Âm Mưu Ngày Tận Thế   Sidney Sheldon Pages  1  2  3  4  Next   
Lời nói đầu

Uctendort. Thuỵ Sĩ

Chủ nhật, 14 tháng Mười, lúc 15 giờ 00

Các nhân chứng đứng trên ŕa hiện trường, nh́n trân trối trong im lặng, không thể nói ǵ v́ quá sửng sốt. Quang cảnh trước mắt họ thật kỳ dị, một cơn ác mộng hoang sơ xuất xứ từ đâu đó sâu kín, tối tăm trong tiềm thức tập thể của người nguyên thuỷ. Mỗi nhân chứng có một phản ứng khác nhau.
Người thứ nhất ngất đi. Người thứ hai nôn oẹ. Một phụ nữ run lên bần bật. Một người khác th́ nghĩ: Ḿnh sắp lên cơn đau tim mất. Vị tu sĩ già nắm lấy chuỗi hạt và đưa tay làm dấu.
Hăy giúp con, thưa Cha. Hăy giúp tất cả chúng con. Hăy che chở cho chúng con trước sự hiện h́nh của quỷ dữ.

Dịch giả: Nguyễn Bá Long     

Sau cùng th́ tất cả chúng con đều đă nh́n thấy bộ mặt của Satăng. Đó là ngày tận thế. Ngày phán xử đă đến. Trận chiến cuối cùng là đây…Trận chiến đấu cuối cùng…Trận chiến đấu cuối cùng giữa cái thiện và cái ác.

Chương 1

Ngày thứ nhất.
Thứ hai, 15 tháng Mười
- Anh lại thấy ḿnh trong cái quân y viện chật chội ở căn cứ Củ Chi, Việt Nam và Susan đang cúi người trên giường anh, trông thật đáng yêu trong chiếc áo choàng trắng, th́ thầm, "Tỉnh dậy nào, chàng thuỷ thủ. Anh đâu có muốn chết!".
Và khi nghe thấy giọng nói đầy quyến rũ của cô, anh gần như quên đi sự đau đớn của ḿnh. Cô đang th́ thầm điều ǵ đó nữa bên tai anh, nhưng một cái chuông nào đó đang réo vang, và anh không thể nghe rơ cô nói ǵ. Anh đưa tay kéo cô lại gần nhưng bàn tay chỉ quờ vào một khoảng không.
Chính tiếng chuông điện thoại đă làm Robert Bellamy tỉnh hẳn. Anh miễn cưỡng mở mắt, không muốn giấc mơ qua đi. Chiếc điện thoại bên cạnh giường vẫn réo dai dẳng. Anh nh́n đồng hồ, 4 giờ sáng. Anh chụp lấy máy, bực bội v́ ngủ dỡ mắt, giấc mơ ngắt quăng.
- Quỷ quái thật, có biết mới là mấy giờ không hả?
- Ông chỉ huy Bellamy phải không?
- Phải.
- Tôi có một tin báo cho ông, ông chỉ huy. Ông được lệnh phải tŕnh diện tướng Hilliard tại trụ sở Cục An ninh Quốc gia (NSA) ở Fort Meade vào đúng 6 giờ sáng. Ông đă nghe rơ chưa, thưa ông chỉ huy?
- Rồi. Và chưa. Phần lớn là chưa rơ.
Robert Bellamy chậm chạp đặt ống nghe xuống, trầm ngâm. Chuyện quái ǵ mà NSA đ̣i anh thế nhỉ?
Và chuyện ǵ gấp gáp đến mức phải gặp vào lúc 6 giờ sáng? Anh lại nằm xuống và nhắm mắt lại, cố t́m lại giấc mơ. Giấc mơ giống như thật. Tất nhiên anh biết điều ǵ đă khiến giấc mơ xuất hiện. Susan vừa gọi điện cho anh tối hôm trước.
- Robert…
Như từ bao giờ vẫn vậy, giọng nói của cô luôn có tác động đến anh. Anh run run thở mạnh.
- Chào Susan.
- Mọi chuyện b́nh thường cả chứ, anh Robert?
- Tất nhiên. Tuyệt vời. Moneybags thế nào?
- Thôi đừng, anh.
- Thôi được. Thế Monte Banks thế nào?
Anh đă không thể nói "chồng em". Anh ta là chồng cô ấy, Susan.
- Anh ấy khoẻ. Em chỉ muốn nói với anh là chúng ta sắp phải xa nhau một thời gian. Em không muốn anh phải lo lắng.
Thật đúng là cô ấy, đúng là Susan. Anh cố giữ giọng nói b́nh tĩnh.
- Lần nầy em đi đâu vậy?
- Bọn em bay qua Brasil.
Trên chiếc Boeing 727 của Moneybags.
- Monte có chút công việc ở đó mà.
- Thật ư? Anh nghĩ là chồng em sở hữu cả quốc gia đó.
- Thôi đi Robert. Xin anh.
- Xin lỗi.
Một giây im lặng.
- Em mong anh tỏ ra dễ chịu hơn.
- Nếu em có ở đây th́ hẳn là thế.
- Em muốn anh t́m được một ai đó thật tuyệt vời, và anh hạnh phúc.
- Susan, anh đă t́m được một người tuyệt vời. - Cổ họng anh tắt nghẹn. - Và em biết chuyện ǵ xảy ra không? Anh đă mất cô ấy.
- Nếu anh cứ c̣n nói thế, em sẽ không gọi anh nữa đâu.
Đột nhiên, anh cảm thấy sợ hăi.
- Đừng nói thế. Đừng, em?
Với anh, cô là chiếc phao cứu sinh. Anh không thể chịu nổi ư nghĩ rằng không bao giờ được nói chuyện với cô nữa. Anh cố tỏ ra vui vẻ.
- Anh sẽ ra ngoài và kiếm một cô tóc vàng thật khêu gợi để rồi cùng làm t́nh cho đến bă người ra th́ thôi.
- Em muốn anh kiếm được một ai đó.
- Anh hứa với em đấy.
- Em lo cho anh, em yêu anh!
- Không cần thiết. Anh thật sự b́nh thường. - Anh nghẹn lời với lời nói đối của chính ḿnh. Giá mà cô biết sự thật. Nhưng anh không thể nào mang chuyện của ḿnh ra bàn với ai. Đặc biệt là Susan. Anh không thể chịu được ư nghĩ về sự buồn khổ của cô.
- Từ Brasil, em sẽ gọi điện cho anh. - Susan nói.
Một lúc im lặng. Họ không thể rời nhau ra bởi v́ có quá nhiều điều để nói, quá nhiều thứ tốt hơn là không nên nói đến, không được nói đến.
- Anh Robert, em phải đi đây.
- Susan?
- Dạ.
- Anh yêu em. Anh sẽ luôn luôn yêu em!
- Em biết. Em cũng yêu anh, Robert.
Và đó chính là điều mỉa mai cay đắng. Họ vẫn yêu nhau đến thế.
Hai người thật đẹp đôi, tất cả bạn bè họ đều đă nói như vậy. Điều ǵ đă làm đảo lộn tất cả?
Robert Bellamy ra khỏi giường và đi ngang căn pḥng khách vắng lặng với đôi chân trần. Căn pḥng gợi nhớ sự vắng bóng của Susan. Quanh pḥng là hàng chục tấm ảnh của Susan và anh, những h́nh ảnh đọng lại. Hai người đi câu cá ở vùng cao nguyên Scotland, trước một tượng Phật trên đất Thái Lan, trên một cỗ xe ngựa chạy trong mưa qua những khu vườn Borghese ở Rome. Và trong mỗi tấm ảnh, họ đều đang cười và ôm chặt lấy nhau, hai con người đang yêu nhau nồng thắm.
Anh đi vào pḥng bếp đặt một b́nh cà phê. Đồng hồ chỉ 4 giờ 15. Anh lưỡng lự giây lát, rồi nhấc điện thoại quay số. Sáu hồi chuông réo và sau cùng anh nghe thấy tiếng Đô đốc Whittaker ở đầu dây đằng kia.
- Hêlô.
- Thưa Đô đốc.
- Ǵ vậy?
- Đây là Robert. Tôi thật xin lỗi v́ đă đánh thức ngài. Tôi vừa có một cú điện thoại khá kỳ lạ từ Cục an ninh quốc gia.
- NSA à? Họ muốn ǵ vậy?
- Tôi không biết. Tôi được lệnh tŕnh diện tướng Hilliard vào lúc 6 giờ.
Một thoáng im lặng trầm ngâm.
- Có thể là người ta định chuyển anh sang đó.
- Không thể thế được. Điều đó thật vô lư. Sao họ lại…
- Robert, rơ ràng là có chuyện ǵ đấy khẩn cấp.
- Sao anh không gọi lại cho tôi sau cuộc gặp nhỉ?
- Tôi sẽ gọi. Cảm ơn ngài.
Cuộc đối thoại chấm dứt. Robert nghĩ: lẽ ra ḿnh không nên làm phiền ông già. Đô đốc đă rời chức vụ đứng đầu T́nh báo hải quân để nghỉ hưu từ hai năm trước đây. Bị buộc phải nghỉ hưu th́ đúng hơn. Người ta bàn tán rằng để an ủi, Bộ Hải quân đă dành cho ông một văn pḥng nhỏ ở đâu đó để ngồi chơi xơi nước với mấy thứ công việc vớ vẩn. Giờ đây, ông Đô đốc không hề biết ǵ về những hoạt động t́nh báo hiện nay. Nhưng ông là thầy của Robert. Ông là người gần gũi với Robert hơn bất kỳ ai trên thế gian nầy, tất nhiên là không kể Susan. Mà Robert th́ cần phải nói chuyện với ai đó. Với việc Susan ra đi, anh cảm thấy hoàn toàn mất thăng bằng và luôn tưởng tượng rằng ở một nơi nào đó, trong một thời gian và không gian khác, anh và Susan vẫn đang là một cặp vợ chồng hạnh phúc, cười đùa vô tư và yêu thương nhau. Hoặc có thể là không, Robert mệt mỏi nghĩ. Có thể do ḿnh đă không biết khi nào nên dừng lại.
Cà phê đă xong. Vị đắng ngắt. Anh băn khoăn không biết liệu có phải nó được nhập về từ Brasil hay không nữa.
Anh mang theo ly cà phê vào pḥng tắm và ngắm ḿnh trong gương. Anh đang nh́n vào một người đàn ông ở độ tuổi bốn mươi, cao to và khoẻ mạnh, khuôn mặt rắn rỏi, cái cằm khoẻ, mái tóc đen và cặp mắt sẫm, sắc sảo, thông minh. Trên ngực anh là một vết sẹo dài và sâu, kỷ niệm vụ máy bay rơi. Nhưng đó là ngày hôm qua. Đó là Susan. C̣n lúc nầy là hôm nay. Không có Susan. Anh cạo râu, tắm và rồi bước lại tủ quần áo. Ḿnh mặc ǵ nhỉ, anh băn khoăn. Đồng phục Hải quân hay đồ dân sự? Mà nào ai quan tâm đâu nhỉ? Anh khoác lên người bộ complê màu tàn thuôc lá cùng với chiếc sơmi trắng và chiếc càvạt màu lục lam. Anh biết rất ít về Cục An ninh quốc gia, chỉ biết cái Dinh Thự bí mật đó, như người ta đặt tên lóng cho nó, đă thay thế cho tât cả các cơ quan t́nh báo khác của nước Mỹ và là cơ quan bí mật nhất trong tất cả số đó. Họ muốn ǵ ở ḿnh? Ḿnh sẽ biết ngay thôi mà.


