Phần I - Chương 10
Mười giờ, hắn và Dorothy rời nhà, tay trong tay đi dưới
bầu trời nắng chan hòa, lung linh như thủy tinh trong âm
thanh réo gọi, cười đùa của đám sinh viên đồng lớp. Ba
cô gái mặc đồng phục diễu hành đang len lỏi đi qua; một
cô đánh xập xõa với cái dùi bằng gỗ; hai cô kia mang
bảng cổ động cho cuộc tranh giải bóng rổ sắp đến.
- Anh còn đau không? – Dorothy hỏi vì vẻ mặt nhăn nhó của
hắn.
- Đau chút thôi.
- Anh thường bị đau nhức như thế à?
- Không. Em đừng bận tâm – Hắn nhìn đồng hồ tay – Em không
lấy phải thằng thương phế binh làm chồng đâu mà lo –
Giọng hắn lừng khừng.
Hắn và nàng bỏ lối đi chính, đi vào bãi cỏ.
- Lúc nào mình sẽ đi đến đó hả anh? – Nàng siết nhẹ
tay hắn.
- Chiều nay, khoảng bốn giờ.
- Sao không đi sớm hơn hả anh?
- Sớm để làm gì?
- Để tranh thủ thời gian. Năm giờ họ nghỉ việc.
- Không mất thì giờ lắm đâu. Mình chỉ điền vào mẫu hôn
thú, sau đó một vị chức sắc nào đấy làm lễ kết hôn
cho mình luôn.
- Tốt hơn là em nên mang theo giấy khai sinh.
- Ừ, đúng đó.
Nàng nhìn hắn, giọng bỗng trở nên đứng đắn, đôi má ửng
hồng vì thẹn. – “Con bé chẳng có vẻ gì là dối trá
cả” – Hắn thầm nghĩ.
- Anh có ân hận vì thuốc không công hiệu không hả anh? –
Nàng lo lắng hỏi.
- Không! Chẳng có gì phải ân hận cả.
- Anh không cường điệu chứ? Công chuyện sẽ thế nào đây?
- Ờ mình sẽ lo liệu, em à. Anh chỉ muốn thử xem vậy
thôi. Tựu trung là chỉ lo cho em.
Mặt nàng đỏ hơn. Hắn quay đi, bối rối trước vẻ hồn
nhiên, ngây thơ trong trắng của nàng. Hắn lại nhìn nàng,
trông nàng tươi thắm, không gợn một nét ưu tư, băn khoăn
nào nữa trên khuôn mặt. Nàng ôm lấy cánh tay hắn, nhí
nhảnh nói:
- Không sao đến lớp được. Em trốn học vậy.
- Hay đấy. Anh cũng cúp luôn. Em hãy ở lại với anh.
- Anh nói sao?
- Ở lại với anh rồi đến tòa thị chính luôn. Trọn ngày
hôm nay, em phải ở với anh.
- Không được đâu, anh. Làm sao em ở cả ngày được. Em phải
về cư xá lo thu xếp áo quần… Anh không sửa soạn vali hả?
- Anh đã để vali ở khách sạn khi xuống giữ phòng.
- Aên mặc đẹp nghe anh. Em thích nhìn thấy anh trong bộ
áo quần màu xanh nước biển đó.
Hắn cười.
- Vâng! Xin tuân lệnh, thưa phu nhân. Dẫu sao cũng phu nhân
vui lòng dành cho tôi một ít phút được ở cạnh phu nhân,
kể từ giờ phút này.
- Mình sẽ làm gì? – Nàng nũng nịu hỏi.
- Anh cũng chưa biết làm gì đây – Hắn và nàng thung dung
băng qua bãi cỏ – Có lẽ mình đi dạo chơi. Xuống bờ sông
chẳng hạn.
- Với đôi giày này à? – Nàng nhấc bàn chân lên, đôi giày
bằng da mềm, nhẹ – Đau chân chết. Giày đâu có đế, anh!
- Ô kê – Hắn nói – Không đi nữa.
- Em đề nghị thế này – Nàng đưa tay chỉ nhà Nghệ thuật
phía trước mặt – Mình vào đó nghe nhạc.
- Có là điên. Một ngày đẹp trời thế này lại rúc vào
đó.
Hắn chợt im lặng vì thấy nàng bỗng nhiên không cười
nữa. Nàng nhìn sang phía bên kia nhà Nghệ thuật, nơi có
cái tháp nhọn của đài truyền thanh KBRI vượt cao hẳn lên
bầu trời.
- Mới đây em đã gặp bác sĩ rtong nhà Hành chính – Giọng
nàng nghèn nghẹn.
- Lần này thì khác chứ – Bỗng hắn đứng khựng.
- Có chuyện gì thế?
- Dorrie, em có lý đấy. Tại sao mình phải đợi đến bốn
giờ kia chứ? Mình đến đó ngay bây giờ.
- Anh nói sao? Đi ngay bây giờ? – Nàng ngạc nhiên.
- Ừ, ngay sau khi em đã thu xếp mọi việc. Em về cư xá
chuẩn bị đi. Em có gì phản đối không?
- Ôi, em đồng ý cả hai tay. Em muốn đi ngay.
- Chốc nữa anh sẽ gọi em, nói cho em biết anh sẽ đón em
tại đâu.
- Vâng, vâng – Nàng rướn người lên hôn hắn cuồng nhiệt –
Em yêu anh, em yêu anh vô cùng – Nàng thì thào.
Hắn nheo mắt, nhìn nàng, cười.
Nàng vội vã rảo bước, quay đầu lại nhìn hắn, nụ cười
vẫn giữ trên môi.
Hắn nhìn theo Dorothy, rồi đưa mắt nhìn về cái tháp
sừng sững bên kia nhà Hành chính ở Blue River, tòa nhà
mười bốn tầng cao nhất thành phố.
Phần I - Chương 11
Hắn đi đến nhà Nghệ thuật, vào phòng điện thoại ngay
dưới dốc cầu thang. Gọi đến phòng chỉ dẫn, hắn xin số
điện thoại của văn phòng kết hôn.
- Văn phòng kết hôn đây.
- Văn phòng mở cửa đến mấy giờ, thưa ông?
- Đến mười hai giờ trưa. Mở cửa lại lúc một giờ cho
đến năm giờ ba mươi chiều.
- Từ mười hai giờ đến một giờ thì đóng cửa?
- Đúng thế.
- Cám ơn ông – Hắn bỏ máy xuống, lấy đồng xu khác ấn
vào điện thoại, quay số cư xá đại học. Khi tiếng u u
vọng lên từ đầu dây bên kia, hắn không nghe tiếng trả
lời. Bỏ ống nghe xuống, hắn lấy làm thắc mắc không
hiểu tại sao giờ này Dorothy chưa về.
Đi như thế, lẽ ra con bé phải có mặt ở phòng rồi! Không
còn tiền lẻ, hắn đi ra ngoài, sang phía bên kia khu đại
học, vào một quán ăn nhỏ đổi lấy tiền lẻ rồi nhìn
trân tráo cô gái đang đứng gọi điện thoại. Cô gái gọi
xong, hắn bước vào căn phòng còn thoảng mùi nước hoa,
đóng cửa. Lần này có tiếng Dorothy trả lời.
- Ai gọi đấy?
- Anh đây. Sao em lâu về thế. Cách đây vài phút anh có
gọi cho em.
- Trên đường em dừng lại để mua một đôi găng tay – Giọng
nàng tràn đầy hạnh phúc.
- Vậy à? Này em, bây giờ là mười giờ hai mươi lăm. Đến
mười hai giờ em chuẩn bị xong chưa?
- Em định tắm…
- Vậy thì mười hai giờ mười lăm.
- Ô kê!
- Em không báo cho nhà trường biết em đi nghỉ cuối tuần?
- Phải báo anh à. Anh biết nội quy đấy.
- Nếu thế, em phải cho nhà trường biết nghỉ cuối tuần
ở đâu, phải không?
- Đúng thế.
- Rồi sao nữa?
- Em phải ghi địa chỉ: New Washington House. Nếu bà giám
đốc hỏi, em sẽ giải thích.
- Em này, đợi đến chiều rồi khai báo cũng được. Dẫu sao
mình cũng phải quay về đây. Mình phải ghé lại khu nhà
goòng. Mình phải đến đó.
- Sao vậy anh?
- Họ bảo chỉ được đăng ký sau khi làm lễ thành hôn.
- Em sợ về cư xá trễ không kịp lấy vali.
- Kịp chán. Làm xong mọi thủ tục, mình đến khách sạn
ăn trưa. Từ nhà Hành chính đến đó cũng gần.
- Vậy báo cho nhà trường biết bây giờ luôn thể. Em thấy
có gì khác đâu.
- Xem kìa, Dorrie. Anh nghĩ nhà trường đâu đến nỗi điên
khùng để một sinh viên nội trú thoát đi lấy chồng. Bà
giám đốc sẽ bằng mọi cách để làm chậm lại công chuyện
của chúng ta, bà muốn rõ ba em đã hay biết chuyện này
hay chưa. Bà ta sẽ lên lớp em đấy, sẽ tìm cách khuyên
chờ đến cuối học kỳ. Bà giám đốc nào cũng phải xử
sự như thế.
- Thôi được. Sau hẵng hay.
- Thế chứ. Mười hai giờ ba mươi, anh đợi em ở đại lộ
Đại học.
- Sao lại đợi ở đó?
- Em đi ra bằng cửa hông của cư xá, phải không? Với va li
và không xin phép?
- Ừ nhỉ, em không nghĩ đến điều đó. Anh này, sao giống
một cuộc đào tẩu thế?
- Y hệt như xinê.
Nàng cười như nắc vẻ.
- Mười hai giờ mười lăm nhé!
- Đúng hẹn. Mình sẽ xuống phố lúc mười hai giờ ba mươi.
- Chào chú rể.
- Chào cô dâu.
Hắn ăn mặc chải chuốt, bộ áo quần hải quân màu xanh
nước biển, giày tất màu đen, áo sơ mi trắng, chiếc cà
vạt kiểu Ý to bản có những hình hoa huệ óng ánh. Tuy
nhiên lúc ngắm mình trong gương, hắn nhận thấy cà vạt
quá sặc sỡ, sẽ khiến mọi người chú ý đến, nên hắn
thay chiếc cà vạt màu ngọc nhạt hơn. Hắn soi gương một
lần nữa khi đã khoác áo vét vào; hắn muốn tạo một
nét mặt tự nhiên, không ai để ý. Có những khi đẹp trai
quá cũng là một điều bất lợi. Vì đến chỗ đông người,
hắn buộc lòng phải đội mũ rộng vành, bẻ cụp xuống che
khuất một phần khuôn mặt. Hắn cẩn thận đội mũ lên để
khỏi làm rối tóc.
Mười hai giờ lém năm phút, hắn đã có mặt tại chỗ hẹn.
Phía bên kia là hông cư xá. Mặt trời ngay trên đỉnh đầu,
không khí oi nồng, nóng bức. Trong bầu không khí chói
chang, âm thanh những cánh chim vỗ cánh, những bước chân,
những bánh xe ghiến trên mặt đường, nghe là lạ như thể
những tiếng động đó vọng lại từ một bức tường bằng
thủy tinh rtong suốt. Hắn đứng nhìn cửa hàng bán vũ
khí, quay lưng về phía cư xá.
Mười hai giờ mười lăm, qua kính phản chiếu của cửa hàng
hắn thấy cửa bên hông cư xá mở và dáng dấp Dorothy hiện
ra. Lần đầu tiên nàng đến đúng hẹn. Hắn quay người lại.
Nàng đưa mắt nhìn quanh, chưa nhận ra hắn. Một tay mang
găng cầm ví, tay kia xách va li bọc vải màu đỏ. Hắn giơ
tay lên vẫy, nàng nhìn sang, môi nở nụ cười. Nàng đợi
cho dòng xe thưa lại mới băng qua lằn vạch trắng đi về
phía hắn.
Nàng thật đẹp. Bộ áo quần màu xanh lục, chiếc khăn
quàng lụa lấp lánh quanh cổ, giải nơ cũng màu xanh lục
lất phất trên mái tóc vàng. Hắn cười chào nàng, đưa tay
xách va li khi nàng đến bên hắn.
- Cô dâu nào cũng xinh, nhất là em.
- Gracia, senor (Cám ơn ngài) – Trông nàng như muốn ôm
choàng lấy hắn.
Một chiếc tắc xi chạy trờ đến, giảm tốc độ khi chạy
ngang qua chỗ hai người. Dorothy đưa mắt nhìn hắn, dò
hỏi. Nhưng hắn lắc đầu.
- Nếu muốn tiết kiệm, mình phải tập dần ngay bây giờ.
Hắn nhìn về phía đại lộ Đại học. Trong ánh sáng nhấp
nhóa, một chiếc xe buýt đang chạy đến gần.
Dorothy nhìn như muốn nuốt chửng cảnh vật quang nàng, như
thể lâu nay nàng bị giam hãm trong nhà hàng tháng rồi
vậy. Bầu trời xanh ngắt. Khu đại học trải dài dọc theo
đại lộ, yên tĩnh, râm mát. Vài sinh viên đang bách bộ
thung dung; một vài người nằm dài trên thảm cỏ xanh
mượt.
- Ôi! – Dorothy bỗng thốt lên – Trưa nay khi quay về đây thì
mình đã có gia đình!
Xe buýt phanh rít, dừng lại. Hắn và Dorothy bước lên,
ngồi quay lưng với bác tài, nhìn về đàng sau. Hắn và
nàng trao đổi đôi câu, rồi mỗi người chìm trong dòng tư
tưởng của mình. Nếu ai đó tình cờ để ý, chẳng hiểu
hai người đi chung với nhau hay là đi riêng rẽ.
Tầng thứ tám ở bên dưới đã giao lại cho văn phòng thành
phố quận Rockwell, là cơ quan trung ương của Blue River.
Sáu tầng còn lại cho các luật sư, bác sĩ, nha sĩ, giáo
sư thuê và một ít cho tư nhân mở cửa hàng buôn bán. Cấu
trúc của tòa nhà là sự lẫn lộn giữa lối kiến trúc
mới và cũ, là sự đối chọi giữa xưa và nay, giữa hai
tầng lớp thủ cựu và cấp tiến ở Iowa. Một giáo sư dạy
trường đại học kiến trúc ở Stodard đã liên tưởng nó
với một sự trụy thai trong kiến trúc. Sự so sánh dí
dỏm đó đã khiến các sinh viên cười một cách ý nhị.
Nhìn từ trên xuống, tòa nhà để lộ ra một ô vuông vắn,
trống rỗng như thể đã bị một chiếc máy bay khổng lồ
nào đó bổ nhào xuống khoét thủng đi. Nhìn từ bên
ngoài, dãy nhà tầng thứ tám đến tầng mười hai chồng
chất lên nhau khiến cho nhà như bị trùng thấp hẳn xuống.
Đường nét của tòa nhà thô kệch, cứng cỏi; những khung
cửa sổ vẫn còn ghi hẳn lối kiến trúc nhạt nhẽo của Hy
Lạp, cánh cửa bằng đồng gắn kính co rút lại giữa
những thân cột khổng lồ với những đầu cột uốn cong
hình nhánh lúa. Trông tòa nhà như một con quái vật,
nhưng khi Dorothy quay đầu nhìn lên, thẳng tắp trước mũi
xe, trông nó giống như một giáo đường cổ xưa.
Đúng mười hai giờ ba mươi, khi hắn và nàng băng qua, bước
lên những bực thềm, đẩy cửa bước vào hành lang nền lát
đá hoa, tòa nhà đông nghẹt toàn người là người; người
thì tranh thủ đi ăn trưa; người thì hối hả đến nơi hẹn;
người thì đứng đợi chờ. Tiếng nói chuyện, tiếng đế
giày kéo lê trên nền nhà, tất cả tạo nên một thứ âm
thanh hỗn độn, nhức óc vang vang dưới vòm mái nhà cong.
Hắn đi sau nàng vài bước, đến văn phòng quản lý dọc bên
hành lang.
