Âm Mưu Ngày Tận Thế   Sidney Sheldon Pages Previous  1  2  3  4  Next   
Chương 18

Lislie Mothershed đang ở trong một tâm trạng phấn khích. Ngay khi trở về tới London, khư khư cuộn phim quư giá, anh ta vội vă lao vào cái pḥng kho nhỏ mà anh ta đă biến thành buồng tối và kiểm tra lại mọi thứ đồ nghề: khay tráng, nhiệt biểu, những cái cặp bốn cái b́nh lớn, đồng hồ, thuốc rửa, thuốc hiện, thuốc hăm. Anh ta bật một ngọn đèn đỏ nhỏ phía trền đầu rồi hai bàn tay run lên, lấy cuộn phim ra. Anh ta thở mạnh, cố tự kiềm chế.
Anh ta thở mạnh, cố tự kiềm chế. Lần nầy không được để có sai sót ǵ, anh ta nghĩ. Không sai sót ǵ cả. Mẹ ơỉ, cái nầy là để cho mẹ đây.
Một cách thận trọng, anh ta cuốn phim vào chiếc lơi đặt vào trong khay và đổ thuốc rửa vào, thứ dung dịch đầu tiên mà

Dịch giả: Nguyễn Bá Long     

anh ta sẽ phải dùng đến. Nó đ̣i hỏi giữ đều ở nhiệt độ 20oC và thỉnh thoảng lại phải khuấy đều. Sau mười một phút, anh ta đổ hết cái dung dịch đó đi và đổ thuốc hăm vào.
Lishe lại bắt đầu hồi hộp, lo sợ có một nhầm lẫn nào đó. Anh ta trút bỏ thuốc hăm để rửa lần đầu và rồi để phim nằm trong một khay đầy nước trong ṿng mười phút. Sau đó là hai phút liên tục khuấy động trong một chất tẩy; và mười hai phút nữa trong nước. Ba mươi giây ngâm trong một dung dịch khác để đảm bảo không c̣n những vết lỗi trên phim âm bản. Sau cùng, hết sức thận trọng, anh ta lấy phim ra và treo nó lên bằng những chiếc cặp và dùng một miếng thấm để thấm đi những giọt nước cuối cùng trên phim. Anh ta đợi một cách kiên nhẫn để cuộn phim âm bản khô đi.
Đă đến lúc nh́n thấy một chút. Mothershed cầm đoạn phim đầu tiên lên, nín thở trong tiếng tim đập thinh thịch, và giơ nó lên trước ánh sáng. Hoàn hảo.
Tuyệt đối hoàn hảo.
Mỗi tấm phim là một viên ngọc, một bức ảnh mà bất kỳ nhiếp ảnh gia nào trên thế giới cũng phải tự hào nếu như chụp được nó. Mọi chi tiết của chiếc phi thuyền không gian lạ kia đều rơ ràng, kể cả những cái xác của hai sinh vật lạ nằm trong đó.
Mắt Mothershed chợt chú ư vào hai thứ mà trước đó anh ta đă không hề để ư, và anh ta xem lại cẩn thận hơn. Ở nơi mà vỏ chiếc phi thuyền vỡ ra, anh ta có thể trông thấy ba cái đi văng nhỏ bên trong thế nhưng lại chỉ có hai sinh vật lạ. Điều lạ nữa là bàn tay của một trong hai sinh vật kia đă bị chặt đứt. Không hề nh́n thấy chỗ nào trong tấm ảnh đó có bàn tay đó. Có thể là sinh vật nầy chỉ có một tay, Mothershed nghĩ. Lạy Chúa, những bức ảnh nầy là tuyệt tác. Mẹ nói đúng. Ḿnh là một thiên tài. Anh ta nh́n quanh căn pḥng nhỏ và nghĩ. Lần sau ḿnh sẽ rửa phim trong một căn buồng tối rộng răi, đẹp đẽ trong biệt thự của ḿnh ở Eaton Square.
Anh ta sờ mó những tấm phim quư giá như kẻ hà tiện sờ mó những đồng vàng của ḿnh. Không một tờ báo hay tạp chí nào trên thế giới lại khỏng bất chấp mọi giá để có được tấm h́nh nầy. Suốt những năm vừa qua, những kẻ khốn kiếp đó đă khước từ những tấm ảnh của anh ta vớ́ ḍng ghi chú đầy báng bổ. Cảm ơn ông đă gửi những tấm ảnh mà chúng tôi gửi trả nơi đây. Chúng không phù hợp với nhu cầu hiện nay của chúng tôi? Và, Cảm ơn ông đă gửi tới. Chúng quá giống với những tấm ảnh mà chúng tôi đă in. Hay đơn giản là, Chúng tôi gửi trả những tấm ảnh mà ông đă gửi tới?
Trong nhiều năm, anh ta đă phải cầu cạnh những kẻ khốn kiếp nầy để có công ăn việc làm và bây giờ chúng sẽ phải ḅ đến đây, và anh ta sẽ bắt chúng phải trả giá.
Lishe không thể chờ đợi được nữa. Anh ta phải bắt đầu ngay lập tức. Do chỗ cái công ty Điện thoại Anh đốn mạt kia đă cắt điện thoại của anh ta chỉ đơn thuần v́ lẽ quư vừa qua chậm trả tiền có và́ ba tuần lễ, Mothershed phải ra ngoài để gọi. Cao hứng, anh ta quyết định tới tiệm Langan, một tiệm ăn có tiếng, và tự thết ḿnh một bữa trưa xứng đáng. Tiệm Langan là quá cao so với khả năng tài chính của Lislie, nhưng nếu như có một dịp kỷ niệm nào đó th́ chính là lúc nầy dây. Chẳng nhẽ không phải anh ta sắp trở nên giàu có và nổi tiếng sao?
Người phục vụ đưa Mothershed tới ngồi vào một chiếc bàn nơi góc pḥng, và ở đó, tại một bàn cách chừng ba mét, anh ta nh́n thấy hai khuôn mặt quen thuộc Anh ta đột nhiên nhận ra họ là ai, và thoáng run người lên. Chính là Michael Caine và Roger Moore.
Lislie mong giá như mẹ ḿnh c̣n sống để có thể nghe kể lại về điều nầy. Bà rất thích được đọc về những minh tinh màn bạc. Hai người đàn ông kia đang nói cười vui vẻ không có chút bận tâm ǵ trên đời, và Mothershed không thể nào không nh́n họ. Họ không hề để mắt đến anh ta. Hal thằng cha hợm hĩnh. Leslie Mothershed nghĩ một cách giận dữ. Chắc họ chờ ḿnh tới xin chữ kư. Hừm, chỉ vài ngày nữa th́ họ sẽ phải xin ḿnh ấy chứ. Họ sẽ sấp sấp ngửa ngửa để mà giới thiệu ḿnh với bạn bè của họ. "Leslie, tôi muốn ông gặp Charles và Di, và đây là Fergie và Andrew. Leslie, các vị biết rồi, người đă chụp nhưng bức ảnh nổi tiếng về cái vật thể bay lạ kia". Lúc Mothershed ăn xong, anh ta đi qua hai minh tinh kia và lên gác để tới buồng điện thoại. Bộ phận hỏi đáp cho anh số máy của tờ Sun.
- Tôi muốn gặp người phụ trách biên tập ảnh.
- Chapman đây. - Một giọng đàn ông cất lên.
- Liệu có giá trị ǵ với ông nếu như ông có những tấm ảnh về một vật thể bay lạ vớ́ những xác chết của hai sinh vật lạ trong đó không hả?
Giọng ở đầu dây đằng kia nói:
- Nếu như những tấm ảnh xem được th́ chúng tôi có thể sử dụng như là thí dụ về một tṛ đùa thông minh và…
Mothershed nói một cách gay gắt:
- Chuyện nầy không phải là một tṛ đùa. Tôi có tên của chín nhân chứng có tiếng tăm, là những người sẽ làm chứng rằng đó là sự thật, trong đó có một tu sĩ.
Giọng của người đàn ông kia thay đổi.
- Ô? Và những bức ảnh nầy được chụp ở đâu thế?
- Chuyện đó th́ ông khỏi quan tâm, - Leslie thoái thác. Anh ta sẽ không chịu để họ lừa để biết bất kỳ một thông tin nào. - Ư ông thế nào?
Giọng nói kia đầy vẻ thận trọng:
- Nếu như ông có thể chứng minh những bức ảnh đó là xác thực, th́ đúng là chúng tôi sẽ rất quan tâm tới chúng.
Chắc chắn là thế rồi, Leslie sung sướng nghĩ.
- Tôi sẽ liên lạc lại với ông. - Anh ta gác máy.
Hai cú điện thoại nữa cũng hài ḷng như thế. Leslie đă phải tự nghĩ rằng việc kiếm tên và địa chỉ của các nhân chứng là một nước cờ thiên tài. Giờ th́ không kẻ nào có thể vu cho anh ta là cố t́nh bịp bợm. Những tấm ảnh nầy chuẩn bị xuất hiện trên trang đầu của tất cả những tờ báo và tạp chí lớn nhất thế giới. Với tên tuổi của ḿnh: ảnh của Leslie Mothershed.
Khi Mothershed rời tiệm ăn, anh ta đă không thể cưỡng lại việc bước lại bên chiếc bàn nơi hai ngôi sao màn bạc đang ngồi.
- Xin lỗi. Xin lỗi v́ đă quấy rầy quư vị, song tôi muốn được xin chữ kư của quư vị, được chứ ạ?
Roger Moore và Michael Caine mỉm cười một cách thân mật. Họ kư tên lên hai mảnh giấy và trao chúng cho tay thợ chụp ảnh.
- Cảm ơn.
Khi Leslie Mothershed ra tới bên ngoài, anh ta xé toạc những mảnh giấy và ném chúng đi.
Thây kệ họ. Anh ta nghĩ. Ḿnh c̣n quan trọng hơn họ nhiều.

Chương 19

Robert lên một chiếc xe taxi để đi Whitechapel. Chiếc xe chạy qua City, khu thương mại lớn của London, hướng về phía đông cho tới khi gặp đường Whitechapel, một khu vực đầy tai tiếng từ cả một thế kỷ trước với Jack kẻ cướp. Dọc theo đường Whitechapel là hàng tá gian hàng ngoài trời bán đủ mọi thứ, từ vải vóc, rau tươi đến những tấm thảm.
Khi chiếc taxi đến gần địa chỉ Mothershed, phố xá trông mỗi lúc một tồi tàn hơn. Những h́nh vẽ nguệch ngoạc đầy trên các bờ tường. Xe chạy ngang qua tiệm Đôi tay của Weaver, Robert nghĩ: Đó hẳn là nơi lui tới của Mothershed. Một tấm biển khác đề: Cá ngựa, Walter… Có thể là Mothershed chơi cá ngựa ở đây.
Sau cùng, họ tới số 213 A đường Grove. Robert để chiếc taxi đi và xem xét toà nhà trước mặt. Đó là một ngôi nhà hai tầng xấu xí được chia thành những căn hộ nhỏ, trong đó có người đàn ông có danh sách toàn bộ những nhân chứng mà Robert được phái đi t́m.
Leslie Mothershed đang ở trong pḥng khách, mê mải nghĩ tới cái điều may mắn trời cho th́ nghe tiếng chuông gọi cửa. Anh ta nh́n lên, giật ḿnh, và chợt cảm thấy lo sợ một cách lạ lùng. Tiếng chuông lặp lại một lần nữa. Mothershed vơ lấy những tấm ảnh quư giá và vội vă đi vào pḥng tối, để xen chúng vào giữa một chồng ảnh cũ kỹ, rồi trở ra pḥng khách và bước tới mở cửa. Anh ta nh́n chằm chằm vào người lạ mặt đang đứng đó.
- Ǵ thế hả?
- Ông là Leslie Mothershed?
- Đúng thế. Tôi có thể giúp ǵ được ông?
Cho phép tôi vào nhà được chứ?
- Tôi không biết. Có chuyện ǵ đă chứ?
Robert móc ra một tấm thẻ căn cước của Bộ Quốc pḥng và giơ lên.
- Ông Mothershed, tôi tới đây v́ công việc. Chúng ta có thể nói chuyện ở đây hoặc về là Bộ.
Đó là một tṛ bịp. Thế nhưng anh có thể thấy rơ nỗi sợ hăi trên mặt tay thợ ảnh.
- Tôi không rơ ông đang nói về chuyện ǵ cả; nhưng… mời vào. - Leslie nuốt nước miếng.
Robert bước vào căn pḥng tồi tàn. Nó đầy vẻ ảm đạm, chẳng ra đâu vào đâu, một chỗ mà chẳng ai muốn sống cả.
- Xin ông vui ḷng giải thích rơ là ông đến có việc ǵ ạ? Mothershed cố lấy giọng b́nh thản.
- Tôi tới để chất vấn ông về một vài tấm ảnh mà ông đă chụp.
- Anh ta biết mà. Anh ta đă biết ngay từ khi nghe thấy tiếng chuông gọi cửa. Bọn khốn kiếp đang toan cướp vận may của ḿnh. Hừ, ḿnh sẹ không để cho chúng làm được điều đó.
- Ông nói những bức ảnh nào vậy?
- Những bức ảnh mà ông chụp tại nơi một vật thể bay lạ bị rơi. - Robert nói một cách kiên nhẫn.
Mothershed nh́n Robert một thoáng, như thể bị ngạc nhiên, và rồi cố phá lên cười.
- Ồ, ra thế. Tôi mong giá mà tôi có chúng để đưa cho ông.
- Ông đă chụp những tấm ảnh đó chứ?
- Tôi đă cố.
- Ư ông nói ǵ… ông đă cố ư?
- Chẳng được cái quái ǵ cả. - Mothershed húng hắng ho. - Máy của tôi bị lọt sáng. Đây là lần thứ hai tôi bị thế nầy. - Anh ta bắt đầu ba hoa.- Thậm chí tôi đă ném cả phim đi. Chúng chẳng ra làm sao. Phí cả phim. Và hẳn ông biết là độ nầy phim đắt thế nào.
Anh ta là một kẻ nói dối tồi, Robert nghĩ. Anh ta đă quá lo sợ. Robert nói vẻ thông cảm:
- Chán thật. Lẽ ra th́ những tấm ảnh đó sẽ rất có ích đấy.
Anh không đả động ǵ tới danh sách những hành khách kia. Nếu như Mothershed đă nói dối về những tấm ảnh th́ anh ta cũng sẽ nói dối về những hành khách. Robert đưa mắt nh́n quanh. Những tấm ảnh và cả bản danh sách phải được giấu đâu đó. Hẳn là không khó t́m. Căn hộ bao gồm một pḥng khách nhỏ, pḥng ngủ, pḥng tắm và có một cái cửa h́nh như dẫn vào một pḥng xép. Không có cách nào có thể buộc người đàn ông nầy đưa ra những thứ kia. Nhưng anh muốn có những tấm ảnh và bản danh sách đó trước khi Cơ quan T́nh báo Anh ṃ tới và nẫng chúng đi. Anh cần bản danh sách đó cho chính ḿnh.
- Vâng. - Mothershed thở dài. - Những tấm ảnh đó đáng giá cả một gia tài ấy chứ.
- Hăy kể cho tôi nghe về chiếc phi thuyền không gian đi xem nào, - Robert nói.
Mothershed nhún vai ra vẻ miễn cưỡng. Cái cảnh khủng khiếp đó đă in vào óc anh ta măi măi.
- Tôi sẽ không bao giờ quên được nó, - anh ta nói. - Chiếc phi thuyền dương như… rung động, như thể nó vẫn c̣n đang hoạt động. Nó có cái ǵ đó thật khủng khiếp. Và ở bên trong có xác của hai sinh vật lạ.
- Ông có thể kể cho tôi nghe đôi điều về những người khách đi trên chiếc xe bus được chứ.
Chắc chắn rồi, Mothershed nghĩ một cách hả hê. Tôi có tên và địa chỉ của họ.
- Không, tôi sợ là không thể. - Mothershed tiếp tục cố giấu đi sự hồi hộp của ḿnh. - Lư do tôi không thể giúp ǵ ông về những người khách là ở chỗ tôi không đi chiếc xe đó. Tất cả bọn họ đều là những người lạ.
- Tôi hiểu. Ồ, cảm ơn về sự hợp tác của ông, ông Mothershed. Tôi đánh giá cao điều đó. Lấy làm tiếc về những tấm ảnh của ông.
- Tôi cũng vậy, - Mothershed nói.
Anh ta nh́n cánh cửa khép lại sau lưng người lạ kia và sung sướng nghĩ. Ḿnh cừ thật. Ḿnh đă qua mặt bọn chó đẻ kia.
Bên ngoài hành lang, Robert đang xem xét cái ổ khoá trên cánh cửa. Một ổ khoá Chubb. Và là một model cổ. Anh chỉ cần vài giây để mở nó. Anh sẽ theo dơi ngôi nhà vào lúc nữa đêm và chờ tay thợ ảnh rời khỏi nhà vào buổi sáng. Một khi ḿnh có danh sách những hành khách kia trong tay th́ nhiệm vụ c̣n lại sẽ là đơn giản.
***
Robert thuê pḥng trong một khách sạn nhỏ gần căn hộ của Mothershed và gọi điện cho tướng Hilliard.
- Thưa tướng quân, tôi có tên của tay nhân chứng người Anh.
- Đợi một chút. Rồi. Nói đi, ông sĩ quan.
- Leslie Mothershed. Anh ta sống ở Whitechael, số 213 A đường Grove.
Robert không nhắc tới bản danh sách hành khách và những tấm ảnh. Cái đó là những con chủ bài của anh trong vụ nầy.
***
Cửa hiệu Reggir nằm trong một ngơ cụt nhỏ trên đường Brompton. Đó là một cửa hiệu nhỏ mà khách hàng của nó chủ yếu là đám nhân viên và thư kư làm việc quanh đó. Những bức tường cửa hiệu phủ đầy áp phích quảng cáo về bóng đá và những phần tường c̣n có thể nh́n thấy th́ không hề được quét vôi kể từ cuộc chiến tranh ở kênh Suez.
Chiếc điện thoại ở sau quầy hàng réo vang hai lần trước khi một người đàn ông to lớn mặc chiếc áo len to sù nhấc ống nghe lên. Người đàn ông trông rơ là kẻ sống ở khu Đông thành phố, trừ cái kính một mắt có gọng bịt vàng được gắn chặt phía trong tṛng à rơ ràng đối với bất kỳ ai nh́n ông ta kỹ một chút: Con mắt kia của ông ta là bằng thuỷ tinh màu xanh da trời thường thấy trên các quảng cáo du lịch.
- Reggie đây.
- Đây là Giám mục.
- Dạ, thưa ngài, - Reggie nói, giọng ông ta đột nhiên chỉ c̣n là một lời th́ thầm.
- Tên của khách hàng chúng ta là Mothershed. Tên thường gọi là Leslie. Sống ở 213 A đường Grove. Chúng tôi muốn đơn đặt hàng nầy phải được thực hiện nhanh chóng. Rơ chưa.
- Thưa ngài, việc coi như đă xong.

Chương 20

Leslie Mothershed miên man trong giấc mơ vàng ngọc.
Anh ta đang được giới báo chí quốc tế phỏng vấn. Họ đang hỏi về cái lâu đài khổng lồ mà anh ta vừa mua ở Scotland, về cái biệt thự của anh ta ở miền Nam nước Pháp và về chiếc du thuyền lớn. Và có đúng là Nữ Hoàng đă mời ông nhận chân nhiếp ảnh gia chính thức của Hoàng gia không?. Đúng. Tôi nói là tôi sẽ trả lời sau. C̣n bây giờ, thưa các quư bà và quư ông, xin tất cả các vị thứ lỗi cho, tôi không kịp hẹn chương tŕnh của tôi với đài BBC mất…
Cơn mơ màng của anh ta bị phá ngang bởi tiếng chuông cửa. Anh ta nh́n đồng hồ. Mười một giờ. Thằng chó đẻ quay lại à? Anh ta bước đến bên cửa và thận trọng mở cửa. Trước ngưỡng cửa là một người đàn ông thấp lùn hơn Mothershed (đó là điều đầu tiên anh ta chú ư) với cặp kính dầy cộp và một khuôn mặt gầy guộc, tái xám.
- Xin lỗi, - người đàn ông rụt rè nói. - Tôi xin lỗi là đă làm phiền ông vào giờ nầy. Tôi sống ở cuối phố.
- Tôi thấy tấm biển ở ngoài nói ông là một thợ ảnh.
- Việc ǵ hả?
- Ông có làm ảnh hộ chiếu không ạ?
Leslie Mothershed làm ảnh hộ chiếu? Con người sắp có cả thế giới nầy ấy à? Điều đó cũng giống như đ̣i Mechelangelo quét vôi buồng tắm vậy.
- Không, - anh ta thô bạo nói và toan khép cửa lại.
- Thực sự là tôi không muốn làm phiền ông, nhưng tôi đang kẹt quá: Chuyến bay đi Tokyo của tôi là vào tám giờ sáng mai, thế mà trước đây một chút tôi lấy hộ chiếu ra xem và lạ rằng không hiểu thế nào mà cái ảnh bị bong ra. Không thấy đâu cả. Tôi đă t́m khắp mọi nơi. Họ sẽ không cho tôi lên máy bay khi mà hộ chiếu không có ảnh. - Người đàn ông nhỏ bé gần như sắp phát khóc.
- Tôi lấy làm tiếc, - Mothershed nói, - tôi không thể giúp ông.
- Tôi xin trả ông một trăm bảng.
Một trăm bảng? Cho một người có cả một lâu đài một biệt thự và một du thuyền ư? Đó là một sự xúc phạm.
Người đàn ông nhỏ bé, yếu ớt kia nói tiếp:
- Thậm chí tôi có thể trả cao hơn. Hai trăm hoặc ba trăm. Ông biết đấy, thực sự là tôi phải có mặt trên chuyến bay đó, nếu không tôi sẽ bị mất chỗ làm việc của ḿnh.
Ba trăm bảng để chụp một tấm ảnh hộ chiếu.
Không kể việc rửa ảnh th́ nó chỉ mất chừng mười giây Mothershed bắt đầu tính toán. Điều đó có nghĩa là 1800 bảng một phút. Một ngh́n tám trăm bảng một phút có nghĩa là 10800 bảng một giờ. Nếu như anh ta làm một ngày tám tiếng, điều đó có nghĩa là 94400 bảng một ngày. Trong một tuần, con số đó sẽ là…
- Ông sẽ làm chứ ạ?
Sự hợm hĩnh của Mothershed bị thách thức bởi ḷng tham và ḷng tham đă thắng. Ḿnh có thể có một chút tiền tiêu vặt.
- Mời vào, - Mothershed nói. - Đứng sát vào bức tường kia đi.
- Cám ơn. Tôi thật sự biết ơn ông.
Mothershed thầm mong anh ta có một chiếc máy ảnh polaroid. Cái máy đó sẽ làm mọi việc trở nên thật đơn giản. Anh ta cầm chiếc Vivitar của ḿnh lên và nói:
- Yên nhé.
Mười giây sau, việc đă xong.
Sẽ phải mất một chút thời gian đề rửa ảnh, Mothershed nói. - Nếu như ông trở lại vào lúc…
- Nếu không có ǵ phiền th́ tôi xin chờ.
- Tuỳ ông thôi.
Mothershed cầm chiếc máy ảnh đi vào pḥng tối, đút nó vào trong cái túi đen, tắt chiếc đèn trên đầu và bật ngọn đèn đỏ, rồi tháo phim ra. Anh ta sẽ làm việc nầy một cách qua quưt. Dù sao th́ ảnh hộ chiếu trông cũng thường xấu xí. Mười lăm phút sau, khi Mothershed đang ngâm phim trong thuốc hiện th́ bắt đầu ngửi thấy mùi khói. Anh ta ngừng tay. Có phải là ḿnh tưởng tượng ra không nhỉ? Không. Mùi khói mỗi lúc một nồng nặc hơn. Anh ta quay ra mở cửa.
Cửa dường như bị kẹt. Mothershed đẩy mạnh. Cánh cửa vẫn đóng chặt.
- Nầy, - anh ta gọi vọng ra. - Có chuyện ǵ ngoài ấy thế?
Không có tiếng đáp lại.
- Nầy! - Anh ta t́ vai vào cánh cửa cố đẩy ra nhưng dường như ở phía ngoài có một vật ǵ đó đè nặng giữ chặt cánh cửa. - Ông ǵ ơi?
Không có tiếng trả lời. Âm thanh duy nhất mà anh ta nghe thấy ở bên ngoài đó là một tiếng đổ vỡ lớn. Mùi khói càng thêm nồng nặc. Căn hộ đang bị cháy. Có thể v́ thế mà ông ta chạy ra. Hẳn là ông ta đang đi kêu cứu. Leslie Mothershed lao vai vào cánh cửa mạnh hơn, nhưng cánh cửa không bật ra.
- Cứu - Anh ta thét lên. - Cứu tôi với.
Khói bắt đầu tràn vào phía dưới cánh cửa, và Mothershed cảm thấy lửa đang bắt đầu liếm vào nó. Không khí trở nên ngột ngạt. Anh ta bắt đầu nghẹt thở. Phổi anh ta bỏng rát và anh ta bắt đầu ngất đi. Anh ta khuỵu xuống.
- Ôi lạy Chúa, xin đừng để con chết vào lúc nầy. Đừng vào lúc mà con sắp làm giàu có và nổi tiếng…
***
- Reggie đây.
- Đơn đặt hàng đă làm xong chưa?
- Thưa ngài, rồi ạ. Hơi quá lửa một chút nhưng đúng lúc.
- Tuyệt vời.
***
Vào lúc hai giờ sáng, khi Robert đến đường Grove để bắt đầu việc theo dơi, anh thấy đường phố bị tắc nghẽn. Khúc phố đầy những xe cứu hoả, xe cấp cứu và xe cảnh sát. Robert lách qua đám đông những người đang đứng xem và vội vă chen vào sát bên trong. Toàn bộ toà nhà bị ngọn lứa trùm lên. Từ bên ngoài, anh có thể thấy rằng căn hộ của tay thợ ảnh ở tầng hai đă bị thiêu rụi hoàn toàn.
- Chuyện xảy ra thế nào vậy? - Robert hỏi một người lính cứu hoả.
- Chúng tôi chưa rơ. Xin đứng lùi lại cho.
- Người bà con của tôi sống trong căn hộ kia. Anh ấy có làm sao không?
- Tôi e là nghiêm trọng. - Giọng anh ta trở nên thông cảm. - Hiện họ đang mang anh ta ra khỏi toà nhà đấy.
Robert trông theo hai nhân viên y tế đẩy chiếc cáng bên trên có một thi thể vào trong một chiếc xe cấp cứu.
- Tôi sống cùng với anh ấy, - Robert nói. - Tất cả xống ảo của tôi ở cả trong đó. Tôi muốn vào và…
- Chẳng ích ǵ đâu, thưa ông. Trong đó chẳng c̣n ǵ ngoài đống tro tàn. - Người lính cứu hoả lắc đầu.
Không c̣n ǵ ngoài tro tàn. Kể cả những tấm ảnh và bản danh sách hành khách quư giá kia với tên tuổi và địa chỉ của họ. Một sự không may khốn kiếp, Robert cay đắng nghĩ.
***
Tại Washington, Dustin Thornton đang ăn trưa với ông bố vợ trong một pḥng ăn riêng xa hoa ở khu văn pḥng của Williard Stone. Dustin Thornton cảm thấy hồi hộp. Trước mặt ông bố vợ đầy thế lực bao giờ ông ta cũng mất đi vẻ tự nhiên.
Williard Stone đang ở trong một tâm trạng vui vẻ.
- Tối qua, tôi cùng ăn tối với Tổng thống. Ông ta nói với tôi rằng ông ta rồi hài ḷng về công việc của anh, Dustin.
- Con rất biết ơn.
- Anh làm việc khá đấy. Anh đang giúp vào việc chống lại đám người đó.
- Đám người nào.
- Những kẻ muốn bắt đất nước vĩ đại nầy phải quỳ gối. Nhưng không chỉ là những kẻ thù bên ngoài đ̣i hỏi chúng ta phải cảnh giác. Đám đó là cả những kẻ làm ra bộ phục vụ đất nước của chúng ta, nhưng không hoàn thành bổn phận của ḿnh. Nhưng kẻ không chấp hành mệnh lệnh.
- Những kẻ lầm lạc.
- Đúng thế đó. Dustin. Những kẻ lầm lạc. Chúng phải bị trừng phạt. Nếu như…
Một người đàn ông bước vào pḥng.
- Xin thứ lỗi cho tôi, thưa ông Stone. Các quư ông đó đă đến. Họ đang đợi ông ạ.
- Được Stone quay sang con rể. - Ăn cho xong đi Dustin. Tôi có chút việc quan trọng phải làm. Có thể một hôm nào đó tôi sẽ nói lại cho anh nghe.

