặp lại câu hỏi.
Hắn nói nhỏ:
- Trưa nay anh về phòng. Có người nhắn tin: thằng Hermy
Godsen gọi anh.
Tay nàng bấu chặt vào ly cà phê:
- Hermy Godsen…
- Anh gọi điện cho nó, hỏi lại – Hắn ngừng lời, lấy
ngón tay vạch vạch trên mặt bàn – Hôm đó nó nhầm thuốc.
Chú của nó… - Hắn bỏ lửng câu nói vừa khi lão Gideon
với ly cà phê sóng sánh trên tay đến gần. Hắn và nàng
ngồi im, mắt nhắm lại cho đến lúc lão Gedion đi khuất –
Chú của nó chuyển đi một số đồ trong cửa hàng hay gì
gì đó chẳng rõ. Thuốc hôm nó đưa không phải…
- Vậy đó là thuốc gì? – Nàng hốt hoảng kêu lên.
- Loại thuốc gây nôn – Hắn nói bình thản – Hôm đấy em
mửa phải không?
Hắn cầm ly cà phê lên, lấy khăn giấy thấm những giọt cà
phê vung vãi do lão Gideon làm sánh ra thành ly. Hắn lau
đáy ly. Nàng thở ra nhẹ nhõm.
- Thế là yên bụng. Em chẳng sao cả. Lối nói chuyện qua
điện thoại của anh làm em sốt vó.
- Chuyện khác, bé ạ – Hắn để miếng giấy sũng nước qua
một bên – Anh gặp thằng Hermy ngay trước khi anh gọi điện
thoại cho em. Nó đưa anh những viên thuốc thật, những viên
thuốc lẽ ra hôm đó mình đã có.
Nét mặt nàng bỗng sa sầm lại:
- Không…
- Không cái gì nữa hả em? Có gì nguy kịch lắm đâu? Mình
đã thử một lần rồi. Giờ thử lại một lần nữa xem sao.
Nếu thuốc công hiệu, mọi việc sẽ trôi chảy tốt đẹp.
Bằng không, ngày mai mình vẫn tiến hành lễ kết hôn kia
mà.
Hắn nhè nhẹ khuấy cà phê, nhìn cà phê lóng lánh trong
ly.
- Anh mang thuốc theo đây. Đêm nay em uống.
- Nhưng…
- Không có nhưng gì cả.
- Em không thích thử một lần nữa. Em cóc cần những viên
thuốc của anh. Em không cần chi hết – Nàng chồm người về
phía hắn, hai bàn tay trắng muốt đan vào nhau đặt trên
bàn – Ngày mai, đó là những gì em nghĩ đến. Ôi tuyệt
diệu biết chừng nào, hạnh phúc biết bao… - Nàng nhắm
mắt, nước mắt đọng trên mi.
Nàng lớn giọng tức tửi. Hắn lướt mắt nhìn về phía
bàn đằng kia; hai người đang tập trung chơi cờ, lão Gideon
đang mải mê theo dõi. Hắn moi trong túi ra một đồng kên,
đến chiếc máy tự động, bỏ tiền, bấm nút. Hắn ngồi
vào chỗ, nắm chặt lấy đôi tay nàng đang bấu vào ly.
- Bé yêu của anh – Hắn dỗ dành – Mình có cần thảo luận
lại vấn đề này một lần nữa không? Anh chỉ nghĩ đến em,
lo cho em, chứ bản thân anh thì chẳng có gì phải quan tâm
đến.
- Em nói không là không – Nàng mở mắt ra, nhìn thẳng vào
mắt hắn – Nếu quả thật anh nghĩ đến em thì anh phải
muốn những gì em muốn.
Tiếng nhạc ầm ĩ, điệu Jazz trầm vang.
- Em muốn gì hả bé của anh? Muốn chết đói à? Đâu phải
chuyện xinê hả em. Đây là thực tế!
- Chúng ta sẽ không chết đói. Anh chỉ cường điệu thôi.
Anh sẽ có công ăn việc làm cho dù việc học hành của anh
không ra gì chăng nữa. Anh tháo vát, anh…
- Em thật ngốc, không hiểi gì hết – Hắn nói thẳng thừng
– Em không biết một tí ti gì về cuộc sống. Từ tấm bé,
em đã sống trong giàu sang!