- Xin lỗi, đây có phải văn phòng kết hôn không? – Dorothy
hỏi, đưa mắt đọc cái biển treo trên cửa, vừa lúc hắn
đến bên cạnh nàng. Hắn nhìn cái biển, dửng dưng như
không biết nàng có mặt ở đó.
- Đây rồi – Dorothy reo lên mừng rỡ – Văn phòng kết hôn,
số 604.
Hắn đi về phía thang máy trước mặt, đối diện với cửa
chính quay tự động. Dorothy rảo bước theo hắn. Nàng đưa
tay nắm bàn tay hắn đang xách chiếc va li của nàng. Hắn
giả vờ như không nhận thấy cử chỉ ấy của nàng vì hắn
vẫn không đổi va li sang tay kia.
Một trong bốn thang máy để cửa mở, một nửa số khách
đang đứng đợi bên trong. Khi đến bên thang máy, hắn khẽ
nhích lui một bước nhường Dorothy vào trước. Một người
đàn bà đứng tuổi theo liền phía sau, hắn đợi bà ta vào
xong rồi mới vào theo. Cử chỉ lịch sự của hắn khiến
bà ta rất bằng lòng, vì trong cái giây phút vội vã
này, đấy là một cử chỉ rất hiếm. Bà mỉm cười chào
hắn nhưng thất vọng khi thấy hắn vẫn không lấy mũ
xuống. Bà đứng chắn giữa hắn và Dorothy nên Dorothy phải
nhón chân lên nhìn qua đầu bà ta để nhoẻn miệng cười
với hắn. Hắn khẽ nhếch môi cười như cười với ai đó,
chứ không phải với nàng.
Đến tầng sáu, hắn và Dorothy ra khỏi thang máy, cùng
với hai người đàn ông khác, cũng đang xách va li và hấp
tấp đi dọc theo hành lang.
- Anh, đợi em với chứ – Nàng gọi nhỏ, giọng vui vẻ khi
cánh cửa thang máy vừa khép lại.
Nàng ra sau cùng, hắn ra trước. Hắn rẽ sang trái, đi
cách nàng hai ba thước, như thể quanh hắn chẳng còn ai
ngoài mình hắn. Nàng đuổi kịp, cầm tay hắn, liếng
thoắng. Hắn quay đầu nhìn lui, vẻ mặt bối rối. Đưa mắt
nhìn về phía sau nàng, hắn thấy hai người đàn ông kia
đến cuối hành lang, rẽ bên trái và khuất bóng.
- Anh chạy đi đâu thế? – Giọng nàng giận dỗi.
- Xin lỗi em – Hắn nói – chú rể quá hồi hộp!
Hắn và nàng đi men theo hành lang, tay nắm tay, vòng theo
phía trái. Dorothy nhẩm đọc những chữ số trên cửa mỗi
lần đi qua: 620, 618, 616,… Phải ngoặt sang trái một lần
nữa mới đến phòng số 604, ở mãi phía sau ô vuông của
tòa nhà, bên kia thang máy. Hắn thử mở cửa. Cửa khóa.
Hắn và Dorothy đọc bảng ghi giờ làm việc trên kính cửa
kính mờ đục. Dorothy càu nhàu, thất vọng.
- Khỉ thật – Hắn nói – Lẽ ra anh phải gọi điện thoại
hỏi họ trước. – Dorothy cáu kỉnh – Xuống dưới kia đợi,
anh.
- Đông người quá – Hắn làu bàu – Anh có ý kiến thế
này.
- Anh nói đi.
- Ta lên sân thượng vậy. Hôm nay trời tuyệt đẹp. Anh cuộc
với em ở trên đấy mình có thể nhìn xa hàng dặm.
- Họ có cho mình lên không đã chứ?
- Không ai ngăn cản thì mình cứ lên – Hắn xách va li –
Nào, em hãy nhìn thế giới một lần cuối, cái nhìn của
một người còn độc thân.
Nàng cười e ấp. Hắn và nàng vòng lại phía thang máy.
Vài giây sau họ nhìn thấy trên cửa có ngọn đèn nhỏ
chớp chớp sáng một mũi tên sơn màu trắng chỉ hướng lên
phía trên.
Lần nữa, trong lúc ra khỏi thang, hắn và nàng bị tách
xa nhau vì những người chen chúc vội vã kia. Đứng nơi
hành lang, hắn và nàng đợi cho những người ấy hối hả
rẽ ở khúc quanh hoặc hấp tấp bước vào các phòng, sau
đấy Dorothy mới thúc giục hắn:
- Đi cho rồi, anh – Giọng nàng thầm thì như thể nàng như
thể nàng đang âm mưu đồng lõa với hắn. Nàng đang dấn
mình vào một cuộc phiêu lưu, mạo hiểm.
Đi hết nửa vòng trong tòa nhà, hắn và nàng đến cạnh
phòng số 1042 và nhìn thấy một cánh cửa có biển đề:
Cầu thang. Họ đẩy cửa bước vào. Tiếng cửa khẽ rít lên
phía sau lưng. Hắn và nàng đứng ở chỗ bệ thang, những
nấc thang bằng kim loại đen đen dẫn lối lên, xuống. Tia
nắng từ khung trời đẫm hơi sương xuyên vào phòng. Họ leo
lên. Tám bậc thang, rẽ lối, rồi tám bậc thang bữa. Cánh
cửa bằng đồng đỏ sẫm chắn ngang mắt. Hắn thử nắm cửa.
- Cửa khóa thì phải?
- Không đâu.
Hắn kê vai vào cửa, đẩy.
- Coi chừng lấm bẩn quần áo, anh – Cánh cửa cách rìa
độ một tấc. Rìa cửa nhô ra khiến hắn khó có thăng bằng
để lấy sức xô cửa ra.
- Xuống dưới kia đợi đi anh – Dorothy đề nghị – Cửa khóa
ở bên trong rồi?
Hắn nghiến chặt hàm răng. Chân trái tì mạnh nơi rìa
cửa, hắn ra sức đẩy. Tiếng cửa nhẹ kêu, tiếng dây xích
loảng xoảng. Mảnh da trời xanh ngắt đập vào mắt hắn,
mắt hắn nhấp nhóa vì từ trong bóng tối chợt ra ngoài
ánh sáng. Có tiếng đập cánh của chim câu.
Hắn nhấc va li lên, bước qua gờ cửa, lại để va li xuống,
đẩy rộng cửa. Đứng sang bên, đưa tay mời Dorothy, tay kia
chỉ ra mái nhà thênh thang, cử chỉ của hắn nom như cử
chỉ của người hầu bàn chọn cho khách quí chỗ ngồi sang
trọng nhất. Hắn hơi khom người, miệng điểm nụ cười tươi
nhất của hắn:
- Xin cô nương nhẹ bước vào…
Nắm bàn tay hắn, nàng ung dung bước ngang qua gò cửa,
đặt chân lên mái nhà rải đầy hắc ín.
Phần I - Chương 12
Hắn đã bình tâm trở lại. Có một lúc hắn hầu như hốt
hoảng vì không mở được cánh cửa, nhưng trong khoảnh khắc
nó phải khuất phục trước sự quyết tâm, và sức mạnh đôi
vai hắn. Giờ đây hắn đã vững tin. Mọi việc sẽ hoàn
hảo. Không một sơ hở. Không một ai xen vào. Hắn biết rõ
điều đó. Chưa bao giờ hắn cảm thấy thỏa mãn như thế kể
từ khi – lạy Chúa – kể từ khi còn ở nhà trường đến
nay.
Hắn sẽ mở cửa he hé, đề phòng lúc rời khỏi nơi này,
hắn sẽ không gặp một trắc trở nào. Tất nhiên lúc đó
hắn phải gấp rút, nhanh nhẹn. Hắn khẽ cúi người xuống
để có thể xê dịch va li sang một bên, đồng thời tay kia
có thể đẩy cửa đóng lại. Hắn có cảm tưởng cái mũi
bị lệch đi do cử chỉ vừa rồi của hắn. Hắn mũ xuống
để trên va li. “Ôi, mình phải tính toán đủ thứ chuyện
trên đời. Việc chẳng ra gì như cái mũ này đây cũng gây
ra bao phiền toái – Cô gái bị xô ngã và một cơn gió
thổi mạnh hay một sức mạnh vô tình nào đây khiến cái
mũ rơi xuống cạnh thi hài cô gái. Thế là ai kia cũng
phải lao mình theo cái mũ tai quái ấy thôi”. Nhưng với
hắn, chuyện đó không thể xảy ra. Hắn đã tiên liệu, đã
tính toán kỹ lưỡng. Chỉ có bàn tay Thượng đế hay một
sức mạnh vô hình nào đấy – giả dụ vậy thôi – mới có
thể phá hỏng kế hoạch của hắn. Hắn đã không bỏ sót
một chi tiết nào – dù vụn vặt – trong chương trình hành
động của hắn. Hắn vuốt mái tóc – “Giá lúc này mình
có cái gương soi”.
- Lại đây xem cái này anh! – Dorothy gọi hắn. Hắn xoay
người nhìn. Dorothy đứng cách hắn vài thước, lưng quay
về phía hắn, ví kẹp dưới nách, hai tay để trên bao lơn
ở mép mái nhà, thành cao đến thắt lưng. Hắn đến bên
nàng.
- Cái gì đàng kia? – Nàng hỏi hắn.
Họ đang ở phía sau của tòa nhà, mặt hướng về phía nam.
Thành phố trải dài trước mắt, rạng rỡ trong ánh nắng
ban trưa.
- Nhìn kìa – Dorothy reo lên, tay chỉ một đốm xanh đàng xa
tít.
- Khu đại học đó – Hắn để tay lên vai nàng. Bàn tay mang
găng trắng với lên nắm lấy tay hắn.
Khi nàng đưa lên đây, hắn dự định phải hành động chớp
nhoáng, không chần chừ một tích tắc nào hết. Nhưng bây
giờ chẳng cần gì phải vội, hãy chậm rãi, ung dung, lúc
thuận lợi sẽ ra tay. Suốt tuần này, đầu óc hắn lúc
nào cũng bận rộn, không một giây ngơi nghỉ. Nhưng có
phải chỉ một tuần này đâu – hàng năm trời đằng đẵng
rồi. Khi còn ở trung học, hắn đã sống trong trạng thái
căng thẳng, với những lo toan, với những mặc cảm. Bây
giờ không có gì phải vội, không có gì phải hấp tấp.
Hắn nhìn mái đầu đang tựa sát vào ngực hắn, làn tóc
vàng óng ả đầy sức sống, hắn nhè nhẹ thổi vào mái
tóc, vài sợi tóc lất phất bay. Nàng ngoảnh đầu nhìn
hắn, nụ cười tràn trề hạnh phúc.
Lúc nàng quay lại đưa mắt nhìn quang cảnh, hắn nhính
người lên phía trên một chút, tay vẫn đặt trên vai nàng,
nhoài người ra ngoài nhìn xuống bên dưới. Dưới kia mái
ngói cửa hàng đỏ au, ban công giống như hình vỏ nghêu
gác ngang qua tòa nhà. Đó là đỉnh mái nhà của dãy nhà
sau của tầng lầu thứ mười hai. Từ trên nhìn xuống thấy
hết bốn phía của nó. “ Không được rồi – hắn nghĩ thầm,
lượng tính – Chỉ rơi xuống hai tầng thôi sao? Không bảo
đảm”. Hắn đưa mắt quan sát mái nhà đang đứng.
Khoảng đất trên mái nhà rộng chừng một trăm năm mươi feet
vuông (1), một bờ thành bằng đá trắng vây quanh hầm thông
gió vuông vắn độ ba mươi feet ngay giữa mái nhà. Một hồ
chứa nước bên trái. Phía bên phải, tháp KBRI cao chót
vót như một cái tháp Eifel nho nhỏ. Trước mặt hắn chếch
qua bên trái là lối đi vào cầu thang có mái che nghiêng
nghiêng phía trước.
Bên kia hầm thông gió, phía bắc của tòa nhà, cơi lên một
hình chữ nhật khá lớn, mái che hệ thống máy của thang
máy. Khắp mái nhà những ống khói, những ống quạt gió
trông như những đập ngăn nước lũ phủ đầy hắc ín.
Để Dorothy đứng đấy một mình, hắn đi sang phía bờ thành
hầm thông gió. Hắn chồm người nhìn qua. Bốn thành tường
tuột dài xuống mười bốn tầng ở phía dưới, nơi góc
tường chất đầy thùng sắt và thùng gỗ. Hắn đảo mắt
tìm kiếm một lúc trên nền mái nhà, rồi cúi gập người
nhặt lấy một hộp diêm nhạt nhòa vì những trận mưa. Hắn
ném hộp diêm ra khỏi bờ thành, nhìn nó rơi, rơi và chìm
lỉm dưới tít mù bên dưới. Hắn nhìn bức tường quanh hầm
thông gió. Ba phía có cửa sổ. Phía còn lại xây bít
kín. Địa điểm thuận lợi cho công việc của hắn: phía nam
hầm thông gió. Chỗ này gần ngay cầu thang. Hắn vỗ vỗ
lên mặt thành, đôi môi mím lại, trầm ngâm. Bờ thành cao
hơn dự đoán của hắn.
Dorothy đến phía sau ôm lấy cánh tay hắn.
- Nơi đây thật vắng vẻ, yên tĩnh, hả anh? – Nàng nói
nhỏ.
Hắn lắng nghe. Thoạt tiên có cảm tưởng nơi đây im lặng
nhưng sau đó mới nghe tiếng rì rầm ù ù trên mái nhà,
tiếng động của những động cơ thang máy, tiếng cánh quạt
rù rù, tiếng gió thổi vi vu trên những sợi dây cáp của
tháp truyền thanh…
Hắn và nàng chầm chậm đi quanh hầm thông gió, đi qua mái
che hệ thống thang máy. Trong khi đi, Dorothy lấy tay nhẹ
phủi chỗ bẩn trên vai áo của hắn do kê vai đẩy cửa lúc
nãy. Ở phía rìa mép mái nhà hướng bắc, họ nhìn thấy
con sông phản chiếu cả bầu trời cao vời vợi trong dòng
nước xanh thẫm như màu xanh trên những bản đồ vẽ hình
sông biển.
- Anh có thuốc đấy không?
Hắn cho tay vào túi. Tay đụng bao thuốc, nhưng nghĩ sao
hắn lại rút tay không ra khỏi túi.
- Chẳng có điếu nào cả. Em có không?
- Để em xem. Hình như em bỏ đâu đây – Nàng sờ soạng trong
ví, gạt hộp phấn, sáp sang bên – Có thuốc đây anh – Nàng
lấy mỗi người một điếu. Hắn bật diêm châm thuốc cho
nàng và hắn, nàng bỏ bao thuốc vào ví tay.
- Dorrie, anh muốn nói với em điều này… - Nàng đang ngửa
mặt nhả khói lên không, lắng nghe – Về các viên thuốc…
Nét mặt nàng bỗng trắng nhợt, nhìn hắn, miệng nuốt
nước bọt, hỏi:
- Cái gì hả anh?
- Anh mừng thuốc đã không công hiệu – Hắn tươi cười – Anh
mừng thực sự.
Nàng nhìn hắn, chưa hiểu.
- Anh mừng à?
- Rất mừng. Khi gọi dây nói cho đêm qua, anh có ý định
bảo em đừng uống thuốc nữa. Nhưng em đã uống mất rồi.
“Nào thú tội đi, con khốn kiếp – hắn chửi thầm – mày
phải thổ lộ, phải nhận tội. Tao phải giết mày!”.
Giọng nàng run run như sợ hãi, như mừng vui.
- Cái gì khiến anh thay đổi ý định? Tại sao thế? Anh
rất…
- Anh không rõ. Anh đã suy nghĩ kỹ. Anh cũng băn khoăn, nôn
nóng trong việc cưới hỏi như em vậy – Hắn ngước mắt
nhìn thấy đôi má nàng hồng hào lại, ánh mắt sáng ngời
lên. – Hơn nữa, anh nghĩ hành động thế là có tội.