Chương 2

Cục An ninh quốc gia nằm ẩn ḿnh kín đáo trong một cánh rừng hoang rộng tám mươi hai mẫu ở Fort Meade, bang Maryland, với hai toà nhà lớn gấp đôi khu trụ sở CIA ở Langley, bang Virginia. Cơ quan nầy được lập ra nhằm giúp đỡ kỹ thuật để bảo vệ các kênh thông tin của nước Mỹ và thu lượm các số liệu t́nh báo điện tử trên khắp thế giới, hoạt động khủng khiếp đến mức mỗi ngày nó sản sinh ra chừng bốn mươi tấn tài liệu.
Khi Robert Bellamy đến cổng th́ trời vẫn c̣n tối. Anh cho xe đỗ sát bờ tường cao tới hai mét rưỡi, c̣n căng dây thép gai phía trên. Một bốt gác đặt ở đó với hai người bảo vệ có vũ trang. Một người lính đứng lại bên trong nh́n ra trong lúc người kia tiến đến bên chiếc xe.
- Tôi có thể giúp ǵ cho ông?
- Sĩ quan chỉ huy Bellamy tới gặp tướng Hilliard.
- Xin ông cho xem giấy tờ, ông chỉ huy?
Robert Bellamy móc ví và lấy tấm thẻ căn cước của anh có ghi Pḥng 17 T́nh báo hải quân. Người lính gác xem tấm thẻ một cách cẩn thận và đưa trả lại cho anh.
- Cảm ơn ông chỉ huy.
Anh ta gật đầu với người lính đứng trong bốt gác, và cánh cổng mở ra. Người lính gác phía trong nhấc điện thoại.
- Sĩ quan chỉ huy Bellamy đang trên đường vào.
Một phút sau, Robert Bellamy tiến đến trước một chiếc cổng điện đóng kín bưng.
Một người lính gác tiến đến bên chiếc xe.
- Sĩ quan chỉ huy Bellamy phải không?
- Đúng vậy.
- Xin phép được xem giấy tờ của ông?
Anh đă toan phản đối nhưng rồi lại nghĩ. Thây kệ. Đây là lănh địa của họ mà. Anh lại móc ví ra và đưa tấm thẻ cho người lính.
- Cảm ơn ông chỉ huy. - Người lính làm một tín hiệu nào đó không rơ, và cánh cổng mở ra.
Khi Robert Bellamy lái xe tiến vào, anh lại nh́n thấy một bức tường bảo vệ thứ ba ở trưóc mặt. Lạy Chúa, anh nghĩ, ḿnh đang ở trong vùng cấm rồi.
Một người gác mặc quân phục khác bước lại bên chiếc xe. Khi Robert Bellamy đưa tay để lấy chiếc ví ra th́ người gác nh́n biển số xe và nói:.
- Xin chạy thẳng tới toà nhà điều hành, thưa ông chỉ huy. Sẽ có người đón ông tại đó.
- Cám ơn.
Cánh cổng mở ra, và Robert cứ theo đường xe chạy, tới bên một toà nhà khổng lồ trắng toát. Một người đàn ông mặc đồ dân sự đang đứng đợi phía bên ngoài, run lên v́ những cơn gió lạnh của tháng mười.
- Ông chỉ huy, ông có thể để xe ở ngay đó. Chúng tôi sẽ lo sau. - Anh ta gọi to.
Robert Bellamy để ch́a khoá lại trong xe và bước ra. Người đàn ông đứng đón anh chừng ba mươi tuổi, dáng cao, gầy, nước da mai mái.
- Tôi là Harrison Keller. Tôi sẽ đưa ông đến pḥng làm việc của tướng Hilliard.
Họ đi vào một pḥng tiền sảnh lớn, trần nhà cao.
Một người đàn ông mặc đồ dân sự đang ngồi sau chiếc bàn.
- Sĩ quan chỉ huy Bellamy.
Robert Bellamy quay người lại. Anh nghe tiếng kêu tách của một chiếc máy ảnh.
- Cám ơn ngài.
- Cái ǵ? - Robert Bellamy quay sang Keller.
- Chỉ mất một phút thôi. - Keller đoán chắc với anh.
Sáu mươi giây sau, Robert Bellamy được trao cho một tấm phù hiệu nhận dạng màu xanh trắng với ảnh của anh trên đó.
- Xin ông đeo tấm phù hiệu nầy liên tục trong thời gian ông ở trong toà nhà nầy, ông chỉ huy.
Được. Họ bắt đầu đi theo một hành lang dài, sơn màu trắng, Robert Bellamy thấy những chiếc camêra bảo vệ được đặt cách nhau chừng sáu mét dọc theo cả hai bên hành lang.
- Toà nhà nầy có lớn lắm không?
- Khoảng hơn hai trăm ngàn mét vuông, thưa ông chỉ huy…
- Thế cơ à?
- Dạ. Cái hành lang nầy là hành lang dài nhất thế giới - ba trăm hai mươi lăm mét. Chúng tôi hoàn toàn tự nhốt ḿnh ở đây. Tại đây có một trung tâm mua bán, tiệm cà phê, trạm bưu điện, tám Snackbar, một bệnh viện kèm theo một pḥng mổ, một pḥng khám nha khoa, một chi nhánh ngân hàng nhà nước của vùng Laurel, một tiệm giặt là, một tiệm giầy, một hiệu cắt tóc và một vài cửa hàng linh tinh khác nữa.
Một cái nhà ở xa của ḿnh, Robert nghĩ. Anh cảm thấy chán nản một cách kỳ lạ.
Họ đi ngang qua một khu vực rộng lớn đầy những máy tính điện tử. Robert dừng chân, kinh ngạc.
- Một ấn tượng mạnh, phải không ạ? Đó mới chỉ là một trong số những pḥng máy tính của chúng tôi. Hệ thống nầy gồm những máy giải mă và những máy tính trị giá 3 tỉ đôla.
- Có tất cả bao nhiêu người làm việc ở đây?
- Khoảng mười sáu ngàn.
Anh được dẫn vào chiếc thang máy, loại dành riêng, mà Keller sử dụng với một ch́a khoá. Họ đi lên tầng trên và bắt đầu theo một lối khác trên dăy hành lang dài cho tới khi họ tới khu pḥng làm việc ở phía cuối hành lang.
- Ngay trong nầy thôi, ông chỉ huy.
Họ bước vào một pḥng đợi lớn, với bốn bàn thư kư. Hai trong số thư kư đă đến làm việc. Harrison Keller gật đầu với một trong hai người, và cô ta bấm một cái nút. Cánh cửa dẫn vào căn pḥng phía trong bật mở.
- Xin mời vào, thưa quư vị. Tướng quân đang đợi các ông.
- Đi lối nầy. - Harrison Keller nói.
Robert Bellamy lặng lẽ theo anh ta. Anh thấy ḿnh bước vào căn pḥng rộng lớn, trần nhà và tường đều được bọc một lớp cách âm dầy. Căn pḥng đầy đủ tiện nghi, với nhiều những bức ảnh và vật kỷ niệm có tính chất cá nhân. Rơ ràng là người đàn ông ngồi sau chiếc bàn kia đă ở đây khá lâu rồi.
Tướng Mark Hilliard, phó giám đốc NSA, có vẻ chừng giữa tuổi 50, dáng rất cao, khuôn mặt nổi bật với cặp mắt giá lạnh, sắt đá, tư thế đĩnh đạc. Ông tướng mặc một bộ complê mà xám, chiếc sơmi trắng và càvạt xám. Ḿnh đă đoán đứng, Robert nghĩ.
Harrison Keller cất tiếng:
- Báo cáo tướng Hilliard, đây là sĩ quan chỉ huy Bellamy.
- Cảm ơn ông đă ghé qua, ông sĩ quan.
Cứ như là một lời mời đên dự bữa tiệc trà vậy.
Hai người đàn ông bắt tay nhau.
- Mời ngồi. Tôi xin cược là ông muốn dùng một ly cà phê.
Ông ta đọc được ư nghĩ người khác.
- Vâng, thưa ngài.
- C̣n Harrison?
- Không, cảm ơn ngài. - Anh ta ngồi xuống một chiếc ghế dựa ở góc pḥng.
Một nút bấm được ấn xuống, cánh cửa mở ra, một người phương Đông mặc đồng phục bước vào với một khay cà phê và bánh nướng Đan Mạch. Robert để ư thấy anh ta không đeo phù hiệu nhận dạng. Thật tệ.
Cà phê được rót ra. Mùi thơm ngào ngạt.
- Ông uống thế nào nhỉ? - Tướng Hilliard hỏi.
- Uống đen ạ. - Ly cà phê thật ngon.
Hai người đàn ông ngồi đối diện nhau, trên những chiếc ghế da mềm.
- Ngài giám đốc yêu cầu tôi gặp ông.
Ngài giám đốc, Edward Sanderson. Một nhân vật huyền thoại trong nghề gián điệp. Một nghệ sĩ rối, bậc thầy, tài ba và nhẫn tâm, nổi danh với vỉệc tổ chức hàng chục cuộc đảo chính táo bạo trên khắp thế giới ít khi người ta nh́n thấy ông xuất hiện trước công chúng mà chỉ thầm th́ nói về ông ta ở chốn riêng tư.
- Ông đă ở pḥng 17 ngành t́nh báo hải quân bao lâu rồi, ông sĩ quan? - Tướng Hilliard hỏi.
- Mười lăm năm. Robert không úp mở. Anh dám đánh cược cả tháng lương rằng ông tướng có thể nói chính xác ngày anh gia nhập ONI.
- Trước đó, tôi tin là ông đă chỉ huy một phi đội máy bay của Hải quân ở Việt Nam.
- Thưa ngài, vâng.
- Ông đă bị bắn rơi. Họ không nghĩ là ông có thể qua khỏi.
Tay bác sĩ nói: "Hăy quên anh ta đi. Anh ta sẽ không qua được được đâu". Anh đă muốn chết đi cho rảnh. Sự đau đớn thật không thể chịu nổi. Và rồi Susan đang cúi xuống bên anh: "Mở mắt ra nào, chàng thuỷ thủ anh đâu có muốn chết". Anh đă bắt hai mắt ḿnh phải mở ra và qua sự lờ mờ trong đau đớn, nh́n thấy người phụ nữ đẹp nhất mà anh từng thấy trên đời. Cô có khuôn mặt trái xoan mềm mại, mái tóc đen dầy, đôi mắt nâu long lanh và một nụ cười ấm ḷng. Anh đă cố mở miệng nói, nhưng điều đó quá sức.
Tướng Hilliard đang nói điều ǵ đó.
Robert Bellamy kéo đầu óc ḿnh trở về với hiện tại.
- Ngài nó́ ǵ, thưa tướng quân?
- Chúng ta có một rắc rối, ông sĩ quan. Chúng tôi cần sự giúp đỡ của ông.
- Chuyện ǵ vậy, thưa ngài?
Ông tướng đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại.
- Điều tôi sắp nói với ông là một vấn đề rất nhạy cảm. Nó c̣n trên mức tối mật.
- Rơ, thưa ngài.
Ngày hôm qua, ở vùng núi Alps, Thuỵ Sĩ, một quả bóng thám không thời tiết của NATO đâm vào núi. Có một vài dụng cụ thí nghiệm quân sự tối mật ở trên quả cầu đó.
Robert thấy ḿnh bỗng phân vân, không hiểu tất cả những chuyện nầy sẽ dẫn tới đâu.
- Chính phủ Thuỵ Sĩ đă chuyển tất cả những dụng cụ nầy khỏi quả cầu đó, nhưng đáng tiếc là h́nh như có một số người đă chứng kiến vụ tai nạn. Điều có tính quan trọng sống c̣n là không ai trong số họ được nói với bất kỳ ai khác về những ǵ họ đă trông thấy. Bởi nó có thể cung cấp những thông tin quư giá cho một số nước nhất định. Ông nghe tôi nói đấy chứ?
- Thưa ngài, tôi nghĩ là như vậy. Ông muốn tôi nói chuyện với các nhân chứng và cảnh cáo họ không bàn tán về những ǵ họ đă trông thấy.
- Không hoàn toàn như vậy, ông sĩ quan.
- Vậy th́ tôi không hiểu?
- Tôi muốn ông đơn thuần t́m ra những nhân chứng nầy. Những người khác sẽ nói với họ về sự im lặng cần thiết kia.
- Tôi hiểu. Tất cả những nhân chứng nầy đều ở Thuỵ Sĩ ư?
Tướng Hilliard dừng lại trước mặt Robert.
- Đó chính là khó khăn của chúng ta, ông sĩ quan ạ ông biết đấy, chúng ta không hề biết họ là ai. Hay họ ở đâu.
Robert nghĩ là anh đă bỏ qua điều ǵ đó.
- Xin ngài nói lại?
- Chúng ta chỉ có một thông tin duy nhất là các nhân chứng đi trên một chiếc xe buưt du lịch theo tuyến. Họ ngẫu nhiên đi qua hiện trường khi quả bóng thám không bị nạn gần một làng nhỏ tên là… ông ta quay sang Harrison Keller.
- Uctendort.
Viên tướng quay lại phía Robert.
- Khách xuống xe trong ít phút để xem vụ tai nạn và rồi lại tiếp tục đi. Khi chuyến du lịch kết thúc, những người khách nầy lại tản đi tứ phương.
Robert chậm răi nói:
- Thưa tướng quân Hilliard, có phải ngài đang nói rằng không hề có hồ sơ ǵ về việc những người nầy là ai hoặc họ đă đi đâu ư?
- Đúng thế.
- Và ngài muốn tôi sang đó t́m họ?
- Đúng thế. Ông đă được người ta tin cậy tiến cử. Tôi nghe nói ông có thể nói lưu loát dăm bảy thứ ngôn ngữ, và ông có một tiểu sứ hoạt động tuyệt vời: Ngài giám đốc đă thu xếp để ông được tạm thời chuyển sang NSA.
- Khủng khiếp thật! Tôi cho là tôi sẽ làm việc với chính phủ Thuỵ Sĩ về chuyện nầy?
- Không, ông sẽ làm việc một ḿnh thôi.
- Một ḿnh? Thế nhưng…
- Chúng ta không được kéo bất kỳ ai khác vào sứ mệnh nầy. Tôi không sao nói hết được tầm quan trọng của những ǵ có trong quả cầu đó, ông sĩ quan ạ. Vấn đề là thời gian. Tôi muốn ông báo cáo với tôi về kết quả mỗi ngày của công việc ông làm.
Viên tướng viết một con số lên tấm các và đưa nó cho Robert.
- Có thể gọi tôi ở số máy nầy, ngày cũng như đêm. Một chiếc máy bay đang đợi để đưa ông tới Zurich. Ông sẽ được đưa về chỗ ở để thu xếp hành lư cần thiết, và rồi ông sẽ được đưa ra sân bay.
Quá nhiều cho lời "Cảm ơn ông đă ghé qua". Robert muốn hỏi "Sẽ có người cho mấy con cá vàng của tôi ăn trong thời gian tôi đi vắng chứ?" nhưng anh có cảm giác rằng câu trả lời sẽ là "ông không có con cá vàng nào cả"
- Ông sĩ quan, trong công việc của ông bên ONI, tôi cho là ông có những quan hệ t́nh báo ở nước ngoài?
- Thưa ngài, vâng. Tôi có một vài người bạn có thể có ích.
- Ông không được tiếp xúc với bất kỳ ai trong số họ. Ông không được phép có bất kỳ tiếp xúc nào cả. Không c̣n nghi ngờ là những nhân chứng mà ông sẽ t́m kiếm là công dân của nhiều nước khác nhau. - Viên tướng quay sang Harrison Keller.
Keller bước đến bên một chiếc tủ hồ sơ ở góc pḥng và mở ra. Anh ta lấy một phong b́ lớn, chuyển cho Robert.
- Có năm mươi ngàn đôla trong nầy bằng một số đồng tiền châu Âu khác nhau và hai mươi ngàn đôla Mỹ. Ông cũng sẽ thấy dăm bộ giấy tờ giả sẽ được chuyển đến vào lúc cần thiết.
Tướng Hilliard giơ ra một tấm các bọc nhựa màu đen bóng và dầy cộp với một vạch trắng trên đó.
- C̣n đây là chiếc thẻ tín dụng.
- Tôi không cho là tôi sẽ cần đến nó, thưa tướng quân. Số tiền mặt sẽ là đủ, và tôi c̣n một chiếc thẻ tín dụng của ONI rồi.
- Cầm lấy.
- Tốt thôi. - Robert xem xét tấm thẻ. Nó được đảm bảo bởi một nhà băng mà anh chưa bao giờ được nghe thấy tên. Phía dưới tấm thẻ có một số điện thoại.
- Không có cái tên nào trên thẻ cả. - Robert nói.
- Nó tương đương với một tấm ngân phiếu trắng đấy. Nó không đ̣i hỏi sự nhận diện nào. Hăy yêu cầu họ gọi điện đến số máy trên thẻ khi ông mua một thứ ǵ đó. Điều quan trọng là ông phải luôn luôn giữ nó trong người.
- Vâng.
- Và nầy, ông sĩ quan?
- Dạ, thưa ngài.
- Ông phải t́m được những nhân chứng đó. Tất cả bọn họ. Tôi sẽ thông báo với giám đốc rằng ông đă bắt đầu nhận nhiệm vụ nầy.
Cuộc gặp gở kết thúc.
Harrison Keller tiễn Robert ra pḥng ngoài. Một lính thuỷ đánh bộ mặc quân phục đă ngồi ở đó. Anh ta đứng dậy khi hai người bước vào pḥng.
- Đây là đại uư Dougherty. Anh ấy sẽ đưa ông ra sân bay. Chúc may mắn.
- Cảm ơn.
Hai người bắt tay nhau. Keller quay đi và bước trở vào văn pḥng của tướng Hilliarđ.
- Ông đă sẵn sàng chưa, thưa ông sĩ quan chỉ huy? - Đại uư Dougherty hỏi.
- Rồi.
Mà sẵn sàng ǵ mới được cơ chứ? Trong qụá khứ, anh đă giải quyết nhiều nhiệm vụ t́nh báo phức tạp, nhưng chưa bao giờ có chuyện điên rồ như thế nầy. Người ta muốn anh t́m kiếm một số lượng không rơ những nhân chứng không được biết là ai và không biết là người nước nào. Xác suất được thua trong chuyện nầy ra sao đây? Robert phân vân. Ḿnh cảm thấy giống như Nữ hoàng Trắng trong Xuyên qua lớp kính vậy. Sao có lúc tôi tin là có tới sáu điều không thể được trước bữa ăn sáng. Ồ, đây là cả sáu điều đó cộng lại.
- Tôi được lệnh đưa ông thẳng về chỗ ở và rồi ra căn cứ không quân Andrews, - đại uư Dougherty nói. - Có một chiếc máy bay đang đợi.
Robert lắc đầu.
- Tôi phải ghé vào cơ quan tôi trước đă.
Dougherty lưỡng lự.
- Cũng được. Tôi sẽ cùng đi với ông đến đó và đợi ông.
Dường như không thấy anh th́ họ không tin anh vậy. Bởi v́ anh đă biết có một quả bóng thám không bị nạn ư? Điều đó thật vô lư. Anh trao lại tấm phù hiệu của ḿnh tại bàn đón tiếp và bước ra ngoài trời giá lạnh, rạng sáng. Chiếc xe của anh không c̣n đó.
Thay vào chỗ đó là một chiếc xe sang trọng dài thượt.
- Chiếc xe của ông sẽ được bảo quản, thưa ông chỉ huy, - đại uư Dougherty nói với anh. - Chúng ta sẽ đi chiếc xe nầy.
Có một sự quan tâm chu đáo về tất cả đến mức Robert cảm thấy hơi khó chịu.
- Được anh nói.
Và họ lên đường tới Cục T́nh báo hải quân. Mặt trời buổi sớm mờ nhạt đă biến mất sau những đám mây mưa. Sẽ là một ngày xấu. Theo nhiều nghĩa chứ không hẳn chỉ là một, Robert nghĩ.


Chương 3

Ottawa, Canada, 24 giờ 00
Mật danh của ông ta là Janus. Ông ta đang tŕnh bày trước mười hai người trong một căn pḥng được bảo vệ cẩn mật nằm trong một khu vực quân sự.
- Như tất cả các ông đă được thông báo, Chiến dịch Ngày Tận Thế đă được bắt đầu. Có một số các nhân chứng phải được t́m ra một cách nhanh chóng và lặng lẽ nhất ở chừng mức có thể. Chúng ta không thể tính chuyện t́m kiếm họ thông qua các kênh an ninh chính quy do nguy cơ bị tiết lộ.
- Chúng ta đang dùng ai vậy? - Người Nga. Nóng nảy. To lớn.
- Tên anh ta là Robert Bellamy, sĩ quan chỉ huy.
- Anh ta được lựa chọn như thế nào vậy? - Người Đức. Vẻ quư tộc. Tàn nhẫn.
- Viên sĩ quan nầy được chọn sau khi máy tính t́m kiếm một cách kỹ càng trong các hồ sơ của CIA, FIA, và nửa tá cơ quan t́nh báo khác.
- Xin cho tôi được hỏi về những phẩm chất của anh ta? - Người Nhật Bản. Lịch sự. Quỷ quyệt.
- Sĩ quan chỉ huy Bellamy là sĩ quan nghiệp vụ nói được sáu thứ tiếng một cách thành thạo và có một lư lịch mẫu mực. Anh ta liên tiếp tỏ ra hết sức năng lực. Anh ta không c̣n ai thân thích đang sống.
- Anh ta biết ǵ về tính cấp bách của vụ nầy không? - Người Anh. Trưởng giả. Nguy hiểm.
- Anh ta biết. Chúng ta hoàn toàn có thể mong đợi rằng anh ta sẽ rất nhanh chóng t́m thấy tất cả các nhân chứng.
- Anh ta có biết mục đích của sứ mệnh ḿnh đang làm không? - Người Pháp. Ưa tranh luận. Bướng bỉnh.
- Không.
- Và khi anh ta đă t́m thấy các nhân chứng th́ sao? - Người Trung Quốc thông minh. Kiên nhẫn.
- Anh ta sẽ được khen thưởng xứng đáng.


Chương 4

Trụ sở cục T́nh báo hải quân chiếm toàn bộ tầng năm của khu Ngũ Giác Đàirộng lớn, một tầng nhà lọt thỏm giữa cái khu trụ sở làm việc lớn nhất thế giới, với tổng cộng mười bảy dặm hành lang và hai mươi chín ngh́n nhân viên quân sự và dân sự.
Nội thất của trụ sở Cục phản ánh truyền thống đi biển của nó. Bàn làm việc và tủ hồ sơ hoặc mang màu xanh ôliu, của thời chiến tranh thế giới thứ hai, hoặc màu xám của tàu chiến, trong thời kỳ chiến tranh Việt nam. Tường và trần nhà được sơn màu da ḅ hoặc màu kem. Hồi đầu, Robert không thể chịu nổi cách trang trí nội thất kiểu Spartan nầy, nhưng từ lâu nay, anh đă trở nên quen thuộc với nó.
Lúc nầy, khi anh bước vào toà nhà và tiến lại bàn thường trực, người lính gác quen thuộc ngồi sau bàn nói:
- Xin chào ông sĩ quan chỉ huy. Tôi có thể xem giấy ra vào của ông được không ạ?
Robert đă làm việc ở đây 7 năm, nhưng thủ tục nầy chưa bao giờ thay đổi. Anh xuất tŕnh giấy tờ theo đúng bổn phận của ḿnh.
- Cám ơn ông chỉ huy.
Trên đường tới pḥng làm việc của ḿnh, Robert nghĩ tới đại uư Dougherty đang đợi anh trong khu đậu xe phía cổng vào lối bờ sông. Anh ta đang chờ để đưa anh ra chuyến bay tới Thuỵ Sĩ, bắt đầu một cuộc đi săn vô vọng.
Khi Robert tới pḥng làm việc của ḿnh, cô thư kư Barbara của anh đă ở đó.
- Xin chào ông chỉ huy. Ông phó giám đốc muốn gặp ông tại pḥng làm việc của ông ấy.
- Ông ấy có thể đợi. Hăy liên lạc với Đô đốc Whittaker cho tôi.
- Thưa ông, vâng.
Một phút sau, Robert đă đang nói chuyện với Đô đốc.
- Tôi cho là anh đă kết thúc cuộc gặp của anh rồi phải không, Robert?
- Cách đây chỉ vài phút.
- Chuyện thế nào?
- Cũng thú vị. Ngài có rảnh để đến ăn sáng với tôi không, thưa Đô đốc? - Anh cố giữ giọng nói b́nh thường. Không hề có chút lưỡng lự nào.
- Được. Chúng ta sẽ gặp nhau ở đó chứ?
- Vâng. Tôi sẽ để sẵn cho ngài tấm giấy ra vào dùng cho khách.
Rất tốt. Tôi sẽ đến anh trong ṿng một giờ.
Robert gác máy và nghĩ. Việc ḿnh phải để giấy ra vào dùng cho khách cho ngài Đô đốc: thật là điều mỉa mai. Chỉ mới cách đây vài năm, ông c̣n là một ông gíà đáng kính đây, phụ trách T́nh báo hải quân.
Ông nghĩ ǵ về chuyện đó nhỉ?
Robert bấm nút gọi thư kư của anh trên máy liên lạc nội bộ:
- Dạ, thưa ông chỉ huy?
- Tôi đang chờ Đô đốc Whittaker. Thu xếp một giấy ra vào cho ông.
- Tôi sẽ lo việc đó ngay ạ.
Bây giờ đă đến lúc phải tŕnh diện lăo phó giám đốc. Lăo Dustin Thornton khốn kiếp.

