Anh đề nghị tổ công vụ của ban tin CBA dàn xếp chỗ ngủ trên
chiếc Learjet, và rất vui mừng khi thấy việc đó đă xong. Ở phía
phải khoang hành khách, hai số ghế đối diện đă được hạ thấp làm
giường, có đệm, trải ga và chăn mền thật đầy đủ. Phía bên kia
khoang hành khách cũng có thể tạo thành một giường nữa, nhưng
Minh Văn Cảnh và O’Hara sẽ phải dàn xếp với nhau về chuyện đó.
Nhưng dù thế nào đi nữa, anh không cho rằng họ sẽ phải qua một
đêm vất vả như anh.
Tới khi máy bay cất cánh và vào hành lang bay, Partridge đă ngủ.
Anh ngủ rất ngon suốt ba tiếng liền, tỉnh dậy trrong ánh sáng mờ
mờ của cabin; ai đó đă có nhă ư hạ rèm cửa sổ, mặc dù ánh mặt
trời vẫn sáng rơ quanh riềm cửa sổ. Phía bên kia, Minh Văn Cảnh
co người trên ghế và đang ngủ, O’Hara cũng đang ngủ trên chiếc
ghế phía sau.
Partridge nh́n đồng hồ: chín giờ sáng, giờ New York, nhưng ở
Lima mới là tám giờ. Giờ lịch tŕnh bay mà người phụ lái mang
tới trước khi cất cánh, anh tính thấy c̣n hai tiếng nữa máy bay
mới hạ cánh ở Bogota để lấy thêm dầu. Tiếng động cơ phản lực đều
đều nhưng không ầm, và máy bay không hề chao đảo. Partridge chợt
nghĩ tới câu “chuyến đi êm như lụa”. Ḷng đầy khoan khoái, anh
lại ngă người và nhắm mắt.
Nhưng lần này anh không ngủ được. Có lẽ giấc ngủ ba tiếng vừa
rồi đă đủ. Có lẽ quá nhiều việc đă xảy ra trong một khoảng thời
gian quá ngắn, làm anh không thể nghỉ được lâu. Vào những dịp
khác trước đây, anh cũng đă thấy anh không cần đến giấc ngủ
trong những lúc căng thẳng và phải hành động. Bây giờ đây, hoặc
cũng không lâu nữa, chính là lúc như vậy. Đúng, anh sắp sửa phải
hành động, có lẽ theo nghĩa đen là sắp vào trận, và anh cảm thấy
các giác quan của anh đang bắt đầu hoạt động.
Anh cho rằng cảm giác đó luôn yên ngủ trong anh, nhưng cuộc
chiến Việt Nam đánh thức nó, và sau đó, các cuộc chiến tranh ở
những nơi khác đă thoả măn nhu cầu của anh. Chính cái đó đă biến
anh thành một phóng viên “pằng, pằng” theo tiếng lóng của giới
làm tin truyền h́nh, cái tên thường làm anh khó chịu, nhưng nay
đă quen tai.
Mà gọi thế cũng được chứ sao? Có những lúc cần phải có những tay
“pằng pằng” như anh, giống như Balaklava cần loại lính làm các
công việc của họ trong khi:
Đạn pháo bên trái,
Đạn pháo bên phải
Đạn pháo trước mắt
Nổ như sấm sét
Anh mỉm cười, thích thú trước chất lăng mạn của Tennyson và cả
của anh.
Với anh, không phải lúc nào cũng thế. Có lúc, khi c̣n Gemma, anh
tự biết phải tránh xa chiến tranh và nguy hiểm; v́ cuộc đời ngọt
ngào và quá ư hạnh phúc, tội ǵ phải chuốc lấy cái chết đột ngột.
Vào lúc đó, anh biết trong hăng mọi người nói với nhau, đại thể
là: hăy giao cho Harry những công vụ an toàn. Hăy để các phóng
viên mới theo tiếng súng trận một thời gian đi.
Tất nhiên, sau đó mọi chuyện thay đổi. Khi Gemma không c̣n nữa,
người ta cũng thôi không bảo vệ anh, và lại phái anh đi đưa tin
các cuộc chiến, một phần v́ anh rất giỏi trong việc đó, một phần
v́ anh nói với họ anh chẳng quan tâm đến chuyện nguy hiểm hay
không. Anh tự nghĩ chính điểm sau là một lư do tại sao anh đang
ở đây vào lúc này.
Thật kỳ lạ là từ khi công chuyện này bắt đầu, đầu óc anh luôn
nhớ lại những ngày sống với Gemma. Chính trong lần bay từ
Toronto ngay sau vụ bắt cóc, anh đă nhớ lại chuyến bay với Giáo
hoàng trên chiếc DC-10 của hăng Alitalia và gặp gỡ Gemma… câu
chuyện của anh với Đức Giáo hoàng, về cụm từ dễ lẫn “nô lệ -
Slaves” mà anh đă làm rơ… rồi Gemma mang đến cho anh khay đồ ăn
sáng cùng một bông hồng.
Một ngày sau đó (hay là hai ngày nhỉ) đêm nằm trong khách sạn
anh lại càng nhớ tới chuyện đă nặng ḷng yêu Gemma, và ngay
trong chuyến công du ấy của Đức Giáo hoàg, anh đă đề nghị cưới
Gemma… Trong một lần máy bay đỗ lại, họ thuê tắc xi tới khu phố
cổ ở Panama, và Gemma đứng cạnh anh trong khi cha xứ tuyên bố họ
thành vợ chồng trong căn pḥng trang hoàng lộng lẫy của ông.
Rồi mới chỉ tuần trước, sau khi tới thăm Crawford Sloane ở
Larchmont trở lại Manhattan, trong bóng tối của chiếc xe hơi,
anh lại nhớ đến những tháng ngày t́nh tứ, tươi vui mà anh sống
với Gemma ở Roma, nơi mà t́nh yêu của họ ngày càng nồng thắm;
tài thiên phú mang đến tiếng cười và niềm vui cho mọi người của
Gemma; nhớ cuốn séc mà nàng không bao giờ có thể cân bằng thu
chi, chiếc xe mà nàng lái chạy như điên làm anh sợ hết hồn… cho
đến ngày nàng giao lại ch́a khoá xe khi mang thai. Rồi sau đó là
tin họ thuyên chuyển từ Roma qua London.
Lúc này ở đây, trên chuyến bay này, với những giây phút yên lặng
hơn, anh lại nghĩ tới Gemma. Lần này, khác với những lần trước,
anh không ḱm giữ mà để mặc cho kư ức tuôn tràn.
Cuộc sống của họ ở London tốt đẹp đến mức khó tin. Họ thuê lại
căn pḥng xinh xắn có sẵn đồ đạc ở St. John’s Wood mà người tiền
nhiệm của anh vừa rời đi. Gemma nhanh chóng thêm những nét điểm
xuyết theo màu sắc và phong cách của nàng. Các pḥng bao giờ
cũng đầy hoa. Nàng treo các tranh hoạ mà họ mang theo từ Roma,
mua sắm đồ sứ và khăn trải bàn ở Kensington, và mua thêm bức
tượng đồng bóng loáng của một hoạ sĩ trẻ mới vào nghề có pḥng
trưng bày ở phố Cork.
Ở văn pḥng London của Ban tin CBA, công việc của Partridge đều
trôi chảy. Một số bài anh viết về nước Anh, c̣n các bài khác về
các nước lục địa như Pháp, Hà Lan, Đan Mạch và Thuỵ Điển, nhưng
chẳng mấy khi anh vắng nhà lâu. Khi không phải làm việc, anh
cùng Gemma thăm cảnh London, thích thú khi cùng phát hiện lịch
sử, vẻ lộng lẫy, những điều lạ lùng và kỳ dị, thường là ở những
phố hẹp đầy bí ẩn mà một vài phố vẫn c̣n hệt như Dickens đă miêu
tả, hoặc ở quanh các góc phố ṿng vèo.
Phố xá ngoằn ngoèo như ma trận làm Gemma rối trí, và nàng thường
bi lạc. Khi Partridge bảo rằng các khu của Roma cũng phức tạp
không kém, nàng lắc đầu không chịu: “Không phải vô t́nh mà người
ta gọi nó là “thành phố bất diệt” đâu, Harry thân yêu. Ở Roma,
anh cứ việc đi tới, có cái ǵ đó anh có thể cảm nhận được. C̣n
London th́ cứ như chơi tṛ mèo vờn chuột với ta, làm ta xoay như
chong chóng, không biết đâu mà lần. Nhưng em lại thích, v́ nó
giống như tṛ chơi ấy”.
Giao thông trong thành phố cũng làm Gemma bối rối. Đứng cùng
Partridge trên tam cấp của Bảo tàng Quốc gia, nh́n ḍng xe hơi,
tắc xi, xe buưt hai tầng phóng nhanh ṿng quanh quảng trường
Trafalgar, nàng bảo anh: “Trông nguy hiểm quá, anh ạ. Tất cả đều
đi trái đường”. Rất may là, v́ rằng không làm sao quen được việc
lái xe chạy phía trái, nên nàng không hề muốn sử dụng xe hơi của
họ, và khi Partridge không có nhà, nàng đành chịu đi bộ xa hoặc
đi xe điện ngầm hay tắc xi.
Bảo tàng Quốc gia chỉ là một trong nhiều bảo tàng mà họ tới thăm;
nhiều cảnh khác, thông thường hay kỳ lạ, đều làm họ thích thú,
từ việc đổi gác ở Cung điện Buckingham, đến việc ngắm những cửa
sổ bịt gạch trên những ngôi nhà cổ, dấu vết của thời đầu thế kỷ
XVIII, khi mở cửa sổ cũng bị đánh thuế để lấy tiền cung cấp cho
các cuộc thiến tranh với Napoleon.
Người hướng dẫn họ thuê trong ngày giới thiệu với họ tượng Nữ
hoàng Anne đă lưu ư họ rằng Nữ hoàng đă mang thai mười chín lần,
và được chôn trong chiếc quan tài có bốn foot và tám inch vuông.
Và ở biệt thự New Zealand, trước là khách sạn Carlton, anh ta
bảo họ rằng Hồ Chí Minh dă từng làm chân phụ bếp ở đây – toàn
những chuyện Gemma rất ưa thích, và nàng hư hoáy ghi đặc dần
trong cuốn sổ nhỏ.
Chủ nhật, họ thích tới thăm Góc Diễn giả gần Marble Arch, là nơi
như Partridge giải thích: “Các nhà tiên tri, những kẻ to mồm và
những thằng điên được quyền nói ngang nhau”.
“Chuyện đó có sao đâu, Harry?”, có lần sau khi nghe anh nói,
nàng hỏi lại. “Một số bài diễn văn mà anh đưa tin một cách
nghiêm chỉnh trên vô tuyến đâu có hơn ǵ? Anh nên viết một bài
về Góc Diễn giả này trên bản tin truyền h́nh”.
Ngay sau đấy, anh gợi ư đó với New York và Vành móng ngựa trả
lời đồng ư. Anh liền viết một bài và nó trở thành “tin cuối cùng”
vui vui kết thúc bản tin tối thứ sáu được mọi người rất khen.
Một chỗ khác họ thích đến thăm và ăn chiều ở đó là khách sạn
Brown, do ông quản gia của Huân tước Byran sáng lập; có cái ǵ
đó rất Ăng lê trong cung cách phục vụ không chê vào đâu được,
bánh mỳ xăng đuưch tuyệt ngon, bánh kiều mạch, mứt dâu và kem
xốp Devonshire. Thật cứ như nghi lễ tế thần ấy, anh yêu ạ”,
Gemma bảo. “Giống như lễ ban bánh thánh, nhưng ngon hơn”.
Tóm lại những ǵ họ cùng nhau làm đều trở thành những giờ phút
vui tươi. Trong khi đó, cái thai lớn dần, họ lại có thêm những
hạnh phúc đầy hứa hẹn.
Lúc Gemma mang thai tháng thứ bảy th́ Partridge phải qua Paris
một ngày. V́ thiếu người, Văn pḥng Ban tin CBA ở đó cần có
người để đưa tin về những lời buộc tội một bộ phim của Mỹ mà
người ta cho là đă mô tả có ư phê phán và không chính xác Phong
trào kháng chiến Pháp hồi thế chiến hai. Partridge đă viết bài
về việc đó, gửi bằng vệ tinh qua London, về New York, nhưng tự
anh không chắc nó có đủ tầm quan trọng để được đưa vào bản tin
chiều hay không. Rốt cuộc là không.
Rồi khi chuẩn bị rời văn pḥng Paris ra máy bay về nhà, người ta
đưa ống nghe cho anh và bảo: “Lodon muốn nói chuyện với anh.
Zeke đang ở đầu dây bên kia”.
Zeke tức là Ezekiel Thomson, trưởng phân xă London, người to lớn,
thô, khó tính và đen; những người làm việc với ông đều cho rằng
ông chẳng có t́nh cảm ǵ hết. Nghe ông nói, cảm giác đầu tiên
của Partridge là giọng ông nghẹn ngào, đứt đoạn: “Harry, tôi
chưa bao giờ làm việc này… Tôi không biết nên thế nào… nhưng tôi
phải nói với anh…”, ông cố gắng nói. Nhưng rồi ông cũng nói nốt
được. Gemma đă chết. Nàng bắt đầu qua phố ở ngă tư đường đầy xe
cộ qua lại. Những người chứng kiến nói rằng nàng không nh́n bên
phải mà lại xem chừng bên trái… Ôi, Gemma; Gemma thân yêu, Gemma
tuyệt vời, Gemma đăng trí! Em đă tin mọi người ở Anh đều đi trái
đường; em vẫn chưa biết nh́n hướng nào khi đi bộ qua phố giữa
ḍng xe cộ… Một xe tải từ bên phải lao tới, đâm ngang người nàng.
Những người thấy tai nạn nói lại người lái xe tải không có lỗi,
anh ta không thể nào tránh được…
Về sau, Partridge được biết thằng con sắp sinh của họ cũng chết.
Partridge trở về London. Sau khi lo liệu xong những việc phải
làm, anh đă khóc khi c̣n lại một ḿnh trong căn pḥng hai người
đă sống. Suốt mấy ngày anh ở trong nhà, từ chối tiếp bất cứ ai,
để mặc cho nước mắt tuôn rơi, không chỉ v́ Gemma, mà v́ suốt
những năm qua, anh chưa bao giờ khóc. Cuối cùng th́ anh cũng đă
khóc cho trẻ nhỏ xứ Galles đă chết ở Aberf mà chính mắt anh đă
thấy những thi thể thảm thương của chúng được lôi lên từ trong
vũng bùn nhầy nhụa. Anh khóc cho những người đang đói lả ở châu
Phi; nhiều người đă chết ngay trước ống kính máy quay, c̣n anh,
mắt ráo hoảnh, ghi chép những điều đă thấy vào sổ tay. Anh khóc
cho tất cả những người ở nhiều vùng đất đau thương mà anh đă tới;
anh đứng giữa những người đă chịu nhiều mất mát, nghe họ than
văn, kể lể niềm đau, c̣n anh chỉ là một phóng viên đang lượm
tin, thế thôi.
Đâu đó, anh nhớ lại những lời mà một nữ bác sỹ tâm thần có lần
đă nói với anh: “Anh đang tích nó lại, nén chặt t́nh cảm đâu đó
trong anh. Rồi tới một ngày nào đó, nó sẽ phá vỡ và trào ra, và
anh sẽ khóc. Ôi, anh sẽ khóc mới nhiều làm sao!”.
Sau đó, anh cố nhớ lại, anh đă gượng lại được. Ban tin CBA cũng
đă giúp anh bằng cách làm anh luôn bận rộn, không c̣n lúc nào
rảnh mà hồi tưởng suy tư; khi công vụ khó khăn này vừa xong, họ
liền giao cho anh việc khác. Hễ có cuộc xung đột hoặc nơi nguy
hiểm nào trên thế giới là Harry Partridge được phái tới ngay.
Anh lao vào nguy hiểm, nhưng đều vượt qua được, cho tới lúc mọi
người và ngay cả anh cũng thấy h́nh như anh được thần linh che
chở. Cứ thế, năm tháng trôi qua lúc nào không biết.
Đến bây giờ, có nhiều lúc tuy không thể nào quên Gemma, anh có
thể chí ít là không nghĩ tới nàng trong thời gian khá lâu. Nhưng
lại có những khi, như hai tuần sau vụ bắt cóc người nhà Sloane,
đầu óc anh lại luôn nghĩ về nàng.
Dẫu sao th́ từ sau những ngày tuyệt vọng sau cái chết của Gemma
ấy, anh không c̣n khóc nữa.
Cuối cùng giấc ngủ cũng đă trở lại với anh trên chiếc máy bay
Learjet lúc này c̣n cách Bogota khoảng một giờ bay. Và trong tâm
tư Harry Partridge, quá khứ, và hiện tại hoà trộn với nhau…
Gemma – Jessica thành một… Gemma – Jessica… Gemma – Jessica… Cho
dù khả năng có mong manh thế nào đi nữa, anh cũng sẽ t́m thấy và
đưa nàng về… Dù thế nào, anh cũng sẽ cứu được nàng. Anh ngủ
thiếp đi.
Anh tỉnh lại khi chiếc Learjet đă gần tới Bogota.
Chương 2
Partridge nghĩ sự tương phản của Lima cũng
rơ ràng, trần trụi như những cuộc khủng hoảng và xung đột chính
trị và kinh tế vốn đang chia năm xẻ bảy đất nước Peru.
Thủ đô rộng lớn, trải dài tứ phía và buồn tẻ này chia thành
những khu vực khác nhau, mỗi khu đều tương phản giữa sự phồn hoa
cực thịnh và sự nghèo khổ cùng cực mà hận thù như mũi tên tẩm
thuốc độc xuyên giữa hai thái cực đó. Không giống những thành
phố khác mà anh biết, thành phố không có khu vực trung gian giữa
hai cực. Những khu nhà đồ sộ với khu vườn tỉa xén gọn gàng trên
vùng đất đẹp nhất của Lima liền kề với những barriadas, tức
những khu ổ chuột tồi tàn chen chúc nhau.
Những cư dân khu ổ chuột, nhiều người chui rúc trong những túp
lều lợp các-tông bẩn thỉu, trông thật đáng thương, ánh mắt đầy
vẻ căm giận, đến nỗi trong những lần trước đây Partridge đến,
anh có cảm giác một cuộc cách mạng sắp bùng nổ. Lúc này, vào
ngày đầu ở đây, anh được biết h́nh như sắp có cuộc nổi dậy nào
đó.
Partridge, Minh Văn Cảnh và Ken O’Hara hạ cánh xuống sân bay
Jorge Chavez ở Lima lúc một giờ bốn mươi phút chiều. Người đón
họ là Fernandez Pabur, phóng viên địa phương thường viết tin cho
CBA về Peru, và khi được yêu cầu, như bây giờ chẳng hạn, sẽ là
người thu xếp các công việc của hăng.
Anh ta dẫn ba người qua các khâu xuất nhập cảnh và hải quan
trong khi mọi người c̣n đang phải xếp hàng chờ - xem ra anh ta
đă giúi tiền cho các nhân viên từ trước – rồi đưa họ ra chiếc xe
Ford to, người lái đang đợi sẵn.
Fernandez chạc ba mươi lăm tuổi, người to béo, da nâu sẫm, hoạt
bát, môi cong và răng trắng bóng mà chốc chốc anh ta lại phô ra
trong cái rơ ràng anh hy vọng là nụ cười tươi. Thế nhưng, thực
ra đâu có được như thế, nhưng Partridge cũng chẳng để ư. Anh đă
nhiều dịp cần đến Fernandez và cái mà anh thích ở anh ta là, với
tư cách người thu xếp công việc, anh ta biết ngay cần làm ǵ và
được việc.
Kết quả đầu tiên là thuê được cho Partridge một pḥng nhiều
buồng, và hai buồng kha khá cho hai người kia trong khách sạn
Cesar năm sao loại sang ở Miraflores.
Tại khách sạn, trong khi Partridge tắm rửa và thay sơ mi, theo
yêu cầu của anh, Fernandez gọi điện xin gặp người quen cũ là ông
Sergio Hurtado, phát thanh viên, đồng thời là trưởng ban biên
tập tin của Đài phát thanh Andes.
Một tiếng sau, Partridge đă được gặp ông trong pḥng phát thanh
được dùng luôn là văn pḥng.
“Anh bạn Harry thân mến, tôi chỉ có thể cung cấp cho anh những
tin tức đáng buồn”, Sergio nói khi trả lời một câu hỏi của anh.
“Ở nước tôi, việc quản lư bằng pháp luật đă biến mất rồi. Ngay
cả cái vỏ ngoài dân chủ cũng không c̣n. Dân chủ không tồn tại
nữa. Chúng tôi đă sụp đổ hoàn toàn. Giết người v́ động cơ chính
trị là chuyện cơm bữa. Chính đảng của Tổng thống có những đội
chuyên đi giết người riêng. Mọi người tự nhiên mất tích. Tôi xin
nói với anh, chúng tôi gần đến một cuộc tắm máu hơn bất cứ lúc
nào trong lịch sử Peru. Tôi cứ ao ước giá như những chuyện này
không phải là thực. Nhưng lạy Chúa, đó lại là thực”.
Mặc dù thân thể đă phát ph́, cái giọng trầm ấm ngọt ngào của ông
ta vẫn mạnh mẽ và có sức thuyết phục như ngày nào, Partridge
nghĩ. Chỉ không hiểu sao Sergio lại có thể điều khiển được số
người nmghe lớn nhất Peru, v́ đài phát thanh vẫn là phương tiện
đưa tin chủ yếu, quan trọng và có ảnh hưởng lớn hơn truyền h́nh.
Khán giả truyền h́nh chủ yếu chỉ tập trung ở các thành phố lớn
hơn.
Chiếc ghế cọt kẹt liên hồi dưới khối thịt nặng như trái núi mỗi
khi Sergio cựa ḿnh. Hai má chảy xệ trông như hai tảng xúc xích
quá to. Đôi mắt nhỏ dần cùng năm tháng, trong khi mặt ông to dần,
nay ti hí như mắt lợn. Tuy nhiên, đầu óc cũng như tŕnh độ học
vấn đă qua đại học Harvard ở Mỹ của ông không hề bị ảnh hưởng.
Sergio rất thích thú việc rất nhiều phóng viên Mỹ tới thăm ông
để được nghe những ư kiến rất nhiều thông tin của ông.
Sau khi thoả thuận rằng cuộc nói chuyện này không được dùng đưa
tin trước tối hôm sau, Partridge nói lại toàn bộ sự việc của vụ
bắt cóc người nhà Sloane, rồi anh hỏi: “Anh khuyên tôi nên thế
nào, Sergio? Anh có nghe được ǵ may ra giúp ích được tôi chăng?”.
Ông phát thanh viên lắc đầu “Tôi chẳng nghe biết ǵ, mà điều đó
cũng chẳng có ǵ phải ngạc nhiên. Sendero tài giữ kín chuyện lắm,.
Chủ yếu v́ họ giết ngay người nào nói năng không thận trọng:
muốn sống th́ đừng có nói lung tung. Nhưng tôi sẽ giúp anh nếu
có thể được, bằng cách ḍ hỏi xem sao. Tôi có nguồn thông tin ở
nhiều nơi lắm”.
“Cám ơn anh”.
“Về bản tin anh phát tối mai, tôi sẽ kiếm băng thu qua vệ tinh
và sửa cho thích hợp loại tin đài phát thanh của tôi. Trong khi
đó, chúng tôi cũng chẳng thiếu ǵ tin về tai hoạ. Đất nước này
đang lụn bại cả về chính trị, kinh tế và tất cả các mặt khác”.
“Chúng tôi nghe nhiều tin khác nhau về Sendero Luminoso, có thực
là chúng ngày càng lớn mạnh không?”.
“Câu trả lời là có; không những ngày càng lớn mạnh, mà ngày càng
kiểm soát đất nước này nhiều hơn. Chính v́ vậy cái việc anh tự
đặt cho anh ấy sẽ là rất khó, có người c̣n cho là không thể thực
hiện được. Cứ cho là những người bị bắt cóc đang ở đây đi nữa,
th́ có cả ngàn chỗ khuất nẻo mà họ có thể bị giam kín ở đó. Song
tôi rất mừng anh chọn tôi là người đầu tiên để hỏi, v́ tôi sẽ
khuyên anh được đôi điều”.
“Anh khuyên tôi thế nào?”.
“Đừng trông mong chính quyền giúp đỡ; tôi muốn nói tới quân đội
và cảnh sát ấy. Thực ra, đừng coi họ là đồng minh bởi v́ họ
không c̣n đáng tin cậy nữa, nếu như trước đây có lúc nào họ đă
từng đáng tin cậy. Nói về chuyện chém giết, họ chẳng hơn ǵ
Sendero và chắc chán cũng tàn bạo không kém”.
“Anh có những dẫn chứng mới đấy không?”.
“Vô khối. Nếu anh muốn, tôi xin dẫn chứng một vài vụ”.
Partridge bắt đầu nghĩ đến những tin tức anh sẽ gửi về cho Bản
tin chiều. Trước khi đi, anh đă bàn là thứ bảy sau khi Rita
Abrams và biên tập viên Bob Watson tới họ sẽ cùng soạn một bài
cho buổi phát tin hôm thứ hai. Partridge hy vọng sẽ có được
nhiều thông tin xác thực của Sergio Hurtado và những người khác
cho bài viết đó.
Lúc này anh hỏi: “Anh nói dân chủ không tồn tại. Đó là lối nói
hoa mỹ hay thực sự là thế?”.
“Không chỉ thực, mà đối với đa số người ở đây, nên dân chủ có
tồn tại hay không cũng chẳng giúp họ đổi đời được”.
“Anh nói hơi quá, Sergio ạ”.
“Chẳng qua là v́ cách quan niệm chật hẹp của anh thôi. Người Mỹ
cho dân chủ là phương thuốc chữa bách bệnh, ngày uống ba lần
theo đơn như uống thuốc. Nó có tác dụng đối với họ th́ cũng phải
có tác dụng với các nước khác chứ! Nhưng nước Mỹ ngây thơ quên
rằng để nền dân chủ có thể phát huy được, th́ đa số dân chúng
cũng cần có chút của ăn của để đáng công giữ ǵn chứ? Nói chung,
phần lớn người dân Mỹ La tinh chẳng có ǵ. Tất nhiên câu hỏi
tiếp là “tại sao?”.
“Thôi được, anh cứ nói đi. Tại sao nào?”.
“Ở những khu vực có nhiều vấn đề rắc rối nhất trên thế giới,
trong đó có khu vự chúng tôi, có hai nhóm ngươi chính: một nhóm
là những người có học thức và giàu có; c̣n nhóm kia gồm những
người dốt nát, nghèo khổ đến cùng cực và đa số là không có việc
làm. Nhóm đầu sinh sôi cũng vừa phải, chứ nhóm sau đẻ như ruồi,
ngày càng ph́nh to hơn, như một trái bom giờ sẵn sàng nổ phá tan
nhóm kia”. Sergio chỉ tay ra sau: “Anh cứ ra ngoài sẽ thấy ngay”.
“Vậy các anh có giải pháp nào không?”.
“Nước Mỹ giúp đỡ. Không phải bằng cách cung cấp súng đạn và tiền
bạc, mà bằng cách phái đi khắp thế giới các đội dạy cách hạn chế
sinh đẻ, như kiểu các đội hoà b́nh thời Kennedy ấy. À, cũng phải
mất tới vài thế hệ mới ổn, nhưng hạn chế được sự tăng dân số có
thể cứu được nhân loại”.
“Anh quên một điều rồi sao?”, Partridge hỏi.
“Anh định nói Nhà thờ Thiên chúa giáo chứ ǵ? Tôi xin nói với
anh, chính tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo. Tôi cũng có
nhiều bạn bè công giáo, những người có địa vị xă hội, có học
thức và giàu có. Có điều lạ là phần lớn họ rất ít con. Tôi
thường tự hỏi: chả lẽ họ là những kẻ tiết dục hay sao? Tôi chắc
là không, v́ tôi quen biết cả vợ và chồng. Nhiều người nói thẳng
ra là họ không tuân theo giáo lư nhà thờ, một thứ giáo lư do con
người đặt ra, về việc hạn chế sinh đẻ”. Rồi ông nói thêm: “Với
việc người Mỹ khởi xướng vấn đề này, sẽ ngày càng có nhiều người
lên tiếng chống đối giáo lư đó”.
“Thành thực hỏi nhé”, Partridge nói, “anh có sẵn ḷng nhắc lại
những điều anh nói trước ống kính máy thu h́nh không?”.
Sergio nhún vai, dang rộng cánh tay: “Harry thân mến! Tại sao
lại không chứ? Có lẽ cái lớn nhất mà nước Mỹ làm nảy nở trong
tôi là ḷng khát khao tự do phát ngôn. Trên đài phát thanh, tôi
nói năng thoải mái, nhưng lắm lúc cũng tự hỏi, họ c̣n để tôi làm
vậy bao lâu nữa? Cả chính phủ lấn Sendero không ưa những điều
tôi nói, mà cả hai đều sẵn súng đạn. Song ở đời, ai người sống
măi được. V́ thế, Harry ạ, tôi sẽ v́ anh mà làm việc đó”.
Đằng sau lớp mỡ dày cộm kia là một con người sống có nguyên tắc
và dũng khí, Partridge nghĩ thầm.
o0o
Trước khi tới Peru, Partridge nghĩ chỉ có một cách duy nhất để
ḍ t́m tung tích các nạn nhân của vụ bắt cóc: anh sẽ phải tiến
hành công việc b́nh thường của một phóng viên tin vô tuyến
truyền h́nh, tức là gặpc các mối tin cũ, t́m thêm nguồn tin mới,
săn tin, đi đó đi đây ḍ hỏi, hy vọng thu lượm được tin nào đó
có thể là manh mối giúp t́m ra nơi các nạn nhân bị giam giữ.
Tất nhiên, vấn đề lớn hơn là sau đó làm thế nào cứu được họ?
Nhưng đến lúc đó rồi sẽ tính. Partridge hiểu rằng, trừ phi bất
chợt gặp may, c̣n không, t́m ra họ là cả một quá tŕnh lao tâm
khổ tứ, tốn nhiều thời gian.
Tiếp tục công việc thường nhật của một phóng viên truyền h́nh,
anh tới thăm Entel Peru, công ty viễn thông quốc gia có trụ sở ở
trung tâm Lima. Entel là nơi CBA dùng liên lạc với New York, kể
cả liên lạc qua vệ tinh. Thường th́ một hoặc hai ngày sau khi
tới Lima, phóng viên thuộc các hăng truyền h́nh Mỹ đều sử dụng
các phương tiện liên lạc của Entel.
Victor Velaso, chủ nhiệm Ban quốc tế mà Fenandez Pabur đă gọi
điện hẹn trước, là một người lúc nào cũng vội vă, bận rộn. Ông
trạc ngoài bốn mươi, tóc đă nhuốm bạc và mặt luôn đầy vẻ lo âu.
Velaso rơ ràng c̣n đang bận tâm về nhiều vấn đề khác khi ông bảo
Partridge: “Cũng khó t́m chỗ đấy, song chúng tôi có thể dành cho
biên tập viên cùng trang thiết bị của anh ấy một pḥng nhỏ có
mắc hai máy điện thoại. Các anh cần phải làm thẻ ra vào…”.
Partridge hiểu rằng ở đất nước như Peru này, nơi chính khách và
các nhà lănh đạo quân sự chỉ có việc khoe mẽ và làm giàu, th́
chính những ít vai vế như Velaso, những con người cần mẫn, làm
việc quá sức với đồng lương quá thấp lại là người thực sự làm
cho đất nước luôn hoạt động. Khi c̣n ở khách sạn, Partridge đă
đút một ngàn đôla vào một phong b́, lúc này anh lấy ra và đưa
cho Velaso.
“Ông Velaso, xin gửi ông món quà nhỏ để tỏ ḷng biết ơn ông đă
giúp đỡ nhiều. Chúng tôi sẽ tới thăm ông trước khi đi…”.
Velaso có vẻ bối rối một lát, làm Partridge chỉ sợ ông ta không
nhận. Rồi khi nh́n vào phong b́ và thấy tiền Mỹ trong đó, ông ta
gật đầu và nhét vào túi.
“Cám ơn anh. Nếu cần ǵ, các anh cứ…”.
“Sẽ cần đấy”, Partridge nói: “Chỉ có mỗi điều đó là tôi dám nói
chắc”
o0o
“Anh làm ǵ mà lâu thế, Harry?”, Manuel Leon Seminario hỏi khi
Partridge vừa từ Entel Peru trở về khách sạn quăng sau năm giờ
chiều và gọi điện cho ông ta. “Từ bữa anh gọi điện cho tôi, tôi
cứ đợi anh hoài”. “Tôi có mấy việc phải giải quyết ở New York!”,
Partridge nhớ lại cuộc nói chuyện qua điện thoại giữa anh và ông
chủ bút kiêm chủ tạp chí Escena cách đây mươi ngày, vào lúc đó,
việc Peru dính dáng vào vụ bát cóc người nhà Sloane mới chỉ là
khả năng, chứ chưa phải là điều chắc chắn như bây giờ. Anh hỏi:
“Manuel, không biết anh đă hẹn ăn tối với ai chưa?”. “Có đấy!
Tôi sẽ dùng bữa ăn tối vào lúc tám giờ tại nhà hàng La Pizzria
và khách của tôi là Harry Partridge”.
Lúc này là tám giờ mười lăm; hai người đang ngồi nhấm nháp Pisco,
một loại rượu pha, khá mạnh và ngon của Peru mà mọi người rất
chuộng. La Pizzria là nơi vừa bán đồ uống, vừa bán đồ ăn truyền
thống, và cũng là nơi những kẻ có máu mặt của Lima thường xuyên
lui tới. Ông chủ tạp chí, vóc dáng gọn gàng, chải chuốt, bộ râu
kiểu Vandyke tỉa gọn, cặp kính Cartier rất mốt và mặc comple
Brioni. Ông mang theo chiếc cặp da mỏng màu đỏ sẫm.
Partridge đă nói rơ lư do anh có mặt tại Peru. Sau đó anh them:
“Tôi nghe nói t́nh h́nh ở đây tương đối xấu”.
Seminario thở dài: “Đúng đấy, t́nh h́nh rất xấu. Song cuộc đời
bao giờ chả có lúc nọ, lúc kia. Minton nói thế nào nhỉ? “Chúng
ta có thể biến địa ngục thành thiền đường, hoặc thiên đường
thành địa ngục” . Nhưng anh limenos chúng tôi vẫn cứ sống sót;
tôi cố gắng thể hiện điều đó trên b́a tạp chí Escena”. Ông với
tay lấy chiếc cặp và mở ra. “Anh xem thử hai số này: một số tuần
này và số này sắp ra vào tuần sau. Tôi tin cả hai số sẽ thể hiện
được một điều nào đó”.
Partridge xem số báo đă in trước. Ngoài b́a là bức ảnh màu chụp
cảnh mái bằng của một ngôi nhà cao tầng ở trung tâm thành phố.
Mái nhà đầy mảnh vụn ngổn ngang, rơ ràng do một vụ nổ gây ra.
Giữa ảnh là một phụ nữ nằm ngửa đă chết. Chị ta trông c̣n trẻ.
Khuôn mặt chưa bị huỷ hoại xem ra rất đẹp, cả vùng bụng đă bị
thuốc nổ phá nát, máu me bê bết. Mặc dù đă quen với cảnh chiến
tranh, Partridge vẫn thấy rùng ḿnh.
“Anh khỏi cần đọc câu chuyện in trong số báo, Harry ạ. Giới kinh
doanh có cuộc họp ở bên kia phố. Sendero Luminoso quyết định câu
đạn vào nơi họp. Người phụ nữ này được giao làm việc đó. Cuộc
họp gặp may, nhưng người phụ nữ th́ không, v́ trái đạn tự tạo đó
đă nổ tung trước khi chị ta kịp phóng nó đi”.
Partridge nh́n tấm ảnh, rồi lại nh́n đi. “Tôi tin là Sendero
ngày càng hoạt động mạnh ở Lima”.
“C̣n hơn thế nữa. Người của chúng đi lại tự do trong thành phố,
c̣n vụ đánh bom không thành này chỉ là ngoại lệ. Các vụ khác hầu
hết là thành công. Nhưng thôi, anh xem tiếp số tuần tới đi”. Ông
chủ bút đưa cho anh tờ b́a mẫu.
Toàn những vú với đùi, chẳng khác ảnh khiêu dâm là mấy. Trong
ảnh là một cô gái mảnh mai, có lẽ khoảng mười chín tuổi, mặc độc
một bộ đồ bơi bé xíu đang tựa lưng trên chiếc gối mềm, đầu ngả
về phía sau, mái tóc buông xoă, môi hé mở, mắt nhắm, đôi chân
khép hờ.
“Cuộc sống vẫn tiếp tục, và bao giờ cũng có hai mặt, ngay cả ở
Peru cũng vậy”, ông chủ tạp chí nói. “Nói đến cuộc sống ta hăy
gọi bữa tối đă; rồi sau, Harry ạ, tôi sẽ nói anh cách để đảm bảo
cuộc sống của anh cũng vẫn tiếp tục”.
Món ăn nấu theo kiểu Italia cực ngon, c̣n phục vụ th́ không chê
vào đâu được. Gần cuối bữa, Seminario ngả người trên ghế.
“Anh cần phải thấy một điều là có thể Sendero Luminoso đă biết
anh có mặt ở đây, chỗ nào cũng có gián điệp của họ. Mà dù họ
chưa biết, th́ tới đây họ cũng sẽ biết, có lẽ là sau bản tin
ngày mai của CBA, v́ nó sẽ được rất nhiều đài khác phát lại. V́
vậy, ngay lập tức, anh phải kiếm một vệ sĩ cùng đi bảo vệ anh,
nhất là khi anh ra ngoài ban đêm”.
Partridge mỉm cười: “H́nh như có rồi, anh bạn”. Fenandez Pabur
dứt khoát đ̣i đón Partridge ở khách sạn rồi đưa đến đây. Cùng
ngồi trên chiếc xe Ford là một người ít nói, vạm vỡ như một vơ
sĩ quyền anh hạng nặng. Anh ta có mang súng v́ áo phồng cộm lên.
Lúc đến nơi, người mới này xuống trước, c̣n Fenandez và
Partridge vẫn ngồi trong xe cho tới lúc anh ta ra hiệu bảo ra.
Partridge không hỏi, nhưng Fenandez bảo anh: “Chúng tôi sẽ đợi ở
ngoài trong khi ông dùng bữa tối”. Có thể hai người vẫn đang c̣n
đợi bên ngoài.
“Thế th́ tốt”, Seminario gật đầu bảo. “Người của anh biết phải
làm ǵ. Anh có mang súng theo không?”.
Partridge lắc đầu.
“Anh cần phải mang theo. Nhiều người bọn tôi phái làm như vậy.
Như trong quảng cáo cho American Express đă nói: “Đừng ra khỏi
nhà mà không mang nó theo”. Một điều nữa cần nhớ là đừng tới
Ayacucho, dinh luỹ của Sendero. Nếu Sendero biết anh tới đó, th́
coi như anh đi đứt”.
“Có lúc nào đấy tôi sẽ phải tới đó”.
“Ư anh nói nếu tôi và những người đang t́m cách giúp anh t́m ra
nơi các bạn anh bị giam giữ chứ ǵ? Trong trường hợp đó, anh
phải giữ được yếu tố bất ngờ bằng cách tới bằng lối nào, cũng
phải ra bằng lối ấy, và phải thật nhanh. Không có cách nào khác
là phải thuê máy bay cả chuyến. Một vài người lái máy bay ở đây
sẽ làm việc đó nếu anh trả họ nhiều tiền, đáng để họ liều mạng”.
Khi họ kết thúc câu chuyện, tiệm ăn đă vắng khách và chuẩn bị
đóng cửa. Fenandez và người vệ sĩ đang đợi ở ngoài.
Trên đường trở về khách sạn Cesar, Partridge hỏi Fenandez: “Anh
kiếm cho tôi khẩu súng được không?”.
“Tất nhiên là được. Anh thích loại nào?”.
Partridge cân nhắc. Công việc anh làm đă buộc anh phải biết về
chuyện súng ống và anh đă học cách sử dụng.
“Tôi muốn một khẩu Browning chín li cùng ống giảm thanh”.
“Ngày mai anh sẽ có nó. À, c̣n ngày mai, tôi có thể biết anh có
kế hoạch ǵ không?”.
“Tôi sẽ gặp thêm một số người, giống như hôm nay”. Và anh thầm
nghĩ: những ngày sau cũng vậy, ta sẽ gặp nhiều người nữa, cho
tới khi lần ra được manh mối.
Chương 3
Tại trụ sở hăng CBA ở New York, thứ sáu là
ngày có rất nhiều hoạt động, trong đó một số đă có kế hoạch từ
trước, nhưng phần nhiều là mới nảy sinh.
Như thường lệ, vào lúc sáu giờ sáng , một ngày mới bắt đầu bằng
chương tŕnh “Nhật báo buổi sáng”. Trong chương tŕnh này, cũng
như trong các chương tŕnh khác của ngày hôm đó, việc báo trước
các tin sẽ phát trong ngày được đưa cùng các mục quảng cáo
thương mại. Mục này đă được ghi h́nh từ trước, do Harry
Partridge phụ trách:
Hôm nay, trong bản tin chiều toàn quốc của CBA, sẽ có tin đặc
biệt về những diễn biến mới nhất về vụ bắt cóc người nhà
Crawford Sloane.
Và vào lúc chín giờ tối (giờ miền Đông), tức là bảy giờ tối (giờ
miền Trung) sẽ có Bản tin đặc biệt một tiếng với tựa đề “Hăng
truyền h́nh bị đe doạ: Vụ bắt cóc gia đ́nh Sloane”.
Các bạn đừng bỏ lỡ Bản tin chiều và chương tŕnh tin đặc biệt
dài một tiếng tối nay.
Việc chọn Partridge là thích hợp, bởi v́ anh thường xuyên phụ
trách đưa tin các vụ bắt cóc trong bản tin tối. Vả lại cũng tiện,
v́ sự hiện diện của anh ngụ ư là anh vẫn đang ở Mỹ, mặc dù lúc
sáu giờ, anh đă ở Peru được mười tám tiếng đồng hồ.
Les Chippingham theo dơi mục báo trước các tin sẽ phát trong
ngày khi đang dùng bữa sáng tự nấu lấy vội vàng trong căn pḥng
của anh ở phố Tám mươi hai. Ông chủ tịch Ban tin đang vội, v́
biết rằng hôm nay sẽ có rất nhiều việc. Qua cửa sổ nhà bếp, ông
thấy chiếc Limousine sang trọng và người tài xế đang đợi bên
ngoài. Chiếc xe làm ông nghĩ tới mệnh lệnh của Margot Lloyd
Mason khi họ gặp nhau lần đầu là ông phải đi làm bằng tắc xi;
ông phớt lờ lệnh của bà ta. Tuy nhiên, ông không được quên báo
cho bà ta biết tin và ngay khi đến nhiệm sở ông phải gọi điện
cho bà, v́ có lẽ bà ta cũng đă theo dơi chương tŕnh sáng nay.
Quyết định của ông xem ra không cần thiết. Ông vừa ngồi xe,
người lái xe đă trao cho ông ống nghe và lập tức ông nghe Margot
gắt um trong máy.
“Những diễn biến mới này là thế nào? Tại sao tôi không được báo
ǵ cả?”.
“Sự việc xảy ra quá đột ngột. Tôi định sẽ gọi điện cho bà ngay
khi tôi đến trụ sở”.
“Dân chúng đă biết, c̣n tôi tại sao lại phải đợi?”.
“Margot, họ đă biết ǵ đâu; tối nay cơ. C̣n bà, tôi sẽ báo ngay
khi tôi đến nhiệm sở, chứ không dám dùng điện thoại này, v́
chúng ta không biết được c̣n ai nghe nữa đâu”.
Đầu dây bên kia im lặng và ông nghe tiếng thở mạnh. “Gọi ngay
cho tôi khi anh đến nơi”.
“Nhất định rồi”.
Mười lăm phút sau, Chippingham gọi điện cho chủ tịch hăng CBA,
đồng thời là uỷ viên hội đồng chấp hành của Tổ hợp. Ông mở đầu:
“Có rất nhiều chuyện cần nói”.
“Anh nói ngay đi!”.
“Trước hết, theo cách nh́n nhận của bà th́ triển vọng là cực kỳ
tốt đẹp. Những phóng viên giỏi nhất của chúng ta đă thu lượm
được những tin tức đặc biệt. Bản tin chiều nay của CBA sẽ thu
hút số người xem đông nhất trong lịch sử của hăng, đồng thời
cũng đưa hăng lên thứ bậc cao. Song cũng đáng buồn là tin về vụ
bắt cóc người nhà Sloane chẳng hay hớm ǵ đối với Crawf”.
“Họ đang ở đâu?”.
“Ở Peru. Sendero Luminoso giam giữ họ”.
“Peru ư? Anh có chắc không?”.
“Như tôi vừa nói, một số phóng viên giỏi nhất của chúng ta, đặc
biệt là Harry Partridge, đang theo dơi vụ này. Những điều họ
phát hiện được rất đáng tin cậy. Tôi không có ǵ phải nghi ngờ
và tôi chắc là bà cũng vậy”. Thế nhưng, việc Margot có vẻ giật
ḿnh khi nhắc đến Peru làm Chippingham ngạc nhiên, không biết có
chuyện ǵ.
“Tôi muốn nói chuyện với Partridge”, Margot xẵng giọng. “Tôi e
rằng không thể được. Anh ta đang ở Peru từ ngày hôm qua. Chúng
tôi đang chờ tin mới nhất của anh ta cho buổi phát tin thứ hai”.
“Tại sao các anh hành động nhanh thế?”.
“Làm tin là thế đấy, Margot ạ. Chúng tôi luôn phải làm như vậy”.
Câu hỏi của bà ta làm ông ngạc nhiên. Giọng Margot nghe có vẻ
bối rối và lo lắng, nên ông hỏi: “Bà có vẻ quan tâm đến Peru.
Xin cho tôi biết lư do, được không?”.
Margot im lặng, rơ ràng là lưỡng lự trước khi trả lời: “Lúc này
tổ họp Globanic đang dàn xếp một chuyện làm ăn lớn ở đó. Chúng
ta bỏ vào đó rất nhiều tiền, v́ vậy giữ quan hệ tốt với chính
phủ Peru là điều quan trọng”. “Tôi xin được nói rơ CBA không hề
có mối quan hệ nào, dù xấu hay tốt với chính phủ Peru hoặc với
bất cứ chính phủ nào khác”.
Margot nói giọng bực bội: “CBA thuộc Globanic. Globanic đang
liên minh với Peru, th́ CBA cũng phải làm như vậy. Đến bao giờ
anh mới hiểu một việc đơn giản như vậy?”.
Chippingham muốn trả lời “Không bao giờ”. Song ông biết là không
thể nói như vậy. V́ thế ông đáp: “Chúng ta trước hết là một hăng
đưa tin, và phải đưa sự việc đúng như nó xảy ra. Tôi cũng xin
nói rơ thêm, chúng ta không nói Peru dính líu vào vụ này. Chính
Sendero Luminoso đă bắt cóc người nhà Sloane. Dù sao chăng nữa,
sau khi chúng ta công bố tin tối nay, tất cả các hăng tuyền h́nh
báo chí đủ loại sẽ nhảy bổ vào câu chuyện về Peru này”.
Chippingham bất giác tự hỏi: cuộc nói chuyện này là thực ư? Ta
nên cười hay nên khóc đây?
“Có ǵ báo tôi ngay”, Margot nói. “Nếu có ǵ thay đổi, đặc biệt
là liên quan đến Peru, tôi muốn biết ngay lập tức, chứ không
phải đợi đến hôm sau”.
Chipp nghe thiếng dập máy “cạch” một cái, rồi im.
Trong văn pḥng sang trọng của bà ở Stonehenge, Margot Lloyd
Mason đang ngồi suy tính. Khác với mọi ngày, lần này bà không
biết ḿnh nên làm ǵ. Có nên báo cho chủ tích Globanic, Theo
Elliott biết không? Bà ta nhớ lại lời đe của ông ta trong cuộc
họp tại Câu lạc bộ Fordly Cay: “Tôi không muốn xảy ra chuyện ǵ
có thể phá hoại mối quan hệ c̣n đang rất tế nhị… và do đó tổn
hại cái có thể trở thành hợp đồng của thế kỷ ”. Cuối cùng, bà
quyết định phải báo cho ông ta biết. Như thế hay hơn là để ông
ta biết qua tin tức.
Khi nghe báo tin, Elliott tỏ ra b́nh thản đến mức không ngờ. “À,
nếu đúng là bọn Con đường sáng chuyên khích động quần chúng ấy
tiến hành vụ bắt cóc, tôi nghĩ không thể không đưa tin được.
Nhưng đừng quên là chính phủ Peru không có liên quan, v́ họ và
Con đường sáng là hai kẻ tử thù. Người của bà phải nhớ nói rơ
điều đó”.
“Tôi sẽ lo liệu việc ấy”, Margot trả lời.
“Họ c̣n có thể làm hơn thế nữa”, Elliott nói tiếp. “Sự kiện này
cho ta một cơ hội tạo cho chính phủ Peru bộ mặt tốt hơn, và CBA
nên tận dụng cơ hội ấy”.
Những lời của ông ta làm Margot lúng túng. “Tận dụng bằng cách
nào?”.
“À, chính phủ Peru chắc sẽ làm hết sức ḿnh, sử dụng quân đội và
cảnh sát để t́m kiếm và giải thoát những người Mỹ bị bắt cóc. V́
vậy, chúng ta cần cho mọi người biết những việc họ làm, bằng
cách đưa nhiều h́nh ảnh sống động trong bản tin truyền h́nh. Rồi
tôi sẽ gọi điện cho Tổng thống Castaneda mà với tôi là chỗ thân
quen và nói: “Này ông! Chúng tôi đang làm mọi người biết đến ông
và đất nước ông đấy nhé”. Việc này sẽ có lợi cho chúng ta khi Tổ
hợp Globanic và chính phủ Peru xem xét các văn bản cuối cùng của
hợp đồng “Chuyển nợ thành giảm thuế kinh doanh”.
Đến như Margot mà cũng c̣n do dự. “Tôi cũng chưa nghĩ xa đến thế,
Theo ạ”.
“Th́ bây giờ nghĩ đi! Tôi biết bà đang nghĩ là chúng ta thao
túng tin tức. Đối với việc quan trọng như thế này, th́ cũng đành
phải thế thôi!”. Ông chủ tịch Globanic cao giọng: “Lạy Chúa! Cái
hăng truyền h́nh khốn kiếp ấy thuộc sử hữu của chúng ta, đúng
không? V́ vậy đôi lúc cũng phải tận dụng quyền sở hữu ấy chứ?
Đồng thời cũng cạnh tranh, chạy theo lợi nhuận; v́ thế nó mới
trả lương một bộ phận của ngành kinh doanh ấy. Nếu họ không
thích, th́ chỉ có cách duy nhất là cuốn xéo”.
“Theo, tôi hiểu ư ông”, Margot nói. Vừa nghe, ghi chép, Margot
quyết định về một tạm ước gồm ba giai đoạn: một là, bà ta sẽ gọi
điện cho Chippingham chỉ thị dứt khoát rằng Ban tin CBA phải nói
rơ chính phủ Peru vô can trong vụ này, đúng như Theo yêu cầu.
Hai là, với tư cách là chủ tịch CBA, bà ta sẽ liên hệ với bộ
ngoại giao Mỹ yêu cầu gây sức ép ngay với Peru để họ t́m mọi
cách, kể cả sử dụng quân đội và cảnh sát, giải thoát cho ba
người nhà Sloane. Ba là, việc chính phủ Peru hợp tác, sẽ được
CBA đưa tin rộng khắp. Đồng thời, Ban tin CBA đưa theo hướng
tích cực những tin về các nỗ lực thực sự của họ.
Chắc chắn sẽ có khó khăn và tranh căi, nhưng Margot biết chắc
một điều: mối quan hệ với Theo Elliott và ḷng trung thành của
bà ta đối với Globanic quan trọng hơn tất cả những vấn đề khác.
Les Chippingham dần dần quen với phong cách không lường trước
được của Margot. V́ vậy, tuy vừa mới gọi xong, bà ta đă lại gọi
ngay lần nữa cũng chẳng làm ông ngạc nhiên. Tuy nhiên, chủ đề
câu chuyện lần này làm ông khó chịu, v́ nó là sự can thiệp trực
tiếp của công ty vào nội dung đưa tin. Việc này đôi lúc có xảy
ra ở các hăng, nhưng với các tin tức quan trọng thi hầu như chưa
bao giờ có chuyện ấy. Rất may là trong trường hợp này, ông cũng
có thể thấy an tâm. “Bọn tôi đều biết chính phủ Peru không dính
dáng đến vụ bắt cóc”, ông trưởng ban tin nói. “Tôi chắc rằng bản
tin tối nay sẽ bao hàm ư đồ một cách rơ ràng”.
“Không chỉ là hàm ư! Tôi muốn nói phải rơ hẳn ra”.
Chippingham lưỡng lự. Ông biết ḿnh cần phải bảo vệ tính độc lập
của Bản tin, nhưng cũng biết vị trí bấp bênh của ông tuỳ thuộc
vào Margot. “Tôi cần phải xem bài viết đă”, ông trả lời – “Mười
lăm phút sau tôi sẽ gọi lại bà”.
“Không được để lâu hơn đấy”.
Mười phút sau, Chippingham gọi lại. “Tôi nghĩ điều này chắc sẽ
làm bà vừa ḷng. Đây là những điều Harry Partridge viết trước
khi đến Peru và sẽ được phát trong bản tin tối nay:
Từ nhiều năm nay, chính phủ Peru và Sendero Luminoso là kẻ thù
của nhau, bên này gắng sức tiêu diệt bên kia. Tổng thống Peru
Castaneda đă từng tuyên bố “Sự tồn tại của Sendero là hiểm hoạ
của Peru. Bọn tội phạm này là con dao thọc vào sườn tôi”. Lời
tuyên bố này sẽ được đưa cùng h́nh ảnh và tiếng của Castaneda”.