- Anh nghĩ vậy thật sao anh? – Giọng nàng như nghẹt thở –
Anh mừng thật sao anh?
- Tất nhiên. Anh đã không nói nếu anh không nghĩ thế.
- Ôi lạy Chúa!
- Chuyện gì thế, Dorrie?
- Anh… em nói anh đừng… đừng giận nhá. Em… em không uống
thuốc.
Hắn làm ra vẻ ngạc nhiên. “Đến giờ rồi đấy mày ạ –
hắn nghĩ ”.
- Anh có nói là anh sẽ làm việc vào ban đêm và em thấy
rõ chúng ta có thể xoay sở cuộc sống một cách tốt
đẹp. Do đó… Em biết làm thế là không đúng, là cãi lời
anh – Nàng ngừng, đưa mắt nhìn hắn – Anh không giận em,
phải không anh? – Giọng nàng trở nên khẩn khoản – Anh có
hiểu em không?
- Hiểu, bé yêu của anh. Anh không hề giận. Anh đã nói
với em anh vui mừng vì thuốc không hiệu nghiệm.
Nàng mỉm cười nhẹ nhõm:
- Em thấy bứt rứt trong người vì đã dối trá với anh. Em
đã nghĩ không bao giờ nói cho anh nghe điều ấy được… Em
thật không ngờ.
Hắn lấy khăn tay chậm nước mắt cho nàng, những giọt
nước mắt hối hận và hạnh phúc.
- Dorrie, em đã làm gì với những viên thuốc?
- Em ném mất rồi – Nàng cười bẽn lẽn.
- Ở đâu em? – Hắn hỏi như vô tình, vừa bỏ khăn tay vào
túi trước ngực.
- Nhà vệ sinh.
Đấy là điều hắn cần nghe. “Lý do nó còn sống là thế.
Khốn kiếp”. Hắn ném mạnh điếu thuốc, lấy chân dẫm nát.
Dorothy hít hơi cuối cùng rồi cũng ném đi.
- Ôi – Nàng kêu lên sung sướng – Em hạnh phúc quá!
Hắn khẽ ôm nàng, nhẹ hôn phớt lên đôi môi ngọt lịm hạnh
phúc kia.
- Ừ, cuộc đời quả thật tuyệt diệu – Hắn đồng tình.
Hắn nhìn xuống hai điếu thuốc trên sàn, đót thuốc của
nàng còn dính son môi, của hắn thì không. Nhặt mẩu
thuốc của mình lên, hắn lấy tay bẻ gãy để cho thuốc rơi
ra, rồi vo tròn giấy thuốc ném qua bờ thành.
- Trong quân đội, bọn anh thường làm thế – Hắn phân trần.
Nàng nhìn đồng hồ tay: một giờ kém mười.
- Đồng hồ của em hơi nhanh – Hắn nói, liếc nhìn đồng hồ
nơi tay hắn – Còn đến mười lăm phút. Hắn nắm tay nàng,
kéo nàng đi.
- Anh đã nói với bà chủ nhà chưa?
- Cái… à, à xong rồi – Họ đi qua cái mái che hệ thống
thang máy – Thứ hai đến, em dọn đồ ở chỗ em về được
rồi.
Dorothy nhoẻn miệng cười hớn hở.
- Bọn con gái ở cư xá sẽ ngạc nhiên lắm, anh nhỉ? – Hắn
và nàng đi sang phía bờ thành hầm thông gió – Anh xem
liệu bà chủ nhà có đồng ý nới rộng thêm chỗ ở cho
mình không?
- Anh nghĩ bà ta sẽ bằng lòng thôi.
- Em sẽ bỏ lại một ít đồ dùng không cần thiết lắm và
những đồ dùng mùa đông, trên rầm thượng cư xá. Chẳng có
đồ đạc gì nhiều lắm đâu.
Hắn và nàng đi đến cửa phía nam của hầm thông gió. Hắn
dựa lưng vào bờ thành, đưa tay ra sau bấu vào thành,
nhảy nhót lên ngồi, hai chân bám chặt vào thành tường.
- Đừng ngồi thế! Nàng kêu lên, giọng đầy sợ hãi.
- Sợ cái gì – Hắn nói, đưa mắt nhìn mặt thành – rộng
đến ba tấc. Cũng như em ngồi trên ghế đá vậy thôi. – Hắn
lấy tay vỗ vỗ chỗ ngồi bên phía trái hắn – Ngồi lên em.
- Không, em sợ lắm – Nàng lắc đầu từ chối.
- Nhát như thỏ.
Dorothy rờ mép thành.
- Quần áo em… - Nàng ngập ngừng. Hắn rút chiếc khăn tay
ra, trải rộng trên mặt thành đá.
- Thế chứ – Hắn âu yếm choàng tay qua ôm eo nàng. Nàng
quay đầu ra sau vai nhìn – Em đừng nhìn xuống, sẽ chóng
mặt, em à.
Hắn để cái ví của nàng phía tay phải hắn. Cả hai ngồi
nói năng gì. Tay nàng vẫn còn bám vào thành tường. Sau
lưng phía cầu thang một đôi chim đang nhè nhẹ đi ra, nhìn
hai người e dè, dấu chân của chúng mờ mờ in trên mặt
hắc ín.
- Anh gọi điện thoại hay là viết thư cho mẹ anh?
- Anh chứ tính.
- Em sẽ viết thư cho chị Ellen và ba em. Chuyện này khó
nói qua điện thoại lắm.
Tiếng cánh quạt kêu lạch cạch. Lát sau, hắn bỏ tay đang
ôm eo nàng ra, rồi đặt trên bàn tay đang bấu vào mép
thành của nàng. Tay kia hắn cũng chống lên mặt tường và
nhanh nhẹn nhảy xuống. Trước khi nàng có thể làm như
hắn thì hắn đã vội quay phắt lại, đối diện với nàng,
bụng hắn tựa vào hai đầu gối của nàng, hai tay cầm lấy
hai tay nàng. Hắn cười nhìn nàng đắm đuối. Nàng cười
lại. Hắn đưa mắt nhìn xuống bụng nàng:
- Bà mẹ nhỏ bé của anh!
Nàng cười e thẹn.
Bàn tay hắn lần đến đầu gối nàng, chụm lại nơi đấy,
những ngón tay dưới chiếc váy mơn man làn da mát rượi
của nàng.
- Mình đi xuống dưới, anh.
- Chốc nữa thôi, em yêu. Mình còn nhiều thì giờ lắm.
Aùnh mắt hắn chạm phải ánh mắt nàng. Hắn đăm đăm nhìn
nàng trong khi hai tay của hắn chuyển dần dần xuống bắp
chân nàng. Trong tầm nhìn, hắn vẫn thấy đôi bàn tay nàng
bám vào thành tường.
- Aùo em thật đẹp – Hắn tán tỉnh, nhìn cái nơ bằng lụa
nơi cổ áo nàng – Aùo mới hả em?
- Đâu có, cũ mèm rồi.
Hắn nhìn có vẻ dò xét.
- Cái nơ của em bị lệch sang một bên – Hắn thấy một bàn
tay rời khỏi thành tường, đưa lên sửa thắt nơ – Không
được. Em càng làm nó lệch hơn nữa – Hắn bảo nàng. Lại
một bàn tay nữa rời khỏi mép tường.
Đôi bàn tay hắn nhẹ vuốt xuống cổ chân nàng, chân phải
khẽ nhích ra sau, nhón chân, chuẩn bị… Hắn nín thở.
Hai tay nàng đang sửa lại thắt nơ.
- Được chưa…
Như con rắn hổ mang, hai tay hắn thoắt nhanh nhẹn nắm lấy
gót chân nàng, giật mạnh chân nàng ra, hất lên cao. Trong
tích tắc kinh hoàng, bốn mắt chạm nhau, một tiếng kêu
thét bậc ra khỏi cổ họng nàng. Lấy hết sức, hắn nắm
hai chân tê dại của nàng đẩy mạnh, xô nàng qua khỏi bờ
thành. Tiếng thét đau thương, hãi hùng của Dorothy dội
lại nơi nhà thông gió tựa hồ như sợi dây điện rực đỏ
lên. Hắn nhắm nghiền mắt. Tiếng thét nhỏ dần, nhỏ dần,
lịm đi rồi tắt ngấm. Có tiếng loảng xoảng nhẹ vang,
hắn chợt nhớ những thùng sắt, thùng gỗ chất đầy bên
dưới.
Hắn mở choàng mắt ra, thấy chiếc khăn tay gió thổi cuộn
bay nhè nhẹ trên mái nhà trát đầy hắc ín. Hắn vội đến
nhặt lên, rồi chạy bổ về phía cầu thang, tay chộp lấy
chiếc mũ và va li; tay xô mạnh cánh cửa, lấy khăn lau
nắm cửa như hắn đã từng làm. Bước vào. Đóng cửa. Lau
nắm cửa bên trong. Quay lưng vụt chạy.
Hắn trượt nhanh trên những nấc thang bằng kim loại màu
đen, va li chạm vào chân, mu bàn tay cháy bỏng trên thành
cầu thang. Tim hắn nhảy thình thịch như muốn bung ra khỏi
lồng ngực vạm vỡ của hắn, những bức tường múa may
khiến hắn chóng mặt. Cuối cùng hắn đã ở nơi sàn thang
máy thứ bảy. Hắn ôm trụ cầu thang, hơi thở hổn hển,
dồn dập. Ý nghĩ “thư giãn sự căng thẳng của cơ thể”
nhảy múa trong đầu hắn. Đấy là lý do tại sao hắn phải
chạy như thế – thư giãn sự căng thẳng của cơ thể, chứ
không phải là hắn sợ hãi. Hắn không sợ! Hắn điều hòa
hơi thở. Để va li xuống, hắn vuốt lại cái mũ đã nhàu
nát trong tay lúc chạy. Hắn đội mũ lên, tay hơi run run.
Hắn nhìn bàn tay, lòng bàn tay lấm bẩn vì gót chân
giày… Lấy khăn lau tay rồi nhét vào túi, sửa lại áo
quần ngay ngắn, rồi hắn xách va li, mở cửa bước vào
hành lang.
Mọi cửa đều mở toang. Người người chạy ùa, đổ xô về
các khung cửa sổ nhìn về phía hầm thông gió. Những
người bán hàng, mặt mày hớt hải, những cô thư ký tay
còn ôm chồng hồ sơ, những người đàn ông tay áo xoắn lên,
mắt đeo kính, hàm răng ghiến chặt, mặt xanh như tàu lá.
Hỗn loạn. Hắn tiến về phía thang máy, bước chân bình
thản, đôi lúc đứng dừng lại khi người nào đấy đâm bổ
về hắn, rồi hắn lại tiếp tục đi như một người nhàn
tản, thờ ơ mọi chuyện. Ngang qua những va8n phòng, hắn
đưa mắt nhìn vào bên trong, thấy những tấm lưng đang
nhoài ra ngoài cửa sổ, tiếng nói rì rào, đầy xúc
động.
Hắn đến phòng thang máy. Đợi. Một thang máy đang trồi
lên. Hắn đến bên cửa. Một vài người nhỏ to trao đổi tin
tức cho nhau, cái giá lạnh nơi thang máy loãng ra vì
những tấm lưng mạnh mẽ.
Nơi đây toát lên một vẻ bình thường dễ chịu. Hầu hết
mọi người từ bên ngoài vào, không ai bận tâm đến sự
huyên náo quanh mình. Nhẹ vung vẩy va li, hắn băng ngang
qua khu hành lang rộng lát đá hoa, bước vào cuộc sống,
hòa mình vào sự náo nhiệt của một buổi trưa oi ả. Khi
hắn theo những bậc thềm trước tòa nhà xuống đường, hai
người cảnh sát băng băng đi lên. Hắn ngoái đầu lại nhìn,
thấy hai bộ đồng phục khuất sau cánh cửa xoay. Xuống
hết bận thềm, hắn dừng lại, nhìn đôi tay lần nữa. Bàn
tay chắc nịch. Không một chút run rẩy. Hắn bỗng muốn
cười lên. Nhìn cánh cửa xoay, hắn tự hỏi có gì nguy
hiểm không nếu hắn trà trộn vào đám đông hiếu kỳ để
nhìn nàng… Nhưng hắn bỏ ý định đó.
Một chiếc xe buýt chạy trên tuyến đường Đại học đang
trờ đến. Hắn sải hai bước đến góc đường, nơi xe buýt
dừng lại khi đèn đỏ. Vung người nhảy lên thềm xe ngoài
cửa, bước lên, bỏ tiền vào hộp. Qua cửa sổ, hắn đứng
nhìn đường phố. Một xe cứu thương ụ còi inh ỏi vụt
lướt qua. Chiếc xe màu trắng nhỏ dần, cắt ngang đường,
đậu trước thềm nhà Hành chính. Hắn không thấy gì nữa.
Phần I - Chương 13
Buổi cổ động tranh giải bóng rổ bắt đầu lúc chín giờ
tối hôm đó tại một khu đất trống cạnh sân vận động
trường, nhưng cái tin một sinh viên nội trú tự tử (như
báo Clarion đã tường thuật: nạn nhân rơi từ trên tầng cao
xuống) đã khiến cho buổi cổ động trầm hẳn lại. Trong
ánh lửa chập choạng, các sinh viên, đặc việt là nữ sinh
viên, trải cha8n lên nền đất, tụm lại bàn tán xôn xao.
Người dìu dắt đội bóng và các thành viên trong ban cổ
động không làm cách nào cho buổi vận động sôi nổi hào
hứng lên được. Họ đốc thốc các nam sinh viên đổ thêm
dầu, ném thùng gỗ, bìa thêm vào; ngọn lửa bốc cao
tưởng chừng như đống củi bổ nhào xuống nhưng rất may
không có chuyện gì xảy ra. Tiếng reo hò chìm lắng lại
khi tên các vận động viên của đội bóng nhà trường được
xướng lên.
Chưa lần nào tham dự các cuộc cổ động trước đây, nhưng
lần này hắn hăm hở tham gia. Hắn đi trên con đường tối
đen trên tay ôm một thùng bìa lớn.
Trưa nay hắn đã dọn sạch chiếc va li của Dorothy, giấu
áo quần của nàng dưới tấm nệm giường trong phòng hắn.
Dù hôm nay thời tiết ấm áp, hắn cũng khoác lên người
áo măng tô sau khi đã nhét trong túi áo nào là chai lọ,
nào là đồ trang điểm. Hắn ra khỏi phòng với chiếc va li
mà hắn đã xé bỏ cái nhãn ghe địa chỉ của Dorothy ở
New York và ở Blue River. Hắn xuống phố và ký gửi tại
kho hàng ở trạm xe buýt cuối cùng. Từ đấy hắn đi bộ
đến cây cầu trên đường Morton. Ở đó hắn ném chìa khóa,
và số chai lọ xuống dòng nước đục ngầu. Hắn mở nút
chai ra để nước tràn vào, để chúng khỏi nổi lềng bềnh
trên mặt nước. Trên đường về nhà, hắn tạt vào một cửa
hàng bán tạo hóa chọn mua một thùng bìa không, đã bạc
màu, gập bằng lại.
Hắn ôm thùng bìa, đến nơi tụ tập cổ động viên và chen
lấn vào giữa những khuôn mặt chập chờn trong ánh lửa
lung linh rtong màn đêm… Hắn len qua những cái chăn, những
đôi chân mặc quần jean, đến khoảng đất trống nơi đống
lửa đang bập bùng cháy.
Hơi nóng và ngọn lửa hừng hực trong khu đất hắt ra. Hắn
đứng nhìn đăm đăm ngọn lửa một chốc. Bỗng người dìu
dắt đội bóng và người lãnh đạo việc cổ động từ bên
kia khu đất chạy sang.
- Đây, chính cậu này – Họ gào to lên rồi giật mạnh tấm
bìa trên tay hắn.
- A – Người dẫn dắt đội bóng la lớn, đưa cao thùng bìa
được ép bằng phía trên – không phải thùng không!
- Sách… sách cũ.
