anh ta sẽ phải dùng đến. Nó đ̣i hỏi
giữ đều ở nhiệt độ 20oC và thỉnh thoảng lại phải
khuấy đều. Sau mười một phút, anh ta đổ hết cái dung dịch đó đi
và đổ thuốc hăm vào.
Lishe lại bắt đầu hồi hộp, lo sợ có
một nhầm lẫn nào đó. Anh ta trút bỏ thuốc hăm để rửa lần đầu và
rồi để phim nằm trong một khay đầy nước trong ṿng mười phút.
Sau đó là hai phút liên tục khuấy động trong một chất tẩy; và
mười hai phút nữa trong nước. Ba mươi giây ngâm trong một dung
dịch khác để đảm bảo không c̣n những vết lỗi trên phim âm bản.
Sau cùng, hết sức thận trọng, anh ta lấy phim ra và treo nó lên
bằng những chiếc cặp và dùng một miếng thấm để thấm đi những
giọt nước cuối cùng trên phim. Anh ta đợi một cách kiên nhẫn để
cuộn phim âm bản khô đi.
Đă đến lúc nh́n thấy một chút.
Mothershed cầm đoạn phim đầu tiên lên, nín thở trong tiếng tim
đập thinh thịch, và giơ nó lên trước ánh sáng. Hoàn hảo.
Tuyệt đối hoàn hảo.
Mỗi tấm phim là một viên ngọc, một bức
ảnh mà bất kỳ nhiếp ảnh gia nào trên thế giới cũng phải tự hào
nếu như chụp được nó. Mọi chi tiết của chiếc phi thuyền không
gian lạ kia đều rơ ràng, kể cả những cái xác của hai sinh vật lạ
nằm trong đó.
Mắt Mothershed chợt chú ư vào hai thứ
mà trước đó anh ta đă không hề để ư, và anh ta xem lại cẩn thận
hơn. Ở nơi mà vỏ chiếc phi thuyền vỡ ra, anh ta có thể trông
thấy ba cái đi văng nhỏ bên trong thế nhưng lại chỉ có hai sinh
vật lạ. Điều lạ nữa là bàn tay của một trong hai sinh vật kia đă
bị chặt đứt. Không hề nh́n thấy chỗ nào trong tấm ảnh đó có bàn
tay đó. Có thể là sinh vật nầy chỉ có một tay, Mothershed nghĩ.
Lạy Chúa, những bức ảnh nầy là tuyệt tác. Mẹ nói đúng. Ḿnh
là một thiên tài. Anh ta nh́n quanh căn pḥng nhỏ và nghĩ.
Lần sau ḿnh sẽ rửa phim trong một căn buồng tối rộng răi, đẹp
đẽ trong biệt thự của ḿnh ở Eaton Square.
Anh ta sờ mó những tấm phim quư giá
như kẻ hà tiện sờ mó những đồng vàng của ḿnh. Không một tờ báo
hay tạp chí nào trên thế giới lại khỏng bất chấp mọi giá để có
được tấm h́nh nầy. Suốt những năm vừa qua, những kẻ khốn kiếp đó
đă khước từ những tấm ảnh của anh ta vớ́ ḍng ghi chú đầy báng
bổ. Cảm ơn ông đă gửi những tấm ảnh mà chúng tôi gửi trả
nơi đây. Chúng không phù hợp với nhu cầu hiện nay của chúng tôi?
Và, Cảm ơn ông đă gửi tới. Chúng quá giống với những tấm ảnh mà
chúng tôi đă in. Hay đơn giản là, Chúng tôi gửi trả những tấm
ảnh mà ông đă gửi tới?
Trong nhiều năm, anh ta đă phải cầu
cạnh những kẻ khốn kiếp nầy để có công ăn việc làm và bây giờ
chúng sẽ phải ḅ đến đây, và anh ta sẽ bắt chúng phải trả giá.
Lishe không thể chờ đợi được nữa. Anh
ta phải bắt đầu ngay lập tức. Do chỗ cái công ty Điện thoại Anh
đốn mạt kia đă cắt điện thoại của anh ta chỉ đơn thuần v́ lẽ quư
vừa qua chậm trả tiền có và́ ba tuần lễ, Mothershed phải ra
ngoài để gọi. Cao hứng, anh ta quyết định tới tiệm Langan, một
tiệm ăn có tiếng, và tự thết ḿnh một bữa trưa xứng đáng. Tiệm
Langan là quá cao so với khả năng tài chính của Lislie, nhưng
nếu như có một dịp kỷ niệm nào đó th́ chính là lúc nầy dây.
Chẳng nhẽ không phải anh ta sắp trở nên giàu có và nổi tiếng
sao?
Người phục vụ đưa Mothershed tới ngồi
vào một chiếc bàn nơi góc pḥng, và ở đó, tại một bàn cách chừng
ba mét, anh ta nh́n thấy hai khuôn mặt quen thuộc Anh ta đột
nhiên nhận ra họ là ai, và thoáng run người lên. Chính là
Michael Caine và Roger Moore.
Lislie mong giá như mẹ ḿnh c̣n sống
để có thể nghe kể lại về điều nầy. Bà rất thích được đọc về
những minh tinh màn bạc. Hai người đàn ông kia đang nói cười vui
vẻ không có chút bận tâm ǵ trên đời, và Mothershed không thể
nào không nh́n họ. Họ không hề để mắt đến anh ta. Hal thằng cha
hợm hĩnh. Leslie Mothershed nghĩ một cách giận dữ. Chắc họ chờ
ḿnh tới xin chữ kư. Hừm, chỉ vài ngày nữa th́ họ sẽ phải xin
ḿnh ấy chứ. Họ sẽ sấp sấp ngửa ngửa để mà giới thiệu ḿnh với
bạn bè của họ. "Leslie, tôi muốn ông gặp Charles và Di, và đây
là Fergie và Andrew. Leslie, các vị biết rồi, người đă chụp
nhưng bức ảnh nổi tiếng về cái vật thể bay lạ kia". Lúc
Mothershed ăn xong, anh ta đi qua hai minh tinh kia và lên gác
để tới buồng điện thoại. Bộ phận hỏi đáp cho anh số máy của tờ
Sun.
- Tôi muốn gặp người phụ trách biên
tập ảnh.
- Chapman đây. - Một giọng đàn ông cất
lên.
- Liệu có giá trị ǵ với ông nếu như
ông có những tấm ảnh về một vật thể bay lạ vớ́ những xác chết
của hai sinh vật lạ trong đó không hả?
Giọng ở đầu dây đằng kia nói:
- Nếu như những tấm ảnh xem được th́
chúng tôi có thể sử dụng như là thí dụ về một tṛ đùa thông minh
và…
Mothershed nói một cách gay gắt:
- Chuyện nầy không phải là một tṛ
đùa. Tôi có tên của chín nhân chứng có tiếng tăm, là những người
sẽ làm chứng rằng đó là sự thật, trong đó có một tu sĩ.
Giọng của người đàn ông kia thay đổi.
- Ô? Và những bức ảnh nầy được chụp ở
đâu thế?
- Chuyện đó th́ ông khỏi quan tâm, -
Leslie thoái thác. Anh ta sẽ không chịu để họ lừa để biết bất kỳ
một thông tin nào. - Ư ông thế nào?
Giọng nói kia đầy vẻ thận trọng:
- Nếu như ông có thể chứng minh những
bức ảnh đó là xác thực, th́ đúng là chúng tôi sẽ rất quan tâm
tới chúng.
Chắc chắn là thế rồi, Leslie sung
sướng nghĩ.
- Tôi sẽ liên lạc lại với ông. - Anh
ta gác máy.
Hai cú điện thoại nữa cũng hài ḷng
như thế. Leslie đă phải tự nghĩ rằng việc kiếm tên và địa chỉ
của các nhân chứng là một nước cờ thiên tài. Giờ th́ không kẻ
nào có thể vu cho anh ta là cố t́nh bịp bợm. Những tấm ảnh nầy
chuẩn bị xuất hiện trên trang đầu của tất cả những tờ báo và tạp
chí lớn nhất thế giới. Với tên tuổi của ḿnh: ảnh của Leslie
Mothershed.
Khi Mothershed rời tiệm ăn, anh ta đă
không thể cưỡng lại việc bước lại bên chiếc bàn nơi hai ngôi sao
màn bạc đang ngồi.
- Xin lỗi. Xin lỗi v́ đă quấy rầy quư
vị, song tôi muốn được xin chữ kư của quư vị, được chứ ạ?
Roger Moore và Michael Caine mỉm cười
một cách thân mật. Họ kư tên lên hai mảnh giấy và trao chúng cho
tay thợ chụp ảnh.
- Cảm ơn.
Khi Leslie Mothershed ra tới bên
ngoài, anh ta xé toạc những mảnh giấy và ném chúng đi.
Thây kệ họ. Anh ta nghĩ. Ḿnh c̣n quan trọng hơn họ nhiều.
Chương 19
Robert lên một chiếc xe taxi để đi Whitechapel. Chiếc xe chạy
qua City, khu thương mại lớn của London, hướng về phía đông cho
tới khi gặp đường Whitechapel, một khu vực đầy tai tiếng từ cả
một thế kỷ trước với Jack kẻ cướp. Dọc theo đường Whitechapel là
hàng tá gian hàng ngoài trời bán đủ mọi thứ, từ vải vóc, rau
tươi đến những tấm thảm.
Khi chiếc taxi đến gần địa chỉ
Mothershed, phố xá trông mỗi lúc một tồi tàn hơn. Những h́nh vẽ
nguệch ngoạc đầy trên các bờ tường. Xe chạy ngang qua tiệm Đôi
tay của Weaver, Robert nghĩ: Đó hẳn là nơi lui tới của
Mothershed. Một tấm biển khác đề: Cá ngựa, Walter… Có thể là
Mothershed chơi cá ngựa ở đây.
Sau cùng, họ tới số 213 A đường Grove.
Robert để chiếc taxi đi và xem xét toà nhà trước mặt. Đó là một
ngôi nhà hai tầng xấu xí được chia thành những căn hộ nhỏ, trong
đó có người đàn ông có danh sách toàn bộ những nhân chứng mà
Robert được phái đi t́m.
Leslie Mothershed đang ở trong pḥng
khách, mê mải nghĩ tới cái điều may mắn trời cho th́ nghe tiếng
chuông gọi cửa. Anh ta nh́n lên, giật ḿnh, và chợt cảm thấy lo
sợ một cách lạ lùng. Tiếng chuông lặp lại một lần nữa.
Mothershed vơ lấy những tấm ảnh quư giá và vội vă đi vào pḥng
tối, để xen chúng vào giữa một chồng ảnh cũ kỹ, rồi trở ra pḥng
khách và bước tới mở cửa. Anh ta nh́n chằm chằm vào người lạ mặt
đang đứng đó.
- Ǵ thế hả?
- Ông là Leslie Mothershed?
- Đúng thế. Tôi có thể giúp ǵ được
ông?
Cho phép tôi vào nhà được chứ?
- Tôi không biết. Có chuyện ǵ đă chứ?
Robert móc ra một tấm thẻ căn cước của
Bộ Quốc pḥng và giơ lên.
- Ông Mothershed, tôi tới đây v́ công
việc. Chúng ta có thể nói chuyện ở đây hoặc về là Bộ.
Đó là một tṛ bịp. Thế nhưng anh có
thể thấy rơ nỗi sợ hăi trên mặt tay thợ ảnh.
- Tôi không rơ ông đang nói về chuyện
ǵ cả; nhưng… mời vào. - Leslie nuốt nước miếng.
Robert bước vào căn pḥng tồi tàn. Nó
đầy vẻ ảm đạm, chẳng ra đâu vào đâu, một chỗ mà chẳng ai muốn
sống cả.
- Xin ông vui ḷng giải thích rơ là
ông đến có việc ǵ ạ? Mothershed cố lấy giọng b́nh thản.
- Tôi tới để chất vấn ông về một vài
tấm ảnh mà ông đă chụp.
- Anh ta biết mà. Anh ta đă biết ngay
từ khi nghe thấy tiếng chuông gọi cửa. Bọn khốn kiếp đang toan
cướp vận may của ḿnh. Hừ, ḿnh sẹ không để cho chúng làm được
điều đó.
- Ông nói những bức ảnh nào vậy?
- Những bức ảnh mà ông chụp tại nơi
một vật thể bay lạ bị rơi. - Robert nói một cách kiên nhẫn.
Mothershed nh́n Robert một thoáng, như
thể bị ngạc nhiên, và rồi cố phá lên cười.
- Ồ, ra thế. Tôi mong giá mà tôi có
chúng để đưa cho ông.
- Ông đă chụp những tấm ảnh đó chứ?
- Tôi đă cố.
- Ư ông nói ǵ… ông đă cố ư?
- Chẳng được cái quái ǵ cả. -
Mothershed húng hắng ho. - Máy của tôi bị lọt sáng. Đây là lần
thứ hai tôi bị thế nầy. - Anh ta bắt đầu ba hoa.- Thậm chí tôi
đă ném cả phim đi. Chúng chẳng ra làm sao. Phí cả phim. Và hẳn
ông biết là độ nầy phim đắt thế nào.
Anh ta là một kẻ nói dối tồi, Robert
nghĩ. Anh ta đă quá lo sợ. Robert nói vẻ thông cảm:
- Chán thật. Lẽ ra th́ những tấm ảnh
đó sẽ rất có ích đấy.
Anh không đả động ǵ tới danh sách
những hành khách kia. Nếu như Mothershed đă nói dối về những tấm
ảnh th́ anh ta cũng sẽ nói dối về những hành khách. Robert đưa
mắt nh́n quanh. Những tấm ảnh và cả bản danh sách phải được giấu
đâu đó. Hẳn là không khó t́m. Căn hộ bao gồm một pḥng khách
nhỏ, pḥng ngủ, pḥng tắm và có một cái cửa h́nh như dẫn vào một
pḥng xép. Không có cách nào có thể buộc người đàn ông nầy đưa
ra những thứ kia. Nhưng anh muốn có những tấm ảnh và bản danh
sách đó trước khi Cơ quan T́nh báo Anh ṃ tới và nẫng chúng đi.
Anh cần bản danh sách đó cho chính ḿnh.
- Vâng. - Mothershed thở dài. - Những
tấm ảnh đó đáng giá cả một gia tài ấy chứ.
- Hăy kể cho tôi nghe về chiếc phi
thuyền không gian đi xem nào, - Robert nói.
Mothershed nhún vai ra vẻ miễn cưỡng.
Cái cảnh khủng khiếp đó đă in vào óc anh ta măi măi.
- Tôi sẽ không bao giờ quên được nó, -
anh ta nói. - Chiếc phi thuyền dương như… rung động, như thể nó
vẫn c̣n đang hoạt động. Nó có cái ǵ đó thật khủng khiếp. Và ở
bên trong có xác của hai sinh vật lạ.
- Ông có thể kể cho tôi nghe đôi điều
về những người khách đi trên chiếc xe bus được chứ.
Chắc chắn rồi, Mothershed nghĩ
một cách hả hê. Tôi có tên và địa chỉ của họ.
- Không, tôi sợ là không thể. -
Mothershed tiếp tục cố giấu đi sự hồi hộp của ḿnh. - Lư do tôi
không thể giúp ǵ ông về những người khách là ở chỗ tôi không đi
chiếc xe đó. Tất cả bọn họ đều là những người lạ.
- Tôi hiểu. Ồ, cảm ơn về sự hợp tác
của ông, ông Mothershed. Tôi đánh giá cao điều đó. Lấy làm tiếc
về những tấm ảnh của ông.
- Tôi cũng vậy, - Mothershed nói.
Anh ta nh́n cánh cửa khép lại sau lưng
người lạ kia và sung sướng nghĩ. Ḿnh cừ thật. Ḿnh đă qua mặt
bọn chó đẻ kia.
Bên ngoài hành lang, Robert đang xem
xét cái ổ khoá trên cánh cửa. Một ổ khoá Chubb. Và là một model
cổ. Anh chỉ cần vài giây để mở nó. Anh sẽ theo dơi ngôi nhà vào
lúc nữa đêm và chờ tay thợ ảnh rời khỏi nhà vào buổi sáng. Một
khi ḿnh có danh sách những hành khách kia trong tay th́ nhiệm
vụ c̣n lại sẽ là đơn giản.
***
Robert thuê pḥng trong một khách sạn
nhỏ gần căn hộ của Mothershed và gọi điện cho tướng Hilliard.
- Thưa tướng quân, tôi có tên của tay
nhân chứng người Anh.
- Đợi một chút. Rồi. Nói đi, ông sĩ
quan.
- Leslie Mothershed. Anh ta sống ở
Whitechael, số 213 A đường Grove.
Robert không nhắc tới bản danh sách
hành khách và những tấm ảnh. Cái đó là những con chủ bài của anh
trong vụ nầy.
***
Cửa hiệu Reggir nằm trong một ngơ cụt
nhỏ trên đường Brompton. Đó là một cửa hiệu nhỏ mà khách hàng
của nó chủ yếu là đám nhân viên và thư kư làm việc quanh đó.
Những bức tường cửa hiệu phủ đầy áp phích quảng cáo về bóng đá
và những phần tường c̣n có thể nh́n thấy th́ không hề được quét
vôi kể từ cuộc chiến tranh ở kênh Suez.
Chiếc điện thoại ở sau quầy hàng réo
vang hai lần trước khi một người đàn ông to lớn mặc chiếc áo len
to sù nhấc ống nghe lên. Người đàn ông trông rơ là kẻ sống ở khu
Đông thành phố, trừ cái kính một mắt có gọng bịt vàng được gắn
chặt phía trong tṛng à rơ ràng đối với bất kỳ ai nh́n ông ta kỹ
một chút: Con mắt kia của ông ta là bằng thuỷ tinh màu xanh da
trời thường thấy trên các quảng cáo du lịch.
- Reggie đây.
- Đây là Giám mục.
- Dạ, thưa ngài, - Reggie nói, giọng
ông ta đột nhiên chỉ c̣n là một lời th́ thầm.
- Tên của khách hàng chúng ta là
Mothershed. Tên thường gọi là Leslie. Sống ở 213 A đường Grove.
Chúng tôi muốn đơn đặt hàng nầy phải được thực hiện nhanh chóng.
Rơ chưa.
-
Thưa ngài, việc coi như đă xong.
Chương 20
Leslie Mothershed miên man trong giấc mơ vàng ngọc.
Anh ta đang được giới báo chí quốc tế
phỏng vấn. Họ đang hỏi về cái lâu đài khổng lồ mà anh ta vừa mua
ở Scotland, về cái biệt thự của anh ta ở miền Nam nước Pháp và
về chiếc du thuyền lớn. Và có đúng là Nữ Hoàng đă mời ông nhận
chân nhiếp ảnh gia chính thức của Hoàng gia không?. Đúng. Tôi
nói là tôi sẽ trả lời sau. C̣n bây giờ, thưa các quư bà và quư
ông, xin tất cả các vị thứ lỗi cho, tôi không kịp hẹn chương
tŕnh của tôi với đài BBC mất…
Cơn mơ màng của anh ta bị phá ngang
bởi tiếng chuông cửa. Anh ta nh́n đồng hồ. Mười một giờ. Thằng
chó đẻ quay lại à? Anh ta bước đến bên cửa và thận trọng mở cửa.
Trước ngưỡng cửa là một người đàn ông thấp lùn hơn Mothershed
(đó là điều đầu tiên anh ta chú ư) với cặp kính dầy cộp và một
khuôn mặt gầy guộc, tái xám.
- Xin lỗi, - người đàn ông rụt rè nói.
- Tôi xin lỗi là đă làm phiền ông vào giờ nầy. Tôi sống ở cuối
phố.
- Tôi thấy tấm biển ở ngoài nói ông là
một thợ ảnh.
- Việc ǵ hả?
- Ông có làm ảnh hộ chiếu không ạ?
Leslie Mothershed làm ảnh hộ chiếu?
Con người sắp có cả thế giới nầy ấy à? Điều đó cũng giống như
đ̣i Mechelangelo quét vôi buồng tắm vậy.
- Không, - anh ta thô bạo nói và toan
khép cửa lại.
- Thực sự là tôi không muốn làm phiền
ông, nhưng tôi đang kẹt quá: Chuyến bay đi Tokyo của tôi là vào
tám giờ sáng mai, thế mà trước đây một chút tôi lấy hộ chiếu ra
xem và lạ rằng không hiểu thế nào mà cái ảnh bị bong ra. Không
thấy đâu cả. Tôi đă t́m khắp mọi nơi. Họ sẽ không cho tôi lên
máy bay khi mà hộ chiếu không có ảnh. - Người đàn ông nhỏ bé gần
như sắp phát khóc.
- Tôi lấy làm tiếc, - Mothershed nói,
- tôi không thể giúp ông.
- Tôi xin trả ông một trăm bảng.
Một trăm bảng? Cho một người có cả một
lâu đài một biệt thự và một du thuyền ư? Đó là một sự xúc phạm.
Người đàn ông nhỏ bé, yếu ớt kia nói
tiếp:
- Thậm chí tôi có thể trả cao hơn. Hai
trăm hoặc ba trăm. Ông biết đấy, thực sự là tôi phải có mặt trên
chuyến bay đó, nếu không tôi sẽ bị mất chỗ làm việc của ḿnh.
Ba trăm bảng để chụp một tấm ảnh hộ
chiếu.
Không kể việc rửa ảnh th́ nó chỉ mất
chừng mười giây Mothershed bắt đầu tính toán. Điều đó có nghĩa
là 1800 bảng một phút. Một ngh́n tám trăm bảng một phút có nghĩa
là 10800 bảng một giờ. Nếu như anh ta làm một ngày tám tiếng,
điều đó có nghĩa là 94400 bảng một ngày. Trong một tuần, con số
đó sẽ là…
- Ông sẽ làm chứ ạ?
Sự hợm hĩnh của Mothershed bị thách
thức bởi ḷng tham và ḷng tham đă thắng. Ḿnh có thể có một
chút tiền tiêu vặt.
- Mời vào, - Mothershed nói. - Đứng
sát vào bức tường kia đi.
- Cám ơn. Tôi thật sự biết ơn ông.
Mothershed thầm mong anh ta có một
chiếc máy ảnh polaroid. Cái máy đó sẽ làm mọi việc trở nên thật
đơn giản. Anh ta cầm chiếc Vivitar của ḿnh lên và nói:
- Yên nhé.
Mười giây sau, việc đă xong.
Sẽ phải mất một chút thời gian đề rửa
ảnh, Mothershed nói. - Nếu như ông trở lại vào lúc…
- Nếu không có ǵ phiền th́ tôi xin
chờ.
- Tuỳ ông thôi.
Mothershed cầm chiếc máy ảnh đi vào
pḥng tối, đút nó vào trong cái túi đen, tắt chiếc đèn trên đầu
và bật ngọn đèn đỏ, rồi tháo phim ra. Anh ta sẽ làm việc nầy một
cách qua quưt. Dù sao th́ ảnh hộ chiếu trông cũng thường xấu xí.
Mười lăm phút sau, khi Mothershed đang ngâm phim trong thuốc
hiện th́ bắt đầu ngửi thấy mùi khói. Anh ta ngừng tay. Có phải
là ḿnh tưởng tượng ra không nhỉ? Không. Mùi khói mỗi lúc một
nồng nặc hơn. Anh ta quay ra mở cửa.
Cửa dường như bị kẹt. Mothershed đẩy
mạnh. Cánh cửa vẫn đóng chặt.
- Nầy, - anh ta gọi vọng ra. - Có
chuyện ǵ ngoài ấy thế?
Không có tiếng đáp lại.
- Nầy! - Anh ta t́ vai vào cánh cửa cố
đẩy ra nhưng dường như ở phía ngoài có một vật ǵ đó đè nặng giữ
chặt cánh cửa. - Ông ǵ ơi?
Không có tiếng trả lời. Âm thanh duy
nhất mà anh ta nghe thấy ở bên ngoài đó là một tiếng đổ vỡ lớn.
Mùi khói càng thêm nồng nặc. Căn hộ đang bị cháy. Có thể v́ thế
mà ông ta chạy ra. Hẳn là ông ta đang đi kêu cứu. Leslie
Mothershed lao vai vào cánh cửa mạnh hơn, nhưng cánh cửa không
bật ra.
- Cứu - Anh ta thét lên. - Cứu tôi
với.
Khói bắt đầu tràn vào phía dưới cánh
cửa, và Mothershed cảm thấy lửa đang bắt đầu liếm vào nó. Không
khí trở nên ngột ngạt. Anh ta bắt đầu nghẹt thở. Phổi anh ta
bỏng rát và anh ta bắt đầu ngất đi. Anh ta khuỵu xuống.
- Ôi lạy Chúa, xin đừng để con chết
vào lúc nầy. Đừng vào lúc mà con sắp làm giàu có và nổi tiếng…
***
- Reggie đây.
- Đơn đặt hàng đă làm xong chưa?
- Thưa ngài, rồi ạ. Hơi quá lửa một
chút nhưng đúng lúc.
- Tuyệt vời.
***
Vào lúc hai giờ sáng, khi Robert đến
đường Grove để bắt đầu việc theo dơi, anh thấy đường phố bị tắc
nghẽn. Khúc phố đầy những xe cứu hoả, xe cấp cứu và xe cảnh sát.