Giọng Chippingham nghe vừa có vẻ nhẹ nhơm vừa giễu cợt. “Tôi
nghĩ Harry đọc được suy nghĩ của bà, Margot ạ. Hy vọng nó làm bà
hài ḷng”.
“Đúng vậy. Anh đọc lại đi, tôi muốn ghi đoạn đó”.
Nói chuyện xong, Margot gọi thư kư và đọc cho cô ta ghi gửi Theo
Elliott:
Kính gửi ông Theo,
Sau cuộc nói chuyện của chúng ta, kết quả là bản tin chiều nay
sẽ có đoạn sau: Từ nhiều năm nay, chính phủ Peru và Sendero
Luminoso là kẻ thù của nhau, bên này gắng sức tiêu diệt bbeen
kia. Tổng thống Peru Castaneda đă từng tuyên bố “Sự tồn tại của
Sendero là hiểm hoạ của Peru. Bọn tội phạm này là con dao thọc
vào sườn tôi”.
Lời tuyên bố này được thu âm và phát cùng h́nh ảnh của Castadena.
Cám ơn ông đă gợi ư và giúp đỡ.
Margot Lloyd Mason
Bức thư này sẽ do người liên lạc đặc biệt trao tận tay ông chủ
tịch tại trụ sở của Tổ hợp công nghiệp Globanic.
Sau đó, Margot gọi điện cho ông Bộ trưởng Bộ ngoại giao ở
Washington.
Ở CBA, từ sáng cho tới tận lúc phát tin chiều vào lúc sáu giờ
rưỡi ngày thứ sáu, các biện pháp an ninh được tăng cường, v́
người ngoài t́m mọi cách khai thác, cố moi được tin đặc biệt mà
CBA suốt ngày hôm ấy đă kích thích trí ṭ ṃ của người xem cũng
như các hăng cạnh tranh. Nhân viên ban tin của các hăng truyền
h́nh, đài phát thanh và truyền thanh và báo chí liên tiếp gọi
điện cho bạn bè và người quen ở CBA, đôi khi hỏi thẳng, nhưng
phần nhiều là kiếm cớ ǵ đó mà họ nghĩ ra để cố biết nội dung
tin sắp đưa cụ thể là ǵ. Nhưng tại trụ sở CBA, bằng cách hạn
chế đến mức thấp nhất số người biết tin và tạm thời tách các máy
tính điện tử chính khỏi mạng lưới chung, nên các máy điện thoại
đều bị kiểm soát chặn lại và giữ được bí mật.
V́ vậy, khi tin được phát đi, nó lập tức được ghi lại và truyền
tiếp khắp thế giới, có ghi chú thích tin của CBA. Ở các hăng
truyền h́nh khác, người ta sẽ mau chóng điều tra xem: “Tại sao
chúng ta bỏ lỡ tin này? Lẽ ra ta phải làm ǵ mà lại không làm?
Tại sao các anh không kiểm tra tin này, hoặc tiếp tục theo dơi
tin đó? Không ai nghĩ đến chuyện tới đó sao? Chúng ta cần phải
làm ǵ để không xảy ra chuyện thế này nữa?”.
Trong khi đó, các hăng truyền h́nh vội vă thay đổi nội dung buổi
phát tin thứ hai, sử dụng các băng video vừa mới có, in ḍng chữ
“Hăng CBA cung cấp”, c̣n các báo phải sắp đặt lại trang đầu của
số báo hôm sau. Đồng thời, tất cả các hăng thông tấn lớn đều báo
động các mối tin thường xuyên của họ ở Peru và vội vă phái phóng
viên, kỹ thuật viên âm thanh và ghi h́nh của ḿnh đáp máy bay
qua ngay Peru.
Trong lúc đó, sự việc lại có diễn biến mới:
Don Kettering, lúc này lănh đạo nhóm đặc nhiệm của CBA, nghe
được tin đó trước khoảng mười giờ đêm, tức là lúc sắp kết thúc
chương tŕnh một tiếng đặc biệt. Trên màn ảnh của người xem
truyền h́nh, Kettering rơ ràng vẫn đang ngồi ở bàn phát thanh
viên cùng Harry Partridge, nhưng thực ra đó chỉ là băng ghi h́nh
Partridge.
Norman Jaeger, tranh thủ lúc ngừng phát tin để quảng cáo thương
mại, đă gọi điện báo tin cho phát thanh viên. Từ khi Rita Abrams
ra sân bay Teterboro và đáp máy bay qua Peru cách đây một giờ
Jaeger thay cô làm chủ nhiệm chính.
“Don, sau khi hết chương tŕnh, chúng ta phải họp ngay nhóm đặc
nhiệm”.
“Có tin mới phải không, Norm? Nóng hổi chứ?”.
“Nóng như hoả nghục! Les – vừa bảo tôi. Ở Stonehenge họ vừa nhận
được đ̣i hỏi của bọn bắt cóc, cùng với băng video ghi h́nh
Jessica Sloane”.
Chương 4
Trước hết, họ xem băng ghi h́nh của
Jessica. Lúc này là mười một giờ rưỡi tối thứ sáu. Trong một
pḥng xem riêng của Ban tin CBA, thường dùng cho các uỷ viên
chính của Ban, hiện có mặt mười người: Leslie Chippingham và
Crawford Sloane, nhóm đặc nhiệm có Don Kettering, Norman Jaeger,
Karl Owens và Iris Everly. Từ trụ sở của công ty ở Stonhenge tới,
có Margot Lloyd- Mason, phó chủ tịch chấp hành Tom Nortandra và
chủ tịch của Nhóm truyền h́nh CBA Irwin Bracebridge, Otis
Havelock, nhân viên đặc biệt của FBI cũng có mặt.
Đây là cuộc họp đột xuất của nhóm đặc nhiệm. Trước đó, vào lúc
bảy giờ rưỡi tối, người liên lạc mang đến pḥng thường trực ở
Stonehenge một gói nhỏ trông không có ǵ đặc biệt, trên đề: Gửi
chủ tịch hăng truyền h́nh CBA. Sau các thủ tục an ninh thường lệ,
cái gói được chuyển lên tầng có văn pḥng của Margot và thường
là nằm nguyên ở đó cho đến sáng thứ hai. Thế nhưng, ông
Nortandra làm việc cạnh văn pḥng Margot, cùng hai cô thư kư hôm
đó có việc về muộn. Một cô nhận cái gói và mở ra. Nhận thấy việc
quan trọng, cô ta liền báo Nortandra và ông này gọi điện thoại
ngay cho Margot lúc đó đang dự tiệc chiêu đăi Tổng thống Pháp ở
khách sạn Waldorf.
Margot bỏ dở chiêu đăi, vội vă trở về Stonehenge. Bà ta cho gọi
Nortandra và Bracebride đến cùng xem băng h́nh và đọc tài liệu
gửi kèm theo. Lập tức họ thấy cần báo cho Ban tin và chuẩn bị
cuộc họp tại trụ sở CBA.
Mấy phút trước cuộc họp, Bracebridge, vốn trước đây cũng là chủ
tịch Ban tin tức, kéo Crawford Sloane ra ngoài và bảo: “Tôi biết
việc này làm anh khổ tâm, Crawf ạ, và tôi phải nói trước cho anh
biết là trong băng có đoạn tôi không muốn nghe lắm. V́ thế, nếu
anh muốn xem trước một ḿnh th́ xin mời anh, chúng tôi hiểu và
sẽ đợi ở ngoài”.
Crawford Sloane từ Larchmont đến cùng xe với nhân viên FBI
Havelock, là người cũng có mặt ở đó khi anh nhận được tin có
băng ghi h́nh Jessica. Lúc này Sloane lắc đầu trả lời: “Cám ơn
anh, Irwin. Tôi sẽ cùng xem với các anh”.
Chủ tŕ cuộc họp là Don Kettering. Anh gọi người phụ trách máy ở
phía sau mọi người: “Được rồi đấy! Chiếu đi”.
Đèn trong pḥng mờ dần… Lập tức màn h́nh rộng treo phía trước
mặt nhằng nhằng những vệt đen trắng v́ đoạn đầu băng chưa có
h́nh. Nhưng tiếng lại có, và mọi người đột nhiên nghe thấy tiếng
kêu thét. Cả nhóm ngồi lặng đi, c̣n Crawford Sloane đứng vụt dậy,
giọng nghẹn ngào: “Ôi, lạy chúa! Đó là tiếng Nicky”.
Sau đó, tiếng kêu cũng đột ngột biến mất như khi nó bắt đầu. Một
lát sau xuất hiện h́nh Jessica, quay từ vai trở lên, trên nền
toàn màu nâu, mà rơ ràng là bức tường. Nàng ngồi cứng đờ, vẻ mặt
nghiêm trang. Đối với người xem, mà phần lớn đều biết rằng, nàng
có vẻ không tự nhiên và căng thẳng. Nhưng giọng của nàng nghe
vẫn cứng cỏi, mặc dù ai cũng cảm thấy nàng đă phải dùng ư chí
chế ngự ḿnh để có thể nói năng được b́nh thường.
Nàng bắt đầu nói: “Chúng tôi đều được đối xử tử tế. Bây giờ khi
họ giải thích rơ lư do chúng tôi bị bắt, chúng tôi hiểu tại sao
cần phải làm như vậy. Họ cũng nói, nếu các bạn Mỹ của chúng tôi
muốn chúng tôi b́nh yên trở về cũng rất dễ. Để chúng tôi được
thả, các bạn phải nhanh chóng theo đúng những điều kèm theo cuốn
băng này, nhưng phải nhớ rằng…”.
Tới đây, mọi người nghe thấy tiếng thở rất mạnh và tiếng kêu tắc
nghẹn của Crawford Sloane. Băng h́nh vẫn tiếp tục quay.
“… Nếu các bạn không theo đúng những chỉ dẫn này, các bạn sẽ
không bao giờ c̣n thấy chúng tôi nữa. Chúng tôi cầu xin các bạn
đừng để điều đó xảy ra…”.
Đột nhiên lại nghe tiếng kêu khẽ của Crawford Sloane: “Đấy!”.
“Chúng tôi chờ đợi, trông đợi ở các bạn, rất hy vọng các bạn sẽ
có quyết định đúng, để chúng tôi được b́nh an trở về”.
Không c̣n tiếng trong băng; trên màn h́nh chỉ c̣n khuôn mặt vô
cảm nh́n thẳng và ánh mắt xa xăm của Jessica. Sau đó h́nh cũng
hết. Đèn trong pḥng bật sáng. “Chúng tôi đă cho chạy từ đầu đến
cuối băng”. Irwin Bracebridge nói: “Không có ǵ thêm. C̣n tiếng
kêu ở đầu cuốn băng, chúng tôi cho là được thu từ một băng khác
sang. Khi cho băng chạy tốc độ chậm, nh́n kỹ sẽ thấy đoạn hai
băng ghép vào nhau”.
“Chúng làm thế để làm ǵ?”, có ai đó hỏi.
Bracebridge nhún vai: “Có thể là để làm chúng ta tỉnh ngủ, để
doạ chúng ta. Nếu vậy, chúng đạt mục đích, đúng không?”.
Mọi người x́ xào đồng ư.
Leslie Chippingham nhẹ nhàng hỏi: “Anh có chắc là tiếng Nicky
không, Crawf?”,
“Chắc chắn”, Sloane rầu rĩ trả lời, rồi nói thêm: “Jessica có
chuyển hai tín hiệu”.
“Tín hiệu ǵ thế?”, Chippingham không hiểu hỏi lại.
“Tín hiệu đầu là liếm môi, có nghĩa là “Tôi bị bắt buộc làm việc
này. Đừng tin những điều tôi nói”.
“Thật thông minh”, Braebridge nói: “Jessica khá lắm”.
“Rất can đảm”, một người thêm. Những người khác gật đầu tán
thành.
Sloane nói tiếp: “Buổi tối trước ngày xảy ra vụ bắt cóc, chúng
tôi có nói chuyện với nhau về cách chuyển tín hiệu. Tôi cứ nghĩ
sẽ có một ngày nào đó tôi cần đến chúng. Thật trớ trêu. Tôi nghĩ
Jessica nhớ những tín hiệu đó”.
“Chị ấy c̣n báo cho anh điều ǵ nữa?”, Chippingham hỏi.
“Xin ngài chớ nói”, Havelock, nhân viên FBI cắt ngang câu chuyện.
Ông Sloane, nếu ông biết thêm ǵ nữa lúc này xin ông chớ nói ra.
Càng ít người biết càng tốt. Lát nữa, chúng ta sẽ nói chuyện với
nhau”.
“Tôi cũng muốn cùng được nghe”, Norm Jaeger nói: “Cho đến lúc
này, nhóm đặc nhiệm vẫn tỏ ra giữ được bí mật”. Rồi anh nói móc
thêm “Và t́m ra bí mật nữa chứ?”.
Tay nhân viên FBI, mặt giận dữ, nói: “Theo chỗ tôi hiểu, giám
đốc của chúng tôi sẽ nói chuyện với các ông về việc đó, về việc
tại sao chúng tôi không được thông báo”.
Iris Everly sốt ruột nói: “Thôi đừng phí thời gian nữa. Bà
Sloane nói trong băng về những lời chỉ dẫn. Cái đó có chưa?”.
Mặc dù là người trẻ nhất trong nhóm, Iris chẳng kiêng nể ǵ sự
có mặt của các nhân vật chóp bu của hăng. Cô đă cố gắng hết sức
trong chương tŕnh một giờ Tin đặc biệt ngày hôm đó, nên người
mệt nhoài, nhưng đầu óc cô vẫn sắc sảo như thường.
Margot vẫn mặc bộ váy dài màu huyết dụ Oscar de la Renta khi đón
tồng thống Pháp, trả lời: “Chúng tôi có đây”. Rồi bà gật đầu nói
với Nortandra: “Anh đọc to lên th́ tốt hơn”.
Ông phó chủ tịch chấp hành nhận sáu tờ giấy Margot đưa, kẹp cặp
kính đọc không gọng h́nh bán nguyệt lên mũi và xích lại gần đèn;
ánh đèn càng soi rơ mái tóc bạc trắng và khuôn mặt thâm trầm.
Nortandra đă từng là luật sư của tổ hợp trước khi trở thành uỷ
viên chấp hành của hăng CBA; giọng ông đầy vẻ tự tin của kẻ có
quyền, kết quả của những năm tháng xông pha trong pḥng xử án.
“Tài liệu này, mà có lẽ tôi có thể gọi là lời cáo trạng phi
thường này, có tên là “Thời tươi sáng đă đến”. Bây giờ tôi xin
đọc, mọi người cùng nghe, không thêm không bớt, nó thế nào tôi
đọc nguyên xi như thế”.
“Trong lịch sử cách mạng thời văn minh, đă có lúc những người
lănh đạo và cổ vũ cách mạng chọn con đường im lặng, chịu đựng và
đôi khi chết trong bần hàn, nhưng bao giờ họ cũng hy vọng và
định liệu bước đi. Nhưng cũng có những lúc, những giây phút huy
hoàng và thắng lợi, khi cái đa số bị chà đạp và bóc lột vùng lên,
lật đổ đế quốc, bạo tàn, tiêu diệt giai cấp tư sản – tư bản giàu
có đáng bị tiêu diệt.
“Đối với Sendero Luminoso, cái thời câm lặng, nhẫn nhục chịu
đựng ấy đă qua rồi. Thời tươi sáng trên con đường sáng đă tới.
Chúng tôi sẵn sàng đi tới.
“Trên thế giới nói chung, những nước tự xưng là cường quốc,
trong khi lừa miếng nhau và làm ra vẻ t́m kiếm hoà b́nh, trong
thực tế lại đang chuẩn bị cho một cuộc đụng đầu tàn khốc giữa
các lực lượng đế quốc và đế quốc xă hội vốn đều t́m cách làm bá
chủ thế giới. Trong bối cảnh đó, cái đa số bị ngược đăi, sống
kiếp nô lệ sẽ chịu đựng khổ đau. Nếu để chúng tự do tiếp tục bóc
lột thế giới, những kẻ lắm tiền ham quyền lực sẽ kiểm soát nhân
loại v́ lợi ích riêng của chúng.
“Song, giống như ngọn núi lửa sắp phun, cách mạng đang sôi sục ở
mọi nơi. Chính đảng Sendero Luminoso sẽ lănh đạo cuộc cách mạng
ấy. Đảng có kiến thức và kinh nghiệm. ảnh hưởng của đảng ngày
càng lan rộng khắp trên thế giới.
“Đă tới lúc cần làm cho mọi người biêt đến và hiểu chúng tôi hơn.
“Trong những năm qua, các phương tiện thông tin dối trá của đế
quốc – tư bản chỉ đăng tải những ǵ các ông chủ hám tiền của
chúng muốn, mà phớt lờ, hoặc đưa tin sai lệch về cuộc đấu tranh
anh hùng của nhữnng người Sendero Luminoso.
“Lúc này đây, cái đó sẽ thay dổi. Chính v́ vậy, bọn tư bản đă bị
bắt cóc làm con tin.
“Hăng truyền h́nh Mỹ CBA được lệnh làm theo những điều sau đây:
“Một: Bắt đầu từ thứ hai tuần thứ hai sau khi nhận được đ̣i hỏi
này, chương tŕnh Bản tin tối toàn quốc (cả hai buổi), sẽ phải
ngừng trong năm ngày làm việc (tức là đúng một tuần).
“Hai: Thay vào chương tŕnh đó, sẽ là chương tŕnh khác gồm năm
bảng sẽ được chuyển cho CBA. Chương tŕnh này có tên là: “cách
mạng thế giới: Sendero Luminoso chỉ đường”.
“Ba: Trong khi phát chương tŕnh của Sendero Luminoso, không
được phép quảng cáo thương mại.
“Bốn: CBA hoặc bất cứ hăng nào khác không được ḍ t́m xuất xứ
của băng mà nó nhận được; cuốn băng đầu sẽ chuyển tới CBA vào
thứ năm tuần tới. Sau đó những cuốn khác sẽ được chuyển tiếp,
mỗi ngày một cuốn. Mỗi cố gắng lần t́m xuất xứ của băng lập tức
sẽ dẫn đến việc hành quyết một con tin hiện đang bị giam giữ tại
Peru. Những cố gắng ngu ngốc như vậy sẽ đưa lại kết quả tương tự.
“Năm: Những mệnh lệnh này không thay đổi, và phải được thi hành
đầy đủ.
“Nếu CBA và các hăng khác theo đúng những mệnh lệnh ghi trong
tài liệu này, bốn ngày sau khi phát cuốn băng thứ năm của
Sendero Luminoso, ba con tin sẽ được thả. Nhưng nếu không tuân
theo dùng những mệnh lệnh này, các con tin sẽ không bao giờ c̣n
gặp lại, và xác họ cũng không bao giờ t́m thấy”.
“Và c̣n thêm một điểm nữa ghi trên một mảnh giấy riêng”, Norm
Jaeger nói.
“Bản sao “Thời tươi sáng đă tới” và băng ghi h́nh nữ tù nhân đă
được gửi tới các hăng truyền h́nh và báo chí.
“Tất cả là vậy”, Norm Jaeger kết thúc. “Cả hai bản đều không có
chữ kư, nhưng tôi nghĩ việc nó được gửi cùng với cuốn băng ghi
h́nh chứng tỏ chúng là thực”.
Cả pḥng im lặng. H́nh như không ai muốn nói trước. Vài người
liếc nh́n Crawford Sloane lúc này ngồi thụt sâu trong ghế, mặt
mày thiểu năo. Những người khác cũng có cùng cảm giác tuyệt vọng
như anh.
Cuối cùng lại là Leslie Chippingham nói: “Bây giờ chúng ta đều
rơ cả rồi. Trước giờ, chúng ta cứ tự hỏi không biết bọn này muốn
ǵ. Chúng ta nghĩ chúng muốn tiền chuộc. Thế nhưng đ̣i hỏi của
chúng hoá ra lại nhiều hơn thế”.
“Nhiều, nhiều lắm” Bracebridge nói thêm: “Tất nhiên tính về tiền,
th́ không thể tính nổi, nhưng rơ ràng đó không phải là vấn đề
cần bàn ở đây”.
“Như tôi đă nói lúc đầu”, Norm Jaeger nhận xét “tất cả chuyện
này, nhât là ba cái thứ chữ nghĩa kiểu ấy chẳng có nghĩa ǵ”.
Norm Jaeger nói to: “Các nhà cách mạng hiếm khi làm ǵ mà người
khác hiểu được có lẽ chỉ có họ mới hiểu họ thôi. Song đó không
phải lư do để không xem xét họ một cách nghiêm túc. Chúng ta đă
học được điều đó ở Iran. Anh liếc nh́n đồng hồ treo trên tường:
mười giờ năm mươi lăm. Anh ta nói với Chippingham: “Les, chúng
ta có đưa cái này vào bản tin toàn quốc không? Nếu khẩn trương,
có thể kịp cho bản tin mười một giờ, và có thể sử dụng một số
đoạn ghi h́nh bà Sloane. Nếu những điều ta nghe về việc chúng
gửi băng cho các hăng khác là thực, th́ họ có thể cho phát bất
cứ lúc nào”.
“Th́ cứ để họ làm”, ông chủ tịch Ban tin nói với vẻ cương quyết.
“Đây là một nhân tố mới mà chúng ta đang c̣n phải theo dơi, v́
vậy không nên vội vàng. Chúng ta sẽ có bản tin vào nửa đêm; việc
này sẽ cho ta một giờ để suy xét xem nên đưa tin này như thế nào,
và quan trọng hơn là nếu ta đáp ứng, th́ đáp ứng đó là ǵ?”.
“Không làm ǵ có chuyện đáp ứng đâu”, Margot Lloyd- Mason tuyên
bố. “Rơ ràng ta không thể chấp nhận những đ̣i hỏi phi lư ấy.
Chắc chắn chúng ta không thể ngừng phát tin buổi tối suốt một
tuần được”.
“Tuy nhiên, chúng ta chưa cần nói như vậy, ít ra là ngay từ đầu”.
Norm Jaeger nói: “chúng ta có thể nói, đại loại là những đ̣i hỏi
này đang được xem xét cẩn thận và sẽ được thông báo sau”.
“Tôi xin mạn phép nói rằng”, Jaeger nói với ông ta “tôi không
tin cách đó có thể đánh lừa được ai, nhất l à Sendero Luminoso.
Tôi đă dành nhiều thời gian nghiên cứu về chúng; chúng có thể là
ǵ đi nữa, nhưng chúng không phải là lũ ngốc ngếch – trái lại
chúng rất ranh ma. Vả lại, rơ ràng chúng rất hiểu công việc của
chúng ta. Thí dụ, chúng ta có hai buổi phát chương tŕnh này. V́
vậy chúng đă nói rơ chúng không muốn phát vào hai ngày này”.
“Vậy anh có gợi ư ǵ?”.
“Hăy để ban tin xử lư các việc liên quan đến đáp ứng của chúng
ta. Việc này đ̣i hỏi phải khôn khéo, chứ không phải cái lối cứ
gạt phăng đi v́ cho là “những đ̣i hỏi phi lư” mà được đâu. Chúng
tôi ở Ban tin CBA được trrang bị đầy đủ hơn, quen với việc này
hơn, và xử sự có lư có t́nh hơn…”. Thấy Chippingham ra hiệu,
Jaeger ngừng lại.
“Về cơ bản tôi đồng ư với Norm Jaeger, chủ tịch Ban tin nói.
Nhưng v́ trách nhiệm, tôi thấy cần phải nói rằng đúng là Ban tin
cần phải giải quyết các việc liên quan tới đáp ứng của chúng ta,
bởi v́ chúng tôi được thông tin đầy đủ hơn, nắm được vấn đề, có
các nguồn cung cấp tin chắc chắn và một trong những phóng viên
giỏi nhất của chúng tôi là Harry Partridge hiện đă ở Peru. Cần
phải xem anh ta có ư kiến ǵ”. “Cứ đi mà tham khảo, mà khôn khéo”,
Margot nói cộc lốc. Bà ta đỏ mặt khi nghe Norm nhắc đến “những
đ̣i hỏi phi lư” mà bà đă nói. Song cái liên quan ở đây lại là
một vấn đề của tổ hợp, đ̣i hỏi phải có quyết định của hội đồng
chấp hành.
“Không! Mẹ kiếp! Không được”, ai đó hét to. Mọi người quay lại
nh́n. Người vừa hét là Crawford Sloane lúc này không ngồi ủ rũ
mà đang đứng, mặt đỏ phừng phừng, mắt long x̣ng xọc. Giọng anh
run run, đôi lúc nghẹn ngào. “Đừng để tổ hợp dính vào chuyện này.
Norm nói đúng về cái lối gạt phăng đi ấy. Chúng ta vừa mới chứng
kiến điều đó; đó là v́ các nhà lănh đạo tổ hợp không có kiến
thức và kinh nghiệm trong việc đánh giá tin tức. Vả lại, chúng
ta cũng vừa nghe quyết định của tổ hợp: không thể chấp nhận
những đ̣i hỏi này. Không thể ngưng tin trong suốt một tuần.
Chúng tôi đâu cần bà bảo mới biết? Chẳng phải tất cả chúng ta,
nhưng người làm tin, kể cả tôi đều hiểu điều đó sao? Bà Margot,
bà muốn biết ư? Th́ đây: tôi hiểu chúng ta không thể đóng cửa
Ban tin và giao nó cho Sendero cả một tuần. Cầu Chúa phù họ cho
con. Tôi chấp nhận điều đó. Những người xung quanh làm chứng cho
tôi”.
Sloane ngừng lời, nuốt nước bọt rồi tiếp: “Điều mà chúng ta ở
đây có thể làm khi đưa tin là dùng tài khéo léo của chúng ta,
những hiểu biết của chúng ta để kéo dài thời gian. Lúc này tḥi
gian là cái chúng ta cần nhất. Có được cái đó, và có Harry
Partridge là niềm hy vọng lớn nhất mà chúng ta có, tôi rất hy
vọng sẽ đưa được người thân của tôi về nhà”.
Sloane vẫn đứng, nhưng im lặng.
Chưa ai kịp có phản ứng ǵ, Bracebridge, trước đây đă lâu là
người Ban tin, bây giờ là nhân vật quant trọng của tổ hợp, cất
giọng hoà giải: “Những lúc thế này ai cũng căng thẳng. Rất dễ
xúc động, căng thẳng đầu óc và bực bội trong ḷng. Những ǵ ta
nới với nhau tối nay đáng ra có thể nói một cách lịch sự hơn, và
lẽ ra là phải như vậy”. Ông quay sang phía chủ tịch Ban tin:
“Nhưng, Margot ạ, tôi tin là những điều đưa ra vừa rồi cũng là
một cách đề cập vấn đề đáng được xem xét; dĩ nhiên cần nhớ, như
Crawf đă nói rơ, rằng mọi người đều hiểu và chấp nhận quyết định
cuối cùng của bà. Chắc không ai thắc mắc ǵ về chuyện đó”.
Được dịp gỡ thể diện, Margot lưỡng lự rồi đồng ư “Thế cũng được”.
Bà ta nói với Chippingham: “Trên cơ sở đă bàn, anh có thể quyết
định cách đáp ứng tạm thời lừa bọn chúng”.
“Cảm ơn bà”, ông chủ tịch ban tin đáp. “Chúng ta có thể làm rơ
thêm một điểm được không?”.
“Điểm ǵ?”.
“Qyết định cuối cùng mà chúng ta vừa thoả thuận lúc này vẫn cần
giữ bí mật”.
“Tôi cũng nghĩ thế. Nhưng tốt hơn là những người khác cũng đảm
bảo điều đó. Dầu thế nào, cũng báo cho tôi biết”.
Mọi người đang chăm chú lắng nghe, Chippingham quay lại hỏi:
“Các vị đảm bảo với tôi như vậy chứ?”.
Trong khi từng người một hứa sẽ giữ bí mật việc đó, Margot ra về.
Khi Chippingham về đến văn pḥng, đồng hồ chỉ mười một giờ hai
mươi lăm phút. Lúc mười một giờ rưỡi, anh nhận được bản tin
Roitơ phát từ Lima, Peru có nói tới đ̣i hỏi của Sendero Luminoso
đối với CBA. Lát sau, tin của AP phát đi từ Washington có bài
chi tiết, trong đó đưa toàn văn tài liệu “Thời tươi sáng đă tới”.
Trong ṿng mười lăm phút sau đó, lần lượt ABC, NBC và CBS phát
chương tŕnh tin có trích đoạn băng ghi h́nh Jessica. Các hăng
đều hứa sẽ đưa chi tiết hơn, và nếu cần sẽ có thêm hương tŕnh
vào ngày hôm sau. CNN, trong khi đang phát tin, chỉ việc đưa
luôn tin đó vào, do đó là hăng đưa sớm hơn các hăng khác.
Chippingham vẫn giữ quyết định lúc đầu là không tạm dừng chương
tŕnh buổi đang phát, mà sẽ có một bản tin chuẩnn bị kỹ lưỡng (lúc
này đang chuẩn bị) vào lúc nửa đêm.
Lúc mười một giờ bốn mươi lăm, ông từ văn pḥng tới Vành móng
ngựa lúc này đang chuẩn bị cho buổi phát tin. Norm Jaeger đang
ngồi ở ghế chủ nhiệm điều hành chương tŕnh. Trong pḥng biên
tập, Iris Everly đang xem lại cuốn băng ghi h́nh Jessica cùng
các băng khác dùng minh hoạ cho phần tin. Phát thanh viên chương
tŕnh tin đặc biệt nửa đêm là Don Kettering, đang vừa trang điểm
vừa đọc lại và bổ sung phần việt tin.
“Chúng ta sẽ đưa toàn bộ sự việc mà không nói ǵ về phản ứng của
CBA”, Jaeger bảo Chippingham. “Sau này c̣n khối thời gian làm
việc đó, anh muốn làm ǵ th́ làm. À này, nhiều nơi trong đó có
thời báo New York và Bưu điện Washington gọi điện hỏi chúng ta
phản ứng thế nào. Chúng tôi nói vói họ hiện ta chưa có phản ứng
ǵ và vấn đề này đang được xem xét”.
Chippingham gật đầu tán thành: “Đúng đấy”.
Jaeger chỉ tay về phía Karl Owens đang ngồi ở bên kia pḥng Vành
móng ngựa: “Tuy nhiên, anh ấy có ư rất hay về việc ta sẽ phản
ứng thế nào”.
“Tôi muốn nghe thử xem sao”.
Owens là một chủ nhiệm rất tham công tiếc việc. Anh ta đă có rất
nhiều ư hay và chính việc thăm ḍ kiên tŕ của anh đă xác định
được tên khủng bố là Ulises Rodriguez. Anh ta vừa nói, vừa nh́n
tấm phiếu máy tính khổ bốn sáu là phiếu tiêu chuẩn của ngân hàng
dữ liệu.
“Qua tài liệu của Sendero Luminoso, chúng ta được biết năm băng
sẽ được chuyển tới CBA để thay cho chương tŕnh Bản tin tối toàn
quốc. Băng đầu tiên vào thứ năm tuần tới, c̣n bốn băng khác mỗi
ngày một băng. Khác với băng ghi h́nh bà Sloane mà ta vừa xem
tối nay, những băng này rơ ràng sẽ chỉ chuyển tới CBA thôi”.
“Cái đó th́ tôi biết”, Chippingham nói.
Jaeger mỉm cười khi Owens vẫn nói tiếp như không có chuyện ǵ
xảy ra. “Tôi muốn gợi ư là chúng ta tiếp tục tŕ hoăn không tiết
lộ phản ứng của CBA cho tới tận thứ ba. Chỉ trừ một việc là vào
thứ hai, để mọi người thêm chú ư, anh có thể nói rằng sẽ có
thông báo vào ngày hôm sau. Rồi hôm thứ ba, ta sẽ thông báo là
không có b́nh luận ǵ thêm trước khi ta nhận được băng vào thứ
năm như họ đă hứa. Và sau đó, chúng ta sẽ công bộ quyết định của
ḿnh”.
“Làm thế để làm ǵ?”.
“Để có được sáu ngày, từ nay tới thứ năm. Lúc đó, cứ cho là băng
của Sendero được chuyển tới”.
“Được, cứ coi là có băng đi. Rồi sao nữa?”.
“Chúng ta cho vào tủ sắt khoá lại, chả c̣n sợ ai thấy. Sau đó
chúng ta xen vào giữa chương t́nh đang phát, làm ra vẻ to chuyện,
nói rằng chúng ta đă nhận được cuốn băng nhưng bị hỏng, có lẽ bị
hư trên đường đi, rằng phần lớn nội dung đă bị xoá. Chúng ta đă
thử xem, cố gắng phục hồi nội dung nhưng không được. Cùng với
việc nói như vậy trên truyền h́nh, chúng ta cũng thông báo cho
báo chí và đài phát thanh, làm sao để tin đó đến được Peru, tức
là đến tai Sendero Luminoso”.
“Tôi nghĩ đă đoán được ư anh”, Chippingham nói: “Nhưng thôi, anh
cứ tiếp đi”.
“Bọn Sendero sẽ không biết là ta nói dối hay không. Cái mà chúng
biết, cũng giống như ta đă biết, là việc như vậy có thể xảy ra.
V́ vậy chúng có thể bán tin bán nghi và sẽ gửi cho ta cuốn băng
khác; việc đó cũng phải mất vài ngày…”.
Chippingham nói nốt câu hộ anh ta: “Và có nghĩa là chúng ta
không thể bắt đầu phát vào ngày mà chúng ấn định”.
“Đúng như vậy”.
Jaeger nói thêm: “Tôi đoán thế nào Karl cũng tính được chuyện
này. Song anh ấy nói là chúng ta có thêm được mấy ngày rảnh tay,
nếu cách đó có kết quả và tôi nghĩ là có thể có. Anh thấy thế
nào?”.
Chippingham đáp: “Tôi nghĩ ư kiến ấy thật tuyệt vời. Nó làm tôi
vui mừng là tin tức của chúng ta lại lấy lại được phong độ khôn
ngoan và dững khí của nó”.
Suốt cả tuần, tin tức liên tục đưa về đ̣i hỏi của Sendero
Luminoso và băng ghi h́nh Jessica cả thế giới đều quan tâm theo
dơi. Điện thoại tới tấp gọi về CBA yêu cầu hăng cho ư kiến b́nh
luận, tốt nhất là dưới h́nh thức tuyên bố chính thức. Do có dàn
xếp trước, tất cả các cú điện thoại loại đó đều chuyển cả về Ban
tin tức CBA. Các uỷ viên hội đồng chấp hành và chủ nhiệm khác
của CBA được yêu cầu không trả lời các câu hỏi về vấn đề này,
cho dù là chuyện ngoài lề đi nữa.
Bản tin CBA được tăng cường thêm ba cô thư kư cho công việc đặc
biệt cuối tuần trả lời tất cả các cú điện thoại. Với mọi trường
hợp, câu trả lời của họ đều giống nhau: CBA không có b́nh luận
ǵ, và không, không thể nói trước được khi nào sẽ có b́nh luận.
Việc CBA không có phản ứng ǵ dầu sao cũng không ngăn được các
hăng khác bày tỏ ư kiến của họ. Đa số h́nh như cho rằng “Cứ tiếp
tục gọi đi! Đừng vội bỏ cuộc!”.
Tuy nhiên đáng ngạc nhiên là một số khá nhiều người cho rằng đáp
ứng đ̣i hỏi của bọn bắt cóc để các con tin được thả cũng chẳng
phương hại ǵ làm Norm Jaeger phải b́nh luận với giọng khinh bỉ:
“Chả lẽ cái bọn đầu óc bă đậu này không thấy những nguyên tắc
trong vấn đề này sao? Chả lẽ họ không hiểu rằng tạo ra một tiền
lệ th́ có khác nào là mời bọn điên khùng trên thế giới tiếp tục
bắt cóc những người làm tin truyền h́nh ư?”.
Trong các chương tŕnh đối thoại truyền h́nh chủ nhật như “Trả
lời khán giả truyền h́nh”, “Gặp gỡ báo chí” và “Tuần này với
David Brinkley”, vấn đề được đem ra trao đổi và đọc các đoạn
trích từ cuốn sách “Ống kính truyền h́nh và sự thật” của
Crawford Sloane đặc biệt là:
Có những khi cũng cần phải hy sinh các con tin.
Cách đối phó duy nhất với bọn khủng bố là… không có mặc cả hoặc
trả tiền chuộc, cho dù trực tiếp hay gián tiếp đi nữa.
Trong hăng CBA, những người đă hứa với Leslie Chippingham sẽ giữ
bí mật quyết định cuối cùng là không chấp nhận đ̣i hỏi của
Sendero Luminoso xem ra đă giữ đúng lời hứa. Thực ra người duy
nhất không giữ đúng lời hứa lại là Margot Lloyd- Mason hôm chủ
nhật, bà đă báo cho Theodore Elliott qua điện thoại về tất cả
những điều họ đă bàn tối hôm trước.
Dĩ nhiên Margot sẽ lập luận là bà đă hành động đúng khi cho ông
chủ tịch Globanic biết tin. Đáng tiếc là, đúng hay sai th́ chưa
biết, việc làm của bà mở đường cho việc ḍ rỉ tin tức tai hại.
Chương 5
Trụ sở chính của tổ hợp công nghiệp
Globanic nằm trong một toà nhà trong một khuôn viên riêng ở
Pleasantville New York, cách Manhattan khoảng ba mươi dặm. Người
ta chọn địa điểm này với ư định tránh cho các nhà hoạch định
chính sách và vạch đường đi nước bước khỏi cái không khí căng
thẳng hàng ngày của các chi nhánh Globanic trong các lĩnh vực
công nghiệp và tài chính. Thí dụ chi nhánh tài chính Globanic là
người đang giải quyết hợp đồng nợ thành giảm thuế bất động sản ở
Peru chiếm hẳn ba tầng của một trong hai ngôi nhà chọc trời
trung tâm thương mại thế giới ở khu phố.
Thế nhưng thực tế th́ nhiều vấn đề nhỏ ảnh hưởng tới các chi
nhánh ở xa của Globanic đều được chuyển về trụ sở Pleasantville.
Chính v́ vậy, vào lúc mười giờ sáng thứ hai, Glen Dawson, một
phóng viên mới vào nghề của tờ Ngôi sao Bantimore đang chờ phỏng
vấn vị kiểm sát viên chính của Globanic về vấn đề palladium.
Người ta hiện đang đưa nhiều tin vè loại kim loại quư này, mà
một công ty thuộc tổ hợp Globanic lại làm chủ sở hữu nhiều mỏ
sản xuất palladium và bạch kim ở Minas Gerair Brazil, là nơi các
cuộc nổi loạn của cánh thợ mỏ đang đe doạ nguồn cung cấp kim
loại ấy.
Dawson ngồi đợi bên ngoài văn pḥng kiểm soát viên trong một
pḥng chờ h́nh tṛn lịch sự nối với hai văn pḥng lớn của hai
quan chức cao cấp Globanic mà một trong hai vị là, chủ tịch và
uỷ viên chấp hành của tổ hợp.
Ngồi khuất trong một góc, tay phóng viên vẫn đang đợi th́ cửa
văn pḥng nọ mở và hai người từ trong bước ra. Một người là
Theodore Elliott mà Dawson nhận ra ngay v́ đă thấy ông ta trong
ảnh từ trước. Người kia trông mặt rất quen, nhưng Dawson không
nhớ là đă thấy ở đâu. Hai người tiếp tục câu chuyện đang nói dở;
người thứ hai nói:
“… Có nghe về hăng CBA của ông. Những lời đe doạ của bọn phiến
loạn Peru đặt cọc ông vào t́nh thế khó xử”.
Ông chủ tịch Globanic gật đầu. “À, kể cũng có. Mời ông cùng đi
với tôi ra tới thanh máy… Chúng tôi đă quyết định, nhưng chưa
công bố. Điều chúng tôi không làm là để cho một nhóm cộng sản
điên rồ ép chúng tôi làm theo ư chúng”.
“Có nghĩa là CBA sẽ không bỏ các chương tŕnh tin tối?”.
Đến đó th́ không nghe rơ nữa.
Dùng ngay tờ tạp chí mà anh ta giả đọc để che mắt, Dawson vội
vàng ghi lại chính xác những lời vừa nghe. Tim anh ta đập th́nh
thịch. Anh ta biết ḿnh vừa có được một tin độc nhất vô nhị mà
suốt từ tối thứ bảy, biết bao phóng viên ra công t́m kiếm mà
không được.
“Ông Dawson”, cô thư kư gọi. “Ông Licata sẽ tiếp ông bây giờ”.
Khi qua bàn cô thư kư, anh ta dừng lại, mỉm cười và nói: “Người
cùng đi với ông Elliott ấy, tôi chắc là đă gặp nhưng không nhớ
là ai”.
Cô thư kư có vẻ do dự; anh ta cảm thấy cô ta không muốn nói, nên
lại nhoẻn miệng cười. Thế mà có tác dụng.
“Đó là ông Alden Rhodes, thứ trưởng ngoại giao”.
“Đúng rồi! Thế mà sao tôi lại quên mất nhỉ?”.
Dawson trước đây đă thấy ông thứ trưởng ngoại giao phụ trách vấn
đề kinh tế một lần trên vô tuyến khi ông ra trước một uỷ ban của
Hạ Viện. Song điều quan trọng lúc này là anh ta đă biết được
tên.
Mặc dù đă cố làm cho thật nhanh mà Dawson vẫn cảm thấy cuộc
phỏng vấn ông kiểm soát viên chính của Globanic dài như vô tận.
Dù sao chủ đề palladium cũng không làm anh ta quan tâm lắm. Là
một thanh niên đầy tham vọng, anh ta muốn viết về các vấn đề
được đông đảo người quan tâm. Cái tin mà anh ta vửa vớ được quả
sẽ là thứ lễ ra mắt đúng lúc, hứa hẹn một tương lại hứng thú hơn
nhiều. Thế nhưng ông kiểm soát viên xem ra chẳng vội vàng ǵ
trong việc miêu tả lịch sử và tương lai của palladium. Ông cho
việc thợ mỏ làm reo ở Brazil chỉ là chuyện thảng hoặc và không
thể ảnh hưởng tới việc cung cấp palladium. Dawson tới đây cũng
chính là để t́m hiểu việc đó. Lần lữa măi, cuối cùng tay phóng
viên cũng cắt được câu chuyện và tẩu thoát.
Xem đồng hồ, anh ta cho là c̣n đủ thời gian lái xe về văn pḥng
của tờ Ngôi sao Bantimore Manhattan viết xong cả hai tin mà vẫn
kịp cho đăng vào số báo buổi chiều. Anh ta cho xe chạy về hướng
nam, dọc theo đường bờ sông Saw Mill, rồi qua đường bên ban 87;
vừa phóng như bay, các câu chữ cứ h́nh thành dần trong đầu anh
suốt cả chặng đường.
Ngồi trước máy tính tại văn pḥng nhỏ nhắn của phân xă ở
Rockfeller Plaza, Glen Dawson viết vội tin về palladium trước.
Đó là việc anh ta được giao làm và lúc này trách nhiệm đó được
anh ta hoàn thành đầy đủ.
Sau đó anh ta bắt tay vào tin thứ hai hào hứng hơn nhiều. Tin
đầu anh đă chuyển tới phân ban phụ trách các vấn đề tài chính;
và v́ anh là người thuộc phân ban này, nên tin thứ hai anh cũng
sẽ chuyển qua đó. Nhưng anh tin chắc nó sẽ không nằm ở đó lâu.
Những ngón tay anh như múa trên phím chữ, t́m câu mở đầu. Vừa
làm, anh ta vừa nghĩ tới một vấn đề đạo đức mà anh biết là sẽ
cần đặt ra và trả lời: Liệu việc công bố tin mà anh đang viết
đây có đặt các nạn nhân của vụ bắt cóc hiện đang ở Peru vào t́nh
thế nguy hiểm hơn nữa hay không?
Cụ thể hơn là: Liệu các con tin là người nhà Sloane có bị hại v́
việc tiết lộ quyết định của CBA bác bỏ đ̣i hỏi của Sendero
Luminoso, một quyết định mà vào thời đểm này người ta chưa có ư
định tiết lộ?
Rồi, ở khía cạnh khác nữa, liệu công chúng có quyền được biết
tất cả những ǵ mà một phóng viên xông xáo như anh t́m ra, cho
dù bằng cách ǵ đi nữa?
Mặc dù có những vấn đề như vậy, nhưng Dawson biêt thực tế đơn
giản là chúng không phải là việc hoặc là điều anh quan tâm.
Nguyên tắc nghề nghiệp là chính xác và tất cả các bên liên quan
đều hiểu điều đó.
Trách hiệm của người làm tin là viết những chuyện đáng viết mà
anh ta thu lượm được. Một khi đă t́m được tin, việc của anh ta
không phải là ỉm đi hoặc thêm thắt vào bằng bất cứ cách nào, mà
là viết đầy đủ và chính xác, rồi chuyển cho hăng đă trả lương
cho anh ta. Tới lúc đó, những ǵ anh ta viết sẽ được giao lại
cho biên tập viên. Biên tập viên, hoặc các biên tập viên mới là
người cân nhắc vấn đề đạo đức.
Dawson nghĩ: ở Bantimore lúc này đây tin anh viết cũng đang được
in ra trên một máy tính khác. Khi viết xong anh ấn nút máy định
lấy cho ḿnh một bản, nhưng một bàn tay khác đă cầm lấy bản đó
trước anh. Đó là ông trưởng phân xă Sandy Sefton lúc ấy vừa bước
vào. Là một phóng viên kỳ cựu làm đủ các loại tin, chỉ c̣n vài
năm nữa là đến tuổi về hưu, Sandy và Dawson chơi thân với nhau.
Vừa đọc bản tin, ông phân xă trưởng vừa huưt sáo nhè nhẹ, rồi
ngước lên bảo:
“Cậu vớ được một tin giật gân thật đấy. Những lời Elliott nói,
cậu có ghi ngay lại khi nghe thấy không?”.
“Ghi ngay lập tức”, Dawson vừa đáp, vừa cho ông ta coi những
điều anh ta có ghi lại.
“Tốt lắm. Cậu có nói chuyện với tay Alden Rhodes kia không?”.
Dawson lắc đầu.
“Thế nào Bantimore cũng muốn nói chuyện với cậu”. Đúng lúc ấy
chuông điện thoại reo. “Bantimore đấy, cậu có dám đánh cuộc
không?”.
Đúng là điện thoại từ Bantimore. Sefton cầm máy, nghe một lát
rồi nói: “Tin tức của cậu phóng viên của tôi đăng trên trang
nhất số báo tối nay, đúng không?”. Ông ta vừa đưa ống nghe cho
Dawsong, vừa cười rạng rỡ: “Frazer gọi đấy”. J. Allardyce Frazer
là biên tập viên chính của tờ báo. Ông ta hỏi ngay, giọng hách
dịch: “Cậu chưa nói chuyện trực tiếp với Theodore Elliott, đúng
không?”.
“Thưa ông Frazer đúng vậy ạ”.
“Vậy làm đi. Hăy nói lại với ông ta những ǵ cậu đă biết và yêu
cầu ông ta b́nh luận. Nếu ông ta chối không nói những lời đó,
cậu hăy đưa vào tin luôn. Nếu ông ta chối, hăy thử t́m cách
khẳng định qua Alden Rhodes. Cậu biết cách hỏi thế nào rồi
chứ?”.
“Dạ có biết ạ”.
“Cho tôi nói chuyện với Sandy”.
Ông phân xă trưởng cầm máy. Vừa nghe, ông vừa nháy mắt với
Dawson, rồi nói: “Tôi đă xem những điều Glen ghi lại. Cậu ta ghi
lời Elliott ngay tại chỗ. Câu chữ rơ ràng, không thể có chuyện
nghe nhầm được”.
Đặt máy xuống, Sefton bảo Dawson: “Cậu chưa xong việc đâu, họ
đang bàn căi chuyện đạo đức. Cậu hăy t́m gặp Elliott, tớ sẽ t́m
xem Rhodes ở đâu; chắc chắn ông ta chưa về Washington đâu”.
Sefton sang dùng máy điện thoại phía bên kia pḥng.
Dawson gọi số Globanic. Sau khi qua tổng đài, một giọng phụ nữ
trả lời. Tay phóng viên tự giới thiệu họ tên và yêu cầu nói
chuyện với “ông Theodore Elliott”.
“Ông Elliott hiện không có ở văn pḥng”, vẫn giọng dịu dàng ấy
trả lời. “Tôi là Kessler. Tôi có thể giúp ǵ được ông không?”.
“Có lẽ có”. Dawson thận trọng giải thích lư do anh ta gọi điện
thoại xin gặp.
Giọng bà ta trở nên lạnh lùng: “Xin ông chờ một chút”.
Mấy phút trôi qua, Dawson đang định dập máy gọi lại th́ nghe
thấy tiếng ở đầu dây bên kia. Làn này, giọng bà ta khô khan:
“Ông Elliott nhắn lại là những ǵ ông nghĩ là ông nghe thấy là
chuyện riêng và không nên đem ra sử dụng”.
“Tôi là phóng viên”, Dawson trả lời. “Nếu tôi nghe, hoặc biết
được chuyện ǵ, và người ta không nói riêng với tôi, th́ tôi có
quyền sử dụng tin đó”.
“Ông Dawson, tôi không thấy lư do ǵ để tiếp tục cuộc nói chuyện
này”.
“Xin bà thư cho một lát. Ông Elliott có chối đă không nói những
lời tôi đọc lại cho bà không?”.
Cả lần này lẫn lần gọi trước, Dawson ghi ngay lại các câu hỏi và
trả lời.
“Bà Kessler, bà vui ḷng cho biết tên đầu của bà được chứ?”.
“Có ǵ mà không được… tôi là Diana”.
Dawson mỉm cười, đoán chắc Kessler cho rằng nếu tên bà ta được
đưa lên báo, th́ tốt nhất là nên đưa đầy đủ cả họ tên. Vừa định
nói lời cảm ơn, Dawson nhận ra đường dây đă bị ngắt.
Anh vừa đặt máy xuống, ông phân xă trưởng đưa cho anh mẩu giấy.
“Rhodes đang trên đường ra sân bay La Guardia bằng xe của Bộ
Ngoại giao. Đây là số máy điện thoại đặt trong xe”.
Dawson lại nhấc máy.
Lần này, sau hồi chuông đổ là giọng đàn ông trả lời. Khi Dawson
xin nói chuyện với “ông Alden Rhodes”, ông ta trả lời: “tôi nghe
đây”.
Anh chàng phóng viên lại giới thiệu tên họ, biết rằng Sefton
đang nghe qua một máy khác.
“Ông Rhodes…, tờ báo của chúng tôi muốn biết ông có b́nh luận ǵ
về tuyên bố của ông Theodore Elliott là hăng CBA bác bỏ đ̣i hỏi
mới đây của Sendero Luminoso, và theo lời ông Elliott, “chúng
tôi sẽ không để cho một nhóm điên khùng ép chúng tôi làm theo ư
chúng”.
“Theo Elliott nói với anh vậy à?”.
“Chính tôi nghe ông ta nói như vậy, thưa ông Rhodes”.
“Tôi nghĩ ông ta muốn giữ kín việc đó”. Ngừng một lát, ông ta
nói tiếp. “À, xem nào! Có phải anh là người ngồi ở pḥng chờ lúc
chúng tôi đi qua không?”.
“Vâng, đúng thế”.
“Dawson, anh đă lừa tôi. Tôi yêu cầu toàn bộ cuộc nói chuyện này
không được dùng đăng báo”.
“Thưa ông Rhodes, trước khi chúng ta nói chuyện, tôi đă tự xưng
danh và ông cũng đă không nói ǵ tới chuyện không được trích dẫn
đăng tin”.
“Dawson, tiên sư anh!”.
“Thưa ngài, câu này sẽ không trích đăng. Bởi v́ trước đó ngài đă
yêu cầu”.
Ông trưởng phân xă giơ ngón tay cái làm hiệu, miệng cười toe
toét.
Cuộc thảo luận về vấn đề đạo đức người làm tin ở Bantimore kéo
dài không lâu.
Trong bất cứ cơ sở đưa tin nào, bao giờ người ta cũng thiên về
việc đưa tất cả các tin tức. Tuy nhiên với một số tin, mà tin họ
đang có thuộc loại đó, người ta cần đặt ra và trả lời một số câu
hỏi. Biên tập viên chính và biên tập tin trong nước là những
người đọc trước những tin này sẽ cùng nhau đặt câu hỏi và trả
lời:
Hỏi: Việc công bố quyết định của CBA có nguy hại đến tính mạng
con tin không?
Trả lời: Tính mạng các con tin hiện đă bị đe doạ. Khó mà biết
được việc công bố có làm họ gặp nguy hiểm hơn không?
Hỏi: Liệu họ có bị sát hại sau khi công bố quyết định này không?
Trả lời: Khó có khả năng đó, v́ con tin bị giết sẽ không c̣n giá
trị ǵ nữa.
Hỏi: V́ CBA sẽ phải công bố quyết định của họ trong một hai ngày
tới, việc tiết lộ sớm hơn một chút có sao không?
Trả lời: Nếu có cũng không sao.
Hỏi: Vị chủ tích Globanic là Theodore Elliott vô t́nh để lộ
quyết định của CBA và những người khác hẳn cũng sẽ biết, quyết
định có c̣n có thể giữ kín được nữa không?
Trả lời: Chắc chắn không.
Cuối cùng biên tập viên chính đưa ra kết luận của cả hai người:
“Không có vấn đề ǵ phạm đạo đức người làm tin. Chúng ta cho
đăng!”.