Chương 5

Lustin Thornton "bẩn thỉu", phó giám đốc Cục T́nh báo hải quân, đă nổi tiếng là một trong những vận động viên điền kinh xuất sắc nhất trong số những người tốt nghiệp trường Annapolis. Thornton có được cái vị trí cao hiện nay là nhờ một trận bóng bầu dục.
Nói chính xác là một trận đấu giữa Lục quân và Hải quân. Thornton, một sinh viên sắp tốt nghiệp của Annapolis, với dáng người cao to lừng lững, giữ chân hậu vệ trong trận đấu quan trọng nhất trong năm của Hải quân. Vào đầu hiệp thứ tư, Lục quân đang dẫn 13-0, hai lần được phạt sau gôn và sắp đến lúc đổi sân, số mệnh đă can thiệp và thay đổi cuộc đời Thornton. Anh ta chặn được một đường chuyền của Lục quân, xoay người và lướt qua đội h́nh của đối phương để dành một cú phạt tiếp gôn. Hải quân để lỡ cơ hội ghi điểm nhưng nhanh chóng có được một bàn thắng. Sau cú phát bóng sau đó, Lục quân để lỡ cơ hội đầu tiên và phạm lỗi bên sân Hải quân. Tỉ số trận đấu lúc đó là Lục quân 13, Hải quân 9, và thời gian đang trôi mau.
Khi trận đấu bắt đầu trở lại, một quả bóng được chuyền cho Thornton và anh ta bị chèn ngă bởi một cầu thủ Lục quân. Phải mất một lúc lâu anh ta mới đứng dậy được. Viên bác sĩ chạy vào sân. Thornton giận dữ xô ông ta ra.
Chỉ c̣n ít giây nữa, các cầu thủ la hét gọi một đường chuyền biên. Thornton được được bóng ở ngay trên vạch năm mét năm mươi của anh ta và dẫn bóng lên với tốc độ và sức mạnh dường như không ǵ cản nổi. Anh ta lao qua đội h́nh đối phương như một chiếc xe tăng, quật ngă tất cả những kẻ thiếu may mắn ngáng đường. Chỉ c̣n hai giây nữa, Thornton vượt qua đường biên ngang với bàn thắng quyết định, và lần đầu tiên trong bốn năm trời, Hải quân đă có trận thắng Lục quân. Nhưng bản thân điều đó không có mấy tác động đến cuộc đời của Thornton. Điều đă làm cho trận đấu nầy trở nên có ư nghĩa là việc Willard Stone và con gái là Eleanor ngồi trong khu dành riêng cho những nhân vật quan trọng. Khi đám đông khán giả đứng cả dậy, reo ḥ chúc mừng người anh hùng của Hải quân th́ Eleanor quay sang cha và th́ thào nói: "Con muốn gặp anh ta".
Eleanor Stone là một phụ nữ đầy ham muốn. Cô ả có khuôn mặt thô, một thân h́nh nở nang và những đ̣i hỏi không thể nào thoả măn được. Ngắm nh́n Dustin Thornton lừng lững trên sân, cô ả đă cố h́nh dung xem anh ta sẽ như thế nào ở trên giường. Giá mà cái kia của anh ta cũng to như thân thể… Cô ả đă không phải thất vọng.
Sáu tháng sau, Eleanor và Dustin Thornton làm đám cưới. Đó là điểm khới đầu. Dustin Thornton đi làm cho bố vợ và được đưa vào một thế giới huyền bí mà anh ta nằm mơ cũng không thấy.
Willard Stone, bố vợ của Thornton, là một người đàn ông kỳ lạ. Một tỉ phú với những mối liên hệ chính trị đầy thế lực và một quá khứ được che phủ trong một bức màn bí mật. Ông ta là một nhân vật trong bóng tối có thể giật dây mọi chuyện tại các thủ đô trên khắp thế giới. Khi đó, ông ta đă ở tuổi 60, một người đàn ông thận trọng mà mỗi cử chỉ đều chính xác và hợp lư, một con người sắc sảo với cặp mắt sụp xuống không bao giờ để lộ điều ǵ. Willard Stone tin rằng không nên phung phí những lời nói và t́nh cảm, và để đạt được mục đích th́ ông ta sẵn sàng tàn nhẫn.
Những lời đồn đại về Willard Stone thật huyền bí. Ông ta được cho là đă hạ sát một đối thủ cạnh tranh ở Malaysia và có một cuộc t́nh nồng cháy với người vợ yêu của một vị tiểu vương. Người ta nói rằng chính ông ta đă trợ giúp cho một cuộc cách mạng thành công ở Nigiêria. Chính phủ đă có dăm bảy phán quyết chống lại ông ta, nhưng chúng luôn luôn bị bỏ rơi nửa chừng một cách bí hiểm. Rồi chuyện về các vụ hối lộ các thượng nghị sĩ bị mua chuộc, các bí mật kinh doanh hị đánh cắp, và những nhân chứng bị mất tích…
Stone là một cố vấn cho các tổng thống và các quốc vương. Ông ta là một thế lực trần trụi và thô thiển.
Một trong số rất nhiều những tài sản của ông ta là một dinh thự rộng lớn, biệt lập trên vùng núi bang Colorado, nơi hàng năm, các nhà khoa học, các ông chủ công nghiệp, và các nhà lănh đạo thế giới tụ họp với những cuộc bàn bạc bí mật. Lính gác có vũ trang ngăn chặn tất cả những vị khách không được mời.
Willard Stone không chỉ tán thành cuộc hôn nhân của con gái, mà c̣n khuyến khích nó. Thằng con rể mới của ông trông sáng sủa, đầy tham vọng và quan trọng nhất là có vẻ dễ bảo.
Mười hai năm sau cuộc hôn nhân đó, Stone thu xếp để Dustin được bo nhiệm làm đại sứ tại Nam Triều Tiên. Mấy năm sau, Tổng thống bổ nhiệm ông ta làm đại sứ tại Liên Hiệp Quốc. Khi Đô đốc Ralph Whittaker đột ngột bị đẩy khỏi chức vụ quyền giám đốc Cục T́nh báo hải quân, Thornton đă ngồi vào vị trí nầy.
Ngay hôm đó, Willard Stone hứa:
- Tao có những kế hoạch lớn cho mầy, Dustin. Những kế hoạch vĩ đại. - Và ông ta phác ra những nét lớn.
Hai năm trước, Robert có cuộc gặp đầu tiên vớỉ vị quyền giám đốc mới của ONI.
- Ngồi xuống, ông sĩ quan. - Không một vẻ thân t́nh trong giọng nói của Dustin Thornton. - Qua hồ sơ về ông, tôi biết ông là một tay vô tổ chức, đại loại là như vậy.
Lăo muốn nói chuyện quái quỷ ǵ vậy nhỉ? Robert băn khoăn. Anh quyết định phải giữ mồm giữ miệng.
Thornton ngước mắt lên.
- Tôi không biết Đô đốc Whittaker điều hành cái Cục nầy như thế nào thời ông ta phục trách, nhưng kể từ bây giờ trở đi, chúng ta sẽ làm việc theo đúng nguyên tắc. Tôi muốn mọi mệnh lệnh của tôi phải được thực hiện đúng tới từng chữ. Tôi nói đă rơ chưa hả?
Giêxu, Robert, nghĩ chúng ta gặp chuyện ǵ ở đây thế nhỉ?
- Tôi nói đă rơ chưa hả, ông sĩ quan?
- Rơ.
Ông muốn mệnh lệnh của ông phải được thực hiện đúng tới từng chữ. Anh phân vân không hiểu người ta có muốn anh đứng nghiêm chào hay không. Tất cả là vậy thôi.
Nhưng đă đâu phải là tất cả.
Một tháng sau, Robert được phái đi Đông Đức để đón một nhà khoa học muốn đào tẩu. Đó là một nhiệm vụ đầy nguy hiểm bởi lẽ Stasi cơ quan cảnh sát mật Đông Đức, đă biết về vụ đào tẩu được dự kiến nầy và đang theo dơi nhà khoa học một cách chặt chẽ.
Bất chấp điều đó, Robert đă mang được nhà khoa học qua khỏi biên giới, tơi một địa chỉ an toàn. Khi anh đang thu xếp để đưa ông ta về Washington th́ nhận được một cú điện của Dustin Thornton nói rằng t́nh h́nh đă thay đổi và anh phải chấm dứt nhiệm vụ ngay.
- Chúng ta không thể cứ quẳng ông ta ở đây được, - Robert đă phản đối. - Họ sẽ giết ông ta mất.
- Đó là việc của lăo ta, - Thornton đáp. - Nhiệm vụ của ông là trở về ngay.
Kệ xác ông, Robert nghĩ, tôi sẽ không bỏ rơi ông ấy. Anh đă gọi cho một người bạn ở MI6, Cơ quan T́nh báo Anh, và phân trần với anh ta về t́nh thế của ḿnh.
- Nếu như quay về Đông Đức, - Robert nói, - họ sẽ cắt cổ ông ấy. Anh sẽ nhận ông ta chứ?
- Ồ anh bạn cũ, tôi sẽ xem có thể làm ǵ được.
- Mang ông ta lại.
Và nhà khoa học kia đă được dành cho một nơi ẩn náu ở nước Anh. Dustin Thornton đă không bao giờ tha thứ cho Robert về việc không chấp hành chỉ thị của hắn. Có sự thù địch giữa hai người kể từ đó.
Thornton đă mang chuyện nầy bàn với bố vợ.
- Những khẩu đại bác không kiểm soát được như Bellamy là rất nguy hiểm, - Willard Stone cảnh cáo. - Họ là một mối nguy hiểm về mặt an ninh. Những người như thế hăy nên loại bỏ đi. Hăy nhớ như vậy và Thornton đă ghi nhớ.
Lúc nầy, bước dọc theo hành lang đến pḥng làm việc của Dustin Thornton, Robert không thể không nghĩ tới những khác biệt giữa hắn và Whittaker. Trong cái nghề như nghề của anh, sự tin cậy là yếu tố đầu tiên. Anh không tin Dustin Thornton.

o0o

Thornton đang ngồi ở bàn làm việc khi Robert bước vào.
- Ông muốn gặp tôi phải không?
- Phải. Ngồi xuống, ông sĩ quan. - Mối quan hệ giữa họ chưa bao giờ đạt đến giai đoạn có thể gọi tên nhau.
- Tôi được báo là ông tạm thời chuyển sang Cục An ninh quốc gia. Khi ông trở lại, tôi có một…
- Tôi sẽ không trở lại. Đây là sứ mạng cuối cùng của tôi.
- Cái ǵ?
- Tôi sẽ thôi việc.
Sau nầy nghĩ lại, Robert không biết chính xác anh đă chờ đợi một phản ứng như thế nào nữa. Có vài khả năng, Dustin Thornton có thể tỏ ra ngạc nhiên, hoặc có thể đă tranh luận, hoặc tức giận hay tỏ ra nhẹ nhơm… Thay v́ thế, ông ta chỉ nh́n Robert và gật đầu.
- Ra vậy đấy hả?
Khi Robert trở lại phong ḿnh, anh nói với cô thư kỷ.
- Tôi chuẩn bị đi xa một thời gian. Tôi sẽ lên đường trong ṿng một giờ nữa.
- Có chỗ nào để có thể kiếm ông được không ạ?
Robert nhớ đến mệnh lệnh của tướng Hilliard.
- Không.
- C̣n mấy cuộc gặp mà ông đă…
- Huỷ đi. - Anh nh́n đồng hồ. Đă đến lúc gặp Đô đốc Whittaker.

o0o

Họ ăn sáng trong khu vườn trung tâm của Ngũ Giác Đàitại tiệm cà phê Ground Zero (Mặt bằng Số Không). Nó được gọi như vậy là bởi lẽ đă có người cho rằng Ngũ Giác Đài sẽ là nơi diễn ra đ̣n tấn công hạt nhân đầu tiên chống lại nước Mỹ. Robert đă thu xếp để họ ngồi được ở chiếc bàn trong góc, nơi có thể có một chút riêng tư. Đô đốc Whittaker đến rất đúng giờ và trong khi nh́n ông đi đến bên bàn anh thấy dường như ông có vẻ già hơn và nhỏ bé hơn đi, như thế là t́nh trạng chờ nghỉ hưu đă làm cho ông già quắc người lại vậy. Ông vẫn là một người đàn ông có vẻ ngoài dễ gây ấn tượng, dáng dấp khoẻ mạnh, cái mũi La Mă, hai g̣ má cao và tóc lốm đốm bạc.
Robert đă từng phục vụ dưới quyền đô đốc trong chiến tranh Việt nam và sau nầy ở Cục T́nh báo hải quân, và anh rất tôn trọng ông. C̣n hơn cả sự tôn trọng nữa. Robert thừa nhận với chính ḿnh. Đô đốc Whittaker là người thay cho cha anh.
Vị đô đốc ngồi xuống.
- Chào Robert. Ồ, có phải họ chuyển anh qua bên NSA không?
Robert gật đầu.
- Vâng, tạm thời.
Cô phục vụ đến và hai người xem thực đơn.
- Tôi đă quên mất là đồ ăn ở đây tồi tệ thế nào rồi, - Đô đốc Whittaker vừa nói vừa mỉm cười. Ông nh́n quanh pḥng, vẻ mặt đầy nỗi luyến tiếc không được nói ra thành lời.
Ông ấy mong muốn được trở lại chốn nầy. Robert nghĩ, lạy Chúa.
Họ gọi món ăn. Khi cô phục vụ đă đi ra ngoài tầm nghe, Robert nói:
- Thưa Đô đốc, tướng Hillard đang phái tôi đi một chuyến đi dài ba ngh́n dặm rất khẩn cấp để t́m cho được một số nhân chứng đă nh́n thấy một vụ tai nạn khinh khí cầu. Tôi thấy rất lạ. Và có điều ǵ đó thậm chí c̣n lạ hơn nữa. "Vấn đề là thời gian", đó là nguyên văn lời tướng Hilliard, ấy thế mà tôi đă được lệnh không được dùng tới bất kỳ cơ sở t́nh báo nào của tôi ở nước ngoài vào vụ nầy.
Đô đốc Whittaker có vẻ lúng túng.
- Tôi cho rằng ông ta có những lư do của ḿnh.
- Tôi không thể nào h́nh dung ra những lư do đó là cái ǵ nữa. - Robert nói.
Đô đốc Whittaker chăm chú nh́n Robert. Sĩ quan chỉ huy Bellamy đă phục vụ dưới quyền ông ở Việt nam và là phi công giỏi nhất phi đoàn. Con trai của đô đốc, Edward, là người phụ trách ném bom của Robert, và trong cái ngày khủng khiếp mà máy bay của họ bị bắn hạ, Edward đă chết. Robert may mắn lắm mới c̣n sống. Đô đốc đă tới quân y viện thăm anh.
"Anh ta chắc không qua khỏi được", các bác sĩ đă nói với ông như vậy. Robert nằm đó trong nỗi đau đớn cùng cực cực, đă th́ thầm, "Cháu xin lỗi về Edward… Cháu thật có lỗi".
Đô đốc Whittaker đă nắm chặt tay Robert. "Bác biết là cháu đă làm tất cả những ǵ có thể làm được. Giờ đây, cháu phải b́nh phục lại, rồi cháu sẽ khoẻ".
Ông rất mong Robert sống được. Trong tâm trí Đô đốc, Robert là con trai ông, đứa con trai sẽ thay cho chỗ của Edward. Và Robert đă qua khỏi.
- Robert nầy.
- Dạ, thưa Đô đốc?
- Tôi hy vọng là anh sẽ thành công trong chuyến đi Thuỵ Sĩ nầy.
- Tôi cũng vậy. Đây là sứ mạng cuối cùng của tôi.
- Anh vẫn quyết tâm thôi việc à?
Vị Đô đốc là người duy nhất mà Robert có thể tin cậy.
- Tôi đă chán ngấy rồi.
- Với Thornton ấy à?
- Không chỉ hắn ta. Tôi nữa. Tôi đă chán chuyện can thiệp vào cuộc đời của những người khác. Tôi chán những lời dối trá và sự lừa lọc cùng với những lời hứa suông không bao giờ được có ư thực hiện cả. Tôi chán chuyện lôi kéo người khác và để bị người khác lôi kéo. Tôi chán những cuốc chơi, sự nguy hiểm và những sụ, phản bội. Nó đă làm mất đỉ của tôi mọi thứ.
- Anh có ư định sẽ làm ǵ không?
- Tôi sẽ kiếm một việc ǵ đó có ích cho cuộc đời tôi một việc tích cực ǵ đó.
- Nếu họ không để cho anh đi th́ sao?
- Họ không có sự lựa chọn nào khác, phải vậy không? - Robert nói.


Chương 6

Chiếc xe hơi sang trọng đang đợi ở khu đậu xe cạnh cổng vào lối bờ sông.
- Ông sẵn sàng chưa, thưa ông sĩ quan chỉ huy? - Đại uư Dougherty hỏi.
Sẵn sàng như bao giờ tôi cũng vậy, Robert nghĩ.