Robert lách qua đám đông những người đang đứng xem và vội vă
chen vào sát bên trong. Toàn bộ toà nhà bị ngọn lứa trùm lên. Từ
bên ngoài, anh có thể thấy rằng căn hộ của tay thợ ảnh ở tầng
hai đă bị thiêu rụi hoàn toàn.
- Chuyện xảy ra thế nào vậy? - Robert
hỏi một người lính cứu hoả.
- Chúng tôi chưa rơ. Xin đứng lùi lại
cho.
- Người bà con của tôi sống trong căn
hộ kia. Anh ấy có làm sao không?
- Tôi e là nghiêm trọng. - Giọng anh
ta trở nên thông cảm. - Hiện họ đang mang anh ta ra khỏi toà nhà
đấy.
Robert trông theo hai nhân viên y tế
đẩy chiếc cáng bên trên có một thi thể vào trong một chiếc xe
cấp cứu.
- Tôi sống cùng với anh ấy, - Robert
nói. - Tất cả xống ảo của tôi ở cả trong đó. Tôi muốn vào và…
- Chẳng ích ǵ đâu, thưa ông. Trong đó
chẳng c̣n ǵ ngoài đống tro tàn. - Người lính cứu hoả lắc đầu.
Không c̣n ǵ ngoài tro tàn. Kể cả
những tấm ảnh và bản danh sách hành khách quư giá kia với tên
tuổi và địa chỉ của họ. Một sự không may khốn kiếp, Robert
cay đắng nghĩ.
***
Tại Washington, Dustin Thornton đang
ăn trưa với ông bố vợ trong một pḥng ăn riêng xa hoa ở khu văn
pḥng của Williard Stone. Dustin Thornton cảm thấy hồi hộp.
Trước mặt ông bố vợ đầy thế lực bao giờ ông ta cũng mất đi vẻ tự
nhiên.
Williard Stone đang ở trong một tâm
trạng vui vẻ.
- Tối qua, tôi cùng ăn tối với Tổng
thống. Ông ta nói với tôi rằng ông ta rồi hài ḷng về công việc
của anh, Dustin.
- Con rất biết ơn.
- Anh làm việc khá đấy. Anh đang giúp
vào việc chống lại đám người đó.
- Đám người nào.
- Những kẻ muốn bắt đất nước vĩ đại
nầy phải quỳ gối. Nhưng không chỉ là những kẻ thù bên ngoài đ̣i
hỏi chúng ta phải cảnh giác. Đám đó là cả những kẻ làm ra bộ
phục vụ đất nước của chúng ta, nhưng không hoàn thành bổn phận
của ḿnh. Nhưng kẻ không chấp hành mệnh lệnh.
- Những kẻ lầm lạc.
- Đúng thế đó. Dustin. Những kẻ lầm
lạc. Chúng phải bị trừng phạt. Nếu như…
Một người đàn ông bước vào pḥng.
- Xin thứ lỗi cho tôi, thưa ông Stone.
Các quư ông đó đă đến. Họ đang đợi ông ạ.
-
Được Stone quay sang con rể. - Ăn cho xong đi Dustin. Tôi có
chút việc quan trọng phải làm. Có thể một hôm nào đó tôi sẽ nói
lại cho anh nghe.
Chương 21
Các đường phố Zurich chật ních với những sinh vật trông kỳ dị có
những h́nh thù quái gở, những tên khổng lồ dị dạng với những
thân h́nh to lớn, kỳ cục, những cặp mắt nhỏ xíu và mầu da giống
như màu cá luộc Họ là giống ăn thịt và cô ghét cái thứ mùi hôi
hám toả ra từ thân thể họ. Một số thuộc giống cái mang trên
người những mảnh da thú, sản phẩm c̣n lại của những thú vật đă
bị họ giết hại. Cô vẫn c̣n choáng váng với cái tai nạn khủng
khiếp đă cướp đi sự sống của các bạn đồng hành của cô.
Cô đă ở trái đất bốn chu kỳ thời gian
mà những sinh vật lạ lùng nầy gọi là tháng, và cô đă không ăn ǵ
trong suốt thời gian đó. Cô khát đến lả người đi…
Chút nước duy nhất mà cô đă uống được
là chút nước mưa trong cái máng của người chủ trại, và từ đêm đó
trời không hề có mưa. Ngoài thứ nước đó th́ mọi thứ nước trên
trái đất nầy là không thể uống được.
Cô đă đi vào một nơi để ăn uống những
thứ xa lạ nhưng cô không thể nào chịu nổi mùi hôi hám. Cô đă thử
ăn rau và quả tươi của họ, nhưng chúng chẳng có vị ǵ và không
ngon lành như thức ăn ở nhà.
Cô có tên là Duyên Dáng 1, dáng người
cao, nghiêm trang, xinh đẹp với cặp mắt màu xanh lá cây ngời
sáng. Kể từ lúc rời khỏi nơi xảy ra tai nạn, cô đă hoá thân
thành một người trái đất, và đi qua những đám đông mà không hề
bị để ư.
Cô ngồi trước một cái bàn, trên một
cái ghế cứng quèo rất bần tiện được làm cho con người, và cô đọc
những ư nghĩ của những sinh vật ở quanh cô.
Có hai sinh vật đang ngồi bên một
chiếc bàn gần kề. Một sinh vật nói to:
Đó là cơ hội cả đời chỉ có một lần,
Frank ạ. Chỉ cần năm mươi ngàn francs là anh có thể bắt đầu rồi.
Anh có năm mươi ngàn francs, phải không nào? - Cô đọc những ư
nghĩ trong đầu anh ta. Nào, đồ con lợn. Tao cần số tiền đó.
Tất nhiên, nhưng tôi không biết. -
Tôi sẽ phải vay khoản tiền đó ở vợ tôi.
Đă bao giờ tôi xui bậy anh trong
chuyện đầu tư chưa hả? - Hăy quyết định đi.
Đó là một khoản tiền lớn. - Cô ta
sẽ không bao giờ đưa nó cho tôi cả.
Nhưng c̣n về tiềm năng? Đó là cơ hội
kiếm bạc triệu đấy? - Hăy đồng ư đi.
Thôi được Tôi tham gia. - Có thể
phải bán đi một ít nữ trang của cô ấy.
Ḿnh ăn được nó rồi. Frank, anh sẽ
không bao giờ phải hối tiếc đâu. - Hăn ta hoàn toàn có thể thua
thiệt về thuế.
Duyên Dáng 1 không hề hiểu nổi câu
chuyện đỏ có ư nghĩa ǵ.
Ở phía cuối pḥng ăn, một người đàn
ông và một người đàn bà đang cùng ngồi bên một chiếc bàn. Họ
đang th́ thầm nói chuyện với nhau. Cô định thần để lắng nghe câu
chuyện của họ.
Lạy Chúa. - Người đàn ông nói. - Quái
quỷ thế nào mà em lại có chửa được hả? Cô là đồ ngu ngốc.
Thế anh nghĩ v́ sao mà em có chửa hả?
- V́ báu vật giống đực của anh đấy.
Có chửa là cách mà những sinh vật nầy
thai nghén, sinh sản một cách vụng về bằng các cơ quan sinh dục,
của họ, giống như những con vật trên cánh đồng vậy.
Tina, về chuyện nầy em định thế nào? -
Cô ta phải đi phá thai.
Ê. Anh muốn em làm ǵ hả? Anh bảo là
anh sẽ nói với vợ anh về em mà. - Anh là một thằng nói dối
khốn kiếp.
Nầy em yêu, anh sẽ nói, nhưng lúc nầy
không được. - Tôi dính với cô một cách thật là điên rồ. Lẽ ra
tôi phải biết cô là kẻ gây rắc rối.
Paul, lúc nầy em cũng thật buồn. Thậm
chí em không c̣n nghĩ là anh yêu em. - Xin hăy nói là anh yêu em
đi. - Tất nhiên là anh yêu em. Chỉ có điều ngay lúc nầy chính là
lúc vợ anh đang gặp hoàn cảnh khó khăn. - Tôi không hề định để
mất cô ấy.
Lúc nầy em cũng đang gặp khó khăn. Anh
không hiểu điều đó à? Em đang mang bầu đứa con của anh. - Và anh
không hề có ư định cưới tôi. Nước mắt chảy ra từ hai mắt cô ta.
B́nh tĩnh nào, em yêu. Anh đảm bảo với
em là mọi chuyện rồi sẽ ổn cả. Anh cũng muốn có con như em thôi.
- Ḿnh sẽ phải thuyết phục cô ta đi phá thai.
Ở cái bàn kề bên họ, một sinh vật
giống đực đang ngồi một ḿnh.
Họ đă hứa với ḿnh. Họ nói là
cuộc đua đă được ấn định, rằng ḿnh không thể thua, và như một
thằng ngốc, ḿnh đă ném tất cả tiền cho bọn họ. Ḿnh phải t́m
cách kiếm lại trước khi đám thanh tra tới. Ḿnh không thể nào
chịu được nếu họ tống ḿnh vào tù. Ḿnh sẽ tự sát trước. Thề có
Chúa, ḿnh sẽ tự sát.
Tại một chiếc bàn khác, một người đàn
ông và một người đàn bà đang dở câu chuyện.
- Không hề có chuyện như vậy. Đơn giản
là anh đă mua ngôi nhà nghỉ xinh đẹp trên núi nầy, và anh nghĩ
là sẽ tốt cho em khi đi nghỉ cuối tuần cho thoải mái. - Chúng ta
sẽ có nhiều thời gian nghỉ ngơi trên giuờng của anh, cô bé ạ.
Claude, em không biết. Em chưa bao giờ
đi xa với một người đàn ông nào. - Ḿnh ngờ là anh ta tin như
thế.
Phải, nhưng đây không phải là chuyện
t́nh dục đâu. Anh chợt nghĩ đến cái nhà nghỉ bởi v́ em nói là em
cần được nghỉ ngơi. Em có thể nghĩ về anh như một người anh trai
của em - Và chúng ta sẽ thử phạm cái tội loạn luân đầy vui thú
và cổ lỗ kia xem sao.
Duyên Dáng 1 không hề biết rằng những
người khác nói nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau, bởi lẽ cô có thể
chen vào trong đầu họ bằng ư thức của ḿnh và hiểu họ đang nói
ǵ.
Ḿnh phải t́m cách liên lạc với tàu
mẹ, cô nghĩ.
Cô lấy ra nột cái máy phát xách tay
màu bạc. Đó là một hệ thống mạch liên hợp phân cách mà một nửa
gồm vật chất hữu cơ sống và nửa kia gồm một hợp chất kim loại
của một hệ mặt trời khác. Nhóm vật chất hữu cơ bao gồm hàng
ngh́n tế bào đơn lẻ để khi chúng chết đi, những tế bào mới được
nhân ra và giữ cho những liên lạc liên tục. Thật không may, cái
bộ phận tinh thể dùng để điều khiển chiếc máy phát đă găy ra và
rơi mất. Cô đă thử liên lạc với tàu mẹ, nhưng thiếu bộ phận nầy
chiếc máy phát trở nên vô tích sự.
Cô cố ăn thêm một lá rau diếp nữa,
nhưng không c̣n chịu nổi mùi vị của nó. Cô đứng dậy và bước ra
phía cửa. Cô thu ngân gọi phía sau:
- Thưa cô, xin chờ một phút. Cô chưa
trả tiền ăn.
- Tôi xin lỗi. Tôi không có thứ phương
tiện thanh toán của các bạn.
- Cô có thể nói điều đó với cảnh sát
ấy.
Duyên Dáng 1 nh́n thẳng vào mắt cô thu
ngân và chờ cô ta khuỵu xuống. Cô quay đi và bước khỏi chỗ ăn
uống đó.
Ḿnh phải t́m cái bộ phận tinh thể. Họ đang chờ nghe tin tức của
ḿnh. Cô đă phải cố tập trung các giác quan, nhưng mọi thứ dường
như cứ nhoè đi và méo mó. Không có nước, cô biết thế, cô sẽ chết
mất.
Chương 22
Ngày thứ năm.
Bern, Thuỵ Sĩ.
Robert đang đi vào ngơ cụt. Anh không
nhận ra là đă trông cậy nhiều thế nào vào việc kiếm được cái
danh sách của Mothershed. Tan thành mây khói cả. Robert nghĩ.
Theo đúng nghĩa đen của nó. Các dấu vết bây giờ thật mờ nhạt. Lẽ
ra ḿnh phải đoạt bản danh sách kia lúc ḿnh ở trong căn hộ của
Mothershed.
Điều đó sẽ dạy cho ḿnh một bài học.
Tất nhiên. Một ư nghĩ đâu đó có trong đầu anh chợt nổi lên. Hans
Beckerman có nói: "Tất cả những hành khách đều muốn được xem cái
vật thể bay lạ và những sinh vật chết trong đó, nhưng cái lăo
già ấy th́ cứ phàn nàn đ̣i sớm về Benr bởi v́ lăo ta phải chuẩn
bị một bài giảng ở trường đại học". Chuyện thật mơ hồ, nhưng đó
là tất cả những ǵ Robert có trong tay.
Anh thuê một cái xe ở sân bay Bern và
chạy về hướng trường đại học. Anh rời khỏi đường Rathausgasse,
con đường chính của thành phố Bern và lái xe chạy tới
Langgassetrsase, nơi có Đại học Bern. Trường đại học nầy gồm dăm
toà nhà, cao bốn tầng, với hai dăy ngang và những tượng đá lớn
trên mái. Ở mỗi đầu sân, mặt trước của toà nhà là nhùng cửa sổ
bằng kính của nhữtng pḥng hộc, và ở phía sau trường là một
khoảng vườn lớn nh́n ra sông Aare.
Robert bước lên bậc thềm của toà nhà
hành chính và bước vào pḥng thường trực. Thông tin duy nhất mà
Beckerman trao cho anh là ông khách đó người Đức và ông ta đang
chuẩn bị bài giảng cho ngày thứ Hai.
Một sinh viên đă chỉ cho anh tới Pḥng
hành chính.
Một phụ nữ ngồi sau bàn có một vóc
người thật dễ sợ. Bà ta mặc một bộ complê cắt rất vừa vặn, mang
một cặp kính gọng đen và tóc được búi thành một búi nhỏ. Bà ta
ngước nh́n lên khi Robert bước vào.
- Xin mời.
Robert móc ra một tấm thẻ cảnh sát
quốc tế.
- Tôi đang thực hiện một cuộc điều
tra, và tôi sẽ đánh giá cao sự hợp tác, thưa cô.
- Bà. Bà Schreiber. Điều tra chuyện ǵ
vậy?
- Tôi đang t́m kiếm một giáo sư.
- Tên ông ta? - Bà ta cau mầy.
- Tôi không biết.
- Ông không biết cả tên ông ta?
- Không. Ông ta là một giảng viên mời
thôi. Ông ta có một bài giảng ở đây, cách đây vài ngày. Hôm thứ
Hai.
- Ngày nào cũng, có nhiều giảng viên
mời tới đây giảng bài. Môn học của ông ta là môn ǵ?
- Bà nói ǵ ạ?
- Ông ta dạy môn ǵ? - Giọng bà ta trở
nên mất kiên nhẫn. - Ông ta dạy môn học ǵ?
- Tôi không biết.
Bà ta không giấu vẻ bực tức.
- Trời đất. Tôi không thể giúp ông. Và
tôi không có th́ giờ cho những chuyện phù phiếm nầy. Bà ta định
quay đi.
- Ồ, đây không phải là chuyện phù
phiếm. - Robert cam đoan với bà ta. - Hoàn toàn nghiêm túc đấy.
- Anh cúi xuống và thấp giọng nói. - Tôi sẽ phải để bà biết công
việc của tôi. - Vị giáo sư nầy liên quan tới một tổ chức đĩ
điếm.
Bà Schreiber há mồm kinh ngạc.
- Cảnh sát quốc tế đă theo dơi ông ta
trong nhiều tháng. Thông tin chúng tôi hiện có cho thấy ông ta
là người Đức và rằng ông ta có một bài giảng ở đây vào ngày mười
lăm tháng nầy. - Anh đứng thẳng người lên. - Nếu bà không muốn
giúp đỡ, chúng tôi có thể tiến hành một cuộc điều tra chính thức
tại trường nầy. Tất nhiên, dư luận…
- Không, không. - Bà ta nói. - Không
thể để nhà trường liên quan tới một chuyện như vậy. - Trông bà
ta đầy vẻ lo ngại. - Ông nói là ông ta giảng bài ở đây hôm nào
nhỉ?
- Ngày mười lăm. Thứ hai.
Schreiber nhỏm dậy và đi tới bên tủ hồ
sơ. Bà ta mở tủ và lướt qua đám giấy má. Từ một chiếc cặp, bà ta
rút ra mấy tờ giấy.
- Đây rồi! Có ba giáo sư mời giảng vào
hôm mười lăm.
- Người tôi muốn biết là người Đức.
Tất cả họ đều là người Đức. -
Schreiber nói quả quyết. Bà ta sắp xếp mấy tờ giấy trong tay. -
Một bài giảng là về các vấn đề kinh tế, một về hoá học và một về
tâm lư…
- Tôi có thể xem chúng được không?
Một cách miễn cưỡng, bà ta đưa xấp
giấy cho Robert.
- Anh xem kỹ từng tờ. Trên mỗi tờ đều
có một cái tên với địa chỉ nhà riêng và số điện thoại.
- Nếu ông muốn, tôi có thể làm bản sao
cho ông.
- Không, cảm ơn. - Anh đă nhớ tất cả
những cái tên và những con số. Không có ai trong số nầy là người
mà tôi đang t́m kiếm.
Bà Schreiber thở phào nhẹ nhơm.
Ôi cảm ơn Chúa. Đĩ điếm. Chúng tôi sẽ
không bao giờ dinh dáng đến một chuyện như vậy.
- Xin lỗi đă làm phiền bà v́ một
chuyện không đâu.
Robert đi ra và hướng tới một trạm
điện thoại công cộng trong thành phố.
Cú điện thoại đầu tiên là tới Berlin.
- Giáo sư Streubek phải không ạ?
- Phải.
Đây là Công ty xe du lịch Sunshine.
Ông để quên kính trên chiếc xe bus của chúng tôi hôm chủ nhật
trước khi ông đi du lịch ở Thuỵ Sĩ và…
- Tôi không hiểu ông muốn nói chuyện
ǵ nữa. - Giọng ông ta có vẻ khó chịu.
- Ông ở Thuỵ Sĩ hôm mười bốn, có phải
vậy không, thưa giáo sư?
- Không. Ngày mười lăm. Để giảng bài ở
Đại học Bern.
- Và ông không đi chuyến xe du lịch
của chúng tôi ư?
- Tôi không có th́ giờ cho một chuyện
ngốc nghếch như vậy. Tôi là một người bận rộn. - Và ông giáo sư
gác máy.
Cú điện thoại thứ hai là tới Hamburg.
- Giáo sư Heinrich phải không ạ?
- Đây là giáo sư Heinrich!
Công ty xe du lịch Sunshine. Ông có ở
Thuỵ Sĩ vào ngày mười bốn tháng nầy phải không ạ?
- V́ sao mà ông muốn biết?
Bởi v́ chúng tôi t́m thấy chiếc cặp
của ông trên một trong những chiếc xe bus của chúng tôi, thưa
giáo sư, và…
- Ông nhầm người rồi, tôi không có mặt
trên chiếc xe bus du lịch nào hết.
- Ông không đi tuyến du lịch của chúng
tôi đến Jungfrau à?
- Tôi đă nói với ông rồi, không.
- Tôi xin lỗi v́ đă làm phiền ông.
Cú điện thoại thứ ba được gọi tới
Munich.
- Giáo sư Otto Schmidt phải không ạ?
- Vâng.
- Giáo sư Schmidt, đây là công ty xe
du lịch Sunshine. Chúng tôi giữ cặp kính mà ông đă để quên trên
một chiếc xe của chúng tôi cách đây ít hôm, và…
Hẳn là có chuyện nhầm lẫn rồi.
Tim Robert thắt lại. Anh đă thua.
Không c̣n ǵ để mà tiếp tục nữa. Giọng nói ở đầu dây kia tiếp
tục.
- Tôi có kính của tôi đây thôi. Tôi
đâu có mất.
Robert chợt thấy phấn chấn.
- Ông chắc thế chứ, giáo sư? Ông đi
tuyến Jungfrau ngày mười bốn có phải không ạ?
- Vâng, vâng, nhưng tôi đă nói rồi,
tôi không mất ǵ cả mà.
- Cảm ơn ông rất nhiều, thưa giáo sư.
- Robert gác máy. Ṿ bở rồi.
Robert, quay mấy số máy khác, và chỉ
sau hai phút anh đă đang nói với tướng Hilliard.
- Tôi có hai việc phải báo cáo. -
Robert nói. - Về nhân chứng ở London mà tôi đă nói với ngài.
- Sao?
- Anh ta đă chết trong một vụ cháy đêm
qua.
- Thế hả? Thật tệ quá.
- Thưa ngài, vâng. Nhưng tôi tin rằng
tôi đă phát hiện một nhân chứng khác. Tôi sẽ để ngài biết ngay
sau khi kiểm tra lại.
- Tôi sẽ chờ báo cáo của ông, ông sĩ
quan.
Tướng Hilhard đang báo cáo với Janus.
- Sĩ quan Bellamy đă phát hiện một
nhân chứng nữa.
- Tốt. Nhóm công tác đang trở nên sốt
ruột. Tất cả đều lo ngại rằng câu chuyện sẽ loang ra trước khi
SDI đi vào hoạt động.
- Ṭi sẽ sớm có những thông tin nữa
cho ngài.
- Tôi không muốn thông tin, tôi muốn
thấy những kết quả.
- Vâng, thưa ngài Janus.
***
Platténstrasse, ở Munich, là một khu
phố nhỏ, yên tĩnh với những ngôi nhà xây bằng gạch màu nâu xám
xịt co cụm lại với nhau như thể để pḥng vệ.
Ngôi nhà số 5 giống hệt với những ngôi
nhà hàng xóm. Bên trong cổng là một dăy hộp thư. Một tấm biển
nhỏ dưới một trong những hộp thư có ghi ḍng chữ "Giáo sư Otto
Schmidt". Robert bấm chuông.
Một người đàn ông cao, gầy với một mớ
tóc bạc loà xoà mở cửa. Ông ta mặc một chiếc áo nhàu nhĩ, mồm
ngậm chiếc tẩu. Robert không hiểu liệu ông ta tạo ra h́nh ảnh
một giáo sư đại học mô phạm hay chính cái h́nh ảnh đó là tạo ra
ông ta.
- Ông là giáo sư Schmidt?
- Phải!
- Tôi không biết liệu tôi có thể nói
chuyện với ông một lát được không. Tôi ở…
- Chúng ta đă nói chuyện với nhau, -
giáo sư Otto Schmidt nói. - Ông là người đă gọi điện thoại cho
tôi sáng nay. Tôi là một chuyên gia trong lĩnh vực nhận biết
giọng nói. Mời vào.
- Cám ơn ông.
Robert bước vào một căn pḥng bề bộn
sách vở. Trên các bức tường, từ sàn nhà lên tới trần là những
giá sách đầy kín. Ở đâu cũng thấy sách trên bàn, trên sàn, trên
ghế. Đặc điểm nổi bật trong căn trong căn pḥng dường như là
những việc làm chưa được nghĩ kỹ.
- Ông chẳng phải là từ một hăng du
lịch Thuỵ Sĩ nào cả, có phải thế không hả?
- Ô tôi…
- Ông là người Mỹ.
- Vâng.
- Và cuộc viếng thăm nầy không liên
quan ǵ đến cặp kính không hề bị mất của tôi.
- Ồ không, thưa ông.
- Ông quan tâm đến cái vật thể bay lạ
mà tôi đă nh́n thấy. Đó là một cảnh tượng ghê sợ. Tôi đă luôn
tin rằng có thể có những thứ đó, nhưng tôi không bao giờ nghĩ là
tôi sẽ được chứng kiến.
- Hẳn phải là một cú sốc khủng khiếp.
- Đúng thế.
- Ông có thể kể cho tôi nghe chút ǵ
về chuyện đó không?
- Nó, nó dường như vẫn hoạt động. Có
một thứ ánh sáng lung linh bao quanh nó. Xanh da trời. Không có
thể là hơi xám một chút. Tôi, tôi không chắc.
Anh nhớ lại lời mô tả của Mandel: "Nó
liên tục thay đổi màu sắc. Trông nó thoáng xanh da trời… rồi lại
xanh lá cây. Nó đă bị vỡ toang ra và tôi nh́n thấy được hai xác
chết trong đó. Nhỏ… mắt to. Họ mặc thứ ǵ đó giống như một bộ
quần áo bằng bạc vậy…"
- Ông có thể kể ǵ với tôi về những
bạn đồng hành của ông không?
- Những người cùng đi với tôi trên
chiếc xe bus ấy à?
- Vâng.
Vị giáo sư nhún vai.