Số báo buổi chiều của tờ Ngôi sao Bantimore đăng tin trên với
hàng tít lớn:
CBA BÁC BỎ YÊU CẦU CỦA BỌN BẮT CÓC NGƯỜI NHÀ SLOANE
Bài viết của Glen Dawson bắt đầu như sau:
CBA sẽ dứt khoát không đáp ứng đ̣i hỏi của bọn bắt cóc gia đ́nh
Sloane là hăng phải dừng chương tŕnh tin buổi tối trong một
tuần, thay bằng việc phát các băng ghi h́nh tuyên truyền do nhóm
phiến loạn Maois Peru là Sendero Luminoso cung cấp.
Sendero Luminoso, tức “Con đường sáng” thừa nhận đang giam giữ
các con tin tại một địa điểm bí mật thuộc Peru.
Theodore Elliott, chủ tịch và uỷ viên chấp hành chính của tổ hợp
công nghiệp Globanic là công ty mẹ của CBA hôm nay đă tuyên bố:
“Điều chúng tôi sẽ không làm là để cho một nhóm điên khùng ép
chúng tôi làm theo ư chúng”.
Trong khi nói chuyện tại trụ sở Globanic ở Pleasantville ông
thêm: “C̣n việc cho phát các băng h́nh của “Con đường sáng”, th́
đừng có ḥng”.
Một phóng viên của tờ Ngôi sao Bantimore có mặt khi Elliott
tuyên bố như vậy.
Alden Rhodes, thứ trưởng ngoại giao phụ trách các vấn đề kinh tế
là người đi cùng ông Elliott khi ông này tuyên bố như trên đă từ
chối không b́nh luận ǵ thêm khi phóng viên bản báo hỏi, nhưng
ông có nói: “Tôi nghĩ ông ta muốn giữ kín chuyện đó”.
Cuối buổi sáng nay, một cố gắng tiếp xúc với ông Elliott để hỏi
rơ thêm đă không có kết quả. Phóng viên bản báo được bà Diana
Kessler, trợ lư chủ tịch Globanic cho biết: “Ông Elliott không
có mặt tại văn pḥng”. Sau khi được hỏi thêm, bà Kessler chỉ trả
lời “Ông Elliott không b́nh luận ǵ thêm”.
Bài báo c̣n thêm, chủ yếu là về bối cảnh và diễn biến trên của
vụ bắt cóc.
Ngay cả trước khi các số báo Ngôi sao Bantimore được đưa tới các
quầy phát hành, các đài truyền h́nh đă đưa tin, có nói là trích
từ nguồn tin tờ Ngôi sao. Tối hôm đó, tin của tờ Ngôi sao được
trích đưa trong tất cả các bản tin của các hăng, kể cả CBA là
nơi mọi người rụng rời chân tay khi nhận được tin đưa quá sớm
này.
Sáng hôm sau, ở Peru là nơi tin về vụ bắt cóc liên tục được đưa,
tất cả các báo, đài phát thanh và vô tuyến truyền h́nh tập trung
đưa lại tin trên, đặc biết nhấn mạnh là “nhóm cộng sản điên
khùng”, trong tiếng Tây Ban Nha là “grupo de comunistas locos”.
Chương 6
“Con thích Vicente”, Nicky nói. “Chú ấy là
bạn của chúng ta”.
“Ông cũng nghĩ thế”, Angus từ trong cũi giam nói vọng ra. Ông
già đang nằm trên một đệm mỏng bẩn thỉu trên chiếc giường tạm
bợ, giết thời gian bằng cách quan sát hai con bọ dừa to đậu trên
tường.
“Vậy th́ cả hai ông cháu đừng nghĩ thế nữa”, Jessica quát.
“Thích ai trong bọn này là điều ngây thơ và ngốc ngếch”.
Nàng dừng lại, cắn môi hối tiếc đă nói những lời ấy. Đâu cần
phải quát nạt như vậy.
“Con xin lỗi”, nàng nói. “Con không định nói với giọng như thế”.
Khổ nỗi là, sau mười lăm ngày tù túng trong ác cũi giam bé tư
xíu, cả ba đều lộ vẻ căng thẳng, bải hoải tinh thần. Jessica đă
phải cố sức giữ tinh thần, nếu không được vững, th́ chí ít cũng
không đến nỗi tuyệt vọng. Nàng cũng cố gắng đảm bảo mọi người
đều vận động thân thể hàng ngày, một việc nàng luôn là người cầm
chịch. Nhưng rơ ràng là dù có ư định tốt ấy, sự tù túng về thể
xác, cái đơn điệu và nỗi cô đơn đă tác động rơ rệt tới họ.
Thêm vào đó, thứ đồ ăn nhờn nhờn, nhạt nhẽo cũng là một gánh
nặng nữa làm sức lực họ hao ṃn cạn kiệt. Cùng với những nỗi khổ
trên, mặc dù đă cố gắng để lau rửa, nhưng người họ lúc nào cũng
nhớp nháp, hôi hám, thường xuyên ướt đẫm mồ hôi, quần áo bẩn
thỉu như dán vào da thịt.
Jessica nghĩ cũng là điều hay khi luôn tự nhắc ḿnh là ông thầy
dạy khoá chống khủng bố, tướng Wade đă phải chịu đựng nhiều hơn
và lâu hơn nàng trong chiếc hầm nhỏ ở Triều Tiên. Nhưng dẫu sao
Cedric Wade cũng là con người phi thường, toàn tâm phụng sự tổ
quốc trong thời buổi chiến tranh. C̣n ở đây th́ đâu có chiến
tranh để chế ngự tinh thần và thể xác? Họ chỉ là những người dân
thường bị bắt cóc… mà bắt làm ǵ chứ? Jessica vẫn không hiểu nổi
tại sao.
Thế nhưng ư nghĩ về tướng Wade, nhận xét của Nicky thích
Vicente, cùng lời tán thành của Angus đă làm nàng nhớ tới điều
này đă học được từ Wade. Đem vận dụng vào hoàn cảnh hiện nay
chắc là thích hợp.
Vừa lo lắng nh́n tên lính gác, nàng hỏi nhỏ: “Angus và Nicky
này! Hai ông cháu đă nghe nói về Hội chứng Stockholm chưa?”.
“H́nh như là ba có nghe, nhưng không nhớ chắc lắm”. Angus trả
lời.
“C̣n con, Nicky?”.
“Chưa mẹ ạ. Đó là ǵ hả mẹ?”.
Thằng gác là đứa thỉnh thoảng vẫn mang theo cuốn truyện tranh
cười, lúc này đang chúi mũi vào đọc, không để ư ǵ đến việc họ
nói chuyện với nhau. Jessica cũng biết là hắn không nói được
tiếng Anh.
“Mẹ sẽ nói cho con biết”, Jessica đáp.
Trong tai nàng như c̣n vang lời tướng Wade nói với nhóm nghiên
cứu nhỏ, trong đó có nàng: “Trong hầu hết các vụ không tặc hoặc
bắt cóc, bao giờ cũng có điều chắc chắn là sau một thời gian, ít
nhất cũng có người trong số con tin sẽ thấy mến bọn khủng bố.
Đôi lúc những con tin c̣n cho bọn chúng là bạn, trong khi lại
coi cảnh sát và quân đội, những người đang t́m cách cứu họ là kẻ
thù. Cái đó gọi là hội chứng “Stockholm”.
Về sau Jessica đọc thêm tài liệu lại càng thấy đúng là có việc
như vậy. Nàng – c̣n ṭ ṃ - t́m đọc để biết tại sao nó lại có
cái tên gọi hư vậy.
Bây giờ cố nhớ lại và diễn đạt theo ngôn từ của nàng, nàng tả
lại câu chuyện lạ lùng ấy, trong khi Nicky và Angus lắng nghe:
Chuyện xảy ra ở Stockholm, Thuỵ Điển vào ngày hai mươi ba tháng
Tám năm 1973. Sáng hôm đó, tại Normastrong, một quảng trường ở
trung tâm thành phố, một tù trốn trại là Jan Erik Olsson, ba
mươi hai tuổi vào một trong những nhà băng lớn nhất Stockholm là
Sveriges Kredibanken. Olsson rút khẩu liên thanh giấu trong áo
khoác cầm ở tay, nổ súng bắn lên trần, làm mọi người la hoảng
chạy tán loạn trong đám kính vỡ và bê tông rơi xuống như mưa.
Thử thách tiếp theo kéo dài sáu ngày. Trong suốt những ngày đó,
không ai trong số con tin lại nghĩ rằng những năm sau đó, và có
lẽ cả những thế kỷ sau nữa, dư vị của cái mà họ đă trải qua lại
nổi tiếng đến mức được mang cái tên hội chứng Stockholm, một
thuật ngữ y học và khoa học mà đối với các sinh viên và bác sỹ
hành nghề khắp thế giới cũng trở nên quen thuộc như các thuật
ngữ “mổ lấy thai nhi”, “chứng ăn không ngon miệng”, “chứng cuồng
dâm” hoặc “chứng lăo hoá” vậy.
Ba phụ nữ và một đàn ông, đều là nhân viên nhà băng. Đă bị
Olsson và đồng bọn của hắn, Clark Olofsson, hai mươi sáu tuổi,
bắt làm con tin. Đó là Birgitta Lundbald, cô gái tóc hung xinh
xắn ba mươi mốt tuổi, Kristin Ehnmark, cô gái tóc đen, hồn nhiền
hai mươi ba tuổi, Elisabeth Oldgren, hai mươi mốt tuổi, người
nhỏ nhắn, dịu dàng và tóc vàng nhạt; và Sven Sapstrom, hai mươi
lăm tuổi, người cao dong dỏng và chưa vợ. Hầu như suốt sáu ngày
ấy, bộ sáu này giam ḿnh trong một hầm chứa két bạc và từ đó bọn
tội phạm gọi điện toại đ̣i nộp cho chúng ba triệu curon tiền mặt
(tương đương 710.000 đôla), hai súng lục và một chiếc xe để
chúng tẩu thoát.
Các con tin bị đầy đoạ trong thời gian bị giam giữ. Họ buộc phải
đứng thẳng người, dây thít chặt quanh cổ, nên nếu ngă là bị ngạt
thở ngay. Nhiều lúc họ nghĩ sắp bị giết chiết khi họng súng liên
thanh gí sát vào sườn. Họ không có ǵ vào bụng suốt năm mươi giờ
liền. Họ phải đi ngoài vào các túi ni lông đựng rác. Họ sống với
nỗi khiếp sợ và khắc khoải nơi hầm kín.
Thế nhưng giữa các con tin và hai tên bắt cóc họ lại nảy sinh sự
gần gũi kỳ lại. Birgitta có lúc đă có thể đi thoát, song cô ta
lại không đi. Kristin t́m cách báo tin cho cảnh sát, rồi lại
thừa nhận: “Tôi cảm thấy ḿnh giống như một kẻ phản bội”. Anh
chàng Sven cho bọn bắt cóc là “tử tế” và Elisabeth cũng đồng ư
như vậy.
Cảnh sát Stockholm tiến hành một cuộc chiến tranh tiêu hao để
giải thoát con tin th́ lại gặp phải sự thù địch của họ. Kristin
nói qua điện thoại rằng cô ta tin cậy bọn cướp nhà băng, sau đó
c̣n thêm: “Tôi muốn các ông để chúng tôi cùng đi luôn với họ… Họ
rất tốt”. Nói đến Olsson, cô ta tuyên bố: “Anh ta bảo vệ chúng
tôi khỏi rơi vào tay cảnh sát”. Khi được bảo: “Cảnh sát sẽ không
đụng chạm đến cô”, Kristin trả lời: “Tôi không tin điều đó”.
Về sau c̣n được biết Kristin c̣n khoác tay với tên tội phạm trẻ
hơn là Olsson. Cô ta nói với một thẩm tra viên: “Clark cho tôi
cảm giác dịu dàng”. Và sau khi các con tin được giải thoát,
Kristin nằm trên cáng ra xe cứu thương mà vẫn c̣n gọi với theo
Olsson: “Clark em sẽ gặp lại anh!”.
Các chuyên viên pḥng thí nghiệm trong khi kiểm tra căn hầm đă
t́m thấy dấu vết tinh dịch. Sau một tuần thẩm vấn, một trong ba
cô, tuy chối là không có các hành động t́nh dục, nhưng nói là
một đêm khi mọi người đă ngủ say, cô ta đă giúp Olsson thủ dâm.
Mặc dù vẫn c̣n hoài nghi những điều cô ta nói, các thẩm sát viên
cũng thôi không đả động đến chuyện đó nữa.
Khi được các bác sỹ hỏi, các con tin được trả tự do gọi cảnh sát
là “kẻ thù” và tin rằng họ c̣n sống được là nhờ bọn tội phạm.
Elisabeth c̣n buộc tội một bác sỹ là mưu đồ “tẩy sạch” ḷng yêu
mến của cô ta đối với Olsson và Olofsson.
Năm 1974, tức là gần một năm sau bi kịch ở nhà băng, Birgitt đă
tới nhà tù thăm Olofsson và nói chuyện với hắn nửa tiếng đồng
hồ.
Các bác sỹ tham gia nghiên cứu vấn đề trên cuối cùng tuyên bố
hành động này của các con tin là hành động tiêu biểu của những
người gặp “hoàn cảnh sinh tử”. Họ dẫn lời Anna Freud mô tả những
phản ứng này là “đồng t́nh với kẻ sinh sự”. Nhưng tấn bi kịch ở
nhà băng Thuỵ Điển đă tạo ra một cái tên măi măi đáng nhớ là Hội
chứng Stockholm. “Mẹ ơi, hay quá”, Nicky từ trong cũi nói ra.
“Jessica, ba không biết chi tiết đến vậy”, Angus thêm.
Nicky hỏi: “C̣n chuyện hay nào nữa không hả mẹ?”.
Jessica rất hài ḷng, trả lời: “Ít thôi”.
Một lần nữa, nàng lại cố nhớ lại lời của ông tướng người Anh là
Wade: “Tôi khuyên các anh, các chị hai điều”, có lần ông nói với
lớp huấn luyện chống khủng bố. “Một là, nếu bị bắt làm con tin,
hăy nhớ Hội chứng Stockholm. Hai là, trong khi giao thiệp với
bọn khủng bố, luôn nghĩ rằng “Yêu kẻ thù của ḿnh” là điều nhàm
tiếu và vô nghĩa. Cũng cần tránh một thái cực khác là đừng có
mất thời gian và hao tổn tâm lực căm ghét bọn chúng làm ǵ, v́
ḷng căm giận là thứ t́nh cảm hao tâm tổn trí và mất thời gian.
Chỉ có điều, đừng bao giờ tin chúng, thích chúng, cho dù trong
giây lát, và đừng bao giờ quên chúng là kẻ thù”.
Jessica nhắc lại lời khuyên của tướng Wade cho Nicky và Angus
nghe. Nàng c̣n kể thêm về những vụ không tặc, trong đó những
người bị bắt và bị đánh đập lại cảm thấy thân thiện với bọn
không tặc. Đó là chuyện có thực xảy ra năm 1985 trong chuyến bay
ô nhục 847 của hăng TWA, khi một số hành khách tỏ ư đồng t́nh
với bọn không tặc Shiite và truyền đạt quan điểm tuyên truyền
của chúng.
Gần đây hơn, Jessica giải thích, một con tin được giải thoát ở
Trung Đông, một người dễ xúc động mà rơ ràng là nạn nhân của Hội
chứng Stockholm đă chuyển cả thông điệp của bọn đă giam giữ ông
ta tới Đức Giáo hàong và Tổng thống Mỹ, được các hăng đưa tin
rất nhiều. Người ta không tiết lộ nội dung thông điệp ấy, nhưng
“theo các nguồn tin không chính thức, nó được coi là vô vị và
chẳng được điểm nào ra hồn.
Mối quan tâm c̣n lớn hơn của những người am hiểu hội chứng
Stockholm là trường hợp Patricia Hurst, nạn nhân của một vụ bắt
cóc. Không may cho Hurst là khi bị bắt năm 1975 và ra toà vào
năm sau v́ người ta cho là cô đă phạm tội, các sự kiện ở
Stockholm chưa được hiểu một cách đầy đủ, để cô có thể được
thông cảm và giảm nhẹ tội. Trong một bài giảng ở khoá chống
khủng bố của tướng Wade, một luật sư Mỹ đă tuyên bố: “Xét về giá
trị pháp lư và tri thức, vụ xử Patricia Hurst có thể sánh với
các vụ xét xử thuật phù thuỷ Salem năm 1692”. Ông ta nói thêm:
“Biết những ǵ ta nay đang làm và nhớ rằng tổng thống Catơ đă
nhận thấy việc xét tội sai, nên đă giảm án tù cho cô ta, nếu
không nó sẽ là một ngày đen tối v́ ô nhục cho đất nước này, nếu
Patricia Hurst chết đi mà không được mọi người tha thứ”.
“Jessica”, Angus nói, “Ba hiểu ư con muốn là đừng có bị mắc lừa
v́ cái vẻ dễ dăi của Vicente, hắn vẫn là kẻ thù của chúng ta”.
“Nếu hắn không là kẻ thù”, Jessica vạch rơ, “chúng ta có thể
đàng hoàng ra khỏi nơi đây trong phiên hắn gác”. “Mà chúng ta
đều biết là không có chuyện đó”, Angus hướng về cũi giam ở giữa
và nói “Nicky, cháu hiểu điều đó chứ? Mẹ cháu nói đúng, c̣n ông
cháu ta sai đấy”.
Nicky không đáp, chỉ buồn bă gật đầu. Một trong những cái đáng
buồn của cảnh giam cầm này, Jessica nghĩ, là Nicky đă phải chịu
đựng thực tế phũ phàng của người đời tàn ác sớm hơn b́nh thường.
o0o
Ở Peru lúc nào cũng vậy, tin tức mối liên quan đến vụ bắt cóc
gia đ́nh Sloane được đài phát thanh truyền đi rất xa, tới cả
những vùng hẻo lánh nhất của nước này.
Tin tức đầu tiên về việc Peru và Sendero Luminoso dính líu đến
vụ bắt cóc được đưa hôm thứ bảy, tức là một ngày sau bản tin
chiều qoàn quốc của CBA, trong đó tiết lộ các dữ liệu độc nhất
mà Nhóm đặc nhiệm của hăng này thu thập được. Trước đó, các
phương tiện thông tin Peru chỉ đưa qua về vụ bắt cóc, nhưng khi
có tin nước này có dính líu, th́ lập tức nó trở thành một tin
quan trọng. Trong trường hợp này, đài phát thanh vẫn là phương
tiện đưa tin rộng răi nhất.
Cũng tương tự như trên, vào hôm thứ ba, tức là sau tiết lộ của
tờ Ngôi sao Bantimore hôm thứ hai, ở thị trấn Ayacucho trong
vùng núi Andes và ở làng Nueva Esperanza ở Selva cũng bắt được
tin đầu tiên trên đài về việc Theodore Elliott bác bỏ đ̣i hỏi
của bọn bắt cóc và những lời miệt thị của ông đối với Sendero
Luminoso.
Các nhà lănh đạo của sendero ở Ayachucho và tên khủng bố Ulises
Rodriguez, tức Miguel ở Nueva Esperanza nghe được tin đó qua
đài. Ngay sau đó đă có cuộc nói chuyện bằng điện thoại giữa
Miguel và một lănh đạo của Sendero ở Ayacucho, nhưng cả hai
không ai xưng tên trong khi nói chuyện. Chúng đều hiểu, so với
tiêu chuẩn hiện đại, đường dây liên lạc này quá tồi, lại qua
nhiều điểm dân cứ là nơi bất kể ai, kể cả cảnh sát và quân đội
đều có thể nghe trộm được. V́ thế, chúng nói những chuyện chung
chung, úp úp mở mở, điều mà ở Peru nhiều người thường làm, song
cả hai đứa đều hiểu được ư của nhau.
Đó là: Cần phải làm ngay một việc ǵ đấy để chứng tỏ cho hăng
truyền h́nh Mỹ CBA biết rằng họ đang “chơi”với những người không
phải ngu ngốc hay yếu đuối. Có thể giết một con tin rồi để xác
t́m thấy ở Lima chẳng hạn. Miguel, trong khi đồng ư rằng đó cũng
là một cách có hiệu quả, gợi ư lúc này nên để cả ba con tin sống
sót, giữ họ như giữ tiền vậy. Thay v́ giết họ, hắn khuyên nên có
một hành động kiểu khác mà, nhớ lại điều hắn đă học khi c̣n ở
Hackensack, hắn tin là sẽ tác động ghê gớm đến tâm lư của những
kẻ ở dăy kia của phương tŕnh ở New York.
Cách này được đồng ư ngay, và v́ cần phải có phương tiện vận
chuyển, một ô tô hoặc xe tải cũng được rời ngay Ayacucho tới
Nueva Esperanza.
Ở Nueva Esperanza, Miguel bắt đầu công việc chuẩn bị bằng cách
cho gọi Socorro tới.
Jessica, Nicky và Angus ngước nh́n khi thấy một toán người kéo
đến ngay gần cũi giam họ. Toán này gồm Miguel, Socorro, Gustavo,
Ramon và một tên khác đứng gác. Nh́n vẻ mặt chúng, rơ ràng sắp
có chuyện ǵ xảy ra, nên Jessica và hai người kia lo lắng chờ
xem có chyện ǵ.
Có một điều mà Jessica cầm chắc là dù chúng đ̣i nàng phải làm
ǵ, nàng cũng sẽ hợp tác. Tính đến hôm nay đă được sáu ngày kể
từ cái lần chúng quay băng ghi h́nh nàng, mà chỉ v́ sự chống đối
lúc đầu của nàng nên Nicky phải mang trên người nhiều vết bỏng
đau rát. Sau đó, Socorro hàng ngày có đến xem xét vết thương mà
đến nay đă kín miệng, nên Nicky không c̣n cảm thấy đau đớn nữa.
Jessica vẫn cảm thấy có lỗi trong chuyện ấy, nên quyết định sẽ
không để con ḿnh bị hại lần nữa.
V́ thế khi bọn khủng bố mở cũi và kéo vào chỗ Nicky, bỏ qua
Jessica và Angus th́ nàng sợ hét lên: “Các ông làm ǵ vậy? Tôi
xin các ông đừng hại cháu. Nó đau đớn thế là đủ rồi. Nếu các ông
muốn làm ǵ th́ hăy làm tôi đây này”.
Chính Socorro quay ngoắt lại nh́n Jessica và quát qua tấm liếp
ngăn hai cũi giam: “Câm mồm! Những ǵ sắp xảy ra mày không có
cách ǵ ngăn lại được đâu”.
Jessica cuống cuồng kêu khóc: “Chuyện ǵ?”. Nàng thấy Miguel
mang một chiếc bàn gỗ nhỏ vào cũi giam Nicky, trong khi Gustavo
và tên thứ tư túm lấy Nicky, chặt đến nỗi cậu bé không cựa quậy
được. Jessica lại kêu: “Ôi, đừng làm thế. Các ông hăy v́ Chúa mà
tha cho nó”.
Không thèm trả lời Jessica, Socorro bảo Nicky: “Mày sắp sửa bị
cắt hai ngón tay”.
Nghe thấy tiếng “ngón tay”, Nicky lúc đó đang quá kinh hăi liền
khóc ầm lên và cố giằng người ra nhưng không được.
Socorro nói tiếp: “Mấy người này sẽ làm việc đó, mày không cưỡng
lại được đâu. Mày càng cố kéo th́ càng đau đớn, cho nên tốt nhất
là đứng yên”.
Như không nghe thấy những lời báo trước đó, Nicky mồm lắp bắp,
mắt như điên dại, lại càng vùng vẫy, quyết liệt hơn để mong
thoát ra, hoặc ít ra cũng rút được tay lại, nhưng không ăn thua
ǵ.
Jessica rên rỉ: “Ôi, đừng! Đừng chặt ngón tay nó. Các ông không
hiểu sao? Cháu chơi Piano; đó là cả niềm vui suốt đời của cháu”.
“Tao biết”, lần này là Miguel nói. Hắn quay lại, mặt nở nụ cười.
“Tao nghe chồng mày nói điều đó trên truyền h́nh, khi nó trả lời
câu hỏi của ai đó. Khi nhận được những ngón tay này, nó sẽ tiếc
là đă nói điều ấy”.
Angus đang đập ầm ầm vào vách ngăn giáp cũi Nicky và cũng kêu
gào ầm ĩ. Ông già giơ tay ḿnh ra: “Tay tao đây, hăy chặt cũng
được chứ sao? Nỡ nào làm hại cả cuộc đời c̣n dài của thằng bé?”.
Mặt mày giận dữ, Miguel trừng mắt quát: “Hai ngón tay của một
thằng lỏi con tư sản th́ có thấm vào đâu, khi mỗi năm có tới sáu
mươi ngàn trẻ em Peru chết trước năm tuổi”.
“Chúng tao là người Mỹ”, Angus trả miếng. “chúng tao không có
lỗi về việc đó”.
“Chính là lỗi ở chúng mày! Chế độ tư bản của chúng mày là chế độ
thối nát, phá hoại, bóc lột nhân dân. Chính là lỗi của nó…”.
Số liệu trẻ em tử vong do Miguel đưa ra là trích của Abimael
Guzman, người sáng lập Sendero Luminoso. Miguel cũng biết Guzman
phóng đại số liệu ấy nhưng rơ ràng số trẻ em chết v́ suy dinh
dưỡng ở Peru là cao nhất thế gới.
Trong khi hai bên lời qua tiếng lại, các công việc khác diễn ra
rất nhanh.
Chiếc bàn gỗ nhỏ Gustavo mang vào đặt trước mặt Nicky. Trong khi
cậu bé tiếp tục quằn quại, vặn vẹo người, kêu xin rất tội
nghiệp. Gustavo dằn riêng ngón trỏ tay phải cậu bé lên mặt bằn,
c̣n các ngón khác ngoài mép bàn. Ramon rút ra con dao khỏi vỏ
bao. Lúc này, hắn nhăn nhở cười, dùng ngón tay cái thử lưỡi dao
sáng loáng, sắc như dao cạo.
Với vẻ hài ḷng, Ramon bước tới đặt lưỡi dao vào đốt thứ hai của
ngón trỏ Nicky, rồi với động tác rất nhanh, hắn dùng bàn tay
trăi dập mạnh lên sống dao. Chỉ nghe “xựt” một cái, máu tuôn ra,
Nicky hét lên đau đớn, và ngón tay đă bị đứt nhưng chưa rời hẳn
ra. Ramono nhắc dao cắt nốt phần da thịt c̣n dính cho đứt hẳn.
Tiếng kêu tuyệt vọng v́ đau đớn của Nicky nghe thật nát ḷng.
Máu loang trên mặt bàn và dính cả vào tay của hai thằng đang giữ
chặt Nicky. Chúng vẫn tỉnh khô, kéo ngón út bàn tay phải của
Nicky từ mép bàn lên. Động tác và kết quả lần này nhanh hơn.
Ramon chỉ chặt một nhát, ngoán tay út đă đứt ĺa khỏi bàn tay,
trong khi máu chảy túa ra.
Socorro, trước đó nhặt ngón tay trỏ bị cắt cho vào một cái túi
ni lông, bây giờ đút thêm ngón út vào đó và đưa cái túi cho
Miguel. Mặt Socorro tái đi, môi mím chặt. Ả liếc vội Jessica,
lúc này lấy tay che mặt, người rung lên trong tiếng khóc nức nở.
Nicky mặt trắng bệch, gần như không c̣n biết ǵ nữa, ngă vật
trên chiếc giường nhỏ hẹp, tiếng kêu khóc chỉ c̣n là tiếng rên,
quằn quại v́ đau. Lúc Miguel, Ramon và tên thứ tư từ trong cũi
giam bước ra, mang theo chiếc bàn vấy máu, Socorro ra hiệu cho
Gustavo nán lại: “Agarra Elliott Chico, Sientalo!” (1).
Theo lệnh Socorro, Gustavo đỡ Nicky ngồi dậy trong khi Socorro
ra ngoài, rồi trở vào mang theo bát nước ấm hoà xà pḥng mà ả
đem theo lúc mới đến. Cầm bàn tay phải của Nicky và giữ nó ở thế
thẳng đứng. Socorro cẩn thận rửa sạch hai ngón tay cụt đề pḥng
nhiễm trùng. Bát nước trở nên đỏ ḷm. Rồi sau khi đặt gạc lên
vết thương, ả dùng băng cuốn chặt cả bàn tay lại. Tuy vậy, máu
vẫn thấm qua gạc và băng, nhưng h́nh như có ít hơn.
Trong lúc ả làm việc đó, Nicky rơ ràng là đau, người run bần
bật, nhưng không hề tỏ thái độ chấp nhận hay cản trở ǵ.
Miguel vẫn c̣n quanh quẩn bên ngoài cũi giam, nên Jessica tiến
lại cửa cũi của ḿnh và gọi hắn, giọng đầy nước mắt: “Tôi van
ông, tôi xin ông cho tôi sang với con tôi!”.
Miguel lắc đầu. Hắn khinh bỉ nói: “Cái đồ chó đẻ ấy không cần có
mẹ chăm nom. Hăy để Mocoso cố gắng nên đấng nam nhi”.
“Nó c̣n đáng mặt nam nhi hơn cái thứ mày”, Angus nới, giọng đầy
căm giận. Ông già cũng lần ra cửa cũi giam, nh́n thằng mặt
Miguel. Ông cố nhớ những câu chữ bằng tiếng Tây Ban Nha mà Nicky
dạy ông tuần trước: “Mày…; Maldito hijo de puta!”.
Câu đó Angus nhớ có nghĩa là: Tiên sư mày, mẹ mày đồ con đĩ!
Nicky đă nhắc lại cho ông nghe lời bạn bè gốc Cu Ba bảo nó ở sân
chơi; đối với dân nói tiếng Tây Ban Nha, đem mẹ ai ra mà chửi là
sự xúc phạm nặng nhất.
Miguel từ từ quay mặt lại. Hắn nh́n thẳng vào mặt Angus với ánh
mắt lạnh như băng, đầy ác ư và thù hằn. Rồi lại nghiêm mặt như
không có chuyện ǵ xảy ra, hắn bỏ đi.
Từ cũi giam Nicky bước ra đúng lúc ấy, Gustavo kịp nghe câu chửi
và quan sát phản ứng của Miguel. Hắn lắc đầu, nói với Angus bằng
thứ tiếng Anh giả cầy: “Ông già! Ông đă phạm sai lầm lớn. Ông ta
không quên đâu”.
o0o
Mấy tiếng sau, Jessica càng thêm lo lắng về t́nh trạng tinh thần
của Nicky. Nàng t́m cách nói chuyện với con, cố dùng lời để an
ủi nó nhưng không ăn thua; thậm chí nó c̣n không trả lời. Có
nhiều lúc Nicky nằm im, đôi khi rên rỉ. Rồi đột nhiên người nó
co giật mấy cái liền, miệng gào lên lanh lảnh, sau đó người run
bần bật. Jessica cho rằng các dây thần kinh bị đứt gây cơn co
giật kèm theo đau đớn. Theo chỗ nàng thấy, hầu như mắt Nicky lúc
nào cũng mở trừng trừng, nhưng mặt luôn thờ thẫn.
Jessica thậm chí nài nó trả lời: “Nicky, con yêu của mẹ! Hăy nói
với mẹ một tiếng đi con! Nói đi, nói ǵ cũng được!”. Nhưng vẫn
không có tiếng trả lời. Jessica nghĩ ḿnh sắp phát điên lên mất.
Nàng ao ước được ôm ấp, vỗ về con nàng, nhưng đành bó tay bất
lực. Có lúc gần như điên dại, Jessica cố gạt bỏ mọi suy nghĩ
trong đầu, nằm xuống giường và cay đắng khóc thầm.
Rồi thầm trách ḿnh: “Gượng dậy nào! Can đảm lên! Đừng có thối
chí!”, nàng lại tiếp tục cố nói chuyện với Nicky.
Angus cũng nhập cuộc, nhưng vẫn như trước, không có kêt quả ǵ.
Đồ ăn được đưa vào trong cũi giam. Không có ǵ là lạ khi Nicky
chẳng ngó ngàng tới. Biết ḿnh cần giữ sức, Jessica cố ăn, nhưng
cảm thấy nuốt không nổi, nên gạt nó qua bên. Nàng không biết
Angus có ăn được hay không.
Màn đêm buông xuống. Bọn chúng thay gác vào buổi tối. Đến phiên
gác của Vicente. Khi bên ngoài im ắng dần, chỉ c̣n nghe tiếng
kêu đều đều của lũ côn trùng, th́ Socorro tới. Ả mang theo bát
nước vẫn dùng khi trước, mấy miếng gạc mới, một cuộn băng cùng
chiếc đèn dầu và bước vào cũi giam Nicky. Ả nhẹ nhàng dựng Nicky
ngồi thẳng dậy và bắt đầu thay băng gạc ở tay nó.
Xem chừng Nicky thấy dễ chịu và đỡ đau hơn, người ít co giật
hơn.
Một lát sau, Jessica gọi với qua giọng dịu dàng “Socorro, chị
làm ơn…”.
Socorro quay ngoắt lại. Đặt ngón tay lên môi, ả ra hiệu cho
Jessica im lặng. Không biết ǵ, nỗi căng thẳng và ṃn mỏi làm
nàng mất hết phương hướng, Jessica đành nghe theo.
Sau khi băng bó xong, Socorro đi ra nhưng không khoá cửa cũi
Nicky, mà tới bên cũi giam Jessica rồi dùng ch́a mở khoá cửa
cũi. Ả lại ra hiệu giữ im lặng. Sau đó, Socorro vẫy gọi Jessica
ra và chỉ tay vào cửa cũi để ngỏ của Nicky.
Tim Jessica đập rộn lên.
“Chị phải trở lại cũi trước khi trời sáng”, Socorro nói nhỏ. Ả
hất hàm về phía Vicente. “Anh ta sẽ nhắc chị”.
Vừa định đi về phía Nicky, Jessica dừng và quay lại. Bị thôi
thúc một cách vô thức, nàng đến bên Socorro và hôn lên má người
đàn bà ấy.
Lát sau, Jessica ôm chặt Nicky vào ḷng, cẩn thận không chạm vào
bàn tay quấn băng của nó.
“Ôi, mẹ”, nó nói.
Hai mẹ con chỉ c̣n biêt ôm chặt lấy nhau. Ngay sau đó, Nicky ngủ
thiếp đi.
Chú thích:
(1) Hăy lôi thằng nhóc ra. Cho nó ngồi xuống.
Chương 7
Ở ban tin CBA, người ta sắp dừng cuộc t́m
kiếm một cách có hệ thống các mục quảng cáo đăng trên các báo
địa phương trong ṿng ba tháng qua.
Khi bắt đầu việc t́m kiếm trước đó khoảng hơn hai tuần, điều
quan trọng là xác định xem hang ổ của bọn bắt cóc ở đâu trên đất
Mỹ. Lúc ấy, người ta hy vọng là cho dù không t́m thấy các nạn
nhân, chí ít cũng có được những chứng cứ cho thấy họ bị đưa đi
đâu. Song bây giờ, khi đă biết người nhà Sloane bị bắt cóc hiện
ở Peru, mặc dù chỉ có Sendero Luminoso biết chính xác chỗ họ
đang bị giam giữ, việc t́m kiếm cơ sở của chúng ở Mỹ xem ra
không c̣n quan trọng nữa.
Tuy vậy, từ góc độ giới làm tin truyền h́nh, việc phát hiện và
chụp ảnh hiện trường vẫn được quan tâm; song liệu điều đó có
giúp ích ǵ lớn không, xem ra cũng giảm dần cùng ngày tháng.
Dẫu sao, cố gắng trên cũng không phải là vô ích. Do đọc báo địa
phương, Jonathan Mony đă phát hiện ra tờ tuần báo tiếng Tây Ban
Nha Semana, mà tin tức trong đó đă giúp họ lần tới được Alberto
Godoy. Việc vặn hỏi Godoy cho họ biết ông ta đă bán quan tài cho
ai và xác định đúng được nhân thân tên khủng bố Ulises
Rodriguez. Sau đó do sức ép mà Godoy phải cung cấp những chứng
cứ giúp họ t́m tới nhà băng American – Amazonas, tới cái chết rơ
ràng là do bị sát hại của nhà ngoại giao tại Liên hợp quốc Jose
Antonia Salavery cùng cô bồ của anh ta là Helga Efferen va mối
liên hệ của họ ở Peru.
Nói chung, mọi người đều cho rằng chỉ riêng những việc ấy cũng
đủ thấy việc t́m qua các mục quảng cáo là việc bơ công làm.
Nhưng tiếp tục nữa liệu có thấy thêm được ǵ không? Don
Kettering, hiện phụ trách nhóm đặc nhiệm của Ban tin CBA không
nghĩ như vậy. Chủ nhiệm chính, thành viên của nhóm đặc nhiệm
Norman Jaeger cũng vậy. Ngay cả Teddy Cooper, người đề xuất và
giám sát chặt chẽ việc t́m kiếm ngay từ đầu cũng thấy không có
lư do ǵ để tiếp tục công việc ấy nữa.
Vấn đề được đưa ra bàn trong cuộc họp của Nhóm đặc nhiệm vào
sáng thứ ba.
Kể từ hôm thứ sau, khi CBA công bố tất cả các tin tức liên quan
đến vụ bắt cóc, thủ phạm và việc các nạn nhân hiện đang ở Peru,
cùng với bản tin cuối cùng tối thứ sáu phát băng ghi h́nh
Jessica và đ̣i hỏi của Sendero Luminoso, đến nay đă được bốn
ngày. Trong thời gian đó, xảy ra việc Theodore Elliott sơ ư để
lộ tin ra ngoài, dẫn đến kết quả tai hại là cả thế giới đều biết
quyết định mà CBA định giữ kín ít nhất cũng cho tới thứ năm tuần
sau. Đáng chú ư là không ai trong Ban tin CBA chê trách tờ Ngôi
sao Bantimore v́ họ hiểu rằng phóng viên và biên tập của tờ báo
này đă làm một việc mà bất cứ hăng tin nào khác, kể cả CBA cũng
sẽ làm trong hoàn cảnh đó.
Theodore Elliott không giải thích, cũng chẳng lấy làm tiếc về
việc xảy ra.
Hôm thứ bảy, ở Peru, nhóm của Harry Partridge, Minh Văn Cảnh và
chuyên viên âm thanh Ken O’Hara được tăng cường thêm Rita Abrams
và biên tập viên băng h́nh Bob Watson. Bản tin tổng hợp đầu tiên
của họ được truyền từ Lima hôm thứ hai qua vệ tinh, và được đưa
lên đầu bản tin chiều toàn quốc của CBA tối hôm ấy.
Chủ đề chính do Partridge chấp bút là t́nh h́nh đang xấu đi một
cách nghiêm trọng ở Peru, cả về kinh tế, pháp luật và trật tự xă
hội. Bản tin trích lời của ông Serge Hurstade phụ trách đài phát
thanh Peru, ông chủ bút kiêm chủ báo Esena là Manuel Leon
Seminario để minh hoạ cho những điểm trên, cùng với ảnh một đám
đông tức giận từ khu ổ chuột đang cướp phá một cửa tiệm bán đồ
ăn và chống trả cảnh sát.
Theo lời Hurstade, “Đây là một đất nước dân chủ đầy hứa hẹn,
nhưng bây giờ chúng tôi đang lao trên con đường đau khổ tự huỷ
diệt, giống như ở Nicaragua, En Xanvado, Venezuela, Colombia và
Achentina”.
C̣n Seminario th́ nêu ra một câu hỏi không thể trả lời được: “Ở
xứ Mỹ la tinh này, cái ǵ đă làm chúng tôi không bao giờ có được
một chính quyền ổn định?”. Rồi ông tiếp tục: “Chúng tôi tương
phản một cách đáng buồn với các nước láng giềng khôn ngoan ở
phía bắc. Trong khi Canada và Mỹ đă đạt thoả thuận rất văn minh
về tự do mậu dịch, làm cho đất nước họ giàu mạnh và ổn định
trong nhiều thế hệ tới, th́ chúng tôi ở phương nam lại đang phân
cực và giết hại lẫn nhau”.
Nhằm giữ mức cân đối của bản tin, theo gợi ư của Partridge, Rita
đă cố xin phỏng vấn ghi âm tổng thống Castanheda, nhưng họ từ
chối. Thay vào đó, họ đưa một vị bộ trưởng thuộc tuyến hai trong
chính phủ là Edonard Loayda ra trả lời phỏng vấn, nói toàn những
lời có tính chất trấn an tinh thần. Qua người phiên dịch, ông ta
tuyên bố các vấn đề hiện nay ở Peru chỉ là tạm thời. Nền kinh tế
đang bị phá sản của nước này sẽ gượng dậy được. Sức mạnh của
Sendero Luminoso đang giảm đi, chứ không phải là tăng lên. Và
những người Mỹ hiện bị Sendero Luminoso giam giữ sẽ được quân
đội, cảnh sát Peru t́m ra và giải thoát.
Những lời nhận xét trên của Loayda được đưa vào bản tin tối thứ
hai, song con người và giọng điệu của ông ta, như Rita diễn tả
“thối không ngửi được”.
Nhóm phóng viên CBA tại Lima và trụ sở CBA ở New York thường
xuyên liên lạc với nhau; Partridge và Rita được thông báo về
những diễn biến mới trong nước như việc nhận được băng ghi h́nh
Jessica, những đ̣i hỏi của Sendero và sự hỗn loạn do Theodore
Elliott gây ra. Điểm này làm Partridge ngỡ ngàng và tức giận, v́
biện pháp mà anh đang âm thầm thự hiện có khả năng bị phá sản
hoàn toàn. Tuy nhiên anh vẫn quyết tâm tiếp tục chiến thuật lúc
đầu ấy của anh.
Có lẽ v́ mũi nhọn công việc ở CBA đă chuyển từ New York sang
Lima, nên trong cuộc họp hôm thứ ba của Nhóm đặc nhiệm, mọi
người chú ư nhiều đến vấn đề tương đối nhỏ là việc có tiếp tục
t́m qua các mục quảng cáo trên báo nữa không.
Norman Jaeger nói với Leslie Chippingham lúc ấy đến muộn một
chút: “Tôi nêu vấn đề này ra v́ anh có ư lo về chuyện chi phí
xem chừng hơi lớn; song ta có thể dừng lại bất cứ lúc nào”.
“Thôi được rồi!”. Chippingham công nhận. “Song các anh nói đúng,
v́ vậy ta hăy quyết định xem nên thế nào”. Cái anh không nói ra
là bản tin chiều hiện đang được xếp hạng thứ rất cao, nên việc
chi phí nhiều hơn số được cấp không làm anh lo lắng nữa. Nếu
Margot Lloyd- Mason có la lối, anh chỉ việc vạch cho bà ta thấy
một thực tế là dưới thời các chũ tịch hăng trước đây, chưa bao
giờ số khán giả xem truyền h́nh của hăng lại nhiều như bây giờ.
Chippingham hỏi Teddy Cooper: “Teddy, anh thấy thế nào về việc
dừng t́m kiếm qua các mục quảng cáo?”.
Ngồi phía bên bàn họp, anh chàng nghiên cứu người Anh cười tươi
và nói: “Nghĩ ra việc đó cũng hay đây chứ?”.
“Hay! Chính thế nên tôi mới hỏi ư kiến anh”.
“Kể ra cũng vẫn có thể t́m được thêm nhiều điều khác tựa như khi
lật các lá bài, mong vớ được con át, th́ t́m được ngay một chú.
Tuy nhiên không hoàn toàn dễ như vậy. Nếu ta bỏ, tôi sẽ phải
nghĩ ra một kế hay khác”.
“Mà anh ta chắc là sẽ nghĩ ra”, Norm Jaeger b́nh luận, quay
ngoắt một trăm tám mươi độ so với nhận xét lúc đầu của anh ta về
anh chàng Teddy Cooper hiếu thắng này.
Cuối cùng mọi người quyết định từ ngày hôm sau sẽ chấm dứt việc
t́m kiếm qua quảng cáo.
Thế rồi, sau đó ba tiếng, cứ như trời đất run rủi, cuộc t́m kiếm
trên báo đă lần ra được một manh mối quan trọng, mà ngay từ khi
bắt đầu mọi người đều hy vọng t́m được nó.
o0o
Vào lúc hai giờ chiều, tại pḥng họp của Nhóm đặc nhiệm, Teddy
Cooper nhận được điện thoại của Jonathan Mony.
Lúc này Mony đảm nhận vai tṛ giám sát việc t́m kiếm, và trong
mười ngày qua, phụ trách tất cả những người mới tham gia việc
này. Có nhiều dư luận cho rằng khi công chuyện này kết thúc,
Mony sẽ được chính thức tuyển dụng vào làm tại Ban tin tức. Nghe
trong điện thoại, cậu ta có vẻ phấn khích, nói không kịp thở.
“Tôi nghĩ đă t́m thấy nó. Anh hoặc ông Kettering có thể tới đây
được không?”.
“T́m thấy ǵ?”
“T́m thấy chỗ bọn bắt cóc đă ở, tôi hầu như cầm chắc là thế.
Hiện tôi đang ở Hackensack, bang New Jersey. Trên tờ Record là
tờ báo ở đây có một mục quảng cáo, chúng tôi theo đó và lần ra
được”.
“Chờ một lát”, Cooper bảo. Don Kettering và Norm Jaeger lúc ấy
vừa vào. Cooper bỏ ống nghe khỏi tai, tay vung vẩy. “Jonathan
gọi. Cậu ta nghĩ là đă t́m ra chỗ bọn bắt cóc”.
Trên bàn cạnh đó có máy điện thoại gắn loa phát. Jaeger ấn nút
và loa bắt dầu hoạt động.
“Được rồi, Jonathan”, Kettering bảo. “Nói xem cậu t́m thấy ǵ”.
Tiếng Mony nghe qua loa rất rơ: “Có một quảng cáo trên tờ
Record. Có lẽ khớp với cái ta đang t́m. Tôi đọc anh nghe nhé”.
“Ừ, đọc đi!”.
Ba người nghe tiếng giấy xột xoạt, rồi tiếng Mony tiếp tục báo
cáo.
Họ được biết mục quảng cáo này được đăng vào ngày mùng mười
tháng tám, tức là một tháng bốn ngày trước khi xảy ra vụ bắt
cóc, và cũng trùng với khoảng thời gian bọn chúng theo dơi
Sloane trước vụ bắt cóc.
TRANG TRẠI HANKENSACK – BÁN HOẶC CHO THUÊ
Nhà rộng kiểu cổ trên diện tích ba mẫu Anh, có sáu buồng, khu
người làm riêng, thích hợp gia đ́nh đông người, hoặc có thể dùng
làm bệnh xá. Có ḷ sưởi củi, sưởi dầu, điều hoà nhiệt độ. Các
khu nhà phụ rất rộng dùng để xe, làm xưởng hoặc chứa gia súc.
Địa điểm kín đáo, vắng vẻ. Bán giá phải chăng hoặc cho thuê, có
tính đến việc cần sửa chữa đôi chút.
Prandus và Paige
Hăng buôn bán bất động sản và xây dựng
Một cô gái trong nhóm phát hiện ra mẩu quảng cáo đó lẫn trong
bao nhiêu quảng cáo khác, v́ tờ Record có mục quảng cáo bất động
sản lớn nhất so với các tờ báo khác ở vùng này. Đọc xong, cô t́m
ngay Jonathan Mony lúc ấy dang ở gần đó, có mang theo máy điện
đàm loại bỏ túi. Cậu đến gặp cô ta ở văn pḥng làm việc của tờ
báo, và gọi điện thoại cho hăng buôn bán bất động sản Prandus và
Paige.
Lúc đầu, cậu ta cũng không mấy lạc quan. Suốt hai tuần trước đó,
đă có nhiều phen mừng hụt kiểu này. Sau những giây phút khấp
khởi và lần t́m thêm, kể cả việc đến tận nơi “có khả năng là nó”
th́ hoá ra lại không phải. Khả năng lần này liệu có khác hơn
không, xem ra không lớn.
Cũng như trong các trường hợp khác, lần này khi biết CBA muốn
t́m hiểu xem thế nào, hăng bất động sản tỏ thái độ hợp tác và
cho họ địa chỉ. Có điều khác hơn là họ cung cấp thêm một vài
thông tin: một là, gần như ngay sau khi đăng quảng cáo, có người
đến thuê ngay với thời hạn một năm và trả tiền trước luôn một
lần. Hai là, gần đây tới kiểm tra, họ thấy ngôi nhà chính và các
dăy nhà phụ trống không, người thuê nhà rơ ràng đă bỏ đi.
Một nhân viên trong hăng nói với Mony: “Những người thuê nhà ở
đó khoảng một tháng. Sau đó không thấy họ đâu cả, nên chúng tôi
không biết họ c̣n quay lại nữa hay thôi. Lúc này, chúng tôi
không biết phải làm ǵ; nếu các anh có gặp họ, làm ơn báo cho
chúng tôi biết”.
Sự chú ư của Mony càng tăng. Cậu hứa sẽ báo cho hăng bất động
sản này viết thư. Sau đó, cậu cùng cô gái tới thăm khu nhà nói
trên.
“Tôi biết lẽ ra chúng tôi không được tới thẳng chỗ đó”. Cậu nói
với Cooper và hai người kia trong điện thoại. “Nhưng đó là quy
định trước khi chúng ta biết bọn bắt cóc hiện đang ở Peru. Dù
sao chúng tôi cũng t́m thấy một vài cái mà chúng tôi cho là quan
trọng, và v́ thế tôi quyết định gọi điện báo cáo với anh”.
Cậu ta bảo đang gọi điện từ một tiệm cà phê, cách ngôi nhà hoang
khoảng một dặm.
“Trước hết hăy chỉ đường cho bọn tôi”, Kettering bảo. “Rồi quay
lại ngôi nhà đó và đợi. Chúng tôi sẽ đến ngay lập tức”.
o0o
Một tiếng sau, chiếc xe chuyển tải của CBA chở Don Kettering,
Norm Jaeger, Teddy Cooper cùng đội quay gồm hai người chạy vào
sân nhà ở Hackensack.
Từ trong xe bước ra, Kettering quan sát các dăy nhà cũ mục nát,
rồi b́nh luận: “Tôi hiểu tại sao quảng cáo lại nói “cần sửa chữa
đôi chút”.
Cooper gấp tấm bản đồ anh đă nghiên cứu lại. “Chỗ này cách
Larchmont hai mươi lăm dặm. Đúng như ta dự đoán”.
“Đúng như dự đoán của anh”, Jaeger bảo.
Mony giới thiệu cô bạn cùng nhóm, cokie Vale, cô gái tóc hung
nhỏ nhắn. Cooper nhận ra cô ta ngay. Trong lần gặp gỡ đầu tiên
với nhóm t́nh nguyện, chính cô ta là người đă hỏi liệu có đội
quay h́nh khi họ đạt được kết quả như lúc này không.
“Tôi vẫn nhớ câu hỏi của cô”, anh bảo cô và chỉ tay về phía đội
quay đang chuẩn bị đồ nghề. “Cô thấy đấy, câu trả lời là “có”.
Cô ta nh́n anh, cười rạng rỡ.
“Cái đầu tiên anh nên xem là ở tầng hai của ngôi nhà chính”.
Mony nói.
Theo chân cậu ta, những người khác đi vào ngôi nhà chính trông
có vẻ hoang tàn đổ nát, rồi leo chiếc cầu thang rộng, ngoằn
ngoèo. Tới gần đầu cầu thang, cô ta mở cửa, đứng lại nhường cho
mọi người vào trước.
Căn pḥng họ vào hoàn toàn khác hẳn với những ǵ họ thấy ở xung
quanh nhà. Nó sạch sẽ, tường sơn trắng như trong bệnh viện, sàn
nhà lát bằng nhựa màu xanh nhạt. Mony bật công tắc đèn nê ông
trên trần mà rơ ràng là vừa mới lắp thêm. Mọi người nh́n thấy
hai giường bệnh xá, cả hai đều có dây khoá để cột chân tay bệnh
nhân. Một giường sắt hẹp, méo mó han gỉ trông khác hẳn hai
giường kia. Giường này, cũng có dây khoá như hai giường nọ.
Chỉ chiếc giường sắt, Kettering nói: “Cái này h́nh như mới thêm
vào sau. Căn pḥng trông giống như một trạm cứu thương”.
Jaeger gật đầu. “Có thể nó mới được sắp đặt để giam giữ ba người
đă bị đánh thuốc mê, trong đó một người chúng không tính trước”.
Mony mở cánh tủ. “Những người ở đây cũng chẳng thèm vứt những
thứ trong tủ trước khi bỏ đi”.
Trước mặt họ là mấy loại đồ nghề y tế: kim tiêm, băng, mấy cuộn
bông g̣n, gạc và hai hộp đựng thuốc c̣n nguyên chưa mở.
Jaeger nhặt một hộp và đọc to: “Điprivan…. Propofol đó là tên
gốc la tinh”. Anh ta đọc hàng chữ ghi rơ trên nhăn thuốc: “Nó
ghi: “Thuốc gây mê tiêm mạch”. Rồi nh́n Kettering, anh ta nói:
“Không c̣n chệch vào đâu được: đúng như dự đoán”.
“Tôi dẫn các anh xuống dưới nhà nhé?”, Mony nhắc.
“Ừ, đi đi”, Kettering bảo cậu ta. “Anh là người đă có thời gian
xem xét xung quanh”.
Khi vào một nhà phụ, Mony chỉ tay vào chiếc ḷ sắt đầy tro: “Họ
đốt khối thứ ở đây, nhưng nhiều cái vẫn chưa cháy hết”. Cậu ta
nhặt một mảnh giấy cháy dở, vẫn c̣n nh́n rơ tên tờ tạp chí
“Caretas”. “Đó là tạp chí của Peru”, Jaeger nói: “Tôi biết rơ tờ
đó”.