Tay nàng bấu chặt vào ly cà phê.
- Tại sao ai cũng mạt sát em vì chuyện đó? Anh mà cũng
thế ư? Tại sao anh cứ nghĩ đấy là chuyện quan trọng?
- Hết sức quan trọng, Dorrie à. Dù em có nói gì thì đó
cũng là một sự thật không sao chối cãi được. Em hãy
nhìn em thì khắc biết – giày phải hợp với áo quần,
xách tay phải hợp với từng đôi giày. Em đã được nuôi
dưỡng theo cách ấy. Em không thể…
- Điều quan trọng của anh là thế đấy à? Anh cho là em
bận tâm về những chuyện đó? – Nàng ngừng, tay nàng nới
ra, buông thả, và khi nàng bắt đầu nói lại, giọng giận
dữ của nàng bỗng trở nên sôi nổi, gay gắt hơn – Em biết
đôi khi anh cười nhạo em, cười những phim em thích, cười
em là lãng mạn… có thể vì anh hơn em đến năm tuổi hoặc
bởi vì anh đã ở trong quân đội, hoặc bởi vì anh đã là
một người đàn ông. Em không biết… nhưng em tin, thực sự
tin rằng, nếu hai người yêu nhau chân thành, không gian
dối, lừa đảo nhau… như em yêu anh, anh yêu em… thì không có
gì gọi là quan trọng hơn nữa. Em tin điều đó!
Nàng rút tay ra khỏi tay hắn và úp mặt vào hai bàn tay
thổn thức.
Hắn lấy khăn tay ở túi áo trước ngực và khẽ chạm khăn
vào lưng bàn tay nàng. Nàng cầm lấy, lau nước mắt.
- Bé à, anh cũng tin như em vậy – Hắn nói nhỏ nhẹ – Em
có biết hôm nay anh đã làm những việc gì không? – Hắn
ngừng lại – Hai việc, em yêu à: mua cho em một chiếc nhẫn
cưới, nhờ báo Clarion chủ nhật rao tìm việc. Anh xin
việc làm vào ban đêm thôi – Dorothy vỗ vỗ khăn tay lên mắt
– Có thể anh đã tô đen sự việc quá đáng. Dĩ nhiên cuộc
sống của chúng ta sẽ ổn định và hạnh phúc. Nhưng Dorrie
à, chúng ta nên thực tế hơn. Thậm chí chúng ta sẽ sung
sướng hơn nếu ta cưới nhau vào mùa hè này, dĩ nhiên là
phải được sự đồng ý của ba em. Em không thể chối bỏ
được việc đó. Điều em phải làm để đem lại hạnh phúc
cho em và cho anh là em phải chịu khó uống những viên
thuốc này – Hắn lấy bì thư ra, ấn nhẹ tay xem có đúng
là bì thư đựng thuốc không – Em không thể viện một lý do
gì để không uống.
Dorothy xếp chiếc khăn tay lại, xoay nó vào lòng bàn tay
rồi nhìn sững sờ.
- Kể từ sáng thứ ba đến nay, lúc nào em cũng mơ tưởng
đến ngày mai. Nó thay đổi tất… thay đổi toàn bộ cuộc
đời – Nàng đẩy chiếc khăn qua phía hắn – Cả đời em. Lúc
nào em cũng phải thu xếp mọi chuyện cho vừa lòng ba em.
- Em thất vọng, anh hiểu. Nhưng em phải nghĩ đến tương lai
chứ – Hắn chìa bì thư trước mặt nàng. Tay nàng vẫn
chập lại để trên bàn, chẳng có vẻ gì nhận lấy bì thư
ấy. Hắn bỏ bì thư giữa bàn, một góc hình chữ nhật
màu trắng nhạt cộm lên vì những viên thuốc đựng bên
trong – Anh đang chuẩn bị đi làm ban đêm, sẽ thôi học vào
cuối học kỳ. Anh chỉ yêu cầu em một việc: Em hãy uống
thuốc.
Bàn tay nàng vẫn không nhúc nhích. Nàng đưa mắt nhìn
cái màu trăng trắng nơi bì thư. Hắn nói, giọng bỗng trở
nên uy quyền, lạnh lùng:
- Nếu em không uống thì em thật bướng bỉnh, không thực
tế, và bất công, bất công đối với chính bản thân em chứ
không phải là đối với anh.