- Tôi không biết ǵ về họ cả. Tất cả
bọn họ đều là những người lạ. Khi đó tôi đang tập trung về một
bài giảng mà tôi sẽ giảng vào sáng ngày hôm sau. Tôi rất ít để ư
tới những hành khách khác.
Robert nh́n vẻ mặt ông ta, chờ đợi.
- Nếu như nó sẽ là có ích cho ông, -
Vị giáo sư nói, - th́ tôi có thể nói cho ông biết họ là người
nước nào. Tôi dạy hoá học, nhưng có sở thích về nghiên cứu âm
thanh.
- Bất kỳ những ǵ ông nhớ được đều
đáng quư cả.
- Có một tu sĩ người Italia, một người
Anh, một người Hungary, một người Mỹ nói giọng Texas, một cô gái
Nga.
- Nga à?
- Phải. Nhưng cô ta không phải dân
Mátxcơva. Theo giọng nói, tôi đoán cô ta ở Kiev, hoặc là rất gần
đó.
Robert chờ đợi, nhưng chỉ c̣n có sự im
lặng.
Ông không nghe thấy bất kỳ ai trong số
họ nhắc tới tên hay nói chuyện về nghề nghiệp của họ à?
- Xin lỗi. Tôi đă nói rồi. Tôi đang
suy nghĩ về bài giảng của tôi. Rất khó tập trung suy nghĩ. Người
Mỹ nói giọng Texas và vị tu sĩ ngồi cùng với nhau. Người Mỹ đó
nói luôn mồm. Đủ mọi thứ chuyện. Tôi không biết ông tu sĩ thậm
chí có hiểu hay không.
- Ông tu sĩ…
- Ông ta nói giọng La Mă.
- Ông có thể nói thêm ǵ nữa về bất kỳ
ai trong số họ không?
- Tôi sợ là không. - Vị giáo sư nhún
vai. Ông ta hút một hơi thuốc. - Tôi lấy làm tiếc là không thể
giúp ǵ cho ông.
Một ư nghĩ chợt đến với Robert.
- Ông nói ông là một nhà hoá học phải
không nhỉ?
- Phải.
- Tôi không biết liệu ông có bằng ḷng
nh́n cái nầy một chút không, thưa giáo sư. - Robert tḥ tay vào
túi và lôi ra mẩu kim loại mà Beckerman đă đưa cho anh. - Ông có
thể bảo tôi cái nầy là cái ǵ được không ạ?
Giáo sư cầm cái mẩu kim loại từ tay
Robert, và trong lúc xem xét nó, vẻ mặt ông ta chợt thay đổi.
- Anh, anh kiếm cái nầy ở đâu?
- Tôi sợ là tôi không thể nói được.
Ông có biết nó là cái ǵ không?
Có vẻ như nó là một bộ phận của một
chiếc máy phát.
- Ông có chắc thế không?
Ông ta lật lật miếng kim loại trong
tay.
- Tinh thể nầy là chất dilithium.
Rất hiếm. Thấy những vết khía nầy không? Chúng cho thấy miếng
nầy được gắn vào một bộ phận lớn hơn. Bản thân miểng kim loại…
Lạy Chúa, tôi chưa bao giờ trông thấy cả. - Giọng ông ta đầy xúc
động. - Ông có thể đề cho tôi giữ nó trong vài ngày được không?
Tôi muốn có những phân tích quang phổ về nó.
- Tôi e là không thể được, - Robert
nói.
- Nhưng…
- Xin lỗi, - Robert cầm lại miếng kim
loại.
Vị giáo sư cố giấu vẻ thất vọng.
- Thôi, ông có thể mang nó lại sau
vậy. Sao ông không cho tôi danh thiếp của ông nhỉ. Nếu tôi c̣n
nhớ thêm được ǵ nữa, tôi sẽ gọi cho ông.
- Có vẻ như tôi chẳng c̣n tấm nào ở
đây cả. - Robert lục lọi trong túi một chút.
- Phải rồi, tôi cũng nghĩ là thế. -
Giáo sư Schmidt thủng thẳng nói.
***
- Sĩ quan chỉ huy Bellamy đang trên
máy.
- Đây ông sĩ quan? - Tướng Hilliard
nhấc máy.
- Tên của nhân chứng mới nhất là giáo
sư Schmidt. Ông ta sống ở số 5 Plattenstrasse, Munich.
- Cám ơn ông sĩ quan. Tôi sẽ thông báo
với nhà chức trách Đức ngay lập tức. - Robert đă toan nói: "Tôi
e rằng đó là nhân chứng cuối cùng mà tôi có thể t́m được", nhưng
có điều ǵ đó đă chặn anh lại. Anh không muốn phải thú nhận sự
thất bại. Vậy mà các dấu vết đă trở nên thật mờ nhạt. Một người
Texas và một vị tu sĩ. Vị tu sĩ kia từ La Mă tới. Một thời gian.
Cùng với cả triệu vị tu sĩ khác. Và không có cách nào để nhận
dạng ông ta cả: Ḿnh có một sự lựa chọn. - Robert nghĩ. - Ḿnh
có thể từ bỏ và trở về Washington, hoặc là ḿnh có thể đi Rome
và cố một lần cuối cùng…
***
Trụ sở của Cục Bảo vệ Hiến Pháp, nằm ở
trung tâm Berlin, trên đường Neumarkterstrasse. Đó là một toà
nhà lớn màu xám không có ǵ đặc biệt, khó có thể phân biệt được
với những toà nhà xung quanh.
Bên trong, trên tầng ba, sếp cơ quan,
thanh tra Otto Joachim đang xem một bức điện. Ông ta đọc nó hai
lần, rồi với tay nhấc chiếc điện thoại đỏ trên bàn.
***
Ngày thứ sáu.
Munich, Đức.
Sáng hôm sau, trên đường đi đến pḥng
thí nghiệm hoá học, Otto Schmidt nghĩ lại câu chuyện trao đổi
với người Mỹ tối hôm trước. Cái mẫu kim loại đó có thể từ đâu ra
nhỉ? Một vật mà ông chưa bao giờ thấy. Và cái người Mỹ kia đă
làm cho ông ta ngạc nhiên.
Ông ta nói là quan tâm tới những người
khách đi trên chiếc xe bus. V́ sao? Bởi v́ tất cả họ đều là
những nhân chứng trước cái đĩa bay kia ư? Phải chăng họ sẽ được
khuyến cáo là không được bàn tán? Nếu vậy th́ v́ sao người Mỹ
kia đă không khuyến cáo ḿnh?
Có chuyện ǵ lạ vậy, vị giáo sư kết
luận. Ông ta vào trong pḥng thí nghiệm, cởi áo khoác treo lên
móc và mặc lên người cái áo choàng rỏi bước lại chiếc bàn nơi
ông ta đă làm việc nhiều tuần nay với một thí nghiệm hoá học.
Nếu thành công, ông ta nghĩ, điều nầy có thể có nghĩa là một
giải Nobel. Ông ta nhấc cái cốc đựng nước tinh khiết và rót vào
một b́nh chứa đựng một thứ chất lỏng màu vàng. Lạ nhỉ. Ḿnh
không nghĩ là nó lại có màu vàng sáng thế nầy.
Tiếng nổ thật là khủng khiếp. Căn
pḥng thí nghiệm nồ tung, và những mảnh thuỷ tinh cùng với những
mảnh thịt người văng tung toé lên những bức tường.
Điện khẩn.
Tối mật.
BFV gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
Otto Schmidt đă bị thủ tiêu
Hết.
Robert không nghe được tin về cái
chết của vị giáo sư. Anh đă có mặt trên một chuyến bay của hăng
hàng không Alitalia, trên đường tới Rome.
Chương 23
Dustin Thornton bắt đầu cảm thấy bất an. Giờ đây ông ta có quyền
lực và nó cứ như một thứ ma tuư lại muốn có thêm nữa. Bố vợ ông
ta, Williard Stone, luôn hứa hẹn đưa ông ta vào một thế giới bí
ẩn khép kín nào đó nhưng cho đến giờ lăo vẫn chưa thực hiện lời
hứa đó.
Một cách hoàn toàn ngẫu nhiên,
Thornton biết rằng thứ sáu nào bố vợ ḿnh cũng biến mất.
Thornton đă gọi điện xin ăn trưa với lăo.
- Xin lỗi, - thư kư của Williard Stone
trả lời, - nhưng hôm nay ngài Stone đi vắng.
- Ô chán quá. Thế trưa thứ sáu tới th́
sao?
- Xin lỗi ông Thornton, thứ sáu tới
ngài Stone cũng sẽ đi vắng.
Lạ nhỉ và thậm chí nó c̣n trở nên lạ
hơn khi mà hai tuần sau đó Thornton cũng gọi lại và vẫn nhận
được cùng một câu trả lời. Thứ sáu nào lăo già cũng biến đi đâu
thế nhỉ? Lăo ta không phải là người say mê chơi gôn hay đam mê
một thú vui nào cả.
Lư do hẳn là một người đàn bà. Vợ của
Williard Stone ưa giao thiệp và rất giàu có. Bà ta là một phụ nữ
đài các và cũng có tính cách mạnh mẽ hệt ông chồng. Bà ta không
phải loại phụ nữ tha thứ được cho chồng về chuyện trăng hoa. Nếu
lăo ta đang có một vụ ngoại t́nh, Thornton nghĩ, điều đó có
nghĩa là ḿnh tóm được gáy lăo. Ông ta hiểu là phải t́m ra cho
bằng được.
5 giờ sáng ngày thứ sáu tiếp theo đó,
Dustin Thornton đă ngồi sùm sụp sau tay lái của một chiếc Ford
Taurus rất b́nh thường, đậu cách toà dinh thự sừng sững của
Willard Stone nửa dăy phố. Đó là một buổi sáng lạnh giá và ảm
đạm, và Thornton luôn tự hỏi ông ta đang làm ǵ ở đó. Có thể là
có một lời giải thích hoàn toàn hợp lư nào đó cho cái hiện tượng
kỳ cục nầy của Stone.
Ḿnh đang phí thời gian, Thornton
nghĩ. Nhưng có điều ǵ đó đă ḱm chân ông ta lại.
Lúc 7 giờ, hai cánh cổng lớn mở ra và
một chiếc xe xuất hiện. Ngồi sau tay lái là Williard Stone. Thay
v́ chiếc xe sang trọng thường dùng, lúc nầy lăo ta đang ngồi
trong một chiếc xe chở hàng nhỏ, màu đen mà đám gia nhân vẫn sử
dụng. Thornton đột nhiên cảm thấy hồi hộp. Ông ta biết là ḿnh
đang phát hiện một chuyện ǵ đó. Người ta thường sống theo một
khuôn phép riêng, và Stone đang phá vỡ cái khuôn phép ấy.
Phải là chuyện một người đàn bà.
Lái xe một cách thận trọng và giữ một
khoảng cách khá xa chiếc xe chở hàng, Thornton bám theo ông bố
vợ xuyên qua các đường phố Washington tới một con đường dẫn đi
Arlington.
Ḿnh phải thật tế nhị trong chuyện
nầy, Thornton nghĩ. Ḿnh không muốn làm quá mạnh. Ḿnh sẽ thu
thập tất cả các thông tin có thể có được về lăo, và rồi ḿnh sẽ
lật quân bài. Ḿnh sẽ nói với lăo rằng ḿnh chỉ quan tâm tới
chuyện bảo vệ cho lăo mà thôi. Lăo sẽ hiểu. Lăo chẳng bao giờ
muốn có chuyện bê bối om ṣm.
Dustin Thornton quá mải mê với những
suy nghĩ đến nỗi suưt không rẽ theo Williard Stone. Họ đă tới
một khu dân cư dành riêng. Chiếc xe hàng màu đen đột nhiẽn mất
hút vào con đường nhỏ chạy dài trong bóng cây.
Dustin Thornton dừng xe, lựa chọn cách
theo dơi tốt nhất. Liệu ông ta có nên chạm mặt với Williard
trước sự không chung thuỷ của lăo ta lúc nầy không? Hay nên đợi
cho đến khi Stone đi khỏi và nói chuyện với người đàn bà kia
trước đă? Hay nên yên lặng thu thập tất cả những thông tin cần
thiết và rồi nói chuyện với ông bố vợ? Ông ta quyết định phải
t́m hiểu cụ thể.
Thornton đậu xe ở một đường phụ và đi
ṿng theo con đường nhỏ ở phía sau ngôi nhà hai tầng kia. Một
hàng rào gỗ bao quanh khu sân sau nhưng điều đó không có trở
ngại ǵ. Thornton mở cổng và bước vào bên trong.
Ông ta đang đứng trước một khu vườn
lớn, xinh đẹp và được chăm sóc chu đáo với ngôi nhà khuất phía
sau.
Ông ta nhẹ nhàng đi dưới hàng cây chạy
ngang băi cỏ tới đứng bên cửa sau của ngôi nhà và tính toán bước
đi tiếp theo. Ông ta cần có bằng chứng về chuyện đang xảy ra.
Không có nó th́ lăo già sẽ cười vào mặt cho. Dù chuyện ǵ đang
xảy ra bên trong kia th́ lúc nầy th́ cũng đều có thể là ch́a
khoá dẫn tới tương lai của ông ta. Phải t́m ra cho được.
- Rất nhẹ nhàng, Thornton thử mở cánh
cửa sau.
Nó không được khoá. Ông ta lọt vào bên
trong và thấy ḿnh đang đứng trong một pḥng bếp lớn kiểu cổ.
Không có ai xung quanh cả. Thornton tiến đến bên cánh cửa phụ,
nhẹ nhàng đẩy ra. Trước mặt ông ta là gian tiền sảnh lớn. Ở phía
đầu kia là một cánh cửa đóng kín, có thể là dẫn tới một pḥng
thư viện. Thornton bước tới hết sức nhẹ nhàng. Ông ta đứng nép
bên cánh cửa.
Không hề có tiếng động ǵ bên trong.
Có thể là lăo già đang ở trong pḥng ngủ trên gác.
Thornton đẩy cửa ra. Ông ta đứng trước
ngưỡng cửa, chết đứng. Có hơn một chục người đàn ông đang ngồi
trong pḥng, quanh một chiếc bàn lớn.
-
Vào đi Dustin, - Williard nói. - Chúng tôi đang chờ anh đấy.
Chương 24
T́nh h́nh ở Rome tỏ ra là khó khăn cho Robert, một cuộc thử
thách tinh thần làm cho anh kiệt sức. Anh đă đi nghỉ tuần trăng
mật ở đây với Susan, và ở đây cũng đầy những kỷ niệm. Rome đồng
nghĩa với Roberto, người quản lư khách sạn Hassler cho mẹ anh,
một người nặng tai nhưng có thể nh́n miệng người nói để hiểu với
năm thứ tiếng. Rome có nghĩa là khu vườn của biệt thự D Este ở
Tivoli, và niềm vui sướng của Susan trước một trăm ḍng suối do
con trai của Lucretia Borgia tạo nên. Rome là Otello, dưới chân.
Những bậc thềm Tây Ban Nha, rồi Toà thánh Vatican và những bức
bích hoạ nổi tiếng của Michelangelo. Rome là sự pha trộn giữa
những giai điều nhạc du dương ở Tre Scalini cùng tiếng cười vui
của Susan, và tiếng cô nói: "Robert, hăy hứa với em là chúng
ḿnh sẽ luôn hạnh phúc như thế nầy nhé".
Ḿnh đang làm cái quái ǵ ở đây nhỉ?
Robert băn khoăn. Ḿnh không hề biết tí ǵ về vị tu sĩ kia, hay
thậm chí là liệu ông ta có ở Rome hay không. Đă đến lúc nghỉ
ngơi, về nhà và quên hết những thử nầy.
Nhưng có điều ǵ đó trong anh, một nét
bướng bỉnh thừa kế từ một ông tồ nào đó đă chết từ lâu, ngăn
không cho anh làm như vậy. Ḿnh sẽ cố gắng một ngày nữa, Robert
quyết định. Một ngày nữa thôi.
Sân bay Leonardo da Vinci thật đông
người và đối với Robert th́ dường như bất kỳ ai cũng có thể là
một tu sĩ. Anh đang t́m kiếm một tu sĩ trong thành phố có, bao
nhiêu? Năm mươi ngh́n tu sĩ phải không nhỉ? Hay một trăm ngh́n?
Trên taxi đến khách sạn Hassler, anh chú ư tới những đám đông
các tu sĩ mặc áo choàng đi trên đường phố. Không thể được,
Robert nghĩ. Ḿnh hẳn là điên thật rồi.
Anh được viên phó quản lư chào đón ở
tiền sảnh khách sạn Hassler.
- Ông Bellamy. Thật mừng là lại được
thấy ông.
- Cám ơn. Pietro. Ông có pḥng cho tôi
nghỉ lại một đêm không?
- Cho ông, tất nhiên rồi. Luôn luôn
sẵn sàng.
Robert được đưa đến một pḥng mà anh
đă từng ở.
- Nếu có cần ǵ xin ông cứ…
Tôi cần một điều kỳ diệu khốn kiếp,
Robert nghĩ.
Anh ngả người nằm xuống, cố tĩnh tâm.
V́ sao một tu sĩ ở Rome lại đi Thuỵ Sĩ
nhỉ? Có mấy khả năng. Ông ta có thể đi nghỉ, hoặc có thể dự một
hội nghị tôn giáo. Ông ta là vị tu sĩ duy nhất trên chiếc xe bus
đó. Điều đó có nghĩa ǵ nhỉ? Không ǵ cả. Ngoài một điều là ông
ta không cùng đi với nhóm, có thể như vậy thôi. Bởi thế có thể
là một chuyến đi thăm bạn bè hay gia đ́nh của ông ta. Hoặc cũng
có thể là ông ta đi cùng một nhóm, và riêng ngày hôm đó th́ họ
có những chương tŕnh riêng lẻ. Những ư nghĩ của Robert cứ quẩn
quanh trong một cái ṿng tuyệt vọng.
Hăy trở lại từ đầu. Ông tu sĩ nầy
đă tới Thuỵ Sĩ như thế nào nhỉ? Nhiều khả năng là ông ta
không có một cái xe ô tô riêng. Ai đó có thể cho ông ta đi nhờ,
nhưng khả năng nhiều hơn là việc ông ta đă đi bằng máy bay tầu
hoả hoặc xe bus. Nếu là đi nghỉ th́ ông ta hẳn đă không có nhiều
thời gian. Bởi vậr hăy giả thiết rằng ông ta đă đi bằng máy bay.
Cách lập luận đó chẳng dẫn đến đâu cả.
Các hăng hàng không không ghi lại nghề nghiệp của hành khách.
Vậy th́ vị tu sĩ kia cũng chỉ có một cái tên như bao nhiêu những
cái tên khác trong danh sách hành khách. Nhưng nếu ông ta là
thành viên của một nhóm…
***
Toà thánh Vatican, nơi ở chính thức
của Giáo hoang, vươn lên một cách uy nghi trên đồi Vatican, bên
bờ Tây sông Tiber, phía tây bắc thành Rome. Mái ṿm cao của nhà
thờ Basilica, do Michellangelo thiết kế, đứng sừng sững trên
quảng trường rộng lớn, đêm ngày đầy những khách thuộc đủ mọi tín
ngưỡng.
Quảng trường nầy được bao quanh bởi
những chiếc cột trụ h́nh bán nguyệt được xây dựng xong vào năm
1667 dưới bàn tay của Bernini, với 284 chiếc cột đá hoa cương
xếp thành bốn hàng và trên đó là một bao lớn đỡ 140 bức tượng.
Robert đă thăm nơi nầy tới cả chục lần, nhưng lần nào anh cũng
cảm thấy nghẹt thở trước quang cảnh ở đó.
Tất nhiên, phía trong Toà thánh, quang
cảnh c̣n ngoạn mục hơn nữa. Nhà thờ Sistine: toà bảo tàng và
Cung Sala đẹp đến mức không thể tả xiết.
Nhưng vào ngày hôm đó, Robert đă đến
đây không phải để ngắm cảnh: Anh t́m được Pḥng quan hệ với công
chúng của Toà Thánh ở khu dành cho những việc liên quan đến bên
đời. Người đàn ông trẻ tuổi ngồi sau bàn rất lịch thiệp.
- Tôi có thể giúp ông không ạ?
Robert đưa nhanh tấm thẻ ra.
- Tôi ở tạp chí Time. Tôi đang làm một
bài viết về một số giáo sĩ đă tham dự một hội nghị tôn giáo ở
Thuỵ Sĩ cách đây một hai tuần ǵ đó. Tôi đang cần những tư liệu
về thân thế.
Người đàn ông kia nh́n anh một thoáng,
rồi chau mầy.
- Chúng tôi có một số giáo sĩ dự một
hội nghị ở Venise tháng trước. Gần đây th́ không có giáo sĩ nào
của chúng tôi đến Thuỵ Sĩ cả. Xin lỗi, tôi sợ là tôi không thể
giúp ǵ cho ông.
- Việc nầy thật rất quan trọng, -
Robert vội vă nói. - Làm thế nào để tôi có thể có những thông
tin đó được?
- Cái nhóm mà ông t́m kiếm… họ đại
diện cho ḍng tu nào thế? Ông nói ǵ ạ? Đạo Thiên chúa có rất
nhiều ḍng: Ḍng Francis, Marist, Benetdictine, Trappist,
Jesuit, Dominic và một số ḍng khác nữa.
- Tôi khuyên ông đến ḍng tu của họ và
hỏi ở đó xem.
Chỗ đó là chỗ quái nào? Robert nghĩ.
- Ông có gợi ư nào khác không hả?
- Tôi e là không.
Ḿnh cũng thế, Robert nghĩ. Ḿnh đă
t́m thấy đồng cỏ. Ḿnh không thể nào t́m được cái kim.
Anh rời khỏi Toà Thánh và lang thang
trên các đường phố của thành Rome, mải mê với khó khăn của ḿnh
mà không hề để ư đến những người xung quanh đến quảng trường
Appolo, anh ngồi vào một tiệm cà phê ngoài trời và gọi một ly
Cinzano. Ly rượu vẫn ở yên trước mặt anh, không hề được động.
Với tất cả những ǵ anh đă biết th́ vị
tu sĩ kia có thể vẫn c̣n ở Thuỵ Sĩ. Ông ta thuộc ḍng tu nào?
Ḿnh không biết. Và ḿnh chỉ có mỗi
lời vị giáo sư kia nói rằng ông ta là người La Mă.
Anh uống một ngụm.
Có một chuyến bay đi Washington vào
lúc chiều tối. Ḿnh sẽ đi chuyến đó, Robert quyết định: Ḿnh bỏ
cuộc thôi. Ư nghĩ đó làm anh bực tức. Nhảy ra, nhưng không phải
là cười mà là khóc. Đă đến lúc phải đi rồi.
- Tiền nầy.
- Thưa ngài, vâng.
Robert đưa mắt bâng khuâng nh́n quanh
quảng trường. Phía bên đối diện với tiệm cà phê, một chiếc xe
bus đang lấy khách. Trong dăy hành khách có hai tu sĩ, Robert
nh́n hành khách đưa tiền vé và rồi đi xuống phía cuối xe.
Khi hai tu sĩ tới chỗ người bán vé, họ
mỉm cười với ông ta và ngồi xuống ghế mà không trả tiền.
- Séc của ngài, thưa ngài, - người bồi
bàn nói.
Thậm chí Robert không nghe thấy anh
ta. Đầu óc anh đang quay cuồng. Nơi đây, ngay trong ḷng nhà thờ
Thiên Chúa, các tu sĩ có những đặc quyền nhất định. Có thể có
thế thôi…
***
Văn pḥng của hăng Hàng không Thuỵ Sĩ
nằm ở số 10 đường P. chỉ cách đường Veneto khoảng 5 phút. Robert
được một người đàn ông ngồi sau dăy bàn dài tiếp.
- Xin cho được gặp ông giám đốc?
- Tôi là giám đốc đây. Tôi có thể giúp
ǵ ông?
- Michael Hudson, cảnh sát quốc tế. -
Robert ch́a ra một tấm thẻ.
- Tôi có thể làm ǵ cho ông được, ông
Hudson?
- Một số hăng hàng không quốc tế đang
phàn nàn về việc giảm giá vé bất hợp pháp ở châu Âu, và ở Rome
nói riêng. Thể theo công ước quốc tế…
- Ông Hudson, tôi xin lỗi, nhưng Hàng
không Thuỵ Sĩ không có cho giảm giá. Mọi người đều phải trả theo
giá đă công bố…
- Tất cả hả?
- Tất nhiên là trừ những nhân viên của
hăng.
- Các ông không giảm giá cho các giáo
sĩ à?
- Không. Với hăng nầy, họ phải trả cả
vé.
- Cám ơn ông đă dành thời giờ. - Và
Robert bước ra.
o0o
Chỗ dừng tiếp theo - Và cũng là hy
vọng cuối cùng của anh - là hăng Alitalia.
- Có chuyện giảm giá bất hợp pháp
không? - Ông giám đốc sững người nh́n Robert, kinh ngạc. - Chúng
tôi chỉ giảm giá cho nhân viên của chúng tôi.
- Các ông không giảm giá cho các tu sĩ
à?
Gương mặt ông giám đốc sáng lên.