o0o

Đại uư Dougherty đưa Robert trở về nhà để anh có thể thu xếp hành lư. Robert không hề biết anh sẽ phả́ đi bao lâu. Cái nhiệm vụ không thể thực hiện được nầy sẽ mất bào nhiêu thời gian nhỉ? Anh sắp xếp số quần áo đủ dùng trong một tuần và, ở phút cuối cùng, bỏ thêm vào tấm ảnh của Susan lồng trong khung kính. Anh nh́n đăm vào gương mặt yêu quư hồi lâu và nghĩ liệu có phải cô đang vui vẻ ở Brasil không. Anh nghĩ, ḿnh hy vọng là không. Ḿnh hy vọng lá cô ấy đang cô nhưng ngày tệ hại nhất. Và ngay lập tức anh cảm thấy xấu hổ với chính ḿnh.
Khi đến căn cứ không quân Andrews, máy bay đợi anh. Đó là chiếc C20A, một máy bay phản lực của không quân.
Đại uư Dougherty ch́a tay ra.
- Chúc ông may mắn.
- Cám ơn. Ḿnh sẽ cần tới nó. Robert leo lên máy bay. Tổ lái đă có mặt đông đủ, kết thúc việc kiểm tra trước chuyến bay. Có một phi công, phi công phụ, hoa tiêu dẫn đường bay, và người phục vụ, tất cả đều mặc quân phục không quân. Robert rất quen thuộc với chiếc máy bay nầy. Nó chứa đầy những thiết bị điện tử. Phía bên ngoài, gần đuôi, có một ăng-ten tần số cao trông giống như một chiếc cần câu lớn. Trong khoang máy bay, có mười hai chiếc điện thoại màu đỏ treo trên vách và một chiếc điện thoại thường, màu trắng. Các liên lạc bằng ra-đa đều được mă hoá và ra-đa của máy bay hoạt động trên một tần số quăn sự. Phần lớn màu trong khoang máy bay là màu xanh da trời của không quân và trong khoang ngồi là những chiếc ghế dựa rất tiện dụng.
Robert thấy rằng anh là người khách duy nhất.
Người lái chính chào anh.
- Xin được đón tiếp ông, thưa ông sĩ quan chỉ huy. Nếu như ông cài dây an toàn vào là chúng ta được phép cất cánh.
Robert làm theo và ngả người trên ghế trong khi chiếc máy bay chạy dọc theo đường băng. Một phút sau, anh thấy cái cảm giác quen thuộc của t́nh trạng tăng trọng lượng khi máy bay lao lên không trung.
Anh đă thôi lái từ vụ bị rơi kia, khi anh được thông báo rằng anh sẽ không bao giờ có thể lái được nữa. C̣n bay nữa, Robert nghĩ, họ nói ḿnh sẽ không sống nổi ấy chứ. Một điều kỳ diệu - Không, đó là nhờ Susan… Việt nam. Anh đă được đưa đến đó với cấp bậc thượng uư, biên chế trên hàng không mẫu hạm Ranger với cương vị một sĩ quan tác chiến, chịu trách nhiệm huấn luyện phi công tiêm kích và vạch kế hoạch cho chiến lược tiến công. Anh chỉ huy một phi đội cường kích Kẻ xâm nhập A- 6A và có rất ít thời gian nghỉ ngơi sau những căng thẳng của cuộc chiến. Một trong số ít những kỳ nghỉ phép, anh đă đến thăm Bangkok, chừng một tuần lễ, và trong thời gian, đó thậm chí anh không thèm ngủ nghê ǵ. Thành phố ấy giống như một vương quốc Disney được tạo ra cho những khoái lạc của giống đực. Trong giờ đầu tiên ở thành phố nầy, anh gặp một cô gái Thái Lan xinh đẹp, và cô ta đă ở suốt bên anh cả quăng thời gian và dạy anh một vài câu tiếng Thái. Anh thấy thứ ngôn ngữ đó thật mềm mại và ngọt ngào.
Arun sawasdi. Chào buổi sáng.
Khưn na chak nai? Bạn từ đâu đến?
Khun kamrant chain pai? Bạn đi đâu bây giờ thế?
Cô cũng dạy anh một số câu khác nữa, nhưng không nói với anh nghĩa của chúng là thế nào, và khi anh nói lại th́ cô khúc khích cười.
Khi Robert trở về tàu Ranger, Bangkok dường như chỉ c̣n là một giấc mơ xa xôi. Chiến tranh mới là hiện thực và là một nỗi khủng khiếp. Ai đó cho anh xem một số nhưng tờ truyền đơn mà lính thuỷ đánh bộ Mỹ rải ở Bắc Việt nam. Truyền đơn viết:
"Các công dân thân mến,
Lính thuỷ quân lục chiến Mỹ đang chiến đấu bên cạnh các lực lượng Nam Việt nam tại Đức Phổ (1) nhằm tạo cho nhân dân Việt nam một cơ hội sống cuộc sống tự do, hạnh phúc, không phải chịu đói khát và đau khổ. Nhưng nhiều người Việt nam đă phải trả giá bằng tính mạng của họ, và nhà cửa của họ bị huỷ hoại bởi lẽ họ đă giúp đỡ cho Việt Cộng.
Những làng xóm ở Hải Môn, Hải Tân, Sa Đ́nh, Tạ B́nh và nhiều nơi khác đă bị huỷ diệt v́ lư do đó. Chúng tôi sẽ không ngần ngại trước mọi làng xóm nào tiếp tay cho Việt Cộng, những kẻ đang bất lực trước việc ngăn chặn sức mạnh phối hợp của Chính phủ Việt nam (2) và đồng minh. Sự lựa chọn thuộc về các bạn. Nếu các bạn từ chối để Việt Cộng dùng làng xóm thôn ấp của các bạn như chiến trường của họ, nhà cửa và sinh mạng của các bạn sẽ được an toàn".

Chúng ta đang cứu vớt những người dân khốn khổ cứ cho là thế, Robert đă nung nấu nghĩ ngợi.
Và tất cả những ǵ chúng ta đang huỷ diệt là đất nước của họ.

o0o

Hàng không mẫu hạm Ranger được trang bị tất cả những kỹ thuật hoàn hảo nhất có thể nhồi nhét được cho nó. Chiếc tàu là căn cứ của 16 máy bay, 40 sĩ quan và 350 binh sĩ. Lịch bay được đưa ra ba hoặc bốn giờ trước chuyến xuất kích đầu tiên trong ngày.
Trong pḥng kế hoạch chiến đấu của trung tâm t́nh báo con tàu, các thông tin mới nhất và các bức ảnh do thám được trao cho những người điều khiển vũ khí để rồi đến lượt họ lập lịch tŕnh bay của chính họ.
Giêsu, sáng nay họ trao cho chúng ta một thắng cảnh, Edward Whittaker, người phụ trách vũ khí của Robert, kêu lên.
Edward Whittaker trông giống cha như đúc nhưng có tính cách hoàn toàn khác. Trong khi ngài đô đốc là một nhân vật khủng khiếp, nghiêm túc và khổ hạnh th́ con trai ông là một thanh niên thực dụng, nồng nhiệt và dễ mến. Anh ta đă có được cương vị của ḿnh "giống như bao nhiêu người khác". Đồng đội không c̣n để ư đến chuyện Edward là con trai người chỉ huy của họ song rất rơ rằng, đó là người phụ trách vũ khí xuất sắc nhất trong phi đoàn. Anh ta và Robert đă trở thành cặp bạn thân.
- Chúng ta sẽ bay tới đâu vậy? - Robert hỏi.
V́ những tội lỗi của chúng ta, ta đă chọn phải Khu Sáu. Đó là phi vụ nguy hiểm nhất trong tất cả. Điều đó có nghĩa là phải bay theo hướng bắc tới Hà Nội, Hải Pḥng và khu vực châu thổ sông Hồng, nơi có lưới lửa pḥng không dày đặc nhất. Thời gian mười hai năm xâm chiếm Việt nam là thời kỳ chiến tranh dài lâu nhất từ trước đến nay đối với nước Mỹ. Robert Bellamy đang mắc phải những vấn đề nghiêm trọng.
Những phi đội F-4 của họ đang bị tiêu hao. Bất chấp sự thật là những máy bay của nó ưu việt hơn hẳn những chiếc MiG(3) của Nga, Hải quân Mỹ đang phải mất một chiếc F-4 để có thể bắn hạ được hai chiếc MiG. Đó là một tỉ lệ không thể chấp nhận được.
Robert được triệu tập đến Pḥng chỉ huy của Đô đốc Ralph Whittaker.
- Thưa Đô đốc, ngài cho gọi tôi ạ?
- Anh nổi tiếng là một phi công cừ khôi. Tôi cần sự giúp đỡ của anh.
- Thưa ngài, chuyện ǵ ạ?
- Chúng ta đang bị tiêu huỷ bởi kẻ thù khôn ngoan. Tôi đă cho làm một báo cáo phân tích kỹ lưỡng. Không có vấn đề ǵ đối với những máy bay của chúng ta. Vấn đề là việc huấn luyện những người sử dụng chúng. Anh hiểu chứ?
- Thưa ngài, vâng.
- Tôi muốn anh chọn lấy một nhóm và dạy dỗ lại họ về chiến thuật và cách sử dụng vũ khí…
Nhóm mới nầy được gọi là Top Gun, và trước khi họ kết thúc, th́ tỉ lệ kia mới thay đổi từ 2-1 xuống 12-1. Cứ hai chiếc F-4 bị mất là 24 chiếc MiG bị bắn hạ. Mất tám tuần huấn luyện căng thẳng để hoàn thành nhiệm vụ nầy và sau cùng th́ Bellamy đă trở về với chiếc tàu của ḿnh. Đô đốc Whittaker đă đón tiếp anh.
Một thành quả tuyệt hảo, chàng sĩ quan ạ.
- Cám ơn Đô đốc.
Bây giờ chúng ta hăy trở lại với công việc.
- Tôi sẵn sàng, thưa ngài.
Robert đă bay ba mươi tư phi vụ ném bom từ tàu Ranger không hề có sự cố ǵ.
Phi vụ thứ ba mươi lăm của anh là tới Khu Sáu.
Họ đă bay qua bầu trời Hà Nội và đang hướng về phía tây bắc, tới vùng trời Phú Thọ, Yên Bái. Lưới lửa pḥng không đang mỗi lúc một dầy đặc thêm. Edward Whittaker ngồi phía bên phải Robert chăm chú nh́n vào màn h́nh ra-đa , lắng nghe những âm thanh trầm trầm đáng lo ngại của ra-đa cảnh giới của đối phương đang quét trên bầu trời.
Bầu trời phía trước mặt họ giống như bầu trời nước Mỹ ngày quốc khánh, điểm những cụm khói trắng của đạn pḥng không hạng nhẹ phía dưới thấp, những cụm khói xám sẫm của đạn pháo 55mm, những đám khói đen của đạn pháo 100mm và những đường đạn đỏ rực của súng máy hạng nặng.
- Chúng ta đang tiến đến mục tiêu đấy, Edward nói. Giọng nói của anh ta qua cáp nghe có vẻ xa xôi đến kỳ lạ.
- Rơ rồi.
Chiếc A- 6A Kẻ xâm nhập đang bay với tốc độ 800km một giờ, và với vận tốc đó, thậm chí với cả sự nặng nề của lượng bom mang theo, nó vẫn rất cơ động và đối phương khó có thể truy đuổi.
Robert với tay và bật công tắc sử dụng vũ khí. Một tá bom loại 500 bảng Anh lúc nầy đă sẵn sàng được phóng ra. Anh đang hướng thẳng đến mục tiêu.
Một giọng nói trong radio của anh vang lên.
- Romeo - anh có một con quỷ đằng sau đấy.
Robert ngoái lại nh́n. Một chiếc MiG đang từ phía mặt trời bay lại phía anh. Robert lật nghiêng và bay chéo xuống. Chiếc MiG bám theo. Nó đă bắn một quả tên lửa. Robert liếc mắt nh́n bảng đồng hồ. Quả tên lửa đang lao đến rất nhanh. Cách ba trăm mét… hai trăm mét trăm rươi mét…
- Đồ khốn! - Edward quát lên. - Chúng ta c̣n chờ ǵ nữa.
Robert đă đợi đến giây cuối cùng, rồi phóng ra một đám nhiễu kim loại và đổi hướng bay vọt lên cao, để mặc quả tên lửa lao theo đám nhiễu nổ tung một cách vô hại xuống phía mặt đất bên dưới.
- Ơn Chúa, - Edward nói. - Và cảm ơn cả cậu nữa, anh bạn ạ.
Robert tiếp tục bay lên và đột ngột ṿng lại phía sau chiếc MiG. Tay phi công kia bắt đầu động tác lẩn tránh th́ đă quá muộn. Robert phóng ra một quả Sidewinder và nh́n theo nó chui tọt vào đuôi chiếc MIG rồi nổ tung. Một giây sau, bầu trời bị phủ bởi một trận mưa những mảnh kim loại.
Một giọng nói vang lên trong cáp nghe.
- Khá lắm, Romeo.
Lúc nầy chiếc máy bay đă ở phía bên kia mục tiêu.
- Nào, ta bắt đầu, - Edward nói. Anh ta ấn cái nút đỏ rồi nh́n những trái bom lao xuống mục tiêu.
Phi vụ đă hoàn thành. Robert hướng máy bay bay về phía tàu mẹ.
Đúng lúc đó, họ thấy một tiếng động khác thường.
Chiếc cường kích vốn nhanh nhẹn và ngoan ngoăn là thế bỗng trở nên nặng trịch.
- Chúng ta đă dính đạn rồi. - Edward kêu lên.
Cả hai chiếc đèn tín hiệu báo cháy đều loè đỏ.
Chiếc máy bay lảo đảo và không c̣n tuân theo sự điều khiển.
Một giọng nói vang lên trong radio:
- Romeo nầy, đây là Tiger. Anh có muốn chúng tôi che chắn cho không?
Robert đưa ra quyết định chớp nhoáng.
- Không, cứ tiếp tục đến mục tiêu của anh đi. Tôi sẽ cố lết về căn cứ.
Chiếc máy bay bay chậm lại và càng trở nên khó điều khiển hơn.
- Nhanh lên, Edward hồi hộp nói, không th́ chúng ta sẽ muộn giờ ăn trưa mất.
Robert nh́n đồng hồ đo độ cao. Chiếc kim đang tụt xuống nhanh chóng. Anh mở máy liên lạc chính.
- Romeo gọi căn cứ. Chúng tôi đă bị đạn.
- Căn cứ gọi Romeo. T́nh h́nh xấu lắm không?
- Tôi không rơ. Tôi nghĩ là tôi có thể bay về nhà được.
- Giữ máy. - Một giây sau, giọng nói kia trở lại. - Tín hiệu của anh là Chalie đang trở về.
Điều đó có nghĩa là họ được phép hạ cánh xuống hàng không mẫu hạm ngay lập tức.
- Rơ.
- Chúc may mắn.
Chiếc máy bay đang sắp bị lật. Robert cố lấy lại thăng bằng, cố lấy thêm độ cao.
- Nào, bạn thân mến, bạn có thể làm được mà. - Khuôn mặt Robert căng thẳng. Họ đang mất độ cao quá nhiều. - Chúng ta c̣n bao lâu nữa hả?
Edward nh́n bản đồ bay.
- Bảy phút.
- Tôi sẽ cho cậu ăn bữa trưa nóng sốt đấy.
Robert cố hết sức để giữ chiếc máy bay bay thẳng với tất cả tài nghệ của ḿnh, sử dụng van dầu và bánh lái. Độ cao vẫn tiếp tục tụt xuống tới mức báo động. Nhưng sau cùng, ở phía trước mặt, Robert nh́n thấy mặt nước biển lấp loá của vịnh Bắc bộ.
- Chúng ta về đến nhà rồi, anh bạn ạ. - Robert nói - Chỉ vài dặm nữa thôi.
- Khủng khiếp thật. Tớ không ngờ và không biết từ đâu, hai chiếc MIG ầm ầm lao xuống. Những loạt đạn bắt đầu xuyên vào thân Kẻ xâm nhập A-6A.
- Eddie. Nhảy dù đi! - Anh quay sang nh́n. Edward sụp người trên chiếc dây an toàn, nửa bên phải bị xé nát, máu phun đầy khoang lái.
- Không. - Anh thét lên.
Một giây sau, Robert chợt cảm thấy đau điếng ở ngực. Ngay lập tức, bộ đồ bay của anh ướt đẫm máu.
Chiếc máy bay bắt đầu rơi theo một h́nh xoắn ốc.
- Anh cảm thấy ḿnh đang ngất đi. Với chút sức lực cuối cùng anh tháo dây an toàn và quay sang nh́n Edward lần cuối cùng.
- Tớ xin lỗi, - anh th́ thầm, rồi ngất đi và cho tới sau nầy cũng không thể nhớ được anh đă bật dù và rơi xuống mặt nước như thế nào. Một tín hiệu cấp cứu được phát đi và một chiếc trực thăng Vua biển SH-3A từ chiếc tàu U.S.S Yorktown bay ṿng tṛn, t́m cách cứu anh lên. Ở phía xa, đội bay nh́n thấy những chiếc tàu chiến Trung Quốc cỡ nhỏ đang lao đến, nhưng đă quá muộn.
Khi họ mang được Robert lên trực thăng, một nhân viên y tế thoáng nh́n thân thể dập nát của anh và nói "Lạy Chúa, thậm chí anh ta sẽ không về được tới bệnh viện nữa".
Họ tiêm cho Robert một liều thuốc giảm đau, băng chặt lồng ngực anh lại và chở anh về bệnh viện dă chiến số 12 ở căn cứ Củ Chi.
Bệnh viện 12 phục vụ cho các căn cứ Củ Chi, Tây Ninh và Dầu Tiếng có bốn trăm giường bệnh rải rác trong hơn một chục khu điều trị với những chiếc nhà tôn tháo lắp được, nối liền với nhau bằng những hành lang và tạo thành một khu liên hợp h́nh chữ U. Bệnh viện nầy có hai bộ phận cấp cứu, một cho những ca phẫu thuật và một cho những ca bỏng, mà cả hai luôn luôn trong t́nh trạng quá tải. Khi Robert được đưa vào máu anh nhỏ giọt thành vệt trên sàn.
Một bác sĩ phẫu thuật với vẻ khó chịu cắt những lớp băng quanh lồng ngực Robert, xem xét, và uể oải nói:
- Anh ta sẽ không thể qua được. Đưa anh ta lại pḥng lạnh đi. - Và viên bác sĩ bước đi.
Robert nửa mê nửa tỉnh, thoáng nghe thấy lời viên bác sĩ. Vậy đấy, anh nghĩ, một kiểu chết thật tẻ ngắt.
- Anh không muốn chết phâi không, chàng thuỷ thủ? Mở mắt ra đi. Nào.
Anh mở mắt và lờ mờ nh́n thấy một bóng áo trắng và một khuôn mặt phụ nữ. Cô ta c̣n nói thêm ǵ nữa, nhưng anh không thể nghe được lời cô. Khu điều trị quá ồn ào, đầy những tiếng la thét và rên rỉ của bệnh nhân, tiếng các bác sĩ quát lên những mệnh lệnh, và tiếng chân các y tá cuống cuồng chạy ṿng quanh chăm sóc những thân thể đầy thương tích đang nằm đó.
Suất 48 tiếng đồng hồ sau đó, Robert luôn trong t́nh trạng đau đớn và mê sảng. Chỉ măi sau nầy anh mới biết rằng cô y tá đó, Susan Ward, đă thuyết phục được một bác sĩ mổ và tiếp máu cho anh.
Để dành lại sự sống cho anh, họ đă đặt bốn đường truyền máu vào cái thân thể nhàu nát của anh và liên tiếp truyền máu đồng thời qua cả bốn đường.
Khi ca mổ kết thúc, viên bác sĩ trưởng kíp mổ thở dài:
- Chúng ta đă phí thời gian. Khả năng anh ta qua được không quá mười phần trăm.
Thế nhưng viên bác sĩ đă không biết Robert Bellamy. Và ông ta càng không biết Susan Ward. Robert thấy dường như bất kỳ lúc nào anh mở mắt ra, Susan cũng đang ngồi bên, cầm tay anh, vuốt ve trán anh, chăm sóc anh và mong anh sống. Anh mê sảng phần lớn thời gian và lúc nào Susan cũng lặng lẽ bên anh trong đêm đơn độc, nghe những lời lảm nhảm của anh.
"Góc bổ nhào sai, anh không thể lao cắm đầu vuông góc xuống mục tiêu hoặc sẽ ném bom xuống sông…
Bảo họ chuyển góc bổ nhào chếch đi vài độ trên mục tiêu. Bảo họ… - Anh lẩm bẩm.
- Em sẽ bảo họ, - Susan dịu dàng nói.
Người Robert ướt đẫm mồ hôi. Cô lau đi cho anh.
"Các anh phải bỏ cả năm cái kẹp an toàn đi nếu không ghế lái sẽ không bật ra được… Kiểm tra lại chúng đi..
Được rồi. Bây giờ th́ ngủ đi.
"Các chốt hăm trên các giá treo bị trục trặc… Có Chúa mới biết được là bom rơi xuống những đâu…
Susan phần lớn không thể hiểu nổi bệnh nhân của cô nói ǵ cả.
Susan Ward là trưởng nhóm y tá phục vụ pḥng mổ cấp cứu. Cô sinh ra ở một thị trấn nhỏ thuộc bang Idaho và đă lớn lên cùng với cậu bé nhà trên, Frank Prescott, con trai ông thị trưởng. Mọi người trong thị trấn đều cho rằng một ngày nào đó họ sẽ lấy nhau.
Susan có một cậu em trai, Michael, mà cô rất yêu quư. Vào dịp sinh nhật lần thứ mười tám, cậu ta đă nhập ngũ rồi được gửi sang Việt nam, và ngày nào Susan cũng viết thư cho cậu. Ba tháng sau ngày cậu đăng lính, gia đ́nh Susan nhận được một bức điện tín và cô biết nó nói ǵ trước khi họ giở ra.
Khi Frank Prescott nghe tin, anh ta lao sang.
- Tôi rất lấy làm buồn, Susan. Tôi rất thích Michael.
Và rồi anh ta đă mắc lỗi khi cất lời.
- Chúng ta hăy cưới ngay đi thôi.
Susan nh́n anh ta và quả quyết.
- Không. Tôi c̣n phải làm một việc quan trọng đối với cuộc đời của tôi.
- Hăy v́ chúa. Em c̣n việc ǵ quan trọng hơn việc làm vợ tôi hả?
Câu trả lời là Việt nam.
Susan nhập học một trường y tá.
Cô đă ở Việt nam được mười một tháng, làm việc không biết mệt mỏi, khi Robert Bellamy được đưa đến và cầm chắc cái chết. Cứu chữa có chọn lọc là một thực tiễn chung tại bệnh viện cấp cứu tiền phương.
Các bác sĩ thường kiểm tra hai hoặc ba bệnh nhân một lượt và đưa ra những phán quyết vắn tắt về việc sẽ cố cứu lấy ai trong số họ. V́ những lư do mà chính cô cũng không thật rơ, Susan chỉ nh́n thân thể bằm dập của Robert Bellamy và hiểu rằng cô không thể để anh chết được. Có phải đó chính là cậu em trai mà cô muốn cứu sống hay không? Hay c̣n là điều ǵ nữa. Cô đă kiệt sức và quá mệt mỏi với công việc, nhưng thay cho việc nghỉ ngơi, cô đă dành mọi thời gian rỗi để chăm sóc anh.
Susan đă xem xét lư lịch bệnh nhân của anh. Một phi công và một huấn luyện viên cừ khôi, đă có một huân chương Chữ thập Hải quân. Nơi sinh của anh là Harvey, bang Illinois, một thành phố công nghiệp nhỏ ở phía nam Chicago. Anh đă gia nhập Hải quân sau khi tốt nghiệp cao đẳng và đă huấn luyện ở Pensacola. Anh chưa có vợ.
Mỗi ngày, trong khi Robert Bellamy đang b́nh phục, mấp mé giữa làn ranh giới mỏng manh của sự sống và cái chết, Susan đều th́ thầm bên tai anh.
- Cố lên, chàng thuỷ thủ. Em đang đợi anh đấy.
Một đêm, sáu ngày sau khi anh được mang vào bệnh viện, khi anh đang lảm nhảm trong một cơn mê sảng, đột nhiên Robert ngồi thẳng dậy trên giường, nh́n Susan, và nói một cách rơ ràng:
- Không phải là giấc mơ. Đúng cô thật.
Susan cảm thấy tim cô nẩy lên.
- Vâng, - Cô nói khẽ khàng. - Thật là em mà.
- Tôi nghĩ là tôi đang nằm mê. Tôi nghĩ là tôi đă lên thiên đường và Chúa sai cô đến với tôi đấy.
Cô nh́n vào mắt Robert và nói đầy vẻ nghiêm túc.
- Nếu để anh chết, th́ thà là em giết anh.
Anh đưa mắt nh́n quanh pḥng điều trị.
- Tôi… ở đâu thế nầy?
- Bệnh viện dă chiến số 12 tại Củ Chi.
- Tôi đă ở đây bao lâu rồi?
- Sáu ngày.
- Eddie, cậu ấy…
- Em thật buồn.
- Tôi phải nói với ngài Đô đốc.
Cô cầm lấy tay anh và dịu dàng nói:
- Ông ấy biết rồi. Ông ấy đă đến đây thăm anh.
Robert ứa nước mắt.
- Tôi căm ghét cuộc chiến tranh khốn nạn nầy. Không thể nào nói lên được.