Điệu nhạc Jazz dứt, những ánh đèn màu tắt ngúm và một
sự im lặng rơi chụp xuống. Hắn và Dorothy ngồi bất động
với cái bì thư nằm giữa bàn. Đàng kia có tiếng thì
thầm của người đánh cờ đang bí nước và giọng nói của
một người già vẻ đắc thắng: Chiếu!
Hai bàn tay nàng từ từ rời ra. Hắn thoáng nhìn thấy
những giọt mồ hôi lấm tấm trong lòng bàn tay nàng. Bàn
tay hắn cũng ướt đẫm mồ hôi, hắn bỗng giật mình nhận
ra điều đó. Đôi mắt rời khỏi bì thư, nàng nhìn sâu vào
mắt hắn.
- Nào bé yêu của anh…
Đôi mắt lại nhìn xuống, nét mặt đanh lại.
Nàng cầm bì thư nhét vào xách tay ở trên ghế bên cạnh.
Sau đó nàng ngồi nhìn hai bàn tay đặt trên bàn, không
nói năng gì.
Hắn chồm người qua mơn trớn, ve vuốt lưng bàn tay nàng,
rồi cầm lấy siết nhẹ. Tay kia hắn nâng ly cà phê nãy
giờ hắn chưa uống đưa sang cho nàng. Vẫn siết chặt tay
nàng, hắn nhìn nàng từ từ nhấp cà phê. Hắn lấy một
đồng kên khác ấn vào máy hát tự động, chọn bài SOME
ENCHANTED EVENING.
Hắn và nàng đi trên những con đường lát đá sũng nước,
tay trong tay, im lặng, mỗi người đeo đuổi theo ý nghĩ
riêng tư của mình. Trời đã ngớt mưa, nhưng cái ẩm ướt
làm rát da mặt vẫn còn lãng đãng trên không vì những
ánh đèn đường nhòe nhoẹt trong màn đêm.
Đến con đường trước mặt cư xá, hắn và nàng hôn nhau. Đôi
môi lành lạnh của nàng xoắn lấy môi hắn. Khi hắn định
rời môi ra thì nàng lắc đầu nguầy nguậy. Hắn ôm nàng
thầm thì những lời trấn an nàng, rồi chia tay. Hắn nhìn
nàng băng qua đường, đi vào phòng khách còn sáng đèn.
Hắn vào quán giải khát gần đó, uống hai cốc bia. Đôi
tay hắn khéo léo xé giấy lau miệng thành những mảnh
nhỏ vuông sắc sảo một cách nghệ thuật. Nửa giờ trôi
qua, hắn vào phòng điện thoại, quay số điện thoại cư
xá, nhờ cô gái trực máy gọi dùm đến phòng Dorothy.
Chuông reo đến lần thứ hai, Dorothy mới nhấc ống nghe.
- Ai đầu dây đó?
- Anh đây, Dorrie – Đầu dây phía nàng bỗng im bặt – Em đã
uống thuốc chưa? – Vẫn lặng yên.
- Rồi – Giọng nàng vang lên cụt ngủn.
- Lúc nào?
- Cách đây vài phút.
Hắn hít hơi thật mạnh vào lồng ngực.
- Bé yêu của anh, cô gái trực điện thoại có khi nào nghe
lén không?
- Không. Một cô mới bị sa thải vì…
- Này em, anh không nói cho em biết trước làm gì… nhưng
thuốc sẽ công phạt đấy – Nàng không nói gì cả. Hắn nói
tiếp – Em sẽ có cảm giác cháy bỏng nơi cuống họng và
dạ dày sẽ nhói đau. Dù có chuyện gì xảy ra, em chớ
hốt hoảng, sợ hãi. Điều đó có nghĩa là thuốc công
hiệu. Em chớ gọi ai – Hắn ngừng xem nàng có phản ứng
gì không, nhưng nàng không nói gì – Anh xin lỗi đã không
nói cho em biết trước nhưng nói vậy chứ không đau đớn gì
mấy đâu. Khi em nhận ra thì mọi sự đã xong rồi! – Đầu
dây nói kia vẫn im tiếng – Em không giận anh chứ, Dorrie?
- Không.
- Em sẽ thấy, mọi việc rất tốt đẹp.