Chương 21

Các đường phố Zurich chật ních với những sinh vật trông kỳ dị có những h́nh thù quái gở, những tên khổng lồ dị dạng với những thân h́nh to lớn, kỳ cục, những cặp mắt nhỏ xíu và mầu da giống như màu cá luộc Họ là giống ăn thịt và cô ghét cái thứ mùi hôi hám toả ra từ thân thể họ. Một số thuộc giống cái mang trên người những mảnh da thú, sản phẩm c̣n lại của những thú vật đă bị họ giết hại. Cô vẫn c̣n choáng váng với cái tai nạn khủng khiếp đă cướp đi sự sống của các bạn đồng hành của cô.
Cô đă ở trái đất bốn chu kỳ thời gian mà những sinh vật lạ lùng nầy gọi là tháng, và cô đă không ăn ǵ trong suốt thời gian đó. Cô khát đến lả người đi…
Chút nước duy nhất mà cô đă uống được là chút nước mưa trong cái máng của người chủ trại, và từ đêm đó trời không hề có mưa. Ngoài thứ nước đó th́ mọi thứ nước trên trái đất nầy là không thể uống được.
Cô đă đi vào một nơi để ăn uống những thứ xa lạ nhưng cô không thể nào chịu nổi mùi hôi hám. Cô đă thử ăn rau và quả tươi của họ, nhưng chúng chẳng có vị ǵ và không ngon lành như thức ăn ở nhà.
Cô có tên là Duyên Dáng 1, dáng người cao, nghiêm trang, xinh đẹp với cặp mắt màu xanh lá cây ngời sáng. Kể từ lúc rời khỏi nơi xảy ra tai nạn, cô đă hoá thân thành một người trái đất, và đi qua những đám đông mà không hề bị để ư.
Cô ngồi trước một cái bàn, trên một cái ghế cứng quèo rất bần tiện được làm cho con người, và cô đọc những ư nghĩ của những sinh vật ở quanh cô.
Có hai sinh vật đang ngồi bên một chiếc bàn gần kề. Một sinh vật nói to:
Đó là cơ hội cả đời chỉ có một lần, Frank ạ. Chỉ cần năm mươi ngàn francs là anh có thể bắt đầu rồi. Anh có năm mươi ngàn francs, phải không nào? - Cô đọc những ư nghĩ trong đầu anh ta. Nào, đồ con lợn. Tao cần số tiền đó.
Tất nhiên, nhưng tôi không biết. - Tôi sẽ phải vay khoản tiền đó ở vợ tôi.
Đă bao giờ tôi xui bậy anh trong chuyện đầu tư chưa hả? - Hăy quyết định đi.
Đó là một khoản tiền lớn. - Cô ta sẽ không bao giờ đưa nó cho tôi cả.
Nhưng c̣n về tiềm năng? Đó là cơ hội kiếm bạc triệu đấy? - Hăy đồng ư đi.
Thôi được Tôi tham gia. - Có thể phải bán đi một ít nữ trang của cô ấy.
Ḿnh ăn được nó rồi. Frank, anh sẽ không bao giờ phải hối tiếc đâu. - Hăn ta hoàn toàn có thể thua thiệt về thuế.
Duyên Dáng 1 không hề hiểu nổi câu chuyện đỏ có ư nghĩa ǵ.
Ở phía cuối pḥng ăn, một người đàn ông và một người đàn bà đang cùng ngồi bên một chiếc bàn. Họ đang th́ thầm nói chuyện với nhau. Cô định thần để lắng nghe câu chuyện của họ.
Lạy Chúa. - Người đàn ông nói. - Quái quỷ thế nào mà em lại có chửa được hả? Cô là đồ ngu ngốc.
Thế anh nghĩ v́ sao mà em có chửa hả? - V́ báu vật giống đực của anh đấy.
Có chửa là cách mà những sinh vật nầy thai nghén, sinh sản một cách vụng về bằng các cơ quan sinh dục, của họ, giống như những con vật trên cánh đồng vậy.
Tina, về chuyện nầy em định thế nào? - Cô ta phải đi phá thai.
Ê. Anh muốn em làm ǵ hả? Anh bảo là anh sẽ nói với vợ anh về em mà. - Anh là một thằng nói dối khốn kiếp.
Nầy em yêu, anh sẽ nói, nhưng lúc nầy không được. - Tôi dính với cô một cách thật là điên rồ. Lẽ ra tôi phải biết cô là kẻ gây rắc rối.
Paul, lúc nầy em cũng thật buồn. Thậm chí em không c̣n nghĩ là anh yêu em. - Xin hăy nói là anh yêu em đi. - Tất nhiên là anh yêu em. Chỉ có điều ngay lúc nầy chính là lúc vợ anh đang gặp hoàn cảnh khó khăn. - Tôi không hề định để mất cô ấy.
Lúc nầy em cũng đang gặp khó khăn. Anh không hiểu điều đó à? Em đang mang bầu đứa con của anh. - Và anh không hề có ư định cưới tôi. Nước mắt chảy ra từ hai mắt cô ta.
B́nh tĩnh nào, em yêu. Anh đảm bảo với em là mọi chuyện rồi sẽ ổn cả. Anh cũng muốn có con như em thôi. - Ḿnh sẽ phải thuyết phục cô ta đi phá thai.
Ở cái bàn kề bên họ, một sinh vật giống đực đang ngồi một ḿnh.
Họ đă hứa với ḿnh. Họ nói là cuộc đua đă được ấn định, rằng ḿnh không thể thua, và như một thằng ngốc, ḿnh đă ném tất cả tiền cho bọn họ. Ḿnh phải t́m cách kiếm lại trước khi đám thanh tra tới. Ḿnh không thể nào chịu được nếu họ tống ḿnh vào tù. Ḿnh sẽ tự sát trước. Thề có Chúa, ḿnh sẽ tự sát.
Tại một chiếc bàn khác, một người đàn ông và một người đàn bà đang dở câu chuyện.
- Không hề có chuyện như vậy. Đơn giản là anh đă mua ngôi nhà nghỉ xinh đẹp trên núi nầy, và anh nghĩ là sẽ tốt cho em khi đi nghỉ cuối tuần cho thoải mái. - Chúng ta sẽ có nhiều thời gian nghỉ ngơi trên giuờng của anh, cô bé ạ.
Claude, em không biết. Em chưa bao giờ đi xa với một người đàn ông nào. - Ḿnh ngờ là anh ta tin như thế.
Phải, nhưng đây không phải là chuyện t́nh dục đâu. Anh chợt nghĩ đến cái nhà nghỉ bởi v́ em nói là em cần được nghỉ ngơi. Em có thể nghĩ về anh như một người anh trai của em - Và chúng ta sẽ thử phạm cái tội loạn luân đầy vui thú và cổ lỗ kia xem sao.
Duyên Dáng 1 không hề biết rằng những người khác nói nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau, bởi lẽ cô có thể chen vào trong đầu họ bằng ư thức của ḿnh và hiểu họ đang nói ǵ.
Ḿnh phải t́m cách liên lạc với tàu mẹ, cô nghĩ.
Cô lấy ra nột cái máy phát xách tay màu bạc. Đó là một hệ thống mạch liên hợp phân cách mà một nửa gồm vật chất hữu cơ sống và nửa kia gồm một hợp chất kim loại của một hệ mặt trời khác. Nhóm vật chất hữu cơ bao gồm hàng ngh́n tế bào đơn lẻ để khi chúng chết đi, những tế bào mới được nhân ra và giữ cho những liên lạc liên tục. Thật không may, cái bộ phận tinh thể dùng để điều khiển chiếc máy phát đă găy ra và rơi mất. Cô đă thử liên lạc với tàu mẹ, nhưng thiếu bộ phận nầy chiếc máy phát trở nên vô tích sự.
Cô cố ăn thêm một lá rau diếp nữa, nhưng không c̣n chịu nổi mùi vị của nó. Cô đứng dậy và bước ra phía cửa. Cô thu ngân gọi phía sau:
- Thưa cô, xin chờ một phút. Cô chưa trả tiền ăn.
- Tôi xin lỗi. Tôi không có thứ phương tiện thanh toán của các bạn.
- Cô có thể nói điều đó với cảnh sát ấy.
Duyên Dáng 1 nh́n thẳng vào mắt cô thu ngân và chờ cô ta khuỵu xuống. Cô quay đi và bước khỏi chỗ ăn uống đó.
Ḿnh phải t́m cái bộ phận tinh thể. Họ đang chờ nghe tin tức của ḿnh. Cô đă phải cố tập trung các giác quan, nhưng mọi thứ dường như cứ nhoè đi và méo mó. Không có nước, cô biết thế, cô sẽ chết mất.

Chương 22
 

Ngày thứ năm.
 
Bern, Thuỵ Sĩ.
 
Robert đang đi vào ngơ cụt. Anh không nhận ra là đă trông cậy nhiều thế nào vào việc kiếm được cái danh sách của Mothershed. Tan thành mây khói cả. Robert nghĩ. Theo đúng nghĩa đen của nó. Các dấu vết bây giờ thật mờ nhạt. Lẽ ra ḿnh phải đoạt bản danh sách kia lúc ḿnh ở trong căn hộ của Mothershed.
Điều đó sẽ dạy cho ḿnh một bài học. Tất nhiên. Một ư nghĩ đâu đó có trong đầu anh chợt nổi lên. Hans Beckerman có nói: "Tất cả những hành khách đều muốn được xem cái vật thể bay lạ và những sinh vật chết trong đó, nhưng cái lăo già ấy th́ cứ phàn nàn đ̣i sớm về Benr bởi v́ lăo ta phải chuẩn bị một bài giảng ở trường đại học". Chuyện thật mơ hồ, nhưng đó là tất cả những ǵ Robert có trong tay.
Anh thuê một cái xe ở sân bay Bern và chạy về hướng trường đại học. Anh rời khỏi đường Rathausgasse, con đường chính của thành phố Bern và lái xe chạy tới Langgassetrsase, nơi có Đại học Bern. Trường đại học nầy gồm dăm toà nhà, cao bốn tầng, với hai dăy ngang và những tượng đá lớn trên mái. Ở mỗi đầu sân, mặt trước của toà nhà là nhùng cửa sổ bằng kính của nhữtng pḥng hộc, và ở phía sau trường là một khoảng vườn lớn nh́n ra sông Aare.
Robert bước lên bậc thềm của toà nhà hành chính và bước vào pḥng thường trực. Thông tin duy nhất mà Beckerman trao cho anh là ông khách đó người Đức và ông ta đang chuẩn bị bài giảng cho ngày thứ Hai.
Một sinh viên đă chỉ cho anh tới Pḥng hành chính.
Một phụ nữ ngồi sau bàn có một vóc người thật dễ sợ. Bà ta mặc một bộ complê cắt rất vừa vặn, mang một cặp kính gọng đen và tóc được búi thành một búi nhỏ. Bà ta ngước nh́n lên khi Robert bước vào.
- Xin mời.
Robert móc ra một tấm thẻ cảnh sát quốc tế.
- Tôi đang thực hiện một cuộc điều tra, và tôi sẽ đánh giá cao sự hợp tác, thưa cô.
- Bà. Bà Schreiber. Điều tra chuyện ǵ vậy?
- Tôi đang t́m kiếm một giáo sư.
- Tên ông ta? - Bà ta cau mầy.
- Tôi không biết.
- Ông không biết cả tên ông ta?
- Không. Ông ta là một giảng viên mời thôi. Ông ta có một bài giảng ở đây, cách đây vài ngày. Hôm thứ Hai.
- Ngày nào cũng, có nhiều giảng viên mời tới đây giảng bài. Môn học của ông ta là môn ǵ?
- Bà nói ǵ ạ?
- Ông ta dạy môn ǵ? - Giọng bà ta trở nên mất kiên nhẫn. - Ông ta dạy môn học ǵ?
- Tôi không biết.
Bà ta không giấu vẻ bực tức.
- Trời đất. Tôi không thể giúp ông. Và tôi không có th́ giờ cho những chuyện phù phiếm nầy. Bà ta định quay đi.
- Ồ, đây không phải là chuyện phù phiếm. - Robert cam đoan với bà ta. - Hoàn toàn nghiêm túc đấy. - Anh cúi xuống và thấp giọng nói. - Tôi sẽ phải để bà biết công việc của tôi. - Vị giáo sư nầy liên quan tới một tổ chức đĩ điếm.
Bà Schreiber há mồm kinh ngạc.
- Cảnh sát quốc tế đă theo dơi ông ta trong nhiều tháng. Thông tin chúng tôi hiện có cho thấy ông ta là người Đức và rằng ông ta có một bài giảng ở đây vào ngày mười lăm tháng nầy. - Anh đứng thẳng người lên. - Nếu bà không muốn giúp đỡ, chúng tôi có thể tiến hành một cuộc điều tra chính thức tại trường nầy. Tất nhiên, dư luận…
- Không, không. - Bà ta nói. - Không thể để nhà trường liên quan tới một chuyện như vậy. - Trông bà ta đầy vẻ lo ngại. - Ông nói là ông ta giảng bài ở đây hôm nào nhỉ?
- Ngày mười lăm. Thứ hai.
Schreiber nhỏm dậy và đi tới bên tủ hồ sơ. Bà ta mở tủ và lướt qua đám giấy má. Từ một chiếc cặp, bà ta rút ra mấy tờ giấy.
- Đây rồi! Có ba giáo sư mời giảng vào hôm mười lăm.
- Người tôi muốn biết là người Đức.
Tất cả họ đều là người Đức. - Schreiber nói quả quyết. Bà ta sắp xếp mấy tờ giấy trong tay. - Một bài giảng là về các vấn đề kinh tế, một về hoá học và một về tâm lư…
- Tôi có thể xem chúng được không?
Một cách miễn cưỡng, bà ta đưa xấp giấy cho Robert.
- Anh xem kỹ từng tờ. Trên mỗi tờ đều có một cái tên với địa chỉ nhà riêng và số điện thoại.
- Nếu ông muốn, tôi có thể làm bản sao cho ông.
- Không, cảm ơn. - Anh đă nhớ tất cả những cái tên và những con số. Không có ai trong số nầy là người mà tôi đang t́m kiếm.
Bà Schreiber thở phào nhẹ nhơm.
Ôi cảm ơn Chúa. Đĩ điếm. Chúng tôi sẽ không bao giờ dinh dáng đến một chuyện như vậy.
- Xin lỗi đă làm phiền bà v́ một chuyện không đâu.
Robert đi ra và hướng tới một trạm điện thoại công cộng trong thành phố.
Cú điện thoại đầu tiên là tới Berlin.
- Giáo sư Streubek phải không ạ?
- Phải.
Đây là Công ty xe du lịch Sunshine. Ông để quên kính trên chiếc xe bus của chúng tôi hôm chủ nhật trước khi ông đi du lịch ở Thuỵ Sĩ và…
- Tôi không hiểu ông muốn nói chuyện ǵ nữa. - Giọng ông ta có vẻ khó chịu.
- Ông ở Thuỵ Sĩ hôm mười bốn, có phải vậy không, thưa giáo sư?
- Không. Ngày mười lăm. Để giảng bài ở Đại học Bern.
- Và ông không đi chuyến xe du lịch của chúng tôi ư?
- Tôi không có th́ giờ cho một chuyện ngốc nghếch như vậy. Tôi là một người bận rộn. - Và ông giáo sư gác máy.
Cú điện thoại thứ hai là tới Hamburg.
- Giáo sư Heinrich phải không ạ?
- Đây là giáo sư Heinrich!
Công ty xe du lịch Sunshine. Ông có ở Thuỵ Sĩ vào ngày mười bốn tháng nầy phải không ạ?
- V́ sao mà ông muốn biết?
Bởi v́ chúng tôi t́m thấy chiếc cặp của ông trên một trong những chiếc xe bus của chúng tôi, thưa giáo sư, và…
- Ông nhầm người rồi, tôi không có mặt trên chiếc xe bus du lịch nào hết.
- Ông không đi tuyến du lịch của chúng tôi đến Jungfrau à?
- Tôi đă nói với ông rồi, không.
- Tôi xin lỗi v́ đă làm phiền ông.
Cú điện thoại thứ ba được gọi tới Munich.
- Giáo sư Otto Schmidt phải không ạ?
- Vâng.
- Giáo sư Schmidt, đây là công ty xe du lịch Sunshine. Chúng tôi giữ cặp kính mà ông đă để quên trên một chiếc xe của chúng tôi cách đây ít hôm, và…
Hẳn là có chuyện nhầm lẫn rồi.
Tim Robert thắt lại. Anh đă thua. Không c̣n ǵ để mà tiếp tục nữa. Giọng nói ở đầu dây kia tiếp tục.
- Tôi có kính của tôi đây thôi. Tôi đâu có mất.
Robert chợt thấy phấn chấn.
- Ông chắc thế chứ, giáo sư? Ông đi tuyến Jungfrau ngày mười bốn có phải không ạ?
- Vâng, vâng, nhưng tôi đă nói rồi, tôi không mất ǵ cả mà.
- Cảm ơn ông rất nhiều, thưa giáo sư. - Robert gác máy. Ṿ bở rồi.
Robert, quay mấy số máy khác, và chỉ sau hai phút anh đă đang nói với tướng Hilliard.
- Tôi có hai việc phải báo cáo. - Robert nói. - Về nhân chứng ở London mà tôi đă nói với ngài.
- Sao?
- Anh ta đă chết trong một vụ cháy đêm qua.
- Thế hả? Thật tệ quá.
- Thưa ngài, vâng. Nhưng tôi tin rằng tôi đă phát hiện một nhân chứng khác. Tôi sẽ để ngài biết ngay sau khi kiểm tra lại.
- Tôi sẽ chờ báo cáo của ông, ông sĩ quan.
Tướng Hilhard đang báo cáo với Janus.
- Sĩ quan Bellamy đă phát hiện một nhân chứng nữa.
- Tốt. Nhóm công tác đang trở nên sốt ruột. Tất cả đều lo ngại rằng câu chuyện sẽ loang ra trước khi SDI đi vào hoạt động.
- Ṭi sẽ sớm có những thông tin nữa cho ngài.
- Tôi không muốn thông tin, tôi muốn thấy những kết quả.
- Vâng, thưa ngài Janus.
***
Platténstrasse, ở Munich, là một khu phố nhỏ, yên tĩnh với những ngôi nhà xây bằng gạch màu nâu xám xịt co cụm lại với nhau như thể để pḥng vệ.
Ngôi nhà số 5 giống hệt với những ngôi nhà hàng xóm. Bên trong cổng là một dăy hộp thư. Một tấm biển nhỏ dưới một trong những hộp thư có ghi ḍng chữ "Giáo sư Otto Schmidt". Robert bấm chuông.
Một người đàn ông cao, gầy với một mớ tóc bạc loà xoà mở cửa. Ông ta mặc một chiếc áo nhàu nhĩ, mồm ngậm chiếc tẩu. Robert không hiểu liệu ông ta tạo ra h́nh ảnh một giáo sư đại học mô phạm hay chính cái h́nh ảnh đó là tạo ra ông ta.
- Ông là giáo sư Schmidt?
- Phải!
- Tôi không biết liệu tôi có thể nói chuyện với ông một lát được không. Tôi ở…
- Chúng ta đă nói chuyện với nhau, - giáo sư Otto Schmidt nói. - Ông là người đă gọi điện thoại cho tôi sáng nay. Tôi là một chuyên gia trong lĩnh vực nhận biết giọng nói. Mời vào.
- Cám ơn ông.
Robert bước vào một căn pḥng bề bộn sách vở. Trên các bức tường, từ sàn nhà lên tới trần là những giá sách đầy kín. Ở đâu cũng thấy sách trên bàn, trên sàn, trên ghế. Đặc điểm nổi bật trong căn trong căn pḥng dường như là những việc làm chưa được nghĩ kỹ.
- Ông chẳng phải là từ một hăng du lịch Thuỵ Sĩ nào cả, có phải thế không hả?
- Ô tôi…
- Ông là người Mỹ.
- Vâng.
- Và cuộc viếng thăm nầy không liên quan ǵ đến cặp kính không hề bị mất của tôi.
- Ồ không, thưa ông.
- Ông quan tâm đến cái vật thể bay lạ mà tôi đă nh́n thấy. Đó là một cảnh tượng ghê sợ. Tôi đă luôn tin rằng có thể có những thứ đó, nhưng tôi không bao giờ nghĩ là tôi sẽ được chứng kiến.
- Hẳn phải là một cú sốc khủng khiếp.
- Đúng thế.
- Ông có thể kể cho tôi nghe chút ǵ về chuyện đó không?
- Nó, nó dường như vẫn hoạt động. Có một thứ ánh sáng lung linh bao quanh nó. Xanh da trời. Không có thể là hơi xám một chút. Tôi, tôi không chắc.
Anh nhớ lại lời mô tả của Mandel: "Nó liên tục thay đổi màu sắc. Trông nó thoáng xanh da trời… rồi lại xanh lá cây. Nó đă bị vỡ toang ra và tôi nh́n thấy được hai xác chết trong đó. Nhỏ… mắt to. Họ mặc thứ ǵ đó giống như một bộ quần áo bằng bạc vậy…"
- Ông có thể kể ǵ với tôi về những bạn đồng hành của ông không?
- Những người cùng đi với tôi trên chiếc xe bus ấy à?
- Vâng.
Vị giáo sư nhún vai.
- Tôi không biết ǵ về họ cả. Tất cả bọn họ đều là những người lạ. Khi đó tôi đang tập trung về một bài giảng mà tôi sẽ giảng vào sáng ngày hôm sau. Tôi rất ít để ư tới những hành khách khác.
Robert nh́n vẻ mặt ông ta, chờ đợi.
- Nếu như nó sẽ là có ích cho ông, - Vị giáo sư nói, - th́ tôi có thể nói cho ông biết họ là người nước nào. Tôi dạy hoá học, nhưng có sở thích về nghiên cứu âm thanh.
- Bất kỳ những ǵ ông nhớ được đều đáng quư cả.
- Có một tu sĩ người Italia, một người Anh, một người Hungary, một người Mỹ nói giọng Texas, một cô gái Nga.
- Nga à?
- Phải. Nhưng cô ta không phải dân Mátxcơva. Theo giọng nói, tôi đoán cô ta ở Kiev, hoặc là rất gần đó.
Robert chờ đợi, nhưng chỉ c̣n có sự im lặng.
Ông không nghe thấy bất kỳ ai trong số họ nhắc tới tên hay nói chuyện về nghề nghiệp của họ à?
- Xin lỗi. Tôi đă nói rồi. Tôi đang suy nghĩ về bài giảng của tôi. Rất khó tập trung suy nghĩ. Người Mỹ nói giọng Texas và vị tu sĩ ngồi cùng với nhau. Người Mỹ đó nói luôn mồm. Đủ mọi thứ chuyện. Tôi không biết ông tu sĩ thậm chí có hiểu hay không.
- Ông tu sĩ…
- Ông ta nói giọng La Mă.
- Ông có thể nói thêm ǵ nữa về bất kỳ ai trong số họ không?
- Tôi sợ là không. - Vị giáo sư nhún vai. Ông ta hút một hơi thuốc. - Tôi lấy làm tiếc là không thể giúp ǵ cho ông.
Một ư nghĩ chợt đến với Robert.
- Ông nói ông là một nhà hoá học phải không nhỉ?
- Phải.
- Tôi không biết liệu ông có bằng ḷng nh́n cái nầy một chút không, thưa giáo sư. - Robert tḥ tay vào túi và lôi ra mẩu kim loại mà Beckerman đă đưa cho anh. - Ông có thể bảo tôi cái nầy là cái ǵ được không ạ?
Giáo sư cầm cái mẩu kim loại từ tay Robert, và trong lúc xem xét nó, vẻ mặt ông ta chợt thay đổi.
- Anh, anh kiếm cái nầy ở đâu?
- Tôi sợ là tôi không thể nói được. Ông có biết nó là cái ǵ không?
Có vẻ như nó là một bộ phận của một chiếc máy phát.
- Ông có chắc thế không?
Ông ta lật lật miếng kim loại trong tay.
- Tinh thể nầy là chất dilithium. Rất hiếm. Thấy những vết khía nầy không? Chúng cho thấy miếng nầy được gắn vào một bộ phận lớn hơn. Bản thân miểng kim loại… Lạy Chúa, tôi chưa bao giờ trông thấy cả. - Giọng ông ta đầy xúc động. - Ông có thể đề cho tôi giữ nó trong vài ngày được không? Tôi muốn có những phân tích quang phổ về nó.
- Tôi e là không thể được, - Robert nói.
- Nhưng…
- Xin lỗi, - Robert cầm lại miếng kim loại.
Vị giáo sư cố giấu vẻ thất vọng.
- Thôi, ông có thể mang nó lại sau vậy. Sao ông không cho tôi danh thiếp của ông nhỉ. Nếu tôi c̣n nhớ thêm được ǵ nữa, tôi sẽ gọi cho ông.
- Có vẻ như tôi chẳng c̣n tấm nào ở đây cả. - Robert lục lọi trong túi một chút.
- Phải rồi, tôi cũng nghĩ là thế. - Giáo sư Schmidt thủng thẳng nói.
***
- Sĩ quan chỉ huy Bellamy đang trên máy.
- Đây ông sĩ quan? - Tướng Hilliard nhấc máy.
- Tên của nhân chứng mới nhất là giáo sư Schmidt. Ông ta sống ở số 5 Plattenstrasse, Munich.
- Cám ơn ông sĩ quan. Tôi sẽ thông báo với nhà chức trách Đức ngay lập tức. - Robert đă toan nói: "Tôi e rằng đó là nhân chứng cuối cùng mà tôi có thể t́m được", nhưng có điều ǵ đó đă chặn anh lại. Anh không muốn phải thú nhận sự thất bại. Vậy mà các dấu vết đă trở nên thật mờ nhạt. Một người Texas và một vị tu sĩ. Vị tu sĩ kia từ La Mă tới. Một thời gian. Cùng với cả triệu vị tu sĩ khác. Và không có cách nào để nhận dạng ông ta cả: Ḿnh có một sự lựa chọn. - Robert nghĩ. - Ḿnh có thể từ bỏ và trở về Washington, hoặc là ḿnh có thể đi Rome và cố một lần cuối cùng…
***
Trụ sở của Cục Bảo vệ Hiến Pháp, nằm ở trung tâm Berlin, trên đường Neumarkterstrasse. Đó là một toà nhà lớn màu xám không có ǵ đặc biệt, khó có thể phân biệt được với những toà nhà xung quanh.
Bên trong, trên tầng ba, sếp cơ quan, thanh tra Otto Joachim đang xem một bức điện. Ông ta đọc nó hai lần, rồi với tay nhấc chiếc điện thoại đỏ trên bàn.
***
Ngày thứ sáu.
Munich, Đức.
Sáng hôm sau, trên đường đi đến pḥng thí nghiệm hoá học, Otto Schmidt nghĩ lại câu chuyện trao đổi với người Mỹ tối hôm trước. Cái mẫu kim loại đó có thể từ đâu ra nhỉ? Một vật mà ông chưa bao giờ thấy. Và cái người Mỹ kia đă làm cho ông ta ngạc nhiên.
Ông ta nói là quan tâm tới những người khách đi trên chiếc xe bus. V́ sao? Bởi v́ tất cả họ đều là những nhân chứng trước cái đĩa bay kia ư? Phải chăng họ sẽ được khuyến cáo là không được bàn tán? Nếu vậy th́ v́ sao người Mỹ kia đă không khuyến cáo ḿnh?
Có chuyện ǵ lạ vậy, vị giáo sư kết luận. Ông ta vào trong pḥng thí nghiệm, cởi áo khoác treo lên móc và mặc lên người cái áo choàng rỏi bước lại chiếc bàn nơi ông ta đă làm việc nhiều tuần nay với một thí nghiệm hoá học. Nếu thành công, ông ta nghĩ, điều nầy có thể có nghĩa là một giải Nobel. Ông ta nhấc cái cốc đựng nước tinh khiết và rót vào một b́nh chứa đựng một thứ chất lỏng màu vàng. Lạ nhỉ. Ḿnh không nghĩ là nó lại có màu vàng sáng thế nầy.
Tiếng nổ thật là khủng khiếp. Căn pḥng thí nghiệm nồ tung, và những mảnh thuỷ tinh cùng với những mảnh thịt người văng tung toé lên những bức tường.
Điện khẩn.
Tối mật.
BFV gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
Otto Schmidt đă bị thủ tiêu
Hết.
Robert không nghe được tin về cái chết của vị giáo sư. Anh đă có mặt trên một chuyến bay của hăng hàng không Alitalia, trên đường tới Rome.