o0o

Từ thời điểm đó trở đi, sự hồi phục của Robert đă làm cho các bác sĩ ngạc nhiên.
- Chúng ta sắp chuyển anh ta đi khỏi đáy được rồi, - họ nói với Susan. Và cô cảm thấy choáng váng.
Robert không hề biết một cách chính xác là anh đă yêu Susan từ khi nào. Có thể là lúc cô đang thay băng cho anh và cô th́ thầm khi họ nghe tiếng bom rơi gần đó. "Họ đang chơi bài ca của chúng ta đấy".
Hoặc có thể là khi họ bảo Robert rằng anh đă đủ sức để được đưa về bệnh viện Walter Reed ở Washington nằm dưỡng bệnh, và Susan nói: "Anh nghĩ là em sẽ ở lại đây và để cho một cô y tá khác được chăm sóc cái thân thể tuyệt vời nầy ư? Ồ, không. Em sẽ xoay xở mọi cách để được cùng đi với anh!
Họ cưới nhau hai tuần sau đó. Robert phải mất một năm mới b́nh phục hoàn toàn, và suốt thời gian đó Susan chăm sóc cho mọi nhu cầu của anh, ngày và đêm. Anh chưa bao giờ gặp một ai giống như cô và cũng chưa bao giờ anh có thể tưởng tượng ḿnh lại yêu ai đến như vậy. Anh yêu ḷng trắc ẩn và sự nhạy cảm ở cô, t́nh yêu nồng nàn và sức sống mănh liệt của cô. Anh yêu vẻ đẹp và tính hài hước của cô.
Vào lần kỷ niệm ngày cưới đầu tiên, anh nói với cô "Em là người phụ nữ đẹp nhất, tuyệt vời nhất, thân thương nhất trên đời nầy. Trên trái đất nầy không có ai có sự nồng ấm, hóm hỉnh và thông minh như em".
Và Susan đă ôm lấy anh thật chặt, thầm th́ bằng cái giọng mũi nhưng trong trẻo của cô: "Anh cũng vậy em biết".
Họ chia xẻ với nhau không chỉ t́nh yêu. Họ thật sự ham muốn cũng như tôn trọng nhau. Tất cả bạn bè đều như ghen tị và mừng cho họ. Bất kỳ khi nào đó nói chuyện về một đám cưới hạnh phúc, th́ Robert và Susan luôn luôn là tấm gương họ nêu ra. Họ hợp nhau về mọi mặt, thực sự là một đôi bạn tinh thần.
Susan c̣n la người đàn bà gợi t́nh nhất mà Robert từng biết và chỉ cần một lời nói, một sự đụng chạm là họ có thể làm cho nhau bừng bừng ham muốn. Một buổi tối, họ dự tính đi đến một bữa tiệc trịnh trọng, Robert đă hơi bị trễ. Anh đang đứng dưới ṿi tắm hoa sen th́ Susan bước vào pḥng tắm với bộ váy áo hở vai, trông thật đáng yêu.
- Lạy Chúa, trông em khêu gợi quá, - Robert nói. - Thật tệ là chúng ta mất hết th́ giờ rồi.
- Ôi anh đừng lo về điều đó, - Susan nhoẻn cười.
Rồi một giây sau, cô tụt váy ra và ôm chầm lấy Robert trong làn nước.
Họ không bao giờ đến được cái bữa tiệc kia.
Susan cảm nhận được những nhu cầu của Robert thậm chí c̣n trước cả chính anh, và cô lo liệu cho tất cả những thứ đó. Robert cũng chu đáo với cô ngang như vậy. Susan thường thấy những thư t́nh trên bàn trang điểm hoặc trong giầy khi cô chuẩn bị mặc quần áo. Hoa và những món quà nhỏ được gửi đến cô vào những ngày lễ nầy nọ.
Và cái chính là tiếng cười mà họ chia sẻ. Tiếng cười tuyệt vời.

o0o

Tiếng viên phi công chợt vang lên trong hệ thống liên lạc nội bộ.
- Thưa ông chỉ huy, mười phút nữa chúng ta sẽ hạ cánh xuống Zurich.
Những ư nghĩ của Robert Benamy vụt trở lại với hiện tại, tới nhiệm vụ của anh. Trong 15 năm ở T́nh báo Hải quân, anh đă từng có hàng chục trường hợp đầy thách thức, nhưng vụ nầy hẳn là vụ kỳ dị nhất. Anh đang trên đường tới Thuỵ Sĩ để t́m kiếm những nhân chứng vô danh trên một chiếc xe bus, những người đă như biến mất vào không khí rồi vậy.
Cứ cho đây là việc phải t́m một cái kim trong đồng cỏ khô đi chăng nữa th́ thậm chí ḿnh cũng không biết cái đống rơm đó nằm tại chỗ nào. Sherlock Holmes ở đâu khi mà ḿnh cần đến ông ấy nhỉ?
- Xin ông thắt dây lưng an toàn vào cho?
Chiếc C20A đang lướt trên những khoảng rừng tối, và một giây sau, hạ cánh xuống đường băng được đánh dấu bằng những ngọn đèn hiệu hạ cánh của sân bay, hướng tới toà nhà nhỏ của bộ phận điều hành chung, tránh xa khu ga chính. Vẫn c̣n những vũng nước đọng trên sân do những trận mưa trước đó, nhưng bầu trời đêm th́ thật trong trẻo.
- Thời tiết điên rồ, - Viên phi công nhận xét. - Chủ nhật trời nắng, mưa suốt ngày hôm nay và đêm lại quang đăng. Ở đây ông không cần đến đồng hồ đâu. Cái mà ông thật sự cần là một phong vũ biểu. Tôi thu xếp cho ông một chiếc ô tô chứ, ông chỉ huy?
- Không, cảm ơn.
Từ phút nầy trở đi, anh phải hoàn toàn tự ḿnh làm mọi việc. Robert chờ cho chiếc máy bay đă chạy đi xa, rồi lên một chiếc xe bus nhỏ chạy về khách sạn trong sân bay. Ở đó, anh ch́m vào một giấc ngủ không hề mơ mộng ǵ.


Chú thích:
(1) Một huyện của tỉnh Quảng Ngăi.
(2) Chính quyền Sài g̣n
(3) MiG máy bay tiêm kích của Liên Xô, viết tắt tên hai người thiết kế là Mikoyan và Gurevich, chữ "i" nhỏ đứng giữa tương tự "&" của tiếng Anh. Trong chiến tranh, không quân Bắc Việt nam sử dụng chủ yếu MiG 21 (số lượng lúc cao nhất là 72 chiếc MiG 21). Tác giả hơi quá cường điệu về máy bay A-6A là máy bay ném bom đời cũ, bay chậm, chỉ sử dụng ở miền Nam, nơi lực lượng pḥng không yếu, hoặc cùng lắm ở "Đường ṃn Hồ Chí Minh" và Nam Lào, A-6A không dám xông vào khu vực Hà nội - Hải Pḥng, nơi có hệ thống pḥng không được coi là khá mạnh với MiG 21, tên lửa SAM-2 và pháo 100 mm, A6A càng không phải là đối thủ của MIG-21. Tỷ lệ rơi giữa F-4H và MiG-21 là 1:1, chứ không phải là 12:1 như tác giả viết. Bản thân người đánh máy đă tận mắt nh́n thấy những cuộc không chiến giữa MiG 21 và F4H trên vùng trời Thái Nguyên và Hải Pḥng. Ngày 16-4-1967, chiếc F4H bị MiG 21 bắn rơi ngay trên vùng trời thành phố Hải Pḥng, phi công Mỹ bị bắt tại chỗ (chú thích của người đánh máy)


Chương 7

Ngày thứ hai.
8 giờ 00.
Sáng hôm sau, Robert đến trước một nhân viên đang ngồi sau chiếc bàn làm việc của hăng cho thuê ô tô châu Âu.
- Xin chào, - Anh ta nói bằng tiếng Đức.
Đó là một lời nhắc nhở rằng anh đang ở trong vủng nói tiếng Đức trên đất Thuỵ Sĩ.
- Xin chào, - anh đáp lại cũng bằng tiếng Đức. - Anh có xe cho thuê không?
- Thưa ông, có. Ông sẽ cần nó trong bao lâu?
Một câu hỏi hay. Một giờ ư? Hay có thể là một năm hoặc hai năm?
- Tôi không rơ.
- Ông có định mang trả chiếc xe tại đây không?
- Có thể là như vậy.
Tay nhân viên lạ lùng nh́n anh.
- Rất tốt. Xin ông điền vào các mẫu giấy tờ nầy cho?
Robert trả tiền thuê xe bằng cái thẻ tín dụng đặc biệt màu đen mà tướng Hilliard đă đưa cho anh. Tay nhân viên xem xét tấm thẻ, lúng túng, và nói:
- Xin lỗi một chút.
- Anh ta biến mất vào một căn pḥng và khi trở ra, Robert hỏi, - Có ǵ rắc rối không hả?
- Không, thưa ông. Không có ǵ cả.
Đó là một chiếc Opel Omega màu xám. Robert lái xe ra con đường cao tốc của sân bay và chạy vào thành phố. Anh rất thích Thuỵ Sĩ. Đây là một trong những đất nước đẹp nhất trên thế giới. Nhiều năm về trước, anh đă từng đi trượt tuyết ở đây, liên hệ với Espionage Abreilung - Cơ quan t́nh báo của Thuỵ Sĩ. Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, cơ quan nầy được tổ chức thành 3 bộ phận: D, P và I, mỗi bộ phận phụ trách riêng rẽ các địa bàn Đức, Pháp và Italia.
Hiện nay, mục tiêu chính yếu của nó gắn liền với việc phát triển các hoạt động gián điệp được tiến hành trong các tổ chức khác nhau của Liên Hiệp Quốc ở Geneva.
Robert có bạn hữu trong cơ quan t́nh báo Thuỵ Sĩ, nhưng anh nhớ lời dặn của tướng Hilliard, "Anh không được liên hệ với bất kỳ ai trong số họ".
Quăng đường vào thành phố mất hai mươi lăm phút. Robert đến đầu mối giao thông Dubendorf rồi cho xe hướng về phía khách sạn Doler Grand. Nó vẫn đúng như anh c̣n nhớ: một lâu đài kiểu Thuỵ Sĩ lớn quá cỡ nh́n ra hồ Zurich với những tháp nhỏ gây ấn tượng mạnh, bao bọc bởi cây cỏ. Anh đậu xe và bước vào tiền sảnh. Phía bên trái là bàn tiếp tân.
- Xin chào.
- Xin chào. Tôi muốn có một pḥng cho một đêm, được chứ?
Họ trao đổi bằng tiếng Đức.
- Vâng. Ông thanh toán thế nào ạ?
- Bằng thẻ tín dụng của tôi. - Vẫn chiếc thẻ tín dụng có màu trắng đen mà tướng Hilliard đă đưa cho anh. Robert hỏi xin một tấm bản đồ Thuỵ Sĩ và sau đó được đưa tới một căn pḥng đầy đủ tiện nghi trong khu pḥng mới của khách sạn. Căn pḥng có một ban công nhỏ nh́n ra hồ. Robert đứng đó, hít thở khí trời mùa thu mát lành và nghĩ tới nhiệm vụ trước mắt anh.
Anh không có ǵ để mà tiếp tục cả. Không một dấu vết chết tiệt nào. Tất cả, các dữ liệu cho bài toán anh đều hoàn toàn không được biết. Tên của cái hăng du lịch kia. Số lượng những du khách kia. Tên tuổi và địa chỉ nào đó của họ. "Có phải tất cả các nhân chứng đều ở Thuỵ Sĩ không? - "Đó chính là khó khăn của chúng ta. Chúng ta không hề biết họ là ai, hay họ ở đâu. Và như vậy th́ chỉ t́m được một vài nhân chứng đó cũng đă quá khó. "Ông phải t́m được tất cả các nhân chứng đó? Thông tin duy nhất mà anh có được là địa điểm và thời gian: Uetendort, Chủ nhật, ngày 14 tháng Mười".
Anh cần có một sợi rơm, một cái ǵ đó để mà bám vao. Nếu anh nhớ chính xác th́ tất cả những xe du lịch theo tuyến trong thời gian một ngày, chỉ xuất phát từ hai thành phố lớn Zurich và Geneva. Robert mở một ngăn kéo và lấy ra cuốn danh bạ điện thoại dầy cộp/ Ḿnh sẽ t́m vần M, để cầu may thôi, Robert nghĩ.
Có tới gần một chục hăng du lịch được đăng kư: Sunshine Tours, Swisstour, Tour Service, Touralpino, Tourisma Reisen… Anh sẽ phải kiểm tra từng hăng một. Anh ghi lại địa chỉ của tất cả các hăng đó và lái xe tới những văn pḥng của vài hăng gần đấy nhất.
Có hai nhân viên ở sau dăy bàn dài để tiếp du khách. Khi một trong hai người rảnh việc, Robert cất tiếng:
- Xin lỗi. Vợ tôi là một trong số khách đi theo tuyến của các anh chủ nhật tuần trước, và cô ấy đă để quên chiếc ví trên xe. Tôi nghĩ là cô ấy đă hồi hộp bởi v́ nh́n thấy quả bóng thám không bị tai nạn ở gần Uetendort.
Tay nhân viên chau mầy.
Hẳn là ông nhầm rồi. Tuyến của chúng tôi không hề tới gần Uctendort.
- Ồ xin lỗi. - Vậy là một.
Nơi dừng chân thứ hai có vẻ có kết quả hơn.
- Tuyến du lịch của các anh có đi Uetendort không nhỉ?
- Ồ có ạ - Người nhân viên mỉm cười. - Các tuyến của chúng tôi đi đến khắp nơi trên đất Thuỵ Sĩ. Những thắng cảnh đẹp nhất. Chúng tôi có một đi Zermatt - tuyến đặc biệt. Cũng có tuyến du lịch tốc hành đi Glacier và Palm. Tuyến Ṿng tṛn lớn sẽ khởi hành trong…
- Có phải các anh có một chuyến đi hôm chủ nhật mà xe đă dừng lại để xem cái khinh khí cầu bị đâm vào núi đó không? Tôi hiểu là vợ tôi đă trở về khách sạn muộn và…
Người nhân viên sau bàn nói với vẻ đầy công phẫn:
- Chúng tôi rất tự hào với thực tế là các chuyến đi du lịch theo tuyến chúng tôi là không bao giờ trễ cả. Chúng tôi không dừng ngoài chương tŕnh.
Vậy là một trong những xe của các anh đă không dừng lại để xem cái khinh khí cầu đó phải không?
- Chắc chắn là không.
- Cảm ơn. - Vậy là hai.
Văn pḥng thứ ba mà Robert ghé đến đặt tại Bahnhofplatz, và tấm biển bên ngoài đề SunBhme Tours.
Robert bước đến bên chiếc bàn tiếp khách.
- Xin chào… Tôi muốn hỏi anh về một trong số những xe đi tuyến của các anh. Tôi có nghe một quả bóng thám không bị tai nạn ở gần Uetendort và người lái xe của các anh đă dừng lại nửa giờ cho du khách xem.
- Không, không. Anh ta chỉ dừng lại mười lăm phút thôi. Chúng tôi có những lịch tŕnh rất nghiêm ngặt.
Trúng rồi.
- Ông nói là ông quan tâm đến chuyện ǵ trong việc nầy nhỉ? - Nhân viên Hăng du lịch hỏi khi thấy khách im lặng.
Robert móc ra một trong những tấm các đă được trao cho anh.
- Tôi là phóng viên, - Robert nói một cách sốt sắng. - Và tôi đang viết cho Tạp chí Du lịch và sự thanh thản về hiệu quả của xe bus ở Thuỵ Sĩ, so sánh với các nước khác. Tôi không biết liệu tôi có thể phỏng vấn người lái xe của các anh được không?
- Đó sẽ là một bài báo thú vị đấy. Rất thú vị là đằng khác. Người Thuỵ Sĩ chúng tôi tự hào về hiệu quả làm việc của ḿnh.
- Và niềm tự hào đó là xứng đáng, - Robert quả quyết với anh ta.
- Liệu tên Hăng chúng tôi có được nhắc đến không?
- Sẽ ở vị trí nổi bật đấy.
Tay nhân viên mỉm cười.
- Ồ vậy th́ tôi thấy không có ǵ bất lợi cả.
- Tôi có thể nói chuyện với anh ta ngay bây giờ được không?
- Hôm nay là ngày nghỉ của ông ta. - Anh ta viết một cái tên lên mẩu giấy.
Robert Bellamy đọc ngược ḍng chữ Hans Beckerman.
Tay nhân viên viết thêm địa chỉ.
- Ông ta ở Kapel. Đó là một làng nhỏ, cách Zurich chừng 40 kilômét. Lúc nầy th́ ông sẽ có thể t́m thấy ông ta ở nhà.
Robert Bellamy cầm lấy mẩu giấy.
- Rất cám ơn anh. Nhân tiện, - Robert nói, - để chúng tôi có đầy đủ các dữ kiện cho câu chuyện, anh có biết số lượng vé đă bán ra cho chuyến đi đó không?
- Tất nhiên. Chúng tôi lưu hồ sơ về tất cả các chuyến du lịch. Xin đợi một phút. - Anh ta nhấc một cái cặp phía dưới bàn và giở một trang ra.
- À, đây rồi. Chủ nhật, Hans Beckerman. Có 7 hành khách. Anh ta lái chiếc Iveco ngày hôm đó, chiếc xe bus nhỏ.
Bảy người khách vô danh và người lái xe. Robert cố cầu may.
- Anh có tên những du khách đó không?
- Thưa ông, người ta từ ngoài đường bước vào, mua vé và lên đường. Chúng tôi không yêu cầu một thứ giấy tờ ǵ.
Tuyệt thật.
- Một lần nữa, cảm ơn anh nhé. - Robert đi ra phía ngoài cửa.
Tay nhân viên với theo:
- Tôi mong ông sẽ gửi cho chúng tôi một bản của bài báo nhé.
- Chắc chắn rồi. - Robert đáp.