- Em xin lỗi vì đã hơi ngoan cố.
- Bé của anh ngoan lắm. Em có lỗi chi đâu.
- Hẹn sáng mai gặp anh.
- Ừ.
Im lặng vài giây, giọng nói nhỏ nhẹ của nàng lại vang
trong máy.
- Chào anh. Chúc anh ngủ ngon.
- Chào em.
Phần I - Chương 9
Sáng thứ sáu, hắn phấn khởi đến lớp học, cảm thấy
người nhẹ nhõm hẳn đi. Hắn có cảm tưởng như con người
hắn trở nên lớn hơn, trở nên phi thường. Những tia nắng
chảy tuôn vào phòng học, nhảy múa trên những dãy ghế
bằng kim loại, rồi điểm tô lên vách tường, lên trần nhà
những nụ hoa nắng lung linh. Ngồi ở dãy sau, hắn duỗi
thẳng chân một cách thoải mái, tay khoanh trước ngực,
nhìn các sinh viên khác đang lũ lượt kéo vào lớp học.
Vẻ rạng rỡ của một buổi mai sớm đã thổi vào họ một
luồng sinh khí mới hừng hực sức sống. Ngày mai sẽ là
ngày khai mạc trận đấu bóng rổ đầu tiên của đội bóng
nhà trường; buổi tối có hội vũ mùa xuân, sẽ có dịp la
ó, ba hoa và những trận cười.
Ba cô gái đang đứng chụm lại với nhau thì thầm, nhỏ to
chuyện gì trông rất sôi nổi. Hắn tự hỏi phải chăng đó
là ba cô sinh viên nội trú và họ đang bàn chuyện về
Dorothy? “Mình nghĩ chưa ai phát hiện ra con bé đâu. Tại
sao không có người nào đến phòng con bé nhỉ? Có thể họ
tưởng con bé muốn ngủ dậy trễ. Mình hy vọng trong vòng
ba bốn tiếng nữa họ vẫn chưa tìm thấy con bé”. Hắn
thót giật nẩy người khi tiếng rù rì của ba cô gái bỗng
vỡ tan ra thành những tràng cười ngặt ngẽo.
“Không, không thể nào họ phát hiện ra con bé trước một
giờ hoặc vào khoảng thời gian ấy. Dorothy không xuống ăn
sáng, cũng không xuống ăn trưa, thế là họ đến gõ của
phòng và không nghe tiếng con bé trả lời. Họ sẽ đi tìm
bà giám đốc cư xá hay ai đó để mượn chìa khóa. Điều
này cũng không thể xảy ra. Có biết bao nhiêu cô đã ngủ
quên luôn bữa điểm tâm và cũng có một số cô đi ra ngoài
ăn mỗi khi bốc đồng. Con bé đâu có bạn thân nên chẳng ai
chú ý sự vắng mặt của nó. Không, nếu mình vẫn còn may
mắn thì chỉ đến khi nào Ellen gọi điện thoại, họ mới
vỡ lẽ ra thôi”.
Đêm hôm trước, sau khi từ giã Dorothy qua điện thoại, hắn
quay lại cư xá và bỏ thư có ghi địa chỉ của Ellen
Kingship – lá thư tuyệt mạng của Dorothy – vào thùng thư
gần đấy. Chuyến thư sớm nhất sẽ đi vào lúc sáu giờ
mỗi buổi sáng. Caldwell chỉ cách có một trăm dặm; như
vậy buổi trưa thư sẽ đến tay Ellen. Nếu sáng nay họ phát
hiện ra con bé thì chắc chắn Ellen sẽ được ông bố báo
tin và sẽ tức tốc rời Caldwell đi Blue River. Việc này
có nghĩa là họ tức khắc tiến hành ngay cuộc điều tra,
lý do lúc đó Ellen chưa nhận được lá thư kia. Đây là sự
nguy hiểm duy nhất nhưng cũng chỉ là sự nguy hiểm nhỏ
nhặt và bất ngờ thôi. Trước đó hắn không tìm được cách
nào lẻn vào cư xá để vào chỗ Dorothy giấu bức thư vào
đâu đấy: hoặc trong túi áo khoác của nàng, hoặc trong
sách vở của nàng. Nhưng trường hợp này cũng rất nguy
hiểm vì biết đâu tình cờ Dorothy bắt gặp được lá thư
đó rồi vất bỏ đi. Hoặc biết đâu, còn trầm trọng hơn
nữa, Dorothy sẽ liên kết mọi sự việc lại với nhau và
truy ra đầu mối.