Chương 23

Dustin Thornton bắt đầu cảm thấy bất an. Giờ đây ông ta có quyền lực và nó cứ như một thứ ma tuư lại muốn có thêm nữa. Bố vợ ông ta, Williard Stone, luôn hứa hẹn đưa ông ta vào một thế giới bí ẩn khép kín nào đó nhưng cho đến giờ lăo vẫn chưa thực hiện lời hứa đó.
Một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, Thornton biết rằng thứ sáu nào bố vợ ḿnh cũng biến mất. Thornton đă gọi điện xin ăn trưa với lăo.
- Xin lỗi, - thư kư của Williard Stone trả lời, - nhưng hôm nay ngài Stone đi vắng.
- Ô chán quá. Thế trưa thứ sáu tới th́ sao?
- Xin lỗi ông Thornton, thứ sáu tới ngài Stone cũng sẽ đi vắng.
Lạ nhỉ và thậm chí nó c̣n trở nên lạ hơn khi mà hai tuần sau đó Thornton cũng gọi lại và vẫn nhận được cùng một câu trả lời. Thứ sáu nào lăo già cũng biến đi đâu thế nhỉ? Lăo ta không phải là người say mê chơi gôn hay đam mê một thú vui nào cả.
Lư do hẳn là một người đàn bà. Vợ của Williard Stone ưa giao thiệp và rất giàu có. Bà ta là một phụ nữ đài các và cũng có tính cách mạnh mẽ hệt ông chồng. Bà ta không phải loại phụ nữ tha thứ được cho chồng về chuyện trăng hoa. Nếu lăo ta đang có một vụ ngoại t́nh, Thornton nghĩ, điều đó có nghĩa là ḿnh tóm được gáy lăo. Ông ta hiểu là phải t́m ra cho bằng được.
5 giờ sáng ngày thứ sáu tiếp theo đó, Dustin Thornton đă ngồi sùm sụp sau tay lái của một chiếc Ford Taurus rất b́nh thường, đậu cách toà dinh thự sừng sững của Willard Stone nửa dăy phố. Đó là một buổi sáng lạnh giá và ảm đạm, và Thornton luôn tự hỏi ông ta đang làm ǵ ở đó. Có thể là có một lời giải thích hoàn toàn hợp lư nào đó cho cái hiện tượng kỳ cục nầy của Stone.
Ḿnh đang phí thời gian, Thornton nghĩ. Nhưng có điều ǵ đó đă ḱm chân ông ta lại.
Lúc 7 giờ, hai cánh cổng lớn mở ra và một chiếc xe xuất hiện. Ngồi sau tay lái là Williard Stone. Thay v́ chiếc xe sang trọng thường dùng, lúc nầy lăo ta đang ngồi trong một chiếc xe chở hàng nhỏ, màu đen mà đám gia nhân vẫn sử dụng. Thornton đột nhiên cảm thấy hồi hộp. Ông ta biết là ḿnh đang phát hiện một chuyện ǵ đó. Người ta thường sống theo một khuôn phép riêng, và Stone đang phá vỡ cái khuôn phép ấy.
Phải là chuyện một người đàn bà.
Lái xe một cách thận trọng và giữ một khoảng cách khá xa chiếc xe chở hàng, Thornton bám theo ông bố vợ xuyên qua các đường phố Washington tới một con đường dẫn đi Arlington.
Ḿnh phải thật tế nhị trong chuyện nầy, Thornton nghĩ. Ḿnh không muốn làm quá mạnh. Ḿnh sẽ thu thập tất cả các thông tin có thể có được về lăo, và rồi ḿnh sẽ lật quân bài. Ḿnh sẽ nói với lăo rằng ḿnh chỉ quan tâm tới chuyện bảo vệ cho lăo mà thôi. Lăo sẽ hiểu. Lăo chẳng bao giờ muốn có chuyện bê bối om ṣm.
Dustin Thornton quá mải mê với những suy nghĩ đến nỗi suưt không rẽ theo Williard Stone. Họ đă tới một khu dân cư dành riêng. Chiếc xe hàng màu đen đột nhiẽn mất hút vào con đường nhỏ chạy dài trong bóng cây.
Dustin Thornton dừng xe, lựa chọn cách theo dơi tốt nhất. Liệu ông ta có nên chạm mặt với Williard trước sự không chung thuỷ của lăo ta lúc nầy không? Hay nên đợi cho đến khi Stone đi khỏi và nói chuyện với người đàn bà kia trước đă? Hay nên yên lặng thu thập tất cả những thông tin cần thiết và rồi nói chuyện với ông bố vợ? Ông ta quyết định phải t́m hiểu cụ thể.
Thornton đậu xe ở một đường phụ và đi ṿng theo con đường nhỏ ở phía sau ngôi nhà hai tầng kia. Một hàng rào gỗ bao quanh khu sân sau nhưng điều đó không có trở ngại ǵ. Thornton mở cổng và bước vào bên trong.
Ông ta đang đứng trước một khu vườn lớn, xinh đẹp và được chăm sóc chu đáo với ngôi nhà khuất phía sau.
Ông ta nhẹ nhàng đi dưới hàng cây chạy ngang băi cỏ tới đứng bên cửa sau của ngôi nhà và tính toán bước đi tiếp theo. Ông ta cần có bằng chứng về chuyện đang xảy ra. Không có nó th́ lăo già sẽ cười vào mặt cho. Dù chuyện ǵ đang xảy ra bên trong kia th́ lúc nầy th́ cũng đều có thể là ch́a khoá dẫn tới tương lai của ông ta. Phải t́m ra cho được.
- Rất nhẹ nhàng, Thornton thử mở cánh cửa sau.
Nó không được khoá. Ông ta lọt vào bên trong và thấy ḿnh đang đứng trong một pḥng bếp lớn kiểu cổ. Không có ai xung quanh cả. Thornton tiến đến bên cánh cửa phụ, nhẹ nhàng đẩy ra. Trước mặt ông ta là gian tiền sảnh lớn. Ở phía đầu kia là một cánh cửa đóng kín, có thể là dẫn tới một pḥng thư viện. Thornton bước tới hết sức nhẹ nhàng. Ông ta đứng nép bên cánh cửa.
Không hề có tiếng động ǵ bên trong. Có thể là lăo già đang ở trong pḥng ngủ trên gác.
Thornton đẩy cửa ra. Ông ta đứng trước ngưỡng cửa, chết đứng. Có hơn một chục người đàn ông đang ngồi trong pḥng, quanh một chiếc bàn lớn.
- Vào đi Dustin, - Williard nói. - Chúng tôi đang chờ anh đấy.

Chương 24

T́nh h́nh ở Rome tỏ ra là khó khăn cho Robert, một cuộc thử thách tinh thần làm cho anh kiệt sức. Anh đă đi nghỉ tuần trăng mật ở đây với Susan, và ở đây cũng đầy những kỷ niệm. Rome đồng nghĩa với Roberto, người quản lư khách sạn Hassler cho mẹ anh, một người nặng tai nhưng có thể nh́n miệng người nói để hiểu với năm thứ tiếng. Rome có nghĩa là khu vườn của biệt thự D Este ở Tivoli, và niềm vui sướng của Susan trước một trăm ḍng suối do con trai của Lucretia Borgia tạo nên. Rome là Otello, dưới chân. Những bậc thềm Tây Ban Nha, rồi Toà thánh Vatican và những bức bích hoạ nổi tiếng của Michelangelo. Rome là sự pha trộn giữa những giai điều nhạc du dương ở Tre Scalini cùng tiếng cười vui của Susan, và tiếng cô nói: "Robert, hăy hứa với em là chúng ḿnh sẽ luôn hạnh phúc như thế nầy nhé".
Ḿnh đang làm cái quái ǵ ở đây nhỉ? Robert băn khoăn. Ḿnh không hề biết tí ǵ về vị tu sĩ kia, hay thậm chí là liệu ông ta có ở Rome hay không. Đă đến lúc nghỉ ngơi, về nhà và quên hết những thử nầy.
Nhưng có điều ǵ đó trong anh, một nét bướng bỉnh thừa kế từ một ông tồ nào đó đă chết từ lâu, ngăn không cho anh làm như vậy. Ḿnh sẽ cố gắng một ngày nữa, Robert quyết định. Một ngày nữa thôi.
Sân bay Leonardo da Vinci thật đông người và đối với Robert th́ dường như bất kỳ ai cũng có thể là một tu sĩ. Anh đang t́m kiếm một tu sĩ trong thành phố có, bao nhiêu? Năm mươi ngh́n tu sĩ phải không nhỉ? Hay một trăm ngh́n? Trên taxi đến khách sạn Hassler, anh chú ư tới những đám đông các tu sĩ mặc áo choàng đi trên đường phố. Không thể được, Robert nghĩ. Ḿnh hẳn là điên thật rồi.
Anh được viên phó quản lư chào đón ở tiền sảnh khách sạn Hassler.
- Ông Bellamy. Thật mừng là lại được thấy ông.
- Cám ơn. Pietro. Ông có pḥng cho tôi nghỉ lại một đêm không?
- Cho ông, tất nhiên rồi. Luôn luôn sẵn sàng.
Robert được đưa đến một pḥng mà anh đă từng ở.
- Nếu có cần ǵ xin ông cứ…
Tôi cần một điều kỳ diệu khốn kiếp, Robert nghĩ.
Anh ngả người nằm xuống, cố tĩnh tâm.
V́ sao một tu sĩ ở Rome lại đi Thuỵ Sĩ nhỉ? Có mấy khả năng. Ông ta có thể đi nghỉ, hoặc có thể dự một hội nghị tôn giáo. Ông ta là vị tu sĩ duy nhất trên chiếc xe bus đó. Điều đó có nghĩa ǵ nhỉ? Không ǵ cả. Ngoài một điều là ông ta không cùng đi với nhóm, có thể như vậy thôi. Bởi thế có thể là một chuyến đi thăm bạn bè hay gia đ́nh của ông ta. Hoặc cũng có thể là ông ta đi cùng một nhóm, và riêng ngày hôm đó th́ họ có những chương tŕnh riêng lẻ. Những ư nghĩ của Robert cứ quẩn quanh trong một cái ṿng tuyệt vọng.
Hăy trở lại từ đầu. Ông tu sĩ nầy đă tới Thuỵ Sĩ như thế nào nhỉ? Nhiều khả năng là ông ta không có một cái xe ô tô riêng. Ai đó có thể cho ông ta đi nhờ, nhưng khả năng nhiều hơn là việc ông ta đă đi bằng máy bay tầu hoả hoặc xe bus. Nếu là đi nghỉ th́ ông ta hẳn đă không có nhiều thời gian. Bởi vậr hăy giả thiết rằng ông ta đă đi bằng máy bay.
Cách lập luận đó chẳng dẫn đến đâu cả. Các hăng hàng không không ghi lại nghề nghiệp của hành khách. Vậy th́ vị tu sĩ kia cũng chỉ có một cái tên như bao nhiêu những cái tên khác trong danh sách hành khách. Nhưng nếu ông ta là thành viên của một nhóm…
 
***
Toà thánh Vatican, nơi ở chính thức của Giáo hoang, vươn lên một cách uy nghi trên đồi Vatican, bên bờ Tây sông Tiber, phía tây bắc thành Rome. Mái ṿm cao của nhà thờ Basilica, do Michellangelo thiết kế, đứng sừng sững trên quảng trường rộng lớn, đêm ngày đầy những khách thuộc đủ mọi tín ngưỡng.
Quảng trường nầy được bao quanh bởi những chiếc cột trụ h́nh bán nguyệt được xây dựng xong vào năm 1667 dưới bàn tay của Bernini, với 284 chiếc cột đá hoa cương xếp thành bốn hàng và trên đó là một bao lớn đỡ 140 bức tượng. Robert đă thăm nơi nầy tới cả chục lần, nhưng lần nào anh cũng cảm thấy nghẹt thở trước quang cảnh ở đó.
Tất nhiên, phía trong Toà thánh, quang cảnh c̣n ngoạn mục hơn nữa. Nhà thờ Sistine: toà bảo tàng và Cung Sala đẹp đến mức không thể tả xiết.
Nhưng vào ngày hôm đó, Robert đă đến đây không phải để ngắm cảnh: Anh t́m được Pḥng quan hệ với công chúng của Toà Thánh ở khu dành cho những việc liên quan đến bên đời. Người đàn ông trẻ tuổi ngồi sau bàn rất lịch thiệp.
- Tôi có thể giúp ông không ạ?
Robert đưa nhanh tấm thẻ ra.
- Tôi ở tạp chí Time. Tôi đang làm một bài viết về một số giáo sĩ đă tham dự một hội nghị tôn giáo ở Thuỵ Sĩ cách đây một hai tuần ǵ đó. Tôi đang cần những tư liệu về thân thế.
Người đàn ông kia nh́n anh một thoáng, rồi chau mầy.
- Chúng tôi có một số giáo sĩ dự một hội nghị ở Venise tháng trước. Gần đây th́ không có giáo sĩ nào của chúng tôi đến Thuỵ Sĩ cả. Xin lỗi, tôi sợ là tôi không thể giúp ǵ cho ông.
- Việc nầy thật rất quan trọng, - Robert vội vă nói. - Làm thế nào để tôi có thể có những thông tin đó được?
- Cái nhóm mà ông t́m kiếm… họ đại diện cho ḍng tu nào thế? Ông nói ǵ ạ? Đạo Thiên chúa có rất nhiều ḍng: Ḍng Francis, Marist, Benetdictine, Trappist, Jesuit, Dominic và một số ḍng khác nữa.
- Tôi khuyên ông đến ḍng tu của họ và hỏi ở đó xem.
Chỗ đó là chỗ quái nào? Robert nghĩ.
- Ông có gợi ư nào khác không hả?
- Tôi e là không.
Ḿnh cũng thế, Robert nghĩ. Ḿnh đă t́m thấy đồng cỏ. Ḿnh không thể nào t́m được cái kim.
Anh rời khỏi Toà Thánh và lang thang trên các đường phố của thành Rome, mải mê với khó khăn của ḿnh mà không hề để ư đến những người xung quanh đến quảng trường Appolo, anh ngồi vào một tiệm cà phê ngoài trời và gọi một ly Cinzano. Ly rượu vẫn ở yên trước mặt anh, không hề được động.
Với tất cả những ǵ anh đă biết th́ vị tu sĩ kia có thể vẫn c̣n ở Thuỵ Sĩ. Ông ta thuộc ḍng tu nào?
Ḿnh không biết. Và ḿnh chỉ có mỗi lời vị giáo sư kia nói rằng ông ta là người La Mă.
Anh uống một ngụm.
Có một chuyến bay đi Washington vào lúc chiều tối. Ḿnh sẽ đi chuyến đó, Robert quyết định: Ḿnh bỏ cuộc thôi. Ư nghĩ đó làm anh bực tức. Nhảy ra, nhưng không phải là cười mà là khóc. Đă đến lúc phải đi rồi.
- Tiền nầy.
- Thưa ngài, vâng.
Robert đưa mắt bâng khuâng nh́n quanh quảng trường. Phía bên đối diện với tiệm cà phê, một chiếc xe bus đang lấy khách. Trong dăy hành khách có hai tu sĩ, Robert nh́n hành khách đưa tiền vé và rồi đi xuống phía cuối xe.
Khi hai tu sĩ tới chỗ người bán vé, họ mỉm cười với ông ta và ngồi xuống ghế mà không trả tiền.
- Séc của ngài, thưa ngài, - người bồi bàn nói.
Thậm chí Robert không nghe thấy anh ta. Đầu óc anh đang quay cuồng. Nơi đây, ngay trong ḷng nhà thờ Thiên Chúa, các tu sĩ có những đặc quyền nhất định. Có thể có thế thôi…
 
***
 
Văn pḥng của hăng Hàng không Thuỵ Sĩ nằm ở số 10 đường P. chỉ cách đường Veneto khoảng 5 phút. Robert được một người đàn ông ngồi sau dăy bàn dài tiếp.
- Xin cho được gặp ông giám đốc?
- Tôi là giám đốc đây. Tôi có thể giúp ǵ ông?
- Michael Hudson, cảnh sát quốc tế. - Robert ch́a ra một tấm thẻ.
- Tôi có thể làm ǵ cho ông được, ông Hudson?
- Một số hăng hàng không quốc tế đang phàn nàn về việc giảm giá vé bất hợp pháp ở châu Âu, và ở Rome nói riêng. Thể theo công ước quốc tế…
- Ông Hudson, tôi xin lỗi, nhưng Hàng không Thuỵ Sĩ không có cho giảm giá. Mọi người đều phải trả theo giá đă công bố…
- Tất cả hả?
- Tất nhiên là trừ những nhân viên của hăng.
- Các ông không giảm giá cho các giáo sĩ à?
- Không. Với hăng nầy, họ phải trả cả vé.
- Cám ơn ông đă dành thời giờ. - Và Robert bước ra.
 
o0o
 
Chỗ dừng tiếp theo - Và cũng là hy vọng cuối cùng của anh - là hăng Alitalia.
- Có chuyện giảm giá bất hợp pháp không? - Ông giám đốc sững người nh́n Robert, kinh ngạc. - Chúng tôi chỉ giảm giá cho nhân viên của chúng tôi.
- Các ông không giảm giá cho các tu sĩ à?
Gương mặt ông giám đốc sáng lên.
- A, chuyện đó th́ có: Nhưng đó không phải là bất hợp pháp. Chúng tôi đă có những thoả thuận với bên Nhà thờ.
Tim Robert rộn lên.
- Vậy đó nếu như một tu sĩ muốn bay đi từ Rome, chẳng hạn như đến Thuỵ Sĩ, th́ ông ta sẽ đến hăng nầy chứ?
- Ồ, vâng, như vậy ông ta sẽ đỡ tiền hơn.
Robert nói:
- Để có thông tin mới nhất cho các máy tính của chúng tôi, sẽ rất có ích nếu như ông có thể cho tôi biết bao nhiêu tu sĩ đă bay đến Thuỵ Sĩ trong hai tuần lễ qua. Ông có hồ sơ chứ?
- Vâng, tất nhiên. Để dễ cho chuyện thuế má.
- Tôi thật sự cần những thông tin đó.
- Ông muốn biết có bao nhiêu tu sĩ đă bay đi Thuỵ Sĩ trong hai tuần qua phải không ạ?
Đúng. Zurich hoặc Geneva.
- Xin đợi cho một chút. Tôi sẽ gọi từ máy tính ra.
Năm phút sau, ông giám đốc quay lại với một bản in từ máy tính.
- Trong hai tuần qua chỉ có duy nhất một tu sĩ bay bằng Alitalia đi Thuỵ Sĩ. - ông ta xem tờ giấy trong tay. - Ông ta rời khỏi Rome vào ngày 7, đi Zurich. Ông ta đăng kư bay trở về hai ngày sau đó.
- Tên ông ta? - Robert hít một hơi sâu.
- Cha Rometo Patrini.
- Địa chỉ?
Ông ta lại nh́n xuống.
- Ông ấy sống ở Orvieto. Nếu ông cần ǵ thêm. - Ông ta ngước nh́n lên, Robert đă đi khỏi.