- A, chuyện đó th́ có: Nhưng đó không
phải là bất hợp pháp. Chúng tôi đă có những thoả thuận với bên
Nhà thờ.
Tim Robert rộn lên.
- Vậy đó nếu như một tu sĩ muốn bay đi
từ Rome, chẳng hạn như đến Thuỵ Sĩ, th́ ông ta sẽ đến hăng nầy
chứ?
- Ồ, vâng, như vậy ông ta sẽ đỡ tiền
hơn.
Robert nói:
- Để có thông tin mới nhất cho các máy
tính của chúng tôi, sẽ rất có ích nếu như ông có thể cho tôi
biết bao nhiêu tu sĩ đă bay đến Thuỵ Sĩ trong hai tuần lễ qua.
Ông có hồ sơ chứ?
- Vâng, tất nhiên. Để dễ cho chuyện
thuế má.
- Tôi thật sự cần những thông tin đó.
- Ông muốn biết có bao nhiêu tu sĩ đă
bay đi Thuỵ Sĩ trong hai tuần qua phải không ạ?
Đúng. Zurich hoặc Geneva.
- Xin đợi cho một chút. Tôi sẽ gọi từ
máy tính ra.
Năm phút sau, ông giám đốc quay lại
với một bản in từ máy tính.
- Trong hai tuần qua chỉ có duy nhất
một tu sĩ bay bằng Alitalia đi Thuỵ Sĩ. - ông ta xem tờ giấy
trong tay. - Ông ta rời khỏi Rome vào ngày 7, đi Zurich. Ông ta
đăng kư bay trở về hai ngày sau đó.
- Tên ông ta? - Robert hít một hơi
sâu.
- Cha Rometo Patrini.
- Địa chỉ?
Ông ta lại nh́n xuống.
-
Ông ấy sống ở Orvieto. Nếu ông cần ǵ thêm. - Ông ta ngước nh́n
lên, Robert đă đi khỏi.
Chương 25
Ngày thứ bảy.
Orvieto, Italia
Anh dừng xe tại một
chỗ đỗ bên lề đường 71, và phía bên kia thung lũng, trên sười
núi, là cái thành phố đó với cảnh quan tuyệt đẹp Đó là trung tâm
Etruscan cổ với một nhà thờ lớn nổi tiếng thế giới, dăm nhà thờ
khác và một tu sĩ, người đă chứng kiến vụ tai nạn của một vật
thể bay lạ.
Thành phố vẫn nguyên
vẹn qua năm tháng, với những đường phố lát đá và những ngôi nhà
cổ duyên dáng, cùng với khu chợ trời nơi những người nông dân
mang bán gà và rau quả tươi.
Robert t́m được một
nơi để đỗ xe trên quảng trường Duomo. Anh băng ngang quảng
trường và đi vào trong nhà thờ lớn Trong nhà thờ vắng ngắt, trừ
một giáo sĩ vừa rời khỏi nơi điện thờ.
o0o
- Xin lỗi Cha, - Robert nói. Tôi đang
t́m kiếm một tu sĩ ở thành phố nầy: người đă ở Thuỵ Sĩ hồi tuần
trước. Có thế Cha…
Vị tu sĩ sững lại,
mặt đầy vẻ khó chịu.
- Tôi không thể nói
với ông chuyện nầy.
- Tôi không hiểu.
Tôi chỉ muốn t́m.
Robert ngạc nh́n
ông ta ngạc nhiên.
- Ông ấy không ở
nhà thờ nầy. Ông ấy từ nhà thờ San Giovenale.
Và vị tu sĩ đi
nhanh ngang qua Robert. Tại sao ông ta lại thiếu thiện chí thế
nhỉ?
o0o
Nhà thờ San Giovenale nằm ở khu Vecchio, một khu vực đầy màu sắc
với những tháp chuông và những nhà thờ thời Trung cổ. Một tu sĩ
trẻ tuổi đang chăm sóc mảnh vườn cạnh đó. Ông ta ngước nh́n lên
khi Robert lại gần.
- Xin chào ông.
- Xin chào. Tôi đang
t́m kiếm một tu sĩ, người đă ở Thuỵ Sĩ hồi tuần trước. Ông ấy…
- Phải, phải. Tội
nghiệp Cha Patrini. Một điều khủng khiếp đă xảy đến với ông ấy.
- Tôi không hiều.
Chuyện khủng khiếp ǵ vậy?
- Nh́n thấy cỗ xe của
quỷ dữ. Đó là điều quá sức chịu đựng của ông ấy. Ông ấy đă bị
một cơn sốc thần kinh, thật tội nghiệp.
- Tôi rất lấy làm tiếc
về điều đó, - Robert nói. - Bây giờ ông ấy ở đâu? Tôi muốn nói
chuyện với ông ấy.
- Ông ấy đang ở bệnh
viện gần quảng trường San Patrizio, nhưng tôi ngờ là các bác sĩ
sẽ không cho phép ai thăm ông ấy đâu.
Robert đứng đó, bối
rối. Chẳng mấy ích lợi ǵ với một người đang bị thần kinh.
- Tôi hiểu. Cám ơn
ông rất nhiều.
o0o
Bệnh viện đó là một toà nhà một tầng khiêm nhường ở gần ngoại ô
thành phố. Anh dừng xe và bước vào trong một hành lang nhỏ. Có
một y tá ngồi sau bàn đón tiếp.
- Xin chào, - Robert
nói. - Tôi muốn gặp Cha Patrini.
- Rất tiếc, nhưng…
điều đó là không thể được. Ông ấy không thể nói ǵ với bất kỳ
ai.
Lúc nầy, Robert quyết
không để bị chặn lại. Anh phải lần theo dấu vết mà giáo sư
Schmidt đă trao cho anh.
- Cô không hiểu, -
Robert nhẹ nhàng nói. - Cha Patrini yêu cầu gặp tôi. Tôi đă từ
Orvieto đến đây theo yêu cầu của ông ấy.
- Ông ấy yêu cầu gặp
ông?
- Phải. Ông ấy viết
thư sang Mỹ cho tôi. Tôi đă đi ngần ấy dặm đường tới đây chỉ để
gặp ông ấy thôi.
Cô y tá lưỡng lự.
- Tôi không biết nói
thế nào. Ông ấy rất nặng.
- Tôi tin chắc là ông
sẽ vui hơn khi thấy tôi.
- Bác sĩ không có ở
đây… - Cô quyết định. - Thôi được ông có thể tới pḥng ông ấy,
thưa ông, nhưng ông chỉ được phép ở đó vài phút thôi đấy.
- Tôi cũng chỉ cần có
thế thôi, - Robert nói.
- Ông đi lối nầy.
Họ đi theo một hành
lang ngắn, hai bên là những căn pḥng nhỏ, gọn gàng.
Cô y tá dẫn Robert vào một trong những pḥng
đó.
- Chỉ một vài phút
thôi nhé, thưa ông.
- Cảm ơn.
Robert bước vào căn
pḥng nhỏ bé. Người đàn ông đang nằm trên giường trông như một
h́nh nhân nhợt nhạt trên tấm vải trải giường trắng toát. Robert
lại gần ông ta và nhẹ nhàng nói:
- Thưa Cha…
Vị tu sĩ quay mặt
để nh́n lên anh, và Robert chưa bao giờ nh́n thấy một nỗi thống
khổ nào như thế trong mắt một con người.
- Thưa Cha, tên tôi
là…
Ông ta túm lấy cánh
tay Robert.
- Giúp tôi với, -
Vị tu sĩ lầm bầm, - Ông phải giúp tôi. Ḷng tin của tôi đă mất.
Cả đời tôi, tôi đă thuyết giảng về Chúa và Đức Tin, và bây giờ
tôi biết là không có Chủa. Chỉ có quỷ sứ và nó đă đến để hại
chúng ta…
- Thưa Cha, nếu
Cha…
- Chính mắt tôi đă
nh́n thấy mà. Có hai tên trong cái xe của quỷ sứ, nhưng sẽ c̣n
nữa. Ôi! Những tên khác sẽ kéo đến. Hăy chờ xem. Tất cả chúng ta
sẽ bị đày xuống địa ngục.
- Xin Cha hăy nghe
tôi. Cái mà Cha nh́n thấy không phải là quỷ sứ. Đó là một con
tàu vũ trụ mà.
Vị tu sĩ buông tay
Robert và đột nhiên nh́n Robert với vẻ tỉnh táo hơn.
- Ông là ai? Ông
muốn ǵ hả?
- Tôi đến đây để
hỏi Cha về chuyến xe bus mà Cha đă đi ở đất Thuỵ Sĩ. - Robert
nói.
- Chiếc xe bus. Giá
mà tôi đă đừng đến gần nó. - Vị tu sĩ lại trở nên kích động.
Robert không muốn
thúc ép ông ta, nhưng anh không có cách nào khác.
- Cha đă ngồi bên
một người đàn ông trên chiếc xe đó. Một người Texas. Cha đă nói
chuyện nhiều với người đó, Cha nhớ không?
- Một câu chuyện.
Người Texas. Có, tôi nhớ.
- Ông ta có nói với
Cha là ông ta sống ở đâu không?
- Phải, tôi có nhớ
ông ta. Ông ta từ Mỹ đến.
- Đúng. Từ Texas.
Ông ta có nói với Cha nhà ông ta ở đâu không?
- Có, có, ông ta có
nói với tôi.
- Ở đâu thế, Cha?
Nhà ông ta ở đâu?
- Texas. Ông ta nói
về Texas.
- Đúng thế. -
Robert gật đầu vẻ khuyến khích.
- Chính mắt tôi đă
nh́n thấy chúng. Tôi mong Chúa đă làm cho tôi bị mù. Tôi…
- Thưa Cha, người
đàn ông từ Texas. Ông ta có nói với Cha ông ấy ở đấy không? Ông
ta có nhắc tới một cái tên nào không?
- Texas, có.
Ponderosa.
Robert vẫn cố gắng.
- Đó là trên tivi.
Đây là người đàn ông thật sự cơ mà. Ông ta ngồi cạnh Cha trên…
Vị tu sĩ lại hôn
mê.
- Chúng đang đến
đấy. Trận quyết chiến thiện ác đây rồi. Kinh Thánh nói dối.
Chính quỷ dữ sẽ xâm chiếm trái đất nầy. - Lúc nầy ông ta đang
hét lên thật to. - Nh́n ḱa. Nh́n ḱa. Tôi có thể nh́n thấy
chúng.
Cô y tá vội vă bước
vào. Cô nh́n Robert vẻ không bằng ḷng.
- Ông phải ra đi
thôi, thưa ông.
- Tôi cần một phút
nữa thôi.
- Không, thưa ông.
Đủ rồi.
Robert nh́n vị tu
sĩ một lần cuối. Ông ra vẫn lảm nhảm rời rạc. Robert quay người
bước đi. Không c̣n có thể làm ǵ hơn được nữa. Anh đă cố hết sức
để vị tu sĩ dẫn dắt anh đến người Texas kia, nhưng anh đă thua.
Robert trở ra xe và
chạy về Rome. Rốt cuộc thế là xong. Những dấu vết duy nhất mà
anh đă bỏ lại - nểu chúng có thể được coi là những dấu vết - là
lời nhắc đến một phụ nữ Nga, một người Texas, và một người
Hungary. Nhưng không có cách nào để t́m ra họ được. Nước cờ tàn.
Thật là buồn khi đă đi xa đến thế nầy để rồi lại bị chặn lại.
Giá mà ông tu sĩ tỉnh táo đủ lâu để cung cấp được cho anh vài
thông tin cần thiết. Chỉ một chút nữa. Ông tu sĩ đă nói ǵ nhỉ?
Ponderosa. Ông tu
sĩ già đă xem tivi quá nhiều và trong cơn mê sảng, rơ ràng là
ông ta đă lẫn người Texas kia vào chương tŕnh "Bonanza" của một
đạo diễn nổi tiếng trên tivi. Ponderosa, nơi gia đ́nh h bí ẩn
Cartwirght sinh sống. Ponderosa. Robert giảm ga và từ từ dừng
lại bên đường, những ư nghĩ vùn vụt trong đầu anh. Anh quay
ngược xe lại và lao nhanh về hướng Orvieto.
Nửa giờ sau, Robert
đang nói chuyện với người chủ quán của một quán nhỏ ở quảng
trường Republica.
- Các ông có một
thành phố thật đẹp. - Robert nói. - Thật thanh b́nh.
- Ồ vâng, thưa ông.
Chúng tôi hoàn toàn hài ḷng với nơi đây. Ông đă bao giờ đến
Italia trước đây chưa?
- Tôi có một phần
của tuần trăng mật ở Rome.
Robert, anh đă
làm cho tất cả những mơ ước của em trở thành sự thật. Từ hồi em
c̣n là một con bé con, em đă muốn được đến Rome đấy?
- À Rome. Quá lớn.
Quá ồn ào.
- Tôi công nhận.
- Ở nơi đây, chúng
tôi sống cuộc sống b́nh dị nhưng chúng tôi hạnh phúc.
Robert b́nh thản
nói:
- Tôi để ư thấy
trên nhiều mái nhà ở đây có ăngten tivi.
- Ồ vâng, đúng thế.
Chúng tôi hoàn toàn theo kịp thời đại trong lĩnh vực đó.
- Cái đó th́ rơ.
Thành phố nầy nhận được bao nhiêu kênh vô tuyến?
- Duy nhất chỉ một.
- Tôi nghĩ là các
ông có khá nhiều chương tŕnh tivi của Mỹ chứ?
- Không, không. Đây
là một kênh của nhà nước. Ở đây chúng tôi chỉ có những chương
tŕnh được thực hiện ở Italia thôi.
- Cám ơn. Trúng rồi.
o0o
Robert đặt điện thoại gọi cho Đô đốc Whittaker.
Một thư kư trả lời
máy.
- Văn pḥng Đô đốc
Whittaker đây.
Robert có thể h́nh
dung ra căn pḥng. Nó thường là một chỗ kín đáo khuất mắt dành
cho những người hết thời mà chính phủ không c̣n sử dụng vào việc
ǵ được nữa.
- Xin cho tôi được
nói chuyện với ngài Đô đốc? Sĩ quan Bellamy đây.
- Xin ông chờ một
chút, ông chỉ huy.
Robert băn khoăn
liệu có c̣n ai liên hệ ǵ nữa với Đô đốc không khi mà giờ đây,
vị Đô đốc một thời đầy quyền lực kia đă là một thành viên của
đội quân về vườn. Có thể là không.
- Robert, rất mừng
là anh gọi lại. - Giọng ông già có vẻ mệt mỏi. - Anh đang ở đâu
thế?
- Thưa ngài, tôi
không thể nói được.
Một thoáng ngập
ngừng.
- Tôi hiểu. Tôi có
thể lâm ǵ cho anh không đây?
- Có, thưa ngài.
Việc nầy thật bất tiện v́ tôi đà được lệnh không tiếp xúc với
bất kỳ ai. Nhưng tôi cần được giúp đỡ. Tôi không biết ngài có
thể kiểm tra một việc cho tôi được không?
- Chắc chắn là tôi
có thể cố gắng. Anh muơn biết ǵ nào?
- Tôi cần biết liệu
có một cái trại đâu đó ở Texas có tên là Ponderosa không?
- Như trong chương
tŕnh Bonanza ấy à?
- Vâng, thưa ngài.
- Tôi có thể làm
được, Tôi sẽ liên lạc với anh thế nào?
- Thưa Đô đốc, tôi
nghĩ tốt hơn là tôi sẽ gọi lại cho ngài.
- Phải. Cho tôi một
hoặc hai tiếng nhé. Tôi sẽ giữ việc nầy chỉ có hai chúng ta biết
thôi.
- Cảm ơn ngài.
Dường như Robert
cảm thấy sự mệt mỏi đă biến mất trong giọng nói của ông già. Ít
nhất th́ ông cũng đă được yêu cầu làm một việc ǵ đó, cho dù
rằng đó chỉ b́nh thường là việc t́m ra một cái trang trại.
Hai tiếng sau,
Robert gọi lại cho Đô đốc Whittaker.
- Tôi đang đợi anh
đây, - Vị Đô đốc nói. Trong giọng ông có vẻ hàl ḷng. - Tôi đă
có thông tin mà anh muốn.
- Và sao? - Robert
nín thở.
- Có một cái trại
Ponderosa ở Texas. Nó ở ngay phía ngoài Waco. Chủ của nó là một
ông Dan Wayne nào đó.
Robert thở ra nhẹ
nhơm.
- Cám ơn ngài rất
nhiều, thưa đô đốc, - Robert nói. - Tôi nợ ngài một bữa tối khi
nào tôi trở về.
- Robert, tôi mong
ngóng dịp đó.
Cú điện thoại tiếp
theo của Robert là gọi cho tướng Hilliard.
- Tôi đă phát hiện
một nhân chứng khác ở Italia. Cha Patrini.
- Một tu sĩ à?
- Vâng. Ở Orvieto.
Ông ta đang nằm viện, rất nặng. Tôi e là giới chức trách Italia
sẽ không thể nói ǵ được với ông ta.
- Tôi sẽ chuyển lời
ông. Cảm ơn, ông sĩ quan.
Hai phút sau, tướng
Hilliard đă đang nói chuyện điện thoại với Janus.
- Tôi vừa nghe sĩ
quan chi huy Bellamy báo cáo.
- Nhân chứng mới
nhất là một tu sĩ. Một cha Patrini nảo đó ở Orvieto.
- Lo chuyện đó đi.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám
đốc SIFAR.
Không trích
chép.
Một bản duy
nhất.
Trích yếu: Chiến
dịch Ngày Tận thế.
5. Cha Patrini -
Orvieto.
Hết điện.
Trụ sở SIFAR nằm
trên đường Pineta, ở ŕa ngoại ô phía nam thành Rome, trong một
khu vực bao bọc bởi những nhà trại. Điều duy nhất có thể làm cho
người qua đường chú ư tới toà nhà bằng đá trông đầy vẻ công
nghiệp, b́nh thường kia với haỉ khối nhà lớn là bức tường cao
vây quanh, trên có chăng dây thép gai và ở mỗi góc đều có một
trạm gác. Nằm ẩn trong một khu quân sự, nó là một trong những cơ
quan an ninh bí mật nhất trên thế giới mà người ta ít biết đến
nhất. Có những tấm biển xung quanh khu nhà, trên ghi ḍng chữ:
"Không bước qua giới hạn nầy".
Trong một căn pḥng
kiểu Spartan trên tầng hai của toà nhà chính, đại tá Francesco
Cesar đang xem bức điện khẩn mà ông ta vừa nhận được. Viên đại
tá ở trạc tuổi ngoài năm mươi, với một vóc người khoẻ mạnh và
gương mặt rỗ, ĺ lợm. Ông ta đọc bức điện đến lần thứ ba.
Vậy là sau cùng
Chiến dịch Ngày Tận thế đă đang diễn ra. Thật may là chúng ta đă
chuẩn bị cho điều nầy. Cesar nghĩ. Ông ta nh́n xuống bức điện
một lần nữa. Một tu sĩ.
o0o
Đă quá nửa đêm khi một bà xơ đi ngang qua pḥng của các y tá
trực đêm tại cái bệnh viện nhỏ ở Orvieto.
- Tôi đoán là bà ấy
đang đến gặp bà Fillipi, - Cô y tá Tomasino nói.
- Hoặc bà ấy, hoặc
ông già Rigano. Cả hai đều đang nguy kịch lắm rồi.
Bà xơ kia lặng lẽ
đi ṿng qua các góc nhà và bước thẳng vào pḥng của vị tu sĩ.
Ông ta đang ngủ vẻ yên ả, hai bàn tay gấp lại để trên ngực như
thể đang cầu nguyện. Ánh trăng xuyên qua tấm rèm cửa, tạo thành
một vệt sáng ngang mặt vị tu sĩ.
Bà xơ lấy từ dưới
áo ra cái hộp nhỏ. Một cách thận trọng, bà ta lấy ra chuỗi hạt
thuỷ tinh rất đẹp và để nó vào trong ḷng hai bàn tay ông tu sĩ
già.
Trong khi sửa lại
những hạt thuỷ tinh cho ngay ngắn, bà ta dùng một hạt quệt nhanh
lên ngón tay cái của ông. Một vết xước mờ xuất hiện. Bà xơ lấy
ra một cái lọ bé xíu có đầu nhỏ giọt và cẩn thận nhỏ ba giọt lên
chỗ vết xước kia.
Chỉ cần vài phút để
cái độc tố chết người kia phát huy tác dụng. Bà xơ thở dài trong
khi làm dấu thánh trước người đă chết. Rồi bà bỏ đi, lặng lẽ như
lúc đến.
Điện khẩn.
Tối mật.
SIFAR gửi Phó
giám đốc NSA.
Không ghi chép
lại.
Bản số 1 duy
nhất.
Trích yếu: Chiến
dịch Ngày Tận Thế.
5. Cha Patrini -
Orvielo đă bị thủ liêu.
Hết điện.
Chương 26
Frank Johnson được lựa chọn bởi lẽ ông ta đă từng là một lính Mũ
nồi xanh ở Việt nam và được đồng đội của ông ta gọi là Máy giết
người. Ông ta thích giết chóc. Có động cơ làm việc và rất thông
minh.
- Hoàn toàn phù hợp với chúng ta, - Janus nói. - Tiếp
xúc với ông ta một cách thận trọng. Tôi không muốn để mất người
nầy.
Cuộc gặp đầu tiên diễn ra trong trại lính. Một đại uư
đang nói chuyện với Frank Johnson.
- Ông không phiền muộn ǵ về chính phủ của chúng ta à? -
Viên đại uư hỏi. - Nó được điều hành bởi một nhúm những kẻ yếu
đuối đang phung phí nguồn tài lực. Đất nước nầy cần có sức mạnh
hạt nhân, nhưng những chính trị gia quỷ tha ma bắt kia đang ngăn
chặn chúng ta xây dựng những nhà máy mới. Chúng ta lệ thuộc bọn
Ảrập khốn kiếp về dầu lửa và chính phủ sẽ cho phép khai thác dầu
ở ngoài khơi bờ biển chúng ta chứ? Ồ, không. Họ lo lắng cho
những đàn cá hơn là cho chúng ta. Ông có nghĩ ǵ về chuyện đó
không?
- Tôi hiểu ư ông, - Frank Johnson nói.
- Tôi biết là ông hiểu bởi v́ ông có đầu óc. Viên đại uư
vừa nói vừa quan sát vẻ mặt Johnson. - Nếu như Quốc hội không
làm ǵ để cứu vớt đất nước của chúng ta th́ một số nào đó trong
chúng ta sẽ phải làm ǵ đó.
Trông Frank Johnson có vẻ lúng túng.
- Một số trong chúng ta à?
- Phải. - Bây giờ thế là đủ rồi, viên
đại uư nghĩ. - Chúng ta sẽ nói về chuyện đó sau.
Buổi nói chuyện sau đi vào việc cụ
thể hơn.
- Có một nhóm những người yêu nước
muốn bảo vệ thế giới của chúng ta, ông Frank ạ. Họ là những vị
có quyền lực lớn. Họ đă thành lập một Uỷ ban. Uỷ ban nầy có thể
phải vượt qua một số đạo luật nào đó để công việc của nó đạt
hiệu quả, nhưng mà sau cùng, th́ điều đó cũng đáng giá. Ông có
quan tâm không?
- Tôi rất quan tâm. - Frank Johnson
mỉm cười.
Đó là lúc bắt đầu. Buổi gặp sau diễn
ra ở Ottawa, Canada, và Frank Johnson đă gặp một số thành viên
trong Uỷ ban nầy… Họ đại diện cho những nhóm quyền lợi đầy thế
lực ở chừng một chục nước.
- Chúng ta được tổ chức tốt, - một
thành viên giải thích với Frank Johnson. - Chúng ta có một hệ
thống chỉ huy nghiêm ngặt. Có các Pḥng Tuyên truyền, Tuyển
chọn, Chiến thuật, Liên lạc… và một Đội biệt kích.
Ông ta nói tiếp.
- Gần như tất cả các tổ chức t́nh báo
trên thế giới là một bộ phận của nó.
- Ư ông nói là những người đứng đầu
của…?
- Không, không phải là những người
đứng đầu.
- Các cấp phó. Những người trực tiếp
biết chuyện ǵ đang xảy ra, và bỉết rơ nguy cơ nào mà các nước
đang gặp phải.
o0o
Các cuộc họp diễn ra ở mọi nơi trên thế giới - Thuỵ Sĩ, Marốc,
Trung Quốc, - Và Johnson có mặt đầy đủ.
Đó là sáu tháng trước lúc đại tá Johnson gặp Janus.
Viên tướng đă cho triệu tập ông ta.
- Tôi mới nhận được nhưng báo cáo rất tốt đẹp về ông,
đại tá.
- Tôi ưa thích công việc của ḿnh, - Frank Johnson mỉm
cười.
- Tôi cũng nghe như thế. Ông ở một vị trí rất thuận lợi
để có thể giúp đỡ chúng tôi.
Frank Johnson ngồi thẳng người lên
hơn.
- Tôi sẽ làm bất cứ việc ǵ có thể
được.
- Tốt. Ở Trang trại, ông phụ
trách việc giám sát đào tạo các điệp viên bí mật cho nhiều cơ
quan khác nhau?