Chỉ có trưa nay mình mới thoát nạn được thôi. Nếu sau
mười hai giờ họ mới khám phá ra Dorothy thì khi ấy Ellen
đã nhận được thư rồi và lúc đó nhà trường đã báo tin
cho Leo Kingship biết và lão với Ellen cũng đã liên lạc
với nhau. Nếu sự may mắn vẫn còn duyên nợ với mình thì
đến xế chiều họ mới tìm thấy Dorothy, lý do nhờ cú
điện thoại cuống cuồng của Ellen gọi đến cư xá. Lúc
này mọi việc đã trở nên rõ ràng và mọi sự tiến hành
theo đúng lớp lang của nó.
Tất nhiên sẽ có cuộc xét nghiệm tử thi. Họ sẽ phát
hiện ra việc dùng quá liều lượng chất asênic và một
bào-thai-hai-tháng: nguyên nhân và hậu quả của cái chết.
Với cớ sự đó, với bức thư đó, mấy cha nội cảnh sát
chẳng còn gì để nghi ngờ, thắc mắc, để điều tra nữa.
Tuy thế họ cũng có thể mở cuộc điều tra chiếu lệ ở
các hiệu thuốc trong địa phương nhưng chắc chắn họ chỉ
gặt hái được một con số không to tướng. Thậm chí họ có
thể xem xét phòng dược liệu. Họ sẽ hỏi sinh viên – các
anh chị có thấy cô gái này ở trong phòng dược liệu hay
ở đâu đấy trong trường đại học dược khoa không – và chìa
cho sinh viên xem ảnh cô gái. Họ cũng chỉ thu được con số
không nữa thôi. Đó là một sự bí ẩn không mấy quan trọng
dù họ không rõ nguồn gốc chất asênic kia từ đâu mà nạn
nhân có được. Vì nói cho cùng tự tử là tự tử, thế
thôi.
Họ có truy lùng người đàn ông – người tình của cô gái
bất hạnh – trong vụ này không? Việc này xem ra cũng không
thể xảy ra. Ai chả biết nạn nhân là một cô gái lăng
loàn, trắc nết. Họ không chú ý đến người tình của cô
ta đâu. Nhưng còn cái lão Leo Kingship kia? Liệu cái thứ
đạo đức bị biếm nhục này có phát động một cuộc truy
tìm thủ phạm không? “Phải tìm cho ra cái thằng đểu giả
đã hủy hoại đời con gái tao!”. Mặc dù Dorothy đã phác
họa một vài nét chấm phá về ông bố của mình, Leo
Kingship cũng có thể suy nghĩ: “Đấy, trước sau gì nó
cũng hư đốn vậy thôi. Mẹ nào con nấy”. Nói thế, lão ta
bằng mọi cách sẽ tìm kiếm, sục sạo mới hả dạ.
Mình sẽ bị liên lụy không sao tránh khỏi. Nhiều người
đã thấy mình và Dorothy quấn quýt bên nhau dù không bị
bắt gặp thường xuyên.
Buổi ban đầu, khi bắt bồ được với Dorothy, hắn không dám
đưa nàng đến những nơi nổi tiếng. Năm trước hắn đã chài
được một cô gái con nhà giàu và giá như Dorothy khám
phá ra được sự lưu manh của hắn rồi bỏ hắn thì ít ra
hắn cũng còn có cơ hội để gạ gẫm những cô gái về sau;
hắn không ưa bị mang tiếng là tên đào mỏ! Khi biết
Dorothy đã mê mệt hắn, hắn mới đưa nàng đi xem phim, dẫn
nàng về phòng hắn, hẹn đến những nơi vắng vẻ như quán
ăn Gideon chẳng hạn. Điểm hò hẹn thường xuyên giữa hắn
và nàng ở cái ghế đá nhiều hơn là tại phòng khách
của cư xá, tránh được chỗ đông người chừng nào tốt
chừng đó.