Họ qua một căn nhà rộng hơn. Nh́n từ bên trong, rơ ràng đó là
xưởng sơn x́. Bọn chúng hầu như cũng không cố dọn sạch căn nhà
này. Những hộp sơn, có hộp đang dùng dở, có hộp chưa mở vẫn c̣n
để đấy. Hầu hết các hộp đều mang nhăn “Sơn bóng ô tô”.
Teddy Cooper nh́n các màu sơn: “Các anh có nhớ ta nói chuyện với
những người đă thấy bọn theo dơi Sloane chứ? Một số nói thấy
chiếc xe màu xanh, nhưng loại xe mà họ nói không có chiếc nào
khi ra xưởng lại có màu ấy. Đây này, màu xanh men sứ và cả màu
vàng nữa”.
“Đúng chỗ này rồi”, Jaeger nói. “Nhất định thế”.
Kettering gật đầu: “Toi cũng nghĩ vậy. Vậy ta bắt tay vào làm
thôi. Chúng ta sẽ đưa chuyện này vào bản tin tối nay”.
“C̣n một việc nữa”, Mony bảo. “Cokie phát hiện ra nó ở ngoài
kia”.
Lần này đến lượt cô gái tóc hung xinh đẹp dẫn đường. Cô đưa họ
tới một bụi cây cách xa ngôi nhà chính và căn nhà phụ, và giải
thích: “Cách đây không lâu, có người đă đào bới chỗ này. Sau đó
họ cố lấp đất cho phẳng nhưng không được. Cỏ vẫn c̣n chưa kịp
mọc lại”.
Cooper bảo: “H́nh như họ hất đất lên và chôn vật ǵ đó, cho nên
không san phẳng được”.
Mọi ngươi đưa mắt nh́n nhau, Cooper có vẻ bồn chồn c̣n Jaeger
ngoảnh nh́n chỗ khác. Nếu chôn, th́ chôn cái ǵ? Xác một người
hay nhiều người? Mọi người có mặt đều nghĩ rất có khả năng xảy
ra chuyện đó.
Jaeger nói, vẻ do dự: “Chúng ta phải báo cho FBI chuyện này. Có
thể chúng ta nên chờ và để họ…”.
Sở dĩ anh nói như vậy, v́ sau Bản tin chiều thứ sáu, giám đốc
FBI ở Washington đă gọi điện cho Margot Lloyd Mason, cực lực
phản đối việc CBA không báo cho FBI biết ngay các sự kiện mới.
Một số người ở CBA coi việc đó là nghiêm trọng, có lẽ do tin
rằng tổ chức của bà có thể chống chọi được bất cứ sức ép nào của
chính quyền và không có chuyện phải ra hầu toà. Bà chỉ báo cho
Les Chippingham biết là có chuyện như vậy. Đến lượt ông chủ tịch
Ban tin cảnh tỉnh Nhóm đặc nhiệm là cần cho giới chức giữ ǵn
luật pháp biết tin, trừ phi có lư do bắt buộc để không làm như
vậy.
Rơ ràng, v́ có những bằng chứng hiển nhiên ở Hackensack liên
quan đến vụ bắt cóc, FBI cần được thông báo về phát hiện này,
chắc chắn phải trước buổi phát tin tối nay. “Nhất định phải báo
FBI rồi”, Kettering nói. “Nhưng trước tiên tôi muốn xem liệu có
ǵ chôn dưới này không”.
“Có mấy chiếc xẻng chỗ ḷ sưởi”. Mony nói.
“Cậu lấy lại đây”, Kettering bảo cậu ta. “Chúng ta đều khoẻ chân
mạnh tay cả. Hăy đào lên xem sao”.
Một lát sau, mọi người thấy chỗ họ đào không phải là mồ chôn
người, mà là chỗ chứa các thứ những người thuê nhà vừa rồi vứt
đi và có lẽ muốn giấu kín. Có vài thứ vô thưởng vô phạt như đồ
ăn, quần áo, các thứ dùng trong nhà tắm và báo chí. Các thứ khác
có ư nghĩa hơn như thuốc men mới đưa tới, bản đồ, một vài cuốn
sách b́a mỏng bằng tiếng Tây Ban Nha, và các đồ sửa xe.
“Chúng ta biết bọn chúng có cả một đội xe tải và xe con”, Jaeger
nói. “Có thể FBI sẽ t́m ra chúng dùng những thứ này vào việc ǵ,
nếu lúc này điều đó c̣n có ích”. “Tôi thấy những thứ này không
có thể giúp ích ǵ vào lúc này” Kettering phán. “Thôi, ta đi
đi”.
Trong khi họ đào bới, đội quay bắt đầu làm việc, trước tiên họ
thu tiếng Cokie Vale tả lại việc cô t́m kiếm các mục quảng cáo
thế nào, và tại sao họ lại t́m đến được ngôi nhà ở Hackensack.
Trước ống kính máy quay, cô hành động rất tự nhiên, diễn đạt
mạch lạc và tiết kiệm lời. Sau đó cô thú nhận đó là lần đầu tiên
cô xuất hiện trên truyền h́nh. Song những người quan sát cô th́
cảm thấy đó sẽ không phải là lần cuối cùng.
Mọi người thấy Jonathan Mony cũng đang được thu h́nh và đă mô tả
lại căn pḥng trên tầng hai là nơi chắc chắn bọn bắt cóc đă giam
giữ ba nạn nhân. Cậu cũng gây được ấn tượng mạnh mẽ.
“Nếu cố gắng này của chúng ta chẳng thu được ǵ thêm”, Jonathan
nói với Don Kettering, “ít ra nó cũng giúp ta phát hiện được
những khả năng mới”.
Sau khi từ trong nhà ra, Mony lại leo xuống hố đào tiếp th́
Kettering quyết định thôi. Lúc sắp sửa trèo lên, Mony cảm thấy
giẫm lên vật ǵ đó cưng cứng, liền lấy xẻng đào thử. Một lúc
sau, cậu lôi ra được một vật, liền gọi: “Các anh nh́n này!”.
Đó là chiếc máy điện thoại di động bọc trong vải.
Đưa chiếc điện thoại cho Cooper, Mony bảo: “Tôi nghĩ dưới ấy c̣n
nữa”.
Không phải chỉ một, cậu c̣n t́m thêm được bốn cái. Họ đặt tất cả
sáu chiếc cạnh nhau.
“Bọn thuê chỗ này không phải là thiếu tiền”, Cokie nhận xét. “Có
thể là tiền do buôn bán ma tuư; dẫu sao chúng cũng có nhiều
đấy”. Don Kettering nói với cô ta. Anh nh́n mấy cái máy với vẻ
suy nghĩ. “Nhưng có thể, chỉ là có thể thôi nhé, là chúng ta sẽ
lần ra được”.
Jaeger hỏi: “Họ có hồ sơ lưu về tất cả các máy điện thoại di
động không?”.
“Có chứ”, Kettering, vốn là phóng viên phụ trách mảng tin kinh
doanh, mới đây vừa viết một bài dài về thị trường điện thoại
không dây di động đang phát đạt, trả lời chắc như đinh đóng cột.
“Họ c̣n vô khối hồ sơ lưu, kể cả tên người đặt điện thại loại
thông thường, cùng địa chỉ gữi hoá đơn thanh toán. Dùng máy loại
này, nhất định bọn chúng phải có kẻ đồng loă ở địa phương”. Anh
quay sang nói với Cooper “Teddy, trên mỗi máy sẽ có ghi số hiệu
của vùng, sau đó là số máy thường dùng như máy ở nhà hoặc ở văn
pḥng vậy”.
“Tôi hiểu rồi”, Cooper trả lời. “Anh có muốn tôi ghi lại các số
ấy không?”.
“Vâng”.
Trong khi Cooper thử quay số, họ tiếp tục quay ngôi nhà chính và
các nhà phụ. Phóng viên đưa tin tại chỗ là Kettering. Anh đứng
trước ống kính và nói:
Có thể có người cho rằng việc t́m ra chỗ ẩn náu ở Mỹ mà bọn bắt
cóc đă bỏ, vào lúc này là quá ít và quá muộn. Có thể là như vậy.
Nhưng rồi đây FBI và những người khác sẽ sàng lọc những bằng
chứng t́m được ở đây, trong khi cả thế giới sẽ nóng ḷng theo
dơi và tiếp tục hy vọng.
Don Kettering hăng CBA, Hackensack, New Jersey.
Trước khi ra về, họ ghé vào trụ sở cảnh sát địa phương, yêu cầu
họ báo tin cho FBI.
o0o
Ngay cả trước khi Bản tin chiều toàn quốc được phát, Kettering
vẫn c̣n gọi điện cho một người bạn có vai vế trong NYNEX, là
công ty quản lư toàn bộ hệ thống điện thoại ở New York và New
Jersey. Cầm bản danh sách các số máy mà Teddy Cooper ghi lại,
Kettering giải thích rơ điều anh muốn biết là tên và địa chỉ của
(những) người thuê bao những máy này, cùng với danh sách những
lần gọi đi hoặc gọi tới những số máy ấy trong hai tháng vừa qua.
Bạn anh, phó chủ tịch điều hành của công ty nói với anh: “Tất
nhiên anh thừa biết, cho anh những thông tin đó không những là
vi phạm quyền riêng tư của mỗi người, mà c̣n là hành động phạm
pháp và tôi có thể mất việc. Nếu như anh là một nhân viên điều
tra và có giấy tống đạt của toà th́ lại là chuyện khác”.
“Cái đó th́ tôi không có và không thể có đâu”, Kettering trả
lời. “Nhưng tôi dám đánh cuộc là ngày mai thế nào FBI cũng sẽ
yêu cầu cung cấp những thông tin đó, và chắc chắn họ sẽ có. Tôi
muốn biết câu trả lời trước họ”.
“Ôi, lạy Chúa! Tại sao tôi lại giao du với một nhân vật như anh
cơ chứ?”.
“Tại anh hỏi tôi mới nhớ là anh cũng đă nhờ CBA giúp đỡ một đôi
lần và tôi đă giúp anh. Thôi nào! Chúng ta tin nhau từ hồi ở
trường thương mại đến giờ và có bao giờ phải hối tiếc v́ chuyện
đó đâu”.
Có tiếng thở dài ở đầu dây bên kia. “Cho tôi những số máy chết
tiệt ấy!”.
Sau khi Kettering đọc số máy, bạn anh nói tiếp: “Anh nói ngày
mai FBI sẽ hỏi. Tức là anh muốn biết câu trả lời ngay tối nay?”.
“Đúng vậy, nhưng tốt nhất là trước mười hai giờ. Anh có thể gọi
số máy ở nhà tôi. Anh có đấy chứ?”.
“Thật không may, tôi lại có”.
Bạn anh gọi lại lúc mười hai giờ kém mười lăm. Don Kettering ở
lại làm việc rất muộn ở CBA, vừa mời về tới nhà ở phố Bảy mươi
bảy khu Đông, Aimee vợ anh, nghe máy, rồi đưa ống nghe cho anh.
“Tôi theo dơi mục tin tối nay của anh”, anh bạn ở NYNEX bảo anh.
“Tôi chợt nghĩ những số của máy mà anh đưa tôi là số máy bọn bắt
cóc sử dụng”.
“Có vẻ là vậy”. Kettering thừa nhận.
“Nếu đúng thế, ước ǵ tôi giúp anh được nhiều hơn. Song lúc này
không nhiều lắm đâu. Trước hết, các số máy trên đều đứng tên một
người là Helga Efferen. Tôi có cả địa chỉ”.
“Chắc không phải địa chỉ mới – Cô gái đó chết rồi. Bị giết. Tôi
hy vọng cô ta không c̣n nợ nần ǵ anh chứ?”.
“Lạy Chúa! Bọn phóng viên các anh máu lạnh thật đấy”. Ngừng một
lát, anh ta nói tiếp: “Về chuyện tiền nong, thực ra lại ngược
lại. Sau khi thuê bao các số này, người nào đó đă trả trước vào
tài khoản mỗi máy năm trăm đôla, tổng cộng sáu mày là ba ngàn
đôla. Chúng tôi không đ̣i hỏi, nhưng trong tài khoản ghi là tiền
đặt cọc”.
Kettering bảo: “Tôi đoán những người sử dụng máy không muốn công
ty gửi hoá đơn đ̣i thanh toán, hoặc hỏi han lôi thôi trước khi
họ an toàn rời khỏi nước này”.
“Lư do ǵ đi nữa, phần lớn số tiền vẫn c̣n ở đó. Họ mới dùng
chưa hết một phần ba, bởi v́ chỉ có sáu máy đó gọi cho nhau, chứ
không gọi máy nào khác, trừ một lần duy nhất. Các máy trong khu
vực gọi cho nhau đều phải trả tiền, nhưng không nhiều như lần
gọi ấy”.
“Tất cả cho thấy bọn bắt cóc có tổ chức và kỷ luật”, Kettering
xác nhận. “Nhưng anh bảo trừ có một lần?”. “Đúng thế, vào hôm
mười ba tháng mười, gọi điện quốc tế trực tiếp qua Peru”.
“Đó là ngày trước hôm xảy ra vụ bắt cóc. Anh có số máy đó
không?”.
“Tất nhiên có. Đó là 001, tức là số xin đăng kư gọi quốc tế; 51
là số kư hiệu Peru, rồi 14-28-9427. Các nhân viên nói với tôi số
14 là Lima. C̣n chính xác là ở đâu th́ anh phải tự t́m lấy”.
“Nhất định rồi. Cám ơn anh!”.
“Hy vọng thông tin của tôi giúp ích anh phần nào. Chúc anh may
mắn”.
Mấy phút sau, xem trong sổ tay, Kettering gọi điện thoại theo số
011-51-14-44-1212.
Vừa nghe đầu kia trả lời: “Buenas tardes, khách sạn Cesar”,
Kettering bảo: “Cho tôi nói chuyện với ông Harry Partridge”.
Chương 8
Đối với Partridge, hôm đó thật là một ngày
buồn chán. Anh cảm thấy mệt mỏi, và khi trở lại pḥng ở khách
sạn, anh đi nằm ngay trước mười giờ. Song đầu óc anh vẫn quay
cuồng với bao ư nghĩ, anh suy ngẫm về trường hợp Peru.
Đất nước này là một nghịch lư, một sự pha trộn không ăn nhập
giữa chế độ độc tài quân sự và nền dân chủ tự do. Ở hầu hết
những vùng xa xôi của nước cộng hoà này, giới quân sự và cái gọi
là cảnh sát chống khủng bố cai trị với bàn tay sắt, và thường
bất chấp luật pháp. Như các cuộc điều tra độc lập thường cho
thấy, chúng giết người vô tội vạ, sau đó gán cho các nạn nhân
cái tên “phiến quân” mặc dù họ không phải như vậy.
Một tổ chức nhân quyền của Mỹ là American Watch đă làm một việc
Partridge cho là rất đáng ca ngợi là t́m ghi lại “một loạt những
vụ hành quyết không cần xét xử, bắt bớ tuỳ tiện và tra tấn”,
điều là “đặc trưng” của chiến dịch chống bạo loạn của chính phủ.
Mặt khác, tổ chức American Watch cũng không tha bọn phiến loạn.
Theo một số báo cáo mới công bố gần đây, đang để ngay cạnh chỗ
anh nằm, Sendero Luminoso đă “giết hại một cách có hệ thống
những dân thường vô phương tự vệ, đánh bom, gây nguy hại đến
tính mạng của khách qua đường vô tội, và tấn công các mục tiêu
quân sự mà không hạn chế đến mức tối thiểu mối nguy hiềm đối với
dân thường, tức là “vi phạm hầu hết các nguyên tắc cơ bản của
luật nhân đạo quốc tế”.
Nói đến nước này, nh́n chung mọi người cho rằng “Peru hiện có
một ưu thế đáng buồn là được kể là một trong những nơi bạo loạn
và nguy hiểm nhất ở Mỹ La tinh”.
Kết luận không tránh khỏi, được các nguồn khác xác nhận, là khi
nói về việc giết người vô tội vạ và các hành động man rợ khác,
bọn phiến loạn và quân chính phủ cũng chẳng khác nhau mấy”.
Nhưng đồng thời, các yếu tố dân chủ mạnh mẽ vẫn tồn tại ở Peru,
tồn tại thực sự chứ không phải chỉ bề ngoài như đôi khi các nhà
phê phán nước này vẫn nói. Thí dụ như tự do báo chí, một truyền
thống h́nh như đă ăn sâu bám rễ từ lâu. Chính nhờ thứ tự do này
mà Partridge và các phóng viên nước ngoài khác có thể đi lại,
gặp gỡ hỏi chuyện, điều tra thăm ḍ, rồi đưa bất cứ tin tức nào
họ muốn, mà không sợ bị trục xuất hoặc trả thù. Thực tế, cũng có
một vài trường hợp ngoại lệ, nhưng cho đến nay xem ra cũng rất
hiếm và chỉ là những trường hợp cá biệt.
Hôm nay, trong cuộc phỏng vấn tướng Raul Ortiz tư lệnh cảnh sát
chống khủng bố, Partridge đă gần như đề cập tới chủ đề này.
“Ngài không lấy làm lo ngại”, anh hỏi viên tướng mặc thường
phục, ngồi thẳng lưng và không bao giờ mỉm cười này, “trước rất
nhiều tin tức có trách nhiệm về các nhân viên của ngài có những
hành động tàn ác và giết người bất hợp pháp sao?”.
“Tôi sẽ lo lắng hơn” Ortiz đáp với giọng khinh khỉnh, “nếu những
người của tôi bị giết hại, mà chắc chắn sẽ như vậy, nếu họ không
tự bảo vệ ḿnh trước bọn khủng bố, mà ông cũng như những người
khác tỏ ra rất quan tâm. C̣n về những tin tức sai lệch trên, nếu
chính phủ chúng tôi cấm không cho lưu hành, những người như ông
hẳn sẽ làm toáng lên và rêu rao măi. V́ vậy tốt hơn là nên đưa
tin vặt trong ngày, mà hai mươi bốn giờ sau người ta quên luôn”.
Partridge yêu cầu phỏng vấn Ortiz, dù không tin là sẽ khai thác
được ǵ nhiều, song có thể giúp anh một số thông tin nào đó.
Thông qua Bộ Nội vụ, người ta sắp xếp ngay cuộc gặp, nhưng từ
chối việc phỏng vấn thu h́nh. Trước khi được phép vào văn pḥng
ông tướng cảnh sát, họ khám người Partridge, bắt để lại chiếc
ghi âm nhỏ anh mang theo trrong túi và định xin phép được dùng.
Tuy nhiên, họ không nhắc ǵ đến việc đây là cuộc nói chuyện
không chính thức và viên tướng không phản đối việc anh ghi chép
nội dung trao đổi.
Văn pḥng tường lát gỗ, trông rất khiêm tốn của tướng Ortiz cũng
giống như vô vàn văn pḥng khác trong toà nhà cổ, tường trát xi
mặng đồ sộ ở trung tâm Lima. Một nửa toà nhà trước đây được dùng
làm nhà giam, có tường bao bọc xung quanh. Trước khi vào được
bên trong, phải qua cuộc khám xét của nhiều tốp lính gác đầy vẻ
nghi kỵ. Trên chiếc sân bên trong khu tường, Partridge đi ngang
qua những chiếc xe bọc sắt và những chiếc xe tải có trang bị ṿi
rồng chống bạo loạn. Trong khi nói chuyện với Ortiz, Partridge
biết rằng ở dưới hầm toà nhà họ đang ngồi có nhiều khu buồng
giam, là nơi tù nhân thường bị giam giữ hai tuần không được tiếp
xúc ǵ với bên ngoài, và thường bị hỏi cung và tra tấn.
Ngay từ đầu cuộc phỏng vấn tướng Ortiz, Partridge đă hỏi ngay
vấn đề anh quan tâm hàng đầu là cảnh sát chống khủng bố có biết
người nhà Sloane bị bắt cóc hiện đang ở đâu không.
“Thế mà tôi lại nghĩ ông tới đây để cho tôi biết điều đó, v́ từ
khi đến nước này, ông đă gặp gỡ rất nhiều người”, viên tướng
cảnh sát trả lời. Partridge nghĩ: đó vừa là lời thú nhận, vừa là
lời cảnh cáo không cần tế nhị lắm, cho thấy mọi hoạt động của
anh đều bị theo dơi. Anh cũng đoán rằng, dù là có tự do báo chí
đi nữa, chính quyền Peru chắc sẽ theo dơi và ghi lại các tin của
CBA và các hăng truyền qua vệ tinh về New York.
Khi Partridge tuyên bố mặc dù cố gắng t́m kiếm, anh vẫn không có
được tin tức ǵ về nơi giam giữ các con tin Mỹ, Ortriz nói: “Như
vậy hẳn là ông biết Sendero Luminoso kẻ thù của đất nước này,
ranh ma kín tiếng đến mức nào rồi chứ? Và chắc ông cũng hiểu đất
nước chúng tôi khác xa đất nước các ông, với nhiều vùng rộng đủ
sức giấu kín nhiều đạo quân. Nhưng có, chúng tôi có biết nơi các
bạn ông có thể bị giam giữ, và lực lượng cảnh sát đang truy t́m
ở những nơi đó”.
“Ông có thể cho biết vùng nào không?”, Partridge hỏi.
“Tôi không nghĩ làm thế là khôn ngoan. Dù sao đi nữa ông cũng
không thể tới đó một ḿnh được. Hoặc giả ông cũng có kế hoạch
như vậy chăng?”.
Mặc dù anh có dự tính thế thực, anh vẫn trả lời là không.
Phần c̣n lại của buổi phỏng vấn vẫn diễn ra theo lối như vậy; cả
hai bên đều không tin ǵ nhau và chơi tṛ mèo vờn chuột, cố khai
thác tin tức của người kia mà không lộ hết tin tức ḿnh có. Tuy
cả hai người cuối cùng chẳng ai thắng ai cả, song trong phần
viết cho Bản tin chiều toàn quốc, Partridge có trích dẫn lời của
tướng Ortoz về những “vùng rộng đủ sức giấu kín nhiều đạo quân”
ở Peru và nhận xét trâng tráo của ông ta về cái gọi là những vi
phạm nhân quyền chỉ là “tin vặt trong ngày, mà hai mươi bốn giờ
sau người ta sẽ quên luôn”.
V́ không có ghi âm lời, New York phát ảnh tướng Ortiz, bên dưới
hiện hàng chữ trích dẫn lời của ông ta. Tuy nhiên, Partridge
không coi cuộc phỏng vấn ấy của anh là thành công. Cuộc phỏng
vấn Cesar Acevedo, một bạn cũ của Partridge và là một người đứng
đầu nhà thờ Thiên chúa giáo không có chân trong giáo hội cuối
ngày hôm đó làm anh hài ḷng hơn. Họ nói chuyện trong văn pḥng
riêng ở phía sau lâu đài của Tổng giám mục ở Plaza Armas, trung
tâm chính của thành phố.
Acevedo là người nhỏ nhắn, nói nhanh và sôi nổi, trạc năm mưoi
tuổi. Ông có ḷng tín ngưỡng sâu sắc và là một học giả về thần
học. Ông dành cả thời gian tham gia quản lư nhà thờ, có khá
nhiều quyền lực, nhưng chưa bao giờ có ư định trở thành cha cố.
Bạn bè ông thường bảo, nếu muốn, ông ít nhất cũng có thể được
phong chức giám mục và có thể cả chức giáo chủ.
Cesar Avevedo chưa từng lấy ai, nhưng luôn là nhân vật nổi tiếng
trong các giới ở Lima.
Partridge mến Acevedo v́ ông không làm vẻ khác người, khiêm tốn
và hết sức chân thật. Trước đây, có lần Partridge hỏi tại sao
ông không làm cha cố, ông trả lời: “Mặc dù hết ḷng kính Chúa
Jesus tôi không khi nào muốn từ bỏ quyền vận dụng tri thức để
trở thành người theo chủ nghĩa hoài nghi, nếu thực phải thế,
song tôi cầu Chúa cho điều đó đừng xảy ra. Nếu trở thành linh
mục, tôi sẽ phải từ bỏ quyền đó. Từ khi c̣n trẻ, và bây giờ cũng
vẫn vậy, tôi không bao giờ đủ can dảm làm điều đó”.
Acevedo là thư kư thường trực của Uỷ ban Hành động xă hội của
Nhà thờ thiên chúa, tham gia vào các chương tŕnh lớn giúp đỡ về
mặt y tế cho các vùng xa xôi hẻo lánh, là nơi thường không có
mặt các bác sĩ và y tá.
Vào đầu câu chuyện, Partridge đă hỏi ngay: “Tôi tin là đă nhiều
lần ông phải giao thiệp với Sendero Luminoso?”.
“Anh dùng từ “phải giao thiệp” là đúng, ông mỉm cười đáp. “Tất
nhiên, nhà thờ không tán thành mục địch và phương pháp của
Sendero. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn tồn tại một quan hệ, nhưng
là một quan hệ kỳ quặc”.
“V́ những lư do riêng”, ông giải thích, “Sendero Luminoso không
muốn gây thù kết oán với nhà thờ và không mấy khi công kích nó.
Nhưng nhóm phiến loạn này không tin các quan chức nhà thờ; v́
vậy khi họ chuẩn bị các hoạt động chống chính quyền hoặc chuẩn
bị nổi dậy ở đâu, họ muốn các linh mục và nhân viên khác của nhà
thờ rời khỏi khu vực đó, để họ không thấy được các hoạt động
ấy”.
Họ chỉ nói với vị linh mục hay nhân viên nhà thờ đơn giản là:
“Các ông đi khỏi đây ngay! Chúng tôi không muốn các ông có mặt ở
đấy! Chúng tôi sẽ báo khi nào các ông có thể trở lại”. “Và các
vị linh mục đă làm theo lệnh ấy?”.
Acevedo thở dài. “Nghe có vẻ chẳng hay ho ǵ, đúng không? Nhưng
thường là như vậy, v́ không c̣n cách nào khác. Nếu không tuân
lệnh, Sendero sẽ giết chết ngay. Một linh mục c̣n sống th́ c̣n
có thể trở lại giáo phận được, chứ linh mục chết th́ không”.
Partridge chợt nảy ra một ư, liền hỏi: “Ngay lúc này, có nơi nào
mà người của ông được lệnh đi nơi khác, hoặc Sendero Luminoso
không muốn người ngoài chú ư không?”.
“Có một nơi như vậy, và nó là cả một vấn đề chúng tôi phải giải
quyết. Anh lại đây! Tôi sẽ chỉ trên bản đồ cho anh”. Họ tới
trước một bức tường, ở đó, đằng sau tấm bảng nhựa có vẽ các
đường ch́, là tấm bản đồ Peru rất lớn.
“Toàn bộ khu vực này” Acevedo chỉ một khu có khoanh ch́ đỏ thuộc
tỉnh San Martin. “Trước đây khoảng ba tuần chúng tôi có một đội
y tế thực hiện chương tŕnh cứu trợ hàng năm của chúng tôi ở
đây. Công việc chủ yếu của họ là tổ chức tiêm chủng cho trẻ em.
Điều này rất quan trọng, v́ vùng này là một bộ phận của Selva là
nơi các chứng bệnh ở rừng hoành hành và có thể gây chết người.
Thế rồi cách đây ba tuần, Sendero Luminoso là người kiểm soát
vùng này yêu cầu người của chúng tôi phải đi ngay. Họ phản đối,
nhưng vẫn phải đi. Bây giờ chúng tôi muốn đưa đội y tế trở lại,
nhưng Sendero không cho”.
Partridge nghiên cứu khu vực khoanh đỏ. Anh cứ hy vọng vùng này
nhỏ; thế nhưng nó lại rất rộng. Anh đọc các địa danh, nơi nọ
cách nơi kia rất xa: Tocache Uchiza Sion, Nueva Esperanza,
Pachiza. Anh ghi lại tên những nơi này, nhưng cũng chẳng hy vọng
ǵ nhiều. Giả sử các con tin đang bị giam giữ ở một trong những
nơi này, th́ có vào mà không biết chắc ở đâu cũng chẳng ích ǵ.
Tiến hành giải thoát con tin ở một vùng như thế này là việc khó
khăn, có lẽ không thể thực hiện được. Cơ hội duy nhất, mà cũng
rất mỏng manh, là phải hết sức bất ngờ.
“Tôi ngờ rằng tôi biết anh đang nghĩ ǵ”, Acevedo nói “Anh đang
tự hỏi không biết các bạn anh bị bắt cóc hiện đang ở đâu trong
ṿng tṛn đỏ ấy”.
Partridge gật đầu không nói ǵ.
“Tôi không tin là họ ở đấy. Nếu có, tôi cho rằng thể nào cũng có
tin đồn. Mà tôi chưa nghe thấy ai đồn đại. Nhưng nhà thờ chúng
tôi cũng có một hệ thống đầu mối. Tôi sẽ thử ḍ hỏi, và sẽ báo
lại anh nếu tôi biết được ǵ”.
Partridge biết đó là cách có hy vọng nhất. Song anh biết thời
gian không c̣n nhiều nữa, mà anh vẫn không biết ǵ hơn khi anh
mới tới, về nơi ba người nhà Sloane đang bị giam giữ.
Khi c̣n ở lâu đài của Tổng giám mục, anh cứ bứt rứt măi với ư
nghĩ ấy. Bây giờ trong khác sạn, nhớ lại câu chuyện ấy và các sự
kiện khác trong ngày, anh cảm thấy chán chường và thúc thủ v́
công việc không tiến triển được.
Bỗng điện thoại cạnh giường đổ chuông.
“Harry đấy à?”, Partridge nhận ra tiếng Don Kettering.
Sau khi chào nhau, Kettering bảo: “Một số việc vừa xảy ra và tôi
nghĩ là anh cần phải biết”.
Rita, cùng ở khách sạn Cesar, nhấc máy sau hồi chuông thứ hai.
“New York vừa gọi điện cho tôi”, Partridge nói. Anh nhắc lại
những ǵ Don vừa nói với anh về việc phát hiện ngôi nhà ở
Hankensack cùng các máy điện thoại di động và nói thêm: “Don cho
tôi số máy mà chúng đă gọi ở Lima. Tôi muốn t́m xem số máy đó
của ai và ở đâu”. “Đưa tôi số điện thoại đó”, Rita bảo.
Partridge đọc: 28-9427.
“Tôi sẽ gọi cho tay Victo Velasco ở Entel và nhờ ông ta t́m
giúp. Có tin ǵ, tôi sẽ gọi lại”.
Mười lăm phút sau, cô ta gọi lại. “Tôi đă điện thoại đến nhà
Velasco. Ông ta nói bộ phận của ông không quản lư việc đó, nên
t́m chắc cũng hơi khó. Tuy nhiên, ông ta cho là từ giờ đến sáng
mai có thể t́m ra được”.
“Cảm ơn chị” Partridge nói và ngay sau đó ngủ thiếp đi.
Chương 9
Măi tới tận chiều thứ tư mới xác định được
số điện thoại ở Lima mà Don Kettering cung cấp. Ông giám đốc bộ
phận quốc tế của Entel Peru cứ phân trần măi về việc chậm trễ
ấy. “Tất nhiên đây là những dữ kiện không được phép phổ biến”,
ông ta giải thích với Partridge và Rita trong pḥng biên tập của
CBA ở Entel, sau khi hai người đă làm việc với biên tập viên Bob
Watson về một bản tin khác gửi New York.
“Tôi phải thuyết phục măi một đồng nghiệp của tôi mới chịu cho
biết thông tin này đấy”, Velasco tiếp tục giải thích.
“Bằng tiền chứ ǵ?”, Rita hỏi, và khi ông ta gật đầu, cô ta nói:
“Chúng tôi sẽ hoàn lại ông”.
Thông tin đó được ghi trên một mảnh giấy xé từ sổ ghi: Canderon
G-547, phố Huancavelia, 10F. “Chúng tôi cần gặp Fernandez”,
Partridge nói.
“Anh ta đang trên đường tới đây”, Rita thông báo, và chỉ ít phút
sau, anh chàng da ngăm đen, cao to lừng lững đă xuất hiện. Anh
ta vẫn làm việc với Partridge và Minh Văn Cảnh từ khi hai người
đến sân bay Lima, và hiện giờ đang phụ giúp Rita rất nhiều việc.
Fernandez Pabur gật đầu lia lịa khi nghe địa chỉ ở phố
Huancavelia và hiểu tại sao việc đó lại quan trọng. “Tôi biết
chỗ ấy. Đó là một ngôi nhà cũ nhiều pḥng ở gần ngă tư Avenida
Tacna, và chắc các ông không thể coi là…”. Anh ta cố t́m từ
tiếng Anh, “giống như lâu đài được”.
“Nó thế nào cũng được”, Partridge bảo anh ta. “Bây giờ tôi muốn
tới đó”. Anh quay sang Rita, “Tôi muốn chị, Minh và Ken cùng đi,
nhưng lúc đầu hăy để ḿnh tôi vào xem thế nào…”.
“Một ḿnh không được”, Fernandez phản đối. “Ông có thể bị trấn
lột, có thể c̣n tệ hại hơn nữa. Tôi và Tomas sẽ cùng vào với
ông”. Lúc này họ mới biết anh chàng vệ sĩ lầm lỳ, vạm vỡ ấy tên
là Tomas.
Chiếc xe ḥm Fernandez thuê, hiện họ rất hay phải dùng đến nó,
đang đậu ở bên ngoài toà nhà của hăng Entel. Xe hơi chật, v́ có
tới bảy người kể cả lái xe, song đoạn dường xe chạy mất có mười
phút. “Nó kia”, Fernandez nói, chỉ tay qua cửa sổ.
Avenida tacna là một dường lớn, xe cộ qua lại nhiều; phố
Huancavelia nằm vuông góc với nó. Tuy không đến nỗi như khu ổ
chuột, khu này rơ ràng hoang tàn đổ nát. Số 547 phố Huancavelia
là một toà nhà rộng, xám xịt, tường xiêu vách lở. Một đám đàn
ông, kẻ ngồi ở ŕa tam cấp, người đứng thơ thẩn nh́n khi
Partridge, Fernandez và Tomas từ trong xe bước ra; Rita, Minh
Văn Cảnh và kỹ thuật viên âm thanh Ken O’Hara ngồi lại cùng
người lái.
Bắt gặp những ánh mắt ḍ xét, thiếu thiện cảm của đám người,
Partridge mừng là Fernandez đă nhất định không để anh vào đó một
ḿnh.
Vào bên trong, mùi nước tiểu và mùi thối xộc lên mũi họ. Rác
rưởi được vứt ngay trên sàn. Biết trước là thang máy không hoạt
động, họ không c̣n cách nào khác là cuốc bộ chín cầu thang xi
măng cáu bẩn.
Pḥng F nằm ở cuối hành lang không trải thảm tối ṃ. Partridge
gơ vào cánh cửa sơ sài. Anh nghe thấy tiếng động trong nhà,
nhưng không có ai ra mở cửa nên lại gơ tiếp. Lần này, cánh cửa
chỉ mở hé rồi dừng lại v́ sợi xích móc phía trong. Ngay lúc đó,
giọng phụ nữ la hét om x̣m bằng tiếng Tây Ban Nha; bà ta nói quá
nhanh, Partridge chỉ nghe được mấy chữ “animales!... Asesinos!
Diablos!”. (1)
Anh cảm thấy ai đó nắm tay anh và thấy dáng to bè của Fernandez
bước lên trước. Ghé mồm sát khe cửa, Fernandez cũng nói nhanh
không kém, nhưng với giọng dịu dàng, có vẻ biết điều. Nghe anh
nói, giọng người kia ngập ngừng rồi im bặt; bà ta tháo xích và
mở rộng cửa.
Người đàn bà đang đứng trước mặt họ có lẽ vào khoảng sáu mươi.
Thuở xa xưa, chắc bà cũng đẹp, song thời gian và cuộc sống gian
khổ đă làm bà tiều tuỵ và thô lỗ, da xù x́, tóc bù xù và nhuộm
đủ màu. Dưới cặp lông mày mảnh kẻ chỉ là đôi mắt đỏ, sưng mọng
v́ khóc lóc, than văn, và khuôn mặt bự phấn. Fernandez bước qua
trước mặt bà ta, những người khác theo sau. Một lát sau, bà ta
đóng cửa, rơ ràng là cảm thấy an tâm.
Partridge liếc nhanh quanh pḥng. Họ đang ở trong căn pḥng nhỏ,
đồ đạc sơ sài gồm mấy cái ghế gỗ, một chiếc xôpha đă rách, chiếc
bàn bừa bộn và cái giá sách bằng gạch lát ván không theo kiểu
cách nào cả. Điều ngạc nhiên là trên giá lại đầy những tập sách
dày.
Fernandez quay sang nói với Partridge “h́nh như mới cách đây
khoảng mấy giờ, người đàn ông cùng ở với bà ta đă bị sát hại.
Lúc ấy bà ta ra ngoài, và khi về pḥng th́ thấy ông ta đă chết.
Cảnh sát đă mang xác ông ta đi. Bà ta tưởng chúng ta là bọn đă
giết ông ta, bây giờ quay lại giết nốt bà. Tôi đă làm bà tin
chúng ta là bạn của bà”. Anh nói lại với người đàn bà ấy, và bà
ta nh́n sang Partridge.
Partridge an ủi bà: “Chúng tôi thực sự đau ḷng nghe tin bạn bà
đă chết. Bà có nghĩ ai đă giết ông ta không?”.
Người đàn bà lắc đầu, lầm bầm điều ǵ đó, Fernandez nói: “Bà ta
biết rất ít tiếng Anh”, và dịch cho bà ta; “Lo sentimos cucho la
muerte de su amigo, Sabe Ud, quien lo mato?”.
Người đàn bà gật đầu rất mạnh, mồm tuôn ra một tràng mà cuối
cùng là chữ “Sendero Luminoso”.
Câu trả lời xác nhận điều Partridge trước đây đă lo kẻ họ hy
vọng sẽ gặp, dù là hạng người nào, chắc chắn có quan hệ với
Sendero. Nhưng bây giờ th́ đành chịu. Vấn đề là: người đàn bà
này có biết ǵ về những người bị bắt cóc không? Xem ra khó có
khả năng đó.
Bà ta lại nói, lần này đỡ nhanh hơn, nên Partridge hiểu được.
Anh nói với Fernandez: “Có, chúng tôi muốn được ngồi, và hăy bảo
bà ta là chúng ta sẽ rất biết ơn nếu bà có thể trả lời một số
câu hỏi”.
Fernandez nhắc lại yêu cầu của anh; bà ta trả lời và anh dịch
lại: “Bà ta nói là được, nếu bà biết. Tôi nói cho bà ta biết ông
là ai, nhân thể nói luôn, tên bà ta là Dolores. Bà cũng hỏi ông
muốn uống chút ǵ không?” “No! Gracias” (2) Partridge trả lời.
Bà ta gật đầu, bước tới bên giá, rơ ràng định lấy rượu cho ḿnh.
Nhưng khi nhấc chai rượu “gin”, bà thấy là chai không. Bà có vẻ
sắp khóc, rồi lẩm bẩm điều ǵ đó và ngồi xuống.
Fernandez nói lại: “Bà ta bảo không biết sẽ sống thế nào. Bà ta
không có tiền”.
Partridge nói trực tiếp với Dolores: “Le dare dinero si Ud,
tiene information que estoy huscando” (3).
Nghe nói đến tiền, Dolores trao đổi rất nhanh với Fernandez và
anh này dịch lại: “Bà nói ông hăy hỏi đi”.
Partridge quyết định không dùng cái vốn tiếng Tây Ban Nha ít ỏi
của ḿnh, mà tiếp tục để Fernandez dịch. Anh hỏi và bà ta trả
lời.
“Ông bạn bị giết của bà làm nghề ǵ?”.
“Ông ấy là bác sĩ. Bác sĩ đặc biệt”.
“Bà muốn nói là chuyên gia?”.
“Ông ấy làm người khác ngủ”
“Bác sĩ gây mê phải không?”.
Dolores lắc đầu, không hiểu. Sau đó bà ta đến chỗ tủ, tḥ tay
vào bên trong và lôi ra một chiếc valy nhỏ đă sờn. Mở nắp vali,
bà lôi ra một tập giấy và lần giở các trang văn bằng y khoa. Tờ
thứ nhất ghi Hartley Harold Gossage, tốt nghiệp khoa bác sĩ
trường đại học Boston được phép hành nghề thuốc. Văn bằng thứ
hai chứng nhận Hartley Harold Gossage là một “chuyên gia gây mê
đủ tiêu chuẩn”.
Partridge làm hiệu hỏi anh có thể xem các giấy tờ khác được
không? Dolores gật đầu đồng ư.
Một vài tài liệu có vẻ chỉ liên quan đến các vấn đề chuyên môn
thuần tuư, không có ǵ đáng chú ư. Tờ thứ ba là thư viết trên
giấy có tiêu đề “Hội đồng đăng kư giấy phép hành nghề thuốc ở
Massachusetts gửi ông “H.H. Gossage bác sĩ y khoa”, trong đó
viết: “Chúng tôi báo để ông biết ông bị cấm suốt đời không được
hành nghề bác sĩ…”.
Partridge đặt lá thư xuống. Anh h́nh dung sự việc rơ ràng hơn.
Người đàn ông sống ở đây, có tin đă bị giết chết, có thể chính
là Gossage bác sĩ gây mê người Mỹ ô danh, đă bị cấm hành nghề,
kẻ có quan hệ với Sendero Luminoso. Về mối quan hệ này,
Partridge cho rằng các nạn nhân của vụ bắt cóc đă được đưa khỏi
Mỹ trong trạng thái bất tỉnh, có thể do thuốc mê hoặc thuốc ngủ.
Thực ra, khi anh nghĩ đến điều này, những phát hiện ở ngôi nhà
Hackensack mà Don Kettering cho anh biết ngày hôm qua đă xác
nhận điều anh nghĩ. V́ vậy, có khả năng là Gossage vốn là bác
sĩ, đă tiến hành việc gây mê. Nghĩ đến đó, mặt anh đanh lại. Anh
thầm ước giá anh có thể mặt đối mặt với kẻ ấy khi hắn c̣n sống.
Những người khác đang theo dơi nét mặt của anh. Với sự giúp đỡ
của Fernandez anh tiếp tục hỏi Dolores.
“Bà nói Sendero Luminoso giết ông bạn bác sĩ của bà. Tại sao bà
lại nghĩ như vậy?”.
“V́ ông ấy làm việc cho bọn con hoang này”. Bà ngập ngừng, rồi
nhớ lại. “Sendero đặt cho ông ấy cái tên mới là Baudelio”.
“Làm sao bà biết điều đó?”.
“Ông ấy nói với tôi”.
“Ông ấy có kể cho bà nghe về những việc ông ta làm cho Sendero
không?”.
“Cũng có, nhưng ít thôi”. Nụ cười yếu ớt vụt tắt. “Vào những khi
chúng tôi cùng uống rượu với nhau đến say mềm”.
“Bà có nghe nói về vụ bắt cóc không? Các báo đều đưa tin cả”.
Dolores lắc đầu: “Tôi không đọc báo. Những ǵ họ đưa toàn là
chuyện dối trá”.
“Gần đây Baudelio có đi đâu khỏi Lima không?”.
Bà ta gật liên tục. “Đi lâu lắm. Tôi rất nhớ ông ấy”. Bà ngập
ngừng, rồi tiếp “ông ấy gọi điện thoại cho tôi từ Mỹ”.
“Chúng tôi biết”. Mọi việc đều ăn khớp với nhau, Partridge nghĩ.
Baudelio chắc phải có mặt tại nơi xảy ra vụ bắt cóc. Anh hỏi qua
Fernandez “Ông ta trở về đây khi nào?”.
Dolores ngẫm nghĩ trước khi trả lời: “Cách đây một tuần. Về đến
nhà, ông ấy rất mừng. Ông ấy cũng sợ bị giết chết”.
“Ông ta có nói tại sao không?”.
Dolores ngẫm nghĩ. “Tôi nghĩ ông ấy nghe lỏm được điều ǵ đó, về
việc ông ấy đă biết quá nhiều…”. Bà ta bắt đầu sụt sịt. “Chúng
tôi cùng sống với nhau rất lâu. Tôi sẽ sống sao đây?”.
C̣n một vấn đề quan trọng nữa. Partridge cố t́nh chưa hỏi, và
hầu như sợ phải hỏi: “Giữa khoảng thời gian ở Mỹ rồi trở lại
đây, có lúc nào ông ta ở Peru không?”.
Dolores gật đầu.
“Ông ta có nói với bà là ở đâu không?”.
“Có. Ở Nueva Esperanza”.
Partridge không dám tin: điều anh không hề hy vọng th́ đột nhiên
lại t́m ra. Tay anh run run khi lật các trang sổ tay t́m lại chỗ
ghi cuộc phỏng vấn Cesar Acevedo và tên những nơi Sendero
Luminoso đă ra lệnh đuổi các đội y tế thuộc nhà thờ Thiên chúa
giáo. Anh thấy ngay cái tên Nueva Esperanza.
Anh đă t́m ra. Cuối cùng anh đă biết Jessica, Nicky và Angus bị
giam giữ ở đâu.
o0o
Trước hết và trên hết anh vẫn là phóng viên đưa tin truyền h́nh;
anh tự nhắc ḿnh như vậy khi cùng Rita, Minh và O’Hara bàn những
cảnh cần quay, gồm Dolores, căn pḥng và mặt ngoài ngôi nhà.
Tomas được phái xuống đưa ba người lên; lúc này tất cả đang ở
trên tầng thứ mười của ngôi nhà.
Partridge muốn quay cận cảnh cả hai văn bằng y khoa và lá thư từ
Massachusetts kết thúc cuộc đời bác sĩ của Gossage c̣n gọi là
Baudelio. Tay cựu bác sĩ người Mỹ đă xuống mồ, song Partridge
muốn tội ác của hắn đối với gia đ́nh Sloane được ghi lại vĩnh
viễn.
Tuy nhiên, dù vai tṛ rơ ràng của Baudelio rất quan trọng đối
với toàn bộ đoạn tin, Partridge hiểu rằng tiết lộ điều đó vào
lúc này có thể là một sai lầm, dễ làm cho người khác nghĩ nhóm
làm tin của CBA có được những thông tin chỉ riêng họ biết. Song
anh muốn đoạn băng về Baudelio quay sẵn, để khi thuận tiện, có
thể đem sử dụng được ngay.
Dolores được quay cận cảnh; những lời bà nói bằng tiếng Tây Ban
Nha sau sẽ được xoá đi, thay bằng phần dịch tiếng Anh. Sau khi
quay h́nh, ghi tiếng xong, Fernandez bảo Partridge: “Bà ta nhắc
là anh hứa sẽ cho bà ta tiền”.
Partridge trao đổi với Rita; cô liền lấy ra một ngàn đôla Mỹ,
gồm toàn tờ năm mươi đô. Trong những trường hợp như thế này, trả
như vậy là quá hào phóng, song Dolores đă cung cấp những thông
tin quan trọng, giúp anh khai thông bế tắc. Vả lại, Rita và
Partridge cũng thấy tội nghiệp cho bà, và họ tin lời bà nói
không biết ǵ về vụ bắt cóc, mặc dù bà gắn bó với Baudelio.
Rita bảo Fernandez: “Anh hăy giải thích rơ CBA không có lệ trả
tiền cho người xuất hiện trong tin; v́ thế, đây là tiền trả cho
việc quay căn pḥng và những thông tin mà bà ta cung cấp cho
chúng tôi”. Đó chỉ là cách phân biệt có tính chất ngữ nghĩa mà
các hăng thường sử dụng để làm chính những điều họ nói họ không
được làm, song New York yêu cầu các chủ nhiệm phải làm động tác
đó.
Nh́n vẻ biết ơn của Dolores cũng thấy bà ta chẳng hiểu, mà cũng
chẳng quan tâm đến lời giải thích ấy. Partridge tin là ngay khi
họ rời khỏi nơi này, cái chai rượu “gin” không kia sẽ nhanh
chóng được thay bằng một chai khác.
Bây giờ anh được tự do suy nghĩ về những điều chính yếu, là vạch
kế hoạch cho chuyến đi của anh tới Nueva Esperanza để giải thoát
con tin càng nhanh càng tốt. Nghĩ đến đó, anh thấy người phấn
chấn; niềm say mê làm chuyện nguy hiểm nơi tên rơi đạn nổ ngoài
chiến trường đang khuấy động trong anh.
Chú thích:
(1) “Đồ súc vật! Quân giết người! Quân ma quỷ!”
(2) Không! Cám ơn bà.
(3) Tôi sẽ cho bà tiền nếu bà có tin tức mà tôi đang ḍ t́m.
Chương 10
Trong suốt những ngày chờ đợi, ngày nào
Crawford Sloane cũng bị thôi thúc bởi ư muốn gọi điện cho Harry
Partridge ở Peru và hỏi: “Có tin ǵ mới không?”. Song anh cố ḱm
lại, v́ biết rằng, nếu có tin ǵ mới, anh cũng sẽ được thông báo
ngay. Vả lại, anh cũng thấy điều quan trọng là để Partridge
không bị phân tán tư tưởng và tự do làm theo cách của ḿnh.
Sloane vẫn tin ở Partridge hơn bất cứ ai khác, nếu người đó được
phái sang Peru làm chuyện này.
Anh ḱm ḿnh không gọi cũng c̣n một lư do khác: Partridge là một
người chu đáo; nhiều lúc đêm khuya hoặc sớm tinh mơ, anh ta đă
ghé thăm Sloane ở Larchmont để thông báo cho anh về sự tiến
triển của t́nh h́nh.
Nhưng đă mấy ngày không có điện từ Peru gọi về, và mặc dù thất
vọng, Crawford Sloane nghĩ chắc không có tin ǵ mới để chuyển
về. Song anh đă lầm.
Điều anh không biết, và không thể biết được là Partridge đă đi
đến kết luận rằng, việc liên lạc giữa Lima và New York dù qua
điện thoại, vệ tinh viễn thông hay bằng thư từ đều không c̣n bảo
đảm an toàn nữa. Sau cuộc phỏng vấn tướng Ortiz trong đó ông tư
lệnh cảnh sát chống khủng bố nói toạc ra rằng mọi hành động của
Partridge đều bị theo dơi, anh cho rằng có thể chúng nghe trộm
điện thoại và kiểm tra các thư từ của anh. Các buổi truyền qua
vệ tinh ai cũng có thể ghi lại được, miễn là có thiết bị thích
hợp, và dù có sử dụng đường điện thoại riêng cũng không đảm bảo
bí mật.
Một lư do khác làm anh phải thận trọng là hiện giờ ở Lima, các
phóng viên kéo đến rất đông, trong đó có cả các nhóm truyền h́nh
từ các hăng khác, thi nhau đưa tin về vụ bắt cóc người nhà
Sloane và săn t́m chứng cứ mới. Cho tới giờ, Partridge vẫn tránh
không chạm trán với cánh báo chí, song v́ CBA đă rất thành công
trong các tin đưa, nên anh biết mọi người đang quan tâm đến việc
anh đi đâu, và gặp gỡ những ai.
V́ những lư do trên, anh quyết định không thảo luận, nhất là qua
điện thoại, việc anh tới căn pḥng ở phố Huancavelia và những
điều anh đă thu thập được. Anh ra lệnh cho các thành viên khác
trong nhóm tuân thủ nguyên tắc ấy, đồng thời cũng báo trước là
chuyến đi mà họ đang chuẩn bị tới Nueva Esperanza cần phải giữ
tuyệt đối bí mật. Ngay cả CBA ở New York cũng phải đợi, họ sẽ
báo sau.
V́ thế, vào buổi sáng thứ năm, ở New York, Crawford Sloane tới
trụ sở CBA lúc mười một giờ kém năm, chậm hơn thường lệ một
chút, v́ biết rằng ngày hôm trước chưa có tin ǵ mới từ Lima.
Một nhân viên FBI c̣n trẻ tên là Ivan Ungar ngủ ở ngôi nhà
Larchmont từ tối hôm trước, cfung đi với anh. FBI vẫn tiếp tục
canh gác đề pḥng âm mưu bắt cóc Sloane và có tin đồn các thành
viên ở các hăng truyền h́nh khác cũng được bảo vệ như vậy. Tuy
nhiên, v́ biết bọn bắt cóc đă từng theo dơi cá cuộc nói chuyện
điện thoại ở nhà Sloane liên tục hai mươi tư trên hai mươi tư
tiếng, nên các máy điện thoại ở văn pḥng làm việc đều bị cắt.
Nhân viên đặc biệt của FBI, Ortis Havelock, vẫn theo dơi vụ này,
và sau khi phát hiện ra nơi ở cũ của bọn bắt cóc ở Hackensack
hôm thứ ba, anh ta phụ trách cuộc t́m kiếm ở đây. Sloane được
biết, một nơi khác được FBI chú ư là sân bay Teterboro, v́ nó
gần khu vực Hackensack. Hồ sơ về các chuyến bay xuất phát từ đây
trong khoảng thời gian từ ngay sau vụ bắt cóc đến ngày được biết
các nạn nhân đă ở Peru đang được rà soát. Nhưng công việc tiến
triển chậm v́ có quá nhiều chuyến bay như vậy trong mười ba ngày
ấy.
Khi anh vào hành lang trầng chính của trụ sở Ban tin CBA, một
lính gác mặc đồng phục chào anh cho có lệ, nhưng anh không thấy
bóng dáng nhân viên cảnh sát thành phồ New York như vẫn thấy
suốt hơn một tuần sau khi xảy ra vụ bắt cóc. Hôm nay, người ra
vào vẫn như mọi ngày, và mặc dù những người vào phải tŕnh qua
bàn thường trực, Sloane tự hỏi không biết có phải việc canh gác
ở CBA lại trở lại lơi lỏng như trước không.
Từ hành lang, vẫn có nhân viên FBI Ungar đi kèm, anh vào thang
máy lên tầng tư, rồi đi về pḥng làm việc của ḿnh ngay cạnh
Vành móng ngựa; mấy người đang làm việc ở đó ngước lên chào anh.
Sloane để ngỏ cửa pḥng. Ungar ngồi trên chiếc ghế phía bên
ngoài.