- A, tuyệt cú mèo – Người hướng dẫn đội bóng nhìn
những người đang vây quanh – Coi chừng! Coi chừng đấy! Đốt
sách nhé! – Một số sinh viên bỏ dở câu chuyện, nhìn
người dìu dắt đội bóng và một người khác đang cầm hai
đầu thùng đong đưa qua lại hướng về đống lửa đang ngùn
ngụt cháy.
- Ném lên trên chóp nhé – Người kia hét to – Nào… Đừng lo
anh bạn. Không trật đâu. Đốt sách là một biến cố quan
trọng đấy nhé. Một! Hai! A lê hấp!… - thùng bìa vụt bay
lên, rơi bịch ngay trên chóp, những đốm lửa bắn tung tóe.
Mọi người vỗ tay reo hò, tán thưởng.
- Aø thằng Ali đến kia rồi, có mang theo kiện hàng nữa
chứ – Người kia lại la lên, mừng rỡ, tuôn chạy sang phía
bên kia, người dìu dắt đội bóng chạy liền sau.
Hắn nhìn thùng bìa cháy đen, lửa đã liếm khắp các
phía. Bất chợt đống lửa chao đảo làm những tàn lửa
bắn vung vãi. Một tàn lửa rơi cạnh hắn, hắn nhảy bật
ra đàng sau. Những đốm lửa bám vào ống quần của hắn,
hắn lấy tay phủi liên hồi, bàn tay vung vẩy trong ánh
lửa hừng cháy.
Khi phủi xong, hắn ngước mắt nhìn xem thùng bìa còn trên
đó không. Vẫn còn nguyên. Lửa đang liếm lên phía trên.
“Giờ thì những thứ đựng trong ấy đã cháy ra tro” – Hắn
nghĩ.
Trong thùng bìa hắn bỏ sách bào chế, sách của công ty
Kingship Copper, giấy tờ và đồ dùng của Dorothy trong va
li: một ít đồ dùng chuẩn bị đi hưởng tuần trăng mật,
chiếc áo dài mặc đi dự tiệc, khăn tay, đôi giày vải, áo
ngủ còn thoảng mùi nước hoa của nàng… Vĩnh biệt!
Phần I - Chương 14
CLARION – LEDGE, BLUE RIVER, thứ sáu 28-4-19…
MỘT SINH VIÊN NỘI TRÚ TỪ LẦU RƠI XUỐNG CHẾT. CÁI CHẾT
THẢM KHỐC CỦA CON GÁI TRÙM TƯ BẢN ĐỒNG TẠI TÒA HÀNH
CHÍNH.
Dorothy Kingship, mười chín tuổi, sinh viên năm thứ hai
trường đại học Stoddard, đã chết ngày hôm nay vì ngã
hoặc nhảy từ tầng lầu thứ mười bốn của tòa nhà Hành
chính. Nạn nhân là một cô gái tóc vàng xinh đẹp, gia
đình ở New York, con gái út của Leo Kingship, chủ tịch
công ty King ship Copper.
Vào lúc mười hai giờ năm mươi tám phút trưa nay, công nhân
trong tòa nhà bỗng nghe một tiếng thét rùng rợn và một
sự va chạm dữ dội. Tiếng thét phát xuất từ hầm thông
gió trên tầng mười bốn. Họ liền đổ xô chạy đến bên bên
cửa sổ và nhìn thấy khuôn mặt nhăn nhúm méo mó của
một thiếu nữ. Bác sĩ Harvey C. Hess, ở số 57 khu
Woodbridge, lúc ấy cũng có mặt trong hành lang đã đến
nơi xảy ra tai nạn ngay sau đó. Bác sĩ xác nhận nạn nhân
đã chết.
Cảnh sát đã đến và đã tìm thấy cái vì màu hồng trên
mặt thành tường cao khoảng một thước. Trong ví có một
tờ giấy khai sinh, một thẻ ghi danh ở đại học Stoddard –
nhờ thế mới truy ra được tông tích nạn nhân. Cảnh sát
còn tìm thấy một mẩu thuốc mới hút còn dính sáp môi
của nạn nhân, do đó cảnh sát đã đến kết luận là nạn
nhân đã ở trên mái nhà vài phút trước khi nhảy xuống
kết liễu cuộc đời.
Rex Cargill, người phụ trách thang máy, nói với cảnh sát
rằng ngay trước khi xảy ra thảm kịch, anh đã đưa cô gái
đến tầng sáu hay bảy gì đấy anh không nhớ chính xác
lắm. Một người phụ trách khác – Andrew Vecci, cho biết
anh đã đưa một thiếu nữ ăn mặc giống như nạn nhân lên
tầng 14 nhưng không rõ là cô gái vào thang máy từ tầng
lầu thứ mấy.
Viện trưởng đại học Stoddard – Clack D. Welch – cho biết cô
Kingship là một sinh viên khá xuất sắc. Các nữ sinh viên
cư xá còn đang bàng hoàng vì cũng không biết rõ nguyên
nhân nào đã dẫn đến cái chết của bạn mình – “Chẳng ai
biết rõ chị ấy lắm” – Một nữ sinh viên tuyên bố.
CLARION – LEDGE, BLUE RIVER, thứ bảy 29-4-19…
CÁI CHẾT CỦA NỮ SINH VIÊN NỘI TRÚ LÀ VỤ TỰ TỬ – NGƯỜI
CHỊ CỦA CÔ GÁI NHẬN ĐƯỢC BỨC THƯ
Cái chết của Dorothy Kingship, sinh viên đại học Stoddard,
đã rơi từ mái nhà của tòa Hành chính vào trưa hôm qua
là một vụ tự tử. Cảnh sát trưởng Eldon Chesser đêm qua
đã khẳng định với các nhà báo như thế. Một lá thư
viết tay không có chữ ký được xác nhận là của nạn nhân
đã gởi đến người chị – cô Ellen Kingship, sinh viên đại
học Caldwell, Wisconsin. Mặc dù nội dung lá thư không được
công bố, cảnh sát trưởng Chesser vẫn kết luận đó là
một trường hợp tự tử có chủ ý. Lá thư đã được gửi đi
từ thành phố này, dâu bưu điện ghi lúc 6 giờ 30 sáng hôm
qua.
Vừa nhận được thư, Ellen Kingship đã thử liên lạc với em
bằng điện thoại. Sau đó điện thoại đã chuyển sang cho
ông viện trưởng đại học Stoddard. Ông đã báo tin buồn cho
cô. Ellen tức tốc đến Blue River ngay đêm qua. Leo Kingship,
cha của nạn nhân, cũng sẽ đến đây nay mai bởi vì máy bay
của ông bắt buộc phải đáp xuống Chicago, do thời tiết
xấu.
NGƯỜI CUỐI SÙNG NÓI CHUYỆN VỚI NẠN NHÂN: NẠN NHÂN TRONG
TRẠNG THÁI KHỦNG HOẢNG THẦN KINH.
Tường thuật của LAVERN BREEN
“Chị ấy cười mãi khi ở trong phòng của tôi. Tôi nghĩ
chị ấy đang hạnh phúc vì một chuyện gì đó, nhưng bây
giờ tôi mới hiểu đó là triệu chứng khủng hoảng thần
kinh của chị. Lúc đó lẽ ra tôi phải nhận ra mới phải
vì tôi rất sành khoa tâm lý.
Đấy là lời tường thuật của cô Anndbelle Koch, sinh viên
năm thứ hai đại học Stoddard, về thái độ của Dorothy
Kingship hai giờ trước khi chết.
Cô Koch, sinh ở Boston, là một cô gái nhỏ nhắn, xinh đẹp.
Hôm qua cô phải ở lại phòng vì cảm sốt. “Dorothy gõ cửa
phòng tôi vào lúc mười một giờ kém mười lăm. Tôi đang
nằm trên giường thì chị ấy vào, tôi hơi ngạc nhiên bởi
vì chúng tôi không thân lắm. Như tôi đã nói, chị ấy cười
hoài và đi quanh trong phòng. Chị ấy mặc áo choàng tắm.
Chị ấy muốn hỏi mượn tôi cái thắt lưng của bộ quần áo
xanh lục. Tôi cũng xin nói la hai chúng tôi có hai bộ áo
màu xanh lục giống nhau. Tôi mua ở Boston, chị ấy mua ở
New York, nhưng hai bộ giống nhau như khuôn đúc. Đêm thứ
bảy vừa qua, vô tình hai chúng tôi cùng mặc đi ăn tối.
Hai chúng tôi đều thấy ngường ngượng thế nào ấy. Chị
ấy ngại ngần hỏi mượn thắt lưng của tôi vì theo chị ấy
nói thắt lưng của chị ấy đã bị hỏng. Thoạt tiên tôi do
dự vì đấy là bộ áo mới mua để mặc vào mùa xuân. Nhưng
sau thấy chị ấy tha thiết muốn mượn nên tôi phải chỉ
ngăn kéo cho chị ấy. Chị cảm ơn rối rít và ra khỏi
phòng” – Nói đến đây cô Koch ngừng, sửa cặp kính mắt – “
Và đây mới là điều lạ lùng. Sau này khi cảnh sát đến
phòng chị ấy để tìm lá thư gì đó, họ tìm thấy cái
thắt lưng của tôi trên bàn học của chị. Tôi nhận ra thắt
lưng đó vì cái khuy màu vàng ở cuối bị chợt. Tôi đã
lấy làm tiếc vì đấy là bộ áo quần đắt tiền nhất của
tôi. Hiện nay cảnh sát vẫn còn giữ chiếc thắt lưng ấy.
Tôi rất băn khoăn về hành động của Dorothy. Chị ấy giả
vờ đến mượn thắt lưng vì chị đâu có dùng nó. Chị ấy
đã mặc bộ áo quần anh lục của chị… khi sự việc cảy
ra. Cảnh sát đã xem xét chiếc thắt lưng, khóa nịt của
chị và thấy không hư hỏng gì. Hình như đó là một điều
bí ẩn.
Sau này tôi mới vỡ lẽ, chị hỏi mượn thắt lưng chỉ là
một cái cớ, cái cớ để trò chuyện với tôi. Có thể khi
trải bộ áo mới của mình ra, chị ấy sực nhớ đến tôi
vì ai cũng biết tôi đang nằm liệt giường vì cảm sốt,
nên làm như vào mượn thắt lưng. Giá lúc đó, tôi thông
minh nhận ra việc đó thì chắc chắn tôi có thể gợi cho
chị thổ lộ tâm sự và hẳn đã không xảy ra cớ sự...”
Phần I - Chương 15
Hắn thấy sáu tuần cuối cùng của năm học thật tẻ ngắt,
vô vị. Hắn đã chờ đợi sự xôn xao trong khu đại học sẽ
kéo dài do cái chết của Dorothy như làn chớp sáng của
tên lửa trong không gian nhưng sự kiện đó lắng xuống quá
nhanh. Hắn dự đoán sẽ còn nhiều chyện xoay quanh cái
chết đó trong sinh hoạt ở đại học, trên báo chí và rất
đỗi tự hào là người am tường hơn ai hết về cái chết
đó nhưng thay vào đấy – chẳng có gì xảy ra nữa. Mọi
người hầu như quên ngay câu chuyện của Dorothy. Ba ngày sau
cái chết của nàng, câu chuyện bỗng hướng về việc phát
hiện hàng tá thuốc cần sa ở một cư xá nào đấy. Báo
chỉ loan một tin rất ngắn việc Leo Kingship đến Blue River
và đó là lần cuối cùng tên ông ta xuất hiện trên báo
chí ở đây – trên tờ Clarion – Ledge. Không một dòng đá
động đến việc xét nghiệm tử thi, không một chữ đụng
đến việc Dorothy có thai, mặc dù khi một cô gái chưa
chồng tự tử và chưa tìm ra nguyên nhân thì công việc đầu
tiên cảnh sát phải làm là tiến hành một cuộc điều tra.
Hẳn Leo Kingship đã tốn không ít tiền để bịt miệng báo
chí.
Hắn cũng lấy làm mừng. Nếu có sự điều tra nào, dứt
khoát hắn sẽ bị cảnh sát gọi đến thẩm vấn. Nhưng
không. Thẩm vấn cũng không thấy đâu. Nghi ngờ cũng không
có. Nghĩa là sự việc đã cho trôi qua, đã cho vào quên
lãng. Ngoại trừ cái thắt lưng mà cô Koch nào đó đã đề
cập đến. Hắn thắc mắc vô cùng. Tại sao Dorothy lại mượn
cái thắt lưng kia? Có thể Dorothy muốn tâm sự với ai về
chuyện đám cưới chăng? Có thể Dorothy suy nghĩ thế nào
đấy nên thôi chăng? Lạy Chúa! Hoặc cái thắt lưng của
nàng hư thật nhưng đã cho sửa lại rồi cũng nên? Tuy nhiên
gì đi nữa, vấn đề cũng không quan trọng. Câu chuyện của
cô gái tên Koch chỉ tô vẽ thêm, củng cố thêm kế hoạch
hoàn hảo, tuyệt vời của hắn. Hắn nghĩ giờ đây hắn có
quyền thong dong đi trong cuộc đời, mỉm cười với thiên
hạ, có quyền tự thưởng cho hắn một chai rượu Champagne.
Nhưng trái lại, thay vào đó là nỗi cánh chường, buồn
thảm, tuyệt vọng. Hắn cũng không rõ lý do tại sao thế?
Tâm trạng rã rời ấy lại trở nên trầm trọng hơn khi hắn
về lại Menasset vào đầu tháng sáu. Hắn lại về nơi đây,
nơi mà mùa hè nào cô gái kia đã tàn nhẫn báo tin người
tình của cô đã hồi hương, nơi mà mới đây hắn đã lẩn
trốn chia tay với người tình góa bụa đó. Cái chết của
Dorothy là phương sách tự vệ của hắn. Toàn bộ kế hoạch
của hắn cũng không mang lại cho hắn một chút sự thanh
thản nào trong tâm hồn.
Với mẹ hắn, hắn cũng thấy không còn chịu đựng được
nữa. Thư từ qua lại với trường học chỉ còn giới hạn
bằng những bưu ảnh hàng tuần. Mẹ hắn cứ quấy rầy hắn
mãi bằng những câu hỏi: “Con có chụp hình với các cô
gái con quen biết không? (Với hy vọng đấy là những cô
gái đẹp nhất hắn theo đuổi). Con có tham gia câu lạc bộ
này, con có sinh hoạt câu lạc bộ kia không? (Với hy vọng
hắn là chủ tịch của một câu lạc bộ). Con xếp hạng thứ
mấy trong môn triết, môn tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha? (Với
hy vọng hắn dẫn đầu các môn học đó)”. Một ngày kia hắn
không sao giữ được bình tĩnh nữa.
- Mẹ phải biết con đâu phải là ông vua trên cõi đời này
chứ! – Từ căn phòng hắn đã hét lên giận dữ.
Hắn nhận làm việc trong dịp hè; một phần hắn cần
tiền, một phần ở nhà suốt ngày với bà mẹ khiến hắn
đâm ra bực bội. Tuy vậy công việc cũng không giúp hắn rũ
bỏ những ưu phiền, chán nản trong hắn. Hắn làm việc
tại cửa hàng bán kim chỉ, đồ dùng ở đó thiết kế hiện
đại, tối tân. Quầy hàng bằng kính gắn chặt với những
miếng đồng bóng nhoáng.
Vào trung tuần tháng bảy, hắn bắt đầu trút bỏ được tâm
trạng chán chường kia. Hắn vẫn còn giữ những mẩu báo
viết về cái chết của Dorothy, cất trong một hộp sắt
được khóa cẩn thận để trong phòng ngủ của hắn. Có một
lần hắn đem ra đọc lại, buồn cười về lời khẳng định
của viên cảnh sát trưởng khù khờ Chesser, về sự dài
dòng của cái cô có tên là Koch ấy.