- Đúng thế.
- Và ông biết họ cùng những khả năng
của họ.
- Rất tường tận.
- Điều tôi muốn ông làm là, - Janus
nói, - tuyển chọn những người nào mà ông cảm thấy sẽ có ích nhất
cho tổ chức của chúng ta. Chúng ta chỉ quan tâm đến những người
tốt nhất.
- Đó là việc dễ dàng, - đại tá
Johnson nói. - Không có vấn đề ǵ - Ông ta thoáng lưỡng lự. -
Tôi băn khoăn…
- Ǵ vậy?
- Tôi có thể làm việc đó bằng tay
trái của ḿnh. Tôi thật sự muốn làm hơn thế, một việc ǵ đó lớn
hơn. - Ông ta dướn ḿnh về phía trước. - Tôi có nghe nói về
Chiến dịch Ngày Tận thế. Đó mới chính là sân của tôi. Tôi muốn
được tham gia, thưa ngài.
Janus ngồi nh́n ông ta hồi lâu. Rồi
gật đầu.
- Được ông vào cuộc rồi đó.
- Cảm ơn ngài. - Johnson mỉm cười. -
Ngài sẽ không phải ân hận ǵ.
Đại tá Frank Johnson sung sướng rời
khỏi cuộc gặp.
Bây giờ th́ ông ta thừa để cho họ
thấy ông ta có thể làm được những ǵ.
Chương 27
Ngày thứ tám.
Waco. Texas.
Dan Wayne có một ngày
không vui. Mà chính xác th́ là một ngày vô cùng tệ hại. Ông vừa
trở về từ toà án quận Waco, nơi ông phải đối mặt với các thủ tục
về vỡ nợ. Vợ ông dan díu với tay bác sĩ trẻ của bà ta và đang
làm thủ tục ly hôn ông với mục đích kiếm được một nữa tất cả
những ǵ mà ông có (điều đó có nghĩa là không ǵ cả, như ông đă
quả quyết với luật sư của bà ta). Và ông sẽ phải mất một trong
những con ḅ đấu có hạng của ḿnh. Dan Wayne cảm thấy số mệnh
thật đen đủi. Ông đă không làm ǵ để đến nỗi phải chịu tất cả
những chuyện nầy. Ông là một người chồng tốt, một chủ trại giỏi
giang. Ông ngồi lặng trong pḥng làm việc, ngẫm nghĩ về tương
lai ảm đạm.
Dan Wayne là một người
đàn ông kiêu hănh. Ông biết tất cả những lời đùa cợt về những
người Texas to mồm, nói khoác một tấc đến trời, nhưng ông vẫn
thật sự cảm thấy ḿnh có điều ǵ đó đáng hănh diện.
Ông sinh ra ở Waco,
trong một khu vực nông nghiệp giàu có của châu thổ sông Brazos.
Waco là một thị trấn hiện đại, nhưng vẫn phảng phất hương vị của
quá khứ, thời mà nó h́nh thành, tồn tại và phát triển trên năm
cây trụ: gia súc, bông, ngô, trường học và văn hoá. Wayne yêu
mến Waco bằng tất cả trái tim và khối óc, khi ông gặp vị tu sĩ
trên chuyến du lịch bằng xe bus ở Thuỵ Sĩ kia, th́ gần như ông
đă nói suốt năm tiếng đồng hồ về cái thị trấn quê hương ḿnh.
Vị tu sĩ nói với ông
là muốn rèn luyện tiếng Anh, nhưng thực ra, khi nghĩ lại, th́
hoá ra là gần như chỉ có một ḿnh ông nói cả câu chuyện.
- Waco có tất cả mọi
thứ, - Ông ta đă tâm sự với vị tu sĩ Thời tiết của chúng tôi th́
tuyệt vời. Chúng tôi không cho phép trời quá nóng hay quá lạnh.
Chúng tôi có hai mươi ba trường học trong vùng và có Đại học
Baylor. Chúng tôi có bốn tờ báo, mười đài phát thanh và năm đài
truyền h́nh. Chúng tôi có Pḥng truyền thống mà ông phải choáng
cả người. Ư tôi nói, ở đó là lịch sử. Nếu ông thích câu cá, thưa
Cha, th́ sông Brazos sẽ là nơi mà ông không thể quên. Rồi chúng
tôi c̣n có một khu săn bắn và một trung tâm nghệ thuật lớn. Tôi
cam đoan với ông, Waco là một trong những thành phố có một không
hai trên thế giới. Ông phải đến thăm chúng tôi mới được.
Và vị tu sĩ già nhỏ bé
đă mỉm cười, gật gật đầu, c̣n Dan Wayne nghi hoặc, không hiểu
ông ta nghe được bao nhiêu tiếng Anh.
Dan Wayne đă thừa kế
của người cha một ngàn mẫu đất trang trại, và đă làm đàn gia súc
sinh sôi từ hai ngàn lên đến mười ngàn. Lại c̣n một con ngựa đua
đáng giá cả một gia tài nữa. Vậy mà bọn khốn kiếp đang toan cướp
đi tất cả của ông. Thị trường gia súc sụt xuống hoặc việc ông
chậm trả tiền thế nợ đâu có phải là lỗi của ông. Các nhà băng
đều hùa vào để làm hại ông và cơ hội duy nhất để ông ta tự cứu
ḿnh là t́m ra được người mua lại trang trại, thanh toán cho các
chủ nợ và giữ lại một chút tiền lăi…
Wayne đă nghe có một
người Thuỵ Sĩ giàu có muốn mua một trang trại ở Texas, và ông ta
đă bay đi Zurich để gặp người đó. Nhưng té ra đó chỉ là tṛ thả
mồi bắt bóng. Cái trang trại trong đầu cái thằng cha công tử bột
đó là một hay hai mẫu đất với một cái vườn rau nhỏ xinh xinh.
Đó là lư do v́ sao mà
vô t́nh ông lại có mặt trên chuyến xe bus khi cái chuyện kỳ lạ
kia xảy ra. Ông đă có đọc về chuyện đĩa bay, nhưng ông chưa bao
giờ tin những chuyện đó cả. Giờ đây, nhờ Chúa, ông dứt khoát đă
tin. Ngay sau khi ông trở về, ông gọi điện một chủ bút một tờ
báo địa phương.
- Johnny, tôi mới nh́n
thấy một cái đĩa bay thật sự với mấy xác người kỳ quặc chết
trong đó.
- Thế hả? Ông có chụp
tấm ảnh nào không thế, Dan?
- Không. Tôi có chụp
mấy tấm, nhưng hỏng cả.
- Không sao. Chúng tôi
sẽ cho một tay nhiếp ảnh tới đó. Nó đă trên trang trại của ông
phải không?
- Ồ không. Thực ra là
nó ở Thuỵ Sĩ kia.
Một thoáng im lặng.
- Ồ ra vậy, nếu như
ông t́nh cờ nh́n thấy nó trên trang trại của ông, Dan, th́ gọi
lại cho tôi nhé.
- Khoan. Một thằng cha
cũng nh́n thấy, nó sẽ gửi cho tôi một tấm ảnh mà…
Nhưng Johnny đă gác
máy.
Thế đó.
Gần như là Wayne mong
có một cuộc xâm lăng của những người từ hành tinh khác. Có thể
họ sẽ giết sạch những tên chủ nợ khốn kiếp của ông. Ông nghe
thấy có tiếng xe đang chạy vào và nhỏm dậy bước đến bên cửa sổ
nh́n ra. Có vẻ là một gă ở miền Đông.
Có thể lại là một chủ
nợ khác. Những ngày nầy họ ở đâu ra mà lắm thế cơ chứ.
Dan Wayne mở cửa
trước.
- Xin chào.
- Ông là Daniel
Wayne…
- Bạn bè gọi tôi là
Dan. Tôi có thể làm ǵ cho ông thế?
Dan Wayne không hề
như Robert đă h́nh dung; một mẫu người Texas vạm vỡ. Ông ta
thanh mảnh, dáng quư tộc và điều bộ hơi rụt rè. Điều duy nhất
thể hiện gốc gác của ông ta là giọng nói.
- Tôi không biết
liệu có thể xin ông vài phút được không?
- Tôi cũng chỉ c̣n
ngần ấy thời gian, - Wayne nói. - Nhân tiện xin được hỏi, ông
không phải là một chủ nợ ư?
- Một chủ nợ ấy à?
Không?
- Tốt. Xin mời vào.
Hai người cùng ngồi
ở pḥng khách. Đó là một căn pḥng lớn với đồ đạc rất tiện nghi
theo kiểu miền Tây.
- Ông có một chỗ ở
đẹp quá, - Robert nói.
- Dạ. Tôi được sinh
ra trong ngôi nhà nầy. Tôi có thể mời ông uống ǵ nhỉ? Một chút
ǵ mát, được không?
- Không, cảm ơn.
Tôi không khát.
- Xin mời ngồi.
- Robert ngồi xuống
chiếc đi văng bọc da mềm mại.
- Ông gặp tôi có
việc ǵ thế?
- Tôi được biết là
ông có đi một tuyến du lịch bằng xe bus ở Thuỵ Sĩ hồi tuần
trước?
- Đúng thế. Cô vợ
cũ thuê người theo dơi tôi à? Ông không làm việc cho cô ta đấy
chứ?
- Không, thưa ông.
- Ồ, - ông ta chợt
hiểu ra. - Ông quan tâm đến cáí đĩa bay kia chứ ǵ. Chưa bao giờ
tôi nh́n thấy ǵ khủng khiếp đến thế. Nó luôn thay đổi màu sắc.
Và những sinh vật đă chết kia nữa. - Ông ta rùng ḿnh. - Tôi vẫn
nằm mê thấy nó.
- Ông Wayne, ông có
thể nói với tôi bất kỳ điều ǵ về những người khách trên cùng
chuyến xe đó được không?
- Xin lỗi. Tôi
không thể giúp ǵ ông. Tôi đi có một ḿnh.
- Tôi biết, nhưng
ông có nói chuyện với những người khách khác chứ, phải không
nào?
- Nói thật với ông,
tôi rất nặng đầu nặng óc. Tôi đă chẳng chú ư mấy tới bất kỳ ai
khác.
- Ông có nhớ bất kỳ
chuyện ǵ về bất kỳ ai trong số họ không?
Day Wayne im lặng
một lát.
- Ồ có một tu sĩ
người Italia. Tôi có nói chuyện với ông ta một chút. Ông ta có
vẻ là một người dễ mến. Tôi muốn nói để ông biết là cái đĩa bay
kia thật sự làm cho ông ta choáng váng. Ông ấy cứ nói măi về
chuyện quỷ sứ.
- Ông có nói chuyện
với ai khác nữa không?
Day Wayne nhún vai.
- Không hẳn… Chờ
một phút. Tôi c̣n tṛ chuyện với ông chủ một nhà băng ở Canada.
- Ông ta đưa lưỡi liếm môi. - Nói thật với ông, tôi đang có một
chút khó khăn tài chính ở đây, với cái trang trại nầy. Có thể là
tôi mất nó. Tôi ghét cái đám chủ nhà băng khốn kiếp kia. Bọn
chúng toàn là những kẻ hút máu. Dù sao th́ tôi nghĩ là cái thằng
cha nầy có thể khác. Khi biết ông ta là chủ nhà băng, tôi đă nói
chuyện với ông ta về việc thu xếp một kiểu tín dụng nào đó ở
đây. Nhưng hắn cũng giống như tất cả bọn chúng thôi. Hắn không
thể nào hờ hững hơn thế được.
- Ông nói hắn ta ở
Canada à?
- Phải, Fort Smith,
trên măi vùng Các lănh thổ Tây Bắc. Tôi e rằng đó là tất cả
những ǵ tôi có thể nói với ông rồi đấy.
Robert cố giấu tâm
trạng kích động của ḿnh.
- Ông Wayne, xin
cảm ơn ông, ông đă giúp ích rất nhiều. - Robert đứng dậy.
- Thế thôi à?
- Thế thôi.
- Ông có muốn ở lại
dùng bữa tối không?
- Không, cảm ơn.
Tôi phải lên đường thôi. Chúc may mắn trong chuyện trang trại
nhé.
- Cảm ơn.
Fort Smith,
Canada. Các lănh thổ Tây Bắc.
o0o
Robert đợi cho đến khi tiếng Hilliard xuất hiện trên máy.
- Có ông sĩ quan
hả?
- Tôi đă t́m được
một nhân chứng khác. Dan Wayne. Ông ta là chủ trại Ponderosa,
một trang trại bên ngoài Waco, Texas.
- Rất tốt. Tôi sẽ
để cho cơ quan của chúng tôi ở Dallas nói chuyện với ông ta.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám
đốc CIA:
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến
dịch Ngày Tận Thế.
6. Daniel Wayne -
Waco.
Hết.
Tại Langley, Virginia,
phó giám đốc Cục T́nh báo Trung ương đang trầm ngâm xem bức điện
số 6. Công việc thật trôi, chảy. Sĩ quan Bellamy đang làm việc
tuyệt hảo. Janus đă đúng. Người đàn ông đó luôn luôn đúng. Và
ông ta có quyền lực để những mong muốn của ta được thực hiện.
Bao nhiêu quyền lực… Ông ta nh́n bức điện một lần nữa. Chuyện
nầy sẽ không khó khăn ǵ. Rồi nhấn cái nút.
o0o
Hai người đàn ông đến trang trại bằng chiếc xe chở hàng màu xanh
sẫm.
Họ đỗ xe ngoài sân, ra
khỏi xe và thận trọng nh́n quanh. Ư nghĩ đầu tiên của Dan Wayne
là họ đến để tịch biên cái trại. Ông ta mở cửa trước cho họ.
- Ông là Dan Wayne?
- Vâng. Tôi đây.
Ông ta chỉ mới nói
được có thế.
Người đàn ông thứ hai
đă bước ṿng lại phía sau và cầm một cái b́nh da dùng để đựng
rượu đánh mạnh vào đầu ông ta.
Một trong hai người
đàn ông với vóc cao to hơn xốc ông chủ trại đă bất tỉnh lên vai
và mang ông ta ra ngoài chuồng ḅ. Hai người đàn ông phớt lờ
những con vật và đi thẳng vào phía trong cùng. Trong cái khoang
đó là một con ngựa giống màu đen tuyệt đẹp.
Người đàn ông cao
to nói:
- Đây chỗ nầy.
- Anh ta hạ Wayne
xuống.
Người đàn ông thứ
hai bước lại gần cửa khoang nhốt con ngựa, và đánh nó bằng cái
gậy có điện. Nó lồng lên, hất tung hai chân sau. Một cú đánh
mạnh hơn nữa vào mũi nó. Nó lồng lên điên cuồng, trong cái không
gian chật chội, va đập vào bốn góc, răng nhe ra và ḷng trắng
mắt ngầu lên.
Nào, - người đàn
ông cao to nhấc Dan lên và quăng ông ta vào trong cái khoang của
con ngựa đực.
Họ đứng nh́n cái
quang cảnh đẫm máu trong vài giây rồi hài ḷng bỏ đi.
Điện khẩn.
Tối mật.
Phó giám đốc CIA
gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến
dịch Ngày Tận Thế.
6. Daniel Wayne
- Waco - Đă bị thủ tiêu.
Hết.
Chương 28
Ngày thứ chín.
Fort Smith,
Canada.
Fort Smith nằm ở
vùng Các lănh thổ Tây Bắc là một thị trấn thịnh vượng với hai
ngh́n dân phần đông là chủ trại và những người chăn nuôi gia súc
cùng với một số ít thương nhân. Khí hậu ở đây khắc nghiệt, với
những mùa đông đài và băng giá, c̣n bản thân thị trấn nầy là một
bằng chứng sống động đối với thuyết Darwin về sự tồn tại của
những ǵ thích nghi nhất.
William Mann là một
trong những sinh vật thích nghi đó, một kẻ sống sót. Ông ta sinh
ra ở Michigan, nhưng hồi ngoài ba mươi tuổi, đă đến Fort Smith
trên một chiếc tàu đánh cá và cho rằng cộng đồng nơi đây cần có
một nhà băng tốt hơn. Ông ta đă chộp được cơ hội. Ở đó chỉ c̣n
một nhà băng khác nữa và William Mann mất
không đầy hai năm để đẩy đối thủ của ḿnh ra ngoài cuộc đấu.
Mann điều hành nhà băng rất đúng cách. Vốn say mê toán học, ông
ta coi sóc để sao cho những con số luôn luôn là có lợi cho ḿnh.
Ông rất hay nói tới câu chuyện đùa về một người đàn ông đến một
ông chủ nhà băng mượn tiền cho một ca mổ khẩn cấp cho đứa con
nhỏ của ḿnh. Khi người vay tiền nói không có ǵ thế chấp, ông
chủ nhà băng bèn đuổi ông ta ra.
- Tôi sẽ đi, - người
đàn ông nói, - nhưng tôi muốn bảo cho ông biết rằng cả đời tôi
chưa bao giờ thấy ai nhẫn tâm như ông cả.
- Đợi một chút, - Ông
chủ nhà băng đáp lại. - Tôi sẽ cho ông một khả năng nầy.
Một trong hai con mắt tôi làm bằng thuỷ tinh.
Nếu ông có thể nói đó là bên mắt nào, th́ tôi sẽ cho ông vay.
- Con mắt trái của
ông. - Ngay lập tức, ông vay tiền đáp.
- Không ai biết
chuyện nầy cả. Làm sao mà ông có thể đoán được? - Ông chủ nhà
băng kinh ngạc.
- Thật dễ thôi.
Trong một thoáng, tôi tưởng là đă thấy một ánh nh́n thông cảm ở
con mắt bên trái, bởi vậy tôi biết nó là con mắt thuỷ tinh.
Câu chuyện đó, đối
với William Mann, là bài học tốt cho một nhà kinh doanh. Người
ta không thể buôn bán trên cơ sở sự thông cảm. Phải nh́n xuống
mức thấp nhất. Trong khi các nhà băng khác ở Canada và Mỹ đổ
liểng xiểng th́ nhà băng của William Mann mạnh hơn bao giờ hết.
Nguyên tắc của ông ta rất đơn giản: Không cho vay tín dụng để
khởi đầu công việc làm ăn. Không đầu tư với những trái phiếu vô
tích sự. Không cho những người láng giềng vay, dù họ đang có đứa
con cần được giải phẫu gấp.
Mann hết sức kinh
hăi trước hệ thống nhà băng Thuỵ Sĩ Những ông thần giữ của ở
Zurich là chủ của các chủ nhà băng. Bởi vậy, một hôm, William
Mann đă quyết định phải đi Thuỵ Sĩ, trao đổi với một vài ông chủ
nhà băng ở đó để xem ông ta c̣n thiếu sót ǵ không, c̣n cách nào
để có thể vắt thêm từng xu Canada được không. Ông ta đă được
tiếp đón tử tế, nhưng rốt cuộc th́ cũng không học được ǵ thêm.
Các phương thức kinh doanh ngân hàng của ông ta là đáng ngưỡng
mộ, và các ông chủ nhà bằng Thuỵ Sĩ đă không hề ngần ngại nói ra
điều đó.
Hôm phải lên đường
trở về, Mann quyết định tự cho ḿnh một cuộc du ngoạn trên dăy
Alps. Chuyến đi thật chán ngắt. Phong cảnh th́ đẹp, nhưng cũng
chẳng hơn ǵ cảnh quan Fort Smith. Một trong số những du khách,
một người Texas, đă cả gan toan thuyết phục ông ta cấp tín dụng
cho một cái trang trại đang vỡ nợ: ông ta đă cười vào mũi gă.
Điều duy nhất trong chuyến đi được coi là có chút thích thú,
chính là vụ tai nạn của cái gọi là đĩa bay kia. Trong một giây,
Mann đă không tin vào sự thật đó. Ông ta tin đó là do chính phủ
Thuỵ Sĩ bày đặt ra để gây ấn tượng cho khách du lịch. Ông ta đă
từng đến Thế giới Walt Disney, và đă nh́n thấy những điều tương
tự, trông th́ như thật nhưng lại là giả. Đó là con mắt thuỷ tinh
của Thuỵ Sĩ, ông ta mỉa mai thầm nghĩ.
William Mann sung
sướng được trở về nhà.
Từng phút của ông
chủ nhà băng nầy đều được ấn định tỉ mỉ cho mỗi ngày làm việc,
và khi viên thư kư bước vào nói có một người lạ muốn được gặp,
th́ ư nghĩ đầu tiên của Mann là mời ông ta đi.
- Ông ta muốn ǵ?
- Ông ta nói muốn
phỏng vấn ông. Ông ta đang viết một bài báo về các chủ nhà băng.
Đó lại là vấn đề
hoàn toàn khác. Sự xuất hiện đúng cách là tốt cho công cuộc kinh
doanh. William Mann chỉnh lại chiếc áo khoác, vuốt tóc ngay
ngắn, và nói:
- Đưa ông ta vào.
Khách là một người
Mỹ, ăn mặc sang trọng, điều đó chứng tỏ ông ta làm việc cho một
tạp chí hoặc một tờ báo lớn.
- Ông ỉà Mann phải
không ạ?
- Phải.
- Tôi là Robert
Bellamy.
- Thư kư của tôi
nói rằng ông muốn viết một bài báo về tôi.
- Ồ không phải là
hoàn toàn về ông, - Robert nói. - Nhưng tất nhiên là ông sẽ nổi
bật trong đó. Tờ báo của tôi.
- Tờ nào vậy?
- Nhật báo Wall
Strees.
- À thế th́ tuyệt
vời.
- Tờ Nhật báo
cảm thấy rằng hầu hết các chủ nhà băng đều quá xa rời với những
ǵ đang xảy ra trên thế giới. Họ ít khi di chuyển, họ không chịu
đi tới những nước khác. Trái lại, thưa ông Mann, ông có tiếng là
rất hay đi.
- Tôi nghĩ là như
vậy, - Mann nói một cách khiêm nhường. - Thực tế là tôi vừa mới
trở về từ chuyến đi Thuỵ Sĩ tuần trước.
- Thật thế ư? Ông
có hài ḷng với nó không?
- Có. Tôi đă gặp gỡ
một vài chủ nhà băng ở đó. Chúng tôi đă thảo luận về các vấn đề
kinh tế thế giới.
Robert đă rút ra
một cuốn sổ và đang ghi chép.
- Ông có thời gian
giải trí không?
-
Không hẳn. Ờ, tôi có một chuyến đi du ngoạn bằng
xe bus. Trước đây, tôi chưa bao giờ được thấy dăy Alps.
Robert ghi chép
thêm một chút.
- Một chuyến du
lịch. Đó chính là cái mà chúng tôi đang t́m kiếm, - Robert nói
đầy vẻ khuyến khích. - Tôi h́nh dung là ông đă gặp nhiều người
đáng mến trên chuyến xe bus đó.
- Đáng mến ư? - Ông
ta nghĩ đến cái người đàn ông Texas toan vay tiền. - Không hẳn
là như thế.
- Ô?
Mann nh́n ông
khách. Tay phóng viên nầy rơ ràng là chờ ông ta nói thêm.
"Tất nhiên là ông sẽ nổi bật trong đó"
- Có một cô gái
người Nga.
- Thế ư? Hăy nói
với tốt về có ta. - Robert ghi vào sổ.
- Ồ, chúng tôi bắt
chuyện với nhau, và tôi đă giải thích cho cô ta hiểu nước Nga
lạc hậu như thế nào và đang hướng tới những khó khăn khủng khiếp
ra sao, trừ phi họ thay đổi.
- Hẳn là cô ta bị
gây ân tướng rất mạnh, - Robert nói.
- Ồ có chứ. Có vẻ
là một cô gái thông minh. Nghĩa là với người Nga. Ông biết đấy,
tất cả họ đều bị cô lập quá. Cô ta có nói tên không?
- Không, à…, khoan
nào. Olga ǵ đó.
- Cô ta có ngẫu
nhiên nói là từ đâu tới không?
- Có. Cô ta làm
việc tại một thư viện lớn ở Kiev.
Đó là chuyến đi
nước ngoài đầu tiên của cô ấy, tôi đoán, là nhờ có cải tổ. Nếu
như ông muốn biết ư kiến của tôi… - Ông ta ngừng lời để cho
Robert ghi lại - Về mặt chính trị, Gorbachev đi quá nhanh, c̣n
về mặt kinh tế th́ ông ta lại đi quá chậm.
- Thật là kỳ lạ. -
Robert lẩm bẩm.
Anh bỏ ra nửa giờ
nữa với tay chủ nhà băng, nghe những b́nh luận chủ quan của ông
ta về đủ mọi thứ, từ Thị trường chung đến kiểm soát vũ trang.
Anh đă không thể có thêm thông tin ǵ về những hành khách khác.
o0o
Khi Robert trở về khách sạn, anh gọi ngay cho tướng Hilliard.
- Xin chờ một chút,
ông chỉ huy Bellamy.
- Anh nghe thấy một
loạt tiếng lách cách, và rồi tiếng tướng Hilliard vang lên.
- Có! Ông sĩ quan?
- Thưa tướng quân,
tôi vừa t́m ra một hành khách nữa.
- Tên?
- William Mann. Ông
ta có một nhà băng ở Fort Smith, Canada.