Hắn sẽ bị kêu lên thẩm vấn nhưng Dorothy chưa từng kể cho
ai nghe về sự liên hệ tình cảm giữa nàng và hắn cả, do
đấy những thằng khác cũng sẽ bị liên can, đâu phải chỉ
riêng mình hắn. Chẳng hạn thằng tóc đỏ thường hay tán
gẫu với con bé ngoài lớp – ngay lần đầu tiên mình gặp
con bé và để ý đến cái hộp quẹt đặc biệt của nó.
Ngay cả cái thằng được con bé đan tất cho nữa chứ, đôi
tất màu lá mạ đó, và bất cứ cu cậu nào mà con bé có
hẹn đôi ba lần. Cả lũ sẽ bị dính chùm với nhau. Thằng
nào cũng có thể bị nghi là thủ phạm bởi vì có thằng
nào dại khờ nhận tội đâu. Lão Leo Kingship sẽ bó tay
chịu chết thôi. Có bằng chứng xác đáng nào để buộc
tội chứ?
Đúng, công việc sẽ êm ru. Sẽ không có chuyện bỏ học. Sẽ
không có chuyện giữ chân thư ký ở công ty tàu biển chết
bầm kia. Sẽ không có vợ, có con gì cả. Sẽ không có
chuyện lão Leo Kingship trả thù. Sẽ không có gì hết.
Chỉ có một vết đen nho nhỏ… Giả dụ ai đó tố cáo rằng
mình hay quanh quẩn ở khu đại học, rằng mình thường là
người sóng vai với con bé… Giả dụ cô gái trong phòng
dược liệu gặp lại mình, biết mình là ai và không phải
là sinh viên dược… Nhưng điều này thậm chí cũng không
thể xảy ra… trên một ngàn sinh viên, biết ai là ai… Nhưng
nếu, giả dụ điều không may ấy lại xảy đến, cô gái nhìn
thấy mình, sực nhớ lại và đi báo cho cảnh sát… Cho dù
thế nữa, cũng không có bằng chứng. Cứ cho là mình có
mặt trong phòng dược liệu đi, mình sẽ dựng đứng một vai
biện hộ nào đó, họ sẽ tin mình vì còn có lá thư kia,
lá thư với chính nét chữ của con bé. Làm thế nào họ
giải thích.
Cánh cửa bên hông lớp học chợt mở ra, một cơn gió nhẹ
lùa vào thổi tung những trang giấy trong cuốn vở của
hắn. Hắn quay sang nhìn. Trời! Dorothy!
Hắn choáng váng, rã rời, toàn thân như thiêu đốt. Hắn
dợm người đứng dậy, máu chảy dồn lên mặt, lên ngực
ngẹt thở. Mồ hôi tuôn chảy như triệu con sâu đang rần rần
bò trên thân thể. Hắn biết nỗi khiếp hãi hiện rõ trên
khuôn mặt hắn, trong đôi mắt trợn trừng, trên đôi má rực
cháy và Dorothy đã nhìn thấy, nhưng không làm sao hắn che
giấu được sự kinh hoàng đó. Khi cánh cửa sau lưng nàng
khép lại, nàng kinh ngạc nhìn hắn. Cũng như mọi ngày,
sách cắp dưới tay, áo màu lục, váy len sọc vuông. Đúng
là Dorothy đang tiến lại gần, nét bàng hoàng lộ trên
khuôn mặt vì bộ dạng lạ lùng của hắn.
Quyển sách rơi đánh bịch trên sàn nhà. Hắn cúi xuống
nương cơ hội lẩn tránh một lúc để lấy lại bình tĩnh.
Hắn giữ nguyên thế ngồi chúc đầu xuống sát mặt ghế,
cố điều hòa hơi thở. Chuyện gì đã xảy ra thế? Trời!
Con bé không uống thuốc! Làm sao nó thoát được chứ nếu…
Nó nói láo! Con khốn kiếp! Lá thư đang trên đường đến
chỗ Ellen… Ôi, Chúa ơi!
Hắn nghe nàng đang len vào chỗ ngồi. Giọng nàng thì
thào sợ hãi:
- Anh sao thế? Chuyện gì vậy?
Hắn nhặt quyển vở lên, ngồi thẳng người, mặt cắt không
còn một giọt máu, toàn thân tê dại, mồ hôi dầm dề,
chết điếng.
- Anh sao thế, hả anh?