o0o

Chi tiết đầu tiên của vấn đề là chiếc xe bus, và Robert lái xe đến Talstrassr, nơi những chiếc xe bus khởi hành, thầm mong nó có thể để lộ một dấu vết nào đó. Chiếc xe Iveco sơn màu nâu và trắng bạc, nhỏ vừa đủ để có thể vượt những con đường dốc của dăy núi Alps, với mười bốn ghế ngồi dành cho khách. Bảy người đó là ai, và họ đă biến đi đường nào?
Robert ngồi vào xe của ḿnh. Anh xem bản đồ và đánh dấu đường đi. Anh đi đường Lavessneralle ra khỏi thành phố, tới vùng Albis, nơi bắt đầu dăy núi Alps, và hướng tới làng Kapel. Anh chạy theo hướng nam, ngang qua dẫy đồi nhỏ bao quanh Zurich và bắt đầu leo lên dây Alps huyền diệu. Anh lái xe chạy qua Adliswil, Langnau và Hausen và bao nhiêu làng mạc vô danh khác với những ngôi nhà nhỏ làm bằng gỗ và quang cảnh đẹp như tranh. Gần một tiếng sau, anh tới Kapel. Ngôi làng nhỏ nầy có một tiệm ăn, một nhà thờ, một bưu điện và khoảng hơn một chục ngôi nhà nằm rải rác quanh những quả đồi. Robert đỗ xe và bước vào tiệm ăn. Một cô hầu bàn đang lau chùi cái bàn gần cửa ra vào.
- Xin chào cô. Cô có biết nhà ông Beckerman ở đâu không? - Anh nói bằng tiếng Đức.
- Dạ. - Cô gái chỉ tay dọc theo con đường. - Phía cuối kia ḱa.
- Cảm ơn.
Robert rẽ phải chỗ cái nhà thờ và chạy đến một ngôi nhà hai tầng xây bằng đá vẻ khiêm nhường, với mái ngói. Anh ra khỏi xe và bước đến trước cửa. Không nh́n thấy chuông, anh đành phải gơ cửa.
Một người phụ nữ to lớn với hàng ria mép mờ mờ ra mở cửa.
- Có ǵ vậy?
- Xin lỗi v́ đă làm phiền chị. Ông Beckerman có nhà không ạ?
Chị ta nh́n anh có vẻ nghi ngờ.
- Ông muốn ǵ ở ông ấy hả?
Robert trao cho chị ta một nụ cười thật quyến rũ.
- Chị hẳn phải là vợ của ông Beckerman. - Anh móc cái thẻ phóng viên ra. - Tôi đang làm một bài trên tạp chí về những người lái xe bus Thuỵ Sĩ, và chồng chị được giới thiệu với tạp chí của tôi là một trong những người lái xe an toàn nhất nước.
Gương mặt chị ta sáng lên và nói một cách đầy tự hào:
- Hans của tôi là một người lái xe tuyệt vời.
- Chị Beckerman, đó là điều mà mọi người đều nói với tôi. Tôi muốn được phỏng vấn ông ấy.
- Phỏng vấn Hans của tôi cho một tờ tạp chí ư? - Chị ta đỏ bừng mặt. - Điều đó thật thú vị. Xin mời vào.
Chị ta dẫn Robert vào một căn pḥng khách nhỏ và gọn gàng ngăn nắp.
- Xin chờ ở đây. Tôi sẽ gọi Hans.
Ngôi nhà có trần thấp nhưng sáng sủa, sàn nhà bằng gỗ màu sẫm, đồ đạc bằng gỗ trong nhà khá giản dị. Có một cái ḷ sưởi bằng đá và những tấm rèm treo trên các cửa sổ.
Robert đứng đó ngẫm nghĩ. Đây không chỉ là đầu mối tốt nhất mà c̣n là đầu mối duy nhất của anh.
"Người ta từ ngoài đường bước vào, mua vé và lên đường Chúng tôi không yêu cầu một thứ giấy tờ ǵ…"
Từ đây ḿnh c̣n chưa biết sẽ đi đâu, Robert nhăn nhó nghĩ. Nếu ở đây không ổn, ḿnh luôn luôn có thể cho đăng một lời rao:
"Xin mời bảy du khách trên chiếc xe bus đă nh́n thấy vụ tai nạn khinh khí cầu hôm chủ nhật đến pḥng khách sạn của tôi vào lúc mười hai gị trưa mai. Sẽ có bữa điểm tâm".
Một người đàn ông mảnh khảnh và hói đầu xuất hiện. Nước da ông mai mái và ông ta để một bộ ria mép dầy, đen rất không hợp với toàn bộ vẻ ngoài của ḿnh.
- Xin chào ông.
- Tôi là Smith. Xin chào ông. - Giọng Robert đầy nhiệt t́nh. - Tôi đang rất mong ngóng được gặp ông, ông Beckerman.
- Vợ tôi nói là ông đang viết một câu chuyện về những người lái xe bus chúng tôi. - Ông ta nói với một giọng Đức nặng trịch.
Robert nở một nụ cười với vẻ tranh thủ t́nh cảm.
- Đúng thế. Tờ tạp chí của tôi rất quan tâm đến hồ sơ lái xe an toàn tuyệt vởi của ông và…
- Thôi đi. - Beckerman thô lỗ cắt ngang. - Ông quan tâm tới cái vụ tai nạn chiều hôm qua, không phải thế ư?
Robert làm ra vẻ lúng túng.
- Sự thực là, vâng, tôi cũng muốn bàn cả chuyện đó nữa.
- Vậy th́ sao ông không nói thẳng ra hả? Ngồi xuống.
- Cảm ơn. - Robert ngồi xuống chiếc đi văng.
Beckerman nói:
- Tôi lấy làm tiếc là không thể mời ông uống một chút, nhưng quả là chúng tôi không c̣n trữ sẵn rượu trong nhà. - Ông ta đập đập tay vào bụng. - Loét dạ dày. Thậm chí các thầy thuốc không thể cho tôi thuốc giảm đau được. Tôi phản ứng với tất cả các loại đó. - Ông ta ngồi xuống phía đối diện với Robert. - Nhưng mà ông không đến đây để nói về sức khoẻ của tôi có phải không, hả? Ông muốn biết ǵ nào?
- Tôi muốn nói chuyện với ông về những người khách đi trên chiếc xe của ông hôm chủ nhật, mà ông dừng lại gần Uetendort nơi quả bóng thám không đâm vào núi ấy.
Hans Beckerman nh́n anh cḥng chọc.
- Bóng thám không nào? Ông nói chuyện ǵ vậy?
- Quả bóng mà…
- Ông nói con tàu không gian ấy ư?
Đến lượt Robert kinh ngạc.
- Tàu… không gian?
- Phải, một cái đĩa bay.
Phải mất một giây để những lời nầy được cảm nhận hết. Robert thấy ớn lạnh một cách đột ngột.
- Có phải ông đang nói với tôi là ông đă nh́n thấy một cái đĩa bay không?
- Phảỉ. Với những xác chết trong đó.
"Ngày hôm qua, ở vùng núi Alps, Thuỵ Sĩ, một quả bóng thám không thời tiết của NATO đâm vào núi, có một vài dụng cụ thí nghiệm quân sự tối mật trên quả cầu đó".
Robert phải rất cố gắng để giữ vẻ b́nh tĩnh.
Ông Beckerman, ông có chắc chắn cái mà ông đă nh́n thấy là một đĩa bay không hả?
- Tất nhiên. Cái mà họ gọi là một vật thể bay lạ.
- Và có những người chết ở trong đó?
- Không phải là người, không phải. Những sinh vật. Rất khó mô tả họ. - Ông ta hơi rùng ḿnh. - Họ rất nhỏ với những đôi mắt to, rất lạ. Họ mặc những bộ quần áo có màu kim loại bạc. Trông rất sợ.
Robert lắng nghe, đầu óc anh rối bời.
- Những hành khách của ông có trông thấy không?
- Ồ có. Tất cả chúng tôi đều trông thấy. Tôi đă dừng ở đó có tới mười lăm phút ấy. Họ muốn chúng tôi dừng lại lâu hơn, nhưng hăng luôn rất nghiêm ngặt về lịch tŕnh.
Robert biết câu hỏi là vô ích thậm chí trước cả lúc anh nói ra.
- Ông Beckerman, ông có biết tên của một hành khác nào trong số đó không?
- Thưa ông, tôi là người lái xe. Hành khách mua vé ở Zurich và chúng tôi đưa họ đi về phia táy nam đến Interlaken và rồi theo hướng tây-bắc tơi Bern. Họ có thể hoặc là xuống Bern, hoặc trở về Zurich. Không ai cho biết tên cả.
- Ông không có cách nào để nhận diện bất kỳ ai trong số họ à? - Robert nói một cách tuyệt vọng.
Người lái xe bus ngẫm nghĩ giây lát.
- Ồ tôi có thể nói với ông là trên thuyến đó không có trẻ em. Toàn đàn ông.
- Chỉ có đàn ông thôi hả?
Beckerman ngẫm nghĩ.
- Không, không phải thế. Cũng có một phụ nữ.
Kinh khủng. Điều đó thật sự thu hẹp thêm khả năng t́m kiếm, Robert nghĩ. Câu hỏi tiếp theo: Quái quỷ thế nào mà ḿnh lại nhận cái nhiệm vụ nầy cơ chứ?
- Ông Beckerman, ông đang nói là một nhóm du khách lên chiếc xe bus của ông ở Zurich và rồi khi chuyến đi kết thúc th́ đơn thuần là họ tản đi có phải vậy không?
- Đúng thế, ông Smith.
Vậy là thậm chí không có cả cái đống cỏ khô.
- Ông có nhớ bất kỳ điều ǵ về số hành khách không? Bất kỳ điều ǵ họ đă nói hoặc làm?
Beckerman lắc đầu.
- Thưa ông, để ư đến họ làm ǵ, miễn là được trả tiền thôi chứ. Trừ phi họ gây rắc rối ǵ. Như cái ông người Đức đó.
Robert ngồi im phăng phắc. Anh nhẹ nhàng hỏi:
- Người Đức nào?
- Tất cả những hành khách khác đều hứng thú xem cái vật thể bay lạ kia và những sinh vật chết trong đó, thế mà cái lăo già nầy cứ phàn nàn đ̣i chúng tôi phải nhanh lên để đến Bern v́ lăo ta phải chuẩn bị bài giảng ǵ đó cho trường đại học vào buổi sáng…
Mọi sự bắt đầu đây.
- Ông có c̣n nhớ ǵ khác về ông ta không?
- Không.
- Không ǵ cả ư?
- Ông ta mặc một cái áo choàng màu đen.
Tuyệt.
- Ông Beckerman nầy, tôi muốn nhờ ông một việc. Ông có thể chở tôi đến Uctendort được không?
- Hôm nay là ngày nghỉ của tôi. Tôi bận với…
- Tôi rất vui ḷng được trả công ông mà.
- Thế hả?
- Hai trăm đồng mác.
- Tôi không…
- Tôi sẽ trả bốn trăm mác.
Beckerman nghĩ một chút.
- Sao lại không nhỉ? Đi chơi hôm nay cũng đẹp trời đấy chứ?
Họ đi về phía nam, qua Luzern và những làng đẹp như tranh vẽ ở Immensee và Meggen. Phong cảnh đẹp đến ngợp thở, nhưng đầu óc Robert c̣n mải với những chuyện khác.
Họ chạy qua Engelberg, với tu viện cổ Benedictine, và Brunig, con đèo dẫn tới vùng Interlaken. Xe họ băng qua Leissigen và Faulensse, với một hồ lớn xanh thẳm điểm những cánh buồm trắng xoá.
- C̣n bao xa nữa? - Robert hỏi.
- Sắp tới rồi, - Hans Beckerman hứa.
Sau khi chạy được gần một giờ th́ họ tới Spiez.
Hans Beckerman nói:
- Bây giờ th́ không c̣n xa nữa. Chỉ qua Thun là tới.
Robert cảm thấy tim ḿnh bắt đầu đập nhanh hơn.
- Anh sắp được chứng kiến một thứ ǵ đó vượt khỏi sức tưởng tượng, những người khách xa lạ từ những hành tinh khác. Họ chạy qua Thun, một ngôi làng nhỏ, và ít phút sau khi họ đến gần một cánh rừng gần xa lộ Hans Beckerman đưa tay chỉ và nói:
- Kia, ḱa.
Robert đạp phanh và dừng lại bên đường.
- Bên kia ḱa. Sau những cái cây đó.
Robert thấy cái cảm giác hồi hộp mỗi lúc một tăng.
- Được. Chúng ta hăy nh́n xem.
Một chiếc xe vận tải chạy qua. Khi nó đi khỏi, Robert và Hans Beckerman đi sang đường. Robert đi theo người lái xe bus ngược lên một đoạn dốc dẫn tới cánh rừng.
Con đường đă hoàn toàn khuất khỏi tầm mắt. Lúc họ bước tới một quăng trống, Beckerman lớn tiếng nói:
- Đúng chỗ nầy đây.
Nằm trên mặt đất phía trước họ là những mảnh vụn nát của một quả bóng thám không.