Hắn bới tìm phiếu mượn sách ở thư viện và xin cấp cái
gì mới. Hắn đọc ngấu ghiến quyển Nghiên cứu các vụ
giết người của Pearson; Giết vì tư lợi của Bolitho; bộ
sách Những vụ giết người ở địa phương. Hắn đọc Landru,
Smith, Pritchard, Crippen. Những người đã từng thất bại
trong lĩnh vực mà hắn đã thành công. Dĩ nhiên đó là
những thất bại trong sách vở. Thượng đế phải biết còn
có biết bao nhiêu là sự thành công trên đời chứ. Tuy thế
vẫn còn có những thất bại ê chề.
Đến bây giờ hắn vẫn còn nghĩ đến những gì đã xảy ra
ở tòa nhà Hành chính: Cái chết của Dorothy! Nhưng giờ
hắn đang nghĩ đến “Kẻ đã giết Dorothy”.
Đôi lúc hắn nằm trên giường đọc đôi bài tường thuật trên
báo chí, trong sách, những phỏng đoán kéo đến xâm chiếm
cả đầu óc hắn. Hắn thường thức dậy, ngắm mình trong
gương. Hắn nghĩ: “Thôi đừng bận tâm đến “Tên sát nhân”
nữa”. Có một lần hắn la lớn: “Mày hãy quên cái thằng
giết người đó đi”. Nói cho cùng ta vẫn chưa giàu có. Ồ,
ta mới hai mươi bốn tuổi, còn trẻ chán!
Phần Hai - ELLEN
Phần II - Chương 1
Thư của Annabelle Koch gửi cho Leo Kingship
Cư xá nữ sinh viên
Đại học Stoddard, Blue River Iowa
Ngày 5 tháng 3 năm 19…
Kính thưa bác Kingship,
Cháu nghĩ bác sẽ thắc mắc không hiểu cháu là ai, trừ
phi bác nhớ đã đọc thấy tên cháu trên báo chí. Cháu là
cô gái cho Dorothy, con gái bác, mượn thắt lưng. Cháu là
người cuối cùng chuyện trò với Dorothy. Cháu thật tâm
không muốn gợi lại nỗi đau khổ này nơi bác nhưng cháu
có câu chuyện cần phải thưa với bác.
Như bác biết, Dorothy và cháu có bộ áo quần màu xanh
lục rất giống nhau. Chị ấy đến phòng cháu mượn cái
thắt lưng. Cháu đã cho chị ấy mượn; về sau cảnh sát đã
tìm thấy (hoặc cháu nghĩ là như thế) thắt lưng đ1o ngay
trong phòng Dorothy. Cảnh sát giữ cái thắt lưng hơn một
tháng rồi mới hoàn trả lại cho cháu. Thời gian đó quá
trễ nên mùa vừa qua cháu không mặc bộ đồ ấy.
Mùa xuân đang trở lại, hôm qua cháu đem bộ đồ ra mặc
thử. Thật vừa vặn, thưa bác. Nhưng khi mang thắt lưng
vào, cháu rất đỗi ngạc nhiên vì đấy lá cái thắt lưng
của Dorothy. Bác biết không, thắt lưng nới rộng đến hai
khuy, cháu không sao mang vừa được.dorothy mảnh khảnh,
cháu càng mảnh khảnh hơn. Thú thật, cháu rất gầy. Tuy
nhiên chắc chắn là cháu không sút cân vì cháu mặc bộ
áo rất vừa vặn như đã thưa với bác ở trên. Thắt lưng
của Dorothy, bác ạ. Khi cảnh sát giao lại cho cháu,
thoạt tiên cháu nghĩ đó là thắt lưng của cháu bởi vì
khóa nịt bị tróc sơn như cái của cháu. Sự trùng hợp
đó cháu nghĩ chắc là vì cả hai cùng do một nơi sản
xuất ra.
Vì một lý do nào đấy Dorothy không thể mang cái thắt
lưng của mình nên phải mượn của cháu, dù thắt lưng của
chị ấy không hư hỏng tí nào. Cháu thật không hiểu nổi.
Lâu nay cháu cứ cho là Dorothy muốn nói chuyện với cháu
nên viện cớ như vậy.
Bây giờ đã biết đó là thắt lưng của Dorothy thì cháu
không thể nào mang được. Không phải cháu tin dị đoan đâu,
thưa bác; nhưng nói cho sùng nó không phai của cháu, nó
thuộc về Dorothy đáng thương. Cháu đã định ném đi nhưng
thấy làm thế là không phải. Cháu xin gửi lại cho bác
trong gói hàng riêng và bác giữ hoặc sử dụng thế nào
đó tùy bác.
Bộ áo quần xanh lục kia cháu vẫn mặc vì năm nay ở đây
các cô gái đều mang thắt lưng to bản làm bằng da cả.
Cháu xin kính chào bác.
Thư của Leo Kingship gởi cho Ellen Kingship
Ngày 8 tháng 3 năm 19…
Ellen con,
Ba mới nhận được thư của con. Ba xin lỗi không trả lời
cho con sớm hơn được vì công việc ở công ty quá bề bộn.
Hôm qua là thứ tư, Marion đến đây ăn cơm tối với ba. Trông
chị con không được khỏe lắm. Ba đưa thư của Koch cho chị
con xem và Marion đề nghị gởi thư này cho con. Con hãy
đọc thư này trước, sau đó đọc thư của ba.
Marion nói với ba rằng con lúc nào cũng bị dày vò dằn
vặt kể từ khi Dorothy qua đời đến nay vì con nghĩ chính
sự bô tâm của con là nguyên nhân gây ra cái chết của
Dorothy. Cau chuyện kể của Koch, cũng theo Marion, khiến
con tưởng lầm rằng con là người Dorothy tha thiết muốn
tâm sự và nếu như con không xô đuổi thì em con đã không
đến nỗi hành động dại khờ như thế.
Ba tin Marion đúng bởi vì những gì chị con nói có thể
giải thích được thái độ và nỗi lòng sâu kín của con.
Trong những ngày tháng tư vừa qua, con vẫn bướng bỉnh
không chịu chấp nhận cái chết của Dorothy là một trường
hợp tự tử, dù bức thư là một bằng chứng hiển nhiên
không sao chối cãi được. Con có cảm tưởng con phải gánh
lấy một phần trách nhiệm nếu em con quyên sinh nên những
tuần trước đây con đành phải chấp nhận sự thật như vậy
và con cũng đành chấp nhận những dằn vặt tư tưởng của
con.
Bức thư của Koth đã làm vấn đề trở nên rõ ràng.
Dorothy, với lý do gì đấy không biết, đến gặp Koch và
mượn thắt lưng. Dorothy không sống trong một tâm trạng
tuyệt vọng đến nỗi phải cần có một người tâm sự, nhưng
em con đã quyết tâm thực hiện điều mà em con muốn làm.
Chẳng có lý do gì để con tin rằng nếu hai chị em con
không hục hặc nhau vào mùa Giáng sinh thì con là người
Dorothy muốn gặp trước hết. (Con cũng đừng quên Dorothy
là người gây sự với con trước và em con đang mang tâm
trạng u uẩn buồn rầu). Về thái độ nhạt nhẽo bất cần
của Dorothy thì ba nhắc con nhớ chính ba đã đồng ý để
Dorothy đến đại học Stoddard hơn là đại học Caldwell, vì
không muốn em con sống dựa vào con quá đáng. Vẫn biết
nếu Dorothy theo con lên đại học Caldwell, có thể tấm
thảm kịch đã không xảy ra. Nhưng chữ “Nếu” là chữ lớn
nhất trên đời, Ellen con ạ. Hình phạt đó đối với Dorothy
có thể quá nghiêm khắc, nhưng chính Dorothy đã muốn chọn
hình phạt như vậy. Ba không có trách nhiệm, con cũng
không có trách nhiệm gì cả. Không ai chịu trách nhiệm
hết trừ em con ra.
Ba mong rằng việc hiểu lầm về thái độ ban đầu của
Dorothy mà Koch cho biết sẽ rũ bỏ được nơi con mặc cảm
tội lỗi và con sẽ không tự buộc tội mình nữa.
Ba của con.
Tái bút: Ba viết tay hơi khó đọc. Thư riêng nên ba không
thể đọc cho thư ký viết.
Thư của Ellen Kingship gửi cho Bud Corliss
Ngày 12 tháng 3 năm 19…
(tám giờ sáng)
Anh Bud yêu mến,
Hiện em đang ngồi trong toa xe với lon Côca côla (vào giờ
này – thật kinh khủng!), với cây bút và giấy, cố gắng
viết đừng run tay vì con tàu lắc lư và cố gắng diễn
đạt cho thật rõ ràng nếu không nói là cho thật bình
tĩnh – như giáo sư Mulholland thường nói – lý do nào đã
thúc đẩy em đi Blue River.
Em rất tiếc trận đấu bóng rổ tối nay, nhưng em tin Connie
và Jane sẽ sẵn sàng thay thế chỗ em và anh có thể
tưởng tượng là em vẫn có mặt trong hai hiệp đấu ấy.
Bây giờ trước hết, cuộc hành trình này hoàn toàn không
phải là do bốc đồng đâu anh nhé! Suốt đêm qua, em đã suy
nghĩ nát óc. Anh sẽ nghĩ là em đang tìm cách trốn chạy
qua Cairo, thủ đô của Ai Cập. Thứ hai: Em sẽ không mất
bài vở bởi vì đã có anh đi ghi bài đầy đủ cho em rồi,
và dẫu sao em cũng không đi lâu quá một tuần. Hơn nữa,
có khi nào người ta đánh hỏng sinh viên cuối cấp thi ra
trường chỉ vì lý do cúp cua không? Thứ ba: Em sẽ không
lãng phí một giây phút nào vì em biết em phải làm gì
và khi biết như thế thì nhất định em sẽ không chậm trễ
được.
Vậy chẳng có gì để phản đối cả phải không anh? Anh hãy
để em giải thích vì sao em ra đi như thế này. Trước hết,
em nói những điều em biết cho anh nghe.
Sáng thứ bảy, em nhận được thư của ba em. Anh biết đấy,
đầu tiên Dorothy rất muốn đến đại học Caldwell nhưng em
phản đối và kể từ đó em luôn luôn giữ vững ý kiến của
em. Sau khi Dorothy chết, em cứ tự tra vấn em xử sự như
thế có phải vì vô tư hay không. Cuộc sống ở gia đình
rất tù túng, một phần do tính quá nghiêm khắc của ba
em, một phần thì Dorothy bám víu vào em quá đáng, dù
lúc đó em chưa nhận ra điều ấy. Cho nên khi vào đại học
Caldwell, em thực sự đã sống buông thả. Ba năm đầu tiên ở
đó, em là một cô gái kinh khủng lắm. Anh sẽ không nhận
ra em được đâu. Như em đã nói, em không rõ là khi em ngăn
chặn Dorothy theo em lên đại học Caldwell là cốt để cho
Dorothy tập sống tự lập hay là để cho bản thân em được
rảnh tay rảnh chân sống tự do thoải mái, vì ai cũng
biết Caldwell là nơi ai muốn làm gì thì làm.
Việc phân tích của ba em (có thể với sự góp ý của chị
Marion) về thái độ của em trước cái chết của Dorothy là
chính xác. Em không muốn chấp nhận đó là một trường
hợp tự tử bởi vì như thế có nghĩa là em phải gánh
chịu một phần trách nhiệm. Tuy nhiên ngoài những lý do
tình cảm trên, em có những lý do để nghi ngờ về cái
chết của Dorothy. Chẳng hạn lá thư Dorothy gửi cho em.
Đúng là nét chữ của em ấy – em không phủ nhận điều này
– nhưng xem ra không phải là giọng điệu của Dorothy. Nghe
nó kệch cỡm rỗng tuếch thế nào: - “Chị yêu quí của em”
– trong khi trước kia Dorothy thường viết cho em: “Chị Ellen
thân mến”. Em có nêu lên chi tiết này với cảnh sát nhưng
họ cho đó là điều tất nhiên vì Dorothy viết thư với tâm
trạng căng thẳng và khủng hoảng, không thể có giọng
điệu bình thường như mọi lần được. Sự kiện Dorothy đem
giấy khai sinh theo cũng khiến em thắc mắc nhưng cảnh sát
vẫn giữ lập luận như trên: Người tự tử thường bận tâm
về việc làm thế nào để người ta nhận diện mình được.
Cần gì phải thế vì lúc nào Dorothy cũng có thẻ sinh
viên đại học Stoddard kia mà. Nhưng cảnh sát chẳng mảy
may xem xét đến ý kiến của em.
Em đành chịu. Cuối cùng phải chấp nhận Dorothy đã tự
tử chết và tự trách mình. Câu chuyện của Annabelle Koch
là một lý lẽ đanh thép. Mô típ của cái chết ấy càng
khiến cho em cảm thấy có trách nhiệm thêm vì một cô gái
có một chút hiểu biết sẽ không khi nào tự hủy mình khi
đang có thai nghén, không bao giờ, em nghĩ thế, trừ phi
các cô gái đó không còn một nơi nào để nương tựa. Sự
việc Dorothy có thai chứng tỏ nàng đã bị một kẻ nào
đó phụ bạc – chính hắn! Em rất biết rõ Dorothy, nàng
rất coi trọng vấn đề luyến ái và không phải là một cô
gái dễ sa đọa. Sự kiện Dorothy có thai cho thấy nàng vô
cùng yêu hắn và đã có ý định kết hôn với hắn.
Đầu tháng mười hai, trước khi chết, Dorothy viết thư cho
em kể rằng nàng có một người bạn trai cùng học lớp
tiếng Anh với nhau. Nàng thường đi chơi với hắn. Đó là
một sự thật. Dorothy hứa sẽ nói hết cho em nghe vào dịp
nghỉ Giáng sinh đó… Nhưng suốt những ngày nghỉ, bọn em
gây gổ nhau. Cho nên bọn em không có dịp để tâm sự. Khi
quay về lại trường, những bức thư bọn em gởi cho nhau
chỉ là những bức thư thăm hỏi chiếu lệ. Vì thế em không
biết được tên hắn. Những gì em biết về hắn chỉ thu gọn
trong lá thư kia, rằng hắn cùng học một lớp tiếng Anh,
rằng hắn khá đẹp trai, hơi giống Len Vernon – là chồng
của người chị họ – điều ấy có nghĩa là người yêu của
Dorothy cao lớn, tóc nâu, mắt màu xanh…
Em có nói với ba em về hắn, hối thúc ba em tìm xem hắn
là ai và phải trừng trị hắn. Ba em không đồng ý với lý
do chẳng lấy gì làm bằng chứng chính hắn đã xuống tay
hạ thủ Dorothy rồi lẩn trốn. Dorothy tự tử là vì những
tội lỗi do chính nàng gây ra. Thế rồi ba em im luôn.
Mãi đến thứ bảy vừa rồi, em nhận được thư của ba em
kèm theo lá thư của Koch. Nhưng lá thư đó chẳng có tác
dụng gì như ba em mong đợi, bởi vì như em nói, câu chuyện
kể của Koch không dính dáng, liên hệ gì đến những nỗi
buồn của em. Tuy nhiên em bắt đầu đặt những câu hỏi: nếu
thắt lưng còn tốt, tại sao Dorothy lại đi nói dối để
mượn thắt lưng của Koch? Tại sao Dorothy không dùng cái
thắt lưng của mình? Ba em không thắc mắc chuyện đó: nó
có những lý do riêng của nó. Nhưng em lại muốn biết
những lý do gì? Dorothy đã gợi nơi em ba vấn đề cầm
phải tìm hiểu. Chúng cứ lẩn quẩn trong đầu óc của em.
Thế này:
1.Vào lúc mười giờ mười lăm sáng hôm đó, Dorothy đã mua
một đôi găng tay màu trắng đắt tiền trong cửa hàng phía
bên kia đường cư xá. (Chủ tiệm đã báo cáo việc này cho
cảnh sát khi nhìn thấy ảnh Dorothy trên báo). Trước tiên
Dorothy hỏi mua một đôi tất nhưng chúng quá lớn nàng mang
không vừa nên mới mua găng tay và đã trả một đô la năm
mươi xu. Khi chết Dorothy còn mang chúng. Tuy nhiên trong
ngăn kéo của bàn học trong phòng Dorothy lại có một đôi
găng tay bằng vải rất đẹp mà chị Marion đã tặng vào
dịp Giáng sinh. Tại sao Dorothy không dùng đôi găng tay đó?