- Cảm ơn. Tôi sẽ
báo cho giới chức Canada nói chuyện với ông ta ngay lập tức.
- Nhân thể có việc
là ông ta trao cho tôi một manh mối khác. Tối nay tôi sẽ phải
bay đi Nga. Tôi cần có một thị thực của Intourist Nga.
- Ông đang gọi từ
đâu đấy?
- Fort Smith.
- Dừng lại khách
sạn Visigoth ở Stockholm. Sẽ có một phong b́ cho ông ở chỗ tiếp
tân.
- Cảm ơn ngài.
o0o
Vào lúc 11 giờ đêm hôm đó, chuông cửa nhà William Mann réo vang.
Ông ta không hề đợi ai, và càng không ưa những khách viếng thăm
bất ngờ. Người quản gia đă nghỉ, và vợ ông ta đang yên giấc
trong pḥng riêng trên gác. Khó chịu, Mann ra mở cửa. Hai người
đàn ông mặc đồ đen đứng sững trước ông.
- Ông là William
Mann phải không?
- Phải.
Một trong hai người
kia rút ra tấm căn cước.
- Chúng tôi ở Ngân
hàng Canada. Chúng tôi có thể vào được không?
- Có chuyện ǵ vậy?
- Mann chau mầy.
- Chúng tôi muốn
thảo luận ở trong nhà, nếu như ông không phản đối.
- Được - Ông ta dẫn
họ vào pḥng khách.
- Mới đây ông đến
Thuỵ Sĩ phải không?
- Câu hỏi làm cho
ông ta bị bất ngờ.
- Cái ǵ? Phải,
nhưng có chuyện quái quỷ ǵ thế?
- Trong thời gian
ông đi vắng, chúng tôi đă kiểm tra sổ sách của ông, ông Mann.
Ông có biết là tại ngân hàng của ông thiếu hụt một triệu đô la
không?
William Mann nh́n
hai người đàn ông, thất kinh.
- Các ông nói cái
ǵ vậy? Tuần nào tôi cũng đích thân kiểm tra sổ sách mà. Chưa
bao giờ thiếu một đồng xu nào cả.
- Một triệu đô la,
thưa ông Mann. Chúng tôi nghĩ là ông phải chịu trách nhiệm biển
thủ số tiền đó.
Mặt đỏ bừng lên,
Mann thấy ḿnh lắp bắp.
- Sao, sao các
người dám… Cút khỏi đây ngay trước khi tao gọi cảnh sát.
- Điều đó chẳng có lợi
ǵ cho ông cả. Cái chúng tôi muốn ở ông là phải biết hối hận.
Lúc nầy, ông ta nh́n
họ chằm chằm, tức tối.
- Hối hận? Hối hận
chuyện ǵ hả? Các người điên rồi.
- Không đâu, thưa ông.
Một trong hai người
đàn ông rút ra một khẩu súng.
- Ông Mann, ngồi
xuống.
- Ôi, lạy Chúa! Ḿnh
bị cướp rồi.
- Nầy, - Mann nói, -
hăy lấy bất kỳ thứ ǵ các người muốn. Không cần phải bạo hành
và…
- Xin mời ngồi xuống.
Người đàn ông thứ hai
bước đến bên tủ rượu. Nó bị khoá. Hắn đập vỡ tấm kính và lấy ra
một cái cốc uống nước lớn, rót đầy rượu và mang đến chỗ Mann
đang ngồi.
- Uống đi. Nó sẽ làm
cho ông thấy thoải mái.
- Tôi, tôi không bao
giờ uống sau bữa tối. Bác sĩ của tôi…
- Uống đi, nếu không
cái ly sẽ đầy óc của ông đấy. - Gă kia dí súng vào thái dương
Mann.
Bây giờ th́ Mann hiểu
là ḿnh đang ở trong tay hai thằng điên. Ông ta run run cầm cốc
rượu lên và uống một ngụm.
- Uống cạn đi.
Ông ta uống một ngụm
lớn hơn.
- Các các ông muốn ǵ?
- Ông ta cất cao giọng, hy vọng rằng bà vợ có thể nghe thấy và
đi xuống nhà, nhưng đó chỉ là một mong muốn tuyệt vọng. Ông biết
rơ bà luôn ngủ say như chết. Rơ ràng là hai người nầy đến để
cướp bóc. Tại sao họ không vơ vét rồi chuồn đi nhỉ?
- Muốn lấy ǵ th́ lấy,
- Ông ta nói. - Tôi sẽ không ngăn trở ǵ.
- Uống nốt đi.
- Không cần phải thế
nầy. Tôi…
- Uống nốt đi.
Gă đàn ông đánh mạnh
vào phía trên tai, Mann kêu lên đau đớn.
Ông ta uống nốt chỗ
Wishky c̣n lại và cảm thấy choáng váng.
- Két của tôi ở trong
pḥng ngủ trên gác, - Ông ta nói, giọng bắt đầu líu lại. - Tôi
sẽ mở nó cho các anh. - Có thể điều đó sẽ làm cho vợ ḿnh
thức giấc và bà ta sẽ gọi điện cho cảnh sát.
- Không vội ǵ, - gă
cầm súng nói. - Ông có nhiều thời gian để uống.
Người thứ hai đi lại
chỗ tủ rượu và rót đầy một ly khác.
- Đây!
- Không, thật mà, -
William Mann phản đối. - Tôi không muốn.
Ly rượu được ấn vào
tay.
- Uống đi.
- Tôi thật sự không…
Một quả đấm giáng vào
chỗ bị đáng súng đập. Mann suưt ngất đi v́ đau đớn.
- Uống đi.
Thôi được nếu như
đó là điều chúng mầy muốn th́ sao lại không nhỉ? Cơn ác mộng nầy
càng qua nhanh càng tốt. Ông ta uống một ngụm lớn và đưa tay bịt
miệng.
- Nếu như tôi uống
nữa, tôi sẽ nôn mất.
- Nếu như mà nôn, tôi
sẽ giết ông. - Gă kia nói ngay.
Mann ngước nh́n hắn,
rồi gă cùng đi với hắn. Dường như cứ mỗi tên biến thành hai vậy.
- Các người muốn ǵ cơ
chứ? - Ông ta lẩm nhẩm.
- Ông Mann, chúng tôi
đă nói rồi. Chúng tôi muốn ông hối hận.
- Được Tôi hối hận. -
William Mann ngật ngưỡng gật đầu.
Hai gă mỉm cười.
- Ông thấy đấy, đó là
tất cả những ǵ chúng tôi yêu cầu Bây giờ… - Hắn ấn một mẩu giấy
vào tay Mann. - Tất cả những ǵ ông phải làm là viết. Tôi xin
lỗi. Hăy tha thứ cho tôi…
- Có thế thôi hả? -
William ngước mắt lên vẻ u muội.
- Thế thôi. Và rồi
chúng tôi sẽ đi khỏi đây.
Ông ta đột nhiên cảm
thấy phấn chấn. Vậy là chuyện chỉ có thế Họ là những kẻ cuồng
tín. Ngay sau khi họ đi, ḿnh sẽ gọi cảnh sát và cho bắt hết.
Ḿnh sẽ kiện để những kẻ khốn kiếp nầy bị treo cổ.
- Viết đi ông Mann.
Ông ta thấy khó tập
trung đầu óc.
- Anh nói anh muốn tôi
viết ǵ hả?
- Hăy viết, "Tôi
xin lỗi. Hăy tha thứ cho tôi".
- Phải. - Ông ta cầm
bút một cách khó khăn, cố tập trung và bắt đầu viết. "Tôi xin
lỗi. Hăy tha thứ cho tôi!"
Gă nhặt mảnh giấy từ
tay Mann, những ngón tay cầm sát mép giấy.
-
Ông Mann, thế là tốt. Thấy dễ dàng chưa?
Căn pḥng bắt đầu
quay cuồng.
- Phải. Cảm ơn. Tôi
đă hối hận. Bây giờ th́ các anh đi chứ?
- Tôi thấy là ông
thuận tay trái?
- Sao cơ?
- Ông thuận tay
trái.
- Đúng.
- Gần đây, vùng nầy
có nhiều tội phạm, ông Mann. Chúng tôi sẽ để cho ông giữ khẩu
súng nầy.
Mann cảm thấy một
khẩu súng được đặt vào bàn tay trái ḿnh - Ông có biết sử dụng
một khẩu súng như thế nào không?
- Không.
- Rất đơn giản. Ông
dùng như thế nầy nhé… - Gă ta đàn ông nâng khẩu súng lên thái
dương William và miết ngón tay của ông chủ nhà băng lên c̣ súng.
Một tiếng nổ bị bóp
nghẹt. Mẩu giấy dính máu được thả xuống sàn nhà.
- Thế là xong, -
một trong hai gă nói. - Chúc ngủ ngon, ông Mann.
Điện khẩn.
Tối mật.
CGHQ gửi Phó giám
đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến
dịch Ngày Tận Thế.
7. William Mann
- Fort Smih - Đă bị thủ tiêu
Hết.
o0o
Ngày thứ mười.
Fort Smith,
Canada.
Sáng hôm sau, các
nhân viên thanh tra ngân hàng báo cáo về việc mất một triệu đô
la tại nhà băng của Mann. Cảnh sát đă xếp cái chết của Mann vào
dạng tự sát.
Khoản tiền bị mất kia chẳng bao
giờ được t́m thấy.
Chương 29
Ngày thứ mười một.
Brussels, 3
giờ 00.
Tướng Shipley, chỉ
huy trưởng tại Bộ tư lệnh khối NATO, được người sĩ quan phụ tá
của ông đánh thức dậy.
- Thưa tướng quân,
tôi xin lỗi v́ phải đánh thủc ngài, nhưng dường như chúng ta
đang có t́nh h́nh báo động.
Tướng Shipley dụi
mắt cho hết ngái ngủ. Đêm trước, ông đă phải thức khuya để tiếp
đón các Thượng nghị sĩ từ Mỹ tới thăm.
- Có chuyện ǵ vậy
Billy?
- Tôi vừa nhận được
tin báo từ đài ra-đa , thưa ngài. Hoặc là tất cả các thiết bị
của chúng ta trở nên điên loạn, hoặc là chúng ta đang có những
người khách lạ.
Tướng Shipley bật ra
khỏi giường.
- Nói với họ là năm
phút nữa tôi sẽ tới.
o0o
Căn pḥng ra-đa mờ tối đầy kín các sĩ quan và binh sĩ tập hợp
xung quanh các màn ảnh ra-đa sáng bừng đặt ở chính giữa. Họ
quay lại và đứng nghiêm khi ông tướng bước vào.
- Nghỉ. - Ông ta bước
tới viên sĩ quan trực ban, đại uư Muller. - Lewis, có chuyện ǵ
thế?
Đại uư Muller đưa tay
vuốt đầu.
- Tôi thua. Ngài có
bao giờ thấy một máy bay nào có thể bay với tốc độ 22 ngh́n dặm
một giờ, đột ngột dừng lại, và rồi bay theo hướng ngược lại
không?
- Anh đang nói cái ǵ
vậy hả? - Tướng Shipley trợn mắt lên.
Căn cứ vào màn ảnh
ra-đa của chúng ta th́ đó chính là những ǵ diễn ra trong suốt
nửa giờ đồng hồ qua. Lúc đầu, chúng tôi nghĩ đó có thể là một
thứ thiết bị điện tử ǵ đó đang được thử nghiệm, nhưng chúng tôi
đă kiểm tra lại với người Nga, người Anh, người Pháp, và họ cũng
ghi nhận được cùng một thứ như vậy trên các màn h́nh ra-đa của
họ.
- Vậy th́ không thể là
chuyện trục trặc trong thiết bị được, - tướng Shipley nặng nề
nói.
- Vâng, thưa ngài. Trừ
phi giả thiết rằng tất cả các ra-đa trên thế giới đều bất chợt
trở nên điên rồ hết.
Bao nhiêu cái đó đă
xuất hiện trên màn ra-đa ?
- Hơn một chục. Chúng
chuyển động nhanh đến mức chỉ bám theo cũng đă khó khăn lắm rồi.
Chúng tôi ghi nhận được chúng, và chúng lại biến mất ngay. Chúng
tôi đă loại trừ các hiện tượng khí quyển, khí tượng, sao băng,
bóng thám không, và mọi phương tiện bay mà chúng ta đă biết. Tôi
đang tính cho vài máy bay cất cánh, nhưng những vật thể nầy,
không biết là thứ ǵ nữa, bay cao khủng khiếp đến mức chúng ta
không bao giờ có thể đến gần chúng được.
Tướng Shipley bước lại
một trong những màn ra-đa .
Hiện bây giờ trên màn
h́nh của các anh có cái ǵ không?
- Thưa không. Chúng đi rồi. - Anh
ta ngập ngừng một giây. - Nhưng, thưa tướng quân, tôi có cảm
giác hăi hùng là chúng sẽ c̣n trở lại.
Chương 30
Ottawa, 5 giờ 00.
Khi Janus đọc dứt bản
báo cáo của tướng Shipley, vị người Italia đứng dậy và nói với
vẻ kích động:
- Chúng đang sẵn sàng
xâm lăng chúng ta.
- Chúng xâm lăng chúng
ta rồi. - Người Pháp nói.
- Chúng ta đă quá trễ.
Đó là một thảm hoạ. - Người Nga nói. - Không có cách nào.
Janus cắt ngang.
- Thưa quư vị, đó là
một thảm hoạ mà chúng ta có thể ngăn chặn.
- Như thế nào? Ngài
biết đ̣i hỏi của chúng à? - Người Anh nói.
- Vấn đề không phải là
những đ̣i hỏi của chúng. - Người Brasil nói. - Việc chúng ta làm
ǵ với cây cối của chúng ta đâu phải việc của họ. Cái gọi là
hiệu ứng nhà kính chỉ là một thứ khoa học rác rưởi, hoàn toàn
chưa được kiểm nghiệm.
- C̣n về chúng tôi th́
sao? - Người Đức nói. - Nếu chúng buộc chúng tôi phải làm sạch
bầu không khí trên các thành phố của nước Đức, chúng tôi sẽ phải
đóng cửa các nhà máy và sẽ không c̣n lại ngành công nghiệp nào
cả.
- C̣n chúng tôi sẽ
phải ngừng sản xuất ô tô, - người Nhật Bản nói. - Và rồi nền văn
minh của thế giới nầy sẽ thế nào?
- Chúng ta đều cùng
trong một t́nh thế như nhau. - Người Nga nói. - Nếu như phải
ngừng tất cả những ǵ làm ô nhiễm môi trường, như họ đ̣i hỏi,
th́ điều đó sẽ huỷ hoại các nền kinh tế thế giới. Chúng ta phải
dành thêm thời gian cho đến khi sẵn sàng với cuộc Chiến tranh
giữa các hành tinh.
Đồng ư như vậy. Vấn đề
trước mắt của chúng ta là giữ cho dân chúng b́nh tĩnh và tránh
sự hỗn loạn lan tràn. - Janus nói một cách quả quyết.
- Công việc của sĩ
quan chỉ huy Bellamy thế nào rồi? - Người Canada nói.
- Đang có những kết quả tuyệt hảo.
Ông ta sẽ hoàn tất nhiệm vụ trong một hai ngày tới.
Chương 31
Kiev, Ucraina.
Giống như hầu hết
những phụ nữ Nga khác, Olga Romanchanko đă trở nên chán ngán với
cải tổ.
Thoạt đầu tất cả những
thay đổi được hứa hẹn sẽ diễn ra trên Tổ quốc Nga có vẻ thật hấp
dẫn. Những ngọn gió tự do thổi trện các đường phố, và niềm hy
vọng tràn ngập bầu không khí. Có những lời hứa hẹn về thịt và
rau tươi trong các cửa hàng, những quần áo đẹp những đôi giầy da
thật và cả trăm thứ tuyệt diệu khác. Nhưng giờ đây, sáu năm sau
khi nó vận hành, sự vỡ mộng cay đắng đă xen vào. Hàng hoá khan
hiếm hơn bao giờ hết. Thực sự là mọi thử đều thiếu và giá cả
tăng vọt. Những ổ gà lớn ngổn ngang trên các đường phố chính.
Nhan nhản những cuộc biểu t́nh và số tội phạm tăng lên. Những
hạn chế cũng nghiêm ngặt hơn bao giờ hết. Cải tổ và công khai đă
bắt đầu có vẻ rỗng tuếch như những lời hứa hẹn của các nhà chính
trị đă khơi xướng chúng.
Olga đă làm việc tại
một thư viện trên quảng trường Lenkosomol ở trung tâm Kiev bẩy
năm trời. Cô ba mươi hai tuổi và chưa bao giờ bước chân ra khỏi
Liên Xô. Trông Olga khá hấp dẫn, hơi mập một chút, nhưng ở Nga
th́ điều đó không bị coi là một nhược điềm.
Cô đă từng kết hôn với
hai người đàn ông, và họ đều đă bỏ rơi cô: Dmitri, người đă đi
Leningrad, và Ivan, người đă bỏ đi Mátxcơva. Olga đă toan đi
theo để cùng sống với Ivan, nhưng không có hộ khẩu Mátxcơva th́
điều đó là không thể được.
Khi sinh nhật lần thứ
ba mươi ba của cô đến gần, Olga quyết tâm đi thăm thú thế giới
bên ngoài một lần cho biết. Cô đến gặp giám đốc thư viện, người
t́nh cờ lại là bà d́ của cô.
- Cháu muốn được nghỉ
phép, - Olga nói.
- Khi nào th́ cô muốn
đi?
-
Tuần sau.
- Chúc vui vẻ.
Mọi chuyện thật đơn
giản. Trước thời cải tổ, đi nghỉ phép có nghĩa là đi Biển Đen,
Samarkan hoặc Tbilisi, hoặc là bất kỳ chỗ nào khác nhưng không
vượt khỏi lănh thổ Liên Xô. C̣n giờ đây, nếu tháo vát một chút
th́ cả thế giới sẽ mở ra trước bạn. Olga lấy một cuốn bản đồ từ
trên giá sách và chúi đầu vào đó.
Bên ngoài là cả một
thế giới lớn. Châu Phi, châu Á, Bắc và Nam Mỹ… Cô e ngại đi xa
đến như thế, bèn lật sang tấm bản đồ châu Âu. Thuỵ Sĩ, cô nghĩ.
Đó là nơi ḿnh sẽ tới.
Cô sẽ chẳng bao giờ
thú nhận với ai trên đời nầy, nhưng Thuỵ Sĩ đă hấp dẫn cô, chủ
yếu v́ cô đă hơn một lần được biết mùi chocolat của nó, và cô
không bao giờ có thể quên được cảm giác đó. Cô thích ăn kẹo. Ở
Nga - khi mà người ta có thể kiếm được - th́ cũng là thứ kẹo
không đường và mùi vị th́ chẳng ra ǵ.
Olga đă phải đổi
mạng sống chỉ v́ thèm được ăn kẹo chocolat.
Hành tŕnh trên
chuyến bay Aeroflot tới Zurich là một sự khởi đầu thú vị. Chưa
bao giờ đi máy bay, Olga rất hồi hộp khi phi cơ hạ cánh xuơng
sân bay quốc tế ở Zurich. Trong không khí có cái mùi ǵ đó khang
khác. Có thể là mùi vị của tự do thật sự, Olga nghĩ. Tiền bạc
của cô rất eo hẹp, và cô đă đặt pḥng trước ở Leonhare, một
khách sạn nhỏ, rẻ tiền, ở số 136 Limmatquai.
Olga làm thủ tục ở
bàn tiếp tân.
- Đây là lần đầu
tiên tôi tới Thuỵ Sĩ, - Cô tŕnh bày với nhân viên khách sạn
bằng một thứ tiếng Anh ngắc ngứ. - Anh có thể gợi ư cho tôi nên
làm ǵ không.
- Tất nhiên. Ở đây
th́ có nhiều thử lắm, - anh ta nói với cô. - Có thể là cô nên
bắt đầu với một ṿng quanh thành phố. Tôi sẽ thu xếp việc đó.
- Cảm ơn.
Olga thấy Zurich
thật hấp dẫn. Cô sững sờ trước cảnh quan và những âm thanh của
thành phố nầy.
Người đi đường ăn
mặc đẹp và lái những chiếc xe đắt tiển. Với Olga th́ dường như
tất cả mọi người ở Zurich đều là những nhà triệu phú… Và c̣n
những cửa hiệu dọc con đường Bahnhofstrasse, đường phố buôn bán
chính của Zurich, và cô ngạc nhiên trước mức độ phong phú đến
không thể tin được trong các ô kính: nào váy, nào áo khoác, váy
lót, giầy dép, đồ nữ trang, bát đĩa, đồ gỗ, ô tô, sách báo, ti
vi, radio, đồ chơi và đàn piano… Hàng hoá bày bán dường như
không kể xiết. Và rồi Olga chợt đi ngang qua tiệm Sprungli, nổi
tiếng về mứt và kẹo chocolat. Trời, chocolat!
Bốn ô kính lớn đầy
ngập, đủ các loại khác nhau. Có cả chuối bao chocolat và những
hạt chocolat trong chứa một chút rượu hảo hạng. Chỉ nh́n thôi
cũng đă thấy sướng. Olga những muốn mua tất cả, nhưng khi biết
giá rồi th́ đành chỉ mua một hộp thập cẩm nhỏ và một hộp lớn
những chocolat thanh.
Trong tuần lễ tiếp
theo đó, Olga đă thăm khu vườn Zurichchhorn, bảo tàng Rietherg
và nhà thờ Grossmunster - được xây cất trong thế kỷ mười một, và
hơn một chục điểm du lịch tuyệt vời khác. Sau cùng, đă cũng sắp
hết thời gian.
Người nhân viên ở
khách sạn Leonhare nói với cô:
- Hàng xe bus du
lịch Sunshine có một tuyến rất hấp dẫn trên vùng núi Alps. Tôi
nghĩ là cô có thể thưởng ngoạn điều đó trước khi rời khỏi đây.
- Cảm ơn, Olga nói.
- Tôi sẽ thử xem.
Khi rời khỏi khách
sạn, nơi dừng chân đầu tiên của cô là tiệm Sprungli, và nơi tiếp
theo là văn pḥng hăng Sunshine đề làm thủ tục cho một chuyến
đi.
Quang cảnh đẹp đến
nghẹt thở, và giữa chừng của chuyến đi, họ đă chứng kiến vụ nổ
của cái mà thoạt đầu cô nghĩ là đĩa bay, nhưng ông chủ nhà băng
người Canada ngồi cạnh cô đă giải thích rằng đó chỉ là chuyện
bày đặt của chính phủ Thuỵ Sĩ dành cho du khách, và rằng không
hề tồn tại cái mà cô vừa nghĩ đến.
Olga đă không hoàn
toàn bị thuyết phục. Khi trở về nhà ở Kiev, cô đă mang chuyện
nầy ra nói với bà d́ của ḿnh.
- Chắc là có đĩa
bay, - bà d́ nói. - Chúng bay trên bầu trời nước Nga suốt ấy mà.
Cháu nên bán câu chuyện của ḿnh cho một tờ báo.
Olga đă tính làm
như vậy nhưng lại sợ bị người ta cười cho. Đảng Cộng sản không
muốn các đảng viên của ḿnh trở thành đối tượng của sự nhạo
báng.
Dù sao chăng nữa,
Olga kết luận, bên cạnh chuyện Dmitri và Ivan, kỳ nghỉ của cô là
kỷ niệm đáng nhớ nhất trong đời. Thật là khó khăn khi bắt tay
vào trở lại với công việc.
o0o
Chiếc xe bus của Intourist chạy mất một giờ trên con đường cao
tốc mới được xây dựng từ sân bay về tới trung tâm Kiev. Đó là
lần đầu tiên Robert tới đây, và anh có ấn tượng mạnh mẽ với
những công tŕnh xây dựng đâu đâu cũng thấy trên dọc đường và
những toà nhà ở lớn đang mọc lên khắp nơi. Chiếc xe bus dừng lại
trước khách sạn Dniepr và đổ xuống hơn hai chục hành khách.
Robert nh́n đồng hồ đeo tay ḿnh, 8 giờ. Thư viện đóng cửa mất
rồi. Anh làm thủ tục thuê pḥng ở cái khách sạn lớn ấy, nơi mà
một pḥng đă được đặt trước cho anh, uống một cốc ở quầy rượu và
đi vào trong cái pḥng ăn trắng toát mộc mạc để ăn một bữa tối
với trứng cá muối, dưa chuột, cà chua, sau đó là món khoai tây
hầm với chút thịt có thêm nhiều bột, tất cả được kèm với Vodka
và nước khoáng.
Thị thực nhập cảnh đă
được để sẵn cho anh tại khách sạn ở Stockholm như tướng Hilliard
đă hứa.
Đó là kêt quả nhanh
chóng của sự hợp tác quốc tế, Robert nghĩ. Nhưng chẳng có sự hợp
tác nào cho ḿnh cả. Từ nghiệp vụ gọi là "Trần trụi".