Chương 8

Ḿnh đă quá già trong nghề nầy mất rồi, Robert mệt mỏi nghĩ. Ḿnh đă thực sự mê muội v́ câu chuyện đĩa bay của hắn.
Hans Beckerman nh́n đăm đăm vào cái thứ đang nằm trên mặt đất, một vẻ bối rối hiện lên trên gương mặt ông ta.
- Mẹ kiếp, không phải nó.
Robert thở dài.
- Không phải nó, có phải không?
Beckerman lắc đầu.
- Nó đă ở đây ngày hôm qua mà.
- Có thể là những người nhỏ bé màu xanh của ông đă chở nó đi rồi đấy.
- Không, không. Họ chết cả rồi. - Beckerman khăng khăng.
Chết. Điều đó là lời kết luận chính xác cho cái sứ mệnh của ḿnh. Đầu mối duy nhất của ḿnh là một thằng điên nh́n thấy những con tàu không gian.
Robert bước đến bên mảnh quả cầu để xem xét nó một cách cẩn thận hơn. Nó là một cái bao nhôm lớn có đường kính khoảng năm mét, với những cạnh răng cưa nơi nó bị rách ra khi đâm xuống đất. Tất cả các thiết bị đă được mang đi, đúng như tướng Hilliard đă nói với anh. "Tôi không thể nào nói hết tầm quan trọng của những ǵ chứa trong quả cầu đó"
Robert đi ṿng quanh quả cầu xẹp lép, sục mũi giầy trong đám cỏ ướt t́m kiếm một dấu vết mờ nhạt nhất có thể có. Không có ǵ. Nó giống hệt hàng chục quả bóng thám không thời tiết khác mà anh đă từng nh́n thấy trong những năm qua.
Ông già vẫn không chịu đầu hàng, vẫn đầy cái vẻ ương ngạnh rất Đức. "Những thứ lạ lùng đó… Họ làm chúng giống như thế nầy nầy. Ông biết đấy, họ có thể làm được mọi thứ".
Không c̣n ǵ để làm ở đây nữa, Robert quyết định.
Bít tất của anh đă ướt hết v́ những đám cỏ ướt. Anh bước đến bên cái vỏ quả cầu.
- Ông giúp tôi nâng cái góc nầy lên chứ?
Beckerman nh́n anh một chút, ngạc nhiên.
- Ông muốn tôi nâng nó lên ư?
- Phải.
Beckerman nhún vai. Ông ta cầm một góc của cái thứ vật liệu rất nhẹ kia và nâng lên trong khi Robert nâng một góc khác. Anh nâng mảnh nhôm lên cao quá đầu và bước vào phía trong. Hai chân anh ngập trong cỏ.
- Ở dưới nầy cũng ướt. - Robert gọi với ra.
- Tất nhiên. Trời mưa suốt cả ngày hôm qua. Toàn bộ mặt đất đều ướt.
Robert từ bên dưới quả cầu chui ra.
- Đáng ra nó phải khô.
"Thời tiết điên rồ, viên phi công nói. "Chủ nhật trời nắng?" Đó là ngày quả cầu đâm xuống đất. Mưa suốt ngày hôm nay và đêm lại quang đăng. Ở đây ông không cần đến đồng hồ đâu. Cái mà ông thật sự cần là một cái phong vũ biểu.
- Cái ǵ hả?
- Thời tiết thế nào khi ông ta nh́n thấy cái vật thể bay lạ?
Beckerman ngẫm nghĩ một lát.
- Đó là một buổi chiều đẹp trời.
- Trời nắng chứ?
- Vâng. Trời nắng.
- Nhưng trời mưa suốt cả ngày hôm qua phải không?
Beckerman nh́n anh, khó hiều.
- Vậy th́ sao?
- Vậy th́ nếu quả câu nầy ở đây suốt đêm, mặt đất bên dưới nó phải khô, hoặc cùng lắm là ẩm thôi do sự thẩm thấu. Thế nhưng nó lại ướt đẫm, giống như phần c̣n lại ở khu vực nầy.
Beckerman ngẩn ra.
- Tôi không hiểu. Điều đó có nghĩa là thế nào?
- Nó có thể có nghĩa là, - Robert nói một cách thận trọng, - ai đó đă đặt quả cầu nầy ở đây ngày hôm qua sau khi trời đă bắt đầu mưa và mang đi cái mà ông đă nh́n thấy.
Hay có cách giải thích nào đó điên rồ hơn mà anh chưa nghĩ tới? Ai lại làm một cái việc điên khùng như vậy?
Không điên đến thế đâu, Robert nghĩ. Chính phủ Thuỵ Sĩ có thể đă làm việc nầy để đánh lừa bất kỳ một vị khách ṭ ṃ nào. Cái mẹo đầu tiên cửa một việc bưng bít là tưng tin giả. Robert bước qua đám cỏ ướt chăm chú nh́n mặt đất và tự mắng ḿnh là một kẻ khờ dại cả tin.
Hans Beckerman nghi hoặc nh́n Robert.
- Nầy ông, ông nói là ông viết cho tạp chí nào nhỉ?
- Du lịch và Sự thanh thản.
Hans Beckerman mừng rỡ.
- Ồ. Vậy th́ tôi cho rằng ông sẽ muốn chụp ảnh tôi giống như cái thằng cha kia.
- Cái ǵ?
- Cái tay chụp ảnh đă chụp h́nh bọn tôi ấy mà.
- Ông đang nói đến ai vậy? - Robert cau mầy.
Cái tay chụp ảnh. Tay đó đă chụp ảnh cho chúng tôi trước cái xác con tàu. Hắn ta nói sẽ gửi cho chúng tôi mỗi người một tấm. Một vài người khách khác cũng có máy ảnh.
Robert nói từ tốn:
- Hăy khoan nào. Ông đang nói là có ai đó đă chụp h́nh các du khách kia ở đây ngay trước cái vật thể bay lạ phải không?
- Đó chính là điều tôi đang nói với ông đấy.
- Và ông ta hứa gửi cho mỗi người các ông một tấm ảnh?
- Đúng vậy.
- Vậy th́ ông ta hẳn phải lấy tên và địa chỉ của các ông chứ?
- Ồ tất nhiên. Nếu không th́ ông ta biết gửi chúng đi như thế nào được?
Robert đứng lặng người, toàn thân nóng bừng bừng.
Sự t́nh cờ tuyệt vời, Robert, mi là một thằng không may mắn. Một sứ mạng bất khả thi bỗng đột ngột trở thành một miếng bánh. Anh không c̣n phải đi t́m bẩy du khách vô danh kia nữa. Tất cả những ǵ mà anh phải làm là t́m tay chụp ảnh.

o0o

- Sao lúc trước ông không nhắc đến ông ta, ông Beckerman?
- Ông hỏi tôi về những hành khách kia mà.
- Ư ông nói ông ta không phải là một hành khách của ông à?
Hans Beckerman lắc đầu.
- Không - Ông ta chỉ tay. - Xe của ông ta bị chết máy phía bên kia xa lộ. Một chiếc xe cẩu đang sắp sửa lôi nó đi th́ xảy ra vụ nầy với chấn động mạnh, và ông ta chạy sang đường để xem có chuyện ǵ xảy ra. Khi nh́n thấy nó, ông ta trở về xe, chộp lấy máy ảnh và quay trở lại. Thế rồi ông ta bảo tất cả chúng tôi đứng vào để chụp h́nh trước cái đĩa bay đó.
Cái người chụp ảnh đó có nói tên với ông không?
- Không.
- Ông có nhớ ǵ về ông ta không?
Hans Beckerman cố tập trung trí nhớ.
- Ồ, ông ta là một người ngoại quốc. Người Mỹ hoặc Anh.
- Ông nói là một chiếc xe cẩu đă sẵn sàng lôi xe của ông ta đi?
Đúng thế.
- Ông có nhớ chiếc xe cẩu chạy đi đường nào không?
- Phía bắc. Tôi đoán rằng ông ta mang nó đi Bern. Thun th́ gần hơn nhưng vào chủ nhật th́ mọi ga-ra ở Thun đều đóng cửa.
- Cám ơn ông. Ông đă giúp tôi rất nhiều. - Robert mỉm cười.
- Ông sẽ không quên gửi cho tôi bài báo của ông sau khi kết thúc chứ?
- Không. Đây là tiền của ông và thêm một trăm mác cho sự giúp đỡ của ông. Tôi sẽ đưa ông về nhà.
Họ đi về xe. Khi Beckerman mở cửa xe, ông ta dừng lại và quay sang Robert.
- Ông thật là hào phóng. - Ông ta móc trong túi ra một miếng kim loại nhỏ h́nh vuông, cỡ bằng cái bật lửa, có chứa một tinh thể màu trắng nhỏ xíu.
- Cái ǵ thế nầy?
- Tôi đă thấy nó trên mặt đất hôm chủ nhật trước lúc chúng tôi quay lại xe.
Robert xem xét cái vật lạ lùng kia. Nó nhẹ như giấy và có màu của cát. Một cạnh ráp của nó cho thấy nó có thể là một phần của bộ phận khác. Một phần của cái thiết bị chứa trong quả bóng thám không kia? Hay một phần của một vật thể bay lạ?
- Có thể nó sẽ mang lại may mắn cho ông, - Beckerman nói trong lúc ông ta đang xếp những đồng tiền mà Robert vừa đưa cho ông ta vào ví. - Với tôi th́ đă hẳn là thế rồi. - Ông ta ngoác miệng cười và chui vào xe.

o0o

Đă đến lúc phải tự hỏi ḿnh một câu hỏi nghiêm túc: Ḿnh có thật sự tin có những vật thể bay lạ không? Anh đă đọc nhiều bài báo điên rồ của những g người nói là họ đă thấy những con tàu không gian và đủ loại chuyện kỳ quặc khác và anh đă thường gắn những tin tức nầy với những người hoặc là t́m kiếm sự nổi tiếng hoặc là cần phải tự t́m đến sự giúp đỡ của một bác sĩ tâm thần giỏi. Nhưng trong mấy năm gần đây, có những tin tức không dễ ǵ bác bỏ được. Các tin tức về việc nh́n thấy các vật thể bay lạ bởi các nhà du hành vũ trụ, các phi công quân sự các viên chức cảnh sát, những người có uy tín những người né tránh sự xuất hiện trước công chúng.
Thêm vào đó là tin đáng quan ngại về một vật thể lạ đâm xuống Roswell bang New Mexico, nơi dường như đă t́m thấy xác của những sinh vật lạ. Chính phủ bị cho là đă bưng bít chuyện đó và đă mang đi mọi bằng chứng. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, các phi công đă báo cáo về việc nh́n thấy những thứ lạ lùng mà họ gọi là những chiếc máy bay tiêm kích Foo, những vật thể bay không xác định được lai lịch bay sát tới họ và rồi biến mất. Có những câu chuyện về những thị trấn được viếng thăm bởi những vật thể không giải thích được từ trên trời bay vút xuống. Nếu thật sự có những sinh vật lạ trong các vật thể bay lạ từ một hệ mặt trời khác đến th́ sao? Robert phân vân. Điều đó sẽ ảnh hưởng thế nào đến thế giới của chúng ta? Liệu điều đó sẽ có nghĩa là hoà b́nh? Chiến tranh? Sự chấm dứt của nền vản minh mà chúng ta đă biết chăng? Anh thấy minh phần nào mong rằng Hans Beckerman là một kẻ ngớ ngẩn điên rồ, và thật sự là quả bóng thám không thời tiết đă đâm xuống đất. Anh sẽ phải t́m một nhân chứng khác để hoặc là xác nhận câu chuyện của Beckerman hoặc là bác bỏ nó. Nh́n bề ngoài, câu chuyện dường như không thể tin được, thế nhưng có một điều ǵ đó làm bận tâm Robert: Giá như nó chỉ là một quả bóng thám không gặp nạn, thậm chí nó có mang những thiết bị đặc biệt chăng nữa, v́ sao ḿnh lại bị gọi đến một cuộc gặp gỡ tại NSA vào lúc 6 giờ sáng và được cho biết điều khẩn cấp là phải nhanh chóng t́m ra tất cả các nhân chứng? Có một vụ bưng bít nào không?
Và nếu vậy th́ v́ sao?


Chương 9

Cuối ngày hôm đó, một cuộc họp báo được tổ chức tại Geneva, trong khu văn pḥng giản dị của Bộ Nội vụ Thuỵ Sĩ. Có tới hơn năm chục phóng viên có mặt trong pḥng và cả một đám đông ở ngoài hành lang. Có các đại diện phát thanh, truyền h́nh và báo chí từ hơn một chục nước, nhiều người trong số họ lỉnh kỉnh với micrô và các thiết bị ghi h́nh. Dường như tất cả bọn họ đều đang cất tiếng cùng một lúc.
- Chúng tôi nghe tin tức nói rằng đó không phải là một quả bóng thám không thời tiết…
- Có phải đó là một cái đĩa bay không?
- Tin đồn rằng cô những xác chết lạ ở trên con tàu…
- Có phải một sinh vật lạ c̣n sống không?
- Phải chăng chính phủ đang t́m cách che giấu sự thật trước nhân dân?
Vị quan chức báo chí cất cao giọng để lấy lại trật tự:
- Thưa các quư vị, đă có một sự hiểu lầm đơn giản. Chúng tôi liên tục nhận được những cú điện thoại kiểu nầy. Người ta nh́n thấy những vệ tinh, sao băng… Chẳng nhẽ không phải là thú vị sao khi mà những tin tức về các vật thể bay lạ luôn luôn được đưa ra dưới dạng nặc danh? Có thể người báo tin nầy thật sự tin đó là một vật thể bay lạ, nhưng trên thực tế, chỉ là một quả bóng thám không bị rớt xuống mặt đất. Chúng tôi đă thu xếp phương tiện để đưa các bạn tới đó. Xin mời quư vị theo tôi…
Mười lăm phút sau, hai xe bus chở đầy các phóng viên và các camera ghi h́nh đă lên đường đi Uctendort để mục kích những ǵ c̣n lại của vụ tai nạn bóng thám không? Khi tới nơi, họ đứng trong đám cỏ ướt xem xét cái vỏ kim loại rách toác. Vị quan chức báo chí nói:
- Đây là cái đĩa bay bí ẩn của các vị. Nó đă xuất phát từ căn cứ không quân của chúng tôi ở Vevey. Theo chỗ chúng tôi biết, thưa quư vị, không hề có những vật thể bay lạ mà chính phủ chúng tôi không thể giải thích một cách xác đáng và cũng theo chỗ chúng tôi biết, không có bất kỳ một vị khách lạ nào tới thăm chúng ta. Chính sách dứt khoát của chính phủ chúng tôi là nếu như thu được bất kỳ băng chứng nào về vấn đề nầy, lập tức chúng tôi sẽ để điều đó trở thành thông tin đại chúng. Nếu như không c̣n câu hỏi nào nữa…


Chương 10

Nhà để máy bay số 17 tại căn cứ không quân Langley ở bang Virginia được khoá kín và bảo vệ nghiêm ngặt. Bên ngoài, bốn lính thuỷ đánh bộ canh gác toà nhà và bên trong, ba sĩ quan cấp cao của Lục quân luân phiên nhau mỗi người tám giờ canh gác một căn pḥng luôn đóng kín. Không một sĩ quan nào biết anh ta đang canh gác cái ǵ. Ngoài các nhà khoa học và các bác sĩ đang làm việc trong đỏ, chỉ có ba người khách được phép bước vào căn pḥng đóng kín kia.
Vị khách thứ tư vừa mới tới. Ông ta được thiếu tướng Paxton, người phụ trách an mnh, ra đón.
- Xin mời thăm chuồng thú của chúng tôi.
- Tôi đă rất mong đợi điều đó.
- Ông sẽ không phải thất vọng. Xin đi lối nầy.
Bên ngoà́ cửa pḥng đóng kín là một cái giá với bốn bộ quần áo khử trùng, trắng tinh có thể bao kín toàn bộ cơ thể.
- Xin ông vui ḷng mặc lên người cho! - Viên tướng nói.
- Tất nhiên rồi. - Janus chui người vào trong bộ quần áo. Chỉ c̣n có thể thấy mặt ông ta qua tấm che mặt bằng kính. Ông ta mang hai cái ủng trắng to tướng ra bên ngoài đôi giày của ḿnh và viên tưóng dẫn ông ta tới cửa căn pḥng đóng kín kia. Người lính gác đứng tránh sang một bên, và viên tướng mở cửa.
- Trong nầy đây.
Janus bước vào pḥng và nh́n quanh. Ở chính giữa pḥng là chiếc phi thuyền không gian. Trên những chiếc bàn mổ ở phía bên là xác của hai sinh vật lạ.
Một nhà nghiên cứu bệnh học đang thực hiện một ca giải phẫu trên một trong hai cái xác.
Tướng Paxton hướng sự chú ư của vị khách tới chiếc phi thuyền.
- Chúng tôi đang xem xét ở đây cái mà chúng tôi cho là một con tàu do thám, - tướng Paxton giải thích. - Chúng tôi tin chắc rằng nó có một kênh liên lạc trực tiếp nào đó với phi thuyền mẹ.
Hai người bước lại gần hơn để xem xét. Đường kính của nó xấp xỉ chục mét. Phần bên trong có h́nh dạng như một viên ngọc với cái trần có thể mở rộng ra được và ba cái đi văng giống như những chiếc ghế bố phân vách được phủ bằng những tấm panen có gắn những đĩa kim loại rung.
- Có rất nhiều thứ chúng tôi chưa thể hiểu được, - tướng Paxton thú nhận. - Nhưng mà những ǵ chúng tôi đă biết th́ thật đáng ngạc nhiên - Ông ta chỉ một dăy thiết bị trên những tấm panen nhỏ. - Đó là một hệ thống kính quang học mạch liên hợp có góc nh́n rộng, có vẻ là một hệ thống ḍ t́m sự sống, một hệ thống dẫn đường mà nói thẳng ra là nó khiến chúng ta mù tịt và một hệ thống thông tin có khả năng tổng hợp ngôn ngữ. Chúng tôi nghĩ là nó hoạt động bằng một dạng năng lượng điện từ trường nào đó.
- Có vũ khí nào trên đó không? - Janus hỏi.
Tướng Paxton giang rộng hai tay trong một cử chỉ tỏ ư thất bại.
- Chúng tôi không rơ. Có rất nhiều thiết bị trên đó mà chúng tôi chưa hiểu.
- C̣n nguồn năng lượng th́ sao?
- Phán đoán cao nhất của chúng tôi là nó sử dụng hyđrô đơn nguyên tử trong một mạch kín để chất thải của nó, nước, có thể được liên tục tái chế thành hyđrô sản sinh năng lượng. Với nguồn năng lượng vĩnh viên ấy nó có thể thoải mái bay trong khoảng không gian liên hành tinh. Có thể phải mất nhiều năm chúng ta mới biết hết những bí mật ở đây. Và c̣n có một điều kinh ngạc nữa. Xác chết của hai sinh vật lạ được chằng trên ghế của họ. Nhưng những vết lơm ở trên ghế thứ ba cho thấy nó cũng có một chủ nhân.
- Ông đang nói, - Janus từ tốn hỏi, - rằng có thể một sinh vật đang mất tích ư?
- Dường như chắc chắn là thế.
Janus đứng yên với một thoáng chau mầy.
- Chúng ta hăy nh́n các kẻ xâm nhập nầy một chút.
Hai người bước lại những chiếc bàn trên đó có xác hai sinh vật lạ. Janus đứng nh́n chằm chằm vào những h́nh thù kỳ dị kia. Thật khó tin là những sinh vật có trí tuệ. Trán của chúng lớn hơn mức ông ta tưởng. Họ đều hói đầu và không có lông mi cũng như lông mày. Mắt của họ trông giống như những quả bóng bàn vậy.
Người bác sĩ đang tiến hành phẫu thuật ngẩng lên khi hai người bước lại.
- Thật kỳ lạ, - Ông ta nói. - Một bàn tay đă được cắt khỏi thân thể một trong hai sinh vật lạ. Không hề thấy có máu, nhưng ở trong những ống, có thể là mạch ven, có một chất lỏng màu xanh. Phần lớn đă chảy hết ra ngoài.
- Một chất lỏng màu xanh à? - Janus hỏi.
- Phải, - Người bác sĩ lương lự. - Chúng tôi cho là những sinh vật nầy là một dạng của đời sống thực vật.
- Một loài thực vật biết nghĩ ư? Ông nói nghiêm túc đấy chứ?
- Hăy nh́n cái nầy. - Người bác sĩ nhấc một can nước và dội lên cánh tay của sinh vật đă mất một bàn tay. Trong khoảnh khắc, không có chuyện ǵ xảy ra. Và rồi bỗng nhiên, tại đầu cụt của cánh tay, một thứ chất màu xanh lục ứa ra và từ từ h́nh thành một bàn tay.
Hai người nh́n chết lặng.
- Giêxu. Những sinh vật nầy đă chết hay chưa thế nầy?
Đó là một câu hỏi thú vị. Những cơ thể nầy không c̣n sống, theo cảm nhận của con người, thế nhưng chúng cũng không phù hợp với định nghĩa về sự chết.
- Tôi chỉ cho là họ đang ở trạng thái ngủ đông mà thôi.
Janus vẫn đang nh́n đăm đăm vào cái bàn tay vừa được h́nh thành.
- Nhiều thực vật cho thấy các dạng thông minh khác nhau.
- Thông minh ư?
- Ồ phải. Có những loài cây tự nguy trang ḿnh, tự bảo vệ bản thân chúng. Lúc nầy, chúng ta đang có những thí nghiệm kinh hoàng về đời sống thực vật.
- Tôi muốn được xem những thí nghiệm đó. - Janus nói.
- Được thôi. Tôi sẵn sàng thu xếp.