Chương 25

Ngày thứ bảy.
 
Orvieto, Italia
 
Anh dừng xe tại một chỗ đỗ bên lề đường 71, và phía bên kia thung lũng, trên sười núi, là cái thành phố đó với cảnh quan tuyệt đẹp Đó là trung tâm Etruscan cổ với một nhà thờ lớn nổi tiếng thế giới, dăm nhà thờ khác và một tu sĩ, người đă chứng kiến vụ tai nạn của một vật thể bay lạ.
Thành phố vẫn nguyên vẹn qua năm tháng, với những đường phố lát đá và những ngôi nhà cổ duyên dáng, cùng với khu chợ trời nơi những người nông dân mang bán gà và rau quả tươi.
Robert t́m được một nơi để đỗ xe trên quảng trường Duomo. Anh băng ngang quảng trường và đi vào trong nhà thờ lớn Trong nhà thờ vắng ngắt, trừ một giáo sĩ vừa rời khỏi nơi điện thờ.

o0o

-
Xin lỗi Cha, - Robert nói. Tôi đang t́m kiếm một tu sĩ ở thành phố nầy: người đă ở Thuỵ Sĩ hồi tuần trước. Có thế Cha…

Vị tu sĩ sững lại, mặt đầy vẻ khó chịu.
- Tôi không thể nói với ông chuyện nầy.
- Tôi không hiểu. Tôi chỉ muốn t́m.
Robert ngạc nh́n ông ta ngạc nhiên.
- Ông ấy không ở nhà thờ nầy. Ông ấy từ nhà thờ San Giovenale.
Và vị tu sĩ đi nhanh ngang qua Robert. Tại sao ông ta lại thiếu thiện chí thế nhỉ?

o0o

Nhà thờ San Giovenale nằm ở khu Vecchio, một khu vực đầy màu sắc với những tháp chuông và những nhà thờ thời Trung cổ. Một tu sĩ trẻ tuổi đang chăm sóc mảnh vườn cạnh đó. Ông ta ngước nh́n lên khi Robert lại gần.

- Xin chào ông.
- Xin chào. Tôi đang t́m kiếm một tu sĩ, người đă ở Thuỵ Sĩ hồi tuần trước. Ông ấy…
- Phải, phải. Tội nghiệp Cha Patrini. Một điều khủng khiếp đă xảy đến với ông ấy.
- Tôi không hiều. Chuyện khủng khiếp ǵ vậy?
- Nh́n thấy cỗ xe của quỷ dữ. Đó là điều quá sức chịu đựng của ông ấy. Ông ấy đă bị một cơn sốc thần kinh, thật tội nghiệp.
- Tôi rất lấy làm tiếc về điều đó, - Robert nói. - Bây giờ ông ấy ở đâu? Tôi muốn nói chuyện với ông ấy.
- Ông ấy đang ở bệnh viện gần quảng trường San Patrizio, nhưng tôi ngờ là các bác sĩ sẽ không cho phép ai thăm ông ấy đâu.
Robert đứng đó, bối rối. Chẳng mấy ích lợi ǵ với một người đang bị thần kinh.
- Tôi hiểu. Cám ơn ông rất nhiều.

o0o

Bệnh viện đó là một toà nhà một tầng khiêm nhường ở gần ngoại ô thành phố. Anh dừng xe và bước vào trong một hành lang nhỏ. Có một y tá ngồi sau bàn đón tiếp.

- Xin chào, - Robert nói. - Tôi muốn gặp Cha Patrini.
- Rất tiếc, nhưng… điều đó là không thể được. Ông ấy không thể nói ǵ với bất kỳ ai.
Lúc nầy, Robert quyết không để bị chặn lại. Anh phải lần theo dấu vết mà giáo sư Schmidt đă trao cho anh.
- Cô không hiểu, - Robert nhẹ nhàng nói. - Cha Patrini yêu cầu gặp tôi. Tôi đă từ Orvieto đến đây theo yêu cầu của ông ấy.
- Ông ấy yêu cầu gặp ông?
- Phải. Ông ấy viết thư sang Mỹ cho tôi. Tôi đă đi ngần ấy dặm đường tới đây chỉ để gặp ông ấy thôi.
Cô y tá lưỡng lự.
- Tôi không biết nói thế nào. Ông ấy rất nặng.
- Tôi tin chắc là ông sẽ vui hơn khi thấy tôi.
- Bác sĩ không có ở đây… - Cô quyết định. - Thôi được ông có thể tới pḥng ông ấy, thưa ông, nhưng ông chỉ được phép ở đó vài phút thôi đấy.
- Tôi cũng chỉ cần có thế thôi, - Robert nói.
- Ông đi lối nầy.
Họ đi theo một hành lang ngắn, hai bên là những căn pḥng nhỏ, gọn gàng. Cô y tá dẫn Robert vào một trong những pḥng đó.
- Chỉ một vài phút thôi nhé, thưa ông.
- Cảm ơn.
Robert bước vào căn pḥng nhỏ bé. Người đàn ông đang nằm trên giường trông như một h́nh nhân nhợt nhạt trên tấm vải trải giường trắng toát. Robert lại gần ông ta và nhẹ nhàng nói:
- Thưa Cha…
Vị tu sĩ quay mặt để nh́n lên anh, và Robert chưa bao giờ nh́n thấy một nỗi thống khổ nào như thế trong mắt một con người.
- Thưa Cha, tên tôi là…
Ông ta túm lấy cánh tay Robert.
- Giúp tôi với, - Vị tu sĩ lầm bầm, - Ông phải giúp tôi. Ḷng tin của tôi đă mất. Cả đời tôi, tôi đă thuyết giảng về Chúa và Đức Tin, và bây giờ tôi biết là không có Chủa. Chỉ có quỷ sứ và nó đă đến để hại chúng ta…
- Thưa Cha, nếu Cha…
- Chính mắt tôi đă nh́n thấy mà. Có hai tên trong cái xe của quỷ sứ, nhưng sẽ c̣n nữa. Ôi! Những tên khác sẽ kéo đến. Hăy chờ xem. Tất cả chúng ta sẽ bị đày xuống địa ngục.
- Xin Cha hăy nghe tôi. Cái mà Cha nh́n thấy không phải là quỷ sứ. Đó là một con tàu vũ trụ mà.
Vị tu sĩ buông tay Robert và đột nhiên nh́n Robert với vẻ tỉnh táo hơn.
- Ông là ai? Ông muốn ǵ hả?
- Tôi đến đây để hỏi Cha về chuyến xe bus mà Cha đă đi ở đất Thuỵ Sĩ. - Robert nói.
- Chiếc xe bus. Giá mà tôi đă đừng đến gần nó. - Vị tu sĩ lại trở nên kích động.
Robert không muốn thúc ép ông ta, nhưng anh không có cách nào khác.
- Cha đă ngồi bên một người đàn ông trên chiếc xe đó. Một người Texas. Cha đă nói chuyện nhiều với người đó, Cha nhớ không?
- Một câu chuyện. Người Texas. Có, tôi nhớ.
- Ông ta có nói với Cha là ông ta sống ở đâu không?
- Phải, tôi có nhớ ông ta. Ông ta từ Mỹ đến.
- Đúng. Từ Texas. Ông ta có nói với Cha nhà ông ta ở đâu không?
- Có, có, ông ta có nói với tôi.
- Ở đâu thế, Cha? Nhà ông ta ở đâu?
- Texas. Ông ta nói về Texas.
- Đúng thế. - Robert gật đầu vẻ khuyến khích.
- Chính mắt tôi đă nh́n thấy chúng. Tôi mong Chúa đă làm cho tôi bị mù. Tôi…
- Thưa Cha, người đàn ông từ Texas. Ông ta có nói với Cha ông ấy ở đấy không? Ông ta có nhắc tới một cái tên nào không?
- Texas, có. Ponderosa.
Robert vẫn cố gắng.
- Đó là trên tivi. Đây là người đàn ông thật sự cơ mà. Ông ta ngồi cạnh Cha trên…
Vị tu sĩ lại hôn mê.
- Chúng đang đến đấy. Trận quyết chiến thiện ác đây rồi. Kinh Thánh nói dối. Chính quỷ dữ sẽ xâm chiếm trái đất nầy. - Lúc nầy ông ta đang hét lên thật to. - Nh́n ḱa. Nh́n ḱa. Tôi có thể nh́n thấy chúng.
Cô y tá vội vă bước vào. Cô nh́n Robert vẻ không bằng ḷng.
- Ông phải ra đi thôi, thưa ông.
- Tôi cần một phút nữa thôi.
- Không, thưa ông. Đủ rồi.
Robert nh́n vị tu sĩ một lần cuối. Ông ra vẫn lảm nhảm rời rạc. Robert quay người bước đi. Không c̣n có thể làm ǵ hơn được nữa. Anh đă cố hết sức để vị tu sĩ dẫn dắt anh đến người Texas kia, nhưng anh đă thua.
Robert trở ra xe và chạy về Rome. Rốt cuộc thế là xong. Những dấu vết duy nhất mà anh đă bỏ lại - nểu chúng có thể được coi là những dấu vết - là lời nhắc đến một phụ nữ Nga, một người Texas, và một người Hungary. Nhưng không có cách nào để t́m ra họ được. Nước cờ tàn. Thật là buồn khi đă đi xa đến thế nầy để rồi lại bị chặn lại. Giá mà ông tu sĩ tỉnh táo đủ lâu để cung cấp được cho anh vài thông tin cần thiết. Chỉ một chút nữa. Ông tu sĩ đă nói ǵ nhỉ?
Ponderosa. Ông tu sĩ già đă xem tivi quá nhiều và trong cơn mê sảng, rơ ràng là ông ta đă lẫn người Texas kia vào chương tŕnh "Bonanza" của một đạo diễn nổi tiếng trên tivi. Ponderosa, nơi gia đ́nh h bí ẩn Cartwirght sinh sống. Ponderosa. Robert giảm ga và từ từ dừng lại bên đường, những ư nghĩ vùn vụt trong đầu anh. Anh quay ngược xe lại và lao nhanh về hướng Orvieto.
Nửa giờ sau, Robert đang nói chuyện với người chủ quán của một quán nhỏ ở quảng trường Republica.
- Các ông có một thành phố thật đẹp. - Robert nói. - Thật thanh b́nh.
- Ồ vâng, thưa ông. Chúng tôi hoàn toàn hài ḷng với nơi đây. Ông đă bao giờ đến Italia trước đây chưa?
- Tôi có một phần của tuần trăng mật ở Rome.
Robert, anh đă làm cho tất cả những mơ ước của em trở thành sự thật. Từ hồi em c̣n là một con bé con, em đă muốn được đến Rome đấy?
- À Rome. Quá lớn. Quá ồn ào.
- Tôi công nhận.
- Ở nơi đây, chúng tôi sống cuộc sống b́nh dị nhưng chúng tôi hạnh phúc.
Robert b́nh thản nói:
- Tôi để ư thấy trên nhiều mái nhà ở đây có ăngten tivi.
- Ồ vâng, đúng thế. Chúng tôi hoàn toàn theo kịp thời đại trong lĩnh vực đó.
- Cái đó th́ rơ. Thành phố nầy nhận được bao nhiêu kênh vô tuyến?
- Duy nhất chỉ một.
- Tôi nghĩ là các ông có khá nhiều chương tŕnh tivi của Mỹ chứ?
- Không, không. Đây là một kênh của nhà nước. Ở đây chúng tôi chỉ có những chương tŕnh được thực hiện ở Italia thôi.
- Cám ơn. Trúng rồi.

o0o

Robert đặt điện thoại gọi cho Đô đốc Whittaker.

Một thư kư trả lời máy.
- Văn pḥng Đô đốc Whittaker đây.
Robert có thể h́nh dung ra căn pḥng. Nó thường là một chỗ kín đáo khuất mắt dành cho những người hết thời mà chính phủ không c̣n sử dụng vào việc ǵ được nữa.
- Xin cho tôi được nói chuyện với ngài Đô đốc? Sĩ quan Bellamy đây.
- Xin ông chờ một chút, ông chỉ huy.
Robert băn khoăn liệu có c̣n ai liên hệ ǵ nữa với Đô đốc không khi mà giờ đây, vị Đô đốc một thời đầy quyền lực kia đă là một thành viên của đội quân về vườn. Có thể là không.
- Robert, rất mừng là anh gọi lại. - Giọng ông già có vẻ mệt mỏi. - Anh đang ở đâu thế?
- Thưa ngài, tôi không thể nói được.
Một thoáng ngập ngừng.
- Tôi hiểu. Tôi có thể lâm ǵ cho anh không đây?
- Có, thưa ngài. Việc nầy thật bất tiện v́ tôi đà được lệnh không tiếp xúc với bất kỳ ai. Nhưng tôi cần được giúp đỡ. Tôi không biết ngài có thể kiểm tra một việc cho tôi được không?
- Chắc chắn là tôi có thể cố gắng. Anh muơn biết ǵ nào?
- Tôi cần biết liệu có một cái trại đâu đó ở Texas có tên là Ponderosa không?
- Như trong chương tŕnh Bonanza ấy à?
- Vâng, thưa ngài.
- Tôi có thể làm được, Tôi sẽ liên lạc với anh thế nào?
- Thưa Đô đốc, tôi nghĩ tốt hơn là tôi sẽ gọi lại cho ngài.
- Phải. Cho tôi một hoặc hai tiếng nhé. Tôi sẽ giữ việc nầy chỉ có hai chúng ta biết thôi.
- Cảm ơn ngài.
Dường như Robert cảm thấy sự mệt mỏi đă biến mất trong giọng nói của ông già. Ít nhất th́ ông cũng đă được yêu cầu làm một việc ǵ đó, cho dù rằng đó chỉ b́nh thường là việc t́m ra một cái trang trại.
Hai tiếng sau, Robert gọi lại cho Đô đốc Whittaker.
- Tôi đang đợi anh đây, - Vị Đô đốc nói. Trong giọng ông có vẻ hàl ḷng. - Tôi đă có thông tin mà anh muốn.
- Và sao? - Robert nín thở.
- Có một cái trại Ponderosa ở Texas. Nó ở ngay phía ngoài Waco. Chủ của nó là một ông Dan Wayne nào đó.
Robert thở ra nhẹ nhơm.
- Cám ơn ngài rất nhiều, thưa đô đốc, - Robert nói. - Tôi nợ ngài một bữa tối khi nào tôi trở về.
- Robert, tôi mong ngóng dịp đó.
Cú điện thoại tiếp theo của Robert là gọi cho tướng Hilliard.
- Tôi đă phát hiện một nhân chứng khác ở Italia. Cha Patrini.
- Một tu sĩ à?
- Vâng. Ở Orvieto. Ông ta đang nằm viện, rất nặng. Tôi e là giới chức trách Italia sẽ không thể nói ǵ được với ông ta.
- Tôi sẽ chuyển lời ông. Cảm ơn, ông sĩ quan.
Hai phút sau, tướng Hilliard đă đang nói chuyện điện thoại với Janus.
- Tôi vừa nghe sĩ quan chi huy Bellamy báo cáo.
- Nhân chứng mới nhất là một tu sĩ. Một cha Patrini nảo đó ở Orvieto.
- Lo chuyện đó đi.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc SIFAR.
Không trích chép.
Một bản duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận thế.
5. Cha Patrini - Orvieto.
Hết điện.
Trụ sở SIFAR nằm trên đường Pineta, ở ŕa ngoại ô phía nam thành Rome, trong một khu vực bao bọc bởi những nhà trại. Điều duy nhất có thể làm cho người qua đường chú ư tới toà nhà bằng đá trông đầy vẻ công nghiệp, b́nh thường kia với haỉ khối nhà lớn là bức tường cao vây quanh, trên có chăng dây thép gai và ở mỗi góc đều có một trạm gác. Nằm ẩn trong một khu quân sự, nó là một trong những cơ quan an ninh bí mật nhất trên thế giới mà người ta ít biết đến nhất. Có những tấm biển xung quanh khu nhà, trên ghi ḍng chữ: "Không bước qua giới hạn nầy".
Trong một căn pḥng kiểu Spartan trên tầng hai của toà nhà chính, đại tá Francesco Cesar đang xem bức điện khẩn mà ông ta vừa nhận được. Viên đại tá ở trạc tuổi ngoài năm mươi, với một vóc người khoẻ mạnh và gương mặt rỗ, ĺ lợm. Ông ta đọc bức điện đến lần thứ ba.
Vậy là sau cùng Chiến dịch Ngày Tận thế đă đang diễn ra. Thật may là chúng ta đă chuẩn bị cho điều nầy. Cesar nghĩ. Ông ta nh́n xuống bức điện một lần nữa. Một tu sĩ.

o0o

Đă quá nửa đêm khi một bà xơ đi ngang qua pḥng của các y tá trực đêm tại cái bệnh viện nhỏ ở Orvieto.

- Tôi đoán là bà ấy đang đến gặp bà Fillipi, - Cô y tá Tomasino nói.
- Hoặc bà ấy, hoặc ông già Rigano. Cả hai đều đang nguy kịch lắm rồi.
Bà xơ kia lặng lẽ đi ṿng qua các góc nhà và bước thẳng vào pḥng của vị tu sĩ. Ông ta đang ngủ vẻ yên ả, hai bàn tay gấp lại để trên ngực như thể đang cầu nguyện. Ánh trăng xuyên qua tấm rèm cửa, tạo thành một vệt sáng ngang mặt vị tu sĩ.
Bà xơ lấy từ dưới áo ra cái hộp nhỏ. Một cách thận trọng, bà ta lấy ra chuỗi hạt thuỷ tinh rất đẹp và để nó vào trong ḷng hai bàn tay ông tu sĩ già.
Trong khi sửa lại những hạt thuỷ tinh cho ngay ngắn, bà ta dùng một hạt quệt nhanh lên ngón tay cái của ông. Một vết xước mờ xuất hiện. Bà xơ lấy ra một cái lọ bé xíu có đầu nhỏ giọt và cẩn thận nhỏ ba giọt lên chỗ vết xước kia.
Chỉ cần vài phút để cái độc tố chết người kia phát huy tác dụng. Bà xơ thở dài trong khi làm dấu thánh trước người đă chết. Rồi bà bỏ đi, lặng lẽ như lúc đến.
Điện khẩn.
Tối mật.
SIFAR gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
5. Cha Patrini - Orvielo đă bị thủ liêu.
Hết điện.

Chương 26

Frank Johnson được lựa chọn bởi lẽ ông ta đă từng là một lính Mũ nồi xanh ở Việt nam và được đồng đội của ông ta gọi là Máy giết người. Ông ta thích giết chóc. Có động cơ làm việc và rất thông minh.
- Hoàn toàn phù hợp với chúng ta, - Janus nói. - Tiếp xúc với ông ta một cách thận trọng. Tôi không muốn để mất người nầy.
Cuộc gặp đầu tiên diễn ra trong trại lính. Một đại uư đang nói chuyện với Frank Johnson.
- Ông không phiền muộn ǵ về chính phủ của chúng ta à? - Viên đại uư hỏi. - Nó được điều hành bởi một nhúm những kẻ yếu đuối đang phung phí nguồn tài lực. Đất nước nầy cần có sức mạnh hạt nhân, nhưng những chính trị gia quỷ tha ma bắt kia đang ngăn chặn chúng ta xây dựng những nhà máy mới. Chúng ta lệ thuộc bọn Ảrập khốn kiếp về dầu lửa và chính phủ sẽ cho phép khai thác dầu ở ngoài khơi bờ biển chúng ta chứ? Ồ, không. Họ lo lắng cho những đàn cá hơn là cho chúng ta. Ông có nghĩ ǵ về chuyện đó không?
- Tôi hiểu ư ông, - Frank Johnson nói.
- Tôi biết là ông hiểu bởi v́ ông có đầu óc. Viên đại uư vừa nói vừa quan sát vẻ mặt Johnson. - Nếu như Quốc hội không làm ǵ để cứu vớt đất nước của chúng ta th́ một số nào đó trong chúng ta sẽ phải làm ǵ đó.
Trông Frank Johnson có vẻ lúng túng.
- Một số trong chúng ta à?
- Phải. - Bây giờ thế là đủ rồi, viên đại uư nghĩ. - Chúng ta sẽ nói về chuyện đó sau.
Buổi nói chuyện sau đi vào việc cụ thể hơn.
- Có một nhóm những người yêu nước muốn bảo vệ thế giới của chúng ta, ông Frank ạ. Họ là những vị có quyền lực lớn. Họ đă thành lập một Uỷ ban. Uỷ ban nầy có thể phải vượt qua một số đạo luật nào đó để công việc của nó đạt hiệu quả, nhưng mà sau cùng, th́ điều đó cũng đáng giá. Ông có quan tâm không?
- Tôi rất quan tâm. - Frank Johnson mỉm cười.
Đó là lúc bắt đầu. Buổi gặp sau diễn ra ở Ottawa, Canada, và Frank Johnson đă gặp một số thành viên trong Uỷ ban nầy… Họ đại diện cho những nhóm quyền lợi đầy thế lực ở chừng một chục nước.
- Chúng ta được tổ chức tốt, - một thành viên giải thích với Frank Johnson. - Chúng ta có một hệ thống chỉ huy nghiêm ngặt. Có các Pḥng Tuyên truyền, Tuyển chọn, Chiến thuật, Liên lạc… và một Đội biệt kích.
Ông ta nói tiếp.
- Gần như tất cả các tổ chức t́nh báo trên thế giới là một bộ phận của nó.
- Ư ông nói là những người đứng đầu của…?
- Không, không phải là những người đứng đầu.
- Các cấp phó. Những người trực tiếp biết chuyện ǵ đang xảy ra, và bỉết rơ nguy cơ nào mà các nước đang gặp phải.

o0o

Các cuộc họp diễn ra ở mọi nơi trên thế giới - Thuỵ Sĩ, Marốc, Trung Quốc, - Và Johnson có mặt đầy đủ.