Trong khi cởi áo khoác mắc lên giá, anh nh́n thấy trên bàn có
một hộp bọc ni lông mỏng, loại vẫn dùng trong các cửa hàng bán
đồ ăn mang đi. Ở khu vực này có vài cửa hàng ăn loại đó, hàng
bán khá chạy ở CBA. Chỉ cần gọi điện thoại là họ mang đồ ăn,
thức uống đến ngay. Trước nay, anh chưa bao giờ đặt hàng, mà
thường ăn trưa ở tiệm cà phê, nên anh nghĩ chắc họ đưa lầm.
Nhưng anh ngạc nhiên khi thấy chữ “C. Sloane” ghi bên ngoài hộp,
có buộc dây trằng rất gọn. Anh hờ hững lấy kéo trong ngăn bàn,
cắt dây và mở gói ra. Anh phải giở mấy lượt giấy trắng mới thấy
những cái ở bên trong.
Sau mấy giây sững người, không tin vào mắt ḿnh, Crawford Sloane
kêu thất thanh; tiếng kêu thảm thiết, nghe nhức nhối trong tai.
Những người đang làm việc đều ngẩng lên nh́n. Ungar nhân viên
FBI bật khỏi ghế, chạy vội vào, vừa chạy vừa rút súng ra. Nhưng
trong pḥng chỉ có một ḿnh Sloane miệng vẫn la hét, hai mắt mở
to, nh́n cái gói với vẻ ngây dại, mặt tái nhợt.
Những ngời khác cũng vội chạy về phía pḥng Sloane, vài người
vào trong, hơn chục người khác đứng kín cả cửa ra vào. Một nữ
chủ nhiệm vươn người nh́n vào cái gói để trên bàn Sloane. “Ôi,
lạy Chúa”, chị ta kêu rồi chạy ra ngoài v́ lợm giọng.
Nhân viên Ungar kiểm tra gói giấy và nh́n thấy hai ngón tay
người dây đầy máu đă khô. Cố nén cảm gíac kinh tởm, anh nhanh
chóng làm chủ t́nh h́nh. Anh ta hét bảo những người đang đứng
trong pḥng và cửa ra vào: “Mọi người ra ngoài hết!”. Ngay trong
lúc đó, anh đă nhấc máy, ấn nút xin tổng đài và yêu cầu: “Số máy
Bảo vệ! Nhanh lên”. Khi có tiếng trả lời, anh ta nói cộc lốc:
“Tôi là Ungar, nhân viên FBI. Anh hăy nhận lệnh của tôi. Báo cho
người gác, từ giờ phút này, không ai được phép rời khỏi nhà này.
Không trừ một ai, và nếu họ kháng cự, hăy sử dụng vũ lực. Sau
khi thông báo lại lệnh đó, anh hăy gọi ngay cảnh sát thành phố
tới giúp sức. Tôi sẽ ra hành lang chính. Tôi muốn một vài nhân
viên bảo vệ đợi tôi ở đó!”.
Trong lúc Ungar đang nói điện thoại, Sloane ngă gục trên ghế.
Sau này có người bảo: “Lúc ấy anh ta trông như xác chết”.
Chủ nhiệm chính Chuck Insen len qua đám người ngày càng đông ở
ngoài vào và hỏi: “Có chuyện ǵ thế này?”.
Nhận ra ông, Ungar chỉ tay về phía chiếc hộp giấy trắng, rồi nói
như ra lệnh: “Không được sờ vào những thứ trong hộp. Tôi đề nghi
ông hăy đưa ông Sloane ra chỗ khác và khoá cửa pḥng cho đến khi
tôi quay lại”.
Insen gật đầu. Tới lúc đó, ông đă nh́n thấy cái đựng trong hộp
và cũng như mọi người, ông nhận ra hai ngón tay thon, nhỏ, rơ
ràng là ngón tay trẻ con. Ông quay lại nh́n Sloane ánh mắt nói
rơ điều cần hỏi. Sloane cố gật đầu và thều thào đáp: “Vâng”,
“Ôi, lạy chúa”, Insen lẩm bẩm.
Sloane có vẻ sắp ngă gục, Insen ṿng tay đỡ anh phát thanh viên
và d́u ra khỏi pḥng. Những người đứng ngoài cửa tránh ra,
nhường lối.
Insen và Sloane về văn pḥng của chủ nhiệm chính. Vừa đi, Insen
vừa ra lệnh. Ông bảo cô thư kư: “Khoá cửa pḥng ông Sloane không
để ai vào trừ nhân viên FBI. Rồi gọi người trực tổng đài, gọi
điện mời bác sĩ tới đây. Nói ông Sloane bị choáng nặng và có thể
cần thuốc an thần”. Rồi gọi một chủ nhiệm: “Báo Don Kettering
việc vừa xảy ra và mời anh ta lên đây; chúng ta cần đưa tin ngay
tối nay”. Ông quay sang những người khác: “c̣n mọi người hăy về
làm việc”.
Văn pḥng của Insen có một cửa sổ rộng bằng kính nh́n ra Vành
móng ngựa, phía trong treo mành xếp có thể che kín khi cần. Sau
khi giúp Sloane ngồi vào ghế, ông hạ mành xuống.
Sloane dần dần b́nh phục, nhưng vẫn gục người, hai tay ôm đầu.
Anh rên rỉ, nửa như nói với ḿnh, nửa như với Insen “Bọn chúng
biết Nicky chơi đàn piano. Bằng cách nào? Tôi đă cho chúng biết!
Chính là tôi, trong cuộc họp báo sau vụ bắt cóc”.
“Tôi nhớ chuyện đó, Crawf ạ”. Insen nhẹ nhàng nói: “Người ta
hỏi, anh trả lời, chứ anh không tự nêu ra điều đó. Dẫu sao! Ai
mà thấy trước được…”. Ông ngừng lại, biết rằng lư giải vào lúc
này chẳng có ích ǵ.
Sau này Insen thường nói với mọi người: “Tôi phải giao nó cho
Crawf. Anh ấy can đảm thật. Sau chuyện đó, nhiều người muốn đáp
ứng tất cả các đ̣i hỏi của bọn bắt cóc. Nhưng ngay từ đầu, Crawf
hiểu chúng ta không nên, và không thể làm thế, và anh không hề
dao động”.
Tiếng gơ cửa nhè nhẹ và cô thư kư bước vào. “Bác sĩ đang trên
đường tới đây”, cô nói.
o0o
Lệnh tạm thời cấm mọi người rời khỏi toà nhà được băi bỏ khi
những người ở trong hoặc chuẩn bị ra ngoài được nhận diện và
biết rơ lư do họ có mặt tại đó. Có khả năng là chiếc hộp giấy
đựng hai ngón tay được đưa tới đó từ trước, và v́ người của
khách sạn thường ra vào luôn, nên không ai thấy có ǵ khác lạ.
FBI bắt đầu mở cuộc điều tra ở các khách sạn gần đó, cố t́m xem
ai là người mang hộp giấy đó vào, nhưng không có kết quả. Lẽ ra
đội bảo vệ CBA phải kiểm tra nhận dạng những người đưa đồ ăn của
khách sạn vào trụ sở , nhưng mọi người biết là họ làm việc đó
thất thường, có khi c̣n chiếu lệ.
Một vài ư kiến nghi ngờ có phải đó là ngón tay của Nicky không
đă nhanh chóng bị bác bỏ. FBI đă kiểm tra pḥng ngủ của Nicky
trong ngôi nhà của gia đ́nh Sloane ở Larchmont. Nhiều dấu tay
t́m thấy trong pḥng khớp với các dấu tay ở hai ngón tay đựng
trong chiếc hộp giấy trên bàn làm việc của Sloane.
Trong lúc mọi người ở Ban tin CBA c̣n đang bận tâm lo lắng, một
gói khác được gửi tới Stonehenge. Đầu giờ chiều thứ năm, có
người đă chuyển một gói nhỏ tới văn pḥng của Margot Lloyd-
Mason. Bên trong là một băng ghi h́nh của Sendero Luminoso.
V́ đă biết trước – trong tài liệu “Thời tươi sáng đă đến” của
Sendero nhận được cách đó sáu ngày đă nói sẽ gửi tới vào thứ
năm, nên Margot và Leslie Chippingham đă bố trí người liên lạc
chuyển ngay băng đó cho ông chủ tịch Ban tin. Ngay khi nhận
được, Chippingham mời Don Kettering và Norman Jaeger tới và chỉ
có ba người được xem băng h́nh trong văn pḥng của Chippingham.
Cả ba nhận thấy ngay cuốn băng có chất lượng cao, cả về mặt kỹ
thuật lẫn cách dàn dựng, tŕnh bày. Hàng chữ lớn mở đầu: “Cách
mạng thế giới: Sendero Luminoso dẫn đường” nổi rơ trên nền với
những cảnh kỳ thú nhất của Peru: vẻ hùng vĩ đến ngợp người của
những đỉnh cao và băng hà trên dăy Andes, vẻ huy hoàng làm ta
sửng sốt của Machu Picchu, rừng xanh biếc trải dài như vô tận,
dải sa mạc khô cằn ven biển và Thái B́nh Dương cuộn sóng. Jaeger
là người nhận ra nhạc nền tôn nghiêm chính là bản giao hưởng số
ba “Eroica” của Beethoven.
“Chúng có những người làm phim rất giỏi tay nghề”, Kettering lẩm
bẩm. “Tôi cứ tưởng nó tồi hơn cơ”. “Cũng chẳng có ǵ đáng ngạc
nhiên”. Chippingham nói. “Peru đâu phải chốn ao tù, nước đọng.
Họ có khối nhân tài và trang thiết bị tốt nhất”.
“Mà Sendero th́ có thừa tiền để mua những thứ đó”. Jaeger nói
thêm. “Chưa kể chúng ranh ma luồn lách khắp mọi nơi”.
Ngay cả đoạn quá khích ở sau cũng chủ yếu là những cảnh dễ gây
xúc động như cảnh bạo loạn ở Lima, những cuộc đ́nh công của công
nhân, đụng độ giữa cảnh sát và người biểu t́nh, cảnh thê lương
sau những cuộc tấn công của quân chính phủ và các làng ở vùng
núi Andes. “Chúng ta là cả thế giới”, tiếng người thuyết minh
ngân vang, “và thế giới đă sẵn sàng bùng nổ cách mạng”.
Nội dung chính của cuốn băng là cái họ giới thiệu là cuộc phỏng
vấn Abimael Guzman, người sáng lập và lănh đạo của Sendero
Luminoso. Cũng khó phân biệt, v́ người đó ngồi quay lưng lại
phía ống kính máy quay. Người thuyết minh giải thích: “Lănh tụ
của chúng ta có nhiều kẻ thù luôn t́m cách giết hại Người. Để
Người lộ diện sẽ là giúp cho những mục đích ác độc ấy của
chúng”.
Một giọng Tây Ban Nha được giới thiệu là giọng Guzman bắt đầu:
“Companeros revolucionarios, nuestro trabajo y objetivo es unir
los cẻoyentes en la filosofia de Marx, Lenin, y Mao…” (1). Tiếng
nói nhỏ dần và một giọng khác tiếp tục: “Các đồng chí, chúng ta
phải đập tan trật tự xă hội không c̣n thích hợp nữa trên toàn
thế giới”.
“Guzman không biết tiếng Anh phải không?’, Kettering thắc mắc
hỏi.
Jaeger đáp: “Rất lạ là ông ta là một trong số rất ít người Peru
có học thức lại không biết tiếng Anh”.
Những điều này sau đó có thể biết trước được, v́ Guzman trước đó
đă nói nhiều lần. “Cần phải tiến hành cách mạng v́ chủ nghĩa đế
quốc bóc lột tất cả những người nghèo khổ trên toàn thế giới”…
“Những tin tức xuyên tạc đổ tội cho Sendero Luminoso là vô nhân
đạo. Sendero c̣n nhân đạo hơn bọn siêu cường là kẻ sẵn sàng huỷ
diệt nhân loại bằng kho vũ khí hạt nhân, điều mà cách mạng vô
sản vĩnh viễn loại trừ…”… “Phong trào công nhân ở Mỹ, thực chất
là một tầng lớp tư sản được ưu đăi, đă lừa gạt và bán rẻ giai
cấp công nhân Mỹ”… “Những người cộng sản ở Liên xô chẳng hơn ǵ
bọn đế quốc. Liên xô đă phản bội cách mạng của Lê-nin”… “Castro
của Cuba là thằng hề, tay sai đế quốc”.
Các bài của Guzman bao giờ cũng chung chung. Nhiều người cố t́m
trong các bài viết và bài nói chuyện của ông ta xem có đề cập
tới vấn đề ǵ cụ thể không, nhưng chẳng bao giờ thấy.
“Nếu mang của này phát thay Bản tin chiều”, Chippingham b́nh
luận, “chắc bây giờ người xem đă bỏ chúng ta và hăng chúng ta
chắc bị xếp cuối sổ”.
Chương tŕnh nửa tiếng kết thúc trong tiếng nhạc Beethoven, với
nhiều cảnh đẹp của đất nước và tiếng người thuyết minh hô lớn:
“Chủ nhĩa Mac Lê-nin, Mao, học thuyết dẫn dắt chúng ta, muôn
năm!”.
“Thôi được rồi”, cuối cùng Chippingham nói. “Như đă thoả thuận,
tôi sẽ cho cuốn băng này vào tủ khoá lại. Chỉ có ba chúng ta đă
xem. Tôi đề nghị không trao đổi với ai về nội dung ta đă xem”.
Jaeger hỏi: “Anh vẫn theo gợi ư của Karl Owens về việc cuốn băng
bị hỏng trên đường đi phải không?”. “Lạy Chúa! Ta c̣n cách nào
khác sao? Nhất định không thể phát cuốn băng này thay chương
tŕnh tin thứ hai được”. “Tôi nghĩ ta chẳng c̣n cách nào khác”,
Jaeger thừa nhận. “Chừng nào chúng ta hiểu rằng khả năng chúng
tin lời ta nói không c̣n nhiều, nhất là sau vụ Theo Elliott lộ
chuyện với tờ Ngôi sao Bantimore”, Kettering nói.
“Mẹ kiếp, tôi biết chứ!”. Giọng ông chủ tích Ban tin phả ánh sự
căng thẳng trong những ngày qua. Ông nh́n đồng hồ; ba giờ năm
mươi ba phút. “Don này, đúng bốn giờ cho phát bản tin trên toàn
quốc. Nói chúng ta đă nhận được một băng của bọn bắt cóc, song
nó bị hỏng và vẫn chưa sửa được. Gửi băng khác thay thế hay
không là tuỳ Sendero Luminoso”.
“Được”.
“Trong khi đó”, Chippingham nói thêm, “tôi sẽ gọi cho các báo và
ra tuyên bố trên đài truyền thanh, yêu cầu họ đưa tin tiếp qua
Pêru. Nào, ta làm ngay đi”.
o0o
Cái tin giả của CBA đă nhanh chóng được phát đi các nơi. V́ giờ
Peru chậm hơn giờ New York một tiếng - ở Mỹ c̣n đang theo giờ
mùa hè, ở Peru th́ không, nên tuyên bố của CBA tới Lima c̣n kịp
đưa vào chương tŕnh tối của đài phát thanh và vô tuyến truyền
h́nh và đăng báo vào ngày hôm sau.
Trong tin tức ngày hôm đó, được phát trước đấy, có tin về việc
Crawford Sloane gần như phát điên khi nhận ra ngón tay của con
ḿnh.
Ở Ayacucho, những người lănh đạo Sendero Luminoso nhận được cả
hai tin trên. Đối với tin thứ hai, về việc cuốn băng bị hỏng, họ
không tin. Điều cần phải làm ngay lập tức, họ lập luận, là có
hành động gây sức ép mạnh hơn là hai ngón tay bị chặt của cậu
bé.
Chú thích:
(1) Hỡi các đồng chí cách mạng, nhiệm vụ là phải đoàn kết những
người tin theo học thuyết triết học của Margot, Lê-nin, và Mao.
Chương 11
Jessica nhớ lại, ngay khi tỉnh dậy trong
ánh sáng mờ mờ lúc rạng đông hôm ấy, nàng linh cảm thấy sắp xảy
ra điều ǵ đó. Hầu như một đêm nàng không ngủ, đau đớn v́ ư nghĩ
không tin ḿnh có thể được cứu thoát. Ba ngày qua, ḷng tin khi
trước của nàng vào việc cuối cùng sẽ được tự do giảm dần, nhưng
nàng cố giấu không cho Angus và Nicky biết ḿnh đang mất dần hy
vọng. Song nàng tự hỏi, liệu có khả năng ở cái xó tối tăm của
đất nước xa lạ này có những bạn bè nào đó sẽ t́m thấy và t́m
cách đưa họ về nhà không? Mỗi ngày trôi qua, khả năng đó xem ra
càng ít.
Việc chúng chặt ngón tay của Nicky một cách dă man càng làm tinh
thần Jessica sa sút. Cho dù họ có ra khỏi được đây, cuộc đời
Nicky không c̣n như trước nữa. Ước mơ đẹp nhất của nó từ khi c̣n
nhỏ là trở thành nghệ sĩ đàn piano bỗng dưng chấm dứt một cách
vô cớ, và thật sự không cần thiết. Rồi c̣n hiểm hoạ nào nữa, có
thể bị chết, đang chờ họ trong những ngày sắp tới?
Hai ngón tay Nicky bị chặt hôm thứ ba. Hôm nay là thứ sáu. Hôm
qua, Nicky đă đỡ đau hơn, nhờ Socorro thay bông băng hàng ngày,
song nó vẫn yên lặng và buồn rầu, mặc dù Jessica cố sức vực nó
khỏi cơn tuyệt vọng của nó. Rồi c̣n vách tre buộc dây thép luôn
ngăn cách hai mẹ con. Sau lần Socorro cho phép nàng sang với
Nicky đến giờ, nàng không được sang nữa, mặc dù nàng đă nài nỉ,
van xin.
V́ thế, hôm nay tương lai càng có vẻ mờ mịt, hy vọng th́ ít mà
lo lắng lại nhiều. Khi đă tỉnh hẳn, Jessica hiểu dược bài thơ
của Thomas Hood mà nàng học từ khi c̣n nhỏ, nhưng chưa bao giờ
hiểu. Bài thơ kết thúc bằng câu:
Nhưng giờ tôi lại ước ao.
Giá như hơi thở bay vào bóng đêm!
Song nàng biết nếu đem áp dụng vào hoàn cảnh của nàng lúc này,
ước mong đó đầy vẻ ích kỷ và cam chịu thất bại. Bất luận thế
nào, nàng cũng phải gắng gượng làm chỗ dựa cho Angus và Nicky.
Sau những suy nghĩ ấy, và khi trời sáng hẳn, Jessica nghe thấy
tiếng động ở bên ngoài và tiếng bước chân lại gần nơi họ bị
giam. Tên đầu tiên bước vào là Gustave, cầm đầu bọn gác. Hắn đi
thẳng tới cũi nhốt Angus và mở khoá.
Ngay sau hắn là Miguel. Mặt hầm hầm, hắn cũng đi về phía giam
Angus, tay mang khẩu súng trường tự động trước nay Jessica chưa
từng thấy hắn mang theo.
Jessica hiểu ngay điều đáng sợ sắp xảy ra. Nh́n cây súng xấu xí
đầy sức mạnh ấy, tim nàng đập mạnh và hơi thở đứt đoạn. “Ôi,
không! Angus! Không thể thế được!”.
Gustave vào trong, lôi xốc ông già dậy. Lúc này hắn đang trói
quặt tay Angus ra sau lưng.
Jessica hét to: “Nghe tôi nói. Các ông định làm ǵ? Tại sao?”.
Angus quay lại phía nàng: “Jessica con, đừng buồn. Con chẳng làm
ǵ được đâu. Bọn này là đồ mọi rợ! Chúng không biết thế nào là
danh dự và lịch sự đâu con..”.
Jessica thấy Miguel bóp chặt báng súng cho đến khi tay hắn trắng
bợt ra. Hắn sốt ruột ra lệnh cho Gustave: “Dese prisa! No
pierdas tiempo!” (1).
Nicky cũng đứng dậy. Nh́n thấy khẩu súng trường tự động, cậu bé
cũng hiểu ra và hỏi: “Mẹ ơi, họ định làm ǵ ông thế?”.
“Mẹ không biết”, Jessica trả lời, không tin điều nàng nói.
Angus, lúc này tay bị trói chặt, vươn thẳng người, ưỡn ngực nh́n
về phía hai người và nói: “Chúng ta không c̣n nhiều thời gian.
Hai mẹ con hăy dũng cảm và tiếp tục vững ḷng tin. Hăy nhớ là, ở
ngoài kia, Crawf đang làm hết sức ḿnh. Sẽ có người đến cứu!”.
Nước mắt chảy dài trên khuôn mặt Jessica. Nàng cố gọi, giọng
nghẹn ngào: “Angus! Angus thân yêu! Con yêu cha vô cùng!”.
“Cha cũng thương con lắm, Jessica… Nicky!”. Gustave đẩy mạnh
Angus khỏi cũi giam. Họ hiểu rằng ông đang trên đường đi vào cơi
chết.
Ông vấp ngă, rồi lại nói: “Nicky, ông cháu ta hát một bài chứ?
Nào, bắt đầu nhé”. Rồi Angus cất giọng hát:
“Anh sẽ gặp lại em
Ở tất cả những nơi thân thuộc”
Jessica thấy Nicky há miệng, nhưng cũng nghẹn ngào đầy nước mắt,
cả hai mẹ con nàng không hát nổi.
Angus đă ở ngoài, họ không nh́n thấy ông nữa. Song họ vẫn nghe
tiếng ông hát, nỏ dần, xa dần:
“Rằng trái tim anh ấp ủ đêm ngày
Trong quán cà phê nhỏ…”
Tiếng ông tắt hẳn. Họ chờ đợi trong yên lặng. Mới chỉ mấy giây
trôi qua mà họ tưởng như lâu hơn thế. Rồi tiéng súng vang lên,
bốn phát, nghe rất gần. Lại im lặng, rồi một tràng dài rất
nhanh, họ không đếm nổi.
o0o
Miguel đứng nh́n xác Angus Sloane ở ven rừng.
Hắn bắn bốn phát làm ông già chết ngay. Rồi, nhớ tới ông chửi
hắn hôm thứ ba “Maldito hijo de puta” và mới chỉ trước đó mấy
phút, ông khinh bỉ gọi chúng là “đồ mọi rợ”, Miguel tức điên
lên, xả hết cả băng đạn của khẩu AK-47 do Liên xô chế tạo vào
cái xác đang nằm trước mặt hắn.
Hắn đă thực hiện đúng chỉ thị mà hắn nhận được từ Ayacucho cuối
đêm qua. Gustave cũng được báo về một công việc đáng ghê tởm mà
họ ra lệnh cho hắn phải làm, và làm ngay với sự giúp đỡ của
người khác.
Một máy bay nhỏ, chuyên phục vụ Sendero Luminoso, đang trên
đường tới chỗ đỗ máy bay trong khu rừng gần đó mà từ Nueva
Esperanza có thể đến được bằng thuyền. Một chiếc thuyền sẽ được
phái ngay tới nơi máy bay đậu; sau đó máy bay sẽ chở cái Gustave
đă làm về Lima.
o0o
Gần trưa hôm đó, một chiếc ô tô vội vă dừng lại bên ngoài sứ
quán Mỹ trên đại lộ Garcilaso de la Vega. Một gă đàn ông ôm một
hộp các tông to nhảy ra khỏi xe. Hắn để cái hộp ngay gần cổng,
ngoài hàng rào sắt, rồi chạy về xe phóng đi.
Một lính gác mặc thường phục nh́n thấy việc đó, liền nổi hiệu
báo động và tất cả các lối ra vào sứ quán được xây dựng giống
như pháo đài, đều tạm thời đóng lại. Trong lúc đó, một đội quân
tháo bom của quân đội Peru được gởi tới giúp.
Kiểm tra không có thuốc nổ, người ta cẩn thận mở hộp và thấy một
chiếc đầu của một ông già có lẽ trạc độ bảy mươi bị cắt c̣n bê
bết máu để trong đó. Bên cạnh là chiếc ví có một thẻ bảo hiểm xă
hội của Mỹ, một bằng lái xe bang Florida có dán ảnh và các tài
liệu khác xác định đó là đầu của ông Angus Mc Mullen Sloane.
Vào lúc xảy ra sự kiện này ở Lima, một phóng viên của tờ Diễn
đàn Chicago t́nh cờ đang ở trong sứ quán. Anh ta theo dơi sát
các sự việc tiếp theo, và là người đầu tiên đưa tin này, có ghi
rơ họ tên nạn nhân. Đài phát thanh, vô tuyến truyền h́nh và các
báo khác nhanh chóng đưa lại tin trên của tờ Diễn đàn trên toàn
nước Mỹ, và sau đó truyền đi khắp thế giới.
Chương 12
Kế hoạch giải thoát con tin ở Nueva
Espranza đă hoàn tất. Các chi tiết cuối cùng đă xong, các trang
bị cần thiết đă có đủ vào chiều thứ sau. Mờ sáng thứ bảy,
Partridge cùng đồng đội sẽ bay từ Lima tới khu rừng rậm thuộc
tỉnh San Martin, gần sông Hualaga.
Từ cuối thứ tư, sau khi biết được nơi các tù nhân đang bị giam
giữ, Partridge bồn chồn không yên. Ư nghĩ đầu tiên của anh là
phải đi ngay, nhưng những lời Fenandez Pabur nói, cùng với kinh
nghiệm riêng của anh đă làm anh phải tính để chậm lại.
“Rừng rậm có thể là bạn, mà cũng có thể là kẻ thù”, Fenandez chỉ
rơ. “Ta không thể ṃ vào đó theo kiểu như đến thăm một thành
phố. Ít nhất – cũng phải ở lại trong rừng một, có khi là hai
đêm, nên chúng ta phải đem theo một số thứ cần thiết để có thể ở
đó. Tôi c̣n phải lựa chọn thật cẩn thận người lái máy bay mà ta
có thể tin cậy được. Đưa chúng ta tới, rồi trở lại đón chúng ta
ra đ̣i hỏi phải hành động đồng bộ và ken giờ chính xác. Chúng ta
cần hai ngày để chuẩn bị, hai ngày cũng chỉ là vừa kịp chuẩn bị
thôi”.
Chữ “chúng ta”, “của chúng ta” anh dùng ngay từ đầu cho thấy rơ
ràng anh chàng vốn là thợ đặt dầm nhà tháo vát ấy nhất định đ̣i
tham gia trong chuyến đi. “Ông sẽ cần đến tôi” anh ta nói thẳng.
“Tôi đă tới vùng rừng rậm này nhiều lần. Tôi biết đường đi lối
lại”. Khi Partridge buộc phải nói rơ tính chất nguy hiểm của
chuyến đi, anh ta nhún vài bảo: “bản thân cuộc sống đă là nguy
hiểm. Hiện giờ ở đất nước tôi, thức dậy vào buổi sáng đă là một
sự nguy hiểm rồi”.
Phương tiện chuyên chở bằng máy bay là cái họ lo nhất. Sau khi
mất hút gần hết sáng thứ năm, Fenandez quay về đón Partridge và
Rita, đưa họ tới căn nhà một tầng bằng gạch cách sân bay Lima
không xa. Căn nhà gồm một số văn pḥng nhỏ. Họ tới một văn pḥng
ngoài cửa có đề: “Alsa, Aerolibertad. S. A”. Fenandez vào trước,
giới thiệu mấy người cùng đi với ông chủ hăng cho thuê bao máy
bay, đồng thời là phi công lái, ông Oswaldo Zileri.
Zileri, trạc ba mươi lăm đến bốn mươi tuổi, mặt mũi dễ coi,
người thon lẳn. Ông có vẻ dè chừng; nhưng vào việc ngay. Ông ta
bảo Partridge “Theo tôi hiểu, các ông định bất ngờ tới thăm
Nueva Esperanza. Tôi chỉ cần và muốn biết như thế là đủ”.
“Thế th́ tốt quá”, Partridge nói: “Có điều chúng tôi hy vọng là
thêm ba hành khách nữa cũng về với chúng tôi”.
“Máy bay các ông thuê là loại Cheyenne II. Có hai người tổ lái
và đủ chỗ cho bấy nhiêu hành khách. Bảy chỗ đó cho những ai là
việc của các ông. Nào, ta nói chuyện tiền nong dược chưa?”.
“Việc đó để tôi”, Rita đáp. “Ông đ̣i bao nhiêu?”.
“Chỉ trả bằng đôla Mỹ?” Zileri hỏi lại.
Rita gật đầu.
“Vậy th́ giá thuê bao cả đi cả về là một ngàn bốn trăm đôla. Nếu
đến nơi phải bay thêm giờ, như lượn t́m chỗ, th́ sẽ tính thêm.
Mỗi lần hạ cánh trong khu vực Nueva Esperanza, là vùng buôn bán
ma tuư do Sendero Luminoso kiểm soát, sẽ phải trả thêm năm trăm
đô lệ phí nguy hiểm đặc biệt. Trước khi chúng ta lên đường hôm
thứ bảy, tôi muốn chi trả sáu ngh́n đôla tiền mặt là tiền đặt
cọc”.
“Ông sẽ có số tiền đó”, rita đáp. “Xin ông ghi lại tất cả làm
hai bản, tôi sẽ kư và giữ một bản”.
“Việc đó sẽ xong trước khi khởi hành. Các vị có muốn biết thêm
một số chi tiết về hăng của tôi không?”.
“Tôi nghĩ là nên” Partridge từ tốn đáp.
Với vẻ hănh diện, ông Zileri nói trơn tru một hồi, rơ ràng là
ông đă thuộc ḷng: “Máy bay Cheyenne Ii, chúng tôi có ba chiếc,
là loại hai động cơ cánh quạt. Đây là loại máy bay có độ an toàn
cao, có thể hạ cánh trên đường băng ngắn; điều này rất quan
trọng khi hạ cánh ở vùng rừng núi. Tất cả phi công, kể cả tôi,
đều được đào tạo tại Mỹ. Chúng tôi biết rơ gần hết các vùng
thuộc Peru, cũng như các nhân viên theo dơi các chuyến bay, dân
sự cũng như quân sự, ở địa phương. Nhân đây xin nói với các vị,
tôi sẽ lái chuyến máy bay này”.
“Thế th́ hay quá”, Partridge nói. “Ngoài ra chúng tôi cũng cần
một số lời khuyên của ông”.
“Fenandez có nói với tôi”. Zileri tới bên chiếc bàn đánh dấu
đường bay, trên có tấm bản đồ tỷ lệ lớn phần phía nam của tỉnh
San Martin đă mở sẵn. Mọi người theo ông lại đứng quanh bàn.
“Tôi nghĩ các vị muốn đỗ cách Nueva Esperanza tương đối xa để
không ai thấy các vị”.
“Đúng như vậy”, Partridge gật đầu, trả lời.
“Vậy th́, khi từ Lima tới, tôi đề nghị hạ cánh ở chỗ này”.
Jessica dùng bút ch́ chỉ một điểm trên bản đồ.
“Chỗ ấy là đường quốc lộ cơ mà?”.
“Đúng, đó là đường ô tô qua rừng, nhưng có rất ít, mà thường là
không có xe qua lại. Nhưng nhiều chỗ kiểu này đă được những tay
buôn ma tuư mở rộng và trải nhựa lại cho máy bay hạ cánh . Trước
đây tôi đă hạ cánh ở đó”.
Để làm ǵ, Partridge tự hỏi? Chở ma tuư, hay những kẻ buôn ma
tuư? Anh đă nghe nói hiếm người lái máy bay ở Peru mà lại không
dính dáng đến việc buôn bán ma tuư, cho dù là gián tiếp đi nữa.
“Trước khi chuẩn bị hạ cánh”, Zileri nói tiếp, “chúng ta phải
biết chắc không có xe trên đường và không có ai ở gần đó. Từ
điểm hạ cánh, có một con đường nhỏ rất xấu chạy về Nueva
Esperanza”.
Fenandez chen vào: “Tôi có tấm bản đồ đánh dấu rất rơ con đường
đó”.
“Bây giờ đến chuyện thêm người khi quay về”, Zileri nói. “Tôi và
Fenandez đă bàn chuyện này và tạm vạch ra một kế hoạch”.
“Xin ông cứ nói”, Partridge bảo ông ta.
Họ tiếp tục bàn bạc, quyết định và phải tính đến một số chi tiết
mới.
Có thể có ba điểm đón khách khi trở về. Một là đoạn đường mà họ
dự định hạ cánh từ Lima tới. Hai là đường băng ngắn ở Sion mà từ
Nueva Esperanza có thể tới được bằng đường sông và một đoạn
đường bộ dài ba dặm. Ba là dải đất hạ cánh rất hẹp mà bọn buôn
lậu ma tuư vẫn dùng và rất ít người biết, ở vào khoảng giữa hai
điểm trên, điểm đón này cũng chỉ có thể tới được bằng đường
sông.
Lư do phải chọn, như Fenandez giải thích là: chúng ta không biết
chuyện ǵ sẽ xảy ra ở Nueva Esperanza, hay nên rời bằng đường
nào th́ tốt nhất.
Máy bay đón khách có thể dễ dàng bay qua cả ba điểm hẹn và đỗ
xuống khi nhận được tín hiệu từ mặt đất. Nhóm của Partridge sẽ
mang theo súng hiệu bắn đạn màu xanh và đỏ. Pháo hiệu màu xanh
có nghĩa là “dưới đất b́nh thường, không có trở ngại”. C̣n pháo
hiệu màu đó tức là: “Hạ cánh ngay chúng tôi đang gặp nguy hiểm”.
Mọi người thoả thuận nếu gặp lưới lửa súng máy hoặc súng trường
bắn gần, máy bay sẽ không hạ cánh, mà trở về Lima.
V́ không biết chắc khi nào máy bay cần quay lại đón, nên một máy
bay sẽ bay tới khu vực đó, chuyến đầu lúc 8 giờ sáng chủ nhật,
và nếu máy bay không liên hệ được với mặt đất, chuyến thứ hai sẽ
được thực hiện cũng vào giờ ấy sáng thứ hai. Sau đó làm ǵ sẽ do
Rita định liệu. Cô không tham gia chuyến đi, mà ở lại Lima và
giữ liên lạc với New York, điều Partridge coi là thiết yếu.
Sau khi thoả thuận xong kế hoạch hành động, một hợp đồng đă được
kư giữa một bên là Rita, thay mặt Ban tin CBA và bên kia là
Oswaldo Zileri. Sau đó Zileri trân trọng bắt tay ba người của
CBA. Nh́n thẳng vào Partridge, viên phi công nói: “Về phía minh,
chúng tôi sẽ làm và làm tốt nhất công việc chúng tôi đă thoả
thuận”.
Partridge cảm thấy ông ta sẽ giữ đúng lời.
o0o
Sau khi dàn xếp xong chuyến bay, và trở lại pḥng ḿnh ở khách
sạn Cesar, Partridge có cuộc họp với tất cả các thành viên của
nhóm CBA để quyết dịnh ai sẽ đi Nueva Esperanza. Ba người chắc
chắn sẽ đi là Partridge, Minh Văn Cảnh (v́ việc ghi h́nh là rất
quan trọng), và Fenandez Pabur. V́ phải dành chỗ cho ba người
nữa khi trở về, nên chỉ c̣n đủ chỗ cho người thứ tư.
Cần phải chọn, hoặc Bob Watson, biên tập viên băng h́nh, kỹ
thuật viên âm thanh Ken O’Hara hoặc Tomas, tay vệ sĩ ít nói
nhất.
Fenandez muốn chọn Tomas; trước đó anh ta đă lập luận: “Anh ấy
khoẻ và biết đánh đấm”. Bob Watson vừa hút x́ gà khét lẹt, vừa
thúc: “Harry, để tôi đi. Khi cần choảng nhau, tôi có thể lo liệu
được. Anh đă thấy điều đó trong kỳ bạo loạn ở Miami”. O’Hara chỉ
bảo: “Tôi rất muốn được đi”.
Cuối cùng, Partridge chọn O’Hara, bởi v́ anh là người quen biết,
đă tỏ ra tỉnh táo trong những t́nh huống căng thẳng và tháo vát.
Vả lại, v́ họ không mang theo thiết bị âm thanh – Minh dùng máy
Betacam có bộ phận ghi tiếng, Ken O’Hara biết rơ các vấn đề về
máy móc, nên có thể sẽ rất có ích cho họ.
Partridge giao cho Fenandez lo liệu trang bị và dưới sự điều
khiển của anh ta, các loại trang bị cần thiết được đưa về khách
sạn; vơng loại nhẹ, màn và thuốc chống muỗi, thức ăn khô đủ dùng
trong hai ngày, các chai nước đầy ắp, các viên thuốc khử trùng
trong nước, dao găm, địa bàn nhỏ, ống nḥm và một số vải nhưa.
V́ mỗi người phải tự mang trang bị của ḿnh trong một ba lô, nên
cần phải chọn những thứ thật cần thiết và nhẹ.
Fenandez cũng khuyên mọi người mang theo súng và Partridge đồng
ư. Thực tế là, các phóng viên và đội quay phim vô tuyến truyền
h́nh, khi ở nước ngoài đôi khi có mang theo súng, nhưng thường
cất kín. Các hăng chẳng khuyến khích hoặc can ngăn việc làm đó,
để cho người trong cuộc tự quyết định lấy. Trong trường hợp này,
mang theo súng là hết sức cần thiết: mà tất cả bốn người sắp đi,
vào lúc này hay lúc khác trong đời họ, lại đều có kinh nghiệm sử
dụng súng đạn.
Partridge quyết định vẫn dùng khẩu Browning chín ly có ống giảm
thanh. Anh c̣n mang theo con dao “tấn công” kiểu Fairburn của
lính commando mà một thiếu tá người Anh đă tặng anh.
Minh, người sẽ mang máy quay cùng thiết bị như một loại vũ khí,
muốn có loại nào thật mạnh nhưng phải nhẹ. Fenandez thông báo
anh ta sẽ kiếm một khẩu tiểu liên UZI của Israel. O’Hara nói anh
dùng loại nào cũng được, hoá ra đó lại là khẩu sung trường tự
động M.16 của Mỹ. Hiển nhiên là bất cứ loại vũ khí nào cũng có
thể mua được ở Lima, c̣n người có tiền mua không bị hỏi ǵ hết.
o0o
Từ sau bữa thứ tư, khi biết Nueva Esperanza là mục tiêu anh sẽ
phải đến, Partridge luôn tự hỏi: Có nên báo cho nhà chức trách
Peru, đặc biệt là cảnh sát chống khủng bố biết không? Thậm chí
hôm thứ năm, anh c̣n trở lại hỏi ḍ ư kiến Sergio Hurtado, ông
giám đốc đài phát thanh, là người đă cảnh cáo anh đừng t́m kiếm
sự giúp đỡ của quân đội và cảnh sát. Lần gặp nhau khi Partridge
vừa đến Peru, ông ta đă bảo: “Đừng coi họ là đồng minh v́ họ
không c̣n đáng tin cậy nữa, nếu như có lúc nào họ đáng tin cậy.
Nói về chuyện giết người và các hành động dă man khác, họ chẳng
hơn ǵ Sendero và chắc chắn cũng tàn bạo không kém”.
V́ tin tưởng nhau, Partridge cho Dergio biết những việc gần đây
nhất và hỏi ông c̣n giữ lời khuyên cũ không.
“Chẳng những c̣n, mà lại mạnh hơn”, Sergio trả lời: “Trong t́nh
huống đúng như anh vừa h́nh dung, các lực lượng chính phủ khét
tiếng là kẻ sử dụng hoả lực tối đa. Họ cứ phải tính chuyện ăn
chắc. Họ diệt tất, cả người có tội lẫn người vô tội, rồi hỏi
sau. Rồi khi bi buộc tội là giết nhầm, họ sẽ bảo: “Làm sao chúng
tôi phân biệt được? Vấn đề là giết hay bị giết”.
Partridge nhớ lại tướng Raul Ortiz cũng đă nói gần giống như
vậy.
Sergio nói thêm: “Đồng thời, tới đó như cách anh vừa nói có
nghĩa là anh cầm mạng sống của anh trong tay”.
“Tôi biết” Partridge thừa nhận. “Nhưng tôi không thấy cách nào
khác”.
Lúc ấy mới đầu giờ chiều. Mấy phút vừa rồi, Sergio cứ giơ đi giơ
lại tờ báo trên bàn. Lúc này ông hỏi: “Harry, trước khi tới đây,
anh có nhận được tin nào xấu không? Tôi muốn nói là hôm nay ấy”.
Partridge nhún vai.
“Thế th́ tôi xin lỗi phải cung cấp cho anh một vài tin như thế”.
Sergio nhặt tờ báo rồi đưa cho anh. “Tin này vừa đến trước khi
anh tới”.
“Tin này” là tin của hăng Reuters tả lại việc New York nhận được
ngón tay của Nicky và nỗi đau xé ḷng của người cha cậu bé.
“Ôi, lạy Chúa”, Partridge bỗng cảm thấy dằn vặt, tự quở trách
ḿnh. Tại sao, anh đau xót nghĩ, kế hoạch hành động của anh
không được thực hiện sớm hơn?”. “Tôi hiểu anh đang nghĩ ǵ”
Sergio nói. “Song anh không có cách ǵ ngăn được việc ấy. Thời
gian gấp mà thông tin ít như vậy!”.
Đúng như vậy, Partridge thầm xác nhận. Nhưng anh biết các câu
hỏi về tiến độ công việc anh làm sẽ ám ảnh anh trong một thời
gian dài.
“Nhân tiện anh ở đây, c̣n có việc này nữa”, Sergio nói: “Hăng
CBA của anh thuộc tổ hợp công nghiệp Globanic phải không?”.
“Vâng”.
Ông giám đốc đài phát thanh mở ngăn kéo, rút ra mấy tờ giấy đính
với nhau. “Tôi có tin từ rất nhiều nguồn, và chắc anh sẽ ngạc
nhiên khi biết một nguồn là Sendero Luminoso. Chúng ghét tôi,
nhưng lại phải sử dụng tôi, Sendero có người cảm t́nh và chỉ
điểm ở nhiều nơi, một trong những người đó mới gửi cho tôi tin
này, hy vọng tôi sẽ phát trên đài”.
Partridge nhận mấy tờ giấy và bắt đầu đọc.
“Như anh có thể thấy”, Sergioi bảo, “tin nói về một thoả thuận
giữa Công ty tài chính Globanic, chi nhánh của tổ hợp công
nghiệp Globanic, và chính phủ Peru. Nói theo lối nói của giới
tài chính, thoả thuận này là hợp đồng chuyển nợ thành bất động
sản”.
“Tôi e rằng tôi không thạo vấn đề này”, Partridge lắc đầu đáp.
“Nhưng vấn đề có phức tạp ǵ đâu. Theo thoả thuận, Globanic sẽ
nhận được những vùng đất rất rộng, bao gồm hai khu nghỉ mát lớn,
với cái giá phải gọi là vừa bán vừa cho. Đổi lại, một số khoản
nợ quốc tế của Peru mà Globanic đă “xem kỹ” sẽ được rút bớt”.
“Tất cả đều ṣng phẳng và hợp pháp chứ?”.
Sergio nhún vai. “Hăy cho là gần như thế, nhưng có lẽ là hợp
pháp. Điều quan trọng hơn, - đó là một hợp đồng vô cùng béo bở
đối với Globanic, nhưng lại rất xương xẩu đối với dân Peru”.
“Nếu đă nghĩ thế, sao anh không cho phát đi?”, Partridge hỏi.
“Chưa phát v́ hai lư do. Tôi không bao giờ chấp nhận những ǵ
Sendero cung cấp theo giá trị bên ngoài của nó và tôi muốn kiểm
tra tin đó chính xác đến đâu. Tôi đă làm tin đó chính xác. Lư do
thứ hai là: để có được hợp đồng ngon lành như vậy, Globanic chắc
đă hoặc sẽ hối lộ những khoản tiền rất lớn cho ai đó trong chính
quyền. Tôi đang điều tra về việc này, và định phát vào tuần
tới”.
Partridge vỗ vỗ mấy tờ giấy anh đang cầm: “Tôi xin một bản được
không?”.
“Anh lấy đi. Tôi c̣n bản nữa”.
o0o
Ngày hôm sau, thứ sáu, Partridge quyết định cần kiểm tra thêm
một việc khác nữa trước khi khởi hành vào thứ bảy. C̣n ai nhận
được số điện thoại, mà theo đó nhóm làm tin CBA đă t́m đến căn
pḥng ở phố Huancavelia. Trước đây do tay cựu bác sĩ có tên là
Baudelio và hiện nay Dolores ở không? Nếu vậy, có nghĩa là c̣n
có ai đó có thể biết tầm quan trọng của Nueva Esperanza.
Như Don Kettering giải thích qua điện thoại cho anh hôm thứ tư,
FBI có được số điện thoại di động ngay sau khi CBA phát hiện ra
chúng. V́ vậy, có khả năng FBI sẽ liểm tra các lần gọi trên
những máy này và biết được số điện thoại ở Lima mà Kettering đă
báo cho Partridge. Suy từ đó, có thể FBI cung cấp tin này cho
CIA, tuy nhiên, cũng không chắc có khả năng đó, v́ ai cũng biết
hai tổ chức này rất ḱnh nhau. FBI có thể dùng cách khác là yêu
cầu một vụ nào đó trong chính phủ kiểm tra số điện thoại đó.
Theo yêu cầu của Partridge, Fenandez tới thăm Dolores lần thứ
hai vào chiều thứ sáu. Anh ta thấy bà đang say, nhưng vẫn đủ
tỉnh táo đảm bảo với anh là không có ai khác t́m đến pḥng hỏi
bà cả. Thế là, không hiểu tại sao, không ai ngoài CBA lần theo
số điện thoại đó.
Cuối cùng, vào chiều hôm đó qua đài phát thanh Peru, họ nhận
được tin đau buồn về cái chết của Angus Sloane và việc phát hiện
ra đầu của ông ở sứ quán Mỹ tại Lima.
Vừa nghe được tin ấy, Partridge cùng Minh Văn Cảnh tới ngay hiện
trường và gửi bài viết qua vệ tinh cho bản tin chiều hôm đó.
Cũng vào lúc đó, các đội làm tin truyền h́nh và phóng viên báo
chí kéo đến, nhưng Partridge t́m cách để khỏi phải nói chuyện
với họ.
Thực sự là, cái chết thê thảm của cha Crawf, cũng như hai ngón
tay bị chặt của Nicky khiến lương tâm anh nhức nhối. Bởi v́,
Partridge tự bảo, anh tới Peru, hy vọng cứu được cả ba người,
nhưng anh đă không làm được.
Sau khi làm xong các việc cần làm, trở lại khách sạn Cesar, anh
đi nằm nhưng không ngủ được, ḷng buồn rầu và thất vọng.
Sáng hôm sau, anh thức dậy trước rạng đông một tiếng, với ư định
làm xong hai việc. Một việc là làm ngay một chúc thư viết tay
đơn giản, c̣n việc kia là thảo sẵn một bức điện. Ngay sau đó,
trong chiếc xe họ thuê ra sân bay, anh đă nhờ Rita thị chứng
chúc thư của anh, rồi giao nó cho cô ta. Anh cũng nhờ cô gửi
giúp bức điện tới địa chỉ ở Oakland bang California. Họ c̣n trao
đổi về thoả thuận chuyển nợ thành bất động sản giữa Globanic và
Peru mà anh được biết qua Sergio Hurtado. Anh bảo Rita: “Khi chị
đọc xong, tôi nghĩ chúng ta nên đưa Les Chippingham xem bản này.
Tuy nhiên, nó chẳng liên quan ǵ đến việc tại sao ta đến đây, và
tôi không định sử dụng tin này, nhưng tuần sau Sergio sẽ cho
phát”. Anh mỉm cười. “Tôi nghĩ đó là cái ít ra ta cũng có thể
làm cho Globanic, v́ họ đă có công nuôi sống chúng ta”.
o0o
Chiếc Cheyenne II yên ổn rời Lima trong không khí yên tĩnh trước
lúc rạng đông. Bảy mươi phút sau, máy bay đă tới đoạn đường qua
rừng nơi Partridge, Minh, O’Hara và Fenandez sẽ xuống.
Lúc này trời đă sáng, có thể nh́n thấy mặt đất bên dưới. Con
đường vắng ngắt; tịnh không thấy ô tô, xe tải hoặc hoạt động nào
khác của con người. Hai bên đường, rừng rậm trải dài như tấm màn
xanh mênh mông phủ trên mặc đất. Oswaldo Zileri ngồi ở ghế lái,
rời mắt khỏi bảng điều khiển, quay vội lại gọi mấy hành khách
trên máy bay:”Chúng ta sắp hạ cánh. Chuẩn bị xuống thật nhanh.
Tôi không muốn đỗ lại thêm phút nào nếu không cần thiết”.
Rồi bằng động tác nhào xuống rất nhanh, ông ta cho máy bay bay
dọc con đường, tiếp đất ở đoạn đường rộng hơn và dừng ngay lại
sau khi lăn bánh một đoạn rất ngắn. Bốn hành khách nhanh chóng
ra khỏi máy bay, mang theo ba lô cùng trang bị, và chỉ một lát
sau, chiếc Cheyenne II lăn bánh lấy đà và cất cánh.
“Lẩn vào rừng ngay”, Partridge giục mấy người kia, và họ đi về
phía con đường nhỏ xuyên qua rừng.
Chú thích:
(1) Nhanh lên! Chớ để mất thời giờ!
Chương 13
Trong cái ngày thứ sáu bận rộn ấy,
Partridge không hề biết cuộc khủng hoảng ở New York liên quan
đến anh.
Sáng thứ hai, khi đang ăn sáng tại nhà, Margot Lloyd Mason nhận
được điện thoại báo là Theodore Elliott muốn gặp bà “ngay lập
tức” tại trụ sở tổ hợp Globanic ở Pleasantville. Sau khi hỏi
lại, “ngay lập tức” được ấn định vào lúc mười giờ sáng. Cô thư
kư ở Pleasantville thông báo đây là cuộc gặp đầu tiên trong ngày
của ông chủ tịch Globanic.
Sau đó, Margot gọi một trong hai cô thư kư ở nhà, chỉ thị cho cô
huỷ bỏ hoặc chuyển lại giờ các cuộc gặp gỡ của bà sáng hôm ấy.
Bà không biết theo Elliott muốn ǵ.
Tại trụ sở Globanic, Margot phải ngồi đợi mấy phút tại pḥng
khách sang trọng của các uỷ viên hộ đồng chấp hành cao cấp,
không biết rằng bà đang ngồi đúng chiếc ghế mà trước đó bốn
ngày, phóng viên Glen Dawson của tờ Ngôi sao Bantimore đă ngồi.
Khi Margot bước vào pḥng chủ tịch, Elliott không phí thời gian
chào hỏi xă giao, mà hỏi ngay: “Tại sao bà không kiểm soát chặt
chẽ lũ phóng viên khốn kiếp của bà ở Peru?”.
Margot giật ḿnh hỏi: “Kiểm soát cái ǵ? Mọi người đều khen các
bài viết từ đó gửi về. Và xếp thứ hạng…”. “Tôi đang nói về những
tin thất thiệt; toàn một màu đen cơ”. Elliott đập mạnh tay xuống
bàn. “Tối qua, tôi nhận được điện thoại trực tiếp của tổng thống
Castaneda từ Lima. Ông ta cho rằng tất cả tin tức mà CBA đưa về
Peru đều tiêu cực và mang tính phá hoại. Ông ta tức điên lên v́
cái hăng tin của bà. Tôi cũng vậy!”.
Margot đáp, giọng phải chăng: “Các hăng khác và tờ Thời Báo New
York cũng đưa những tin gần đúng như vậy, Theo ạ”.
“Đừng nói với tôi về các hăng khác! Tôi đang nói về chúng ta
ḱa. Ngoài ra, có vẻ như tổng thống Castadena nghĩ t́nh trạng
hiện nay là CBA bắt nhịp những hăng khác đi theo. Ông ta nói với
tôi như vậy đấy”.
Cả hai vẫn c̣n đang đứng. Elliott, mặt đỏ bừng v́ tức giận,
không mời Margot ngồi. Margot hỏi: “Có chuyện ǵ cụ thể không?”.
“Bà nói đúng, có đấy!”. Ông chủ tịch Globanic chỉ tay vào khoảng
năm sáu chiếc băng video trên bàn. “Sau khi tổng thống gọi cho
tôi tối qua, tôi cho người đến lấy những băng ghi chương tŕnh
tin phát trong tuần này. Sau khi xem tất cả các băng, tôi hiểu
Castaneda muốn nói ǵ. Các chương tŕnh toàn những tin tức tồi
tệ , về việc t́nh h́nh càng ngày càng xấu đi ở Peru. Chẳng có
tin nào tích cực cả! Không tin nào nói Peru có tương lai xán lạn
trước mắt hay đó là nơi đi nghỉ tuyệt diệu, hoặc cái bọn phiến
loạn “Con đường sáng” điên khùng chẳng bao lâu sẽ bị đánh bại”.
“Theo, mọi người đều nhất trí cho là chúng sẽ không bị đánh bại
đâu”.
Elliott giận dữ nói tiếp như thể không nghe thấy lời bà: “Tôi có
thể hiểu tại sao tổng thống Casteneda điên tiết, một điều
Globanic lẽ ra không được để xảy ra, và bà thừa hiểu tại sao.
Tôi đă báo trước cho bà việc đó, nhưng rơ ràng, bà đă không chịu
nghe. C̣n việc này nữa, Fossie Xenos cũng tức điên người. Thậm
chí anh ta c̣n nghĩ bà có ư phá hoại hợp đồng lớn chuyển nợ
thành bất động sản của anh ta”.