2. Dorothy là một cô gái rất kén chọn trong việc ăn mặc.
Khi chết, nàng mặc bộ áo quần màu xanh lục, bên ngoài
lại khoác áo choàng bằng lụa trắng có nơ hình con bướm
cũ kỹ, xấu xí không hợp với bộ áo xanh lục kia. Hơn
nữa nơi tủ áo lại có áo khoác bằng lụa còn mới toanh
rất hợp thời, tại sao Dorothy không mặc chiếc áo này?
3. Dorothy mặc bộ áo quần màu xanh lục, trong lại mặc
quần lót màu trắng và nâu. Chiếc khăn tay thì lại sặc
sỡ, màu sắc chẳng hài hòa tí nào cả. Còn ít ra mười
chiếc khăn tay khác, cái nào cũng trông hợp với cái áo
màu xanh lục, tại sao Dorothy không chọn những khăn tay
đó?
Ngay lúc Dorothu chết, em đưa vấn đề này với cảnh sát.
Họ bác bỏ toàn bộ những gì em đề cập đến. Nạn nhận
bị quẫn trí! Thật là buồn cười khi đòi hỏi nạn nhân
phải ăn mặc như mọi ngày. Em có nói sự trùng hợp này
là điều khó thấy nơi Dorothy. “Đó là điều tất nhiên –
họ nói – vì nạn nhân đang sống trong tình trạng không
được bình thường lắm. Họ kết luận – cô không có kinh
ngiệm về những sự việc như thế này đâu!”.
Lá thư của Koch lại là bằng cứ thứ tư. Thắt lưng của
Dorothy còn tốt, tại sao nàng lại đi mượn thắt lưng của
Koch kia chứ? Tại sao? Em phải tìm cho ra lẽ. Có một sự
tương phản kỳ lạ trong cách ăn mặc của Dorothy. Nguyên
nhân nào?
Cả đêm thứ bảy, em trằn trọc mãi vì những câu hỏi này.
Anh đừng hỏi rằng em muốn chứng minh cái gì đây. Em có
cảm tưởng các sự việc kia có một mối ràng buộc chặt
chẽ với nhau. Em cần phải tìm hiều trạng thái tinh thần
của Dorothy những ngày đó ra sao. Em giống như một người
bệnh đang đau răng cứ thích lấy đầu lưỡi ấn mạnh vào
cái răng đau ấy.
Em phải viết cho anh hàng chục lá thư mới kể hết được
những diễn tiến quá trình suy nghĩ của em, lý luận của
em trong việc tìm kiếm mối liên hệ giữa các sự kiện đã
bị bác bỏ kia. Em phải đánh giá lại toàn bộ dữ kiện,
xét lại mọi kết luận, dù đó là kết luận của ai chăng
nữa. Thậm chí em còn lấy những mảnh giấy rồi ghi lên
đó nào là khăn tay, găng tay, áo choàng, thắt lưng và ghi
chú những hiểu biết của em về mỗi vật, tìm hiểu ý
nghĩa của từng vật. Nhìn bên ngoài, chúng không mang một
ý nghĩa nào hết. Kích thước, tuổi tác, quyền sở hữu,
giá cả, màu sắc, phẩm chất, nơi mua sắm – không một ý
nghĩa nào xuất hiện trên bốn vật của bản danh sách đó
cả. Em xé bỏ rồi đi ngủ. Không thể cho đó là một vụ
quyên sinh được.
Một giờ sau đó, bỗng một ý nghĩ bất ngờ đến trong đầu
em. Em sững sờ ngồi bật dậy, nghe lạnh toát cả người.
Chiếc áo lỗi thời đôi găng tay mua sáng hôm đó, cái thắt
lưng của Koch, khăn tay… Cái thì cũ, cái thì mới, cái
màu xanh, cái thì mượn…
Em muốn tin đấy là một sự tình cờ, ngẫu nhiên thôi.
Nhưng tự thâm tâm em không sao tin như thế.
Dorothy đến nhà Hành chính, không phải vì đó là tòa
nhà cao nhất ở Blue River mà đến đấy với mục đích làm
lễ thành hôn. Dorothy mặc cái thì mới, cái thì cũ, cái
mượn, cái thì màu xanh, cái thì màu trắng… Ôi đứa em
gái lãng mạn đáng thương của em!
Đem theo giấy khai sinh, Dorothy muốn chứng minh là nàng
đã trên mười tám tuổi. Và không ai đi đến đấy một mình
bao giờ. Dorothy chỉ có thể đi với một người – tác giả
của cái bào thai đó, người nàng đã gắn bó từ lâu,
người Dorothy đã yêu tha thiết – cái gã tóc nâu, mắt
xanh, đẹp trai cùng học trong lớp tiếng Anh với nàng.
Hắn đã đưa Dorothy lên tận mái nhà. Em quả quyết sự
việc là vậy.
Về phần bức thư kia thì sao? Chỉ viết thế này – “Em mong
chị tha thứ nỗi buồn phiền em đã gây ra. Em không thể
làm gì khác được” – Đâu là ý định tự tử chứ? Dorothy
chỉ muốn nói đến việc kết hôn của nàng! Dorothy biết ba
em không bao giờ chấp nhận hành động hấp tấp nông nổi
đó. Nhưng Dorothy không thể làm gì khác hơn được nữa vì
đã có thai. Cảnh sát rất đúng khi cho rằng giọng điệu
lừng khừng ấy là triệu chứng tâm trạng của một người
đã manh nha ý muốn tự vẫn.
Cái thì mới, cái thì cũ… cũng đủ lý do để em bắt tay
tiến hành điều tra nhưng những chứng cứ đó chưa đủ vững
mạnh để thuyết phục cảnh sát mở lại hồ sơ của vụ án,
nhất là họ vẫn còn thành kiến với em – một cô gái
quái gỡ đã làm cho họ bực mình trong năm vừa qua. Anh
biết không đó là sự thật. Cho nên em phải truy lùng hắn
và sẽ hành động như thám tử Sherlock Homes của Conan
Doyle. Khi nào em phát hiện ra một việc gì đấy để hỗ
trợ cho những nghi ngờ của em, một chứng cứ hùng hồn
nào đó để cảnh sát phải lưu ý đến thì em hứa rằng em
sẽ đi thẳng đến họ ngay. Em đã xem nhiều phim trong đấy
vị nữ anh hùng đã kết tội tên sát nhân trong chính căn
phòng cách âm của hắn và tên sát nhân nói rằng: “Đúng,
tao đã làm việc đó nhưng mày sẽ không còn sống để kể
câu chuyện ấy đâu”. Anh đừng lo cho em, đừng có nôn nóng
và cũng đừng viết thư cho ba em vì ba em sẽ rùm beng lên.
Có thể em thật ngu ngốc và bốc đồng khi dấn thân vào
câu chuyện theo cách này nhưng làm sao em có thể ngồi
khoanh tay chờ đợi trong khi em biết phải làm gì và biết
chẳng còn ai khác làm việc đó ngoài em ra.
Tàu đang vào địa phận của Blue River, từ cửa sổ em có
thể nhìn thấy nhà Hành chính.
Trong nội ngày hôm nay em sẽ gửi thư này, em sẽ cho anh
biết em ở đâu và làm những gì. Cho dù Stoddard có lớn
hơn gấp mười lần Caldwell chăng nữa, em cũng biết em sẽ
bặt đầu từ đâu. Hãy cầu chúc cho em được may mắn nghe
anh…
Phần II - Chương 2
Viện trưởng Welch là một người to phục phịch, đôi mắt
màu xám tro tròn như hai hạt cúc áo gắn trên khuôn mặt
hồng hào láng lẩy. Ông thích mặc áo quần bằng vải
phờlamơn màu đen. Văn phòng của ông mờ mờ tối, trông
giống như một tu viện, tường gỗ màu đen; ngay chính giữa
phòng là một cái bàn lớn với kệ sách được trình bày
một cách tỉ mỉ.
Sau khi tắt máy dùng để liên lạc với các văn phòng
khác, viện trưởng đứng lên, nhìn về phía cánh cửa lớn.
Ông phải tạo một vẻ mặt trịnh trọng cho thích hợp với
hoàn cảnh vì người khách của ông đang chịu một cái tang
đau đớn – cái chết của sinh viên nội trú trường đại học
của ông. Những tiến chuông đúng ngọ nghe nghèn nghẹn từ
xa tít vẳng vào phòng. Cửa mở và Ellen bước vào.
Khi Ellen khép cửa, đến gần bàn giấy, viện trưởng, với
vẻ tự mãn của một người thương xuyên tiếp xúc với giới
trẻ, đã đánh giá và nhận xét về nàng. Nàng rất gọn
gàng, ông thích thế. Khá đẹp, mái tóc hung hung cùng
với màu mắt, nụ cười tự tin phảng phất một quá khứ
đau thương và cái nhìn cương quyết. Có thể không thông
minh lắm, nhưng cần cù… chịu khó. Aùo khoác ngoài và áo
dài cùng màu xanh đậm, một sự trái ngược dễ chịu,
tương phản với vẻ lòe loẹt sặc sỡ của hầu hết sinh
viên ở đây. Bên ngoài trông Ellen có vẻ căng thẳng nhưng
bên trong có thể không phải là thế.
- Chào cô Kingship – Ông nói nhỏ, gật đầu ra hiệu chỉ
ghế mời khách.
Cả hai ngồi xuống. Hai bàn tay nung núc chặp vào nhau,
viện trưởng nhìn Ellen và nói:
- Ông cụ vẫn thường chứ?
- Cám ơn thầy, ba em vẫn thường – Giọng nói của nàng
trầm trầm đượm vẻ mệt nhọc.
- Tôi đã hân hạnh được gặp ông cụ… năm trước đây. – Ông
dừng lại một chốc – Tôi có thể giúp gì được cho cô?
Nàng khẽ nhích người ra sau ghế.
- Gia đình em – ba em và em – muốn nhận diện một người,
một sinh viên học ở đây. – Viện trưởng nhíu mày tỏ vẻ
quan tâm một cách kín đáo – Cậu ta đã cho Dorothy mượn
một số tiền khá lớn cách vài tuần trước khi cô ấy
chết. Dorothy có viết thư nói cho em biết việc này. Tình
cờ bắt gặp tập ngân phiếu của Dorothy, vào tuần trước
đây, em chợt nhớ lại sự việc đã xảy ra. Qua tập ngân
phiếu đó, chẳng thích gì về việc thanh toán món nợ mà
Dorothy đã vay mượn người sinh viên kia. Gia đình em nghĩ
cậu ta hẳn là rất khó xử nên không tiện khai báo.
Viện trưởng gật đầu tỏ vẻ hiểu biết.
- Có điều là… - Ellen ngập ngừng – em không nhớ tên cậu
ta. Nhưng Dorothy cho biết cậu ta cùng học lớp tiếng Anh
vào mùa thu và là một thanh niên tóc vàng. Gia đình em
nghĩ thầy có thể giúp gia đình tìm ra cậu sinh viên đó.
Số tiền quá lớn… - Ellen hít mạnh vào.
- Tôi hiểu – Viện trưởng nói, hai tay bóp chặt vào nhau
như thể xem đôi bàn tay mình to lớn đến đâu, môi nở nụ
cười, nhìn Ellen – Có thể giúp cô được đấy – Ông nói
với tác phong nhanh nhẩu của một người quen sống trong
quân đội. Ông làm ra vẻ trịnh trọng, mở máy gọi cô thư
ký – Cô Platt!
Một người đàn bà xanh xao mở cửa bước vào phòng. Ông
gật đầu chào cô rồi ngả người ra sau ghế, nhìn thẳng
vào bức tường phía sau đầu Ellen như thể ông đang thảo ra
một chiến lược gì vậy.
- Cô hãy lấy hồ sơ của Dorothy Kingship, học kỳ mùa thu
năm 19… Xem thử cô ấy học khóa Anh văn nào và có danh
sách sinh viên ghi danh khóa học đó không. Cô mang hết hồ
sơ của nam sinh viên có tên trong danh sách đó – Ông nhìn
sang cô thư ký – Cô nghe rõ chứ?
- Vâng, thưa ông viện trưởng.
Ông bắt cô thư ký lặp lại những dặn dò của ông.
- Tốt.
Cô thư ký đi ra.
- Nhanh lên nhé – Viện trưởng nói với theo khi cánh cửa
đã khép lại. Quay sang Ellen, ông mỉm cười tự mãn. Ellen
mỉm cười đáp lại.
Dần dần cử chỉ của một quân nhân mất đi, ông trả lại
con người bình thường như mọi khi. Ông hơi chồm người về
phía trước, những ngón tay khẽ nhịp lên mặt bàn.
- Chắc chắn cô không đến Blue River chỉ vì việc này chứ?
- Vâng đúng thế. Em đến thăm một người bạn.
- Thế chứ.
Ellen mở xách tay.
- Em xin phép được hút thuốc?
- Cô cứ tự nhiên. – Ông đẩy cái gạt tàn bằng thủy tinh
sang phía nàng – Tôi cũng hút đấy chứ – Viện trưởng vui
vẻ nói. Ellen đưa thuốc mời nhưng ông từ chối. Nàng lấy
hộp diêm màu trắng có in dòng chữ mạ đồng Ellen Kingship
rồi châm thuốc hút. Viện trưởng nhìn hộp diêm, dáng
trầm ngâm.
- Thái độ hiểu biết về vấn đề tiền bạc của cô thật
đáng khen – Ông vừa nói vừa cười – Nếu như tất cả những
người chúng tôi tiếp xúc đều hiểu biết như thế thì quý
hóa biết bao – Ông nhìn vào cái mở thư bằng đồng – Hiện
nay chúng tôi đang bắt đầu cho xây dựng một phòng tập
thể dục và một nhà chơi. Một vài người hứa giúp đỡ
nhưng đã không giữ lời.
Ellen lắc đầu có vẻ thông cảm.
- Có lẽ ông cụ sẽ vui lòng góp phần – Viện trưởng cân
nhắc – Như một hành động để tưởng nhớ người em gái của
cô.
- Em rất được hân hạnh được đề nghị với ba em.
- Thế thì tốt quá. Chắc chắn chúng tôi sẽ không quên
lòng hảo tâm đó – Ông đặt cái mở thư về chỗ cũ – Những
đóng góp như vậy thường được giảm thuế, theo tôi hiểu –
Ông nói thêm.
Vài phút sau, cô thư ký bước vào ôm theo chồng hồ sơ rồi
để chúng trước mắt ông viện trưởng.
- Năm mươi mốt sinh viên học tiếng Anh – Cô báo cáo – Khóa
sáu có mười bảy nam sinh viên.
- Tốt.
Khi cô thư ký rời khỏi phòng, viện trưởng sửa ghế ngồi
lại, tay xoa xoa vào nhau, lại trở về phong cách một quân
nhân. Ông mở tập hồ sơ, rút giấy tờ ra cho đến khi nhìn
thấy mẫu đơn ghi danh có dán ảnh ở trên góc.
- Tóc màu đen – Ông nói rồi để tập hồ sơ bên phía trái
của ông.
Khi ông xem xong thì có hai chồng hồ sơ không đều nhau ở
trên bàn trước mặt ông.
- Mười hai người tóc màu đen và năm người tóc nhạt –
Viện trưởng nhận xét.
Ellen chồm người về đằng trước.
- Một lần Dorothy nói với em là cậu ta rất đẹp trai…
Viện trưởng lấy chồng hồ sơ có năm cái tất cả, rồi mở
hồ sơ nằm trên cùng.
- George Speiser – Ông nói ra chiều nghĩ ngợi – Nếu cô cho
cậu Speiser này là đẹp trai… - Ông đưa hồ sơ qua cho Ellen.