Đó là sáu tháng trước lúc đại tá Johnson gặp Janus.
Viên tướng đă cho triệu tập ông ta.
- Tôi mới nhận được nhưng báo cáo rất tốt đẹp về ông, đại tá.
- Tôi ưa thích công việc của ḿnh, - Frank Johnson mỉm cười.
- Tôi cũng nghe như thế. Ông ở một vị trí rất thuận lợi để có thể giúp đỡ chúng tôi.
Frank Johnson ngồi thẳng người lên hơn.
- Tôi sẽ làm bất cứ việc ǵ có thể được.
- Tốt. Ở Trang trại, ông phụ trách việc giám sát đào tạo các điệp viên bí mật cho nhiều cơ quan khác nhau?
- Đúng thế.
- Và ông biết họ cùng những khả năng của họ.
- Rất tường tận.
- Điều tôi muốn ông làm là, - Janus nói, - tuyển chọn những người nào mà ông cảm thấy sẽ có ích nhất cho tổ chức của chúng ta. Chúng ta chỉ quan tâm đến những người tốt nhất.
- Đó là việc dễ dàng, - đại tá Johnson nói. - Không có vấn đề ǵ - Ông ta thoáng lưỡng lự. - Tôi băn khoăn…
- Ǵ vậy?
- Tôi có thể làm việc đó bằng tay trái của ḿnh. Tôi thật sự muốn làm hơn thế, một việc ǵ đó lớn hơn. - Ông ta dướn ḿnh về phía trước. - Tôi có nghe nói về Chiến dịch Ngày Tận thế. Đó mới chính là sân của tôi. Tôi muốn được tham gia, thưa ngài.
Janus ngồi nh́n ông ta hồi lâu. Rồi gật đầu.
- Được ông vào cuộc rồi đó.
- Cảm ơn ngài. - Johnson mỉm cười. - Ngài sẽ không phải ân hận ǵ.
Đại tá Frank Johnson sung sướng rời khỏi cuộc gặp.
Bây giờ th́ ông ta thừa để cho họ thấy ông ta có thể làm được những ǵ.


Chương 27

Ngày thứ tám.
 
Waco. Texas.
 
Dan Wayne có một ngày không vui. Mà chính xác th́ là một ngày vô cùng tệ hại. Ông vừa trở về từ toà án quận Waco, nơi ông phải đối mặt với các thủ tục về vỡ nợ. Vợ ông dan díu với tay bác sĩ trẻ của bà ta và đang làm thủ tục ly hôn ông với mục đích kiếm được một nữa tất cả những ǵ mà ông có (điều đó có nghĩa là không ǵ cả, như ông đă quả quyết với luật sư của bà ta). Và ông sẽ phải mất một trong những con ḅ đấu có hạng của ḿnh. Dan Wayne cảm thấy số mệnh thật đen đủi. Ông đă không làm ǵ để đến nỗi phải chịu tất cả những chuyện nầy. Ông là một người chồng tốt, một chủ trại giỏi giang. Ông ngồi lặng trong pḥng làm việc, ngẫm nghĩ về tương lai ảm đạm.
Dan Wayne là một người đàn ông kiêu hănh. Ông biết tất cả những lời đùa cợt về những người Texas to mồm, nói khoác một tấc đến trời, nhưng ông vẫn thật sự cảm thấy ḿnh có điều ǵ đó đáng hănh diện.
Ông sinh ra ở Waco, trong một khu vực nông nghiệp giàu có của châu thổ sông Brazos. Waco là một thị trấn hiện đại, nhưng vẫn phảng phất hương vị của quá khứ, thời mà nó h́nh thành, tồn tại và phát triển trên năm cây trụ: gia súc, bông, ngô, trường học và văn hoá. Wayne yêu mến Waco bằng tất cả trái tim và khối óc, khi ông gặp vị tu sĩ trên chuyến du lịch bằng xe bus ở Thuỵ Sĩ kia, th́ gần như ông đă nói suốt năm tiếng đồng hồ về cái thị trấn quê hương ḿnh.
Vị tu sĩ nói với ông là muốn rèn luyện tiếng Anh, nhưng thực ra, khi nghĩ lại, th́ hoá ra là gần như chỉ có một ḿnh ông nói cả câu chuyện.
- Waco có tất cả mọi thứ, - Ông ta đă tâm sự với vị tu sĩ Thời tiết của chúng tôi th́ tuyệt vời. Chúng tôi không cho phép trời quá nóng hay quá lạnh. Chúng tôi có hai mươi ba trường học trong vùng và có Đại học Baylor. Chúng tôi có bốn tờ báo, mười đài phát thanh và năm đài truyền h́nh. Chúng tôi có Pḥng truyền thống mà ông phải choáng cả người. Ư tôi nói, ở đó là lịch sử. Nếu ông thích câu cá, thưa Cha, th́ sông Brazos sẽ là nơi mà ông không thể quên. Rồi chúng tôi c̣n có một khu săn bắn và một trung tâm nghệ thuật lớn. Tôi cam đoan với ông, Waco là một trong những thành phố có một không hai trên thế giới. Ông phải đến thăm chúng tôi mới được.
Và vị tu sĩ già nhỏ bé đă mỉm cười, gật gật đầu, c̣n Dan Wayne nghi hoặc, không hiểu ông ta nghe được bao nhiêu tiếng Anh.
Dan Wayne đă thừa kế của người cha một ngàn mẫu đất trang trại, và đă làm đàn gia súc sinh sôi từ hai ngàn lên đến mười ngàn. Lại c̣n một con ngựa đua đáng giá cả một gia tài nữa. Vậy mà bọn khốn kiếp đang toan cướp đi tất cả của ông. Thị trường gia súc sụt xuống hoặc việc ông chậm trả tiền thế nợ đâu có phải là lỗi của ông. Các nhà băng đều hùa vào để làm hại ông và cơ hội duy nhất để ông ta tự cứu ḿnh là t́m ra được người mua lại trang trại, thanh toán cho các chủ nợ và giữ lại một chút tiền lăi…
Wayne đă nghe có một người Thuỵ Sĩ giàu có muốn mua một trang trại ở Texas, và ông ta đă bay đi Zurich để gặp người đó. Nhưng té ra đó chỉ là tṛ thả mồi bắt bóng. Cái trang trại trong đầu cái thằng cha công tử bột đó là một hay hai mẫu đất với một cái vườn rau nhỏ xinh xinh.
Đó là lư do v́ sao mà vô t́nh ông lại có mặt trên chuyến xe bus khi cái chuyện kỳ lạ kia xảy ra. Ông đă có đọc về chuyện đĩa bay, nhưng ông chưa bao giờ tin những chuyện đó cả. Giờ đây, nhờ Chúa, ông dứt khoát đă tin. Ngay sau khi ông trở về, ông gọi điện một chủ bút một tờ báo địa phương.
- Johnny, tôi mới nh́n thấy một cái đĩa bay thật sự với mấy xác người kỳ quặc chết trong đó.
- Thế hả? Ông có chụp tấm ảnh nào không thế, Dan?
- Không. Tôi có chụp mấy tấm, nhưng hỏng cả.
- Không sao. Chúng tôi sẽ cho một tay nhiếp ảnh tới đó. Nó đă trên trang trại của ông phải không?
- Ồ không. Thực ra là nó ở Thuỵ Sĩ kia.
Một thoáng im lặng.
- Ồ ra vậy, nếu như ông t́nh cờ nh́n thấy nó trên trang trại của ông, Dan, th́ gọi lại cho tôi nhé.
- Khoan. Một thằng cha cũng nh́n thấy, nó sẽ gửi cho tôi một tấm ảnh mà…
Nhưng Johnny đă gác máy.
Thế đó.
Gần như là Wayne mong có một cuộc xâm lăng của những người từ hành tinh khác. Có thể họ sẽ giết sạch những tên chủ nợ khốn kiếp của ông. Ông nghe thấy có tiếng xe đang chạy vào và nhỏm dậy bước đến bên cửa sổ nh́n ra. Có vẻ là một gă ở miền Đông.
Có thể lại là một chủ nợ khác. Những ngày nầy họ ở đâu ra mà lắm thế cơ chứ.
Dan Wayne mở cửa trước.
- Xin chào.
- Ông là Daniel Wayne…
- Bạn bè gọi tôi là Dan. Tôi có thể làm ǵ cho ông thế?
Dan Wayne không hề như Robert đă h́nh dung; một mẫu người Texas vạm vỡ. Ông ta thanh mảnh, dáng quư tộc và điều bộ hơi rụt rè. Điều duy nhất thể hiện gốc gác của ông ta là giọng nói.
- Tôi không biết liệu có thể xin ông vài phút được không?
- Tôi cũng chỉ c̣n ngần ấy thời gian, - Wayne nói. - Nhân tiện xin được hỏi, ông không phải là một chủ nợ ư?
- Một chủ nợ ấy à? Không?
- Tốt. Xin mời vào.
Hai người cùng ngồi ở pḥng khách. Đó là một căn pḥng lớn với đồ đạc rất tiện nghi theo kiểu miền Tây.
- Ông có một chỗ ở đẹp quá, - Robert nói.
- Dạ. Tôi được sinh ra trong ngôi nhà nầy. Tôi có thể mời ông uống ǵ nhỉ? Một chút ǵ mát, được không?
- Không, cảm ơn. Tôi không khát.
- Xin mời ngồi.
- Robert ngồi xuống chiếc đi văng bọc da mềm mại.
- Ông gặp tôi có việc ǵ thế?
- Tôi được biết là ông có đi một tuyến du lịch bằng xe bus ở Thuỵ Sĩ hồi tuần trước?
- Đúng thế. Cô vợ cũ thuê người theo dơi tôi à? Ông không làm việc cho cô ta đấy chứ?
- Không, thưa ông.
- Ồ, - ông ta chợt hiểu ra. - Ông quan tâm đến cáí đĩa bay kia chứ ǵ. Chưa bao giờ tôi nh́n thấy ǵ khủng khiếp đến thế. Nó luôn thay đổi màu sắc. Và những sinh vật đă chết kia nữa. - Ông ta rùng ḿnh. - Tôi vẫn nằm mê thấy nó.
- Ông Wayne, ông có thể nói với tôi bất kỳ điều ǵ về những người khách trên cùng chuyến xe đó được không?
- Xin lỗi. Tôi không thể giúp ǵ ông. Tôi đi có một ḿnh.
- Tôi biết, nhưng ông có nói chuyện với những người khách khác chứ, phải không nào?
- Nói thật với ông, tôi rất nặng đầu nặng óc. Tôi đă chẳng chú ư mấy tới bất kỳ ai khác.
- Ông có nhớ bất kỳ chuyện ǵ về bất kỳ ai trong số họ không?
Day Wayne im lặng một lát.
- Ồ có một tu sĩ người Italia. Tôi có nói chuyện với ông ta một chút. Ông ta có vẻ là một người dễ mến. Tôi muốn nói để ông biết là cái đĩa bay kia thật sự làm cho ông ta choáng váng. Ông ấy cứ nói măi về chuyện quỷ sứ.
- Ông có nói chuyện với ai khác nữa không?
Day Wayne nhún vai.
- Không hẳn… Chờ một phút. Tôi c̣n tṛ chuyện với ông chủ một nhà băng ở Canada. - Ông ta đưa lưỡi liếm môi. - Nói thật với ông, tôi đang có một chút khó khăn tài chính ở đây, với cái trang trại nầy. Có thể là tôi mất nó. Tôi ghét cái đám chủ nhà băng khốn kiếp kia. Bọn chúng toàn là những kẻ hút máu. Dù sao th́ tôi nghĩ là cái thằng cha nầy có thể khác. Khi biết ông ta là chủ nhà băng, tôi đă nói chuyện với ông ta về việc thu xếp một kiểu tín dụng nào đó ở đây. Nhưng hắn cũng giống như tất cả bọn chúng thôi. Hắn không thể nào hờ hững hơn thế được.
- Ông nói hắn ta ở Canada à?
- Phải, Fort Smith, trên măi vùng Các lănh thổ Tây Bắc. Tôi e rằng đó là tất cả những ǵ tôi có thể nói với ông rồi đấy.
Robert cố giấu tâm trạng kích động của ḿnh.
- Ông Wayne, xin cảm ơn ông, ông đă giúp ích rất nhiều. - Robert đứng dậy.
- Thế thôi à?
- Thế thôi.
- Ông có muốn ở lại dùng bữa tối không?
- Không, cảm ơn. Tôi phải lên đường thôi. Chúc may mắn trong chuyện trang trại nhé.
- Cảm ơn.
Fort Smith, Canada. Các lănh thổ Tây Bắc.

o0o

Robert đợi cho đến khi tiếng Hilliard xuất hiện trên máy.

- Có ông sĩ quan hả?
- Tôi đă t́m được một nhân chứng khác. Dan Wayne. Ông ta là chủ trại Ponderosa, một trang trại bên ngoài Waco, Texas.
- Rất tốt. Tôi sẽ để cho cơ quan của chúng tôi ở Dallas nói chuyện với ông ta.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc CIA:
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
6. Daniel Wayne - Waco.
Hết.
Tại Langley, Virginia, phó giám đốc Cục T́nh báo Trung ương đang trầm ngâm xem bức điện số 6. Công việc thật trôi, chảy. Sĩ quan Bellamy đang làm việc tuyệt hảo. Janus đă đúng. Người đàn ông đó luôn luôn đúng. Và ông ta có quyền lực để những mong muốn của ta được thực hiện. Bao nhiêu quyền lực… Ông ta nh́n bức điện một lần nữa. Chuyện nầy sẽ không khó khăn ǵ. Rồi nhấn cái nút.

o0o

Hai người đàn ông đến trang trại bằng chiếc xe chở hàng màu xanh sẫm.

Họ đỗ xe ngoài sân, ra khỏi xe và thận trọng nh́n quanh. Ư nghĩ đầu tiên của Dan Wayne là họ đến để tịch biên cái trại. Ông ta mở cửa trước cho họ.
- Ông là Dan Wayne?
- Vâng. Tôi đây.
Ông ta chỉ mới nói được có thế.
Người đàn ông thứ hai đă bước ṿng lại phía sau và cầm một cái b́nh da dùng để đựng rượu đánh mạnh vào đầu ông ta.
Một trong hai người đàn ông với vóc cao to hơn xốc ông chủ trại đă bất tỉnh lên vai và mang ông ta ra ngoài chuồng ḅ. Hai người đàn ông phớt lờ những con vật và đi thẳng vào phía trong cùng. Trong cái khoang đó là một con ngựa giống màu đen tuyệt đẹp.
Người đàn ông cao to nói:
- Đây chỗ nầy.
- Anh ta hạ Wayne xuống.
Người đàn ông thứ hai bước lại gần cửa khoang nhốt con ngựa, và đánh nó bằng cái gậy có điện. Nó lồng lên, hất tung hai chân sau. Một cú đánh mạnh hơn nữa vào mũi nó. Nó lồng lên điên cuồng, trong cái không gian chật chội, va đập vào bốn góc, răng nhe ra và ḷng trắng mắt ngầu lên.
Nào, - người đàn ông cao to nhấc Dan lên và quăng ông ta vào trong cái khoang của con ngựa đực.
Họ đứng nh́n cái quang cảnh đẫm máu trong vài giây rồi hài ḷng bỏ đi.
Điện khẩn.
Tối mật.
Phó giám đốc CIA gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
6. Daniel Wayne - Waco - Đă bị thủ tiêu.
Hết.

Chương 28

Ngày thứ chín.
 
Fort Smith, Canada.
 
Fort Smith nằm ở vùng Các lănh thổ Tây Bắc là một thị trấn thịnh vượng với hai ngh́n dân phần đông là chủ trại và những người chăn nuôi gia súc cùng với một số ít thương nhân. Khí hậu ở đây khắc nghiệt, với những mùa đông đài và băng giá, c̣n bản thân thị trấn nầy là một bằng chứng sống động đối với thuyết Darwin về sự tồn tại của những ǵ thích nghi nhất.
William Mann là một trong những sinh vật thích nghi đó, một kẻ sống sót. Ông ta sinh ra ở Michigan, nhưng hồi ngoài ba mươi tuổi, đă đến Fort Smith trên một chiếc tàu đánh cá và cho rằng cộng đồng nơi đây cần có một nhà băng tốt hơn. Ông ta đă chộp được cơ hội. Ở đó chỉ c̣n một nhà băng khác nữa và William Mann mất không đầy hai năm để đẩy đối thủ của ḿnh ra ngoài cuộc đấu. Mann điều hành nhà băng rất đúng cách. Vốn say mê toán học, ông ta coi sóc để sao cho những con số luôn luôn là có lợi cho ḿnh. Ông rất hay nói tới câu chuyện đùa về một người đàn ông đến một ông chủ nhà băng mượn tiền cho một ca mổ khẩn cấp cho đứa con nhỏ của ḿnh. Khi người vay tiền nói không có ǵ thế chấp, ông chủ nhà băng bèn đuổi ông ta ra.
- Tôi sẽ đi, - người đàn ông nói, - nhưng tôi muốn bảo cho ông biết rằng cả đời tôi chưa bao giờ thấy ai nhẫn tâm như ông cả.
- Đợi một chút, - Ông chủ nhà băng đáp lại. - Tôi sẽ cho ông một khả năng nầy. Một trong hai con mắt tôi làm bằng thuỷ tinh. Nếu ông có thể nói đó là bên mắt nào, th́ tôi sẽ cho ông vay.
- Con mắt trái của ông. - Ngay lập tức, ông vay tiền đáp.
- Không ai biết chuyện nầy cả. Làm sao mà ông có thể đoán được? - Ông chủ nhà băng kinh ngạc.
- Thật dễ thôi. Trong một thoáng, tôi tưởng là đă thấy một ánh nh́n thông cảm ở con mắt bên trái, bởi vậy tôi biết nó là con mắt thuỷ tinh.
Câu chuyện đó, đối với William Mann, là bài học tốt cho một nhà kinh doanh. Người ta không thể buôn bán trên cơ sở sự thông cảm. Phải nh́n xuống mức thấp nhất. Trong khi các nhà băng khác ở Canada và Mỹ đổ liểng xiểng th́ nhà băng của William Mann mạnh hơn bao giờ hết. Nguyên tắc của ông ta rất đơn giản: Không cho vay tín dụng để khởi đầu công việc làm ăn. Không đầu tư với những trái phiếu vô tích sự. Không cho những người láng giềng vay, dù họ đang có đứa con cần được giải phẫu gấp.
Mann hết sức kinh hăi trước hệ thống nhà băng Thuỵ Sĩ Những ông thần giữ của ở Zurich là chủ của các chủ nhà băng. Bởi vậy, một hôm, William Mann đă quyết định phải đi Thuỵ Sĩ, trao đổi với một vài ông chủ nhà băng ở đó để xem ông ta c̣n thiếu sót ǵ không, c̣n cách nào để có thể vắt thêm từng xu Canada được không. Ông ta đă được tiếp đón tử tế, nhưng rốt cuộc th́ cũng không học được ǵ thêm. Các phương thức kinh doanh ngân hàng của ông ta là đáng ngưỡng mộ, và các ông chủ nhà bằng Thuỵ Sĩ đă không hề ngần ngại nói ra điều đó.
Hôm phải lên đường trở về, Mann quyết định tự cho ḿnh một cuộc du ngoạn trên dăy Alps. Chuyến đi thật chán ngắt. Phong cảnh th́ đẹp, nhưng cũng chẳng hơn ǵ cảnh quan Fort Smith. Một trong số những du khách, một người Texas, đă cả gan toan thuyết phục ông ta cấp tín dụng cho một cái trang trại đang vỡ nợ: ông ta đă cười vào mũi gă. Điều duy nhất trong chuyến đi được coi là có chút thích thú, chính là vụ tai nạn của cái gọi là đĩa bay kia. Trong một giây, Mann đă không tin vào sự thật đó. Ông ta tin đó là do chính phủ Thuỵ Sĩ bày đặt ra để gây ấn tượng cho khách du lịch. Ông ta đă từng đến Thế giới Walt Disney, và đă nh́n thấy những điều tương tự, trông th́ như thật nhưng lại là giả. Đó là con mắt thuỷ tinh của Thuỵ Sĩ, ông ta mỉa mai thầm nghĩ.
William Mann sung sướng được trở về nhà.
Từng phút của ông chủ nhà băng nầy đều được ấn định tỉ mỉ cho mỗi ngày làm việc, và khi viên thư kư bước vào nói có một người lạ muốn được gặp, th́ ư nghĩ đầu tiên của Mann là mời ông ta đi.
- Ông ta muốn ǵ?
- Ông ta nói muốn phỏng vấn ông. Ông ta đang viết một bài báo về các chủ nhà băng.
Đó lại là vấn đề hoàn toàn khác. Sự xuất hiện đúng cách là tốt cho công cuộc kinh doanh. William Mann chỉnh lại chiếc áo khoác, vuốt tóc ngay ngắn, và nói:
- Đưa ông ta vào.
Khách là một người Mỹ, ăn mặc sang trọng, điều đó chứng tỏ ông ta làm việc cho một tạp chí hoặc một tờ báo lớn.
- Ông ỉà Mann phải không ạ?
- Phải.
- Tôi là Robert Bellamy.
- Thư kư của tôi nói rằng ông muốn viết một bài báo về tôi.
- Ồ không phải là hoàn toàn về ông, - Robert nói. - Nhưng tất nhiên là ông sẽ nổi bật trong đó. Tờ báo của tôi.
- Tờ nào vậy?
- Nhật báo Wall Strees.
- À thế th́ tuyệt vời.
- Tờ Nhật báo cảm thấy rằng hầu hết các chủ nhà băng đều quá xa rời với những ǵ đang xảy ra trên thế giới. Họ ít khi di chuyển, họ không chịu đi tới những nước khác. Trái lại, thưa ông Mann, ông có tiếng là rất hay đi.
- Tôi nghĩ là như vậy, - Mann nói một cách khiêm nhường. - Thực tế là tôi vừa mới trở về từ chuyến đi Thuỵ Sĩ tuần trước.
- Thật thế ư? Ông có hài ḷng với nó không?
- Có. Tôi đă gặp gỡ một vài chủ nhà băng ở đó. Chúng tôi đă thảo luận về các vấn đề kinh tế thế giới.
Robert đă rút ra một cuốn sổ và đang ghi chép.
- Ông có thời gian giải trí không?
- Không hẳn. Ờ, tôi có một chuyến đi du ngoạn bằng xe bus. Trước đây, tôi chưa bao giờ được thấy dăy Alps.
Robert ghi chép thêm một chút.
- Một chuyến du lịch. Đó chính là cái mà chúng tôi đang t́m kiếm, - Robert nói đầy vẻ khuyến khích. - Tôi h́nh dung là ông đă gặp nhiều người đáng mến trên chuyến xe bus đó.
- Đáng mến ư? - Ông ta nghĩ đến cái người đàn ông Texas toan vay tiền. - Không hẳn là như thế.
- Ô?
Mann nh́n ông khách. Tay phóng viên nầy rơ ràng là chờ ông ta nói thêm. "Tất nhiên là ông sẽ nổi bật trong đó"
- Có một cô gái người Nga.
- Thế ư? Hăy nói với tốt về có ta. - Robert ghi vào sổ.
- Ồ, chúng tôi bắt chuyện với nhau, và tôi đă giải thích cho cô ta hiểu nước Nga lạc hậu như thế nào và đang hướng tới những khó khăn khủng khiếp ra sao, trừ phi họ thay đổi.
- Hẳn là cô ta bị gây ân tướng rất mạnh, - Robert nói.
- Ồ có chứ. Có vẻ là một cô gái thông minh. Nghĩa là với người Nga. Ông biết đấy, tất cả họ đều bị cô lập quá. Cô ta có nói tên không?
- Không, à…, khoan nào. Olga ǵ đó.
- Cô ta có ngẫu nhiên nói là từ đâu tới không?
- Có. Cô ta làm việc tại một thư viện lớn ở Kiev.
Đó là chuyến đi nước ngoài đầu tiên của cô ấy, tôi đoán, là nhờ có cải tổ. Nếu như ông muốn biết ư kiến của tôi… - Ông ta ngừng lời để cho Robert ghi lại - Về mặt chính trị, Gorbachev đi quá nhanh, c̣n về mặt kinh tế th́ ông ta lại đi quá chậm.
- Thật là kỳ lạ. - Robert lẩm bẩm.
Anh bỏ ra nửa giờ nữa với tay chủ nhà băng, nghe những b́nh luận chủ quan của ông ta về đủ mọi thứ, từ Thị trường chung đến kiểm soát vũ trang. Anh đă không thể có thêm thông tin ǵ về những hành khách khác.

o0o

Khi Robert trở về khách sạn, anh gọi ngay cho tướng Hilliard.