“Chuyện tầm bậy, và tôi chắc là ông biết điều đó. Song có lẽ ta
có thể làm việc ǵ đó để cứu văn t́nh thế”. Margot đang nghĩ rất
nhanh, nhận thấy t́nh h́nh có vẻ nghiêm trọng hơn lúc đầu bà
tưởng. Bà cũng nhận ra rằng tương lai của chính bà ở Globanic có
thể dễ dàng bị ảnh hưởng. “Tôi sẽ nói chính xác việc bà phải
làm”, giọng Elliott trở nên nghiêm khắc: “Tôi muốn cái tay phóng
viên phá thối Partridge ấy bị lôi về trong chuyến máy bay tới và
đuổi hắn ngay khỏi hăng”.
“Chắc chắn tôi có thể triệu hồi anh ta, nhưng không chắc về việc
thải hồi anh ta”.
“Tôi nói là “đuổi ngay”! Sáng nay bà có vẻ nặng tai hay sao,
Margot. Tôi muốn đuổi thằng con hoang ấy khỏi CBA, để thứ hai
tới, việc đầu tiên là tôi gọi điện cho tổng thống Peru và nói:
“Này ông! Tôi đă tống khứ cái thằng gây rối ấy đi rồi. Chúng tôi
lấy làm tiếc đă cử hắn sang nước ông. Đó là một sai lầm tệ hại,
song từ nay về sau sẽ không c̣n chuyện như thế nữa”.
Lường trước những khó khăn bà sẽ gặp tại CBA, Margot đáp: “Theo,
tôi cần phải nói rơ rằng Partridge đă làm việc cho hăng từ lâu.
Có lẽ phải tới gần hai mươi lăm năm và có nhiều đóng góp tốt”.
Elliott mỉm cười tinh quái: “Vậy hăy tặng thằng chó đẻ ấy chiếc
đồng hồ vàng. Tôi không cần biết, miễn là tống cổ hắn đi, để thứ
hai tới tôi có thể gọi điện như tôi đă nói. Và tôi c̣n phải báo
trước cho bà một việc nữa, Margot ạ!”.
“Việc ǵ thế, Theo?”.
Elliott tới ngồi sau bàn làm việc của ông ta. Vẫy tay mời Margot
ngồi, ông ta nói: “Tôi muốn nói, nghĩ rằng bọn nhà văn hay nhà
báo là những người đặc biệt là rất nguy hiểm. Bọn chúng chẳng có
ǵ đặc biệt, nhưng đôi khi chúng tin là thế, và đánh giá quá cao
về vai tṛ quan trọng của chúng. Thực ra th́ thiếu giống ǵ cái
bọn viết lách ấy. Cắt đi một, hai thằng khác lại mọc lên, như cỏ
dại ấy mà”.
Thích chí v́ chủ đề của ḿnh, Elliott nói tiếp: “Những người như
tôi và bà mới đáng được kể đến trên đời này, Margot ạ. Chúng ta
là những người hành động, những người làm cho sự vật tiến triển
hàng ngày. V́ vậy, chúng ta có thể mua được bọn ấy khi nào chúng
ta muốn, và đừng bao giờ quên điều này! Với cái giá một xu hai
thằng như người Anh nói. V́ thế, khi đă tống cổ cái thằng viết
thuê hết hơi như Partridge bà hăy kiếm một thằng mới, một thằng
nhăi ranh mới ở trường ra, như kiểu ta mua bắp cải ấy”.
Margot mỉm cười, rơ ràng là cấp trên của bà đă qua cơn giận dữ
nhất. “Đó là một quan niệm hay!”.
“Bà áp dụng đi. Và c̣n một việc nữa”.
“Tôi vẫn đang nghe ông nói”.
“Đừng nghĩ rằng những người thuộc Globanic, trong đó có tôi,
không biết rằng bà, Leon Ironwood và Fossie Xenos đang lừa miếng
nhau, người nào cũng hy vọng sẽ có ngày ngồi vào vị trí của tôi
hiện nay. Mà tôi phải nói với bà, Margot ạ, là giữa bà và
Fossie, sáng nay Fossie tỏ ra trội hơn bà đấy”.
Ông chủ tịch vẫy tay ra ư kết thúc câu chuyện. “Tất cả là vậy.
Gọi điện cho tôi hôm nay khi cái vụ Peru ấy xong xuôi”.
o0o
Cuối buổi sáng hôm đó, từ văn pḥng của bà ở Stonehenge Margot
gửi giấy báo cho Les Chippingham, ông chủ tịch Ban tin phải đến
gặp bà “ngay lập tức”.
Bà không thích việc sáng nay bị triệu đi; bà thích triệu người
khác đến gặp bà. Bà cảm thấy hài ḷng về t́nh huống ngược lúc
này.
Margot, cũng không thích cái lối Elliott nói về việc Fossie
“trội hơn bà”. Nếu cái thế tương đối ấy là thực, bà nghĩ, th́ bà
sẽ nhanh chóng lật ngược thế cờ. Margot không định để những toan
tính về sự nghiệp của ḿnh bị đảo lộn bởi cái bà chỉ coi là vấn
đề nhỏ về tổ chức, có thể nhanh chóng giải quyết dứt điểm.
V́ thế, khi Les Chippingham vừa tới vào khoảng giữa trưa, bà đi
ngay vào vấn đề như Theo Elliott đă làm với bà.
“Tôi không muốn bàn căi ǵ hết”, bà tuyên bố. “Đây là tôi ra
lệnh cho anh”. Rồi bà nói tiếp: “Chấm dứt ngay việc sử dụng
Harry Partridge. Tôi muốn anh ta rời khỏi CBA vào ngày mai. Tôi
biết anh ta có hợp đồng làm việc, nhưng bằng cách nào đó anh
phải huỷ bỏ nó ngay. Anh ta c̣n phải rời khỏi Peru, tốt nhất là
vào ngày mai, nhưng không chậm quá chủ nhật. Nếu phải thuê bao
cả chuyến máy bay, anh cứ việc làm”.
Chippingham há hốc mồm, dán mắt nh́n bà ta với vẻ không tin.
Được một lúc, không biết trả lời sao, ông ta nói: “Bà nói đùa!”.
Margot đáp, giọng kiên quyết: “Tôi nói nghiêm tuc và tôi đă bảo
không bàn căi”.
“Dẹp cái đó đi”, ông cao giọng v́ xúc động. “Tôi sẽ không đứng
yên nh́n một trong những phóng viên giỏi nhất, đă phục vụ tốt
hăng này hơn hai mươi năm, bị đẩy ra mà không có lư do ǵ”.
“Lư do ǵ không phải việc của anh”.
“Tôi là chủ tịch Ban tin, đúng không? Margot, mong bà xem xét
lại. Mà lạy Chúa, Harry đă làm ǵ cơ chứ? Một việc tồi tệ à? Nếu
vậy, tôi muốn biết việc đó”.
“Nếu quả thực anh muốn biết, th́ đó là vấn đề tin mà anh ta
đưa”.
“Chắc chắn đó là những tin khá nhất. Trung thực, hiểu biết,
không thiên vị. Bà cứ hỏi mọi người xem”.
“Tôi không cần phải làm điều ấy. Dù sao, không phải ai cũng đồng
ư với anh”.
Chippingham nh́n bà ta, vẻ ngờ vực. “Đây là tác phẩm của
Globanic phải không?”. Ông đoán bằng trực giác: “Của ông bạn của
bà, lăo bạo chúa tàn ác Theo Elliott ấy!”. “Anh nói năng cẩn
thận”, bà ta cảnh cáo và quyết định cuộc nói chuyện như thế là
đủ.
“Tôi không định giải thích ǵ thêm”, Margot lạnh lùng nói, “song
tôi phải nói với anh điều này: Nếu lệnh của tôi không được thi
hành vào cuối giờ làm việc ngày hôm nay, anh cũng sẽ mất việc và
đến mai tôi sẽ cử người khác làm quyền chủ tịch Ban tin và họ sẽ
phải thi hành lệnh đó”.
“Bà thực sẽ làm điều đó?”, ông ta nh́n bà với vẻ ngạc nhiên và
căm ghét.
“Đừng lầm tưởng, đúng, tôi sẽ làm điều đó. Và nếu anh c̣n muốn ở
lại làm việc, hăy báo cáo tôi vào buổi chiều nay là điều tôi
muốn đă được thực hiện. Bây giờ mời anh ra khỏi đây”.
Chippingham đi rồi, Margot hài ḷng nhận thấy khi cần thiết, bà
cũng có thể cứng rắn được như Theo Elliott.
o0o
Trở lại trụ sở Ban tin CBA, v́ không muốn quyết định ngay, Les
Chippingham giải quyết luôn một vài công việc vặt tới gần ba giờ
chiều mới chỉ thị cho cô thư kư là sẽ không tiếp ai và không trả
lời điện thoại cho tới khi có lệnh mới. Ông cần có thời gian để
suy nghĩ.
Đóng chặt cửa pḥng, ông ngồi xuống dăy bàn họp cách xa bàn làm
việc của ông, đối diện với một trong những bức hoạ mà ông ưa
thích – một vùng đất cô quạnh của Andrew Wyeth. Song hôm nay,
Chippingham như không thấy bức ảnh; tâm trí ông tập trung vào
cái quyết định quan trọng mà ông sắp phải có.
Ông biết ông đă tới điểm khủng hoảng trong cuộc đời.
Nếu làm như Margot ra lệnh là buộc Harry Partridge thôi việc mà
không có lư do rơ ràng, ông sẽ tự hạ thấp ḷng tự trọng của
ḿnh; ông sẽ làm một việc đáng hỗ thẹn và không công bằng đối
với một người bạn, một người đồng nghiệp, một con người đứng đắn
tay nghề giỏi và được kính trọng, chỉ để thoả măn ư muốn ngông
cuồng của người khác. Ông không biết người khác đó là ai, ư muốn
ngông cuồng đó là ǵ, nhưng ông tin cuối cùng ông và mọi người
cũng sẽ t́m ra. C̣n lúc này, ông nghĩ thế nào Theodore Elliott
cũng có dính dáng, và xem xét qua phản ứng của Margot ông tin là
ḿnh đoán đúng.
Liệu Les Chippingham có chấp nhận làm điều đó không? Đối chiếu
với những tiêu chuẩn mà ông theo suốt cả cuộc đời, ông không thể
làm như vậy được.
Song mặt khác, và quả là c̣n một mặt khác, là nếu ông, Les
Chippingham không làm, sẽ có người khác làm việc ấy. Margot đă
nói rất rơ. Và bà ta sẽ chẳng khó khăn ǵ không t́m được người
khác. Chắc chắn là như vậy, v́ những kẻ tham vọng chẳng thiếu
ǵ, kể cả trong Ban tin CBA.
Như vậy, dẫu sao chăng nữa sự nghiệp của Partridge cũng tiêu
tan, ít ra là ở CBA, điều quan trọng là ở điểm đó.
Khi có tin, mà hẳn là sẽ rất nhanh, là Harry Partridge đi khỏi
CBA và chưa làm cho ai, anh sẽ không bị thất nghiệp tới mười lăm
phút. Các hăng khác sẽ đổ xô nhau mời anh làm cho họ. Harry là
một “ngôi sao”, một “tay anh chị” có tiếng là tử tế, nên với anh
có đi khỏi CBA cũng chẳng hại ǵ. Không ǵ có thể đánh quỵ được
Harry Partridge. Thực tế, với một hợp đồng mới ở một hăng mới,
có lẽ lại là tốt cho anh hơn.
Nhưng c̣n một ông chủ tịch Ban tin bị mất việc th́ sao? Đó lại
là chuyện hoàn toàn khác, và Chippingham biết rơ hoàn cảnh của
ḿnh nếu Margot làm như bà ta nói mà ông tin là bà ta sẽ làm,
nếu ông không theo ư muốn của bà ta.
Là chủ tịch Ban tin, ông cũng có một hợp đồng làm việc, và sẽ
được nhận khoảng một triệu đôla nếu hợp đồng bị huỷ sớm. Một
triệu nghe có vẻ to, nhưng thực ra lại không phải như thế. Một
khoản khá lớn sẽ phải dùng để trả thuế. Và rồi các chủ nợ cũng
sẽ cấu xé phần c̣n lại, v́ ông nợ rất nhiều. C̣n được chút nào,
các luật sư giải quyết đơn li dị của Stasia sẽ thèm thuồng nḥm
ngó. Cuối cùng là, ông sẽ rất ngạc nhiên nếu c̣n lại được số
tiền đủ cho hai người ăn tối ở hiệu Bốn Mùa!
Rồi lại c̣n vấn đề kiếm đâu ra việc làm. Không như Partridge,
các hăng khác sẽ không chạy theo ông. Một lư do là mỗi hăng chỉ
có một chủ tịch Ban tin, mà ông th́ không nghe có hăng nào
khuyết chân ấy. Ngoài ra, các hăng muốn những ông chủ tịch tin
thành đạt, chứ đâu phải người bị mất việc trong những hoàn cảnh
rất đáng ngờ. Các vị cựu chủ tịch ban tin chưa có việc vẫn c̣n
sờ sờ ra đó!
Tựu trung là ông sẽ phải bằng ḷng với một công việc thấp hơn,
và hầu như chắc chắn là với số tiền ít hơn nhiều; thế mà Stasia
vẫn sẽ muốn chấm mút vào đó nữa.
Viễn cảnh chẳng hay ho ǵ. Trừ phi - trừ phi ông làm điều Margot
muốn.
Nói theo ngôn ngữ kịch, ông nghĩ, những việc ông làm sắp làm lột
đi từng lớp của tâm hồn, nh́n sâu vào trong và không thích những
ǵ ḿnh thấy.
Song kết luận không tránh khỏi là: trong cuộc đời, có những lúc
phải nghĩ đến việc tự bảo tồn trước hết. Harry, tôi ghét phải
làm việc này, ông thầm nhủ, nhưng tôi không c̣n cách nào khác
nữa.
o0o
Mười lăm phút sau, Chippingham đọc lại bức thư ông tự đánh lấy
trên chiếc máy chữ thường cũ rích hiệu Underwood mà ông vẫn giữ
trên bàn làm việc như một kỷ niệm thuở xưa.
Bức thư viết:
Harry thân mến,
Tôi rất lấy làm tiêc phải báo với anh là hợp đồng làm việc vói
CBA của anh bị huỷ bỏ và có hiệu lực ngay lập tức.
Theo điều khoản hợp đồng với CBA…
V́ gần đây đă có dịp xem lại, ông biết hợp đồng của Partridge có
điều khoản “cho nghỉ có lương”, tức là nếu hăng huỷ bỏ hợp đồng,
nó buộc phải trả số tiền từ lúc đó cho đến khi hết hợp đồng.
Trong trường hợp Partridge, thời gian đó là một năm.
Cũng trong hợp đồng, có điều khoản “không gây tranh chấp” quy
định rằng khi chấp nhận “nghỉ có lương”, Partridge đồng ư không
làm cho một hăng khác ít nhất là trong ṿng sáu tháng.
Trong thư, Chippingham lờ điều khoản “không gây tranh chấp” đi,
để Harry Partridge vẫn được lănh đủ số tiền hăng trả, nhưng tự
do nhận việc làm ngay ở một hăng khác. Chippingham tin rằng,
trong những hoàn cảnh như thế này, đó là điều ít ra ông cũng
giúp được Harry.
Ông định gởi thư qua Lima bằng máy fax. Ở pḥng ngoài có máy và
ông sẽ tự ḿnh gửi đi. Theo phản xạ tự nhiên, ông lật úp lá thư
xuống.
Crawford Sloane bước vào. Anh đang cầm trên tay tờ tin điện. Anh
nói, giọng nghẹn ngào, nước mắt chảy dài trên má. “Leslie”,
Sloane nói. “Tôi cần gặp anh. Tin này vừa mới đến”.
Anh đưa tờ tin điện. Chippingham cầm đọc. Nó đưa lại tin của tờ
diễn đàn Chicago từ Lima nói về việc t́m thấy đầu của Angus
Sloane.
“Ôi, lạy Chúa! Crwaf, tôi…”, không thể nói hết câu, Chippingham
lắc đầu, rồi dang rộng hai tay, và hai người bất giác ôm chặt
nhau.
Buông tay ra, Sloane nói: “Đừng nói ǵ thêm. Tôi không dám chắc
là tôi có thể làm nổi. Tôi không thể xuất hiện trong bản tin tối
nay. Tôi đă nói mọi người gọi Teresao Toy”
“Đừng nghĩ đến việc ấy, Crawf!” Chippingham bảo. “Chúng tôi sẽ
lo liệu”.
“Không!”, Sloane lắc đầu. “C̣n việc nữa, tôi phải làm. Tôi muốn
thuê một chếc Learjet đi Lima. Tôi phải tới đó, khi vẫn c̣n khả
năng cứu Jessica và Nicky”.
Sloane ngừng lại, cố trấn tỉnh, rồi nói thêm: “Trước hết tôi trở
lại Larchmont, rồi ra sân bay Teterboro”.
Chippingham hỏi, giọng lưỡng lự: “Anh chắc vậy sao, Crawf? Làm
vậy có phải là khôn ngoan không?”.
“Tôi sẽ đi, Leslie ạ”, Sloane trả lời. “Đừng có ngăn cản tôi.
Nếu CBA không chi, tôi sẽ trả tiền thuê máy bay”. “Không cần
phải thế. Tôi sẽ ra lệnh thuê máy bay”. Chippingham đáp.
Sau đó, ông lệnh thuê máy bay. May bay sẽ rời Teterboro tối hôm
đó và sẽ tới Peru vào sáng hôm sau.
V́ cái tin đau đột ngột về cái chết của Angus Sloane, măi tới
gần hết buổi chiều Chippingham mới kư và gửi bức thư bằng đường
fax qua Lima. Sau khi cô thư kư đă ra về, Chippingham gọi số fax
ở Entel Peru, ở đó người ta sẽ chuyển về pḥng dành cho CBA
trong cùng nhà. Ông cũng đánh thêm mấy chữ, yêu cầu cho bức thư
vào phong b́ và đề địa chỉ “Ông Harry Partridge” cùng chữ “thư
riêng”.
Chippingham đă tính báo cho Crawford Sloane về chuyện bức thư,
nhưng sau ông nghĩ cả tuần Crawf bị choáng như thế đă đủ lắm
rồi. Ông biết Crawf cũng như Partridge sẽ rất tức giận, và nghĩ
thế nào họ cũng công phẫn gọi điện đ̣i giải thích lư do. Nhưng
đó là chuyện ngày mai, và Chippingham sẽ phải lựa cách mà trả
lời cho êm.
Cuối cùng Chippingham gọi điện cho Margot Lloyd- Mason, lúc ấy
là sáu giờ mười lăm phút, song bà ta vẫn c̣n ở văn pḥng. Trước
tiên ông thông báo: “Tôi đă làm việc bà yêu cầu”, sau đó báo tin
về cái chết của ông bố Crawford Sloane.
“Tôi có nghe”, bà ta trả lời, “và rất lấy làm tiếc. Về việc kia,
anh cũng kịp làm vào phút chót và tôi đă bắt đầu nghĩ anh sẽ
không gọi. Dù sao cũng cảm ơn anh”.
Chương 14
Vào cách xa con đường nơi chiếc Cheyenne
II đă đậu, c̣n đường xuyên rừng trở nên khó đi, làm Partridge và
mọi người đi chậm lại.
Con đường ṃn, nếu có thể gọi như vậy, cỏ mọc um tùm, che kín
không thấy lối đi. Để qua được những đám dây rừng rậm ŕ treo
trước mặt, họ phải dùng dao mở lối, hy vọng sẽ thấy khoảng trống
ở phía sau. Tàn lá cây cao phủ kín trên đầu, bầu trời âm u báo
hiệu cơn mưa sắp tới. Nhiều thân cây rất to lồi lơm, xù x́ và lá
mượt. Partridge nhớ đă đọc ở đâu là có tới tám ngàn loài cây
khác nhau ở Peru. Ở tầng thấp hơn, các loại tre nứa, dương xỉ,
dây leo và tầm gửi đan chằng chịt khắp nơi, tạo thành cái mà
trong tài liệu anh đọc mô tả là “địa ngục màu xanh”.
Từ “địa ngục” thật thích hợp với hôm nay, v́ cả bốn người đang
phải chịu đựng cái nóng hầm hập như trong nồi hầm. Mồ hôi tuôn
ra khắp người, và tệ hại hơn nữa là đám côn trùng, sâu bọ. Lúc
đầu họ xoa thuốc chống muỗi khắp người, vừa đi lại vừa bôi thêm
nhưng như O’Hara mô tả: “Lũ quỷ nhỏ này h́nh như thích thứ thuốc
này hay sao ấy”.
Rất may là khi họ lại t́m thấy đường ṃn, ở nhiều nơi tán lá ken
dầy trên đầu làm cho cây cỏ đỡ rậm rạp, và v́ thế họ đi cũng dễ
dàng hơn. Rơ ràng không có con đường ṃn này th́ không thể đi
được.
“Lối này chẳng mấy ai đi”, Fernandez nói. “chính thế mà lại hoá
hay”.
Mục tiêu của họ là Nueva Esperanza, nhưng họ sẽ ở xa phía ngoài,
t́m một vị trí cao hơn để từ đó, náu kín trong rừng, họ sẽ quan
sát làng đó chủ yếu là vào ban ngày. Rồi tuỳ t́nh h́nh cụ thể họ
sẽ tính toán kế hoạch hành động.
Toàn bộ khu vực rộng khoảng hơn một trăm dặm vuông, từ chỗ con
sông Huallaga chảy qua, là rừng rậm xen lẫn vùng đồng bằng mấp
mô. Song trên tấm bản đồ, đường mức tỷ lệ lớn Fernandez mang
theo cho thấy gần mục tiêu của họ có mấy ngọn đồi, một ngọn có
thể dùng làm đài quan sát. Từ chỗ họ đến Nueva Esperanza khoảng
chín dặm, một khoảng cách có thể vượt qua trong điều kiện như
thế này.
Một điều Partridge c̣n nhớ là thông báo thứ hai của Jessica
trong cuốn băng ghi h́nh. Như Crawford Sloane viết trong thư dán
kín mà Rita cầm tay sang Peru cho anh, Jessica đă găi tai trái,
có nghĩa là: việc canh pḥng ở đây đôi khi lỏng lẻo. Từ ngoài
tấn công vào có thể thành công. Không lâu nữa, sẽ biết thông tin
đó chính xác hay không.
C̣n lúc này, họ vẫn đang vật lộn với rừng rậm.
Măi xế chiều hôm ấy, khi mọi người đă gần kiệt sức, Fernandez
mới báo là có thể đă gần đến Nueva Esperanza. “Tôi nghĩ chúng ta
đă đi được khoảng bảy dặm”, anh ta nói, rồi dè chừng trước:
“Không được để ai thấy chúng ta. Nếu nghe có người tới, chúng ta
lập tức phải tản vào rừng”.
Nh́n đám cây rậm đầy gai góc hai bên lối ṃn, Minh Văn Cảnh nói:
“Anh nói chí phải, nhưng hy vọng chúng ta không phải làm thế”.
Ngay sau lúc Fernandez nói, đường trở nên dễ đi hơn và có nhiều
lối ṃn khác cắt ngang lối họ. Fernandez giải thích rằng toàn bộ
vùng đồi dốc này là vùng trồng côca, mà vào lúc khác trong năm,
hoạt động nhộn nhịp. Trong mùa trồng côca, khoảng từ bốn đến sáu
tháng, cây côca ít cần phải chăm nom; v́ thế, người trồng phần
lớn sống ở nơi khác, đến vụ thu hoạch mới đến trở lại và ở trong
nữhng lán tren đồi.
Dùng bản đồ và địa bàn, Fernandez tiếp tục dẫn đường cho ba
người kia, đồng thời họ biết là đang leo ngược đường đồi v́ bước
đi phải mất nhiều sức hơn. Một tiếng sau, họ tới một khoảng đồi
trống và nh́n thấy một chiếc lán trong đám cây rừng.
Tới lúc này Partridge thấy rơ Fernandez biết vùng này rơ hơn anh
ta thừa nhận trước đây. Khi được hỏi, anh ta thú nhận: “Trước
đây tôi đă đến đây nhiều lần”.
Partridge nén tiếng thở dài. Có phải Fernandez cũng là một người
trong đám người có vẻ đàng hoàng song lại kiếm lời một cách ranh
ma, vụng trộm trong nghề buôn bán ma tuư ở đâu cũng gặp này
không? Mỹ Latinh, đặc biệt là Caribe đầy những kẻ vờ vĩnh loại
này; rất nhiều người trong số đó ở những chức vụ cao.
Như đoán được điều anh đang nghĩ, Fernandez nói thêm. “Một lần
tôi tới đây dự cuộc “đi săn” mà chính phủ nước tôi tiến hành
theo yêu cầu của Bộ Ngoại giao nước ông. Có một vị khách, tôi
nghĩ là ông Bộ trưởng Bộ tư pháp và các phương tiện thông tin
báo chí cũng được đưa đến. Tôi là một người trong số đó”.
Mặc dù có ư nghĩ lúc trước, Partridge bất giác mỉm cười trước
cái từ “đi săn” mà anh ta dùng. Các phóng viên dùng từ đó với ư
miệt thị khi chính phủ một nước dàn dựng cảnh chống ma tuư để
gây ấn tượng với phái đoàn Mỹ đang ở thăm nước đó. Partridge có
thể h́nh dung ra cảnh đó ở đây; quân đội do máy bay trực thăng
chở tới “đột nhập” khu vực này, nhổ và đốt một vài mẫu cây côca,
và dùng thốc nổ phá huỷ một hai xưởng chế biến. Các vị khách sẽ
ca ngợi cố gắng chống ma tuư của của chính nước chủ nhà, v́
không biết hoặc giả bộ không biết việc hàng ngàn mẫu côca và
hàng chục xưởng chế biến gần đó vẫn không hề bị đụng đến.
Ngày hôm sau, ảnh các vị khách xuất hiện trên báo chí, cùng
những lời tuyên bố của họ; sau đó đến lượt truyền h́nh lặp lại.
Các phóng viên, tuy biết ḿnh đang dự một tṛ đánh đố, nhưng
không bỏ qua được v́ những người khác cũng đang ghi ghi chép
chép, nên đành vuốt bụng mà nuốt cho trôi.
Chuyện đó đă xảy ra ở Peru, một nước chẳng phải độc tài hay cộng
sản, nhưng Partridge nghĩ không lâu nữa nó sẽ là một trong hai
loại ấy.
Fernandez kiểm tra khoảng trống họ vừa tới, kể cả chiếc làn, hài
ḷng thấy không có ai ở đó. Sau đó anh ta lại dẫn mọi người theo
hướng nam vào rừng. Mới đi được một đoạn, Fernandez ra hiệu cho
mọi người dừng lại. Lát sau, anh rẽ đám dương xỉ và vẫy mọi
người lại nh́n. Từng người một tới coi, thấy một số ngôi nhà
xiêu vẹo cách chỗ họ đứng chừng nửa dặm và thấp hơn khoảng hai
trăm phít. Có khoảng hơn hai chục túp lều trên bờ sông. Một con
đường lầy lội chạy từ các ngôi nhà ra bến sông bằng gỗ xù x́ neo
mấy chiếc thuyền đủ loại chắp vá.
Partridge nói nhỏ: “Mọi người giỏi thật”. Rồi anh nói thêm,
giọng vui vẻ: “Tôi nghĩ chúng ta đă t́m thấy Nueva Esperanza”.
o0o
Trên đường đi, Partridge trao cho Fernandez quyền dẫn đường,
nhưng tới lúc này anh trở lại nắm quyền chỉ huy.
“Chả mấy lúc nữa là trời tối”, anh nói với mọi người. Mặt trời
đă xuống gần đường chân trời; chuyến đi kéo dài hơn họ tưởng rất
nhiều. “Tôi muốn quan sát được càng nhiều càng tốt trước khi
trời tối. Minh, hăy mang ống nḥm tới đây với tôi. Fernandez và
Ken đứng cảnh giới, một anh canh chừng, đề pḥng có người phía
sau tới. Tuỳ hai anh phân công nhau, nếu có người báo tôi ngay”.
Gần tới vạt rừng mà từ phía dưới không nh́n thấy họ, Partridge
nằm xuống, ḅ, mang theo chiếc ống nḥm, Minh cũng làm theo,
đang ḅ cạnh anh. Họ dừng lại khi đă nh́n rơ phía dưới, người
khuất sau lùm cây.
Partridge từ từ giương ống nḥm quan sát khu bên dưới.
Không thấy động tĩnh ǵ. Ngoài bến sông, hai người đàn ông đang
tháo động cơ gắn ở sau thuyền. Một phụ nữ đem đổ một chậu rác ở
sau túp nhà rồi lại trở vào. Một người từ trong rừng đi về phía
một nhà khác và mở của vào. Hai con chó gầy giơ xương đang bới
t́m ăn trong đống rác. Rác rưởi quăng lung tung khắp nơi. Nh́n
chung Nueva Esperanza có vẻ là một khu ổ chuột trong vùng rừng
rậm.
Partridge chiếu ống nḥm quan sát từng nhà một, mỗi nhà mấy
phút. Có thể các con tin đang bị giam giữ trong những ngôi nhà
đó, nhưng không biết rơ là ở nhà nào. Anh nghĩ rơ ràng cần phải
quan sát hẳn một ngày, nên không thể ngay đêm nay vào cứu mấy
người và đưa đi bằng máy bay vào sáng ngày mai. Anh nằm im, chờ
đợi và quan sát trong khi trời tối hẳn.
Ở xứ nhiệt đới bao giờ cũng vậy, trời sập tối ngay khi mặt trời
lặn. Ánh đèn leo lét xuất hiện trong các nhà, xoá đi dấu vết c̣n
lại của một ngày. Bỏ ống nḥm xuống, Partridge giụi mắt đang mỏi
căng sau hơn một giờ tập trung quan sát phía dưới. Anh tin là
hôm nay họ không thể thấy ǵ thêm.
Đúng lúc đó, Minh kéo tay anh, chỉ về phía những túp nhà bên
dưới. Partridge lại đưa ông nḥm lên quian sát. Lập tức anh
trông thấy trong ánh sáng lờ mờ, bóng một người đàn ông đi về
phía cuối đường giữa hai dăy nhà, có vẻ đi làm một việc ǵ đó có
định trước. Có cái ǵ đó khang khác, Partridge căng mắt nh́n và
đă nhận ra. Người kia đang đeo trên vai khẩu súng trường. Cả
Partridge và Minh tiếp tục dùng ống nḥm theo dơi.
Cách xa các ngôi nhà khác là một túp nhà nhỏ trơ trọi. Trước đó,
Partridge cũng đă thấy nó nhưng không chú ư v́ chẳng có ǵ đặc
biệt. Lúc này, gă đàn ông đă tới và vào trong ngôi nhà. Tường
trước ngôi nhà có một chỗ hổng, hắt ra ánh đèn mừ mờ.
Họ vẫn tiếp tục quan sát đến mấy phút nhưng không thấy ǵ. Rồi
từ trong nhà đó, bóng một người khác bước ra. Ngay cả trong ánh
đèn mờ, họ cũng thấy rơ hai điều: đây là một gă đàn ông khác, và
gă này cũng mang súng.
Partridge hồi hộp tự hỏi có phải họ vừa chứng kiến việc đổi gác
tù hay không? Cần phải xác minh thêm, nên họ sẽ phải tiếp tục
theo dơi. Song rất có thể là túp nhà đứng trơ trọi kia chính là
nơi Jessica và Nicky đang bị giam giữ.
Anh cố không nghĩ tới khả năng là cho tới một hai hôm trước,
Angus Sloane cũng bị giam ở đấy.
o0o
Mấy giờ trôi qua.
Partridge bảo mọi người: “Chúng ta cần phải biết các hoạt động
ban đêm ở Nueva Esperanza thế nào, trong bao lâu và khi nào các
nhà tắt đèn đi ngủ. Tôi muốn ghi lại tất cả những cái đó”.
Theo yêu cầu của Partridge, một ḿnh Minh tiếp tục ở lại chờ
quan sát một giờ nữa, sau đó Ken O’Hara sẽ đến thay anh ta.
“Mọi người cố mà nghỉ ngơi”, Partridge ra lệnh. “Nhưng phải luôn
có người ở vị trí quan sát và cảnh giới, tức là chỉ có hai người
có thể ngủ một lượt”. Sau khi trao đổi, họ quyết định sẽ đổi gác
cho nhau hai tiếng một lần.
Trước đó, Fernandez đă buộc vơng, mắc màn trong túp lều họ t́m
thấy khi mới đến. Nằm vơng cũng chẳng thoải mái ǵ, song sau một
ngày mệt ră rời, chẳng ai để ư và đều lăn ra ngủ. Đêm ấy, khi
trời đổ mưa to, mái lều dột, mọi người càng thấy việc mang theo
ni lông là đúng. Fernandez khéo léo phủ kín vơng, nên những
người đang ngủ không bị ướt. Những người ở ngoài co ro trong tấm
ni lông; hơn nửa tiếng sau cơn mưa mới tạnh.
Ăn uống cũng không thành vấn đề. Mỗi người tự lo đồ ăn thức
uống, nhưng tất cả đều biết rằng phải dè xẻn đồ ăn khô. Số nước
mang theo từ Lima hôm trước đă uống hết, nên mấy tiếng trước đó,
Fernandez đă lấy nước suối vào đầy các chai và cho thuốc khử
trùng vào. Anh đă báo trước là hầu như nước ở đây đều bị ô nhiễm
v́ hoá chất mà các nhà chế biến ma tuư sử dụng. Nước trong chai
có vị rất kinh, nên mọi người chỉ uống rất ít.
Rạng sáng hôm sau, Partridge đă có câu trả lời cho những vấn đề
có liên quan đến các hoạt động về đêm ở Nueva Esperanza; không
có ǵ nhiều ngoài tiếng ghi ta trong cơn say từ nhà vọng ra. Tất
cả chỉ diễn ra trong khoảng ba tiếng rưỡi từ khi trời tối. Đến
một rưỡi sáng, cả làng im ĺm và tối đen.
Cứ cho giả thiết của Partridge về tụi gác và nơi giam con tin là
đúng, họ vẫn vần biết bao lâu chúng đổi gác một lần, và vào lúc
nào. Cho tới sáng, họ vẫn chưa biết được điều đó. Có thể, chúng
thay gác lúc nào đó trong đêm, song họ đă không nhận thấy.
Việc theo dơi tiếp tục cả ngày hôm sau.
Việc cảnh giới và cử người theo dơi vẫn được duy tŕ; ngay cả
ban ngày, vơng vẫn được mắc cho người không phải làm nhiệm vụ.
Mọi người đều tranh thủ nằm nghỉ trên vơng, hiểu rằng họ cần
phải giữ sức cho những việc về sau.
Buổi chiều, đến lượt nằm nghỉ trên vơng, Partridge trầm ngâm suy
nghĩ về những ǵ anh và mọi người đang làm, mơ màng tự hỏi: Tất
cả chuyện này là thực ư? Một lực lượng nhỏ, không chuyên như thế
này mà định tiến hành cứu con tin sao? Chỉ vài giờ nữa chứ không
hơn, họ sẽ phải lao vào chém giết hoặc bị giết. Như thế có phải
là điên rồ không? Giống như câu trong Macbeth: “…cơn sốt thất
thường của cuộc đời…”.
Anh là một phóng viên chuyên nghiệp, đúng không? Một phóng viên
truyền h́nh, người theo dơi đưa tin chiến tranh và xung đột, chứ
không phải là kẻ trong cuộc. Thế mà bỗng nhiên, tự anh quyết
định trở thành một kẻ phiêu lưu, một lính đánh thuê, một kẻ đóng
vai người lính. Liệu việc đổi vai như vậy có phải lẽ không?
Dù câu trả lời là thế nào, vẫn có một câu hỏi khác. Nếu anh,
Harry Partridge không làm được những ǵ cần làm ở đây, vào lúc
này, th́ ai sẽ làm được?
Rồi nữa: một phóng viên đưa tin chiến tranh, nhất là phóng viên
truyền h́nh luôn gần kề với bạo lực, chấn thương, trọng thương
và chết đột ngột. Anh ta, hoặc chị ta luôn sống trong nguy hiểm,
chia sẻ, nhiều khi chịu đựng nguy hiểm, để rồi đêm đêm đưa chúng
đến các pḥng ở gọn gàng, sạch sẽ của các gia đ́nh trong các
thành phố của nước Mỹ, nơi chúng chỉ c̣n là những h́nh ảnh trên
màn h́nh, và v́ vậy, không c̣n nguy hiểm đối với người xem.
Thế nhưng, những h́nh ảnh ấy ngày càng trở nên nguy hiểm, ngày
càng gần hơn, cả về thời gian lẫn không gian, và chẳng bao lâu
sẽ không chỉ là những h́nh ảnh trên tuyền h́nh, mà trở thành một
thực tế phũ phàng trong các thành phố và đường phố Mỹ, nơi tội
ác đă ṃ tới. Giờ đây, bạo lực và khủng bố trong cái nửa thế
giới bị thiệt tḥi, bị chia rẽ và bị chiến tranh tàn phá ấy đă
đến gần, ngày càng gần nước Mỹ hơn.
Đó là điều không tranh khỏi, là điều các học giả quốc tế đă tiên
liệu từ lâu.
Học thuyết Monroe, đă từng được coi là lá bù hộ mệnh của Mỹ
không c̣n thiêng nữa; bây giờ ít người c̣n nói tới học thuyết
ấy. Việc bọn tay chân của nước ngoài bắt cóc người nhà Sloane
ngay tại nước Mỹ cho thấy khủng bố quốc tế đă lan tới nơi này.
Rồi sẽ c̣n nhiều, rất nhiều vụ đánh bom khủng bố, bắt cóc con
tin, bắn giết trên đường phố. Bi kịch là ở chỗ không có cách nào
tránh được điều ấy. Và bi kịch không kém, dù thích hay không
cũng vậy, là rất nhiều người không phải trong cuộc chẳng bao lâu
cũng phải dính vào.
V́ vậy vào lúc này, Partridge nghĩ, việc anh và ba người kia
tham gia vào vụ này không phải là không thực. Anh ngờ rằng nhất
là Minh sẽ không thấy ǵ mâu thuẫn trong t́nh huống này. Minh,
người đă trải qua và sống sót trong cuộc chiến tranh chia rẽ
khủng khiếp ngay trên đất nước của anh ta, sẽ chấp nhận việc họ
hiện đang làm dễ dàng hơn những người khác.
Trùm lên tất cả những suy nghĩ ấy của anh, và theo một cách rất
riêng tư, là h́nh ảnh Jessica. Jessica có lẽ đang gần kề bên
anh, đâu đó trong túp nhà kia. Trong tâm trí của anh, những kỷ
niệm và tính cách của Jessica-Gemma hoà trộn với nhau.
Sau đó… anh thấy thoàn thân tră rời… và ngủ thiếp đi.
Tỉnh dậy trước khi đến lượt ra nơi quan sát khoảng mười lăm
phút, anh nhảy khỏi vơng và ra ngoài kiểm tra t́nh h́nh chung.
Vẫn như lúc trước, người cảnh giới không thấy có ǵ cần phải báo
động. Tuy nhiên, nơi quan sát đă có được những thông tin và nhận
định cụ thể:
Một người mang súng trường đến thay cho người kia ở đúng nơi mà
họ thấy tối hôm trước. Như vậy có thể là mấy người đang bị giam
giữ trong ngôi nhà đứng tách biệt những nhà khác ấy. Có lẽ cứ
bốn giờ đổi gác một lần, nhưng vào lúc nào th́ chưa biết chính
xác. Việc thay gác có khi chậm đến hai mươi phút, và Partridge
tin rằng điều đó cho thấy bọn gác cũng làm cho qua chuyện, xác
minh điều Jessica bảo: việc canh gác ở đây đôi khi lỏng lẻo.
Buổi sáng có một phụ nữ đến chỗ mà họ cho là nơi giam giữ các
con tin hai lần, mang theo những thứ có lẽ trong đựng đồ ăn.
Cũng chính người đem đồ ăn tới này lại ra khỏi nhà hai lần, mang
bô đổ vào rừng.
Trong làng, chỉ có căn nhà nói trên là có gác hoặc trạm gác.
Tuy bọn gác được trang bị súng trường tự động, song trông chúng
không có vẻ là lính, hoặc đă được huấn luyện quy củ.
Ban ngày, việc ra vào Nueva Esperanza đều bằng thuyền. Không
thấy đường ô tô. Các động cơ gắn ở thuyền h́nh như không có
khoá; v́ vậy, nếu thoát ra bằng đường sông, có thể dễ dàng lấy
trộm được thuyền. Mặt khác, c̣n rất nhiều thuyền mà chúng có thể
dùng để đuổi theo chiếc bị mất. Rất thạo thuyền, Ken O’Hara xác
định được ngay những thuyền tốt nhất.
Những người quan sát đều có cảm giác, mới chỉ là cảm giác, bọn
đang bị họ theo dơi có vẻ ung dung, chứng tỏ chúng không nghĩ
người ngoài có thể đột nhập vào được. “Nếu không”, Fernandez
vạch rơ, “chúng đă tổ chức tuần tra khu vực xung quanh, kể cả ở
đây, để t́m những người như chúng ta”.
Chập tối, Partridge gọi ba người kia lại và bảo: “Chúng ta quan
sát như vậy là đủ. Tôi nay chúng ta sẽ vào làng”.
Anh bảo Fernandez: “Anh sẽ dẫn đường. Tôi muốn đến được căn nhà
đó vào lúc hai giờ sáng. Dọc đường mọi người phải giữ im lặng.
Nếu muốn báo cho nhau cái ǵ phải nói thầm”.
Minh hỏi: “Anh có phân nhiệm vụ chiến đấu không, Harry?”.
“Có”, Partridge trả lời. “Tôi sẽ vào gần xem xét, rồi lọt vào
nhà trước. Tôi muốn anh Minh theo sát bảo vệ phía sau cho tôi.
Fernandez ở ngoài theo dơi các nhà xem có ai ra không, rồi nhập
bọn chúng tôi khi cần”.
Fernandez gật đầu.
Quay sang phía O’Hara, Partridge bảo: “Ken, anh ra thẳng bến
sông. Tôi đă quyết định chúng ta thoát ra bằng thuyền. Tôi không
biết t́nh trạnh sức khoẻ của Jessica và Nicky hiện giờ ra sao,
song có thể họ không đủ sức cho chuyến đi như lúc ta tới”.
“Hiểu rồi”, O’Hara bảo. “Tôi nghĩ anh muốn tôi kiếm một hiếc
thuyền”.
“Đúng, và nếu có thể được, anh hăy phá hỏnng những chiếc khác.
Nhưng nhớ là đừng gây tiếng động”.
“Nhưng khi nổ máy sẽ có tiếng ồn…”. “Không”, Partridge nói.
“chúng ta sẽ phải bơi thuyền ra giữa sông, rồi để thuyền trôi
xuôi. Rất may sông chảy đúng theo hướng ta đi. Khi thuyền đă
cách xa làng mới nổ máy”.
Ngay cả trong lúc đang nói, Partridge cũng biết đó là trong
trường hợp mọi chuyện đều trôi chảy. Nếu không, họ sẽ phải t́m
mọi cách xử lư các t́nh huống ngay tại chỗ, kể cả sử dụng vũ
khí.
Nhớ đến việc hẹn hăng Aerolibertad cho máy bay tới đón vào lúc
tám giờ sáng, Fernandez hỏi: “Anh đă quyết định máy bay sẽ tới
đón ở đâu chưa, ở Sion hay chỗ khác?”.
“Khi đi thuyền tôi sẽ chọn, tuỳ thuộc vào kết quả ta làm và có
bao nhiêu thời gian”.
Việc cần làm lúc này, Partridge kết luận, là kiểm tra vũ khí, bỏ
bớt các trang bị không cần thiết cho gọn nhẹ và có thể đi được
nhanh.
Mọi người đều cảm thấy xen lẫn nỗi lo âu.
Chương 15
Sáng thứ bảy, sau khi thấy chiếc Cheyenne
II của Aerolibertad cất cánh, Rita Abrams trở lại Lima và hoàn
toàn bất ngời v́ hai lẽ.
Một là, cô không hề nghĩ Crawford Sloane sẽ có mặt ở đây. Bức
điện để trong pḥng dành cho CBA ở Entel Peru báo sáng sớm hôm
sau Sloane sẽ tới Lima; như vậy thực ra là đă đến đây rồi. Cô
vội vàng gọi điện tới khách sạn Cesar và nói Sloane sẽ thuê
buồng ở. Vẫn chưa thấy Crawford tới nhận pḥng, nên cô để lại
mấy chữ báo cho anh biết cô đang ở đâu, và đề nghị anh gọi điện
cho cô.
Hai là, và cái này c̣n bất ngờ hơn, là bức thư của Leslie
Chippingham gửi bằng fax cho Harry Partridge. Đề nghị kèm theo
là cho thư vào phong b́ đề ngoài “thư riêng” rơ ràng không được
người điều khiển máy để ư, nó được để nguyên như vậy cùng các
thứ khác, nên ai cũng có thể đọc được. Rita đọc và không tin vào
mắt ḿnh.
Harry đă bị CBA cho thôi, bị đuổi việc! “Có hiệu lực ngay lập
tức” như trong thư viết, và anh sẽ phải rời Peru “tốt nhất” là
vào thứ bảy, tức là hôm nay, “dứt khoát” không được chậm quá chủ
nhật! Nếu không có chuyến bay hàng ngày đến Mỹ, anh được phép
thuê máy bay riêng. Gớm chưa!
Càng nghĩ, Rita càng thấy chuyện đó thật lố bịch và vô nhân đạo,
nhất là vào lúc này. Cô tự hỏi, liệu việc Crawford đến Lima có
liên quan ǵ tới chuyện đó không? Cô tin là có, và nóng ḷng chờ
điện thoại của Sloane trong khi càng thêm tức giận trước cách
đối xử tàn tệ với Harry.
C̣n bây giờ, cô không có cách nào báo cho Partridge biết nội
dung thư, v́ anh đă ở trong vùng rừng rậm, đang trên đường tới
Nueva Esperanza.
o0o
Sloane không gọi điện thoại. Sau khi đến khách sạn và thấy giấy
nhắn của Rita, anh lập tức đi tắc xi đến Entel. Trước đây anh đă
từng có việc tới Lima, nên anh biết đường đi lối lại.
Câu đầu tiên anh hỏi Rita là: “Harry đâu?”. “Trong rừng rậm,
liều ḿnh để cứu vợ con anh”, cô trả lời. Rồi cô lôi ngay bức
thư gửi fax ra và hỏi: “Thế này là thế nào?”.
“Chị bảo sao?” Crawford Sloane cầm bức thư đọc, trong khi Rita
đứng nh́n. Anh đọc bức thư hai lần, rồi lắc đầu: “Chắc là nhầm.
Nhất định là thế”.
Rita hỏi, vẫn với giọng cay nghiệt: “Không lẽ anh định bảo tôi
anh không biết ǵ về việc này sao?”. “Tất nhiên tôi không biết”,
Sloane bực dọc lắc đầu. “Harry là bạn của tôi. Ngay lúc này, tôi
cần anh ấy hơn bất cứ người nào khác trên đời. Xin chị cho tôi
biết anh ấy đang làm ǵ trong từng rậm – có phải chị vừa nói vậy
không?”. Rơ ràng Sloane coi bức thư kia là vô lư, không cần để ư
đến nó cho tốn thời gian.
Rita cố nuốt nước bọt, nước mắt đầm đ́a. Cô giận ḿnh đă hiểu
sai và không công bằng. “Ôi, lạy Chúa, Crawford! Tôi xin lỗi!”.
Đến lúc này cô mới nhận thấy những nếp nhăn v́ căng thẳng trên
khuôn mặt người phát thanh viên, cũng như nỗi đau khắc khoải
trong ánh mắt anh. Trông anh tiều tuỵ đi nhiều so với lần cuối
cô thấy anh cách đây tám ngày. “Tôi cứ nghĩ chắc thế nào anh
cũng… Thôi, không nói chuyện đó nữa”.
B́nh tĩnh lại, Rita nói: “Đây là những ǵ Harry và mấy người
khác đang cố gắng làm”. Cô nói lại chuyến đi tới Nueva Esperanza
và những việc Harry hy vọng làm được. Cô cũng nói kỹ về những
việc trước đó, giải thích lo lắng của Partridge là nói chuyện
qua điện thoại không bảo đảm và đó là lư do tại sao anh không
báo New York biết kế hoạch của anh.
Cuối cùng, Sloane bảo: “Tôi muốn nói chuyện với người lái máy
bay hôm ấy xem sự thể thế nào khi anh ta chia tay Harry và mấy
người kia. Tên anh là ǵ?”. “Zileri”, Rita trả lời, rồi nh́n
đồng hồ. “Có lẽ anh ta chưa về đến nơi, song tôi sẽ gọi điện
thoại rồi chúng ta cùng đi. Anh ăn sáng chưa?”.
Sloane lắc đầu.
“Trong nhà này có quầy cà phê. Ta xuống đó đi”.
Vừa ăn bánh mỳ, uống cà phê, Rita vừa nói, giọng nhỏ nhẹ:
“Crawford ạ, chúng tôi nhất là Harry đều bàng hoàng và đau buồn
khi nghe tin về cái chết của cha anh. Tôi biết anh ấy tự trách
ḿnh đă không hành động nhanh hơn, thực t́nh chúng tôi không có
được thông tin…”.
Sloane ra hiệu ngăn lại: “Tôi không bao giờ trách Harry về bất
cứ chuyện ǵ xảy ra, ngay cả lúc này. Không ai có thể làm hơn
những ǵ anh ấy đă làm”.
“Tôi cũng thấy thế” Rita đáp. “Chính v́ vậy bức thư này là điều
không thể tin được”. Cô lại lôi ra bức thư Leslie Chippingham kư
và gửi qua fax. “Không phải nhầm đâu, Crawford ạ. Có chủ đích
đấy. Không ai nhầm kiểu này đâu”.
Anh lại đọc bức thư lần nữa. “Khi trở lên, tôi sẽ gọi cho Leslie
ở New York”.
“Trước khi làm việc ấy, ta hăy xem xét điều này. Có cái ǵ đó ở
sau việc này, mà cả tôi và anh đều không biết. Ở New York hôm
qua có chuyện ǵ khác thường không?”.
“Chị định nói là ở CBA ư?”.
“Vâng”.
Sloane ngẫm nghĩ. “Tôi không nghĩ vậy…à, tôi có nghe Leslie
Chippingham được Margot Lloyd Mason gọi lên gặp một cách rơ ràng
là rất khẩn cấp. Anh ta qua bên Stonehenge, nhưng tôi không biết
là về chuyện ǵ”.
Rita chợt nghĩ ra. “Có thể chuyện liên quan đến Globanic chăng?
Có lẽ v́ cái này”. Cô mở túi xách, lấy ra mấy tờ giấy Harry mới
đưa sáng nay.
Sloane cầm mấy tờ giấy và đọc. “Thú vị thật! Một cuộc đổi chác
lớn chuyển nợ thành bất động sản. Cả đống tiền đấy. Chị kiếm đâu
ra cái này thế?”.
“Harry đưa cho tôi”. Rồi cô kể lại những ǵ Partridge đă nói với
cô trên đường ra sân bay – làm thế nào anh lại có được tài liệu
này từ tay ông Sergio Hurtado, b́nh luận viên của đài phát thanh
Peru, người định công bố tin này trên đài vào tuần tới. Rita nói
thêm: “Harry bảo tôi anh ấy không có ư định sử dụng tin này. Anh
ấy bảo, đó là cái ít ra chúng ta có thể làm cho Globanic, v́ họ
đă nuôi sống chúng ta”.
“Có thể có liên quan giữa cái này với bức thư thôi việc”,
Sloane, có vẻ trầm ngâm. “Tôi thấy có khả năng. Bây giờ ta lên
gọi điện cho Leslie”.
“Khi lên đó có một việc tôi muốn làm trước đă”, Rita nói.
“Việc đó” là mời Victor Velasco đến.
Mấy phút sau, khi ông giám đốc ban quốc tế của Entel xuất hiện,
Rita bảo ông: “Tôi muốn dùng tuyến điện thoại chắc chắn không có
ai nghe trộm để nói chuyện với New York”.
Velasco có vẻ bối rối. “Chị có lư do để cho rằng…”.
“Tôi có”.
“Mời chị tới văn pḥng của tôi. Chị có thể dùng điện thoại ở
đó”.
Rita và Crawford Sloane theo ông giám đôc tới một văn pḥng trải
thảm, trông đẹp mắt ở ngay cùng tầng. “Xin cứ dùng bàn tôi”, ông
nói và chỉ chiếc điện thoại màu đỏ. “Đường dây đó rất an tàon.
Tôi đảm bảo điều đó. Đó là máy gọi thẳng”.
“Cám ơn ông”. V́ Partridge đang trên đường tới Nueva Esperanza,
Rita không muốn khi nói điện thoại để việc của anh ở đó đến tai
nhà chức trách Peru.
Velasco gật đầu chào rất nhă nhặn, rồi ra khỏi pḥng và khép kín
cửa lại.
Ngồi bên bàn, Sloane trước tiên gọi số máy của Leslie
Chippingham ở ban tin CBA. Không ai trả lời máy; vào sáng thứ
bảy, điều ấy cũng không có ǵ lạ. Cái lạ là ở chỗ ông Chủ tịch
Ban tin không để lại tổng đài số máy có thể gọi tiếp cho ông.
Xem trong sổ tay, Sloane thử gọi số máy thứ ba, là máy ở nhà
Chippingham phía ngoài Manhattan. Cũng không ai trả lời máy. C̣n
một số máy nữa ở Scarsdale, nơi Chippingham đôi khi tới nghỉ vào
cuối tuần. Ông ta cũng không có ở đó.
“H́nh như sáng nay anh ta cố t́nh lánh mặt”, Sloane nói. Anh
ngồi bên bàn, vẻ trầm ngâm như đang cân nhắc trước khi quyết
định.
“Anh nghĩ ǵ vậy?”, Rita hỏi.