Sau bữa ăn, Robert hỏi
han đôi chút tại bàn tiếp tân và đi vơ vẩn ra quảng trường
Lenkosomol. Kiev thật sự gây ngạc nhiên đối với anh. Là một
trong những thành phố cổ kính nhất nước Nga, với dáng vẻ châu Âu
nó nằm trên bờ sông Dniepr, với những công viên xanh tươi và
những đường phố rộng lớn có cây trồng dọc hai bên. Ở đâu cũng
thấy các nhà thờ, và chúng là những thí dụ ngoạn mục cho kiến
trúc tôn giáo, như các nhà thờ Thánh Vladimir, Thánh Andrew, và
Thánh Sofia - nhà thờ sau cùng nầy được hoàn tất vào năm 1037,
và tu viện Pechersk, công tŕnh kiến trúc cao nhất thành phố.
Susan sẽ rất yêu thích những phong
cảnh nầy, Robert nghĩ. Cô chưa bao
giờ đến nước Nga. Anh băn khoăn không biết cô đă từ Brasil trở
về hay chưa. Cảm thấy bị thôi thúc, anh gọi điện thoại cho cô
khi trở lại khách sạn, và anh ngạc nhiên thấy gần như không hề
phải chờ đợi ǵ.
- Xin chào? - Cái
giọng cổ khêu gợi ấy.
- Chào. Brasil thế
nào?
- Robert. Em cố gọi
cho anh mấy lần. Không có ai trả lời.
- Anh không có nhà.
Ôi! Cô đă được huấn
luyện quá kỹ để không hỏi là anh đang ở đâu.
- Anh có khoẻ không
đấy?
Đối với một
thằng quan hoạn th́ khoẻ.
- Tất nhiên. Khoẻ.
Cái túi tiền Monte thế nào?
- Anh ấy khoẻ.
Robert, ngày mai chúng em sẽ đi Gibraltar.
Tất nhiên là
trên cái du thuyền của thằng cha Cái túi tiền khốn kiếp kia. Tên
nó là ǵ ấy nhỉ? À, phải, Thanh B́nh.
- Bằng du thuyền?
- Vâng. Anh có thể
gọi cho em ở đó. Anh có nhớ số máy không?
Anh nhớ. -
WS387. WS có nghĩa ǵ nhỉ? Susan tuyệt diệu chăng?… Sao lại phải
xa nhau chăng…Kẻ đi cướp vợ người?
- Anh Robert?
- Có anh nhớ. WS
(Wishky và Đường) 337.
- Anh sẽ gọi chứ?
Để em biết là anh khoẻ mạnh mà.
- Rồi. Anh nhớ em,
cô bé ạ.
Một im lặng đau
đớn, hồi lâu. Anh chờ đợi. Anh đợi cô nói ǵ nhỉ?
Đến cứu em khỏi cái
thằng cha quyến rũ nầy, gă trông giống một Paul Newman và đă bắt
em phải đi trên chiếc du thuyền lộng lẫy của hắn và sống trong
những cung điện nhỏ nhắn nghèo khổ ờ Monte Carlo, Paris, London
và chỉ có Chứa mới, biết được là c̣n ở những đâu nưà. Giống như
một thằng ngu, anh thấy ḿnh có phần mong cô sẽ nói như thế.
- Em cũng nhớ anh,
Robert. Hăy tự chăm sóc ḿnh.
Và đường dây bị
cắt. Anh c̣n lại ở nước Nga, đơn độc.
o0o
Ngày thứ mười hai.
Kiev, Ucraina.
Sáng sớm hôm sau,
khi thư viện mở cửa được mười phút, Robert đă bước vào toà nhà
lớn, ảm đạm, và tiến lại bàn thường trực.
- Xin chào. -
Robert nói.
Người phụ nữ ngồi
sau bàn ngẩng lên.
- Xin chào. Ông cần
ǵ?
- Vâng. Tôi đang
t́m một người phụ nữ mà tôi tin là đang làm việc ở đây, cô Olga.
- Olga? Có đấy. -
Chị ta chỉ sang một pḥng khác. - Cô ấy ở trong pḥng kia.
- Cám ơn.
Thật là dễ dàng.
Robert bước đi ngang qua một nhóm sinh viên đang chăm chú làm
việc bên những chiếc bàn dài. Chuẩn bị cho một thứ tương lai ǵ
thế không biết? Robert băn khoăn. Anh tới một pḥng đọc nhỏ hơn
và bước vào bên trong. Một người phụ nữ đang bận bịu xếp lại
những cuốn sách.
- Xin thứ lỗi, -
Robert nói.
- Ǵ thế ạ? - Chị
ta quay lại.
- Chị là Olga?
- Tôi là Olga. Ông
cần ǵ ở tôi thế?
Robert nở một nụ
cười gây thiện cảm.
- Tôi đang viết một
bài báo về công cuộc cải tổ và ảnh hưởng của nó đối với những
người Nga ở tầng lớp trung b́nh. Nó có tác động đến đời sống của
chị không?
Người phụ nữ nhún
vai.
- Trước Gorbachev,
chúng tôi không dám mở miệng. Bây giờ chúng tôi có thể mở miệng
nhưng lại không có ǵ để cho vào cả.
Robert thử một mẹo
khác.
- Chắc chắn là có
những thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn. Thí dụ, bây giờ các bạn
có thể đi du lịch.
- Hẳn là ông nói
đùa. Với một ông chồng và sáu đứa con th́ ai mà có tiền đi du
lịch?
- Th́ chị vẫn có
thể có tiền đề đi Thuỵ Sĩ và… - Robert cố thêm.
- Thuỵ Sĩ ư? Trong
đời tôi chưa bao giờ mơ được đến đó.
- Chị chưa bao giờ
tới Thuỵ Sĩ hả? - Robert từ tốn nói.
- Tôi đă nói rồi
đấy thôi. - Chị ta hất hàm về phía một phụ nữ tóc sẫm đang chọn
sách trên bàn. - Cô ấy mới là người may mắn được tới Thuỵ Sĩ
đấy.
- Tên cô ấy là ǵ
thế? - Robert liếc mắt nh́n.
- Olga. Cùng tên
với tôi.
- Cám ơn. - Anh thở
dài.
Một phút sau,
Robert đă nói chuyện với cô Olga thứ hai kia.
- Xin lỗi, - Robert
nói. - Tôi đang viết một bài báo về cải tổ và ảnh hưởng của nó
đến đời sống của người dân Nga.
- Dạ? - Cô gái nh́n
anh một cách cảnh giác.
- Tên cô là ǵ?
- Olga. Olga
Romanchanko.
- Hăy nói cho tôi
biết, cô Olga, rằng cải tổ có tác động ǵ đến cô không?
Sáu năm về trước,
hẳn Olga Romanchanko sẽ sợ phải nói chuyện với một người nước
ngoài, nhưng giờ đây th́ điều đó đă được phép.
- Không hẳn có ǵ,
- Cô nói một cách thận trọng. - Mọi thứ phần lớn vẫn như cũ
thôi.
- Không có ǵ thay
đổi trong cuộc sống của cô ư? - Người khách lạ vẫn bướng bỉnh.
Cô ta lắc đầu.
- Không. - Và rồi
cô nói thêm v́ ḷng yêu nước. - Tất nhiên là bây giờ chúng tôi
có thể đi du lịch ra nước ngoài.
- Và cô đă đi rồi?
- Anh tỏ ra quan tâm.
- Ô, vâng. - Cô
hănh diện nói. - Tôi vừa mới từ Thuỵ Sĩ trở về. Một đất nước rất
đẹp.
- Tôi đồng ư, - anh
nói. - Cô có cơ hội làm quen với ai trong chuyến đi đó không?
- Tôi đă gặp rất
nhiếu người. Tôi ngồi xe bus và chúng tôi đi lên vùng núi cao.
Dăy Alps. - Đột nhiên, Olga nhận ra là cô không nên nhắc tới
chuyện nầy bởi v́ người khách lạ có thể hỏi cô về con tàu vũ
trụ; và cô không muốn nói ra. Chuyện đó chỉ có chuốc cho cô
những rắc rối mà thôi.
- Thế à? Robert
hỏi. - Hăy nói cho tôi nghe về những người trên chiếc xe bus đó.
Nhẹ cả người. Olga
đáp:
- Rất thân thiện.
Họ ăn mặc… - Cô ra hiệu bằng tay, - rất giàu. Tôi gặp cả một
người từ thủ đô của ông tới, từ Washington D.C.
- Thế hả?
- Vâng. Rẩt tử tế.
Ông ấy đă cho tôi tấm danh thiếp.
- Cô vẫn giữ nó
chứ? - Tim Robert đă ngưng lại một nhịp.
- Không Tôi đă ném
nó đi rồi. - Cô nh́n quanh. - Tốt hơn là không nên giữ những thứ
đó.
Khốn kiếp.
Và rồi cô nói thêm:
- Tôi nhớ tên ông
ta. Parker. Parker, giống như tên cái bút của các ông ấy. Kenvin
Parker. Rất quan trọng trong các vấn đề chính trị. Ông ấy kề
chuyện các Thượng nghị sĩ phải kiếm phiếu thế nào.
- Đó là điều ông ấy
nói với cô à? - Robert giật ḿnh.
- Vâng. Ông ấy đă
đưa họ đi du lịch và tặng quà, và rồi họ bỏ phiếu ủng hộ cho
những ǵ mà khách hàng của ông ấy cần. Đó là con đường dân chủ ở
nước Mỹ.
Một người vận động
hành lang. Robert để Olga nói thêm mười lăm phút sau đó, nhưng
anh không gó thêm được thông tin có ích ǵ về những hành khách
khác.
o0o
Robert gọi điện cho tướng Hilliard từ pḥng khách sạn của anh.
- Tôi đă t́m thấy
nhân chứng người Nga. Tên cô ta là Olga Romanchako, làm việc tại
thư viện trung tâm ở Kiev.
- Tôi sẽ để một
quan chức Nga nói chuyện với cô ta.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám
đốc GRU.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến
dịch Ngày Tận Thế.
8. Olga
Romanchanko Kiev.
Hết
Chiều hôm đó,
Robert bay trên chiếc Tu-154 của Aeroflo tới Paris. Anh tới nơi
sau 3 giờ 25 phút và chuyển sang một chuyến bay của hăng hàng
không Pháp đi Washington D.C.
o0o
Lúc 2 giờ sáng, Olga Romanchanko nghe thấy tiếng xe ô tô phanh
gấp trước toà nhà nơi cô sống, trên phố Veryk. Các bức tường
mỏng manh đến nỗi cô có thể nghe được tất cả những tiếng nói
ngoài phố. Cô dậy khỏi giường và đến nh́n qua cửa sổ. Hai người
đàn ông mặc đồ dân sự đang ra khỏi chiếc xe Chaika màu đen, kiểu
xe mà các quan chức chính phủ sử dụng.
Họ đi vào cổng chung
cư của cô. Bóng dáng họ làm cho cô thấy rùng ḿnh. Nhưng năm
qua, một số người hàng xóm của cô đă mất tích, không ai trông
thấy họ bao giờ nữa. Một số bị đầy đi Siberia. Olga không biết
lần nầy mật vụ đang săn lùng ai, và ngay khi vẫn c̣n đang nghĩ
như vậy, có tiếng gơ cửa, làm cô giật bắn minh. Họ muốn ǵ ở
ḿnh nhỉ? Cô lo lắng.
Hẳn là có sự nhầm lẫn.
Khi cô mở cửa, hai
người đàn ông đang đứng đó.
Đồng chí Olga
Romanchanko phải không?
- Dạ.
- Cơ quan T́nh báo
Quân sự GRU khét tiếng.
Họ sấn sổ bước vào
pḥng.
- Các các anh muốn
ǵ?
Chúng tôi sẽ là
người hỏi. Tôi là Thượng sĩ Yuri Gromkov. Đây là Thượng sĩ
Vladimir Zemsky.
- Có… có chuyện ǵ
sai trái chăng? Tôi đă làm ǵ nào? - Cô đột ngột cảm thấy sợ
hăi.
- Ồ vậy là cô biết
ḿnh đă làm ǵ đó sai trái. - Zemsky chộp lấy.
- Không, chắc chắn
là không. - Olga nói, bối rối. - Tôi không biết v́ sao các anh
lại tới đây.
- Ngồi xuống. -
Gromkov quát lên. Olga làm theo, run rẩy.
- Cô vừa từ Thuỵ Sĩ
trở về, phải không nào?
- Dạ, dạ, - Cô lắp
bắp, - nhưng đó - đó là… Tôi được phép của…
- Olga Romanchanko,
hoạt động gián điệp bất hợp pháp.
- Hoạt động gián
điệp? Cô khiếp sợ. - Tôi không hiểu các anh đang nói ǵ.
Người đàn ông cao
to nh́n chằm chằm vào thân thể cô và Olga bỗng nhận ra cô chỉ có
một cái váy ngủ mỏng tang trên người.
- Đi. Cô phải đi
cùng chúng tôi.
- Nhưng, có một sự
nhầm lẫn kinh khủng. Tôi là một thủ thư. Xin hỏi bất kỳ ai ở
đây.
- Nào. - Anh ta kéo
cô đứng dậy.
- Các anh mang tôi
đi đâu?
- Về trụ sở. Họ
muốn thẩm vấn cô.
Họ cho phép cô mặc
áo khoác ra ngoài váy ngủ.
Cô bị đẩy xuống cầu
thang và ấn vào trong chiếc Chaika.
Olga nghĩ tới tất
cả những người đă phải ngồi vào trong chiếc xe giống như thế
nầy, đề không bao giờ trở về, cô chết lặng đi v́ sợ hăi.
Người đàn ông cao
to, Gromkov, lái xe. Olga được đẩy vào ghế sau, ngồi cùng với
Zemsky. Anh ta dường như không làm cho cô sợ hăi bằng người kia,
nhưng cô đă bị tê liệt với việc biết họ là ai và điều ǵ sắp xảy
ra với ḿnh.
- Xin hăy tin tôi.
- Olga nói một cách khẩn khoản. Tôi không bao giờ phản bội.
- Câm mồm. -
Gromkov quát lên.
Nầy, chẳng lư do ǵ
phải quá cứng rắn với cô ấy cả. Thực ra th́ tôi tin cô ấy. -
Vladimir Zemsky nói.
Olga cảm thấy tim
ḿnh rộn lên v́ hy vọng.
- Thời thế đă thay
đổi. - Zemsky nói tiếp. - Đồng chí Gorbachev không muốn chúng ta
quấy nhiễu những người vô tội. Những ngày đó đă qua rồi.
- Ai nói là cô ta
vô tội? - Gromkov càu nhàu. - Có thể là có có thể là không. Ở
trụ sở họ sẽ t́m ra ngay thôi mà.
Olga ngồi nghe hai
người đàn ông nói về cô như thể cô không hề có ở đó.
- Nào, Yuri, cậu
biết là ở trụ sở th́ cô ấy sẽ thú tội cho dù có tội hay không.
Tớ không thích thế. - Zemsky nói.
- Chuyện đó th́ quá
tệ. Chúng ta chẳng thể làm ǵ được đâu Được chứ.
- Cái ǵ?
Người đàn ông ngồi
bên cạnh Olga im lặng một thoáng.
- Nghe nầy, - anh
ta nói, - tại sao chúng ta không thả quách cô ấy ra nhỉ? Chúng
ta có thể nói lại là cô ấy không có nhà. Chúng ta sẽ tŕ hoăn
một hoặc bai ngày, và họ sẽ quên chuyện cô ấy đi v́ họ có quá
nhiều người để tra hỏi rồi.
Olga toan nói ǵ
đó, nhưng cổ họng cô khô khốc.
Cô mong mỏi đến
tuyệt vọng là người đàn ông ngồi cạnh cô thuyết phục được người
kia v́ sao chúng ta phải liều mạng để cứu cô ta hả?
- Chúng ta được ǵ
nào? Cô ấy sẽ làm ǵ cho chúng ta nào? - Gromkov làu bàu.
Zemsky quay lại và
nh́n Olga vẻ ḍ hỏi. Olga cố cất lời:
- Tôi không có tiền
bạc ǵ.
- Ai cần tiền của
cô? Chúng tôi có rất nhiều tiền.
- Cô ta có thứ
khác. - Gromkov nói.
Olga chưa kịp trả
lời th́ Zemsky nói:
- Khoan đă, Yuri
Ivanovich, cậu không thể đ̣i cô ấy làm điều đó.
- Tuỳ cô ta thôi.
Cô ta có thể ngọt ngào với chúng ta hoặc là tới trụ sở và sẽ bị
tra tấn trong một hoặc hai tuần lễ. Có thể là họ sẽ tống cô ta
vào trong một cái chuồng cọp xinh xắn.
Olga đă nghe về
những cái chuồng cọp. Những hầm giam chiều một mét, chiều hai
mét lạnh lẽo với một cái giường gỗ và không chăn chiếu ǵ.
"Ngọt ngào với chúng ta". Thế nghĩa là thế nào nhỉ?
- Tuỳ cô ta.
- Cô muốn thế nào?
- Zemsky quay sang Olga.
- Tôi, tôi không
hiểu.
- Anh bạn tôi nói
rằng nếu như cô ngọt ngào với chúng tôi, chúng tôi có thể bỏ qua
vụ nầy. Sau một thời gian ngắn: có thể họ sẽ quên chuyện của cô.
- Tôi tôi sẽ phải
làm ǵ cơ?
Gromkov mỉm cười
với cô qua tấm gương chiếu hậu.
- Hăy dành cho
chúng tôi ít phút ở cô. - Anh ta nhớ tới một câu đă đọc ở đâu
đó. - Hăy nằm đó và nghĩ tới hoàng đế. - Rồi cười khoái trá.
Olga đột nhiên hiểu
ra họ muốn ǵ. Cô lắc đầu.
- Không. Tôi không
thể làm điều đó.
Được. - Gromkov bắt
đầu tăng tốc độ. - Ở trụ sở họ sẽ có một cuộc vui với cô.
- Khoan.
Cô đang trong cơn
hoảng sợ và không biết phải làm ǵ. Cô đă nghe những cầu chuyện
khủng khiếp về điều ǵ xảy đến đối với những người bị bắt giữ và
trở thành tội nhân. Cô đă nghĩ rằng tất cả những chuyện đó đă
chấm dứt, nhưng bây giờ th́ cô hiểu là không phải. Cải cách vẫn
c̣n đang là một hy vọng, một tưởng tượng. Họ sẽ không cho phép
cô có một luật sư hoặc nói chuyện với bất kỳ ai. Trong quá khứ,
bạn bè của cô đă bị nhân viên GRU hăm hiếp, sát hại. Cô đă mắc
bẫy. Nếu cô chịu vào tù, họ có thể giam giữ cô nhiều tuẩn lễ,
đánh đập, hăm hiếp cô, hoặc có thể c̣n tệ hại hơn. Với hai người
đàn ông nầy, ít ra th́ chuyện đó cũng chỉ qua đi trong ít phút
và rồi họ sẽ thả cô ra. Olga đi đến một quyết định.
- Cũng được, cô đau
khổ nói. - Các anh có muốn quay trở lại căn hộ của tôi không?
- Tôi biết có một
chỗ tốt hơn. - Gromkov nói. Anh ta ṿng xe ngược lại.
- Tôi xin lỗi về
chuyện nầy, nhưng anh ta là chỉ huy. Tôi không thể ngăn anh ta
được. Zemsky th́ thầm.
Olga không đáp lại.
Họ chạy ngảng qua
Nhà hát Opera Shevchenko màu đỏ rực và hướng tới một công viên
có cây cối bao quanh. Vào giờ nầy, công viên hoàn toàn vắng
ngắt.
Gromkov lái xe chạy
dưới những hàng cây và rồi tắt điện, tắt máy.
- Ra ngoài đi. -
Anh ta nói.
Cả ba người bước ra
khỏi xe.
- Cô thật may mắn.
Chúng tôi thả cô ra thật dễ dàng. Tôi hy vọng là cô sẽ đánh giá
cao điều đó. - Gromkov nh́n Olga.
Olga gật đầu, không
dám nói ǵ v́ quá sợ.
Gromkov dẫn họ tới
một chỗ quang.
- Cởi ra.
Trời lạnh, Olga
nói. - Chẳng lẽ chúng ta không thể…?
- Làm theo lời tao
trước khi tao thay đổi ư kiến. - Gromkov tát mạnh vào mặt cô.
Olga ngập ngừng một
giây, và khi hắn ta lại giơ tay chực đánh, cô bắt đầu cởi khuy
áo khoác.
- Cởi hẳn ra.
Cô thả cái áo rơi
xuống đất.
- Giờ đến cái váy
ngủ.
Olga chậm chạp kéo
cái váy qua đầu và lột hẳn nó ra, run lên trong trời đêm giá
lạnh, đứng trần truồng dưới ánh trăng.
- Tấm thân ngon
lành. - Gromkov nói. Hắn ta bóp hai đầu vú cô.
- Đừng…
- Mầy nói nửa lời,
chúng tao sẽ mang mầy đến trụ sở. - Anh ta đẩy cô nằm xuống đất.
Ḿnh sẽ không nghĩ
tới chuyện nầy. Ḿnh sẽ cố nghĩ là ḿnh đang ở Thuỵ Sĩ, trên
chiếc xe bus du đi du lịch và ngắm những phong cảnh đẹp đẽ.
Gromkov tụt quần ra
và giang rộng hai chân Olga.
Ḿnh có thể nh́n
thấy đỉnh Alps tuyết phủ. Có một cái xe trượt tuyết chạy ngang,
trên đó là hai đứa trẻ, một trai, một gái.
Cô thấy hắn luồn
tay dưới hông cô và ấn cái giống đực vào trong cô, làm cô đau
đớn.
Có những chiếc
xe đẹp đẽ đang chạy trên xa lộ. Nhiều xe hơn bao giờ cô từng
nh́n thấy trong đời. Ở Thuỵ Sĩ mỗi người đều có một chiếc xe.
Hắn đang dồn dập
mạnh hơn trên người cô, cấu véo cô kêu lên những tiếng kêu như
thú hoang.
Ḿnh sẽ có một
ngôi nhà nhỏ ở trên núi. Người Thuỵ Sĩ gọi là ǵ nhỉ? Chalét. Và
ḿnh sẽ có kẹo chocolat hàng ngày. Có hàng hộp.
Lúc nầy, Gromkov đă
buông cô ra, thở hồng hộc.
Hắn đứng lên và
quay sang Zemsky.
Đến lượt cậu.
Ḿnh sẽ lấy
chồng và có con, và cả nhà sẽ đi trượt tuyết vào mùa đông.
Zemsky dă mở sẵn
khoá quần và lập tức nằm đè lên cô.
Đó sẽ là một
cuộc sống tuyệt vời. Ḿnh sẽ không bao giờ trở về Nga. Không bao
giờ. Không bao giờ.
Hắn đă ở trong cô,
c̣n làm cô đau đớn hơn cả gă kia, gh́ chặt hai mông cô và đè
thân thề cô xuống nền đất lạnh, cho đến lúc sự đau đớn tưởng
chừng như không thể chịu đựng được nữa.
Ḿnh và gia đ́nh
sẽ sống ở một trang trại, một nơi luôn vắng lặng và thanh b́nh,
và có một mảnh vườn với những bông hoa xinh đẹp.
Zemsky đă xong và
nh́n lên người bạn đồng nghiệp.
- Tôi cảm thấy cô
ta sướng. - Hắn cười. Rồi cúi xuống tóm lấy đầu Olga và bẻ gẫy
cổ cô.
Ngày hôm sau, trên
tờ báo địa phương có mẩu tin về việc một cô thủ thư bị hiếp và
bị giết chết trong công viên. Kèm theo đó
là một lời cảnh cáo nghiêm khắc của giới chức trách rằng những
cỏ gái trẻ đi một ḿnh vào công viên buổi tối là rất nguy hiểm.
Điện khẩn.
Tối mật.
Phó giám đốc GRU
gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến
dịch Ngày Tận Thế.
8. Olga Romanchanko
- Kiev - Đă bị thủ tiêu
Hết
Chương 32
Williard Stone và Monte Banks là
những kẻ thù tất yếu. Cả hai đều là những con thú ăn thịt tàn
bạo, và cánh rừng mà chúng đang lảng vảng ŕnh rập là những bức
tường đá cao ngất trên Wall Strees, với những chủ nhân đầy quyền
lực, những ông chủ tài chính cỡ bự và những vụ chuyển nhượng cổ
phiếu khổng lồ.
Hai người đă đụng độ
nhau lần đầu tiên trong vụ dành giật một công ty có lợi nhuận
lớn. Williard Stone đă thắng thầu lần đầu và hy vọng là không có
trục trặc ǵ. Ông ta có thế lực quá mạnh và tiếng tăm của ông ta
khủng khiếp đến độ ít ai dám đương đầu nên đă rất đỗi ngạc nhiên
khi được biết có một nhà doanh nghiệp trẻ tên là Monte Banks
đang tranh thầu với ông Stone buộc phải nâng thầu và số tiền cứ
cao lên măi. Sau cùng Williard Stone cũng dành được quyền kiểm
soát công ty đó, nhưng với lăi suất thấp hơn nhiều so với dự
tính.
Sáu tháng sau, trong
một cuộc bỏ thầu để mua lại một hăng điện tử lớn, Stone lại chạm
chán Monte Banks.