- Xin chờ một chút, ông chỉ huy Bellamy.
- Anh nghe thấy một loạt tiếng lách cách, và rồi tiếng tướng Hilliard vang lên.
- Có! Ông sĩ quan?
- Thưa tướng quân, tôi vừa t́m ra một hành khách nữa.
- Tên?
- William Mann. Ông ta có một nhà băng ở Fort Smith, Canada.
- Cảm ơn. Tôi sẽ báo cho giới chức Canada nói chuyện với ông ta ngay lập tức.
- Nhân thể có việc là ông ta trao cho tôi một manh mối khác. Tối nay tôi sẽ phải bay đi Nga. Tôi cần có một thị thực của Intourist Nga.
- Ông đang gọi từ đâu đấy?
- Fort Smith.
- Dừng lại khách sạn Visigoth ở Stockholm. Sẽ có một phong b́ cho ông ở chỗ tiếp tân.
- Cảm ơn ngài.

o0o

Vào lúc 11 giờ đêm hôm đó, chuông cửa nhà William Mann réo vang. Ông ta không hề đợi ai, và càng không ưa những khách viếng thăm bất ngờ. Người quản gia đă nghỉ, và vợ ông ta đang yên giấc trong pḥng riêng trên gác. Khó chịu, Mann ra mở cửa. Hai người đàn ông mặc đồ đen đứng sững trước ông.

- Ông là William Mann phải không?
- Phải.
Một trong hai người kia rút ra tấm căn cước.
- Chúng tôi ở Ngân hàng Canada. Chúng tôi có thể vào được không?
- Có chuyện ǵ vậy? - Mann chau mầy.
- Chúng tôi muốn thảo luận ở trong nhà, nếu như ông không phản đối.
- Được - Ông ta dẫn họ vào pḥng khách.
- Mới đây ông đến Thuỵ Sĩ phải không?
- Câu hỏi làm cho ông ta bị bất ngờ.
- Cái ǵ? Phải, nhưng có chuyện quái quỷ ǵ thế?
- Trong thời gian ông đi vắng, chúng tôi đă kiểm tra sổ sách của ông, ông Mann. Ông có biết là tại ngân hàng của ông thiếu hụt một triệu đô la không?
William Mann nh́n hai người đàn ông, thất kinh.
- Các ông nói cái ǵ vậy? Tuần nào tôi cũng đích thân kiểm tra sổ sách mà. Chưa bao giờ thiếu một đồng xu nào cả.
- Một triệu đô la, thưa ông Mann. Chúng tôi nghĩ là ông phải chịu trách nhiệm biển thủ số tiền đó.
Mặt đỏ bừng lên, Mann thấy ḿnh lắp bắp.
- Sao, sao các người dám… Cút khỏi đây ngay trước khi tao gọi cảnh sát.
- Điều đó chẳng có lợi ǵ cho ông cả. Cái chúng tôi muốn ở ông là phải biết hối hận.
Lúc nầy, ông ta nh́n họ chằm chằm, tức tối.
- Hối hận? Hối hận chuyện ǵ hả? Các người điên rồi.
- Không đâu, thưa ông.
Một trong hai người đàn ông rút ra một khẩu súng.
- Ông Mann, ngồi xuống.
- Ôi, lạy Chúa! Ḿnh bị cướp rồi.
- Nầy, - Mann nói, - hăy lấy bất kỳ thứ ǵ các người muốn. Không cần phải bạo hành và…
- Xin mời ngồi xuống.
Người đàn ông thứ hai bước đến bên tủ rượu. Nó bị khoá. Hắn đập vỡ tấm kính và lấy ra một cái cốc uống nước lớn, rót đầy rượu và mang đến chỗ Mann đang ngồi.
- Uống đi. Nó sẽ làm cho ông thấy thoải mái.
- Tôi, tôi không bao giờ uống sau bữa tối. Bác sĩ của tôi…
- Uống đi, nếu không cái ly sẽ đầy óc của ông đấy. - Gă kia dí súng vào thái dương Mann.
Bây giờ th́ Mann hiểu là ḿnh đang ở trong tay hai thằng điên. Ông ta run run cầm cốc rượu lên và uống một ngụm.
- Uống cạn đi.
Ông ta uống một ngụm lớn hơn.
- Các các ông muốn ǵ? - Ông ta cất cao giọng, hy vọng rằng bà vợ có thể nghe thấy và đi xuống nhà, nhưng đó chỉ là một mong muốn tuyệt vọng. Ông biết rơ bà luôn ngủ say như chết. Rơ ràng là hai người nầy đến để cướp bóc. Tại sao họ không vơ vét rồi chuồn đi nhỉ?
- Muốn lấy ǵ th́ lấy, - Ông ta nói. - Tôi sẽ không ngăn trở ǵ.
- Uống nốt đi.
- Không cần phải thế nầy. Tôi…
- Uống nốt đi.
Gă đàn ông đánh mạnh vào phía trên tai, Mann kêu lên đau đớn.
Ông ta uống nốt chỗ Wishky c̣n lại và cảm thấy choáng váng.
- Két của tôi ở trong pḥng ngủ trên gác, - Ông ta nói, giọng bắt đầu líu lại. - Tôi sẽ mở nó cho các anh. - Có thể điều đó sẽ làm cho vợ ḿnh thức giấc và bà ta sẽ gọi điện cho cảnh sát.
- Không vội ǵ, - gă cầm súng nói. - Ông có nhiều thời gian để uống.
Người thứ hai đi lại chỗ tủ rượu và rót đầy một ly khác.
- Đây!
- Không, thật mà, - William Mann phản đối. - Tôi không muốn.
Ly rượu được ấn vào tay.
- Uống đi.
- Tôi thật sự không…
Một quả đấm giáng vào chỗ bị đáng súng đập. Mann suưt ngất đi v́ đau đớn.
- Uống đi.
Thôi được nếu như đó là điều chúng mầy muốn th́ sao lại không nhỉ? Cơn ác mộng nầy càng qua nhanh càng tốt. Ông ta uống một ngụm lớn và đưa tay bịt miệng.
- Nếu như tôi uống nữa, tôi sẽ nôn mất.
- Nếu như mà nôn, tôi sẽ giết ông. - Gă kia nói ngay.
Mann ngước nh́n hắn, rồi gă cùng đi với hắn. Dường như cứ mỗi tên biến thành hai vậy.
- Các người muốn ǵ cơ chứ? - Ông ta lẩm nhẩm.
- Ông Mann, chúng tôi đă nói rồi. Chúng tôi muốn ông hối hận.
- Được Tôi hối hận. - William Mann ngật ngưỡng gật đầu.
Hai gă mỉm cười.
- Ông thấy đấy, đó là tất cả những ǵ chúng tôi yêu cầu Bây giờ… - Hắn ấn một mẩu giấy vào tay Mann. - Tất cả những ǵ ông phải làm là viết. Tôi xin lỗi. Hăy tha thứ cho tôi…
- Có thế thôi hả? - William ngước mắt lên vẻ u muội.
- Thế thôi. Và rồi chúng tôi sẽ đi khỏi đây.
Ông ta đột nhiên cảm thấy phấn chấn. Vậy là chuyện chỉ có thế Họ là những kẻ cuồng tín. Ngay sau khi họ đi, ḿnh sẽ gọi cảnh sát và cho bắt hết. Ḿnh sẽ kiện để những kẻ khốn kiếp nầy bị treo cổ.
- Viết đi ông Mann.
Ông ta thấy khó tập trung đầu óc.
- Anh nói anh muốn tôi viết ǵ hả?
- Hăy viết, "Tôi xin lỗi. Hăy tha thứ cho tôi".
- Phải. - Ông ta cầm bút một cách khó khăn, cố tập trung và bắt đầu viết. "Tôi xin lỗi. Hăy tha thứ cho tôi!"
Gă nhặt mảnh giấy từ tay Mann, những ngón tay cầm sát mép giấy.
- Ông Mann, thế là tốt. Thấy dễ dàng chưa?
Căn pḥng bắt đầu quay cuồng.
- Phải. Cảm ơn. Tôi đă hối hận. Bây giờ th́ các anh đi chứ?
- Tôi thấy là ông thuận tay trái?
- Sao cơ?
- Ông thuận tay trái.
- Đúng.
- Gần đây, vùng nầy có nhiều tội phạm, ông Mann. Chúng tôi sẽ để cho ông giữ khẩu súng nầy.
Mann cảm thấy một khẩu súng được đặt vào bàn tay trái ḿnh - Ông có biết sử dụng một khẩu súng như thế nào không?
- Không.
- Rất đơn giản. Ông dùng như thế nầy nhé… - Gă ta đàn ông nâng khẩu súng lên thái dương William và miết ngón tay của ông chủ nhà băng lên c̣ súng.
Một tiếng nổ bị bóp nghẹt. Mẩu giấy dính máu được thả xuống sàn nhà.
- Thế là xong, - một trong hai gă nói. - Chúc ngủ ngon, ông Mann.
Điện khẩn.
Tối mật.
CGHQ gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
7. William Mann - Fort Smih - Đă bị thủ tiêu
Hết.

o0o

Ngày thứ mười.

Fort Smith, Canada.
Sáng hôm sau, các nhân viên thanh tra ngân hàng báo cáo về việc mất một triệu đô la tại nhà băng của Mann. Cảnh sát đă xếp cái chết của Mann vào dạng tự sát.
Khoản tiền bị mất kia chẳng bao giờ được t́m thấy.

Chương 29

Ngày thứ mười một.
 
Brussels, 3 giờ 00.
 
Tướng Shipley, chỉ huy trưởng tại Bộ tư lệnh khối NATO, được người sĩ quan phụ tá của ông đánh thức dậy.
- Thưa tướng quân, tôi xin lỗi v́ phải đánh thủc ngài, nhưng dường như chúng ta đang có t́nh h́nh báo động.
Tướng Shipley dụi mắt cho hết ngái ngủ. Đêm trước, ông đă phải thức khuya để tiếp đón các Thượng nghị sĩ từ Mỹ tới thăm.
- Có chuyện ǵ vậy Billy?
- Tôi vừa nhận được tin báo từ đài ra-đa , thưa ngài. Hoặc là tất cả các thiết bị của chúng ta trở nên điên loạn, hoặc là chúng ta đang có những người khách lạ.
Tướng Shipley bật ra khỏi giường.
- Nói với họ là năm phút nữa tôi sẽ tới.

o0o

Căn pḥng ra-đa  mờ tối đầy kín các sĩ quan và binh sĩ tập hợp xung quanh các màn ảnh ra-đa  sáng bừng đặt ở chính giữa. Họ quay lại và đứng nghiêm khi ông tướng bước vào.

- Nghỉ. - Ông ta bước tới viên sĩ quan trực ban, đại uư Muller. - Lewis, có chuyện ǵ thế?
Đại uư Muller đưa tay vuốt đầu.
- Tôi thua. Ngài có bao giờ thấy một máy bay nào có thể bay với tốc độ 22 ngh́n dặm một giờ, đột ngột dừng lại, và rồi bay theo hướng ngược lại không?
- Anh đang nói cái ǵ vậy hả? - Tướng Shipley trợn mắt lên.
Căn cứ vào màn ảnh ra-đa  của chúng ta th́ đó chính là những ǵ diễn ra trong suốt nửa giờ đồng hồ qua. Lúc đầu, chúng tôi nghĩ đó có thể là một thứ thiết bị điện tử ǵ đó đang được thử nghiệm, nhưng chúng tôi đă kiểm tra lại với người Nga, người Anh, người Pháp, và họ cũng ghi nhận được cùng một thứ như vậy trên các màn h́nh ra-đa  của họ.
- Vậy th́ không thể là chuyện trục trặc trong thiết bị được, - tướng Shipley nặng nề nói.
- Vâng, thưa ngài. Trừ phi giả thiết rằng tất cả các ra-đa  trên thế giới đều bất chợt trở nên điên rồ hết.
Bao nhiêu cái đó đă xuất hiện trên màn ra-đa ?
- Hơn một chục. Chúng chuyển động nhanh đến mức chỉ bám theo cũng đă khó khăn lắm rồi. Chúng tôi ghi nhận được chúng, và chúng lại biến mất ngay. Chúng tôi đă loại trừ các hiện tượng khí quyển, khí tượng, sao băng, bóng thám không, và mọi phương tiện bay mà chúng ta đă biết. Tôi đang tính cho vài máy bay cất cánh, nhưng những vật thể nầy, không biết là thứ ǵ nữa, bay cao khủng khiếp đến mức chúng ta không bao giờ có thể đến gần chúng được.
Tướng Shipley bước lại một trong những màn ra-đa .
Hiện bây giờ trên màn h́nh của các anh có cái ǵ không?
- Thưa không. Chúng đi rồi. - Anh ta ngập ngừng một giây. - Nhưng, thưa tướng quân, tôi có cảm giác hăi hùng là chúng sẽ c̣n trở lại.

Chương 30

Ottawa, 5 giờ 00.
 
Khi Janus đọc dứt bản báo cáo của tướng Shipley, vị người Italia đứng dậy và nói với vẻ kích động:
- Chúng đang sẵn sàng xâm lăng chúng ta.
- Chúng xâm lăng chúng ta rồi. - Người Pháp nói.
- Chúng ta đă quá trễ. Đó là một thảm hoạ. - Người Nga nói. - Không có cách nào.
Janus cắt ngang.
- Thưa quư vị, đó là một thảm hoạ mà chúng ta có thể ngăn chặn.
- Như thế nào? Ngài biết đ̣i hỏi của chúng à? - Người Anh nói.
- Vấn đề không phải là những đ̣i hỏi của chúng. - Người Brasil nói. - Việc chúng ta làm ǵ với cây cối của chúng ta đâu phải việc của họ. Cái gọi là hiệu ứng nhà kính chỉ là một thứ khoa học rác rưởi, hoàn toàn chưa được kiểm nghiệm.
- C̣n về chúng tôi th́ sao? - Người Đức nói. - Nếu chúng buộc chúng tôi phải làm sạch bầu không khí trên các thành phố của nước Đức, chúng tôi sẽ phải đóng cửa các nhà máy và sẽ không c̣n lại ngành công nghiệp nào cả.
- C̣n chúng tôi sẽ phải ngừng sản xuất ô tô, - người Nhật Bản nói. - Và rồi nền văn minh của thế giới nầy sẽ thế nào?
- Chúng ta đều cùng trong một t́nh thế như nhau. - Người Nga nói. - Nếu như phải ngừng tất cả những ǵ làm ô nhiễm môi trường, như họ đ̣i hỏi, th́ điều đó sẽ huỷ hoại các nền kinh tế thế giới. Chúng ta phải dành thêm thời gian cho đến khi sẵn sàng với cuộc Chiến tranh giữa các hành tinh.
Đồng ư như vậy. Vấn đề trước mắt của chúng ta là giữ cho dân chúng b́nh tĩnh và tránh sự hỗn loạn lan tràn. - Janus nói một cách quả quyết.
- Công việc của sĩ quan chỉ huy Bellamy thế nào rồi? - Người Canada nói.
- Đang có những kết quả tuyệt hảo. Ông ta sẽ hoàn tất nhiệm vụ trong một hai ngày tới.

Chương 31

Kiev, Ucraina.
Giống như hầu hết những phụ nữ Nga khác, Olga Romanchanko đă trở nên chán ngán với cải tổ.
Thoạt đầu tất cả những thay đổi được hứa hẹn sẽ diễn ra trên Tổ quốc Nga có vẻ thật hấp dẫn. Những ngọn gió tự do thổi trện các đường phố, và niềm hy vọng tràn ngập bầu không khí. Có những lời hứa hẹn về thịt và rau tươi trong các cửa hàng, những quần áo đẹp những đôi giầy da thật và cả trăm thứ tuyệt diệu khác. Nhưng giờ đây, sáu năm sau khi nó vận hành, sự vỡ mộng cay đắng đă xen vào. Hàng hoá khan hiếm hơn bao giờ hết. Thực sự là mọi thử đều thiếu và giá cả tăng vọt. Những ổ gà lớn ngổn ngang trên các đường phố chính. Nhan nhản những cuộc biểu t́nh và số tội phạm tăng lên. Những hạn chế cũng nghiêm ngặt hơn bao giờ hết. Cải tổ và công khai đă bắt đầu có vẻ rỗng tuếch như những lời hứa hẹn của các nhà chính trị đă khơi xướng chúng.
Olga đă làm việc tại một thư viện trên quảng trường Lenkosomol ở trung tâm Kiev bẩy năm trời. Cô ba mươi hai tuổi và chưa bao giờ bước chân ra khỏi Liên Xô. Trông Olga khá hấp dẫn, hơi mập một chút, nhưng ở Nga th́ điều đó không bị coi là một nhược điềm.
Cô đă từng kết hôn với hai người đàn ông, và họ đều đă bỏ rơi cô: Dmitri, người đă đi Leningrad, và Ivan, người đă bỏ đi Mátxcơva. Olga đă toan đi theo để cùng sống với Ivan, nhưng không có hộ khẩu Mátxcơva th́ điều đó là không thể được.
Khi sinh nhật lần thứ ba mươi ba của cô đến gần, Olga quyết tâm đi thăm thú thế giới bên ngoài một lần cho biết. Cô đến gặp giám đốc thư viện, người t́nh cờ lại là bà d́ của cô.
- Cháu muốn được nghỉ phép, - Olga nói.
- Khi nào th́ cô muốn đi?
- Tuần sau.
- Chúc vui vẻ.
Mọi chuyện thật đơn giản. Trước thời cải tổ, đi nghỉ phép có nghĩa là đi Biển Đen, Samarkan hoặc Tbilisi, hoặc là bất kỳ chỗ nào khác nhưng không vượt khỏi lănh thổ Liên Xô. C̣n giờ đây, nếu tháo vát một chút th́ cả thế giới sẽ mở ra trước bạn. Olga lấy một cuốn bản đồ từ trên giá sách và chúi đầu vào đó.
Bên ngoài là cả một thế giới lớn. Châu Phi, châu Á, Bắc và Nam Mỹ… Cô e ngại đi xa đến như thế, bèn lật sang tấm bản đồ châu Âu. Thuỵ Sĩ, cô nghĩ. Đó là nơi ḿnh sẽ tới.
Cô sẽ chẳng bao giờ thú nhận với ai trên đời nầy, nhưng Thuỵ Sĩ đă hấp dẫn cô, chủ yếu v́ cô đă hơn một lần được biết mùi chocolat của nó, và cô không bao giờ có thể quên được cảm giác đó. Cô thích ăn kẹo. Ở Nga - khi mà người ta có thể kiếm được - th́ cũng là thứ kẹo không đường và mùi vị th́ chẳng ra ǵ.
Olga đă phải đổi mạng sống chỉ v́ thèm được ăn kẹo chocolat.
Hành tŕnh trên chuyến bay Aeroflot tới Zurich là một sự khởi đầu thú vị. Chưa bao giờ đi máy bay, Olga rất hồi hộp khi phi cơ hạ cánh xuơng sân bay quốc tế ở Zurich. Trong không khí có cái mùi ǵ đó khang khác. Có thể là mùi vị của tự do thật sự, Olga nghĩ. Tiền bạc của cô rất eo hẹp, và cô đă đặt pḥng trước ở Leonhare, một khách sạn nhỏ, rẻ tiền, ở số 136 Limmatquai.
Olga làm thủ tục ở bàn tiếp tân.
- Đây là lần đầu tiên tôi tới Thuỵ Sĩ, - Cô tŕnh bày với nhân viên khách sạn bằng một thứ tiếng Anh ngắc ngứ. - Anh có thể gợi ư cho tôi nên làm ǵ không.
- Tất nhiên. Ở đây th́ có nhiều thử lắm, - anh ta nói với cô. - Có thể là cô nên bắt đầu với một ṿng quanh thành phố. Tôi sẽ thu xếp việc đó.
- Cảm ơn.
Olga thấy Zurich thật hấp dẫn. Cô sững sờ trước cảnh quan và những âm thanh của thành phố nầy.
Người đi đường ăn mặc đẹp và lái những chiếc xe đắt tiển. Với Olga th́ dường như tất cả mọi người ở Zurich đều là những nhà triệu phú… Và c̣n những cửa hiệu dọc con đường Bahnhofstrasse, đường phố buôn bán chính của Zurich, và cô ngạc nhiên trước mức độ phong phú đến không thể tin được trong các ô kính: nào váy, nào áo khoác, váy lót, giầy dép, đồ nữ trang, bát đĩa, đồ gỗ, ô tô, sách báo, ti vi, radio, đồ chơi và đàn piano… Hàng hoá bày bán dường như không kể xiết. Và rồi Olga chợt đi ngang qua tiệm Sprungli, nổi tiếng về mứt và kẹo chocolat. Trời, chocolat!
Bốn ô kính lớn đầy ngập, đủ các loại khác nhau. Có cả chuối bao chocolat và những hạt chocolat trong chứa một chút rượu hảo hạng. Chỉ nh́n thôi cũng đă thấy sướng. Olga những muốn mua tất cả, nhưng khi biết giá rồi th́ đành chỉ mua một hộp thập cẩm nhỏ và một hộp lớn những chocolat thanh.
Trong tuần lễ tiếp theo đó, Olga đă thăm khu vườn Zurichchhorn, bảo tàng Rietherg và nhà thờ Grossmunster - được xây cất trong thế kỷ mười một, và hơn một chục điểm du lịch tuyệt vời khác. Sau cùng, đă cũng sắp hết thời gian.
Người nhân viên ở khách sạn Leonhare nói với cô:
- Hàng xe bus du lịch Sunshine có một tuyến rất hấp dẫn trên vùng núi Alps. Tôi nghĩ là cô có thể thưởng ngoạn điều đó trước khi rời khỏi đây.
- Cảm ơn, Olga nói. - Tôi sẽ thử xem.
Khi rời khỏi khách sạn, nơi dừng chân đầu tiên của cô là tiệm Sprungli, và nơi tiếp theo là văn pḥng hăng Sunshine đề làm thủ tục cho một chuyến đi.
Quang cảnh đẹp đến nghẹt thở, và giữa chừng của chuyến đi, họ đă chứng kiến vụ nổ của cái mà thoạt đầu cô nghĩ là đĩa bay, nhưng ông chủ nhà băng người Canada ngồi cạnh cô đă giải thích rằng đó chỉ là chuyện bày đặt của chính phủ Thuỵ Sĩ dành cho du khách, và rằng không hề tồn tại cái mà cô vừa nghĩ đến.
Olga đă không hoàn toàn bị thuyết phục. Khi trở về nhà ở Kiev, cô đă mang chuyện nầy ra nói với bà d́ của ḿnh.
- Chắc là có đĩa bay, - bà d́ nói. - Chúng bay trên bầu trời nước Nga suốt ấy mà. Cháu nên bán câu chuyện của ḿnh cho một tờ báo.
Olga đă tính làm như vậy nhưng lại sợ bị người ta cười cho. Đảng Cộng sản không muốn các đảng viên của ḿnh trở thành đối tượng của sự nhạo báng.
Dù sao chăng nữa, Olga kết luận, bên cạnh chuyện Dmitri và Ivan, kỳ nghỉ của cô là kỷ niệm đáng nhớ nhất trong đời. Thật là khó khăn khi bắt tay vào trở lại với công việc.

o0o

Chiếc xe bus của Intourist chạy mất một giờ trên con đường cao tốc mới được xây dựng từ sân bay về tới trung tâm Kiev. Đó là lần đầu tiên Robert tới đây, và anh có ấn tượng mạnh mẽ với những công tŕnh xây dựng đâu đâu cũng thấy trên dọc đường và những toà nhà ở lớn đang mọc lên khắp nơi. Chiếc xe bus dừng lại trước khách sạn Dniepr và đổ xuống hơn hai chục hành khách. Robert nh́n đồng hồ đeo tay ḿnh, 8 giờ. Thư viện đóng cửa mất rồi. Anh làm thủ tục thuê pḥng ở cái khách sạn lớn ấy, nơi mà một pḥng đă được đặt trước cho anh, uống một cốc ở quầy rượu và đi vào trong cái pḥng ăn trắng toát mộc mạc để ăn một bữa tối với trứng cá muối, dưa chuột, cà chua, sau đó là món khoai tây hầm với chút thịt có thêm nhiều bột, tất cả được kèm với Vodka và nước khoáng.