“Gọi cho Margot Lloyd Mason”. Anh nhấc chiếc điện thoại màu đỏ
và bảo “Tôi sẽ gọi”.
Sloane quay số quốc tế gọi về Mỹ, rồi số điện thoại ở
Stonehenge. Người trực tổng đài nói với anh: “Bà Lloyd Mason hôm
nay không đến văn pḥng”.
“Tôi là Crawford Sloane. Xin chị cho tôi số máy của bà ở nhà”.
“Thưa ông Sloane số đó không ghi trong danh bạ. Tôi không được
phép cho ai số máy ấy”.
“Nhưng chị biết số máy đó?”.
Người trực tổng đài ngập ngừgng nói: “Thưa ông, tôi biết”.
“Tên chị là ǵ?”.
“Noreen”.
“Một cái tên rất đẹp. Tôi bao giờ cũng thích cái tên ấy. Bây giờ
xin chị hăy nghe cho kỹ, Noreen. Chị nhận được giọng tôi chứ?”.
“Ồ, có chứ, thưa ông. Đêm nào tôi cũng theo dơi bản tin. Nhưng
gần đây tôi thấy lo…”.
“Cám ơn chị, Noreen. Tôi cũng vậy. Này, tôi đang ở Lima, Peru
gọi về và tôi nhất định phải nói chuyện với bà Lloyd Mason. Nếu
chị cho tôi biết, tôi hứa sẽ không bao giờ hé răng về chuyện lấy
đâu ra số máy đó, chỉ trừ lần sau đến Stonehenge, tôi sẽ đích
thân đến tổng đài cám ơn chị”.
“Ôi, ông sẽ làm thế thật ư, ông Sloane? Chúng tôi sẽ rất vui
mừng gặp ông”.
“Tôi bao giờ cũng giữ đúng lời hứa. Số máy thế nào, Noreen”.
Chị ta nói số máy và anh ghi lại.
Lần này, khi chuông đổ lần thứ hai, một giọng đàn ông có vẻ là
người quản gia trả lời điện thoại. Sloane nói tên ḿnh và xin
nói chuyện với bà Lloyd Mason.
Anh đợi mấy phút, rồi nghe giọng không lẫn vào đâu được của
Margot “Chuyện ǵ vậy?”.
“Tôi là Crawf, gọi từ Lima về”.
“Ông Sloane th́ ra là thế. Tôi chưa hiểu ại sao ông gọi cho tôi,
mà lại gọi số máy ở nhà riêng. Nhưng trước tiên, tôi xin chia
buồn về cái chết của cụ nhà”.
“Cám ơn bà”.
Rất lạ là đối với một người tầm cỡ như anh, anh và bà chủ tịch
hăng CBA chưa bao giờ gọi nhau bằng tên riêng, và rơ ràng bà ta
có ư định giữ nguyên như thế. Nghe giọng lănh đạm của bà ta, anh
cho rằng nếu hỏi thẳng, anh sẽ chẳng biết được điều ǵ. V́ thế,
anh quyết định sử dụng mánh khoé cũ rích của cánh nhà báo; mánh
khoé này thường có kết quả, ngay cả khi gặp những người rất thạo
đời.
“Bà Lloyd Mason. Hôm qua, khi bà quyết định đuổi Harry Partridge
khỏi CBA, tôi cứ tự hỏi không hiểu bà có biết anh ấy làm được
bao nhiêu là việc trong toàn bộ cái cố gắng t́m cứu vợ con và
cha tôi không?”.
Bà ta trả lời, giọng rít lên. “Ai nói với anh đó là quyết định
của tôi?”.
Anh rất muốn bảo: “Chính bà vừa nói”, nhưng ḱm lại được và nói:
“Giới làm tin luôn phải phối hợp với nhau chặt chẽ, nên hầu như
không cái ǵ có thể giữ bí mật được. Chính v́ thế tôi mới gọi
cho bà”.
Margot độp ngay: “Lúc này tôi không muốn bàn về chuyện ǵ”.
“Thật đáng tiếc”, Sloane nói rất nhanh trước khi bà ta kịp dập
máy, “bởi v́ cứ nghĩ bà có thể muốn nói về mối liên hệ giữa việc
đuổi Harry và hợp đồng lớn chuyển nợ thành bất động sản mà
Globanic đang dàn xếp với Peru. Có phải những tin trung thực của
Harry đă làm phật ư người có quyền lợi trong hợp đồng ấy
không?”.
Đầu dây bên kia im lặng rất lâu; anh nghe tiếng thở của Margot
trong máy. Sau đó, bà ta dịu giọng hỏi: “Anh nghe tin đó ở
đâu?”.
Th́ ra là có liên quan!
“A”, Sloane nói. “Thực tế là Harry Partridge biết việc dàn xếp
chuyển nợ ấy. Anh ấy là một pḥng viên hạng nhất, một trong
những tay giỏi nhất của giới làm tin và ngay lúc này đây, anh ấy
đang liều ḿnh v́ CBA. Thế nhưng Harry quyết định không đưa tin
đó. Theo chỗ tôi biết, anh ấy bảo: “Đó là cái ít ra tôi có thể
làm cho Globanic, người nuôi sống chúng ta”.
Lại im lặng. Rồi Margot hỏi: “Như vậy là tin đó sẽ không được
công bố?”.
“Ấy ấy, đó lại là chuyện khác”. Giá như gặp lúc khác, Sloane
nghĩ, chắc anh sẽ rất thích chí, song vào lúc này, anh cảm thấy
chán nản vô cùng. “Một phóng viên đài phát thanh ở Lima, người
moi tin này, có cả bản sao thoả thuận ấy, và định đưa tin và
tuần tới. Tôi nghĩ tin đó sẽ được đưa lại ở ngoài Peru. Bà cũng
nghĩ vậy chứ?”.
Margot không trả lời. Không biết bà ta đă dập máy hay không, anh
hỏi: “Bà vẫn nghe chứ?”.
“Vâng”.
“Xin hỏi có phải bà đang nghĩ giá bà đừng làm cái việc bà đă làm
với Harry Partridge không?”.
“Không”. Câu trả lời có vẻ lửng lơ, tựa như đầu óc bà đang ở tận
đâu đâu. “Không”, bà ta nhắc lại. “Tôi đang nghĩ đến chuyện
khác”.
“Bà Lloyd Mason”, Crawford nói với giọng cay độc mà đôi lúc anh
vẫn dùng khi dọc những tin đáng ghê tởm trong các thương tŕnh
tin. “Gần đây có ai nói cho bà biết rằng bà là đồ chó cái ḷng
băng dạ đá hay không?”.
Nói xong, anh cúp máy.
o0o
Nghe tiếng cúp máy, Margot cũng dập máy luôn. Một ngày gần đây,
bà ta quyết định, bà sẽ t́m cách riêng của bà để xử lư cái tay
Crawford Sloane lên mặt quan trọng này. Song bây giờ chưa phải
lúc. Ngay lúc này c̣n nhiều việc khác quan trọng hơn.
Cái tin về Globanic và Peru mà bà vừa nghe làm bà điếng người.
Trước đây bà cũng đă từng bị choáng váng, nhưng bà đâu có chịu
bó tay. Margot đă leo cao, leo nhanh trong giới kinh doanh không
phải là không gặp những thất bại nghiêm trọng, song hầu như bao
giờ bà cũng cố biến được chúng thành lợi thế của bà. Bằng cách
này hay cách khác, bà phải làm việc đó ngay. Bà ngẫm nghĩ, cân
nhắc xem nên bắt đầu thế nào.
Đương nhiên bà phải điện cho Theo Elliott ngay hôm nay. Về những
vấn đề làm ăn quan trọng, ông ta không bao giờ bực ḿnh khi bị
gọi vào bất cứ lúc nào, thậm chí cả cuối tuần.
Bà sẽ nói với ông rằng bà biết tin ở Peru người ta đă biết về
hợp đồng của Globanic, rằng không biết bằng cách nào, một phóng
viên Peru đă có được bản sao và định công bố dự thảo hợp đồng
ấy. CBA, cũng như các hăng truyền h́nh và báo chí Mỹ không “dính
dáng ǵ tới chuyện đó. Đó là do phía Peru để lộ chuyện, nhưng
rất tai hại”.
Bà sẽ nói rằng việc này thật đáng tiếc, và bà không muốn suy
luận, nhưng không khỏi băn khoăn liệu Fossie Xenos có sơ ư nói
với ai đó, đặc biệt là ở Peru, về chuyện đó không? Dựa trên
những điều bà nghe được, rất có thể chính ḷng hăng hái nổi
tiếng của Fossie đă làm anh ta thiếu thận trọng.
Bà cũng sẽ nói với Theo rằng, v́ những hoạt động trên của báo
chí Peru, nên Ban tin CBA đă biết được chuyện ấy. Song Margot đă
dứt khoát ra lệnh CBA không được đưa tin đó.
Nếu may mắn, bà nghĩ, độ đầu tuần sau, những nhận xét bất lợi sẽ
không c̣n nhằm vào bà nữa, mà sẽ đổ hết lên đầu Fossie.
Hay! Cách đó rất hay.
Trong lúc suy nghẫm, bà có chợt nghĩ tới Harry Partridge. Liệu
có nên để anh ta trở lại hăng không? Rồi bà quyết định là không
nên. Làm như thế chỉ thêm rách chuyện, và Partridge cũng không
phải nhân vật quan trọng, v́ vậy nên giữ nguyên quyết định cũ.
Vả lại, Theo vẫn cứ muốn thứ hai tới sẽ gọi điện cho tổng thống
Peru Castaneda để nói rằng cái thằng phá thối ấy, như từ ông
dùng, đă bị đuổi việc và tống khỏi Peru.
Tin vào chiến lược của bà sẽ có kết quả, bà mỉm cười cầm máy và
quay số điện thoại nhà riêng của Theo Elliott không ghi trong
danh bạ.
o0o
Oswaldo Zileri, phi công kiêm chủ hăng Aerolibertad đă biết
tiếng Crawford Sloane, nên tỏ ra rất kính tọng.
“Thưa ông Sloane khi các bạn ông thuê máy bay, tôi nói tôi không
muốn biết họ thuê làm ǵ. Từ lúc gặp ông ở đây, tôi đă có thể
đoán ra, và tôi xin chúc ông và các bạn ông vạn sự tốt lành”.
“Cảm ơn ông”, Sloane nói. Anh và Rita đang ở trong văn pḥng nhỏ
của Zileri gần sân bay Lima. “Sáng nay, khi ông chia tay
Partridge và mấy người kia, ông thấy mọi việc thế nào?”.
Zileri nhún vai. “Rừng th́ lúc nào chẳng như lúc nào. Xanh biếc,
dày đặc, vô tận. Không thấy ǵ ngoài mấy người bạn của ông”.
Rita bảo Zileri. “Khi nói là có thêm hành khách khi trở về,
chúng tôi hy vọng là có ba người. Nhưng bây giờ chỉ c̣n hai”.
“Tôi có nghe tin buồn về cái chết của cụ thân sinh ông Sloane”.
Người phi công lắc đầu. “Chúng ta đang sống trong thời đại dă
man”.
Sloane lại nói: “Tôi đang tự hỏi liệu bây giờ…” Zileri nói nốt
câu giùm anh: “Có chỗ cho ông cô Abrams trong một, hai chuyến
hoặc hơn, để đón mọi người về không”.
“Vâng, đúng thế”.
“Được thôi. V́ một khách thêm là trẻ em, lại không có đồ đạc ǵ,
nên trọng lượng không thành vấn đề. Ngày mai trước khi trời
sáng, và ngày kia, các vị đến đây rồi chúng ta đi”.
“Chúng tôi sẽ tới”. Rita trả lời. Cô quay sang nói với Sloane.
“Harry không lạc quan về chuyện có thể đón được ngay ngày đầu
sau khi đến. Chuyến bay tới chỉ là dự pḥng, trong trường hợp họ
cần đến nó. Ngay từ đầu, anh ấy đă nghĩ có nhiều khả năng là
ngày thứ hai”.
o0o
Có một việc nữa Ria cảm thấy phải làm. Không cho Crawford biết,
cô thảo một bức điện gửi bằng fax cho Leslie Chippingham để sáng
thứ hai đă có sẵn cho ông ta đọc. Cô cố ư không gửi về máy fax ở
văn pḥng chủ tịch ban tin, mà về máy ở pḥng Vành móng ngựa. Ở
đó, nó sẽ không c̣n là điện riêng, và ai cũng có thể đọc được,
hệt như cách thư của Chippingham buộc Harry Partridge thôi việc
được gửi tới Entel Peru.
Rita ghi địa chỉ gửi:
L.W. Chippingham
Chủ tịch Ban tin CBA.
Sao chụp dán các bảng thông báo.
Cô đâu có ảo tưởng những ǵ cô viết sẽ được dán lên bảng. Không
có chuyện đó. Nhưng đó là một tín hiệu mà các chủ nhiệm khác ở
Vành móng ngựa sẽ hiểu là cô muốn nhiều người biết nội dung. Ai
đó sẽ sao lại một hoặc nhiều bản, chuyền cho nhau đọc và có lẽ
sẽ sao thành nhiều bản nữa.
Bức điện viết:
“Đồ chó đẻ đê tiện, ích kỷ, hèn nhát!
Đuổi việc Harry theo lối anh làm – không có lư do, không hề báo
trước và thậm chí không một lời giải thích – chỉ để thoả măn bạn
chí thân của anh, con mụ Lloyd Mason lạnh như băng ấy – là phản
bội tất cả những ǵ là công bằng và đúng đắn vốn có ở CBA. Harry
sẽ qua khỏi chuyện này, thơm nức như nước hoa Chanel 5. C̣n anh
đă hôi thối như loại chuột cống rồi.
Làm sao tôi lại có thể thường xuyên ngủ với anh là điều tôi
không hiểu nổi. Nhưng không bao giờ có chuyện ấy nữa. Dù anh là
người duy nhất mà c… c̣n cứng trên đời này đi chăng nữa, tôi
cũng không muốn có nó bên cạnh.
Tiếp tục làm việc dướic quyền anh ư? Không đâu, tởm lắm!
Thật đáng buồn khi so con người anh ngày trước, với cái kẻ là
anh bây giờ.
Bạn cũ, người ngưỡng mộ cũ, người t́nh cũ, chủ nghiệm cũ của
anh.
Rita Abrams”.
Rơ ràng, Rita nghĩ, sau khi New York… nhận được và đọc điện này,
Harry sẽ không phải là người duy nhát phải t́m nơi làm mới. Song
cô không sợ. Nh́n máy fax ở Entel chuyển bức điện đi, cô cảm
thấy thanh thản hơn nhiều, biết rằng chỉ một phút sau nó đă ở
New York.
Chương 16
Lúc này là hai giờ mười phút sáng ở Nueva
Esperanza.
Suốt mấy giờ, Jessica nằm thao thức, giấc ngủ chập chờn, đôi lúc
nằm mơ, những giấc mơ trở thành cơn ác mộng hoà trộn với thực
tế.
Mấy phút trước, lúc c̣n tỉnh ngủ, Jessica nh́n qua chỗ đục làm
cửa sổ đối diện cũi giam của nàg. Trong ánh đèn lờ mờ từ trong
lọt ra, nàng cảm thấy như nh́n thấy khuôn mặt Harry Partridge.
Rồi khuôn mặt ấy biến mất đột ngột như khi nó xuất hiện. Nàng
ngủ hay thức? Hay nàng lại đang mơ? Có thể là ảo giác chăng?
Nàng lúc lắc đầu cho tỉnh táo, th́ lại thấy khuôn mặt ấy xuất
hiện, từ từ nhô lên trên mép lưới cửa sổ, rồi dừng lại. Một bàn
tay ra hiệu ǵ đó mà nàng không hiểu, nhưng nàng nh́n kỹ khuôn
mặt ấy. Chả lẽ là đúng? Tim đập mạnh khi nàng cả quyết: Đúng
rồi, chắc chắn là Harry Partridge.
Mồm anh mấp máy không thành tiếng, môi uốn theo từng từ, cố làm
nàng hiểu. Nàng tập trung tư tưởng, cố xem anh nói ǵ, và nhận
ra được hai tiếng “thằng gác”. À, đúng rồi: “Thằng gác đâu?”.
Thằng gác lúc này là Vicente. Hắn đến thay gác cách đây một
tiếng, rơ ràng là rất muộn, nên hắn và Ramon là tay gác phiên
trước căi nhau kịch liệt. Ramon quát tháo giận dữ. Vicente vặc
lại, nghe có vẻ say v́ hắn nói hơi líu lưỡi. Jessica không để ư
chuyện chúng căi nhau, bao giờ nàng cũng mừng khi hết phiên gác
của Ramon. Thằng này tính t́nh độc ác, hành động không lường
trước được và luôn bắt tù nhân phải tuân thủ lệnh cấm nói
chuyện, điều mà đến lúc này những tên khác đều bỏ qua.
Ngoảnh lại, Jessica có thể nh́n thấy Vicente. Hắn đang ngồi trên
chiếc ghế bọn gác vẫn ngồi, cách xa chỗ giam và khuất góc cửa
sổ. Nàng không rơ hắn đang ngủ hay thức, song mắt hắn h́nh như
đang nhắm, khẩu súng trường dựa vào tường ngay cạnh người. Gần
đó là ngọn đèn dầu treo trên xà, và chính nhờ ánh sáng của nó
hắt ra, nên nàng nh́n thấy khuôn mặt ở bên ngoài.
Cẩn thận đề pḥng Vicente đột nhiên nh́n thấy, Jessica trả lời
câu hỏi thầm ấy, bằng cách hất hàm về phía hắn ngồi.
Lập tức ngoài cửa sổ - Jessica vẫn không dám chắc đó là Harry
Partridge, lại bắt đầu nói. Nàng lại phải căng óc ra đoán. Đến
lần thứ ba th́ nàng hiểu câu đó là: “Gọi hắn!”.
Jessica khẽ gật đầu, ra ư đă hiểu. Tim nàng đập rộn lên khi thấy
Harry. Như vậy là việc được giải thoát mà họ hằng mong đợi cuối
cùng đă tới. Đồng thời nàng cũng hiểu hoàn thành những ǵ vừa
bắt đầu không phải là việc dễ dàng.
“Vicente!”. Nàng nghĩ không cần phải gọi to lắm, nhưng nó không
đủ để hắn nghe thấy v́ đang ngủ. Nàng lại gọi to hơn:
“Vicente!”.
Lần này hắn cựa ḿnh, mở mắt nh́n nàng. Thấy vậy, Jessica vẫy
hắn lại.
Vicente vặn người trên ghế, rồi đứng dậy. Nh́n hắn, nàng có cảm
tưởng hắn đang định thần, cố cho tỉnh cơn say. Hắn đứng một lát,
bắt đầu đi về phía nàng, sau đó lại vội vàng quay lại lấy khẩu
súng. Nàng nhận thấy hắn cầm súng trong tư thế sẵn sàng nếu cần.
Cần phải có lư do tại sao gọi hắn, nàng nghĩ, và quyết định sẽ
ra hiệu hỏi xem có thể sang chỗ Nicky được không. Tất nhiên hắn
sẽ từ chối yêu cầu đó, song lúc này điều đó không quan trọng.
Nàng không biết Harry định làm ǵ. Mặc dù lo lắng và căng thẳng,
nàng cũng biết đây là giây phút mà nàng mơ ước, nhưng đă lo sợ
sẽ không bao giờ tới.
o0o
Nép người dưới cửa sổ, Partridge nắm chặt khẩu Browning chín li,
ṇng lắp ống giảm thanh. Tối nay, cho đến lúc này, mọi việc đều
theo đúng kế hoạch, song anh biết sắp tới mới là phần việc khó
khăn và quan trọng nhất.
Chỉ trong một vài giây, không thể có nhiều cách lựa chọn và chọn
cái nào anh phải quyết định trong khoảnh khắc. Trong t́nh huống
này, anh có thể dùng súng khống chế tên gác, sau đó trói lại,
nhét giẻ vào mồm trước khi rút đi, hoặc mang hắn theo làm con
tin. Song cực chẳng đă mới phải chọn cách thứ hai. Cách thứ ba
giết hắn, nhưng đó là điều anh mong sẽ không phải làm.
Anh cũng gặp thuận lợi: Jessica là người tháo vát, nghĩ nhanh và
hiểu nhanh, đúng như điều anh c̣n nhớ về nàng.
Anh nghe nàng gọi hai lần, rồi nghe những tiếng động nhẹ ở góc
xa và tiếng chân thằng gác đang tới gần. Partridge nín thở, sẵn
sàng nhoài người xuống đất nếu như hắn nh́n về phía hướng cửa
sổ. Nhưng không, hắn nh́n về phía Jessica, lưng quay ra chỗ
Partridge. V́ thế anh có thêm được một giây ước lượng t́nh h́nh.
Điều anh thấy trước tiên là thằng gác cầm khẩu súng trường tự
động Kalashnikov, loại vũ khí anh biết rất rơ, và trông cách cầm
súng, có thể thấy hắn biết cách sử dụng. So với khẩu
Kalashnikov, khẩu Browning của anh chỉ là thứ đồ chơi của trẻ
con.
Không thể c̣n cách khác; Partridge phải giết tên gác và phải bất
ngờ nổ súng trước. Nhưng cái khó là c̣n Jessica. Lúc này nàng
đứng ở vị trí tạo thành đường thẳng với tên gác. Bắn hắn, đạn có
thể xuyên qua Jessica.
Partridge đành phải liều. Không c̣n cơ hội nào nữa và cũng không
c̣n cách lựa chọn nào khác. Đành phải tin vào khả năng suy đoán
nhanh và hành động tức th́ của nàng vậy.
Hít một hơi dài, Partridge gọi to và rơ ràng: “Jessica nhào
xuống đất ngay!”.
Tên gác quay ngoắt lại, ṇng súng ghếch lên, chốt an toàn đă mở.
Nhưng Partridge đă nâng súng bắn. Một giây trước đó, anh nhớ lại
lời khuyên của huấn luyện viên bắn súng, người đă dạy anh cách
sử dụng vũ khí: “Nếu anh muốn bắn chết, đừng có ngắm vào đầu. Dù
anh siết c̣ nhẹ mấy đi nữa, vẫn có khả năng là mũi súng hếch
lên, viên đạn sẽ đi cao phía trên đầu. V́ vậy, nếu nhắm thẳng
vào tim, hoặc thấp hơn một chút. Như vậy, dù viên đạn ghim vào
phía trên trái tim đi nữa, khả năng sát thương vẫn rất lớn, có
lẽ giết chết kẻ địch; và nếu hắn chưa chết, anh c̣n có thời gian
bắn phát thứ hai”.
Partridge siết c̣; chỉ nghe khẩu Browning kêu “phựt” một tiếng
rất nhỏ. Mặc dù đă từng sử dụng súng có giảm thanh, tiếng nổ rất
nhỏ ấy bao giờ cũng làm anh ngạc nhiên. Anh nh́n mục tiêu trước
mắt, sẵn sàng bắn phát thứ hai, nhưng thấy không cần thiết. Viên
đạn găm đúng vào tim và máu bắt đầu chảy ra. Hắn thoáng vẻ ngạc
nhiên, sau đó ngă gục, khẩu súng rơi xuống tạo nên tiếng động.
Ngay khi siết c̣, Partridge đă thấy Jessica tức khắc làm theo
lệnh của anh, nhào người xuống đất. Anh thở phào nhẹ nhỏm, thầm
cám ơn nàng. Lúc này nàng đang lồm cồm ḅ dậy.
Anh vừa quay về phía cửa ra vào, th́ một bóng người đă vụt chạy
vào. Đó là Minh Văn Cảnh. Anh đă ở đúng vị trí phía sau
Partridge như được lệnh, song bây giờ đảo vị trí, Minh nhanh
chóng tới gần tên gác, khẩu UZI sẵn sàng nhả đạn, rồi gật đầu
với Partridge lúc ấy vừa vào, xác nhận là hắn đă chết. Sau đó
Minh tới bên cũi giam Jessica, xem xét chiếc khoá của cũi rồi
hỏi: “Ch́a khoá đâu?”.
Jessica bảo anh: “Ở phia trên chỗ thằng gác ngồi. Cả ch́a khoá
cũi Nicky nữa!”.
Ở cũi bên cạnh, Nicky cũng vừa tỉnh. Nó vội vàng ngồi dậy hỏi:
“Chuyện ǵ thế mẹ?”.
Jessica nói cho nó an ḷng: “Chuyện tốt cả, con ạ”.
Nicky nh́n người mới đến: Partridge lại gần, tay cầm khẩu
Kalashnikov anh vừa nhặt lên, c̣n Minh đang lấy chùm ch́a khoá
móc trên chiếc đinh. “Họ là ai thế, hả mẹ?”.
“Những người bạn con ạ. Những người bạn rất tốt”.
Tuy c̣n ngái ngũ, mặt Nicky sáng lên. Sau đó nó nh́n cái xác bất
động nằm trong vũng máu trên nền nhà, và mếu máo nói: “Đó là
Vicente! Họ bắn chết Vicente? Tại sao?”.
“Im nào, Nicky”, Jessica đe.
Partridge trả lời, giọng rất nhỏ: “Chú không muốn làm việc ấy,
Nicholas ạ. Nhưng hắn định bắn chú. Nếu hắn bắn, chú sẽ không
thể đưa mẹ và chú ra khỏi đây được. Mà các chú đến đây là v́
việc ấy”.
Nicky vừa chợt nhận ra, hỏi: “Chú là Partridge phải không?”.
“Đúng thế”.
Jessica nói, giọng cảm động: “Ôi, Chúa phù hộ cho anh, Harry,
Harry thân yêu!”.
Vẫn với giọng rất nhỏ, Partridge bảo: “Chúng ta vẫn chưa thoát
khỏi chỗ này, c̣n nhiều việc phải làm. Mọi người phải nhanh
lên”.
Minh Văn Cảnh cầm chùm ch́a khoá, tra từng chiếc vào ổ khoá cũi
giam Jessica. Khoá đột nhiên mở ra. Lát sau, cửa cũi giam mở
toang và Jessica bước ra ngoài. Minh đến bên cũi Nicky, thử từng
ch́a một. Vài giây sau, Nicky cũng bước ra. Hai mẹ con ôm chầm
lấy nhau ngay chỗ giữa cũi giam và cửa ra vào.
“Giúp tôi một tay”, Partridge bảo Minh. Anh đang kéo xác tên gác
về phía cũi Nicky và hai người nhấc đặt lên chiếc giường gỗ
thấp. Làm vậy cũng không giấu được việc tù nhân trốn, anh nghĩ,
nhưng nó sẽ làm việc phát hiện chậm lại một chút. Cũng v́ thế;
anh vặn ngọn đèn dầu cho đến khi nó chỉ c̣n là một chấm sáng
nhỏ; buồng giam lập tức tối om.
Nicky buông Jessica và đến bên Partridge. Bằng giọng đều đều, nó
nói với vẻ nghiêm trang: “Chú giết Vicente cũng không sao đâu,
chú Partridge ạ. Thỉnh thoảng hắn cũng giúp đỡ mẹ con cháu,
nhưng hắn vẫn là một tên trong bọn chúng. Chúng đă giết ông
cháu, chặt đứt hai ngón tay cháu, v́ vậy cháu không c̣n chơi
piano được nữa”. Vừa nói, nó vừa giơ bàn tay c̣n đang băng.
“Gọi chú là Harry”, Partridge bảo. “Có, chú có biết chuyện chúng
giết ông và chặt ngón tay cháu. Và chú hết sức đau ḷng”.
Cậu bé nói, đặc giọng người lớn: “Chú có biết Hội chứng
Stockholm không, chú Harry? Mẹ cháu biết đấy. Nếu chú thích, mẹ
cháu sẽ kể chú nghe”.
Partridge không trả lời, trố mắt nh́n Nicky. Trước đây, anh đă
từng gặp những người trong cơn choáng váng v́ phải trải qua
những nguy hiểm và tai ương quá sức chịu đựng của họ; giọng nói
và cách chọn từ của cậu bé trong mấy phút vừa rồi biểu hiện
triệu chứng bị choáng. Nó cần phải được giúp đỡ sớm. C̣n lúc
này, anh chỉ có thể vươn người, dang tay ôm ngang vai cậu bé.
Anh cảm thấy cậu bé đáp lại cử chỉ đó bằng cách nép sát vào anh.
Partridge thấy Jessica đang nh́n, nét mặt đầy vẻ lo lắng như
anh. Nàng cũng ước giá thằng gác là đứa khác, chứ không phải
Vicente. Nếu đó là Ramon, nàng đă chẳng hề bận tâm. Thế nhưng
nàng cũng ngạc nhiên trước cử chỉ và lời nói của Nicky.
Partridge lắc đầu, cố làm Jessica an ḷng, đồng thời ra lệnh:
“Chúng ta đi thôi”.
Anh cầm khẩu Kalashnikov, đây là loại vũ khí tấn công tốt nhất
và có thể phải dùng đến nó. Anh cũng đút túi hai băng đạn mà anh
lục được trên người thằng gác bị giết.
Minh ở phía trước, gần cửa ra vào. Anh đă lấy máy ra, lúc này
đang ghi lại cảnh họ rút, đằng sau là những chiếc cũi giam.
Partridge thấy Minh đang dùng loại ống kính quay đêm đặc biệt –
ống kính hồng ngoại không dùng được cho băng video và v́ vậy, dù
ánh sáng rất yếu như bây giờ, anh vẫn có được những bức ảnh rơ.
Từ hôm qua, Minh vẫn quay h́nh, nhưng ít và có chọn lọc, v́ số
băng anh mang theo cũng tương đối hạn chế.
Đúng lúc đó, Fernandez được phân công theo dơi các nhà khác chạy
bổ vào. Anh hổn hển nói với Partridge. “Một phụ nữ đang đến. Đi
một ḿnh. Tôi nghĩ nó có súng”. Anh vừa nói xong đă nghe tiếng
bước chân đang tới gần.
Không c̣n thời gian để phân công hoặc bố trí chỗ nấp nữa. Mọi
người đứng sững người. Jessica ở gần cửa, nhưng lệch quá sang
một bên. Minh đứng ngay giữa cửa, những người khác ở sâu phía
trong, khuất trong bóng tối. Partridge nâng khẩu Kalasknikov
lên. Mặc dù biết tiếng súng sẽ đánh thức cả làng dậy, song nếu
muốn dùng khẩu Browning có ống giảm thanh anh sẽ phải để khẩu
súng trường xuống mới lấy được. Không c̣n thời gian làm điều đó.
Soccorro vội vă bước vào. Ả mặc váy ngủ, tay cầm khẩu úng lục
Smith và Washe đă lên đạn. Jessica từng thấy Soccorro mang súng
nhưng để trong bao, chứ chưa bao giờ cầm ở tay.
Tuy cầm súng, Soccorro có vẻ không nghĩ tới chuyện ǵ khác
thường xảy ra, và lúc đầu, v́ trong nhà tối đen, ả tưởng lầm
Minh đang đứng gần ả nhất là thằng gác. Ả bảo: “Pense que
oscuche…” (1) rồi ả nhận ra đó không phải là tên gác và quay
sang trái ả thấy Jessica. Giật ḿnh, ả hét: “Que haces…”(2) rồi
câm bặt.
Sự việc tiếp theo diễn biến quá nhanh, đến nỗi sau này không ai
có thể tả được đầy đủ.
Soccorro giương súng, ngón tay đặt sẵn trên c̣, bước rất nhanh
lại gần Jessica. Sau đó, h́nh như ả định bắt Jessica làm con tin
bằng cách gí họng súng vào đầu nàng.
Jessica thấy được điều đó, và cũng nhanh không kém, nhớ lại
thuật cận chiến mà nàng đă học nhưng chưa có dịp sử dụng từ khi
bị bắt đến giờ. Mặc dù đă nhiều lúc nàng bị thôi thúc áp dụng
nó, nhưng biết rằng về lâu dài cũng chẳng giải quyết được ǵ.
Nên quyết định để dành cho đến lúc thật sự cần thiết.
“Khi đối thủ tiến lại gần”, tướng Wade nhấn mạnh trong các bài
giảng và bài thị phạm, “phản xạ tự nhiên của ta là lùi lại. Đối
thủ cũng chỉ chờ có vậy. Đừng làm như thế, mà hăy làm hắn bất
ngờ bằng cách bước lên, vào thật gần”.
Nhanh như chớp, Jessica nhảy bổ vào Soccorro tay trái giơ cao,
lên gân rất chắc và chém mạnh vào tay phải của ả. Hai tay chạm
nhau, tay Soccorro bất giác bật lên, ả cố gắng gh́m tay xuống và
theo phản xạ, ngón tay rời ra, khẩu súng rơi xuống đất. Toàn bộ
sự việc diễn ra không đầy một giây. Soccorro hầu như không kịp
biết chuyện ǵ cảy ra.
Jessica không dừng lại, mà dùng hai ngón tay móc mạnh vào họng
Soccorro, bóp chặt khí quản không cho ả thở. Đồng thời Jessica
áp sát chân phải vào sau Soccorro xô ả ngă ngửa về phía sau. Sau
đó, nàng lật úp ả xuống, ṿng tay khoá chặt cổ làm ả không thể
cựa quậy được. Nếu là trong chiến tranh, theo đúng bài bản của
cận chiến, bước tiếp theo sẽ là bẻ găy cổ, giết chết Soccorro.
Jessica do dự, v́ nàng chưa giết ai bao giờ, và cũng chẳng muốn
giết người. Nàng cảm thấy Soccorro có vẻ muốn nói điều ǵ, nên
nới bớt hai ngón tay đang bóp họng ả.
Soccorro thở dốc, cầu xin: “Tha cho tôi… Tôi sẽ giúp bà… cùng
trốn với các ông, các bà… tôi biết đường”.
Partridge đă lại gần nên nghe rơ. Anh hỏi: “Có thể tin ả được
không?”.
Jessica lại lưỡng lự. Nàng thoáng thấy thương hại. Soccorro
không phải hoàn toàn xấu. Ngay từ đầu, nàng có cảm giác thời
gian làm hộ lư ở Mỹ đă làm con người ả tốt lên. Ả đă săn sóc
Nicky sau khi nó bị đốt bỏng và sau này khi ngón tay nó bi chặt.
Rồi c̣n việc Soccorro ném vào trong thuyền thanh sôcôla lúc cả
ba người đang đói. Soccorro đă làm nơi họ bị giam khá hơn, khi
cho đục cửa sổ trên tường… bất chấp lệnh của Miguel, ả đă cho
nàng sang với Nicky…
Nhưng Soccorro cũng chính là đứa đă tham gia vào vụ bắt cóc ngay
từ đầu, và cũng chính ả, khi Nicky sắp bị chặt ngón tay, đă nhẫn
tâm quát: “Câm mồm! Mày không thể ngăn được điều sắp xảy ra
đâu!”.
Và rồi Jessica c̣n như nghe thấy lời Nicky nói mới cách đây vài
phút: “chú giết Vicente cũng không sao đâu, chú Harry ạ… Đôi khi
hắn cũng giúp đỡ mẹ con cháu, nhưng hắn là một tên trong bọn
chúng… chú có biết Hội chứng Stockholm không? … Mẹ cháu biết
đấy…”. Hăy cẩn thận với Hội chứng Stockholm.
Jessica trả lời câu hỏi của Harry. Nàng lắc đầu, nói với anh
“Không”.
Mắt họ gặp nhau. Harry vẫn c̣n kinh ngạc trước tài nghệ đánh
nhau bằng tay không của Jessica. Anh tự hỏi nàng học cái đó ở
đâu, và để làm ǵ. Nhưng vào lúc này, điều đó không quan trọng.
Cái quan trọng là nàng đă đạt tới điểm quyết định và mắt nàng
như hỏi ư kiến anh. Anh khẽ gật đầu. Rồi v́ không muốn chứng
kiến việc sắp xảy ra, anh quay mặt đi.
Người run vầm cập, Jessica siết chặt tay bẻ cổ Soccorro rồi vặn
mạnh đầu ả cho găy ĺa xương sống. Chỉ nghe một tiếng khô khốc
rất nhỏ rồi toàn thân ả mềm nhũn. Nàng buông xác ả xuống đất.
o0o
Partridge đi đầu, Jessica, Nicky, Minh và Fernandez lặng lẽ theo
sau, cả nhóm vượt qua làng đang ch́m trong bóng tối, không gặp
một ai.
Tới bên sông, Ken O’Hara bảo: “Tôi cứ nghĩ các anh sẽ không bao
giờ ra được đến đây”.
“Chúng tôi gặp sự cố”, Partridge bảo anh. “Ta đi nhanh lên.
Thuyền nào đấy?”.
“Thuyền này”. Đó là một chiếc xuồng gỗ không mui dài khoảng ba
mươi phít, có hai động cơ gắn phía sau. Hai dây neo chặt nó vào
bờ. “Tôi lấy thêm dầu ở các thuyền khác”. O’Hara nói, chỉ vào
mấy can nhựa để gần đằng đuôi.
“Tất cả lên xuồng”, Partridge hạ lệnh.
Trước đó, mặt trăng gần tṛn khuất trong mây, nhưng trong mấy
phút vừa qua, mây đă trôi đi. Lúc này, mọi người đều trông rơ
hơn, nhất là trên mặt nước.
Fernandez giúp Jessica và Nicky trèo vào xuồng. Jessica cảm thấy
buồn nôn, người run bần bật, hậu quả của việc giết Soccorro mấy
phút trước đó. Minh đứng trên bến quay h́nh, là người cuối cùng
nhảy vào xuồng, trong khi O’Hara tháo dây và dùng chèo đẩy
thuyền ra xa bờ. Fernandez cầm mái chèo thứ hai, cùng O’Hara bơi
xuồng ra giữa sông.
Nh́n xung quanh, Partridge nhận thấy O’Hara đă sử dụng thời gian
chờ đợi một cách có hiệu quả. Một số thuyền bị d́m xuống nước ở
gần bờ, những chiếc khác trôi giạt mỗi chiếc một nơi.
“Tôi đă tháo bugi”, O’Hara chỉ mấy chiếc thuyền ở gần. “Chúng có
thể vớt thuyền lên, nhưng cũng mất thời gian. Tôi c̣n quăng mấy
mô tơ xuống sông”. “Khá lắm, Ken ạ!”. Quyết định để O’Hara đi
cùng, Partridge nghĩ, đă nhiều lần cho thấy là đúng.
Chiếc xuồng họ đang đi không có ghế ngồi, giống như thuyền mà
Jessica, Nicky và Angus đă đi lúc trước, “hành khách” ngồi trên
những tám ván bắc ngang ḷng xuồng. Hai người chèo xuống ngồi ở
phía đối diện, cố hết sức đưa xuồng ra giữa sông. Khi Nueva
Esperanza mờ dần trong ánh trăng, ḍng nước siết đă đưa xuồng
trôi xuôi.
Lúc xuồng rời bến, Partridge nh́n đồng hồ: hai giờ ba mươi lăm
phút sáng. Đến hai giờ năm mươi phút, khi xuồng trôi dọc sông
theo hướng tây bắc, anh bảo Ken O’Hara nổ máy.
O’Hara mở van thông gió ở b́nh xăng phía bên trái xuồng, điều
chỉnh dây le, bơm hơi đầy b́nh cao su h́nh tṛn, và giật mạnh
dây kéo bánh đà. Máy nổ ngay lập tức. Anh đưa máy về không tải,
sau đó tiếp tục cho nổ máy thứ hai. Anh gài số cả hai máy và
chiếc xuồng vọt đi.
Trời trong xanh. Ánh trăng sáng phản chiếu trên mặt nước, nên
việc lái xuồng trên ḍng sông khúc khuỷu tương đối dễ dàng.
Fernandez hỏi: “Anh đă quyết định tới chỗ máy bay đỗ chưa?”.
Partridge cân nhắc, h́nh dung ra tấm bản đồ tỷ lệ lớn của
Fernandez mà cho tới lúc này, anh hầu như đă thuộc lầu.
Trước hết, việc chọn rút theo đường sông không cho phép anh tới
được điểm đỗ trên đường khi trước. Chỉ c̣n lại điểm đỗ mà bọn
buôn ma tuư thường dùng, ở vào quăng giữa, đi mất khoảng một giờ
rưỡi, hoặc dải đất Sion ở xa hơn, đi mất ba giờ bằng đường sông,
cộng với đoạn cuốc bộ qua rừng dài chừng ba dặm, một công việc
họ đă biết là rất khó khăn.
Để tới được Sion vào lúc tám giờ sáng, là lúc chiếc Cheyenne của
hăng Aerolibertad đến nơi, họ chỉ có thể đến được sát giờ. Mặt
khác, nếu đi đến chỗ đậu ở quăng giữa, họ có thể sớm được vài
giờ, song nếu bọn chúng đuổi kịp, họ sẽ phải nổ súng, mà với số
người và súng đạn ít hơn, chắc chắn họ sẽ thua.
V́ vậy con đường tốt nhất và khôn ngoan nhất có vể vẫn là vượt
quăng đường xa nhất từ Nueva Esperanza đến chỗ máy bay đậu.
“Chúng ta tới Sion”, Partridge bảo những người trên xuồng. “Sau
khi rời xuồng lên bờ, chúng ta sẽ phải gắng vượt rừng thật
nhanh; v́ vậy mọi người hăy tranh thủ nghỉ ngơi”.
Thời gian trôi qua, Jessica trở lại b́nh tĩnh hơn, người nàng
không c̣n run bắn lên nữa; mồm không c̣n buồn nôn. Nhưng nàng
không tin có thể tĩnh trí được sau những việc nàng đă làm. Chắc
chắn lời cầu xin thầm th́, tuyệt vọng của Soccorro sẽ c̣n ám ảnh
nàng măi về sau.
Nhưng Nicky được an toàn, ít nhất cũng trong lúc này, và đó là
điều quan trọng nhất.
Nàng đă quan sát Nicky, thấy rằng từ khi họ rời lán giam, nó
luôn quấn quít bên cạnh Harry Partridge và chỉ cao ngang gối
anh. Cứ như Harry là cục nam châm mà Nicky t́m cách dính chặt
vào. Ngay cả bây giờ ở trên xuồng, nó cũng ngồi cạnh Harry rơ
ràng muốn nép sát vào anh và Harry có vẻ cũng muốn như vậy. Thực
ra trước đó, Harry đă quàng tay qua vai Nicky và lúc này hai
người như hoà làm một.
Jessica thấy thích điều đó. Rơ ràng, trong suy nghĩ của Nicky,
nàng nghĩ, Harry với vẻ như bây giờ, chính là người khác hẳn bọn
xấu đă gây nên những nỗi kinh hoàng mà họ phải trải qua –
Miguel, Baudelio, Gustave, Ramon… những đứa đă biết và chưa
biết… đúng, cả Vicente và Soccorro nữa.
Nhưng c̣n hơn thế nữa. Nó chứng tỏ bản năng nh́n nhận con người
của Nicky bao giờ cũng chính xác. Nàng đă từng yêu Harry, bây
giờ cũng vẫn thế, nhất là khi ḷng biết ơn và t́nh yêu quyện
chặt vào nhau. V́ vậy, không có ǵ lạ khi con nàng theo bản năng
cũng có chung t́nh cảm ấy.
Nicky h́nh như đang ngủ. Gỡ nhẹ tay ra, Partridge đến ngồi cạnh
nàng. Thấy thế, Fernandez đổi chỗ ngồi qua phía bên kia để giữ
cho xuồng thăng bằng.
Partridge cũng đang nhớ lại thời xua, cái thuở anh và Jessica đă
sống v́ nhau. Và ngay cả trong phút giây ngắn ngủi này, anh có
thể thấy nàng cơ bản vẫn không thay đổi. Những ǵ anh hằng
ngưỡng mộ ở nàng, suy nghĩ nhanh, cứng rắn, nồng hậu và tháo vát
một cách thông minh, vẫn c̣n nguyên đó. Partridge biết, nếu anh
ở lâu bên cạnh nàng, t́nh yêu ngày xưa của anh sẽ sống lại. Một
suy nghĩ táo tợn; có điều nó sẽ không xảy ra.
Nàng quay lại nh́n, có lẽ đang đọc những suy nghĩ của anh. Anh
nhớ lại những ngày xưa ấy, nàng vẫn thường làm được điều đó.
Anh hỏi: “Ở trong ấy, có bao giờ em mất hy vọng không?”.
“Cũng nhiều lúc gần như vậy, nhưng không bao giờ hoàn toàn”.
Jessica trả lời. Nàng cười, nói: “Tất nhiên, nếu em biết anh phụ
trách việc giải thoát cho mẹ con em, th́ sự thể lại khác chứ”.
“Bọn anh gồm nhiều người”, anh bảo nàng. “Crawf cũng ở trong
nhóm. Anh ấy phải chịu biết bao đau đớn, mà hai mẹ con em cũng
thế. Khi về đến nơi, hai vợ chồng em đều cần đến nhau”.
Anh cảm thấy nàng hiểu ư anh muốn nói: “Mặc dù anh trở lại đời
nàng trong chốc lát, nhưng rồi sẽ lại biến mất ngay”.
“Anh suy nghĩ thật tử tế, Harry ạ. Tới đây anh sẽ làm ǵ”.
Anh nhún vai: “Tiếp tục đưa tin. Đâu đó lại sẽ có một cuộc chiến
tranh. Bao giờ chả thế!”.
“Thế c̣n giữa hai cuộc chiến tranh?”.
Có những câu hỏi không có câu trả lời. Anh đổi chủ đề câu
chuyện: “Thằng Nicky của em tính rất hay, đúng như đứa con mà
anh muốn có”.
Lẽ ra đă là như vậy, Jessica nghĩ. Giữa hai đứa ḿnh, những năm
về trước.
Không muốn nhớ lại chuyện ấy, Partridge để ḿnh nghĩ đến Gemma
và đứa con trai chưa kịp ra đời.
Anh nghe Jessica thở dài bên anh: “Ôi Harry!”.
Họ im lặng, lắng nghe tiếng máy rung nhè nhẹ và tiếng nước rào
rào. Sau đó nàng đặt tay lên tay anh.
“Cám ơn anh, Harry”, nàng nói. “Cám ơn anh v́ tất cả những ǵ
anh đă làm, đang làm… anh, người yêu thương nhất của em”.
Chú thích:
(1) Tôi nghĩ rằng ḿnh đă nghe…
(2) Mày làm ǵ…?
Chương 17
Miguel bắn ba phát súng lên trời, phá tan
bầu im lặng. Hắn biết đó là cách báo động nhanh nhất.
Mới chỉ cách đây một phút, hắn phát hiện ra xác của Vincete và
Socorro và nhận ra bọn tù đă đi mất.
Lúc này là ba giờ mười lăm phút sáng, tức là đúng bốn mươi phút
kể từ lúc chiếc xuồng chở Fernandez, Jessica, Nicky, Minh,
O’Hara và Partridge rời bến; song Miguel không biết điều ấy.
Miguel lập tức nổi giận điên cuồng và lồng lên. Trong lán giam
tù, hắn vớ chiếc ghế của bọn gác và quật mạnh vào tường, chiếc
ghế vỡ tan. Lúc này hắn muốn quật túi bụi, chặt chân những đứa
đă để tù xổng mất.
Thât không may, hai đứa đă chết rồi. Và Miguel đau đớn nhận thấy
hắn cũng chịu một phần trách nhiệm.
Rơ ràng hắn đă lơ là trong việc giữ nghiêm kỷ luật. Bây giờ đă
quá muộn, hắn thấy rơ điều đó. Từ khi đến đây, đúng ra phải rất
chú ư canh pḥng th́ đôi khi hắn lại nghỉ xả hơi. Ban đêm, lẽ ra
hắn phải đích thân đốc thúc việc canh pḥng th́ hắn lại giao cho
những đứa khác.
Lư do v́ hắn mềm yếu, hắn phải ḷng Socorro. Hắn đă muốn ngủ với
ả từ khi c̣n ở ngôi nhà ở Hackensack, cả trước và sau vụ bắt
cóc. Ngay bây giờ, hắn vẫn c̣n nhớ cái thú dục tính rắng trợn
của ả lúc chúng rời nhà Hackensack. Với nụ cười nhạo báng, ả nói
với hắn về việc đút những ống nhỏ vào trong người tù trên đường
đi. “Đó là những ống trong dương vật đàn ông và âm hộ đàn bà,
Entiendes?”.
Có, hắn hiểu. Hắn cũng hiểu là ả đang chài hắn, giống như ả đă
chài những thằng khác ở Hackensack như cái đêm ả đột nhiên cặp
đôi với Carlos, cười nói ầm ỉ, làm Rafael là đứa bị cự tuyệt
điên người v́ ghen.
Nhưng lúc đó Miguel c̣n nhiều việc khác phải lo, những trách
nhiệm đ̣i hỏi hắn phải bận tâm suy nghĩ, nên hắn đă tự nghiêm
khắc với ḿnh trước ḷng thèm khát của hắn đối với Socorro.
Ở Nueva Esperanza không giống như vậy.
Hắn căm ghét rừng rậm, hắn nhớ lại cảm giác của hắn hôm đầu tiên
tới đây. Thêm vào đó, chẳng có việc ǵ làm. Ví dụ, hắn đă không
coi trọng khả năng có người đến cứu con tin. Nueva Esperanza,
nằm sâu trong lănh địa của Sendero, có vẻ hẻo lánh và an toàn.
V́ vậy, ngày cũng như đêm chậm chạp trôi qua, cho đến một hôm,
đáp lời năn nỉ của hắn, Socorro mở cửa cho hắn vào cái nơi mà
hắn nhanh chóng phát hiện ra là cơi cực lạc.
Từ đó, đêm nào cũng như đêm nào, đôi khi cả ban ngày, chúng làm
t́nh với nhau và ả tỏ ra là một người t́nh có nhiều ngón nghề
làm hắn thoả măn nhất từ trước đến nay. Cuối cùng, hắn sẵn ḷng
phục dịch ả và giống như kẻ nghiện đang đợi thuốc, hắn bỏ bê tất
cả các việc khác.
Bây giờ hắn đang phải trả giá cho thứ nghiện đó.
Đầu giờ tối nay, sau một cuộc truy hoan vô cùng măn nguyện, hắn
ngủ rất say. Rồi cách đấy khoảng hai mươi phút, hắn tỉnh dậy,
lại thèm muốn làm t́nh lần nữa, nên rất bực ḿnh khi thấy
Socorro đi đâu mất. Hắn nằm đợi ả một lúc khi không thấy ả quay
lại, hắn dậy đi t́m, xách theo khẩu súng lục Marakov mà hắn bao
giờ cũng mang theo bên người.
Những ǵ hắn vừa t́m thấy, giống như một cú đấm mạnh và hiểm,
đưa hắn trở về với thực tế phũ phàng. Miguel cay đắng nghĩ: Hắn
có thể sẽ phải trả gía cho việc này, có khả năng bằng sinh mạng
của hắn. Nếu Sendero Luminoso biết chuyện, nhất là nếu không t́m
được đám con tin. V́ vậy, trước hết phải bắt lại bọn chúng bằng
bất cứ giá nào!
Nghe súng nổ, những tên khác từ các nhà chạy về phía hắn.
Gustavo dẫn đầu. Miguel chửi rủa bọn chúng tới tấp: “Maldito
escoria, imbeciles inservibles! Por su estubidez… Nuca vigilar!
Solo dormir y tomar! Sin cuida!... Los presos de mỉeda se
écaparon!”. (1)
Chỉ mặt Gustavo, hắn rít lên: “Mày là đồ ăn hại dái nát! Chỉ huy
ǵ cái đồ mày, một con chó ghẻ c̣n khá hơn! Bọn người lạ đă tới
đây trong khi mày nằm ngủ! Mày lờ cho chúng qua, mày tiếp tay
cho chúng! Hăy t́m ngay xem bọn chúng từ đâu tới và chạy trốn
bằng cách nào. Nhất định phải có dấu vết!”.
Mấy giây sau, Gustavo quay lại, thông báo: “Bọn chúng đi bằng
đường sông. Một số thuyền trôi đâu mất, những chiếc khác bị đánh
ch́m”.
Miguel như phát khùng, vội vă ra ngay bến sông. Cảnh tàn phá mà
hắn thấy, dây neo thuyền bị cắt, thuyền máy không thấy đâu, mấy
chiếc khác bị ch́m chỗ nước nông, cũng đủ làm hắn tức sùi bọt
mép. Song hắn hiểu rằng, nếu hắn không b́nh tĩnh lại và kiềm
chế, sẽ không thể nào cứu văn được t́nh thế. Ḱm ḿnh lại, hắn
bắt đầu suy nghĩ môt cách khách quan.
Vẫn dùng tiếng Tây Ban Nha, hắn bảo Gustavo: “Hăy chọn cho tao
hai chiếc thuyền tốt nhất trong số c̣n lại, mỗi thuyền đủ hai
máy. Không phải trong mười phút, mà phải ngay bây giờ. Mọi người
đều phải làm, mà làm nhanh, nhanh, thật nhanh! Sau đó, tất cả
tập trung tại bến, mang đủ súng đạn và sẵn sàng xuất phát!”.
Cân nhắc các khả năng, hắn tin rằng những người vào cứu tù chắc
hẳn phải đi máy bay đến vùng này; đó là phương tiện chuyên chở
nhanh nhất, thực tế nhất. V́ vậy, họ cũng sẽ phải thoát ra bằng
máy bay, nhưng cho đến lúc này không có khả năng máy bay đă đi
rồi.
Ramon đă báo cáo Vincente đến thay gác cho hắn ngay sau một giờ
sáng, lúc đó mọi chuyện vẫn yên ổn, tù nhân vẫn bị khoá chặt
trong cũi giam. V́ thế, cho dù ngay sau đó chúng thoát ra đi
nữa, th́ nhiều nhất cũng chỉ mới đi được hai tiếng. Việc xác của
Socorro và Vicente khi chúng t́m thấy vẫn c̣n ấm càng xác nhận
thêm suy đoán của Miguel là bọn đột nhập mới đi chưa được hai
giờ.