Giá thầu cứ leo lên
măi và lần nầy th́ Banks thắng.
Khi Williard Stone
biết Monte Banks dự định cạnh tranh với ḿnh để dành quyền kiềm
soát một hăng máy tính, ông ta quyết định đă đến lúc phải đối
mặt với đối thủ. Hai người đàn ông gặp nhau trên mảnh đất trung
lập ở đảo Paradise thuộc bang Bahamas.
Williard Stone đă cho
điều tra kỹ lưỡng về lai lịch của địch thủ và biết rằng Monte
Banks xuất thân từ một gia đ́nh kinh doanh dầu mỏ giầu có và đă
khôn khéo thương lượng để đưa di sản thừa kế của anh ta vảo một
tổ hợp quốc tế.
Hai người ngồi vào bàn
ăn trưa. Williard Stone, già và khôn
ngoan, c̣n Monte Banks th́ trẻ và hăng hái.
- Anh đang trở
thành một cái ung nhọt nhức nhối đấy! - Williard mở đầu câu
chuyện.
Từ miệng ông nói ra
th́ đó là một lời khen ngợi lớn Monte Banks mỉm cười.
- Anh muốn ǵ?
- Như ông thôi. Tôi
muốn làm chủ thế giới nầy.
- Ồ, thế giới nầy
đủ lớn. - Williard Stone trầm ngâm nói.
- Nghĩa là thế nào?
- Có đủ chỗ cho cả
hai chúng ta.
Đó là ngày mà họ
trở thành bạn của nhau. Mỗi người đều thành công trong việc kinh
doanh của ḿnh một cách riêng rẽ, nhưng mỗi khi có những đề án
mới - gỗ, dầu, bất động sản - th́ họ lại phối hợp với nhau, thay
v́ đối chọi. Đă vài lần Cơ quan chống kinh doanh bất hợp pháp
của Bộ Tư pháp đă cố ngăn chặn những vụ làm ăn của họ, nhưng các
mối quen biết của Williard Stone đă luôn tỏ ra có ích. Monte
Banks là chủ của những công ty hoá chất phải chịu trách nhiệm
trước sự ô nhiễm môi trường tràn lan trên các sông hồ, nhưng khi
anh ta bị truy tố, th́ bản cáo trạng lại bị bỏ lửng một cách bí
ẩn.
Hai người đàn ông
đó có một mối quan hệ cộng sinh hoàn hảo.
Chiến Dịch Ngày Tận
Thế là lẽ đương nhiên đối với họ, và cả hai đều tham gia nhiều
vào nó. Họ đang sắp kiếm được một hợp đồng mua mười triệu mẫu
rừng xanh tốt trong vùng nhiệt đới Amazon. Đó sẽ là một trong
những hợp đồng béo bở nhất mà họ kiếm được từ trước tới nay.
Họ không thể chấp
nhận bất kỳ vật cản nào trên đường đi của ḿnh.
Chương 33
Ngày thứ mười ba.
Washington, D. C.
Thượng nghị viện Mỹ
trong một kỳ họp toàn thể…
Vị thượng nghị sĩ
trẻ từ bang Utah đang phát biểu và những ǵ đang xảy đến với hệ
sinh thái của chúng ta là một điều ô nhục quốc gia. Đă đến lúc
bộ máy vĩ đại nầy phải nhận ra rằng việc giữ ǵn di sản quư báu
mà các bậc tiền bối đă để lại chính là nghĩa vụ thiêng liêng của
ḿnh. Không chỉ là nghĩa vụ thiêng liêng mà c̣n là đặc quyền của
chúng ta trong việc bảo vệ đất đai, không khí, và các vùng biển
khơi bị phá huỷ trước những lợi ích đặc quyền ích kỷ. Và chúng
ta có làm điều nầy không? Chúng ta có làm việc một cách tốt nhất
với tất cả lương tâm của ḿnh không? Hay chúng ta cho phép uy
lực của đồng tiền chi phối ḿnh.
Kevin Paker, ngồi
trong pḥng dành cho khách thăm, đă đưa mắt nh́n đồng hồ tới lần
thứ ba trong ṿng năm phút. Ông ta sốt ruột, không hiểu bài diễn
văn sẽ c̣n kéo dài bao lâu nữa. Ông ta ngồi chờ chỉ bởi lẽ sắp
đến giờ dùng bữa trưa với vị thượng nghị sĩ mà ông cần nhờ giúp
đỡ. Kevin Pakker thích thú với việc đi ngang qua những hành lang
quyền lực, chén chú chén anh với các ông nghị, tiêu xài phóng
tay để đổi lấy những ân huệ chính trị.
Ông ta lớn lên
trong nghèo đói ở Eugene, tiểu bang Oregon. Cha là người nghiện
rượu, có một kho chữa gỗ nhỏ và đă biến cái nhẽ ra là một sự
kinh doanh ăn phát đạt thành một thảm hoạ. Cậu con trai phải làm
việc từ tuổi mười bốn, và bởi v́ mẹ cậu đă bỏ đi theo một người
đàn ông khác từ mấy năm trước, nên cậu đă không hề có đời sống
gia đ́nh. Paker dễ dàng có thể trở thành một kẻ lang bạt và kết
thúc giống như ông bố, thế nhưng cứu cánh của cậu ta lại là cái
vẻ đẹp trai và thêm nữa, rất có cá tính. Paker có mái tóc vàng
lượn sóng và dáng dấp rất quư tộc mà hắn là thửa hưởng của ông
cụ tổ lâu đời nào đó.
Một người giầu có
trong thị trấn tiếc cho cái vẻ ngoài đó đă dành cho cậu ta việc
làm và nhiều sự khích lệ. Người giầu có nhất thị trấn, Jch
Goodspell, đặc biệt nhiệt t́nh giúp đỡ Paker và đă dành cho cậu
ta một việc làm ngoài giờ tại một trong những công ty của ḿnh,
và là một người độc thần, ông ta thường mời Paker đến cùng ăn
tối tại nhà.
- Cậu có thể thành
đạt trong xă hội nầy đấy, - Goodspell nói, - nhưng cậu không thể
làm nên nếu không có bạn bè.
- Tôi biết thế,
thưa ngài. Và tất nhiên đầu tiên là tôi biết ơn thiện chí của
ngài.
- Tôi có thể làm
cho cậu nhiều hơn nữa, - Goodspdll nói. Họ đang ngồi trên chiếc
đi-văng trong pḥng khách, sau bữa ăn tối. Ông ta quàng tay ôm
lấy cậu. - C̣n nhiều nữa. - Ông ta bóp vai cậu. - Cậu có một
thân h́nh đẹp, cậu biết thế không?
- Cám ơn ngài.
- Cậu có bao giờ
cảm thấy cô đơn không?
- Thưa ngài, có.
Lúc nào tôi cũng cô đơn.
- Ồ, cậu không phải
cô đơn nữa. - Ông ta ve vuốt cánh tay cậu. Tôi cũng thấy cô đơn,
cậu biết đấy. Người ta cần có ai đó để được ôm ấp, vuốt ve.
- Vâng, thưa ngài.
- Cậu đă có cô bạn
gái nào chưa?
- Có tôi có đi cùng
Sue Ellen một dạo.
- Cậu đă ngủ với
con bé chưa?
- Không, thưa ngài.
- Cậu đỏ bừng mặt.
- Kevin, cậu bao
nhiêu tuổi rồi hả?
- Thưa ngài, mười
sáu ạ.
- Đó là lứa tuổi
tuyệt vời. Đă đến lúc cậu phải khởi đầu một sự nghiệp. - Ông ta
quan sát Paker một thoáng. - Tôi cam đoan là cậu sẽ rất khá
trong lĩnh vực chính trị.
- Chính trị ư? Thưa
ngài, tôi không biết ǵ về nó cả.
- Vậy nên cậu sẽ
phải đi học. Và tôi sẽ giúp cậu.
- Cám ơn ngài.
- Có rất nhiều cách
để tỏ ḷng biết ơn với người khác, - Goodspell nói. Ông ta xoa
xoa dọc đùi cậu bé. - Nhiều cách. - Ông ta nh́n vào mắt Paker. -
Cậu có hiểu ư tôi không.
- Có Jeb ạ.
Đó là lúc bắt đầu.
Khi Kevin tốt
nghiệp trường trung học Churchill, Goodspell gửi cậu đến Đại học
Oregon. Cậu nghiên cứu môn khoa học chính trị, và Goodspell thu
xếp để người được ông ta bảo hộ được gặp mặt những nhân vật cần
thiết. Họ đều có ấn tượng tốt với người thanh mên đầy vẻ hấp
dẫn. Với những mối quan hệ của ḿnh, Paker thấy ḿnh có thể gắn
kết lại những nhân vật quan trọng với nhau. Việc trở thành một
chuyên gia vận động hành lang ở Washington là một bước tự nhiên,
và Paker rất thạo việc.
Goodspell đă chết
trước đó hai năm, nhưng lúc ấy th́ Paker cũng đă có được một tài
năng với một sở thích đối với công việc mà người đỡ đầu đă
truyền dạy anh. Anh ta thích kiếm những cậu trai trẻ và đưa tới
những khách sạn khuất nẻo, nơi mà anh ta không bị nhận mặt.
Vị thượng nghị sĩ
tiểu bang Utah rốt cuộc cũng đang kết thúc bài phát biểu:
- … và bây giờ tôi
nói với các ngài rằng, sẽ phải thông qua dự luật nầy nếu muốn
cứu những ǵ c̣n lại trong hệ sinh thái của chúng ta. Vào lúc
nầy tôi muốn đề nghị một cuộc bỏ phiếu công khai.
Ơn Chúa, buổi họp
vô tận nầy đă sắp kết thúc.
Kevin Paker nghĩ
đến một buổi tối đang chờ đón ông ta, và bắt đầu thấy hứng t́nh.
Đêm hôm trước, ông ta đă gặp một cậu trai trẻ ở tiệm Danny P.
Street Station, một tiệm dành cho những kẻ đồng tính luyén ái
nổi tiếng. Thật không may là cậu trai kia đă có bạn. Nhưng buổi
tối đó họ đă để ư đến nhau, và trước khi ra đi, Paker đă viết
mấy chữ và luồn vào tay cậu ta. Một ḍng chữ đơn giản "Đêm mai
nhé". Cậu ta đă mỉm cười và gật đầu.
Kevin Paker vội vă
mặc quần áo để đi. Ông ta muốn có mặt trước khi cậu trai trẻ kia
đến. Cậu ta thật quá hấp dẫn, và Paker không muốn để ai đó nẫng
mất. Chuông cửa réo vang. Mẹ kiếp. Paker ra mở cửa.
Một người lạ đang
đứng đó.
- Kevin Paker?
- Phải.
- Tên tôi là
Bellamy. Tôi muốn nói chuyện với ông một phút.
- Ông phải hẹn
trước với thư kư của tôi. Tôi không bàn công việc sau giờ làm
việc. - Paker nóng nảy nói.
- Đây không hẳn là
công việc, ông Paker. Nó liên quan tới chuyến đi Thuỵ Sĩ của ông
cách đây một hai tuần.
- Chuyến đi Thuỵ Sĩ
của tôi à? Chuyện ǵ vậy.
- Cơ quan của tôi
quan tâm tới một vài người mà có thể là ông đă gặp ở đó. Robert
ch́a tấm thẻ CIA giả của anh ra.
Kevin Paker quan
sát người khách một cách thận trọng hơn. CIA có thể muốn ǵ ở
ông ta nhỉ? Ở đâu bọn họ cũng tḥ mũi vào. Ḿnh có để hở sườn
không nhỉ?
Không nên chọc tức
người nầy một tí nào cả. Ông ta mỉm cười.
- Mời vào. Tôi đang
vội v́ một cuộc hẹn, nhưng ông nói là sẽ không quá một phút phải
không?
- Không, thưa ông.
Tôi tin là ông đă đi một chuyến xe bus du lịch ra khỏi Zurich?
Vậy là cái
chuyện đó. Chuyện cái đĩa bay kia đây. Đó là cái thứ khủng khiếp
nhất mà ông ta đă từng nh́n thấy.
- Ông muốn biết về
cái đĩa bay đó phải không ạ, tôi muốn nói để ông biết đó là một
hiện tượng phi thường.
- Hắn là thế, nhưng
nói thẳng là cơ quan chúng tôi không tin vào chuyện đĩa bay. Tôi
tới đây để xem ông có thể nói ǵ cho tôi biết về những du khách
cùng đi trên chuyến xe bus đó.
- Ồ chuyện đó th́
tôi sợ là không thể giúp được ông. Tất cả họ đểu là những người
lạ cả. - Paker giật ḿnh.
- Tôi biết thế, ông
Paker, - Robert nhẫn nại nói, - nhưng ông hẳn có nhớ điều ǵ về
họ chứ.
- Có một đôi chút…
Tôi nhớ là có trao đổi vài lời với một tay người Anh đă chụp ảnh
cho chúng tôi. - Paker nhún vai.
Leslie Mothershed.
- Ai nữa?
- Ồ vâng. Tôi có
nói chuyện chút xíu với một cô ǵ Nga. Cô ta có vẻ rất dễ chịu.
Tôi nghi rằng cô ta làm nghề giữ thư viện ở đâu đó.
Olga Romanchanko.
- Thật tuyệt ông
c̣n có thể nhớ tới ai nữa không, ông Paker?
- Không, tôi cho
rằng thế là… - À, có hai người đàn ông. Một là người Mỹ, một ông
Texas.
Dan Wyane.
- Và người kia?
- Ông ta là một
người Hungary, chủ một gánh tạp kỹ, hay xiếc hay một thứ đại
loại là như thế. - Ông ta cố nhớ. Đó là một gánh tạp kỹ.
- Ông có chắc thế
không, ông Paker?
- Ồ chắc. Ông ta
c̣n kề cho tôi nghe vài chuyện về công việc của ḿnh mà. Chắc
chắn là ông ta rất hồi hộp khi trông thấy cái đĩa bay ấy. Tôi
nghĩ là nếu được th́ ông ta đă mang nó về gánh hát của ḿnh để
làm một tiết mục phụ rồi. Tôi phải thừa nhận rằng đó là một cảnh
thật kinh khủng. Đáng ra tôi phải nói về chuyện nầy nhưng tôi
không thể chịu được việc bị lẫn vào cái đám người kỳ quặc nhận
xằng là họ đă nh́n thấy những cái đĩa bay.
- Ông ta có t́nh cở
cho ông biết tên ḿnh hay không? Cái ông chủ gánh xiếc ấy.
- Có, nhưng đó là
một trong những cái tên ngoại quốc không thể phát âm được. Tôi e
là ḿnh đă quên mất rồi.
- Ông c̣n nhớ ǵ
nữa về ông ta không?
- Chỉ duy nhất có
điều là ông ta rất vội trở về. - Ông ta đưa mắt nh́n đồng hồ. -
Tôi c̣n có thể làm ǵ nữa cho ông không? Tôi đă bị muộn rồi đấy.
- Thôi, cảm ơn ông
Paker. Ông đă giúp tôi rất nhiều.
- Có ǵ đâu ông ta
cười một cách nhă nhặn với Robert. Ông phải ghé thăm tôi tại văn
pḥng một lúc nào đó. Chúng ta sẽ chuyện tṛ được lâu hơn.
- Thế nào tôi cũng
đến.
Gần xong rồi,
Robert nghĩ. Họ có thể nhận lấy công việc của ḿnh và giao nó
cho người khác. Đă đến lúc thu vén những ǵ c̣n lại của đời ḿnh
và bắt đầu lại từ đầu.
Robert gọi điện
thoại cho tướng Hilliard.
- Tôi đă gần xong
rồi, thưa tướng quân. Tôi đă t́m ra Kevin Paker. Ông ta là một
chuyên gia vận động hành lang ở Washington, D.C. Tôi đang trên
đường để xác minh nốt người khách cuối cùng.
- Tôi rất hài ḷng,
- tướng Hilliard nói. - Ông đă làm việc một cách tuyệt vời, ông
sĩ quan. Hăy trở về chồ tôi càng sớm càng tốt.
- Vâng thưa ngài.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám
đốc CIA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến
dịch Ngày Tận Thế.
9. Kevin Paker -
Washington, D. C.
Hết.
Khi Kevin Paker đến
quán Danny, ông ta thậm chí thấy c̣n đông khách hơn cả tối hôm
trước. Những người đàn ông lớn tuổi th́ mặc những bộ đồ nghiêm
túc trong khi hầu hết những người trẻ tuổi th́ chỉ quần ḅ, áo
thể thao và đi giày ống. Có một số ít trông không giống ai, mặc
những bộ áo liền quần bằng da màu đen, và Paker luôn cảm thấy
ghê tởm những "của" đó. Những động tác thô bạo là rất nguy hiểm
và ông ta chưa bao giờ lao vào cái thứ sống gấp kỳ quặc đó.
Thận trọng, đó luôn
luôn là khẩu hiệu của ông ta. Thận trọng. Cậu thanh niên đẹp
trai kia vẫn chưa có ở đó nhưng Paker cũng không sốt ruột. Cậu
ta sẽ đến sau, đẹp và tươi trẻ, khi những người khác đều đă mệt
mỏi với những thân thể ướt đẫm mồ hôi.
Kevin Paker bước
lại quầy rượu, gọi một ly và nh́n quanh. Các màn ảnh tivi trên
tường đang truyền những h́nh ảnh của đài truyền h́nh MTW. Danny
là một quán S và M - đứng và làm dáng. Những người trẻ tuổi lựa
những dáng đứng tỏ ra quyến rũ nhất, trong khi những người già
nua - người mua - sẽ ngắm nghía họ và chọn lựa. Những quán S và
M là loại thượng hạng nhất. Không bao giờ có những vụ ẩu đả ở đó
bởi lẽ hầu hết khách hàng đều mang theo những chiếc răng bọc
vàng, và họ không khi nào muốn bị đánh găy răng cả.
Kevin Paker để ư
thấy rằng nhiều vị khách đă chọn được bạn chơi của họ. Ông ta
lắng nghe những câu chuyện quen thuộc ở xung quanh, và thích thú
là nó vẫn rất quen thuộc, cho dù nó diễn ra ở tiệm rượu tiệm
nhảy, quán vidéo, hay ở những câu lạc bộ ngầm tuần nào cũng thay
đổi địa điểm. Đó là một thứ tiếng lóng riêng biệt.
"Nữ hoàng đó th́
nước non ǵ. Cô ta nghĩ ḿnh là tất cả.
"Hắn xả vào tôi
không phải lúc. Hắn ta giận dữ khủng khiếp. Nói những chuyện tế
nhi…
"Bạn thích trên hay
dưới?
"Trên. Tôi phải gọi
hàng đă, em gái búng những ngón tay.
"Tốt. Tớ thích họ.
"Hắn tưởng tớ là
cái đầu lọc… Đúng, đó là lối tớ về cân nặng, nước da, thái độ.
Tớ bảo, "Mary, Thưa chúng ta thế là xong". Nhưng cũng đau. V́
thế nầy tớ tới đây đêm nay, cố gắng kiếm hắn nhé. Tôi có thể có
thêm một ly được không?
Lúc 1 giờ sáng, cậu
thanh niên kia bước vào. Cậu ta nh́n quanh và trông thấy Paker,
bèn đi tới bên ông ta. Cậu ta c̣n xinh trai hơn là Paker nghĩ.
- Xin chào.
- Xin chào. Xin
lỗi, tớ hơi muộn.
- Không sao. Tôi
đợi được mà.
Chàng thanh niên
rút ra một điều thuốc lá và chờ người đàn ông lớn tuổi châm lửa
cho.
- Tôi đă luôn nghĩ
đến cậu. - Paker nói.
- Thế hả?
Cặp lông mi của cậu
ta thật lạ thường.
- Đúng thế, tôi có
thể gọi cho cậu một ly chứ~
- Nếu ông thấy vui
với điều đó.
- Cậu có thích làm
cho tôi sung sướng không? - Paker mỉm cười.
Cậu ta nh́n thẳng
vào mắt ông ta và dịu dàng nói:
- Tôi nghĩ thế.
- Tôi nh́n thấy
người đàn ông đi cùng cậu ở đây đêm qua. Ông ta không hợp với
cậu.
- Vậy ông sẽ hợp
với tôi chứ?
- Có thể lắm. Tại
sao chúng ta không thử xem nhỉ? Cậu có muốn đi dạo một chút
không?
- Được đấy!
Paker rộn lên v́
hồi hộp.
- Tôi biết một nơi
ấm cúng và không bị ai quấy rầy.
- Tốt đấy. Tôi sẽ
không uống rượu kia nữa.
Khi họ vửa bước về
phía cửa trước th́ hai cánh cửa đột nhiên mở toang và hai thanh
niên vạm vỡ bước vào quán. Họ chắn lối cậu thanh niên.
- Đây rồi đồ chó
đẻ. Tiền mầy nợ tao đâu?
- Tôi không hiểu
anh định nói ǵ. Tôi chưa bao giờ nh́n thấy anh… - Cậu ta nh́n
lên, ngơ ngác.
- Đừng có nói với
tao cái kiểu cứt đái đó. - Gă kia túm lấy vai cậu và lôi ra
ngoài phố.
Paker giận dữ nh́n
theo. Ông ta những muốn can thiệp nhưng lại không dám dính vào
bất kỳ thứ ǵ có thể dẫn đến một vụ bê bối. Ông ta đứng chôn
chân tại chỗ nh́n cậu bé mất hút vào bóng đêm.
Gă thứ hai mỉm cười
với Kevin vẻ thông cảm.
- Ông nên chọn bạn
cẩn thận hơn. Cậu ta là điềm gở đấy!
Paker nh́n người
đang nói một cách kỹ hơn. Gă có mái tóc vàng và khá hấp dẫn, với
một h́nh thể gần như tuyệt hảo. Paker có cảm nghĩ rằng sau cùng
th́ chưa hẳn là đă mất toi buổi tối nay.
- Có thể là cậu nói
đúng, - Ông ta nói.
- Chúng ta không
bao giờ biết số phận dành sẵn cho ḿnh những ǵ, phải không nào?
- Gă nh́n vào trong mắt Paker.
- Đúng thế Tôi là
Tom. Tên cậu là ǵ?
- Paul.
- Paul nầy, tôi có
thể mời cậu một ly chứ?
- Cám ơn ông.
- Cậu có chương
tŕnh đặc biệt ǵ cho tối nay không?
- Cái đó tuỳ ở ông.
- Cậu có muốn cùng
qua đêm nay với tôi không?
- Nghe được đấy.
- Chúng ta đang nói
đến bao nhiêu tiền ấy nhỉ?
- Tôi thích ông.
Với ông th́ hai trăm.
Ba mươi phút sau,
Paul dẫn Kevin Paker vào trong một toà nhà cũ trên phố
Jefferson. Họ lên thang gác, tới tầng ba và đi vào một căn pḥng
nhỏ. Paker nh́n quanh.
- Tuềnh toàng nhỉ?
Vào một khách sạn th́ hơn.
Paul nhoẻn cười.
- Ở đây riêng tư
hơn. Ngoài ra th́ chúng ta chỉ cần một cái giường thôi mà.
- Cậu nói đúng. Sao
cậu không cởi quần áo ra đi? Tôi muốn nh́n thứ mà tôi đang mua.
- Tất nhiên. - Paul
bắt đầu cởi. Gă có một thân thể tuyệt vời Paker nh́n gà và cảm
thấy sự đ̣i hỏi quen thuộc bắt đầu dâng lên.
Bây giờ ông cởi
quần áo đi, - Paul th́ thầm. - Nhanh lên, tôi thèm muốn ông.
- Tôi cũng thèm
muốn em, Mary. - Paker bắt đầu cởi quần áo.
- Ông thích kiểu
ǵ? - Paul hỏi. - Trên hay dưới?
Chúng ta hăy dạo
đầu một chút đă. Xin lỗi về lối nói cầu kỳ. Chúng ta có cả đêm
mà.
- Tất nhiên. Tôi
vào buồng tắm. - Paul nói. - Tôi sẽ trở lại ngay thôi.
Paker nằm trần
truồng trên giường, chờ đợi những lạc thú tuyệt diệu sắp đến.
Ông ta nghe thấy tiếng người bạn chơi ra khỏi buồng tắm và đi về
phía giường. Ông ta giang tay ra.
- Lại đây với tôi,
Paul, - Ông ta nói.
- Tôi đến đây.
Và Paker cảm thấy
đau nhói khi có một lưỡi dao cắm vào ngực. Hai mắt ông ta mở
bừng ra, rồi ngước lên, ngáp ngáp.
- Lạy Chúa, cái
ǵ…?
Paul mặc quần áo
vào.
- Đừng bận tâm về
chỗ tiền, - gă nói. - Đó là tiền pḥng.
o0o
Điện khẩn.
Tối mật.
CIA gửi Phó giám
đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến
dịch Ngày Tận Thế.
9. Kevin Paker -
Washington D.C - Đă bị thủ tiêu
Hết.
o0o
Robert Bellamy không kịp nghe bản tin tối bởi v́ anh đă ở trên
một chuyến bay đi Hungary đề t́m kiếm người chủ gánh tạp kỹ.
o0o
|