Thị thực nhập cảnh đă được để sẵn cho anh tại khách sạn ở Stockholm như tướng Hilliard đă hứa.
Đó là kêt quả nhanh chóng của sự hợp tác quốc tế, Robert nghĩ. Nhưng chẳng có sự hợp tác nào cho ḿnh cả. Từ nghiệp vụ gọi là "Trần trụi".
Sau bữa ăn, Robert hỏi han đôi chút tại bàn tiếp tân và đi vơ vẩn ra quảng trường Lenkosomol. Kiev thật sự gây ngạc nhiên đối với anh. Là một trong những thành phố cổ kính nhất nước Nga, với dáng vẻ châu Âu nó nằm trên bờ sông Dniepr, với những công viên xanh tươi và những đường phố rộng lớn có cây trồng dọc hai bên. Ở đâu cũng thấy các nhà thờ, và chúng là những thí dụ ngoạn mục cho kiến trúc tôn giáo, như các nhà thờ Thánh Vladimir, Thánh Andrew, và Thánh Sofia - nhà thờ sau cùng nầy được hoàn tất vào năm 1037, và tu viện Pechersk, công tŕnh kiến trúc cao nhất thành phố. Susan sẽ rất yêu thích những phong cảnh nầy, Robert nghĩ. Cô chưa bao giờ đến nước Nga. Anh băn khoăn không biết cô đă từ Brasil trở về hay chưa. Cảm thấy bị thôi thúc, anh gọi điện thoại cho cô khi trở lại khách sạn, và anh ngạc nhiên thấy gần như không hề phải chờ đợi ǵ.
- Xin chào? - Cái giọng cổ khêu gợi ấy.
- Chào. Brasil thế nào?
- Robert. Em cố gọi cho anh mấy lần. Không có ai trả lời.
- Anh không có nhà.
Ôi! Cô đă được huấn luyện quá kỹ để không hỏi là anh đang ở đâu.
- Anh có khoẻ không đấy?
Đối với một thằng quan hoạn th́ khoẻ.
- Tất nhiên. Khoẻ. Cái túi tiền Monte thế nào?
- Anh ấy khoẻ. Robert, ngày mai chúng em sẽ đi Gibraltar.
Tất nhiên là trên cái du thuyền của thằng cha Cái túi tiền khốn kiếp kia. Tên nó là ǵ ấy nhỉ? À, phải, Thanh B́nh.
- Bằng du thuyền?
- Vâng. Anh có thể gọi cho em ở đó. Anh có nhớ số máy không?
Anh nhớ. - WS387. WS có nghĩa ǵ nhỉ? Susan tuyệt diệu chăng?… Sao lại phải xa nhau chăng…Kẻ đi cướp vợ người?
- Anh Robert?
- Có anh nhớ. WS (Wishky và Đường) 337.
- Anh sẽ gọi chứ? Để em biết là anh khoẻ mạnh mà.
- Rồi. Anh nhớ em, cô bé ạ.
Một im lặng đau đớn, hồi lâu. Anh chờ đợi. Anh đợi cô nói ǵ nhỉ?
Đến cứu em khỏi cái thằng cha quyến rũ nầy, gă trông giống một Paul Newman và đă bắt em phải đi trên chiếc du thuyền lộng lẫy của hắn và sống trong những cung điện nhỏ nhắn nghèo khổ ờ Monte Carlo, Paris, London và chỉ có Chứa mới, biết được là c̣n ở những đâu nưà. Giống như một thằng ngu, anh thấy ḿnh có phần mong cô sẽ nói như thế.
- Em cũng nhớ anh, Robert. Hăy tự chăm sóc ḿnh.
Và đường dây bị cắt. Anh c̣n lại ở nước Nga, đơn độc.

o0o

Ngày thứ mười hai.

Kiev, Ucraina.
Sáng sớm hôm sau, khi thư viện mở cửa được mười phút, Robert đă bước vào toà nhà lớn, ảm đạm, và tiến lại bàn thường trực.
- Xin chào. - Robert nói.
Người phụ nữ ngồi sau bàn ngẩng lên.
- Xin chào. Ông cần ǵ?
- Vâng. Tôi đang t́m một người phụ nữ mà tôi tin là đang làm việc ở đây, cô Olga.
- Olga? Có đấy. - Chị ta chỉ sang một pḥng khác. - Cô ấy ở trong pḥng kia.
- Cám ơn.
Thật là dễ dàng. Robert bước đi ngang qua một nhóm sinh viên đang chăm chú làm việc bên những chiếc bàn dài. Chuẩn bị cho một thứ tương lai ǵ thế không biết? Robert băn khoăn. Anh tới một pḥng đọc nhỏ hơn và bước vào bên trong. Một người phụ nữ đang bận bịu xếp lại những cuốn sách.
- Xin thứ lỗi, - Robert nói.
- Ǵ thế ạ? - Chị ta quay lại.
- Chị là Olga?
- Tôi là Olga. Ông cần ǵ ở tôi thế?
Robert nở một nụ cười gây thiện cảm.
- Tôi đang viết một bài báo về công cuộc cải tổ và ảnh hưởng của nó đối với những người Nga ở tầng lớp trung b́nh. Nó có tác động đến đời sống của chị không?
Người phụ nữ nhún vai.
- Trước Gorbachev, chúng tôi không dám mở miệng. Bây giờ chúng tôi có thể mở miệng nhưng lại không có ǵ để cho vào cả.
Robert thử một mẹo khác.
- Chắc chắn là có những thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn. Thí dụ, bây giờ các bạn có thể đi du lịch.
- Hẳn là ông nói đùa. Với một ông chồng và sáu đứa con th́ ai mà có tiền đi du lịch?
- Th́ chị vẫn có thể có tiền đề đi Thuỵ Sĩ và… - Robert cố thêm.
- Thuỵ Sĩ ư? Trong đời tôi chưa bao giờ mơ được đến đó.
- Chị chưa bao giờ tới Thuỵ Sĩ hả? - Robert từ tốn nói.
- Tôi đă nói rồi đấy thôi. - Chị ta hất hàm về phía một phụ nữ tóc sẫm đang chọn sách trên bàn. - Cô ấy mới là người may mắn được tới Thuỵ Sĩ đấy.
- Tên cô ấy là ǵ thế? - Robert liếc mắt nh́n.
- Olga. Cùng tên với tôi.
- Cám ơn. - Anh thở dài.
Một phút sau, Robert đă nói chuyện với cô Olga thứ hai kia.
- Xin lỗi, - Robert nói. - Tôi đang viết một bài báo về cải tổ và ảnh hưởng của nó đến đời sống của người dân Nga.
- Dạ? - Cô gái nh́n anh một cách cảnh giác.
- Tên cô là ǵ?
- Olga. Olga Romanchanko.
- Hăy nói cho tôi biết, cô Olga, rằng cải tổ có tác động ǵ đến cô không?
Sáu năm về trước, hẳn Olga Romanchanko sẽ sợ phải nói chuyện với một người nước ngoài, nhưng giờ đây th́ điều đó đă được phép.
- Không hẳn có ǵ, - Cô nói một cách thận trọng. - Mọi thứ phần lớn vẫn như cũ thôi.
- Không có ǵ thay đổi trong cuộc sống của cô ư? - Người khách lạ vẫn bướng bỉnh.
Cô ta lắc đầu.
- Không. - Và rồi cô nói thêm v́ ḷng yêu nước. - Tất nhiên là bây giờ chúng tôi có thể đi du lịch ra nước ngoài.
- Và cô đă đi rồi? - Anh tỏ ra quan tâm.
- Ô, vâng. - Cô hănh diện nói. - Tôi vừa mới từ Thuỵ Sĩ trở về. Một đất nước rất đẹp.
- Tôi đồng ư, - anh nói. - Cô có cơ hội làm quen với ai trong chuyến đi đó không?
- Tôi đă gặp rất nhiếu người. Tôi ngồi xe bus và chúng tôi đi lên vùng núi cao. Dăy Alps. - Đột nhiên, Olga nhận ra là cô không nên nhắc tới chuyện nầy bởi v́ người khách lạ có thể hỏi cô về con tàu vũ trụ; và cô không muốn nói ra. Chuyện đó chỉ có chuốc cho cô những rắc rối mà thôi.
- Thế à? Robert hỏi. - Hăy nói cho tôi nghe về những người trên chiếc xe bus đó.
Nhẹ cả người. Olga đáp:
- Rất thân thiện. Họ ăn mặc… - Cô ra hiệu bằng tay, - rất giàu. Tôi gặp cả một người từ thủ đô của ông tới, từ Washington D.C.
- Thế hả?
- Vâng. Rẩt tử tế. Ông ấy đă cho tôi tấm danh thiếp.
- Cô vẫn giữ nó chứ? - Tim Robert đă ngưng lại một nhịp.
- Không Tôi đă ném nó đi rồi. - Cô nh́n quanh. - Tốt hơn là không nên giữ những thứ đó.
Khốn kiếp.
Và rồi cô nói thêm:
- Tôi nhớ tên ông ta. Parker. Parker, giống như tên cái bút của các ông ấy. Kenvin Parker. Rất quan trọng trong các vấn đề chính trị. Ông ấy kề chuyện các Thượng nghị sĩ phải kiếm phiếu thế nào.
- Đó là điều ông ấy nói với cô à? - Robert giật ḿnh.
- Vâng. Ông ấy đă đưa họ đi du lịch và tặng quà, và rồi họ bỏ phiếu ủng hộ cho những ǵ mà khách hàng của ông ấy cần. Đó là con đường dân chủ ở nước Mỹ.
Một người vận động hành lang. Robert để Olga nói thêm mười lăm phút sau đó, nhưng anh không gó thêm được thông tin có ích ǵ về những hành khách khác.

o0o

Robert gọi điện cho tướng Hilliard từ pḥng khách sạn của anh.

- Tôi đă t́m thấy nhân chứng người Nga. Tên cô ta là Olga Romanchako, làm việc tại thư viện trung tâm ở Kiev.
- Tôi sẽ để một quan chức Nga nói chuyện với cô ta.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc GRU.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
8. Olga Romanchanko Kiev.
Hết
Chiều hôm đó, Robert bay trên chiếc Tu-154 của Aeroflo tới Paris. Anh tới nơi sau 3 giờ 25 phút và chuyển sang một chuyến bay của hăng hàng không Pháp đi Washington D.C.

o0o

Lúc 2 giờ sáng, Olga Romanchanko nghe thấy tiếng xe ô tô phanh gấp trước toà nhà nơi cô sống, trên phố Veryk. Các bức tường mỏng manh đến nỗi cô có thể nghe được tất cả những tiếng nói ngoài phố. Cô dậy khỏi giường và đến nh́n qua cửa sổ. Hai người đàn ông mặc đồ dân sự đang ra khỏi chiếc xe Chaika màu đen, kiểu xe mà các quan chức chính phủ sử dụng.

Họ đi vào cổng chung cư của cô. Bóng dáng họ làm cho cô thấy rùng ḿnh. Nhưng năm qua, một số người hàng xóm của cô đă mất tích, không ai trông thấy họ bao giờ nữa. Một số bị đầy đi Siberia. Olga không biết lần nầy mật vụ đang săn lùng ai, và ngay khi vẫn c̣n đang nghĩ như vậy, có tiếng gơ cửa, làm cô giật bắn minh. Họ muốn ǵ ở ḿnh nhỉ? Cô lo lắng.
Hẳn là có sự nhầm lẫn.
Khi cô mở cửa, hai người đàn ông đang đứng đó.
Đồng chí Olga Romanchanko phải không?
- Dạ.
- Cơ quan T́nh báo Quân sự GRU khét tiếng.
Họ sấn sổ bước vào pḥng.
- Các các anh muốn ǵ?
Chúng tôi sẽ là người hỏi. Tôi là Thượng sĩ Yuri Gromkov. Đây là Thượng sĩ Vladimir Zemsky.
- Có… có chuyện ǵ sai trái chăng? Tôi đă làm ǵ nào? - Cô đột ngột cảm thấy sợ hăi.
- Ồ vậy là cô biết ḿnh đă làm ǵ đó sai trái. - Zemsky chộp lấy.
- Không, chắc chắn là không. - Olga nói, bối rối. - Tôi không biết v́ sao các anh lại tới đây.
- Ngồi xuống. - Gromkov quát lên. Olga làm theo, run rẩy.
- Cô vừa từ Thuỵ Sĩ trở về, phải không nào?
- Dạ, dạ, - Cô lắp bắp, - nhưng đó - đó là… Tôi được phép của…
- Olga Romanchanko, hoạt động gián điệp bất hợp pháp.
- Hoạt động gián điệp? Cô khiếp sợ. - Tôi không hiểu các anh đang nói ǵ.
Người đàn ông cao to nh́n chằm chằm vào thân thể cô và Olga bỗng nhận ra cô chỉ có một cái váy ngủ mỏng tang trên người.
- Đi. Cô phải đi cùng chúng tôi.
- Nhưng, có một sự nhầm lẫn kinh khủng. Tôi là một thủ thư. Xin hỏi bất kỳ ai ở đây.
- Nào. - Anh ta kéo cô đứng dậy.
- Các anh mang tôi đi đâu?
- Về trụ sở. Họ muốn thẩm vấn cô.
Họ cho phép cô mặc áo khoác ra ngoài váy ngủ.
Cô bị đẩy xuống cầu thang và ấn vào trong chiếc Chaika.
Olga nghĩ tới tất cả những người đă phải ngồi vào trong chiếc xe giống như thế nầy, đề không bao giờ trở về, cô chết lặng đi v́ sợ hăi.
Người đàn ông cao to, Gromkov, lái xe. Olga được đẩy vào ghế sau, ngồi cùng với Zemsky. Anh ta dường như không làm cho cô sợ hăi bằng người kia, nhưng cô đă bị tê liệt với việc biết họ là ai và điều ǵ sắp xảy ra với ḿnh.
- Xin hăy tin tôi. - Olga nói một cách khẩn khoản. Tôi không bao giờ phản bội.
- Câm mồm. - Gromkov quát lên.
Nầy, chẳng lư do ǵ phải quá cứng rắn với cô ấy cả. Thực ra th́ tôi tin cô ấy. - Vladimir Zemsky nói.
Olga cảm thấy tim ḿnh rộn lên v́ hy vọng.
- Thời thế đă thay đổi. - Zemsky nói tiếp. - Đồng chí Gorbachev không muốn chúng ta quấy nhiễu những người vô tội. Những ngày đó đă qua rồi.
- Ai nói là cô ta vô tội? - Gromkov càu nhàu. - Có thể là có có thể là không. Ở trụ sở họ sẽ t́m ra ngay thôi mà.
Olga ngồi nghe hai người đàn ông nói về cô như thể cô không hề có ở đó.
- Nào, Yuri, cậu biết là ở trụ sở th́ cô ấy sẽ thú tội cho dù có tội hay không. Tớ không thích thế. - Zemsky nói.
- Chuyện đó th́ quá tệ. Chúng ta chẳng thể làm ǵ được đâu Được chứ.
- Cái ǵ?
Người đàn ông ngồi bên cạnh Olga im lặng một thoáng.
- Nghe nầy, - anh ta nói, - tại sao chúng ta không thả quách cô ấy ra nhỉ? Chúng ta có thể nói lại là cô ấy không có nhà. Chúng ta sẽ tŕ hoăn một hoặc bai ngày, và họ sẽ quên chuyện cô ấy đi v́ họ có quá nhiều người để tra hỏi rồi.
Olga toan nói ǵ đó, nhưng cổ họng cô khô khốc.
Cô mong mỏi đến tuyệt vọng là người đàn ông ngồi cạnh cô thuyết phục được người kia v́ sao chúng ta phải liều mạng để cứu cô ta hả?
- Chúng ta được ǵ nào? Cô ấy sẽ làm ǵ cho chúng ta nào? - Gromkov làu bàu.
Zemsky quay lại và nh́n Olga vẻ ḍ hỏi. Olga cố cất lời:
- Tôi không có tiền bạc ǵ.
- Ai cần tiền của cô? Chúng tôi có rất nhiều tiền.
- Cô ta có thứ khác. - Gromkov nói.
Olga chưa kịp trả lời th́ Zemsky nói:
- Khoan đă, Yuri Ivanovich, cậu không thể đ̣i cô ấy làm điều đó.
- Tuỳ cô ta thôi. Cô ta có thể ngọt ngào với chúng ta hoặc là tới trụ sở và sẽ bị tra tấn trong một hoặc hai tuần lễ. Có thể là họ sẽ tống cô ta vào trong một cái chuồng cọp xinh xắn.
Olga đă nghe về những cái chuồng cọp. Những hầm giam chiều một mét, chiều hai mét lạnh lẽo với một cái giường gỗ và không chăn chiếu ǵ. "Ngọt ngào với chúng ta". Thế nghĩa là thế nào nhỉ?
- Tuỳ cô ta.
- Cô muốn thế nào? - Zemsky quay sang Olga.
- Tôi, tôi không hiểu.
- Anh bạn tôi nói rằng nếu như cô ngọt ngào với chúng tôi, chúng tôi có thể bỏ qua vụ nầy. Sau một thời gian ngắn: có thể họ sẽ quên chuyện của cô.
- Tôi tôi sẽ phải làm ǵ cơ?
Gromkov mỉm cười với cô qua tấm gương chiếu hậu.
- Hăy dành cho chúng tôi ít phút ở cô. - Anh ta nhớ tới một câu đă đọc ở đâu đó. - Hăy nằm đó và nghĩ tới hoàng đế. - Rồi cười khoái trá.
Olga đột nhiên hiểu ra họ muốn ǵ. Cô lắc đầu.
- Không. Tôi không thể làm điều đó.
Được. - Gromkov bắt đầu tăng tốc độ. - Ở trụ sở họ sẽ có một cuộc vui với cô.
- Khoan.
Cô đang trong cơn hoảng sợ và không biết phải làm ǵ. Cô đă nghe những cầu chuyện khủng khiếp về điều ǵ xảy đến đối với những người bị bắt giữ và trở thành tội nhân. Cô đă nghĩ rằng tất cả những chuyện đó đă chấm dứt, nhưng bây giờ th́ cô hiểu là không phải. Cải cách vẫn c̣n đang là một hy vọng, một tưởng tượng. Họ sẽ không cho phép cô có một luật sư hoặc nói chuyện với bất kỳ ai. Trong quá khứ, bạn bè của cô đă bị nhân viên GRU hăm hiếp, sát hại. Cô đă mắc bẫy. Nếu cô chịu vào tù, họ có thể giam giữ cô nhiều tuẩn lễ, đánh đập, hăm hiếp cô, hoặc có thể c̣n tệ hại hơn. Với hai người đàn ông nầy, ít ra th́ chuyện đó cũng chỉ qua đi trong ít phút và rồi họ sẽ thả cô ra. Olga đi đến một quyết định.
- Cũng được, cô đau khổ nói. - Các anh có muốn quay trở lại căn hộ của tôi không?
- Tôi biết có một chỗ tốt hơn. - Gromkov nói. Anh ta ṿng xe ngược lại.
- Tôi xin lỗi về chuyện nầy, nhưng anh ta là chỉ huy. Tôi không thể ngăn anh ta được. Zemsky th́ thầm.
Olga không đáp lại.
Họ chạy ngảng qua Nhà hát Opera Shevchenko màu đỏ rực và hướng tới một công viên có cây cối bao quanh. Vào giờ nầy, công viên hoàn toàn vắng ngắt.
Gromkov lái xe chạy dưới những hàng cây và rồi tắt điện, tắt máy.
- Ra ngoài đi. - Anh ta nói.
Cả ba người bước ra khỏi xe.
- Cô thật may mắn. Chúng tôi thả cô ra thật dễ dàng. Tôi hy vọng là cô sẽ đánh giá cao điều đó. - Gromkov nh́n Olga.
Olga gật đầu, không dám nói ǵ v́ quá sợ.
Gromkov dẫn họ tới một chỗ quang.
- Cởi ra.
Trời lạnh, Olga nói. - Chẳng lẽ chúng ta không thể…?
- Làm theo lời tao trước khi tao thay đổi ư kiến. - Gromkov tát mạnh vào mặt cô.
Olga ngập ngừng một giây, và khi hắn ta lại giơ tay chực đánh, cô bắt đầu cởi khuy áo khoác.
- Cởi hẳn ra.
Cô thả cái áo rơi xuống đất.
- Giờ đến cái váy ngủ.
Olga chậm chạp kéo cái váy qua đầu và lột hẳn nó ra, run lên trong trời đêm giá lạnh, đứng trần truồng dưới ánh trăng.
- Tấm thân ngon lành. - Gromkov nói. Hắn ta bóp hai đầu vú cô.
- Đừng…
- Mầy nói nửa lời, chúng tao sẽ mang mầy đến trụ sở. - Anh ta đẩy cô nằm xuống đất.
Ḿnh sẽ không nghĩ tới chuyện nầy. Ḿnh sẽ cố nghĩ là ḿnh đang ở Thuỵ Sĩ, trên chiếc xe bus du đi du lịch và ngắm những phong cảnh đẹp đẽ.
Gromkov tụt quần ra và giang rộng hai chân Olga.
Ḿnh có thể nh́n thấy đỉnh Alps tuyết phủ. Có một cái xe trượt tuyết chạy ngang, trên đó là hai đứa trẻ, một trai, một gái.
Cô thấy hắn luồn tay dưới hông cô và ấn cái giống đực vào trong cô, làm cô đau đớn.
Có những chiếc xe đẹp đẽ đang chạy trên xa lộ. Nhiều xe hơn bao giờ cô từng nh́n thấy trong đời. Ở Thuỵ Sĩ mỗi người đều có một chiếc xe.
Hắn đang dồn dập mạnh hơn trên người cô, cấu véo cô kêu lên những tiếng kêu như thú hoang.
Ḿnh sẽ có một ngôi nhà nhỏ ở trên núi. Người Thuỵ Sĩ gọi là ǵ nhỉ? Chalét. Và ḿnh sẽ có kẹo chocolat hàng ngày. Có hàng hộp.
Lúc nầy, Gromkov đă buông cô ra, thở hồng hộc.
Hắn đứng lên và quay sang Zemsky.
Đến lượt cậu.
Ḿnh sẽ lấy chồng và có con, và cả nhà sẽ đi trượt tuyết vào mùa đông.
Zemsky dă mở sẵn khoá quần và lập tức nằm đè lên cô.
Đó sẽ là một cuộc sống tuyệt vời. Ḿnh sẽ không bao giờ trở về Nga. Không bao giờ. Không bao giờ.
Hắn đă ở trong cô, c̣n làm cô đau đớn hơn cả gă kia, gh́ chặt hai mông cô và đè thân thề cô xuống nền đất lạnh, cho đến lúc sự đau đớn tưởng chừng như không thể chịu đựng được nữa.
Ḿnh và gia đ́nh sẽ sống ở một trang trại, một nơi luôn vắng lặng và thanh b́nh, và có một mảnh vườn với những bông hoa xinh đẹp.
Zemsky đă xong và nh́n lên người bạn đồng nghiệp.
- Tôi cảm thấy cô ta sướng. - Hắn cười. Rồi cúi xuống tóm lấy đầu Olga và bẻ gẫy cổ cô.
Ngày hôm sau, trên tờ báo địa phương có mẩu tin về việc một cô thủ thư bị hiếp và bị giết chết trong công viên. Kèm theo đó là một lời cảnh cáo nghiêm khắc của giới chức trách rằng những cỏ gái trẻ đi một ḿnh vào công viên buổi tối là rất nguy hiểm.
Điện khẩn.
Tối mật.
Phó giám đốc GRU gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
8. Olga Romanchanko - Kiev - Đă bị thủ tiêu
Hết

Chương 32

Williard Stone và Monte Banks là những kẻ thù tất yếu. Cả hai đều là những con thú ăn thịt tàn bạo, và cánh rừng mà chúng đang lảng vảng ŕnh rập là những bức tường đá cao ngất trên Wall Strees, với những chủ nhân đầy quyền lực, những ông chủ tài chính cỡ bự và những vụ chuyển nhượng cổ phiếu khổng lồ.
Hai người đă đụng độ nhau lần đầu tiên trong vụ dành giật một công ty có lợi nhuận lớn. Williard Stone đă thắng thầu lần đầu và hy vọng là không có trục trặc ǵ. Ông ta có thế lực quá mạnh và tiếng tăm của ông ta khủng khiếp đến độ ít ai dám đương đầu nên đă rất đỗi ngạc nhiên khi được biết có một nhà doanh nghiệp trẻ tên là Monte Banks đang tranh thầu với ông Stone buộc phải nâng thầu và số tiền cứ cao lên măi. Sau cùng Williard Stone cũng dành được quyền kiểm soát công ty đó, nhưng với lăi suất thấp hơn nhiều so với dự tính.
Sáu tháng sau, trong một cuộc bỏ thầu để mua lại một hăng điện tử lớn, Stone lại chạm chán Monte Banks.
Giá thầu cứ leo lên măi và lần nầy th́ Banks thắng.
Khi Williard Stone biết Monte Banks dự định cạnh tranh với ḿnh để dành quyền kiềm soát một hăng máy tính, ông ta quyết định đă đến lúc phải đối mặt với đối thủ. Hai người đàn ông gặp nhau trên mảnh đất trung lập ở đảo Paradise thuộc bang Bahamas.
Williard Stone đă cho điều tra kỹ lưỡng về lai lịch của địch thủ và biết rằng Monte Banks xuất thân từ một gia đ́nh kinh doanh dầu mỏ giầu có và đă khôn khéo thương lượng để đưa di sản thừa kế của anh ta vảo một tổ hợp quốc tế.
Hai người ngồi vào bàn ăn trưa. Williard Stone, già và khôn ngoan, c̣n Monte Banks th́ trẻ và hăng hái.
- Anh đang trở thành một cái ung nhọt nhức nhối đấy! - Williard mở đầu câu chuyện.
Từ miệng ông nói ra th́ đó là một lời khen ngợi lớn Monte Banks mỉm cười.
- Anh muốn ǵ?
- Như ông thôi. Tôi muốn làm chủ thế giới nầy.
- Ồ, thế giới nầy đủ lớn. - Williard Stone trầm ngâm nói.
- Nghĩa là thế nào?
- Có đủ chỗ cho cả hai chúng ta.
Đó là ngày mà họ trở thành bạn của nhau. Mỗi người đều thành công trong việc kinh doanh của ḿnh một cách riêng rẽ, nhưng mỗi khi có những đề án mới - gỗ, dầu, bất động sản - th́ họ lại phối hợp với nhau, thay v́ đối chọi. Đă vài lần Cơ quan chống kinh doanh bất hợp pháp của Bộ Tư pháp đă cố ngăn chặn những vụ làm ăn của họ, nhưng các mối quen biết của Williard Stone đă luôn tỏ ra có ích. Monte Banks là chủ của những công ty hoá chất phải chịu trách nhiệm trước sự ô nhiễm môi trường tràn lan trên các sông hồ, nhưng khi anh ta bị truy tố, th́ bản cáo trạng lại bị bỏ lửng một cách bí ẩn.
Hai người đàn ông đó có một mối quan hệ cộng sinh hoàn hảo.
Chiến Dịch Ngày Tận Thế là lẽ đương nhiên đối với họ, và cả hai đều tham gia nhiều vào nó. Họ đang sắp kiếm được một hợp đồng mua mười triệu mẫu rừng xanh tốt trong vùng nhiệt đới Amazon. Đó sẽ là một trong những hợp đồng béo bở nhất mà họ kiếm được từ trước tới nay.
Họ không thể chấp nhận bất kỳ vật cản nào trên đường đi của ḿnh.