Khuôn mặt trong ảnh cằm lép, đôi mắt sắc sảo. Nàng lắc
đầu ý nói không phải cậu ta. Aûnh thứ hai là một sinh
viên mặt mày hốc hác, mang đôi kính dày cộm. Người thứ
ba, ba mươi lăm tuổi, tóc không phải màu nâu. Đôi tay nàng
đặt trên ví thấm đầy mồ hôi. Viện trưởng mở hồ sơ thứ
tư – Gordon Gant. Cái tên đó cô nghe có quen không? – Ông
trao lá đơn xin ghi danh cho Ellen. Người này tóc nâu, khá
đẹp trai, đôi mắt sâu lộ vẻ thông minh nằm dưới đôi lông
mày rậm đen, quai hàm chắc nịch, nụ cười tự tin.
- Em nghĩ chính là cậu này – Ellen nói.
- Hoặc cũng có thể la Dwight Powell? – Viện trưởng hỏi,
tay bên kia cầm hồ sơ thứ năm. Người thanh niên trong ảnh
này cằm vuông, ánh mắt nghiêm nghị, màu mắt xanh.
- Thế nào? Ai đây? – Ông hỏi lần cuối cùng.
Ellen bước ra khỏi khu học chính, một tay cầm ví, tay kia
cầm mảnh giấy ông viện trưởng đưa, đứng tần ngần ở bậc
thêm trên cùng, nhìn làng đại học u ám dưới bầu trời ủ
ê.
Hai người… Điều này sẽ làm công việc của nàng chậm lại
một chút, thế thôi. Chỉ có việc xem trong hai người đó
ai là hắn… rồi sau đấy theo dõi… thậm chí nếu cần phải
giáp mặt với hắn – dĩ nhiên mình phải giả danh là một
người khác chứ không thể xưng tên Ellen Kingship được.
Phải coi chừng ánh mắt sắc như dao và những câu trả lời
rào đón của hắn. Aùn mạng thì phải có dấu vết. (Chắc
chắn đó là một vụ sát nhân, không thể trật được!).
Mình phải dấn thân vào hang cọp. Nàng nhìn mảnh giấy
nơi tay:Gordon Gant, 1312, đường 26 khu tây và Dwight Powell,
1520 đường 35 khu tây.
Phần II - Chương 3
Ellen ăn trưa trong một quán ăn nhỏ ở phía bên kia đường
Đại học. Thật ra nàng chẳng còn bụng dạ nào để ăn
uống vì đầu óc đang bận tính toán tìm phương kế hành
động. Bắt đầu như thế nào đây? Đi dò hỏi những người
biết hắn? Nhưng bắt đầu từ đâu? Theo dõi hắn, tìm hiểu
hắn qua bạn bè của hắn? Đi gặp những người năm vừa qua
đã quen biết hắn? Mình cần phải có thời gian. Mình
phải ở lại Blue River một thời gian khá lâu. Tuy nhiên
mình có nên gọi dây nói cho bố biết không? Những ngón
tay nàng gõ gõ lên bàn một cách bứt rứt. Ai là người
biết rõ về Gordon Gant và Dwight Powell? Gia đình của họ
chăng? Hoặc họ từ đâu đến thì bà chủ nhà hay bạn bè
của họ có thể biết? Phải mạnh dạn đi thẳng vào trọng
tâm của vấn đề, đến gặp thẳng bạn bè của họ.
Nhưng dẫu sao cũng không được lãng phí thì giờ, mình
phải nhớ rõ điều đó. Nàng cắn môi dưới, tay vẫn tiếp
tục gõ nhịp trên mặt bàn.
Một lúc sau, nàng đặt ly cà phê còn một nửa lên bàn,
đứng dậy và đi về phía phòng điện thoại. Nàng ngần
ngừ một chốc rồi lật từng trang nơi quyển điện thoại
niên giám. Không có số điện thoại của Gant, cũng không
có địa chỉ của Powell ở đường 35. Điều đó chứng tỏ cả
hai không có điện thoại, đoán vậy thôi, hoặc là cả hai
đang sống chung với gia đình.
Nàng gọi Phòng chỉ dẫn và biết được số điện thoại
của số nhà 1312 đường 26 khu tây – số điện thoại 2 –
2014.
- Alô, ai gọi đó? – Một giọng nói khô đặc của người
miền tây vang lên trong máy.
- Thưa có anh Gordon Gant ở đấy không ạ? – Giọng nói của
Ellen líu lại. Đầu dây bên kia bỗng im lặng.
- Bà con gì với cậu Gant hả?
- Dạ không. Bạn anh ấy thôi. Anh ấy có ở nhà không thưa
bà?
- Không! – Câu trả lời cụt ngủn, lạnh lùng.
- Thưa, bà là ai?
- Chủ nhà.
- Khi nào anh ấy về?
- Cậu ấy về khuya lắm – Giọng bà ta nhanh nhẩu tỏ vẻ
khó chịu. Ellen nghe tiếng máy đầu kia dằn mạnh xuống.
Nàng nhìn ống nghe câm lặng, rồi lặng lẽ gác máy. Khi
nàng quay lại chỗ ngồi thì ly cà phê đã nguội lạnh.
Hắn đi suốt ngày. Mình có nên đến đó không? Câu chuyện
ngắn ngủn vừa qua với bà chủ nhà cho thấy Gant có thể
là người yêu của Dorothy. Hoặc nếu loại trừ khả năng đó
thì chính là Powell. Mình phải đến gặp bà chủ nhà…
nhưng với lý do gì đây?
Úi chà, bất cứ lý do gì, miễn sao bà chủ nhà đừng
nghi ngờ mình. Hành động liều lĩnh đó sẽ gây ra những
nguy hiểm gì? Tất nhiên Gant sẽ nhận ra ngay sự giả mạo
ấy khi bà chủ nhà thuật lại câu chuyện cho hắn nghe.
Nếu Gant không phải là tên sát nhân, trong trường hợp này
hãy để cho hắn thắc mắc về người lạ mặt đã mạo danh
là bạn hay người thân thích của hắn. Nếu Gant là người
yêu của Dorothy thì cứ để cho hắn băn khoăn về người lạ
đi điều tra về hắn. Nếu hắn đã giết Dorothy thì hắn sẽ
cảm thấy bị đe dọa vì sự xuất hiện của cô gái kia. Tuy
nhiên sự lo sợ của hắn chẳng ảnh hưởng gì đến kế
hoạch của mình, vì sau đó mình đích thân đến làm quen
với hắn, hắn sẽ không ngờ mình chính là cô gái đã đi
điều tra bà chủ nhà. Nỗi bất an từ phía hắn thậm chí
sẽ có lợi nữa là khác vì sống trong trạng thái căng
thẳng như vậy, hắn có khả năng để lộ bộ mặt tội ác
của hắn ra. Ồ hắn cũng có thể trốn khỏi thành phố khi
hắn thấy không còn lối thoát nữa – sự việc này sẽ
giúp mình thuyết phục được cảnh sát nhận ra những nghi
ngờ mình nêu lên là đúng. Họ sẽ điều tra và tìm ra
bằng chứng…
Mình phải đi thẳng vào trọng tâm của công việc. Làm như
thế có mạo hiểm lắm không? Suy nghĩ kỹ, mình thấy hành
động như thế là quá hợp lý.
Ellen nhìn đồng hồ tay: một giờ năm phút. Mình không thể
đến ngay lúc này bởi vì mình vừa mới gọi điện thoại.
Bà chủ nhà có thể liên kết hai sự việc lại với nhau
và sẽ nghi ngờ mình tức khắc. Nghĩ thế, Ellen đàng
ngồi lại. Bắt gặp cái nhìn của cô hầu bàn, nàng gọi
thêm một ly cà phê nữa.
Lúc hai giờ kém năm, Ellen vào dãy nhà số 1300 ở đường
26 khu tây. Đường vắng lặng, tẻ ngắt với những ngôi nhà
hai tầng quét vôi màu vàng, phía trước là những bãi cỏ
cháy úa. Một vài chiếc xe hiệu Ford và Chevvie đậu dọc
theo khúc quanh, chiếc thì theo thời gian thì cũ đi,
chiếc thì sơn lại nguệch ngoạc vụng về cho có vẻ mới
hơn. Không một chiếc nào ra hồn cả, Ellen cố gắng đi
chậm lại, làm như không có gì phải vội lắm. Bước chân
nhẹ vang lên trong bầu không khí tĩnh mịch hiu quạnh đó.
Gordon Gant ở nhà số 1312, ngôi nhà thứ ba kể từ góc
đường vào. Nhìn căn nhà sơn màu mỡ gà một lát, Ellen
theo con đường lát đá chạy ngang qua bãi cỏ đến thẳng
cổng chính. Nơi đây nàng đọc tấm biển gắn trên hòm thư
treo ở cột trước nhà: Bà Mina Arguette. Nàng đế cửa
hình cánh quạt, hít mạnh hơi, thu hết can đảm bấm
chuông. Bên trong tiếng chuông reo vang. Nàng hồi hộp chờ
đợi. Có tiếng bước chân, rổi cửa mở và một người đàn
bà cao lớn, gầy, mái tóc bạc lòa xòa trên trán xuất
hiện. Đôi mắt đỏ và trơn ướt. Chiếc áo xuềnh xoàng mặc
ở nhà rộng thùng thình trên đôi vai gầy guộc. Bà ta đưa
mắt nhìn Ellen từ đầu đến chân.
- Cô hỏi gì? – Giọng nói khô khốc của người miền trung
tây trong điện thoại lúc nãy.
- Thưa, bà là bà Arquette? – Ellen rụt rè hỏi.
- Phải – Bà ta bỗng nhoẻn miệng cười, để lộ hàm răng
không đều đặn.
Ellen cười đáp lễ.
- Cháu là em họ của Gordon gant.
Đôi lông mày mỏng dính khẽ nhíu lại.
- Em họ của cậu ấy ạ? – Bà hỏi với vẻ ngạc nhiên.
- Vậy ra anh ấy không nói cho bà biết là hôm nay cháu có
mặt ở đây?
- Ồ không. Cậu ấy có bao giờ nói chuyện đó đâu.
- Lạ nhỉ. Cháu có viết thư báo tin là cháu sẽ đi ngang
qua đây. Cháu đang trên đường đến Chicago và chủ ý đi
đường này để thăm anh. Chắc anh ấy quên…
- Cô gửi thư cho cậu ấy khi nào?
- Hôm kia, vào ngày thứ bảy – Ellen ngập ngừng nói.
- Thế à! – Nụ cười lại thoáng hiện ra trên môi bà ta –
Cậu Gordon rời nhà từ tảng sáng và thư đến sớm nhất
cũng phải mười giờ hơn. Có lẽ thư của cô còn ở trong
phòng của cậy ấy.
- Ồ…
- Hiện giờ cậu ấy đi vắng…
- Cháu có thể vào đợi một chốc được không ạ? – Ellen
vội cắt ngang câu nói của bà – Từ nhà ga cháu đã đón
xe nhầm. Cháu phải đi bộ qua mười dãy nhà, thưa bà.
Bà Arquette khẽ lui vào trong một bước.
- Cô cứ tự nhiên. Mời cô vào.
- Cảm ơn bà – Ellen bước qua ngưỡng cửa, vào một hành
lang thoảng mùi ẩm mốc khó chịu, rồi đến cánh cửa
đóng kín, đèn mờ mờ sáng. Có một cầu thang ở phía bên
phải. Phía bên trái một lối dẫn vào phòng khách hình
như ít được sử dụng đến.
- Bà Arquette! – Một tiếng gọi lớn từ phòng sau vang lên.
- Tôi đến ngay đây – Bà Arquette trả lời, quay sang Ellen –
Cô vui lòng ngồi dưới nhà bếp nhé?
- Dạ có sao đâu – Ellen vui vẻ nói. Hàm răng không đều
đặn của bà Arquette lại hé lộ ra. Nàng theo thân hình
đồ sộ kia xuống nhà bếp, thắc mắc tại sao một người
vui tính thế này lại có giọng điệu cáu kỉnh khi nói
điện thoại như vậy.
Nhà bếp cũng được sơn màu vàng sẫm như ở phía ngoài
của ngôi nhà. Ở giữa phòng có kê một cái bàn bằng đá
cẩm thạch màu trắng ngà, một người đàn ông đứng tuổi
ngồi đó, đang rót rượu vào một cái ly cũ kỹ.
- Giới thiệu cới cô, ông Fishback ở cạnh nhà tôi – Bà
Arquette nói – Chúng tôi đang chơi cờ chữ (anagrams).
- Ráp chữ đấy – Ông Fishback nói thêm vào, ngước đôi mắt
mang kính lên nhìn Ellen.
- Đây là cô… - Bà Arquette bỏ lửng.
- Gant ạ – Ellen vội nói tên mình.
- Cô Gant, em họ của cậu Gordon.
- Chào cô – Ông Fishback mỉm cười – Cậu Gordon rất dễ
mến. Này, bà Arquette. Đến phiên của bà đấy.
Bà Arquette ngồi xuống đối diện với ông.
- Mời cô ngồi – Bà nói và chỉ chiếc ghế còn trống - Cô
nghe nhạc không?
- Dạ không, xin cám ơn bà – Ellen nói, ngồi xuống. Nàng
cởi áo khoác ngoài và vắt trên thành ghế.
Bà Arquette nhìn một lô chữ cái đang lật ngửa trong
chiếc hộp gỗ vuông màu đen.
- Cô từ đâu đến – Bà hỏi Ellen.
- Dạ, từ California.
- Tôi chẳng hề biết là cậu Gordon lại có gia đình ở
miền tây.
- Dạ đúng thế. Cháu chỉ đến California để thăm bạn bè.
Cháu ở miền đông.
- Aø ra thế! – Bà Arquette nhìn ông Fishback – Bác tiếp
tục đi đi. Tôi chịu. Không có nguyên âm thì chịu chết
thôi.
- Phiên tôi, phải không? – Ông hỏi, bà gật đầu. Với nụ
cười đắc thắng, ông chộp lại những chữ cái đang lật
ngửa ra đó – Bà thua rồi, bà Arquette ạ – Ông reo lên hớn
hở – C-R-Y-P-T:Crypt. Hầm mộ. Ông đẩy các chữ cái lại
với nhau và thêm từ đó vào những từ đã được xếp trước
mặt ông.
- Không công bằng – Bà Arquette phản đối – Bác đã có
thời gian suy nghĩ khi tôi bận ra ngoài.
- Thắng là thắng – Ông Fishback la toáng lên. Ông lật ngửa
hai chữ cái nữa rồi đặt chúng vào thẳng hàng với
những chữ kia.
- Ôi thua rồi – Bà Arquette lầu bầu, bực dọc, ngả người
ra sau ghế dựa.
- Anh Gordon mấy hôm nay thế nào, thưa bà? – Ellen bắt đầu
gạ gẫm.
- Khoẻ như trâu – Bà Arquette trả lời – Bận như con vụ.
Nào là công chuyện ở trường, nào là lo chuẩn bị chương
trình.
- Chương trình gì thế, thưa bà?
- Cô không biết cậu ấy phụ trách chương trình gì sao?
- Lâu nay cháu không nhận được tin gì của anh cả.
- Cậu ấy phụ trách chương trình đã ba tháng nay rồi –
Bà ngồi thẳng người dậy, vẻ mặt tự hào – Cậu ấy giới
thiệu và phê bình âm nhạc. Cậu ấy gọi là Người Quảng
Cáo Nghệ thuật. Đêm nào cũng thế, trừ ngày thứ bảy,
từ lúc 8 giờ cho đến 10 giờ qua đài KBRI.
- Ồ tuyệt quá! – Ellen thốt lên thán phục.