Hắn tiếp tục lập luận: từ Nueva Esperanza nếu đi bằng đường sông
tới nơi hẹn máy bay, bọn kia sẽ phải chọn một trong hai đường
băng máy bay ở trong rừng. Chỗ gần hơn không có tên, chỉ có các
máy bay chở ma tuư mới sử dụng đến. Đường băng kia là Sion, xa
gấp đôi, là nơi ba tuần trước đó chiếc Learjet chở Miguel cùng
những tên khác và đám con tin đă đậu.
Sử dụng cái nào cũng đều có lư cả. Chính v́ thế Miguel quyết
định cử một thuyền đầy người mang súng tới nơi gần hơn, c̣n
chiếc thứ hai đến Sion. Miguel quyết định cùng đi với thuyền tới
Sion.
Trong lúc hắn đang c̣n suy nghĩ, ngoài bến mọi người đă khẩn
trương hoạt động. Hai thuyền nước ngập phân nửa được kéo vào gần
bờ và tát nước ra. Những người trong làng cũng tới giúp bọn
thuộc Sendero. Họ đều hiểu rằng, nếu bọn cầm đầu Sendero
Luminoso nổi giận với Nueva Esperanza, tổ chức này có thể giết
sạch cả làng mà không hề ân hận. Trước đây cũng đă có nhiều
trường hợp như vậy.
Dù đă làm gấp, nhưng đến khi khởi hành được cũng mất nhiều thời
gian hơn là Miguel mong muốn. Cuối cùng, lúc bốn giờ kém mấy
phút, cả hai thuyền đă khởi hành xuôi theo hướng tây bắc, cả hai
máy mở hết tốc lực. Thuyền của Miguel đi Sion chạy nhanh hơn
nhiều, vượt xa thuyền kia ngay khi vừa rời bến. Gustavo điều
khiển bánh lái.
Ngồi ôm khẩu tiểu liên Bereta dùng tăng cường cho khẩu Marakov,
Miguel lại thấy cơn giận trào lên. Hắn vẫn không hiểu ai là
người đă giải thoát hai tù nhân. Nhưng khi hắn đuổi kịp và bắt
lại được, mà hắn định phải bắt sống, chúng sẽ phải chịu đựng
những h́nh thức tra tấn từ từ, khủng khiếp.
Chú thích:
(1) Mất dạy, đồ ăn hại! V́ sự đần độn của mày… Không bao giờ chịu
canh gác! Chỉ ngủ và uống thôi… Không trông nom ǵ hết… bọn tù
nhân cứt đái đă trốn hết rồi…
Chương 18
Khi chiếc Cheynne II của hăng Aerolibertad
cất cánh từ sân bay Lima trong ánh rạng đông, Crawford Sloane
bỗng nhớ đến mấy câu thơ trước đây anh đă đọc:
Nếu tôi bay trên đôi cánh b́nh minh
Và đậu xuống nơi đại dương xa nhất.
Hôm qua, chủ nhật, họ đă bay trên đôi cánh b́nh minh thật, nhưng
không phải tới đại dương, mà vào sâu trong lục địa, song không
thu được kết quả ǵ. Hôm nay, họ lại một lần nữa bay về phía
rừng rậm.
Rita ngồi ở hàng ghế thứ hai, bên cạnh Sloane. Trước mặt họ là
phi công chính Oswaldo Zileri và người phụ lái c̣n trẻ tên là
Felipe Guerra.
Trong suốt chuyến bay ngày hôm trước kéo dài ba tiếng, máy bay
của họ đă qua cả ba điểm hẹn. Mặc dù trước khi đến điểm nào anh
đều được báo trước, Sloane vẫn khó phân biệt được đâu là đâu, v́
nh́n từ máy bay, rừng rậm ken dày như vô tận. “Giống như ở Việt
Nam, nhưng rậm rạp hơn”, anh bảo Rita.
Mỗi khi máy bay lượn trên điểm hẹn, cả bốn người đều nh́n kỹ bên
dưới xem có tín hiệu hoặc dấu hiệu hoạt động nào không, song
không thấy ǵ. Sloane rất hy vọng hôm nay sẽ khác.
Lúc trời sáng rơ, chiếc Cheyenne II bay trên đỉnh cao Andes
trong dăy Cordillera. Sau đó qua tới bên kia, họ hạ dần độ cao
về hướng rừng rậm và thung lũng thượng nguồn của sông Hualaga.
Chương 19
Partridge biết anh đă tính toán sai. Họ đă
bi chậm rất nhiều.
Cái anh không tính tới khi chọn Sion thay v́ chọn điểm hẹn gần
hơn là xuồng gặp sự cố. Việc đó xảy ra khoảng hai tiếng sau khi
rời Nueva Esperanza, tức là c̣n một tiếng nữa mới đến chỗ họ bỏ
thuyền lên bờ và bắt đầu đi bộ tới điểm đỗ máy bay.
Cả hai máy vẫn đang hoạt động b́nh thường tuy kêu hơi to, th́
bỗng chuông trong máy bên trái xuồng réo ầm lên, Ken O’Hara lập
tức giảm ga, về số không, và tắt máy. Chuông và máy đều im lặng.
Chiếc máy ở mạn phải vẫn tiếp tục hoạt động, nhưng lúc này xuồng
chạy chậm hẳn lại.
Partridge bước về phía cuối xuồng và hỏi O’Hara: “Sao thế? Liệu
có sửa được không?”.
“Tôi e rằng không”, O’Hara trả lời. Anh đă tháo nắp máy và đang
xem xét bên trong. “Máy nóng quá, v́ thế chuông báo. Nước làm
mát máy rất trong, chứng tỏ bơm đă hỏng. Cho dù tôi đủ dụng cụ
tháo rời máy ra, có thể vẫn cần phụ tùng thay thế. Mà chúng ta
không có cả hai thứ…”. Anh bỏ lửng không nói hết câu.
“Tức là chắc chắn không thể chữa được nữa?”.
O’Hara lắc đầu: “Rất tiếc là vậy, Harry ạ”.
“Nếu cứ cho chạy tiếp th́ sao?”.
“Máy sẽ hoạt động một thời gian ngắn, rồi lại bị nóng. Sau đó
máy quá nóng, pittong và xilanh chảy dính với nhau. Rồi chỉ c̣n
mỗi một việc là quẳng ra băi rác”.
“Cho chạy đi”, Partridge bảo. “Nếu không c̣n cách nào khác, cứ
chạy được chừng nào hay chừng ấy”. “Được thôi, anh là thuyền
trưởng mà”, O’Hara trả lời, mặc dù anh rất ghét làm hỏng chiếc
máy, mà giá ở hoàn cảnh khác vẫn chữa chạy được.
Đúng như O’Hara nói, máy hoạt động được vài phút, rồi chuông réo
ầm ĩ và có mùi khét lẹt. Sau đó nó ngừng và không sao khởi động
lại được nữa. Xuồng lại chậm lại và Partridge lo lắng nh́n đồng
hồ.
Anh có thể thấy tốc độ xuồng chỉ c̣n bằng nửa khi trước. Như vậy
quăng sông c̣n lại họ sẽ phải đi hết hai tiếng chứ không phải
một tiếng.
Thực tế phải mất tới hai giờ mười lăm phút, và lúc này đă là sáu
giờ năm mươi phút sáng; họ đă thấy chỗ bỏ xuồng lên bờ.
Partridge và Fernandez nhận ra nó trên tấm bản đồ tỷ lệ lớn,
đồng thời căn cứ vào dấu hiệu người trước để lại – ống bơ nước
ngọt và mảnh chai vỡ vứt đầy trên bờ. Bây giờ họ sẽ phải lết hết
đoạn đường rừng khó khăn tới đường băng Sion trong ṿng một
tiếng, ngắn hơn thời gian dự tính rất nhiều. Liệu họ có làm nổi
không?
“Chúng ta phải đến kịp”, Partridge nói, rồi giải thích cho
Jessica và Nicky biết. “Có thể sẽ rất mệt, nhưng không c̣n thời
gian nghỉ nữa, và nếu cần, chúng ta sẽ phải giúp nhau mà đi.
Fernandez sẽ đi trước, tôi đi sau cùng”.
Mấy phút sau, mũi xuồng sát trên cát và họ lội vào bờ. Ngay
trước mặt là một khoảng trống trong vùng rừng rậm dày đặc.
Giá có nhiều thời gian, Partridge có lẽ đă t́m cách giấu xuồng
đi, hoặc đẩy nó ra giữa sông cho trôi xuôi. C̣n bây giờ, nó đang
nằm ngay gần bờ.
Sau đó, sắp sửa vào rừng, Fernandez bỗng dừng lại, ra hiệu mọi
người im lặng. Anh nghiêng đầu, đứng nghe trong bầu không khí
ban mai yên tĩnh. Anh quen thuộc rừng hơn những người kia, anh
nghe rơ các loại âm thanh khác nhau. Anh hỏi nhỏ Partridge “Anh
nghe thấy không?”.
Lắng tai nge Partridge nghĩ anh nghe thấy tiếng ́ ầm đằng xa,
phía họ vừa đến, nhưng không biết là ǵ. Anh hỏi: “Tiếng ǵ thế
nhỉ?”.
“Một thuyền khác đang chạy”, Fernandez trả lời: “Cũng c̣n cách
khá xa, nhưng chạy rất nhanh”.
Không trù trừ, mọi người đi vào rừng.
o0o
Lối ṃn này không đến nỗi khó đi như con đường rừng từ điểm đậu
máy bay trên đường ô tô tới Nueva Esperanza mà Partridge và các
thành viên của nhóm đă đi trước đó ba ngày. Rơ ràng lối này có
nhiều người qua lại hơn, v́ cỏ chỉ hơi rậm một chút và không có
chỗ nào mất dấu như đường kia.
Thế nhưng qua được cũng không phải dễ. Mặt đất gồ ghề rễ trồi
lên, và ở những chỗ mềm mềm có thể bị thụt xuống bùn hoặc vũng
nước, rất khó nhấc chân.
“Nh́n cẩn thận rồi hăy bước”, Fernandez nhắc mọi người. Anh ta
đang đi phía trước, chân bước phăng phăng.
Partridge hoạ theo, cố làm bộ vui vẻ, phấn chấn: “Chúng tôi
không muốn phải cơng ai đâu nhé. Tôi đang toát hết cả mồ hôi!”.
Ai cũng đều thế cả. Cũng như lần họ tới đây, trong rừng nóng
ngột ngạt như nồi hầm và càng về trưa càng nóng hơn. Các loài
sâu bọ cũng hoạt động mạnh hơn.
Đầu óc Partridge luôn bận rộn với câu hỏi: Jessica và Nicky sẽ
chịu đựng chuyến đi vất vả này được bao lâu? Suy nghĩ một lát,
anh cho rằng Jessica có thể trụ được; nàng có quyết tâm và rơ
ràng là dẻo dai. Song Nicky có vẻ mệt lắm rồi.
Lúc đầu Nicky đi gần cuối, rơ ràng muốn ở gần Partridge như lúc
trước. Song anh cương quyết bảo nó và Jessica phải đi gần đầu
hàng, ngay sau Fernandez. “Để sau, Nicky ạ”, anh bảo. “C̣n bây
giờ chú muốn cháu đi gần mẹ”. Nicky nghe lời, với vẻ miễn cưỡng.
Nếu đúng là chiếc thuyền họ vừa nghe tiéng máy kia chở bọn đuổi
theo, Partridge hiểu rằng cuộc tấn công sẽ đến từ phía sau. Nếu
điều đó xảy ra, anh sẽ cố hết sức đẩy lui cuộc tiến công, trong
khi nhữnng người khác tiếp tục đi. Anh đă kiểm tra khẩu
Kalashnikov đang đeo trên vai, để hai băng đạn dự trữ chỗ túi
anh có thể dễ dàng lấy ra.
Partridge lại nh́n đồng hồ; bẩy giờ ba mươi lăm phút. Họ đă đi
được gần bốn mươi phút. Nhớ đến cái mốc tám giờ tại điểm hẹn với
Aerolibertad, anh hy vọng đă đi được ba phần tư quăng đường.
Mấy phút sau họ buộc phải dừng lại.
Nghĩ lại cũng buồn cười, Fernandez là người nhắc mọi người phải
cẩn thận trước khi bước, nhưng chính anh ta lại trượt ngă chỏng
gọng, chân kẹp trong đám rễ cây đầy bùn. Khi Partridge vội vă
chạy đến, Minh đă nâng Fernandez dậy, c̣n O’Hara đang cố kéo
chân anh ta ra; lúc đó Fernandez nhăn mặt v́ đau đớn.
“Có vẻ tôi đă làm hỏng việc”, anh ta nói với Partridge. “Tôi xin
lỗi v́ đă phụ ḷng tin của ông”.
Khi đă rút được chân ra, Fernandez thấy đau buốt tận óc khi bước
đi. Rơ ràng chân anh bị găy hoặc trật khớp rất nặng.
“Nói thế không đúng; anh chưa bao giờ phụ ḷng chúng tôi”,
Partridge nói. “Anh là người dẫn đường, người bạn đường tốt, và
chúng tôi sẽ d́u anh đi. Chúng tôi sẽ vứt bớt các thứ đi”.
Fernandez lắc đầu: “Dù có làm thế đi nữa, cũng không c̣n thời
gian. Tôi chưa nói với ông, Harry ạ, nhưng tôi đă nghe thấy
tiếng động cơ ở phía sau. Chúng đang đuổi theo và cách chúng ta
không xa nữa đâu. Hăy để tôi lại, các ông đi tiếp đi”.
Jessica cũng đến. Nàng bảo Partridge: “Chúng ta không thể để anh
ấy lại được”.
“Một người sẽ cơng anh”, O’Hara nói. “Tôi sẽ cố làm việc đó”.
“Trong cái nóng như thế này ư? “ Fernandez sốt ruột nói. “Anh sẽ
không đi nổi qua một trăm mét, và tất cả sẽ bị chậm lại”.
Vừa định phản đối, Partridge chợt hiểu làm như O’Hara nói là vô
ích. Fernandez đă nói đúng: không c̣n cách nào khác hơn là phải
bỏ anh lại. Song anh nói thêm: “Nếu có thêm người và có thể
được, chúng tôi sẽ quay lại đón anh”.
“Đừng phí thời gian nữa, Harry. Tôi phải nói ngay mấy việc”.
Fernandez đang ngồi cạnh lối ṃn, tựa lưng vào gốc cây. Cây cối
rậm quá, không thể đưa anh vào sâu thêm. Partridge và Jessica
quỳ xuống cạnh anh ta.
“Tôi c̣n một vợ và bốn đứa con”, Fernandez nói. “Tôi mong sẽ có
người trông nom vợ con tôi”.
“Anh làm cho CBA”, Partridge đáp “th́ CBA sẽ chịu trách nhiệm
việc đó. Tôi đảm bảo với anh, chính thức hứa sẽ làm như vậy.
Việc ăn học của lũ trẻ, tất cả”.
Fernandez gật đầu, rồi anh chỉ khẩu M16 anh mang theo, hiện đang
để bên cạnh “Anh nên cầm nó theo. Ngoài khẩu anh có, anh có thể
phải dùng đến nó. Nhưng tôi không định để chúng bắt sống. Đưa
tôi khẩu súng lục”.
Partridge đưa cho anh ta khẩu Browning chín li của anh, sau khi
tháo bỏ ống giảm thanh.
“Ôi, Fernandez!” Jessica nghẹn ngào, mắt đẫm lệ. “Nicky và tôi
chịu ơn anh nhiều”. Nàng cúi người hôn lên trán anh ta.
“Vậy th́ đi đi” Fernandez giục nàng “Đừng mất thời gian nữa, kẻo
sẽ mất những ǵ đă làm được cho đến lúc này”.
Khi Jessica đứng dậy, Partridge nhoài người, ôm chặt Fernandez
và hôn lên hai má anh ta. Phía sau anh, Minh và O’Hara đang đợi
để hôn vĩnh biệt Fernandez.
Partridge đứng dậy, bước đi không ngoảnh lại.
o0o
Ngay khi thấy chiếc xuồng bỏ lại trên băi gần cửa rừng, và nhận
ra nó từ Nueva Esperanza tới, Miguel rất mừng, hắn đă quyết định
đi trên chiếc thuyền tới Sion.
Hắn càng mừng hơn, khi vừa từ trên thuyền nhảy xuống bờ, Ramon
chạy đến bên chiếc xuồng và thông báo: “Underhill mortor esta
cliente, Elliott ottro frio-fundido” (1).
Một máy c̣n nóng tức là những người chúng đang đuổi theo mới vào
rừng chưa lâu. C̣n chiếc máy bị cháy, đă nguội ngắt cho biết
chiếc xuồng đă bị chậm lại và những người trên xuồng đến đây khá
muộn.
Cũng như Miguel, bảy tên thuộc nhóm Sendero đều mang vũ khí đầy
đủ. Hắn bảo chúng bằng tiếng Tây Ban Nha: “Bọn sâu mọt tư sản ấy
chưa chạy xa được. Chúng ta sẽ đuổi kịp và trừng trị chúng. Hăy
hành đông với ḷng căm hận của Guzman”.
Chúng lao nhanh vào rừng, reo ḥ ầm ĩ.
“Chúng ta đến sớm mấy phút”, Rita nói với Oswaldo Zileri, phi
công chiếc Cheynne II khi máy bay tới gần Sion, điểm hẹn đầu
tiên. Cô vừa mới xem đồng hồ, bảy giờ năm mươi lăm.
“Chúng ta sẽ lượn và quan sát”, ông ta nói: “Dù thế nào đây cũng
là nơi ít có khả năng các bạn chị sẽ tới nhất”.
Cũng như hôm qua, cả bốn người trên máy bay – Rita, Crawford
Sloane, Zileri và anh chàng lái phụ Felipe nh́n như dán mắt vào
tấm màn xanh phía dưới. Họ t́m kiếm dấu hiệu có người, nhất là
khu vực đường băng ngắn, hai bên toàn cây, mà cho đến tận khi
bay ngay trên nó mới nh́n thấy. Và giống như hôm qua, tuyệt
nhiên không có động tĩnh ǵ.
Trên lối ṃn, Nicky càng thấy khó theo kịp nhịp đi như tra tấn
này, Jessica và Minh đang diu nó, mỗi người túm một bên tay vừa
lôi, vừa nhấc nó qua những chỗ khó trên đường đi. Cuối cùng có
thể sẽ phải khiêng nó, nhưng lúc này mọi người c̣n phải giữ sức
lực c̣n lại.
Từ lúc họ chia tay Fernandez đến giờ đă được khoảng mười phút,
Partridge đă trở lại vị trí cuối hàng; từ vị trí đó thỉnh thoảng
anh nh́n lại phía sau. Cho đến lúc này, vẫn chưa thấy bóng dáng
bọn kia đâu.
Phía trên, ṿm lá mỏng dần; ánh sáng lọt qua kẽ lá nhiều hơn.
Lối đi rộng hơn, Partridge hy vọng đó là dấu hiệu cho thấy đă
tới gần đường băng. Có lúc anh nghĩ nghe thấy tiếng máy bay ở
phía xa, nhưng không dám chắc. Anh lại nh́n đồng hồ: bảy giờ năm
mưoi lăm phút.
Đúng lúc đó, từ phía sau vọng lại một tiếng ngắn, đanh gọn, rơ
ràng là tiếng súng. Chắc là Fernandez, Partridge nghĩ. Vậy là
ngay cả khi dùng khẩu Browning mà Partridge đă cố ư tháo ông
giảm thanh, anh thợ dựng kèo nhà đầy nhiệt t́nh ấy vẫn giúp họ
lần cuối – báo cho họ biết bọn đuổi phía sau đă đến gần. Nhưng
để xác nhận việc ấy, họ nghe mấy phát súng nổ.
Có lẽ bọn đang duổi theo họ thấy Fernandez đă chết, nhưng nghĩ
là chúng thấy những người khác phía trước nên bắn hú hoạ. Sau đó
không hiểu sao tiếng súng im bặt.
Bản thân Partridge cũng đă gần kiệt sức. Lúc này anh thấy khó
tập trung tư tưởng.
Vào lúc đầu óc đang miên man, anh quyết định, điều mong muốn
nhất là thôi không phải làm ǵ nữa. Khi cuộc phiêu lưu này kết
thúc, anh sẽ tiếp tục kỳ nghỉ mà anh vừa mới bắt đầu, rồi đơn
giản là biến mất, không gặp gỡ bất cứ ai… Jessica và Gemma là
chuyện dĩ văng. Vivien có thể là tương lai. Cho đến nay, có lẽ
anh đối xử với nàng không công bằng; cuối cùng đă đến lúc phải
tính chuyện cưới nàng… Hăy c̣n chưa muộn… Anh biết Vivien sẽ rất
thích điều đó…
Rồi anh cố gắng trở về với thực tại.
Bỗng nhiên họ thấy ḿnh đă ra khỏi rừng rậm. Đă thấy đường băng
trước mặt! Một chiếc máy bay, chiếc Cheyenne đang lượn trên đầu.
O’Hara, đáng tin cậy cho đến phút chót, Partridge nghĩ, anh đang
lắp viên pháo hiệu màu xanh vào khẩu súng lệnh mà anh mang theo
suốt cả chặng đường. Màu xanh nghĩa là: “Hạ cánh b́nh thường.
Không có trở ngại ǵ”.
Và cũng đột nhiên từ phía sau vang lên hai tiếng súng, lần này
nghe gần hơn.
“Bắn pháo hiệu đỏ, không phải pháo hiệu xanh!” Partridge hét gọi
O’Hara. “Hăy làm thật nhanh!”. Pháo hiệu đỏ tức là “Hạ cánh càng
sớm càng tốt. Chúng tôi đang gặp nguy hiểm!”.
o0o
Đă quá tám giờ. Trên chiếc Cheyenne II đang bay phía trên đường
băng, Zileri quay lại nói với Rita và Sloane “Không thấy ǵ cả.
Chúng ta qua hai điểm hẹn kia thôi”.
Máy bay đổi hướng. Đúng lúc đó, Crawford gọi: “Khoan đă! Tôi
nghĩ tôi nh́n thấy cái ǵ đó”.
Zileri cho máy bay ṿng lại. Ông ta hỏi: “Ở đâu?”.
“Ở dưới kia ḱa”, Sloane lấy tay chỉ. “Tôi không biết chắc ở chỗ
nào. Nó diễn ra trong chốc lát… tôi nghĩ…”. Giọng anh nghe cũng
có vẻ không cả quyết lắm.
Zileri cho máy bay lượn tṛn. Họ lại căng mắt quan sát mặt đất.
Lượn được một ṿng, người lái máy bay nói: “Tôi chẳng thấy ǵ
cả. Tôi nghĩ chúng ta nên bay tiếp”.
Đúng lúc đó, pháo hiệu đỏ từ mặt đất bay lên.
o0o
O’Hara bắn phát pháo hiệu đỏ thứ hai.
“Thế đủ rồi. Họ đă nh́n thấy chúng ta”, Partridge nói. Chiếc máy
bay đă đổi hướng bay về phía họ. Điều anh cần biết lúc này là
máy bay sẽ hạ cánh theo hướng nào, để anh chọn đúng vị trí ở lại
chống trả bọn chúng, trong khi những người khác leo vào máy bay.
Anh nhanh chóng thấy rơ câu trả lời. Chiếc Cheyenne II lượn một
ṿng rất hẹp, giảm độ cao rất nhanh và sẽ bay trên đầu họ. Sáu
đó nó sẽ hạ cánh từ hướng lối ṃn xuyên rừng nơi họ vừa nghe
súng nổ.
Mặc dù nghe tiếng súng, nhưng nh́n lại, Partridge vẫn chưa thấy
bóng đứa nào cả. Anh chỉ đoán tại sao chúng lại nổ súng. Có lẽ
trong khi đi, đứa nào đó trong bọn chúng bắn hú hoạ, hy vọng may
ra th́ trúng.
Anh bảo O’Hara: “Đưa Jessica và Nicky ra chỗ đường băng thật
nhanh và ở lại đấy với họ. Khi máy bay tới đầu đường phía xa, nó
sẽ quay đầu chạy lại, chạy lại gần máy bay rồi tất cả trèo vào.
Anh nghe rơ chứ, Minh?”.
“Tôi nghe rơ”, Minh trả lời, mắt vẫn dán vào ống kính, điềm
nhiền ghi nh́n như anh đă mấy lần làm trong suốt chuyến đi.
Partridge quyết định không cần phải lo cho Minh nữa. Anh ta biết
cách tự giữ ḿnh.
Jessica lo lắng hỏi: “C̣n anh th́ sao, Harry”.
Anh nói với nàng: “Anh sẽ bọc hậu bằng cách bắn chặn lối ṃn.
Khi mọi người đă lên hết máy bay, anh sẽ nhập bọn. Bây giờ đi
đi!”.
O’Hara ṿng tay d́u Jessica lúc này đang nắm bàn tay c̣n lành
của Nicky và họ vội vă chạy về phía máy bay.
Ngay lúc họ vừa đi xong, Partridge ngoảnh lại phía rừng th́ thấy
bóng một vài đứa đang tiến về phía đường băng, tay giương súng.
Partridge nhoài người nấp sau mô đất gần đó. Anh nằm xấp, khẩu
Kalashnikov để trước mặt, đưa những bóng di động vào thước ngắm.
Anh siết c̣, và trong tiếng súng nổ thấy một đứa gục xuống,
những đứa khác lao t́m chỗ nấp. Cũng lúc đó, anh nghe tiếng máy
bay lướt thấp trên đầu không cần ngoảnh lại, anh biết hiện giờ
nó đang hạ cánh.
“Họ kia rồi”, Crawford Sloane hét lên v́ quá hồi hộp. “Tôi nh́n
thấy Jessica và Nicky!”. Máy bay vẫn đang c̣n chạy trên đường
băng, bánh lướt nhanh trên mặt đường gồ ghề.
Điểm cuối đường băng vụt gần lại và Zileri hăm phanh rất gấp.
Khi máy bay hết đà chạy, viên phi công vẫn phanh hăm và để một
động cơ hoạt động, kèm đầu máy bay quay ngược hướng vừa hạ cánh.
Sau đó, dùng cả hai động cơ để tăng tốc, ông ta cho máy bay chạy
nhanh dọc đường băng về phía đối diện.
Chiếc Cheyenne II dừng lại đúng nơi Jessica, Nicky và O’Hara
đang đợi. Felipe, người lái phụ đă rời chỗ ngồi và chạy về cuối
máy bay. Từ bên trong thân máy bay, anh ta mở cửa và hạ thang
xuống.
Nicky, rồi Jessica và O’Hara trèo lên thanh; mấy cánh tay giơ
ra, trong đó có tay Sloane kéo giúp họ vào hẳn bên trong. Minh
xuất hiện đằng sau mọi người và lom khom trèo vào.
Trong khi Sloane, Jessica và Nicky đang xúc động ôm gh́ lấy
nhau, O’Hara gọi to, giọng hổn hển: “Harry đang ở phía trước.
Chúng ta phải đón anh ấy. Anh ấy đang bắn chặn bọn khủng bố”.
“Tôi thấy rồi”, Zileri bảo. “ngồi cho vững nào”. Ông ta lại tăng
ga và máy bay chạy vụt về phía trước.
Đến cuối đường băng, ông ta lại cho máy bay lộn đầu lại. Lúc này
máy bay nằm đúng chiều vừa xuống, sẵn sàng cất cánh, nhưng cửa
lên vẫn c̣n để mở. Qua cửa máy bay để ngỏ, có thể nghe thấy súng
nổ. “Bạn của các vị sẽ phải chạy thật nhanh tới máy bay”, giọng
Zileri nghe khẩn thiết: “Tôi muốn chuồn khỏi đây ngay”.
“Anh ấy sẽ làm như vậy”, Minh nói. “Anh ấy đă thấy chúng ta và
thế nào cũng tới”.
o0o
Partridge đă nghe và nh́n thấy máy bay. Liếc vội về phía sau,
anh biết nó đă cố đến thật gần chỗ anh. Khoảng cách giữa anh và
máy bay độ một trăm mét. Anh có thể chạy khom người thật nhanh
tới máy bay. Song trước hết anh phải vẩy đạng vào phía đường ṃn
trong rừng để chặn lực lượng Sendero có thể phóng đến. Mấy phút
vừa rồi, anh thấy bóng mấy thằng nữa, anh nổ súng và thấy một
tên ngă nhào. Bọn c̣n lại đang nấp sau những thân cây. Một loạt
đạn sẽ gh́m chúng ở đó, và đủ thời gian để anh chạy đến được máy
bay.
Anh vừa tra băng đạn mới vào khẩu Kalashnikov, siết mạnh tay c̣,
anh bắn xối xả dọc hai bên đường ṃn. Từ lúc nổ súng, ḷng say
mê chiến trận vốn có trong anh trỗi dậy… làm anh ngây ngất… nó
làm chất adernalin chảy trong huyết quản, nước dịch trào…một thứ
nghiện ngập đến điên rồi, phi lô gich trước âm thanh và cảnh sắc
chiến tranh…
Bắn hết băng đạn, anh vứt súng, nhỏm dậy chạy, cúi gập người
thật thấp. Chiếc máy bay đang ở trước mẳt. Anh biết anh sẽ
thoát!
Partridge chạy được một phần ba đoạn đường th́ bị đạn vào chân.
Anh khuỵu ngay lập tức. Mọi việc diễn biến quá nhanh, anh phải
mất mấy phút mới hiểu được chuyện ǵ xảy ra.
Viên đạn xuyên qua khoeo chân phải, làm vỡ đầu gối. Anh không
thể bước được nữa. Cái đau khủng khiếp, hơn cả cái đau nhất mà
anh tin là có thể có, lan toả khắp cơ thể. Vào lúc ấy, anh biết
không bao giờ anh c̣n có thể đến được chỗ máy bay đang đợi. Anh
cũng hiểu không c̣n thời gian nữa. Máy bay sẽ phải cất cánh. C̣n
anh sẽ phải làm cái việc mà trước đó nửa giờ Fernandez đă làm.
Thu hết sức lực c̣n lại, anh nhỏm người ra hiệu cho chiếc
Cheyenne cất cánh. Điều quan trọng lúc này là mọi người hiểu
được ư anh.
o0o
Minh đứng ghi h́nh ở cửa máy bay. Anh đang quay cận cảnh
Partridge và ghi được giây phút khi anh trúng đạn. Felipe, người
lái phụ đứng cạnh Minh.
Felipe gọi với vào trong. “Anh ấy trúng đạn rồi! Tôi nghĩ bị
nặng đấy. Anh ấy đang vẫy bảo chúng ta đi!”.
Từ trong máy bay, Sloane nhoài người ra cửa. “Chúng ta phải đón
anh ấy vào!”.
Jessica kêu to: “Đúng, ôi, đúng đấy!”.
Nicky hoà theo: “Chú Harry chưa vào th́ đừng bay vội!”.
Chính Minh, người am hiểu thực tế của chiến tranh nói: “Không
được đâu! Không có đủ thời gian”.
Qua ống kính, Minh đă thấy lực lượng Sendero đang tới gần. Vài
thằng đă đến được mép ngoài đường băng, đang vừa chạy vừa nổ
súng. Đúng lúc ấy, mấy viên trúng vào máy bay.
“Tôi bay đây”, Zileri nói. Ông ta đă hạ thấp phần cánh nắp phía
sau chuẩn bị cất cánh, bây gờ ông đẩy tay ga về phía trước. Minh
mang máy quay ngă giúi vào trong. Felipe cũng thụt vào và đóng
cửa lại.
Khi máy bay đă đủ tốc độ, Zileri kéo nhẹ cần điều khiển. Chiếc
Cheyenne II rời đường băng bay lên.
Jessica và Nicky đang ôm nhau khóc. Sloane ngồi mắt lim dim, lắc
đầu như thể không tin vào những điều anh vừa thấy.
Minh tỳ máy vào cửa sổ, ghi những h́nh ảnh cuối cùng dưới đất.
o0o
Nằm trên mặt đất. Partridge nh́n chiếc Cheyenne II cất cánh bay
đi.
Và anh c̣n thấy một cảnh khác nữa. Trong cơn đau đớn đến mờ mắt,
anh như thấy bóng người mặt bộ đồng phục của hàng không Alitalia
đang đứng ở cửa máy bay, mỉm cười vẫy anh.
Nước mắt bấy lâu nén lại trong anh bắt đàu trào ra. Sau đó, anh
bị trúng thêm nhiều vết đạn và chết.
o0o
Nh́n xuống xác Harry Partridge, Miguel thề sẽ không bao giờ để
diễn lại thất bại như hôm nay. Ở giai đoạn đầu của vụ bắt cóc,
tuy rất phức tạp và công phu, hắn đă thành công đến mức khó tin.
Thế mà vào giai đoạn hai, dễ dàng và không phức tạp bằng, th́
hắn lại thất bại thảm hại.
Bài học rơ ràng là: không có ǵ dễ dàng và không phức tạp cả.
Đáng ra hắn phải học bài học đó từ lâu. Nhưng từ giờ phút này
trở đi, hắn sẽ ghi nhớ.
Sau đây làm ǵ?
Trước hết hắn phải rời Peru. Hắn có thể mất mạng nếu ở lại đây;
Sendero Luminoso sẽ không để yên việc này.
Hắn cũng không thể trở lại Nueva Esperanza. Cũng may, hắn chẳng
phải quay lại đó làm ǵ. Trước khi rời Nueva Esperanza, lường
trước những chuyện có thể xảy ra, hắn đă nhét toàn bộ số tiền
hắn có, trong đó có gần năm chục ngàn đôla nhận của Antonio
Salavery vào lần cuối cùng hắn tới Liên hợp quốc, vào chiếc bao
đựng tiền mà hắn đang đeo. Hắn cảm thấy cồm cộm, phải cái hơi
khó chịu, nhưng làm hắn yên tâm.
Với số tiền này, hắn thừa sức rời khỏi Peru và trở về Colombia.
Bây giờ hắn định luồn vào rừng. Cách đây hai lăm cây số có một
chỗ đỗ máy bay – không phải hai nơi hôm nay chúng đến – là nơi
các máy bay chở ma tuư do phi công Colombia lái thường lên
xuống. Hắn biết có thể dúi tiền để họ chở hắn về Colombia, và
một khi đă ở đó, hắn sẽ được an toàn.
Nếu có đứa nào trong đám từ Nueva Esperanza kia dám ngăn cản,
hắn sẽ giết chết nó ngay. Nhưng hắn không tin là có đứa nào sẽ
làm như vậy. Trong số bảy thằng cùng đi với hắn đến đây, chỉ có
bốn c̣n sống sót. Ramon cùng hai hằng nữa đă bị bắn chết bởi tay
cái thằng nước ngoài chó chết đang nằm dưới chân hắn đây. Không
biết nó là thằng nào, nhưng rơ ràng là một tay súng giỏi.
Ngay cả ở Colombia, thất bại ở Nueva Esperanza cũng sẽ ảnh hưởng
đôi chút đến tiếng tăm của hắn, song cũng không lâu. Và không
như Sendero Luminoso, các cácten ma tuư Colombia không đến nỗi
cuồng tín. Táo bạo th́ có đấy, song b́nh thường họ thực dụng và
lo làm ăn. Miguel là tên khủng bố vô chính phủ rơ ràng đáng bỏ
tiền ra thuê. Các cácten có nhu cầu sử dụng đến hắn.
Gần đây, hắn được biết họ đang thực hiện một chương tŕnh dài
hạn biến một số nước nhỏ và trung b́nh thành nơi ngự trị của
cácten ma tuư như ở Colombia. Hắn tin chắc dự án này sẽ cho hắn
dịp thi thố tài năng đặc biệt của hắn.
Colombia không c̣n là một thể chế dân chủ nữa. Bề ngoài có vẻ
vẫn c̣n đấy, song ngay cả những cái đó cũng đang biến mất dần
khi các vụ giết chóc theo lệnh của những ông chủ cácten tỷ phú
hùng mạnh đă loại dần cái thiểu số tin vào những con đường cũ.
Để biến những nước khác thành những Colombia mới, cần phải hối
lộ các nhân vật chóp bu hoặc gần chóp bu trong chính phủ của
những nước này; hối lộ sẽ tạo điều kiện cho các cácten ma tuư có
thể ṃ vào hoạt động ở đó. Tiếp theo, bằng những bước đi âm
thầm, xảo quyệt, các cácten sẽ dần dần mạnh hơn cả chính phủ sở
tại. Sau đó, như ở Colombia không ǵ có thể đảo ngược được nữa.
Hiện nay người ta nói đến bốn nước có khả năng sẽ được “Colombia
hoá”. Đó là Bolivia, Elliott Salvador, Guatemala và Jamaica. Rồi
sau sẽ có thêm những nước khác được đưa vào danh sách.
Với khả năng và kinh nghiệm sống sót độc đáo, Miguel nghĩ, có
thể hắn sẽ bận rộn suốt trong thời gian tới.
Chú thích:
(1) Một máy nóng, c̣n chiếc kia lạnh
Chương 20
Trên chiếc Cheyenne II, phải mấy phút sau mọi
người mới cảm thấy có thể nói chuyện được. Crawford Sloane đang
ôm chặt Jessica và Nicky, như chỉ có ba người với nhau. Cuối
cùng Sloane ngẩng đầu hỏi Minh Văn Cảnh: “Về Harry… anh có thấy
thêm ǵ nữa không?”.
Minh buồn rầu gật đầu: “Tôi tập trung ghi h́nh anh ấy. Lại trúng
đạn mấy lần. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa”.
Sloane thở dài, nói: “Anh ấy là người giỏi nhất…”.
Minh sửa lại, giọng bỗng rất to: “Một phóng viên tài ba nhất,
một người tốt nhất. Tôi đă gặp nhiều, nhưng không một ai trong
số tôi biết có thể sánh được với Harry trong tất cả những năm
vừa qua”. Câu này được nói như một lời thách thức. Minh biết
Sloane và Partridge cùng một thời gian.
Nếu đó là lời thách thức, th́ Sloane cũng không có ư định tranh
căi. Anh chỉ nói: “Tôi cũng thấy thế”.
Jessica và Nicky đứng nghe, cả hai đang bận rộn với suy nghĩ
riêng của ḿnh.
Chính Rita, một người làm tin chuyên nghiệp và có trách nhiệm
phải làm, lên tiếng hỏi Minh: “Tôi có thể xem những h́nh anh ghi
được không?”. Cô biết mặc dù Harry đă chết, cô vẫn phải làm để
kịp chuyển tin ở Lima, tiếc là chỉ c̣n không đầy một giờ nữa.
Cô cũng biết họ đang có một tin độc nhất vô nhị trên thế giới.
Minh tua lại băng, rồi chuyên chiếc máy quay Betacam cho Rita.
Nheo mắt nh́n qua ống kính, cô ta xem những đoạn ghi trong băng:
Minh bao giờ cũng ghi được cái cốt yếu của vụ việc. Những h́nh
ảnh tuyệt vời. Những h́nh ảnh cuối cùng – lúc Harry bị thương,
rồi ngă gục trong làn đạn hiểm – được quay trọn vẹn và cảm động.
Khi đưa lại máy cho Minh, Rita rơm rớm nước mắt, nhưng cô lấy mu
bàn tay lau vội, biết rằng không có thời gian để thương tiếc
Harry hay khóc lóc. Hai cái đó để sau, có lẽ là tối nay khi c̣n
lại c̣n một ḿnh.
Sloane hỏi: “Harry có ai – có bạn gái không? Tôi biết sau khi
Gemma mất, anh ấy không lấy ai nữa”. “À, cũng có đấy”, Rita trả
lời. “Tên chị ấy là Vivien. Chị ấy là y tá, hiện sống ở một nơi
gọi là Port Credit, ngoại ô Toronto”.
“Chúng ta cần gọi điện báo cho chị ấy. Nếu chị muốn, tôi sẽ nói
chuyện với chị ấy”.
“Vâng, tôi muốn vậy”, Rita đáp. “Khi nói chuyện, anh nhớ cho chị
ấy biết trước khi đi, Harry có để lại có để lại di chúc, hiện
tôi đang giữ. Anh ấy để lại tất cả mọi thứ cho chị ấy. Vivien
không biết hiện giờ chị ấy đă trở thành một triệu phú. Có vẻ
Harry gửi tiền ở những nơi không bị thuế khắp trên thế giới. Kèm
theo di chúc, anh ấy liệt kê những nơi anh ấy gửi tiền”.
Trong khi mọi người mải nói chuyện không chú ư, Minh đang quay
Jessica và Nicky. Lúc này Rita thấy anh ta chĩa ống kính vào bàn
tay quấn băng của Nicky. Nó làm cô nhớ đến cái cô mang theo từ
Lima; tḥ tay vào túi đeo, cô rút ra bức điện telex nhận qua
Entel Peru.
“Trước khi đi”, Rita nói với mọi người, “anh ấy nhờ tôi gửi điện
cho một người bạn hiện là bác sĩ phẩu thuật ở Orleans,
California. Harry giải thích bạn anh ấy là một trong những
chuyên gia có hạng về chữa tay bị thương trên thế giới. Trong
điện, anh ấy hỏi một số vấn đề về trường hợp của Nicholas. Đây
là điện trả lời”.
Cô đưa bức điện chữ in cho Sloane và anh đọc to:
“Phúc điện cho anh. Đă đọc tin anh cung cấp, đồng thời biết chi
tiết qua báo chí về bàn tay của anh bạn trẻ. Không nên nối ngón
tay giả. Chúng không cử động được và giúp cậu bé chơi piano,
thậm chí c̣n vướng thêm. Trái lại, cần và có thể học cách đổi
ngón tay sao cho ngón trỏ và ngón út chạm tới phím đàn. Dẫu sao
cũng c̣n may, v́ nếu mất ngón khác sẽ không làm thế được. Chỉ áp
dụng được cho hai ngón vừa nói.
Tập đổi ngón tay đ̣i hỏi kiên ŕ, nhẫn nại, song nếu hăng say
th́ có thể làm được. C̣n trẻ nên cũng dễ. Chỗ tôi có bà cũng mất
hai ngón, bây giờ vẫn chơi được piano. Rất vui ḷng để hai người
gặp nhau nếu anh muốn.
Giữ ḿnh cẩn thận, Harry, chào thân ái nhất.
Bác sĩ Jack Tupper.
Mọi người im lặng, rồi Nicky nói: “Con xem được không bố?”.
Sloane đưa cho nó bức điện.
“Đừng đánh mất nhé”, Jessica dặn Nicky. “Nó sẽ là kỷ niêm của
con về chú Harry. Nàng nghĩ sự gắn bó tự nhiên giữa Harry và
Nicky tuy ngắn ngủi nhưng đẹp biết bao!
Nàng nhớ lại những lời xót xa mà lúc trước Nicky đă nói với
Harry ở Nueva Esperanza: “Chúng giết ông chặt đứt hai ngón tay
của cháu; thế là cháu không c̣n chơi piano được nữa”. Rơ ràng
Nicky không bao giờ có thể chơi trong dàn nhạc, điều nó hằng mơ
ước. Nhưng nó sẽ chơi đàn bằng cách khác và thoả măn được ḷng
say mê âm nhạc của nó.
Nicky dùng tay trái cầm bức điện và đọc, nụ cười nở trên môi.
Bàn tay quấn bưng đang đảo qua đảo lại. Crawf bảo: “Tôi nghĩ sẽ
không bao giờ trong những việc ta làm, ta lại không có lư do để
cảm ơn Harry”.
“Cả Fernandez nữa”, Jessica nhắc anh. Họ đă kể về gương hy sinh
cầm chắc cái chết của anh thợ dựng kèo nhà. Bây giờ nàng kể cho
Crawf và Rita nghe lời Harry hứa trước khi để Fernandez lại bên
cạnh đường ṃn.
Fernandez nói đến vợ và bốn đứa con, hỏi liệu có ai sẽ chăm nom
họ không và Harry đă trả lời: “Anh làm cho CBA nên CBA sẽ chịu
trách nhiệm việc đó. Tôi đảm bảo với anh, chính thức hứa sẽ làm
như vậy. Việc ăn học của lũ trẻ, tất cả”.
“Nếu Harry đă nói như vậy”, Sloane bảo, “anh ấy đă thay mặt CBA
và nó có tính ràng buộc như một văn bản pháp lư. Khi về New York
tôi sẽ lo thực hiện việc ấy”.
“Cũng hơi khó đấy”, Rita trả lời: “Việc đó xảy ra sau khi Harry
bị đuổi việc, mặc dù anh ấy không hề biết”.
Nghe được câu đó, Minh có vẻ giật ḿnh sửng sốt, điều đó cho
thấy chỉ rất ít người biết có bức thư cho thôi việc của
Chippingham.
“Không có vấn đề ǵ”, Sloane nói: “Lời hứa của Harry sẽ được
thực hiện”.
“Nảy sinh vấn đề ta phải quyết định ngay”, Rita chỉ rơ: “Chúng
ta sẽ nói đến việc đuổi Harry trong phần đưa tin hôm nay chứ?”.
“Không”, Sloane dằn giọng: “Đó là chuyện nội bộ xấu xa, chúng ta
không vạch áo cho người xem lưng”.
“Nhưng rồi cũng sẽ lộ ra”, Rita nghĩ bụng. “cuối cùng mọi người
đều biết, luôn luôn là như vậy”.
Crawf vẫn chưa biết là có bức điện “đồ chó đẻ” mà cô đă gửi qua
fax về Vành móng ngựa cho Leslie Chippingham. Có lẽ chỉ một tuần
sau nó sẽ được đăng trên tờ thời báo New York hoặc Bưu điện
Washington. Nếu không th́ cũng là trên tờ Tạp chí báo chí
Colombia, hoặc Tạp chí báo chí Washing ton. Mặc kệ, không sao!
Rita cũng nhớ là v́ bức điện đó, cô có thể mất việc. Ngoài những
điều đă viết, cô c̣n kư “cựu chủ nhiệm”. Thôi muốn ra sao cũng
được, c̣n bây giờ cô phải hoàn thành công việc này đă.
Jessica lên tiếng: “Có một việc tôi cứ nghĩ măi. Đó là về cái
đường băng chúng ta ở đó lúc năy, cái cuối cùng ấy”, “Sion”,
Rita nhắc.
Jessica gật đầu. “Trên đường ṃn, và khi ở đường băng tôi có cảm
giác đă thấy nó từ trước. Tôi nghĩ đó là nơi lúc đầu chúng tôi
bị đưa đến và rồi dần tỉnh lại. Song lúc ấy tôi không biết đó là
đường băng máy bay. Và c̣n việc này nữa”.
“Chị cứ nói tiếp đi”, Rita bảo. Cô đă có trong tay cuốn sổ và
đang ghi chép.
“Có một gă trong chiếc lán chúng tôi bị giam. Tôi không biết hắn
là ai nhưng biết chắc hắn là người Mỹ. Tôi cầu cứu hắn, nhưng gă
không giúp ǵ cả. Song tôi có được cái này”.
Hôm trước Jessica đă lấy bức hoạ mà nàng vẽ từ dưới nệm giường
ra. Nàng gấp lại, và từ đó mang theo, giấu trong áo lót. Nàng
đưa cho Rita.
Đó là h́nh tay phi công lái chiếc Learjet, Denis Underhill.
“Tối nay chúng ta sẽ phát bức h́nh này trong bản tin chiều toàn
quốc và yêu cầu mọi người nhận diện”, Rita nói: “Trong số hai
mươi triệu người xem, thế nào cũng có người nhận ra hắn”.
Chiếc Cheyenne kêu vù vù, vẫn đang ngóc lên lấy độ cao chuẩn bị
vượt những đỉnh cao Andes thuộc dăy Cordillera, sau đó sẽ xuống
dần và trở lại Lima. Rita thấy lúc này là chín giờ sáng. C̣n
khoảng bốn mươi phút nữa mới tới Lima.
Cô thấy rằng ngay bây giờ cần cùng với Crawf vạch rơ kế hoạch
cho thời gian c̣n lại trong ngày. Cô đă làm trước một số việc,
trong đó đưa lại phần lớn, chứ chưa phải tất cả, những ǵ đă xảy
ra.
Vào lúc này, câu chuyện ky kỳ về cuộc giải thoát con tin chỉ
riêng CBA có. V́ thế, cho đến năm giờ rưỡi tối ở Peru, tức là
thời gian phát bản tin đầu tiên ở New York, cần đưa Jessica và
Nicky đến một nơi nào đó, để cánh báo chí và truyền h́nh khác
không thấy và không gặp được họ. Cô tin là Crawf cũng thấy cần
làm như vậy. Điều đó có nghĩa là chưa thể đưa Jessica và Nicky
về khách sạn Cesar hoặc Entel Peru, v́ cả hai nơi đều đầy phóng
viên và nhóm làm tin truyền h́nh. Các khách sạn khác ở trung tâm
Lima cũng vậy.
V́ thế Rita dàn xếp cho họ tới nhà giám đốc kiêm phi công hăng
Aerolibertad, ông Oswaldo Zileri ở vùng ngoại ô Maraflores. Họ
sẽ ở đó cho đến năm rưỡi chiều, sau đó có gặp phóng viên báo chí
và truyền h́nh cũng không sao. Đó quả là một thử thách mà cuối
cùng họ đành chấp nhận
Trong thời gian đó, cùng với biên tập viên video Bob Watson,
Rita sẽ sắp xếp tin cho chương tŕnh tin chiều hôm đó. Đó sẽ là
một tin dài, dùng phần lớn số h́nh Minh ghi được, cảnh cứu con
tin, cái chết của Harry Partridge và giây phút đau buồn khi
Fernandez ngồi lại bên đường ṃn.
Cô thậm chí không cần hỏi New York xem độ dài cụ thể của tin là
bao nhiêu. Cô biết đây là một dịp cô muốn sử dụng bao nhiêu thời
gian cũng được.
Cô cũng tin hăng sẽ muốn có bản tin đặc biệt trong một giờ vào
giữa buổi tối. Được thôi, cô đă có đủ tư liệu cho nó, bao gồm cả
băng h́nh Dolores, bạn rượu của cựu bác sĩ người Mỹ Hartley
Gossage, c̣n gọi Baudelio, kẻ đă táng tận lương tâm dùng tay
nghề của hắn vào việc đưa ba nạn nhận của vụ bắt cóc qua Peru.
Harry đă chuẩn bị trước, với lời b́nh luận của anh và có thể
dùng được ngay.
C̣n những thứ khác cho chương tŕnh tin tối và các chương tŕnh
sau, Crawf sẽ viết lời và thu h́nh tại chỗ. Việc đó cũng khó cho
anh. Anh sẽ phải nói đến cái chết của cha ḿnh, của Harry
Partridge và Fernandez, đến việc chặt ngón tay Nicky. Đôi lúc
Crawf cũng hay xúc động và có thể nghẹn lời. Nhưng không sao,
Rita nghĩ. Nó càng làm cho câu chuyện có sức thuyết phục hơn, và
Crawf sẽ qua được và nói tiếp. Anh ta là người làm tin chuyên
nghiệp, giống như Rita và những người khác.
Rita nhận thấy một đoạn tin không thể và không nên để cho đến
hết ngày. Đó là việc giải thoát con tin đă được tiến hành,
Jessica và Nicky đă được cứu thoát. Chắc chắn sẽ phải phát tin.
Khi Ban tin CBA ở New York nhận được, họ sẽ ngừng ngay chương
tŕnh đang phát để đưa. Một lần nữa, CBA lại nhanh chân hơn các
hăng khác đang cạnh tranh với nó.
Rita lại nh́n đồng hồ: chín giờ hai mươi ba phút. C̣n bay khoảng
hai mươi phút nữa. Trừ thời gian đi từ sân bay về Lima, có thể
đưa ngay tin vào lúc mười giờ rưỡi sáng. Họ sẽ chỉ gửi một vài
h́nh ảnh, “Truyền ngay và truyền thô” như lối họ đă làm ở sân
bay Dallas Ford khi đưa tin về vụ tai nạn máy bay mà cô, Harry,
Minh và Ken O’Hara phối hợp làm cách đây chưa đầy một tháng.
Chả lẽ mới vừa đây sao? Thế mà như có vẻ lâu hơn, lâu lắm rồi.
Cô cần đăng kư thời gian phát qua vệ tinh cho bản tin mười giờ
rưỡi sáng. Rita nhoài về phía trước, vỗ vào vai Zileri. Khi ông
quay lại, cô chỉ chiếc đài liên lạc trên máy bay. “Ông có thể
gọi về được không? Tôi muốn nói chuyện với New York”.
Cô ghị vội số điện đưa ông ta. Chỉ một lát sau, thật không ngờ,
trên loa vang lên giọng nói: “Tin đối ngoại CBA”.
Người lái phụ, Filipe, đưa cho cô chiếc micro và bảo: “Chị nói
đi”.
Cô bấm nút và nói: “Rita Abrams đây. Đăng kư cho tôi phát tin từ
Lima vào lúc mười rưỡi sáng, giờ Lima. Hăy báo Vành móng ngựa
biết”.
Tiếng trả lời ngắn gọn: “Được, chúng tôi sẽ làm”. “Cám ơn, chào
anh”. Cô đưa trả micro.
Cần có bài làm cho bản tin này, cũng như cho các chương tŕnh
sau. Rita ngoáy mấy ḍng, sau đó quyết định để Crawf làm nốt và
t́m đúng câu chữ. Anh ta bao giờ cũng làm được việc đó. Có thể
anh ta c̣n phải nói vơ một số đoạn và làm việc ấy cũng rất giỏi.
Trong chặng bay c̣n lại, cô và Crawf phải cùng nhau làm. Đáng
tiếc điều đó có nghĩa là phải kéo anh ta ra khỏi ṿng tay của
Jessica và Nicky. Song anh ấy, cũng như hai mẹ con Jessica sẽ
hiểu cần phải làm như thế. Như mọi người khác trong nghề, họ đều
hiểu tin tức là trước hết.
“Crawf”, Rita nhẹ nhàng nói: “Anh và tôi c̣n có việc phải làm.
Đă tới lúc chúng ta bắt đầu”.
Hết
|