Chương 33

Ngày thứ mười ba.
Washington, D. C.
Thượng nghị viện Mỹ trong một kỳ họp toàn thể…
Vị thượng nghị sĩ trẻ từ bang Utah đang phát biểu và những ǵ đang xảy đến với hệ sinh thái của chúng ta là một điều ô nhục quốc gia. Đă đến lúc bộ máy vĩ đại nầy phải nhận ra rằng việc giữ ǵn di sản quư báu mà các bậc tiền bối đă để lại chính là nghĩa vụ thiêng liêng của ḿnh. Không chỉ là nghĩa vụ thiêng liêng mà c̣n là đặc quyền của chúng ta trong việc bảo vệ đất đai, không khí, và các vùng biển khơi bị phá huỷ trước những lợi ích đặc quyền ích kỷ. Và chúng ta có làm điều nầy không? Chúng ta có làm việc một cách tốt nhất với tất cả lương tâm của ḿnh không? Hay chúng ta cho phép uy lực của đồng tiền chi phối ḿnh.
Kevin Paker, ngồi trong pḥng dành cho khách thăm, đă đưa mắt nh́n đồng hồ tới lần thứ ba trong ṿng năm phút. Ông ta sốt ruột, không hiểu bài diễn văn sẽ c̣n kéo dài bao lâu nữa. Ông ta ngồi chờ chỉ bởi lẽ sắp đến giờ dùng bữa trưa với vị thượng nghị sĩ mà ông cần nhờ giúp đỡ. Kevin Pakker thích thú với việc đi ngang qua những hành lang quyền lực, chén chú chén anh với các ông nghị, tiêu xài phóng tay để đổi lấy những ân huệ chính trị.
Ông ta lớn lên trong nghèo đói ở Eugene, tiểu bang Oregon. Cha là người nghiện rượu, có một kho chữa gỗ nhỏ và đă biến cái nhẽ ra là một sự kinh doanh ăn phát đạt thành một thảm hoạ. Cậu con trai phải làm việc từ tuổi mười bốn, và bởi v́ mẹ cậu đă bỏ đi theo một người đàn ông khác từ mấy năm trước, nên cậu đă không hề có đời sống gia đ́nh. Paker dễ dàng có thể trở thành một kẻ lang bạt và kết thúc giống như ông bố, thế nhưng cứu cánh của cậu ta lại là cái vẻ đẹp trai và thêm nữa, rất có cá tính. Paker có mái tóc vàng lượn sóng và dáng dấp rất quư tộc mà hắn là thửa hưởng của ông cụ tổ lâu đời nào đó.
Một người giầu có trong thị trấn tiếc cho cái vẻ ngoài đó đă dành cho cậu ta việc làm và nhiều sự khích lệ. Người giầu có nhất thị trấn, Jch Goodspell, đặc biệt nhiệt t́nh giúp đỡ Paker và đă dành cho cậu ta một việc làm ngoài giờ tại một trong những công ty của ḿnh, và là một người độc thần, ông ta thường mời Paker đến cùng ăn tối tại nhà.
- Cậu có thể thành đạt trong xă hội nầy đấy, - Goodspell nói, - nhưng cậu không thể làm nên nếu không có bạn bè.
- Tôi biết thế, thưa ngài. Và tất nhiên đầu tiên là tôi biết ơn thiện chí của ngài.
- Tôi có thể làm cho cậu nhiều hơn nữa, - Goodspdll nói. Họ đang ngồi trên chiếc đi-văng trong pḥng khách, sau bữa ăn tối. Ông ta quàng tay ôm lấy cậu. - C̣n nhiều nữa. - Ông ta bóp vai cậu. - Cậu có một thân h́nh đẹp, cậu biết thế không?
- Cám ơn ngài.
- Cậu có bao giờ cảm thấy cô đơn không?
- Thưa ngài, có. Lúc nào tôi cũng cô đơn.
- Ồ, cậu không phải cô đơn nữa. - Ông ta ve vuốt cánh tay cậu. Tôi cũng thấy cô đơn, cậu biết đấy. Người ta cần có ai đó để được ôm ấp, vuốt ve.
- Vâng, thưa ngài.
- Cậu đă có cô bạn gái nào chưa?
- Có tôi có đi cùng Sue Ellen một dạo.
- Cậu đă ngủ với con bé chưa?
- Không, thưa ngài. - Cậu đỏ bừng mặt.
- Kevin, cậu bao nhiêu tuổi rồi hả?
- Thưa ngài, mười sáu ạ.
- Đó là lứa tuổi tuyệt vời. Đă đến lúc cậu phải khởi đầu một sự nghiệp. - Ông ta quan sát Paker một thoáng. - Tôi cam đoan là cậu sẽ rất khá trong lĩnh vực chính trị.
- Chính trị ư? Thưa ngài, tôi không biết ǵ về nó cả.
- Vậy nên cậu sẽ phải đi học. Và tôi sẽ giúp cậu.
- Cám ơn ngài.
- Có rất nhiều cách để tỏ ḷng biết ơn với người khác, - Goodspell nói. Ông ta xoa xoa dọc đùi cậu bé. - Nhiều cách. - Ông ta nh́n vào mắt Paker. - Cậu có hiểu ư tôi không.
- Có Jeb ạ.
Đó là lúc bắt đầu.
Khi Kevin tốt nghiệp trường trung học Churchill, Goodspell gửi cậu đến Đại học Oregon. Cậu nghiên cứu môn khoa học chính trị, và Goodspell thu xếp để người được ông ta bảo hộ được gặp mặt những nhân vật cần thiết. Họ đều có ấn tượng tốt với người thanh mên đầy vẻ hấp dẫn. Với những mối quan hệ của ḿnh, Paker thấy ḿnh có thể gắn kết lại những nhân vật quan trọng với nhau. Việc trở thành một chuyên gia vận động hành lang ở Washington là một bước tự nhiên, và Paker rất thạo việc.
Goodspell đă chết trước đó hai năm, nhưng lúc ấy th́ Paker cũng đă có được một tài năng với một sở thích đối với công việc mà người đỡ đầu đă truyền dạy anh. Anh ta thích kiếm những cậu trai trẻ và đưa tới những khách sạn khuất nẻo, nơi mà anh ta không bị nhận mặt.
Vị thượng nghị sĩ tiểu bang Utah rốt cuộc cũng đang kết thúc bài phát biểu:
- … và bây giờ tôi nói với các ngài rằng, sẽ phải thông qua dự luật nầy nếu muốn cứu những ǵ c̣n lại trong hệ sinh thái của chúng ta. Vào lúc nầy tôi muốn đề nghị một cuộc bỏ phiếu công khai.
Ơn Chúa, buổi họp vô tận nầy đă sắp kết thúc.
Kevin Paker nghĩ đến một buổi tối đang chờ đón ông ta, và bắt đầu thấy hứng t́nh. Đêm hôm trước, ông ta đă gặp một cậu trai trẻ ở tiệm Danny P. Street Station, một tiệm dành cho những kẻ đồng tính luyén ái nổi tiếng. Thật không may là cậu trai kia đă có bạn. Nhưng buổi tối đó họ đă để ư đến nhau, và trước khi ra đi, Paker đă viết mấy chữ và luồn vào tay cậu ta. Một ḍng chữ đơn giản "Đêm mai nhé". Cậu ta đă mỉm cười và gật đầu.
Kevin Paker vội vă mặc quần áo để đi. Ông ta muốn có mặt trước khi cậu trai trẻ kia đến. Cậu ta thật quá hấp dẫn, và Paker không muốn để ai đó nẫng mất. Chuông cửa réo vang. Mẹ kiếp. Paker ra mở cửa.
Một người lạ đang đứng đó.
- Kevin Paker?
- Phải.
- Tên tôi là Bellamy. Tôi muốn nói chuyện với ông một phút.
- Ông phải hẹn trước với thư kư của tôi. Tôi không bàn công việc sau giờ làm việc. - Paker nóng nảy nói.
- Đây không hẳn là công việc, ông Paker. Nó liên quan tới chuyến đi Thuỵ Sĩ của ông cách đây một hai tuần.
- Chuyến đi Thuỵ Sĩ của tôi à? Chuyện ǵ vậy.
- Cơ quan của tôi quan tâm tới một vài người mà có thể là ông đă gặp ở đó. Robert ch́a tấm thẻ CIA giả của anh ra.
Kevin Paker quan sát người khách một cách thận trọng hơn. CIA có thể muốn ǵ ở ông ta nhỉ? Ở đâu bọn họ cũng tḥ mũi vào. Ḿnh có để hở sườn không nhỉ?
Không nên chọc tức người nầy một tí nào cả. Ông ta mỉm cười.
- Mời vào. Tôi đang vội v́ một cuộc hẹn, nhưng ông nói là sẽ không quá một phút phải không?
- Không, thưa ông. Tôi tin là ông đă đi một chuyến xe bus du lịch ra khỏi Zurich?
Vậy là cái chuyện đó. Chuyện cái đĩa bay kia đây. Đó là cái thứ khủng khiếp nhất mà ông ta đă từng nh́n thấy.
- Ông muốn biết về cái đĩa bay đó phải không ạ, tôi muốn nói để ông biết đó là một hiện tượng phi thường.
- Hắn là thế, nhưng nói thẳng là cơ quan chúng tôi không tin vào chuyện đĩa bay. Tôi tới đây để xem ông có thể nói ǵ cho tôi biết về những du khách cùng đi trên chuyến xe bus đó.
- Ồ chuyện đó th́ tôi sợ là không thể giúp được ông. Tất cả họ đểu là những người lạ cả. - Paker giật ḿnh.
- Tôi biết thế, ông Paker, - Robert nhẫn nại nói, - nhưng ông hẳn có nhớ điều ǵ về họ chứ.
- Có một đôi chút… Tôi nhớ là có trao đổi vài lời với một tay người Anh đă chụp ảnh cho chúng tôi. - Paker nhún vai.
Leslie Mothershed.
- Ai nữa?
- Ồ vâng. Tôi có nói chuyện chút xíu với một cô ǵ Nga. Cô ta có vẻ rất dễ chịu. Tôi nghi rằng cô ta làm nghề giữ thư viện ở đâu đó.
Olga Romanchanko.
- Thật tuyệt ông c̣n có thể nhớ tới ai nữa không, ông Paker?
- Không, tôi cho rằng thế là… - À, có hai người đàn ông. Một là người Mỹ, một ông Texas.
Dan Wyane.
- Và người kia?
- Ông ta là một người Hungary, chủ một gánh tạp kỹ, hay xiếc hay một thứ đại loại là như thế. - Ông ta cố nhớ. Đó là một gánh tạp kỹ.
- Ông có chắc thế không, ông Paker?
- Ồ chắc. Ông ta c̣n kề cho tôi nghe vài chuyện về công việc của ḿnh mà. Chắc chắn là ông ta rất hồi hộp khi trông thấy cái đĩa bay ấy. Tôi nghĩ là nếu được th́ ông ta đă mang nó về gánh hát của ḿnh để làm một tiết mục phụ rồi. Tôi phải thừa nhận rằng đó là một cảnh thật kinh khủng. Đáng ra tôi phải nói về chuyện nầy nhưng tôi không thể chịu được việc bị lẫn vào cái đám người kỳ quặc nhận xằng là họ đă nh́n thấy những cái đĩa bay.
- Ông ta có t́nh cở cho ông biết tên ḿnh hay không? Cái ông chủ gánh xiếc ấy.
- Có, nhưng đó là một trong những cái tên ngoại quốc không thể phát âm được. Tôi e là ḿnh đă quên mất rồi.
- Ông c̣n nhớ ǵ nữa về ông ta không?
- Chỉ duy nhất có điều là ông ta rất vội trở về. - Ông ta đưa mắt nh́n đồng hồ. - Tôi c̣n có thể làm ǵ nữa cho ông không? Tôi đă bị muộn rồi đấy.
- Thôi, cảm ơn ông Paker. Ông đă giúp tôi rất nhiều.
- Có ǵ đâu ông ta cười một cách nhă nhặn với Robert. Ông phải ghé thăm tôi tại văn pḥng một lúc nào đó. Chúng ta sẽ chuyện tṛ được lâu hơn.
- Thế nào tôi cũng đến.
Gần xong rồi, Robert nghĩ. Họ có thể nhận lấy công việc của ḿnh và giao nó cho người khác. Đă đến lúc thu vén những ǵ c̣n lại của đời ḿnh và bắt đầu lại từ đầu.
Robert gọi điện thoại cho tướng Hilliard.
- Tôi đă gần xong rồi, thưa tướng quân. Tôi đă t́m ra Kevin Paker. Ông ta là một chuyên gia vận động hành lang ở Washington, D.C. Tôi đang trên đường để xác minh nốt người khách cuối cùng.
- Tôi rất hài ḷng, - tướng Hilliard nói. - Ông đă làm việc một cách tuyệt vời, ông sĩ quan. Hăy trở về chồ tôi càng sớm càng tốt.
- Vâng thưa ngài.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc CIA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
9. Kevin Paker - Washington, D. C.
Hết.
Khi Kevin Paker đến quán Danny, ông ta thậm chí thấy c̣n đông khách hơn cả tối hôm trước. Những người đàn ông lớn tuổi th́ mặc những bộ đồ nghiêm túc trong khi hầu hết những người trẻ tuổi th́ chỉ quần ḅ, áo thể thao và đi giày ống. Có một số ít trông không giống ai, mặc những bộ áo liền quần bằng da màu đen, và Paker luôn cảm thấy ghê tởm những "của" đó. Những động tác thô bạo là rất nguy hiểm và ông ta chưa bao giờ lao vào cái thứ sống gấp kỳ quặc đó.
Thận trọng, đó luôn luôn là khẩu hiệu của ông ta. Thận trọng. Cậu thanh niên đẹp trai kia vẫn chưa có ở đó nhưng Paker cũng không sốt ruột. Cậu ta sẽ đến sau, đẹp và tươi trẻ, khi những người khác đều đă mệt mỏi với những thân thể ướt đẫm mồ hôi.
Kevin Paker bước lại quầy rượu, gọi một ly và nh́n quanh. Các màn ảnh tivi trên tường đang truyền những h́nh ảnh của đài truyền h́nh MTW. Danny là một quán S và M - đứng và làm dáng. Những người trẻ tuổi lựa những dáng đứng tỏ ra quyến rũ nhất, trong khi những người già nua - người mua - sẽ ngắm nghía họ và chọn lựa. Những quán S và M là loại thượng hạng nhất. Không bao giờ có những vụ ẩu đả ở đó bởi lẽ hầu hết khách hàng đều mang theo những chiếc răng bọc vàng, và họ không khi nào muốn bị đánh găy răng cả.
Kevin Paker để ư thấy rằng nhiều vị khách đă chọn được bạn chơi của họ. Ông ta lắng nghe những câu chuyện quen thuộc ở xung quanh, và thích thú là nó vẫn rất quen thuộc, cho dù nó diễn ra ở tiệm rượu tiệm nhảy, quán vidéo, hay ở những câu lạc bộ ngầm tuần nào cũng thay đổi địa điểm. Đó là một thứ tiếng lóng riêng biệt.
"Nữ hoàng đó th́ nước non ǵ. Cô ta nghĩ ḿnh là tất cả.
"Hắn xả vào tôi không phải lúc. Hắn ta giận dữ khủng khiếp. Nói những chuyện tế nhi…
"Bạn thích trên hay dưới?
"Trên. Tôi phải gọi hàng đă, em gái búng những ngón tay.
"Tốt. Tớ thích họ.
"Hắn tưởng tớ là cái đầu lọc… Đúng, đó là lối tớ về cân nặng, nước da, thái độ. Tớ bảo, "Mary, Thưa chúng ta thế là xong". Nhưng cũng đau. V́ thế nầy tớ tới đây đêm nay, cố gắng kiếm hắn nhé. Tôi có thể có thêm một ly được không?
Lúc 1 giờ sáng, cậu thanh niên kia bước vào. Cậu ta nh́n quanh và trông thấy Paker, bèn đi tới bên ông ta. Cậu ta c̣n xinh trai hơn là Paker nghĩ.
- Xin chào.
- Xin chào. Xin lỗi, tớ hơi muộn.
- Không sao. Tôi đợi được mà.
Chàng thanh niên rút ra một điều thuốc lá và chờ người đàn ông lớn tuổi châm lửa cho.
- Tôi đă luôn nghĩ đến cậu. - Paker nói.
- Thế hả?
Cặp lông mi của cậu ta thật lạ thường.
- Đúng thế, tôi có thể gọi cho cậu một ly chứ~
- Nếu ông thấy vui với điều đó.
- Cậu có thích làm cho tôi sung sướng không? - Paker mỉm cười.
Cậu ta nh́n thẳng vào mắt ông ta và dịu dàng nói:
- Tôi nghĩ thế.
- Tôi nh́n thấy người đàn ông đi cùng cậu ở đây đêm qua. Ông ta không hợp với cậu.
- Vậy ông sẽ hợp với tôi chứ?
- Có thể lắm. Tại sao chúng ta không thử xem nhỉ? Cậu có muốn đi dạo một chút không?
- Được đấy!
Paker rộn lên v́ hồi hộp.
- Tôi biết một nơi ấm cúng và không bị ai quấy rầy.
- Tốt đấy. Tôi sẽ không uống rượu kia nữa.
Khi họ vửa bước về phía cửa trước th́ hai cánh cửa đột nhiên mở toang và hai thanh niên vạm vỡ bước vào quán. Họ chắn lối cậu thanh niên.
- Đây rồi đồ chó đẻ. Tiền mầy nợ tao đâu?
- Tôi không hiểu anh định nói ǵ. Tôi chưa bao giờ nh́n thấy anh… - Cậu ta nh́n lên, ngơ ngác.
- Đừng có nói với tao cái kiểu cứt đái đó. - Gă kia túm lấy vai cậu và lôi ra ngoài phố.
Paker giận dữ nh́n theo. Ông ta những muốn can thiệp nhưng lại không dám dính vào bất kỳ thứ ǵ có thể dẫn đến một vụ bê bối. Ông ta đứng chôn chân tại chỗ nh́n cậu bé mất hút vào bóng đêm.
Gă thứ hai mỉm cười với Kevin vẻ thông cảm.
- Ông nên chọn bạn cẩn thận hơn. Cậu ta là điềm gở đấy!
Paker nh́n người đang nói một cách kỹ hơn. Gă có mái tóc vàng và khá hấp dẫn, với một h́nh thể gần như tuyệt hảo. Paker có cảm nghĩ rằng sau cùng th́ chưa hẳn là đă mất toi buổi tối nay.
- Có thể là cậu nói đúng, - Ông ta nói.
- Chúng ta không bao giờ biết số phận dành sẵn cho ḿnh những ǵ, phải không nào? - Gă nh́n vào trong mắt Paker.
- Đúng thế Tôi là Tom. Tên cậu là ǵ?
- Paul.
- Paul nầy, tôi có thể mời cậu một ly chứ?
- Cám ơn ông.
- Cậu có chương tŕnh đặc biệt ǵ cho tối nay không?
- Cái đó tuỳ ở ông.
- Cậu có muốn cùng qua đêm nay với tôi không?
- Nghe được đấy.
- Chúng ta đang nói đến bao nhiêu tiền ấy nhỉ?
- Tôi thích ông. Với ông th́ hai trăm.
Ba mươi phút sau, Paul dẫn Kevin Paker vào trong một toà nhà cũ trên phố Jefferson. Họ lên thang gác, tới tầng ba và đi vào một căn pḥng nhỏ. Paker nh́n quanh.
- Tuềnh toàng nhỉ? Vào một khách sạn th́ hơn.
Paul nhoẻn cười.
- Ở đây riêng tư hơn. Ngoài ra th́ chúng ta chỉ cần một cái giường thôi mà.
- Cậu nói đúng. Sao cậu không cởi quần áo ra đi? Tôi muốn nh́n thứ mà tôi đang mua.
- Tất nhiên. - Paul bắt đầu cởi. Gă có một thân thể tuyệt vời Paker nh́n gà và cảm thấy sự đ̣i hỏi quen thuộc bắt đầu dâng lên.
Bây giờ ông cởi quần áo đi, - Paul th́ thầm. - Nhanh lên, tôi thèm muốn ông.
- Tôi cũng thèm muốn em, Mary. - Paker bắt đầu cởi quần áo.
- Ông thích kiểu ǵ? - Paul hỏi. - Trên hay dưới?
Chúng ta hăy dạo đầu một chút đă. Xin lỗi về lối nói cầu kỳ. Chúng ta có cả đêm mà.
- Tất nhiên. Tôi vào buồng tắm. - Paul nói. - Tôi sẽ trở lại ngay thôi.
Paker nằm trần truồng trên giường, chờ đợi những lạc thú tuyệt diệu sắp đến. Ông ta nghe thấy tiếng người bạn chơi ra khỏi buồng tắm và đi về phía giường. Ông ta giang tay ra.
- Lại đây với tôi, Paul, - Ông ta nói.
- Tôi đến đây.
Và Paker cảm thấy đau nhói khi có một lưỡi dao cắm vào ngực. Hai mắt ông ta mở bừng ra, rồi ngước lên, ngáp ngáp.
- Lạy Chúa, cái ǵ…?
Paul mặc quần áo vào.
- Đừng bận tâm về chỗ tiền, - gă nói. - Đó là tiền pḥng.

o0o

Điện khẩn.
Tối mật.
CIA gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
9. Kevin Paker - Washington D.C - Đă bị thủ tiêu
Hết.

o0o

Robert Bellamy không kịp nghe bản tin tối bởi v́ anh đă ở trên một chuyến bay đi Hungary đề t́m kiếm người chủ gánh tạp kỹ.


o0o

 

Pages Previous  1  2  3  4  Next