- Vâng, cậu ấy nổi tiếng như cồn – Bà tiếp tục nói và
lật ngửa một chữ cái khi ông Fishback hất đầu ra hiệu
với bà – Cách đây hai tuần người ta đã phỏng vấn cậu
ấy trên báo. Các nhà báo tới rần rật và đủ mọi thứ
trên đời. Các cô gái – thậm chí cậu ấy chẳng hề quen
biết – liên tục gọi điện thoại tới. Toàn là sinh viên
trường đại học Stoddard cả. Các cô bằng mọi cách tìm ra
điện thoại, rồi gọi đến cốt chỉ nghe giọng nói của
thần tượng của mấy cô thôi. Cậu ấy chẳng thích dây dưa
gì với các cô khỉ gió đó. Vì thế tôi lại là người
phải đứng ra trả lời những cú điện thoại xuẩn ngốc
đó. Khổ thân tôi, muốn điên lên được – Bà Arquette cau mày
nhìn bàn cờ – Bác tiếp tục đi, bác Fishback.
Ellen đưa tay nhẹ vuốt cạnh bàn.
- Anh Gordon có còn đi chơi với cô bạn gái mà anh đã kể
cho cháu nghe hồi năm ngoái nữa không, bà Arquette?
- Cô nào mới được chứ?
- Cô gái tóc vàng, thấp và xinh lắm. Trong một vài lá
thư, anh Gordon có nhắc đến cô ta nữa.
- Tôi sẽ kể cô nghe – Bà Arquette nói – tôi không thích
chõ mũi vào đời tư của cậu ấy, cậu ấy đi với cô nào
tôi cũng chẳng bận tâm. Trước khi Gordon phụ trách chương
trình, mỗi tuần chỉ ba hoặc bốn, năm lền cậu ấy ra
ngoài, nhưng tuyệt nhiên cậu không bao giờ đưa các cô về
đây. Không phải tại vì tôi yêu cầu như thế. Tôi chỉ là
chủ nhà. Cậu cũng không bao giờ đả động gì đến các cô
hết. Những cậu khác trước kia ở đây thì thường hay kể
tôi nghe về các bạn gái của họ, vì các cậu thời đó
trẻ hơn. Các cậu bây giờ chững chạc hơn nhiều và theo
tôi họ cũng khá lớn tuổi, họ không ba hoa như mấy cậu
kia. Cậu Gordon thì ít khi lắm. Không phải tôi muốn xoi
mói nhưng tôi thường nhận xét về mọi người. – Bà lật
thêm một chữ cái khác – Cô gái đó tên gì? Cô nói tên tôi
nghe thử, may ra tôi biết cậu ấy còn liên hệ với cô ta
không, bởi vì thỉnh thoảng cậu ấy dùng điện thoại cạnh
cầu thang kia, tôi ở trong phòng khách nên buộc lòng phải
nghe cậu ấy chuyện trò.
- Cháu không nhớ tên cô ta. Nhưng năm vừa rồi, anh Gordon
thường đi chơi với cô ta. Bà thử nói vài tên Gordon hay
nhắc đến, xem cháu có nhận ra được không.
- Ừ, để thử xem – Bà Arquette vừa cố nhớ lại, vừa sắp
xếp các chữ một cách máy móc – Một cô tên Louella, tôi
nhớ tên này vì nó trùng với tên em dâu tôi. Cô khác tên
là… - Đôi mắt ươn ướt của bà nhắm lại, tập trung…
Barbara. Không phải, đó là năm trước, năm cậu ấy học năm
thứ nhất. Xem nào, Louella… - Bà lắc đầu, thất vọng –
Còn nhiều nữa, tôi không sao nhớ hết nỗi.
Trận cờ vẫn âm thầm tiếp diễn. Cuối cùng Ellen nói
thẳng – Cô ta tên là Dorothy thì phải?
Bà Araquette hất đầu về phía ông Fishback.
- Dorothy… - Mắt bà nhíu lại – Không phải, nếu là tên
Dorothy thì hiện giờ cậu ấy không còn liên hệ nữa. Không
nghe Gordon nói đến tên này lần nào, tôi bảo đảm với cô
như vậy. Dĩ nhiên cậu ấy thỉnh thoảng gọi dây nói ra
ngoài tỉnh và những lúc ấy cậu đến cuối góc phòng kia
để nói.
- Nhưng năm vừa rồi Gordon vẫn đi với Dorothy?
Bà Arquette nhìn lên trần nhà.
- Tôi không rõ lắm… tôi không nhớ ai tên là Dorothy, mà
cũng không cần phải nhớ một ai khác, nếu cô hiểu tôi
muốn nói gì rồi, phải không?
- Dottiem thưa bà? – Ellen cố thử một lần nữa.
Bà Arquette đắn đo một chốc, rồi nhún vai không nói gì
cả.
- Đến phiên bà đấy! – Fishback bực mình nhắc.
Tiếng con cờ di động nhè nhẹ khi bà xê dịch chúng.
- Cháu nghĩ anh đã cắt đứt liên hệ với cô ta vào tháng
tư năm vừa qua vì thời gian này anh không hề nói gì đến
cô ta nữa. Khoảng cuối tháng tư, anh cháu có vẻ bị
khủng hoảng, lo lắng, căng thẳng… - Ellen nhìn bà Arquette
thăm dò.
- Không có đâu. Tháng đó cậu Gordon đau một trận kịch
liệt, nằm mãi trên giường rên hừ hừ suốt. Tôi đã trêu
chọc cậu vì chuyện ấy đấy. – Ông Fishback hớp một ngụm
rồi nhìn cờ – Bà lại thua nữa – Ông nói lớn và xếp
chữ F-A-N-E: Fane.
- Bác nói cái gì đấy? Fane à? Làm gì có chữ đó. – Bà
Arquette quay sang Ellen hỏi – Cô có bao giờ nghe chữ Fane
này không?
- Tốt hơn bà đừng cãi lẽ với tôi – Ông Fishback lải
nhải. – Tôi không biết nghĩa nhưng tôi biết chắc là có
chữ đó. Tôi đã gặp một lần rồi – Quay sang Ellen, ông
nói – Mỗi tuần tôi ngấu nghiến ba quyển sách, đọc đều
đặn như cái đồng hồ, cô ạ.
- Fane! – Bà Arquette khịt khịt mũi.
- Thế thì bà tra từ điển đi.
- Tự điển bỏ túi làm gì có từ đó. Mỗi lần tôi bắt
bẻ bác một từ nào là bác lại bảo tra từ điển.
Ellen nhìn chữ đó.
- Anh Gordon hẳn có tự điển – Ellen thốt lên và đứng dậy
khỏi ghế – Cháu xon đi lấy tự điển, nếu bà cho cháu
biết phòng của anh Gordon.
- Đúng, đúng – Giọng bà Arquette dứt khoát – Chắc chắn
cậu Gordon có tự điển. Cô ngồi xuống, tôi đi lấy cũng
được.
- Bà cho phép cháu đi với. Cháu muốn xem căn phòng anh ra
sao. Anh nói căn phòng xinh lắm.
- Mời cô theo tôi – Bà Arquette nói, rồi xăng xái đi ra
khỏi nhà bếp. Ellen vội vã nối gót theo chân bà.
Giọng ông Fishback nói với theo:
- Bà sẽ thấy. Tôi biết nhiều từ hơn bà, dù bà có sống
lâu đến trăm năm đi nữa.
Hai người bước lên cầu thang bằng gỗ màu đen, bà Arquette
đi trước, miệng lầm rầm cáu kỉnh. Ellen theo bà bước qua
cửa ngay bên trên cầu thang.
Các bức tường trong phòng được trang trí bằng những
giấy in hoa sáng sủa. Giường bọc nệm màu xanh, tủ áo
quần, ghế dựa, bàn viết… Sau khi lấy quyển từ điển, bà
Arquette đến đứng bên kia cửa sổ lật từng trang tìm
kiếm. Ellen đến trước tủ, đọc các tên sách để trên đầu
tủ. “Biết đâu mình sẽ bắt gặp một quyển sổ tay hay
nhật ký gì đó” – Ellen nghĩ thầm. An outline of history,
Radio Announcement’s handbook of Pronunciation, A History of
American Jazz, Three Murder Novels…
- À đây rồi – Bà Arquette reo lên, lấy ngón tay trỏ chặn
lên trang giấy của quyển tự điển đang mở – Fane có nghĩa
là cái tháp nhà thơ – Bà giận dữ gập tự điển lại –
Lão học được chữ này ở đâu thế?
Ellen khẽ chồm người qua bàn trên đó có ba cái thư. Bà
Arquette để từ điển vào chỗ cũ, đưa mắt nhìn Ellen.
- Cái thư không ghi địa chỉ của người gởi hẳn là của cô
đấy? – Bà nhận xét.
- Vâng, đúng thế. Hai thư kia có ghi địa chỉ, một của New
Week, một của đài tiếng nói Quốc gia.
Bà Arquette đã đứng nơi cửa.
- Đi xuống chứ? – Bà giục.
- Vâng.
Họ xuống thang gác và chậm rãi vào nhà bếp. Ông
Fishback đang ngồi đợi. Vừa chợt thấy vẻ nhân nhượng của
bà Arquette, ông bật cười khằn khặt. Bà ném cái nhìn
đầy tức tối về phía ông.
- Chữ đó có nghĩa là nhà thờ – Bà nói và ngồi phịch
xuống ghế. Ông Fishback cười khà khà mãi.
- Thôi, cười mãi thế. Tiếp tục lại cho rồi – Bà xẳng
giọng cay cú. Ông Fishback lật ngửa hai chữ mới.
Ellen lấy chiếc ví trên ghế nàng ngồi lúc nãy.
- Cháu xin phép về. Nét mặt nàng lộ vẻ thất vọng.
Bà Arquette nhìn lên, đôi lông mày mỏng dính nheo lại.
- Cô đi à?
Ellen gật đầu.
- Cô không đợi cậu Gordon nữa sao?
Ellen bỗng thấy lạnh. Bà đưa mắt nhìn đồng hồ ở trên
tủ lạnh bên cạnh cửa.
- Hai mươi giờ – Bà nói – tiết cuối cùng hết vào lúc
hai giờ. Trong chốc lát cậu ấy sẽ có mặt ở đây.
Ellen không biết nói sao. Hình ảnh khuôn mặt của bà
Arquette hất lên khiến nàng cảm thấy gai gai cả người.
- Bà… bà nói với cháu là anh ấy mãi đến khuya mới về
kia mà… - Cuối cùng nàng nói có vẻ ấm ức.
Bà Arquette cảm thấy như bị xúc phạm.
- Tôi… có nói với cô như vậy đâu. Trời đất, nếu không
đợi cậu ấy, sao cô lại ngồi đây nãy giờ?
- Điện thoại…
Bà chủ nhà há miệng, ngạc nhiên.
- Thế ra là cô đấy à? Cô gọi vào khoảng một giờ phải
không?
Ellen gật đầu một cách thảm hại.
- Sao cô không nói cho tôi biết chính là cô chứ? Tôi cứ
ngỡ là một cô sinh viên ngu ngốc nào đấy. Bất cứ ai gọi
mà không xưng tên thì bao giờ tôi cũng trả lời là cậu
ấy đi vắng. Thậm chí ngay lúc đó có cậu ấy ở nhà
chăng nữa. Cậu ấy nhờ tôi trả lời như thế. Vẻ niềm nở
trên khuôn mặt bà biến mất. Đôi mắt vô hồn, đôi môi mỏng
dính mím lại cau có, nghi ngờ – Nếu cô biết cậu ấy đi
suốt ngày, cớ sao cô lại đến đây? – Giọng bà hỏi chậm
rãi, dò chừng.
- Cháu… muốn gặp anh. Anh nói nhiều chuyện…
- Thế sao cô còn hỏi tôi về những thứ chuyện kia? – Bà
đứng lên.
Ellen với tay lấy áo khoác ngoài. Thoắt một cái, bà
Arquette chộp lấy cánh tay của Ellen, những ngón tay bấu
chặt vào da thịt khiến nàng đau nhói.
- Bà bỏ tay cháu ra…
- Tại sao cô lại rình mò trong phòng Gordon hả?
Khuôn mặt bành bạch nhìn sát vào mặt Ellen, đôi mắt
trợn tròn nhìn nàng ánh lên nét giận dữ, làn da mặt
xù xì đỏ bừng lên.
- Cô muốn lấy cái gì ở trong phòng? Cô lấy cái gì trong
lúc tôi xoay lưng lại hả?
Phía sau nàng có tiếng sột soạt, giọng của ông Fishback
đầy vẻ kinh ngạc:
- Tại sao cô ta lại muốn ăn cắp đồ của anh cô ta?
- Ai bảo cô ta là em họ của cậu ấy chứ? – Bà Arquette
bắt bẻ.
Ellen đang tìm cách dứt ra khỏi bàn tay của bà.
- Bà bóp tay cháu đau quá.
Đôi mắt lờ đờ nhíu lại.
- Tôi không xếp cô vào bọn con gái khốn kiếp kia muốn
tìm kiếm mọt vật kỉ nịêm hay gì đấy của cậu Gordon.
Nhưng tại sao cô đặt nhiều câu hỏi như thế?
- Cháu là em họ của gordon. Cháu nói thật mà – Ellen cố
nói với giọng bình tĩnh – Bây giờ cháu muốn đi. Bà
không có quyền giữ cháu ở lại đây. Cháu sẽ gặp anh ấy
sau.
- Có phải gặp cậu Gordon ngay bây giờ. Cô phải ở đây đến
khi cậu ấy về – Bà đưa mắt nhìn qua vai Ellen – Bác
Fishback, hãy chặn cửa sau lại. – Bà nhìn ông đi về phía
đó rồi bỏ tay Ellen ra. Bà nhanh nhẹn đến khóa cánh
cửa, đứng khoanh tay trước ngực, gằn giọng:
- Tôi phải tìm cho ra lẽ mới hả giận.
Ellen lấy tay xoa chỗ bà Arquette bấu lúc nãy. Nàng nhìn
người đàn ông và người đàn bà đang đứng án ngữ ở hai
đầu nhà bếp – Ông Fishback với đôi mắt mang kính nhấp
nháy một cách bứt rứt, bà Arquette nét mặt nhăn nhó,
giận dữ, lạnh lùng.
- Các người không có quyền làm thế? – Ellen nhặt cái ví
rơi trên sàn nhà lên, lấy áo choàng vắt qua tay – Hãy để
cháu đi.
Giọng nói của nàng cương quyết nhưng cả hai người vẫn
đứng yên. Họ nghe có tiếng cửa đóng và tiếng bước chân
lên cầu thang.
- Cậu Gordon – Bà Arquette lớn tiếng gọi – Cậu Gordon.
Tiếng chân dừng lại.
- Chuyện gì thế, bác Arquette?
Bà chủ xoay người chạy về phía phòng khách. Ellen đưa
mắt nhìn ông Fishback. Nàng khẩn khoản:
- Bác để cháu đi. Cháu có làm gì trái quấy đâu.
Ông khẽ lắc đầu từ chối.
Nàng đứng bất động, nghe giọng nói hổn hển đầy vẻ
kích động của bà Arquette vọng lại ở phía sau lưng
nàng. Những tiếng bước chân tiến đến gần cửa, giọng
nói lớn dần.
- Cô ta hỏi mãi về cậu, về những cô gái cậu đã quen năm
vừa qua. Cô đánh lừa tôi để đưa cô ta vào phòng của cậu.
Cô ta đứng nhìn sách và thư từ ở trên bàn… - Giọng nói
của bà oang oang dội khắp nhà bếp – Đấy, cô ta đấy.
Ellen quay người về đàng sau. Bà Arquette đứng bên trái
cạnh bàn, tay chỉ về nàng kết tội. Gant đứng dựa vào
khung cửa, người cao lớn, vững chắc trong chiếc áo màu
lục đậm cổ cao, sách cầm trong tay. Hắn nhìn nàng một
hồi lâu, môi mỉm cười, đôi lông mày hơi nhíu lại. Hắn
rời khung cửa, bước vào nhà bếp, để sách trên tủ lạnh,
mắt vẫn không rời Ellen.
- À cô em họ Hester. – Hắn bỗng nói, đôi mắt nhấp nháy
như dò xét, đánh giá – Cô lớn nhanh quá, trông lạ hẳn.
Rồi đi vòng quanh bàn, hắn đến bên cạnh đặt tay lên vai
nàng, mừng rỡ nhẹ hôn lên má nàng.
o0o
|