Hắn lờ đờ nhìn nàng. Con bé trông vẫn như mọi ngày.
Tóc buộc một giải băng màu xanh. Hắn cố nói một lời
gì đó nhưng đầu óc hắn rto61ng rỗng.
- Chuyện gì vậy?
Những sinh viên khác đưa mắt nhìn. Cuối cùng hắn thì
thào, giọng đứt khoảng:
- Chẳng… chẳng có… việc gì. Anh khỏe lại rồi.
- Anh bị bệnh? Mặt anh tái xanh như…
- Không có gì đâu. Vì… vì cái này – Hắn lấy tay chỉ
vào cạnh sườn, nơi có vết sẹo khi hắn còn ở trong quân
đội… - thỉnh thoảng nó nhói đau, nhức nhối.
- Em cứ ngỡ anh bị động kinh hay đau gì đấy – Nàng thầm
thì.
- Có chi đâu – Hắn vẫn sững sờ nhìn nàng, lấy hơi thở,
hai tay bấu chặt vào đầu gối, cố ghìm mình lại. Trời!
Làm sao đây? Con đốn mạt! Chó đẻ! Nó cũng âm mưu, dự
tính kế hoạch tiến hành lễ cưới.
Hắn nhận thấy vẻ lo âu biến mất trên khuôn mặt của
nàng, đôi má đã ửng hồng trở lại. Nàng rút tờ giấy
nơi tập giấy làm bài, hí hoáy viết, rồi trao cho hắn.
THUỐC VÔ HIỆU!
“Nó nói láo! Con nói dối khốn nạn!”. Hắn vò nát mảnh
giấy, bóp ghiến trong lòng bàn tay, những móng tay đâm
vào da thịt buốt đau. Phải suy nghĩ, phải tính toán! Tai
họa bất ngờ và khủng khiếp quá đến nỗi hắn không phản
ứng đối phó kịp thời được… thư sẽ đến tay Ellen vào
lúc nào đây? Ba giờ hay bốn giờ? Rồi Ellen sẽ gọi điện
thoại cho Dorothy. “Chuyện gì thế em? Sao lại viết thư như
thế?” “Viết thư nào chứ?” Ellen đọc nội dung lá thư và
Dorothy chợt hiểu… Con bé sẽ tìm đến mình. Mình sẽ
giải thích sao đây? Hoặc giả con bé khám phá ra được sự
thật – liền tuôn hết câu chuyện cho Ellen nghe – sau đấy
gọi dây nói cho ông bố. Nếu con bé vẫn còn cất giữ
những viên thuốc kia, nếu nó không chịu ném bỏ chúng đi
thì chứng cớ rành rành và mình khó bề chối cãi. Con
bé sẽ đem đến hiệu thuốc nhờ xét nghiệm, phân tích? Ôi
lúc này không thể biết con bé còn âm mưu gì nữa đây. Nó
là một ẩn số khó hiểu. Mình phải tiên liệu những mưu
toán quỷ quái trong đầu óc con khốn kiếp này mới được.
XONG, CHÚNG TA ĐÃ THỬ HẾT SỨC MÌNH, THẾ THÔI. GIỜ MÌNH
TIẾN HÀNH THEO KẾ HOẠCH, EM NHÉ.
Hắn trao giấy cho Dorothy. Nàng đọc, quay sang nhìn hắn,
nét mặt rạng rỡ, say đắm như tia nắng mặt trời. Hắn
gượng mỉm cười với nàng, thầm mong nàng không nhìn thấy
bộ điệu sượng sùng của hắn.
“ Mình vẫn còn đủ thời gian. Những người viết xong lá
thư tuyệt mệnh, thường dùng dằng trước khi thực hiện ý
đồ”. Hắn nhìn đồng hồ tay: “Chín giờ hai mươi phút. Sớm
nhất Ellen có thể nhận được thư là khoảng… ba giờ
chiều. Mình còn đến năm giờ bốn mươi phút nữa. Không
thể chần chừ. Phải hành động chớp nhoáng. Dứt điểm.
Mình đừng trông mong con bé sẽ làm theo lời mình nữa.
Chẳng cần thuốc độc làm quái gì. Con người có thể hủy
mình bằng cách nào khác nữa không? Trong năm giờ bốn
mươi phút tới con bé phải chết!”.
o0o
|