o0o

Căn nhà kính thí nghiệm khổng lồ nằm trong một khu liên hợp của chính phủ cách Washington 30 dặm.
Trên tường là một tấm biển đề:
"Những cây thích và những cây dương xỉ vẫn không hề mục nát, Tuy nhiên, không có ǵ phải nghi ngờ khi chúng bừng tỉnh. Chúng cũng sẽ nguyền rủa và thề nguyện. Ralph Waldo Emerson Thiên nhiên, 1836."
Giáo sư Rachman, người phụ trách khu liên hợp nầy là một ông thần giữ của sốt sắng, đầy nhiệt huyết với nghề nghiệp của ḿnh.
- Chính Charles Darwin là người đầu tiên nhận biết được khả năng suy nghĩ của cỏ. Luther Burbank đă tiếp nối bằng việc giao tiếp với chúng.
- Ông có thật sự tin rằng có thể có điều đó không?
- Chúng tôi biết là có điều đó. George Washington Carver đă chuyện tṛ với cây cối và chúng đă cho ông hàng trăm sản phẩm mới. Carver nói. Khi tôi chạm vào một bông hoa, nghĩa là tôi đang chạm vào Thượng đế. Nhưng bông hoa có mặt trước loài người từ lâu trên trái đất nầy, và chúng sẽ tiếp tục tồn tại hàng triệu năm sau loài người. Qua loài hoa, tôi nói chuyện với Thượng đế…
Janus nh́n quanh ngôi nhà kính lớn mà họ đang đứng ở bên trong. Những cây cỏ và các loài hoa lạ làm khu nhà ngập trong những sắc màu rực rỡ của cầu vồng. Hương hoa pha quyện vào nhau, thơm ngát.
- Tất cả những ǵ trong khu nhà nầy đếu sống động. - Giáo sư Rachman nói. - Những cây cỏ nầy có thể cảm thấy yêu, ghét, đau đớn và kích động… giống như những động vật. Ngài Jagadis Chandra Bose đă chứng minh rằng chúng phản ứng với một giọng nói.
- Làm sao người ta có thể chứng minh điều đó? - Janus hỏi.
- Tôi sẽ sẵn sàng chứng minh cho ông thấy. - Racham bước đến bên chiếc bàn chất đầy cây. Bên cạnh là một chiếc máy đo. Rachman nhấc một đầu dây và cặp nó vào một cái cây. Kim trên đồng hồ của máy ở vị trí không làm việc.
- Trông nầy, - Ông ta nói, rồi ghé lại gần cái cây hơn và th́ thầm. - Ta nghĩ rằng mi rất đẹp. Mi đẹp hơn tất cả những cái cây khác ở đây…
Janus thấy chiếc kim hơi dịch chuyển.
Đột nhiên, giáo sưa Rachman quát lên với cái cây:
- Mi thật là xấu. Mi sắp phải chết. Mi có nghe ta nói không? Mi sắp phải chết.
Chiếc kim bắt đầu rung lên, rồi giật bắn lên trên.
- Lạy Chúa, - Janus nói. - Tôi không thể nào tin được. Điều mà ông nh́n thấy, - Rachman nói, - tương tự như một con người bị quát mắng. Các tạp chí quốc gia đều đă đăng những bài viết về các thí nghiệm nầy.
Một trong những thí nghiệm hấp dẫn nhất là một thí nghiệm về khả năng nh́n, được tiến hành với sáu sinh viên. Một trong số họ, những người kia không biết, được chọn đi vào một căn pḥng có hai cái cây, một cây được nối với máy đo. Cậu ta phá nát hoàn toàn cái cây kia. Sau đó, từng người sinh viên một được yêu cầu đi vào trong pḥng, bước ngang qua cái cây.
Khi những sinh viên vô tội đi vào, máy đo không ghi lại được ǵ cả Nhưng đúng lúc kẻ có tội xuất hiện th́ kim trên máy đo vọt lên.
- Thật không thể tin được.
- Nhưng đó là sự thật. Chúng ta cũng đă biết rằng cây cối có phản ứng với các loại âm nhạc khác nhau.
- Các loại khác nhau?
- Phải. Họ đă làm một thí nghiệm tại Đại học Temple Buell ở Denver với những cây hoa khoẻ mạnh được đặt trong các lồng kính riêng biệt. Nhạc rock gay gắt được truyền dẫn vào một lồng, nhạc xita miền Đông Ấn Độ được truyền dẫn vào một lồng, và lồng thứ ba không có âm nhạc ǵ hết. Một kíp ghi h́nh của hăng CBS đă ghi lại thí nghiệm nầy với kỹ thuật chụp h́nh cách quăng. Vào cuối tuần thứ hai, những cây hoa được nghe nhạc rock đă chết, nhóm không có nhạc th́ phát triển b́nh thường và nhóm nghe nhạc xita th́ nở rộ với hoa và cành vươn cả về phía phát ra tiếng nhạc. Walter Cronkite đă cho chiếu bộ phim trên chương tŕnh của ông ta. Nếu như ông muốn kiểm tra, bộ phim đó được chiếu ngày 26 tháng 10 năm 1970.
- Ông đang nói là cây cối cũng có một sự thông minh nào đó phải không?
- Chúng thở, ăn và sinh sản. Chúng có thể cảm thấy đau và chúng có thể có các biện pháp tự vệ chống lại những kẻ thù của ḿnh. Thí dụ, một số loài cây tiết ra một thứ độc tố để đầu độc vùng đất xung quanh nó và nhờ vậy, ngăn chặn những kẻ cạnh tranh. Một số loài khác th́ tiết ra những chất kiềm để làm cho chúng trở nên không thể chấp nhận được đối với các loại côn trùng. Chúng tôi đă chứng minh được rằng cây cỏ giao tiếp với nhau được ở mức nào đó.
- Có. Tôi có nghe chuyện đó. - Janus nói.
- Một vài loài cây là những loài ăn thịt. Chẳng hạn như cây bắt ruồi. Một số loài phong lan có vẻ ngoài và mùi giống như những con ong cái để bắt những con ong đực. Những giống khác th́ lại giống những con ong bắp cày cái để lôi cuốn những con ong bắp cày đực t́m đến thụ phấn cho chúng. Một loài phong lan khác lại có mùi như mùi thịt ôi để dụ dỗ những con nhặng quanh đó đến với chúng.
Janus lắng nghe từng lời.
- Có một loài hoa có một cánh phía trên có khớp nối và khi một con ong đậu vào th́ cánh hoa đậy lại. Lối thoát duy nhất là một lối nhỏ xíu dẫn ra phía sau và trong khi con ong loay hoay để thoát ra th́ nó đă phải mang theo một chút phấn hoa. Có tới năm ngh́n loài cây hoa mọc ở vùng Đông Bắc và mỗi loài lại có những đặc tính riêng. Việc cây cỏ có khả năng suy nghĩ đă được chứng tỏ nhiều lần.
Janus đang ngẫm nghĩ: Và sinh vật mất tích kia đang lấn khuất đâu đó.

Chương 11

Ngày thứ ba, Bern, Thuỵ Sĩ
Thứ tư ngày 17 tháng Mười
Bern là một trong những thành phố mà Robert yêu thích nhất. Nó duyên dáng, đầy những tượng đài thật đáng yêu và những ngôi nhà cổ bằng đá tuyệt đẹp được xây dựng từ hồi thế kỷ 18. Nó là thủ đô của Thuỵ Sĩ, là một trong những thành phố phồn vinh nhất của nước nầy, và Robert cứ băn khoăn không biết những chiếc xe điện màu xanh lá cây có liên quan ǵ tới màu sắc của đồng tiền không. Anh thấy rằng người dân ở Bern dễ chịu hơn những người dân ở các vùng khác của Thuỵ Sĩ. Họ đi lại khoan thai hơn, nói năng chậm răi hơn và nh́n chung là điềm đạm hơn. Trước đây anh đă có mấy lần làm việc ở Bern với Cục An ninh Thuỵ Sĩ, trong trụ sở Waisenhauspoatz của họ. Anh có bạn bè có thể giúp ích ở đó, nhưng những chl thị đối với anh là rơ ràng.
Khó hiểu, nhưng rơ ràng. Phải mất mười lăm phút gọi điện thoại Robert mới t́m ra được cái gara đă chữa xe của tay thợ ảnh kia. Đó là một xưởng nhỏ ở Fribourgstrasse, và người thợ máy, Fritz Mandel, cũng đồng thời là ông chủ. Mandel có lẽ vào cuối tuổi bốn mươi, với một khuôn mặt dễ sợ, đầy mụn trứng cá, một thân h́nh gầy g̣ và một cái bụng phệ ra v́ bia. Khi Robert đến, ông ta đang làm việc trong cái kho chứa dầu mỡ.
- Xin chào, - Robert lên tiếng.
Mandel ngẩng lên.
- Xin chào. Tôi có thể làm ǵ cho ông?
- Tôi quan tâm tới một chiếc xe mà ông đă mang về đây hôm chủ nhật.
- Đợi một chút, để tôi làm xong cái nầy đă.
Mười phút sau, Mandel chui ra và chùi hai bàn tay đầy dầu mỡ vào một cái giẻ bẩn thỉu.
- Chính ông là người đă gọi điện sáng nay? Có chuyện phàn nàn về việc ấy à? - Mandel hỏi. - Tôi không chịu trách nhiệm về…
- Không, - Robert đảm bảo với ông ta. - Không có ǵ cả. Tôi đang tiến hành một điều tra và tôi quan tâm tới người lái chiếc xe đó.
- Mời vào văn pḥng!
Hai người đi vào một văn pḥng nhỏ và Mandel mở một tủ đựng giấy tờ.
- Ông nói chủ nhật trước à?
- Đúng vậy.
Mandel lấy ra một tấm các.
- À! Cái tay đă chụp tấm h́nh trước cái vật thể bay lạ đó chứ ǵ.
Hai bàn tay Robert chợt ướt đẫm mồ hôi.
- Ông đă nh́n thấy cái vật thể bay lạ đó à?
- Phải. Tôi gần như chết lặng.
- Ông có thể mô tả lại không?
Mandel nhún vai.
- Nó - nó dường như đang hoạt động.
- Ông nói ǵ cơ?
- Ư tôi nói, có một thứ ánh sáng quanh nó. Nó liên tục thay đổi màu sắc. Nó có màu xanh da trời… rồi xanh lục trong không biết. Rất khó mô tả. Và có những sinh vật nhỏ bé trong đó. Không phải là con người, nhưng… - Ông ta ngừng bặt.
- Bao nhiêu?
- Hai.
- Họ c̣n sống không?
- Tôi thấy họ như đă chết. - Ông ta nhíu mầy. - Tôi sung sướng là ông đă tin tôi. Tôi đă nói với bạn bè, song họ đều cười nhạo tôi. Ngay cả vợ tôi cũng nghĩ là tôi đă say. Nhưng mà tôi biết tôi đă nh́n thấy ǵ chứ.
- Về cái xe mà ông đă kéo đi… - Robert nói.
- À. Chiếc Renault. Nó bị chảy dầu và những đệm lót bị cháy. Việc kéo nó đi phải trả một trăm hai mươi lăm francs. Chủ nhật, tôi tính gấp đôi.
- Người lái xe trả bằng séc hay thẻ tín dụng hả?
- Tôi không nhận séc cũng như thẻ tín dụng. Anh ta trả bằng tiền mặt.
- Francs Thuỵ Sĩ chứ?
- Đồng bảng.
- Ông có chắc không?
- Chắc. Tôi nhớ là đă phải kiểm tra tỉ giá hối đoái mà.
- Ông Mandel, ông có t́nh cờ biết ǵ về cái biển số của chiếc xe đó không?
- Tất nhiên. - Mandel liếc nh́n tấm các. - Đó là một chiếc xe đi thuê. Avis. Anh ta thuê nó ở Geneva.
- Ông có thể cho tôi cái số xe đó không?
- Được có ǵ đâu? Ông ta viết những con số lên một mẩu giấy và trao nó cho Robert. - Mà có chuyện ǵ vậy? Cái vật thể bay lạ kia à?
- Không, - Robert nói với một giọng chân thành nhất. Anh móc ví và lấy ra một tấm thẻ chứng minh. - Tôi ở IAC, Câu lạc bộ ô tô Quốc tế. Hăng của tôi đang làm một nghiên cứu điều tra về những xe kéo.
- Ồ.

o0o

Robert rời khỏi cái gara, trong ḷng bàng hoàng.
Có vẻ như chúng ta có trong tay một vật thể bay lạ khốn kiếp và hai sinh vật lạ chết trên đó. Vậy th́ tại sao tướng Hilliard nói dối anh khi mà ông ta biết Robert sẽ phát hiện rằng đó là một chiếc đĩa bay bị đâm xuống đất?
Chỉ có thể có một lời giải thích, và đột nhiên Robert cảm thấy rùng ḿnh ớn lạnh.


Chương 12

Chiếc phi thuyền mẹ khổng lộ lặng lẽ treo lơ lửng trong khoảng không gian vũ trụ tối sẫm, dường như bất động, đang di chuyển với tốc độ hai mươi hai ngh́n dặm một giờ, đồng bộ một cách chính xác với quỹ đạo của trái đất. Sáu sinh vật lạ ở trên phi thuyền đang chăm chú lên chiếc màn h́nh quang học có thị trường ba chiều chiếm cả một bức tường của phi thuyền.
Trên màn h́nh, trong khi hành tinh trái đất quay, họ theo dơi những h́nh ảnh tự động hiện lên về những ǵ ở phía dưới đồng thời một máy quang phổ điện tử phân tích về thành phần hoá học của những h́nh ảnh vừa xuất hiện. Bầu khí quyển của những vùng đất mà họ đang bay qua bị ô nhiễm nặng nề. Những nhà máy lớn làm bẩn không khí với những khí thải độc hại, dầy và đen đặc trong khi những chất thải không thể bị phân huỷ nhờ vi khuẩn được đổ đầy những băi thải và xuống biển.
Những sinh vật lạ nầy ch́m xuống những đại dương, đă có thời hoang sơ và trong xanh, giờ đây đen ng̣m v́ dầu và nâu vàng v́ những chất cặn bă. Mầu hồng rực của vùng Vách Chắn lớn đang ngả sang trắng nhợt và hàng tỉ con cá đang chết dần chết ṃn. Nơi cây cối bị chặt hạ ở vùng rừng nhiệt đới Amazon giờ đây là một khoảng trống lớn, khô cằn. Những máy móc trên phi thuyền cho thấy nhiệt độ ở trái đất đă tăng lên kể từ cuộc thám hiểm trước của họ cách đây ba năm. Họ có thể nh́n thấy những cuộc chiến tranh đang được tiến hành trên trái đất phía dưới, phun thêm những chất độc mới vào bầu khí quyển.
Những sinh vật lạ nầy trao đổi với nhau bằng thần giao cách cảm.
- Con người trên trái đất đă không có ǵ thay đổi.
Thật đáng buồn. Họ đă không học được ǵ cả.
- Chúng ta sẽ dạy họ.
- Anh đă thứ liên lạc với những thành viên kia chưa?
- Rồi. Có chuyện trục trặc. Không có trả lời.
- Anh phải tiếp tục cố xem.
- Chúng ta phải t́m thấy con tàu.
Trên trái đất, phía dưới quỹ đạo của chiếc phi thuyền không gian kia hàng cây số Robert đă đặt một cú điện thoại cho tướng Hilliard từ một máy điện thoại an toàn. Dường như ông ta có mặt ở đầu dây ngay lập tức.
- Xin chào ông sĩ quan ông có ǵ để báo cáo không hả?
Có. Tôi muốn nói rằng ông là một thằng chó đẻ dối trá.
- Về quả bóng thám không đó, thưa ngài… hoá ra đó có thể là một vật thể bay lạ.
Anh chờ đợi.
- Phải, tôi biết. Có những lư do an ninh quan trọng mà tôi đă không thể nào nói hết với anh trước đó.
Cái tṛ hai mặt quan cách. Một thoáng im lặng.
Tướng Hilliard nói:
- Ông sĩ quan, tôi sắp nói với ông một điều tuyệt mật. Cách đây ba năm, chính phủ chúng ta đă phải đối mặt với những sinh vật lạ. Họ đă hạ cánh xuống một trong những căn cứ thuộc khối NATO của chúng ta. Chúng ta đă giao tiếp được với họ.
- Họ… họ đă nói ǵ ạ? - Robert cảm thấy tim ḿnh đập rộn lên.
- Họ nói rằng có ư định tiêu diệt chúng ta.
- Tiêu diệt chúng ta ư? - Anh cảm thấy rùng ḿnh.
- Đúng vậy. Họ nói sẽ trở lại để chiếm lấy hành tinh nầy và biến chúng ta thành nô lệ, và rằng chúng ta không có cách ǵ để ngăn cản họ được. Chưa có. Nhưng chúng ta đang t́m. Chính bởi vậy, điều khẩn cấp là chúng ta phải tránh nỗi kinh hoàng cho dân chúng và dành thêm thời gian. Tôi nghĩ là bây giờ th́ ông có thể hiểu tầm quan trọng của việc không để các nhân chứng bàn luận về những ǵ họ đă nh́n thấy. Nếu chuyện về họ được tiết lộ ra th́ đó sẽ là một thảm hoạ đối với thế giới.
- Ngài không nghĩ rằng tốt hơn là chuẩn bị cho dân chúng và…
- Ông sĩ quan, vào năm 1938, một bác sĩ trẻ tên là Orson Welles làm một vở kịch truyền thanh với cái tên "Chiến tranh giữa các hành tinh" về chuyện những sinh vật lạ xâm lăng trái đất nầy. Chỉ trong ṿng ít phút, đă có một sự hoảng sợ trong các thành phố trên khắp nước Mỹ. Một bộ phận dân chúng quá khích đă t́m cách chạy trốn khỏi những kẻ xâm lăng tưởng tượng kia. Các đường liên lạc điện thoại bị nhiễu loạn, các xa lộ bị tắc nghẽn. Nhiều người bị chết. Tất cả trở nên rối loạn. Không, chúng ta phải t́m ra cách tiếp đón các sinh vật lạ kia trước khi công bố mọi chuyện. Chúng tôi muốn ông t́m ra những nhân chứng kia là để bảo vệ cho chính họ và để chúng ta có thể kiểm soát được t́nh h́nh.
- Vâng. Tôi… tôi hiểu. - Robert thấy ḿnh đang toát mồ hôi.
- Tốt. Tôi cho rằng ông đă nói chuyện với một trong số các nhân chứng?
- Tôi đă t́m được hai trong số họ.
- Tên?
- Hans Beckerman. - Ông ta là người lái xe của chiếc xe bus du lịch theo tuyến đó. Ông ta sống ở Kapel…
- Và người thứ hai?
- Fritz Mandel. Anh ta có một cái gara ở Bern. Anh ta chính là người thợ máy đă kéo chiếc xe của nhân chứng thứ ba về xưởng.
- Tên của nhân chứng đó?
- Tôi chưa có. Tôi đang t́m kiếm. Ngài có muốn tôi nói chuyện với họ về việc cần thiết phải im lặng về cái vật thể bay lạ nầy không?
- Không. Nhiệm vụ của ông đơn thuần là t́m ra các nhân chứng. Sau đó, chúng ta sẽ để các chính phủ của họ lo chuyện với từng người. Ông đă biết có bao nhiêu nhân chứng chưa?
- Rồi. Bẩy hành khách cùng người lái xe, người thợ máy và một người đi ô tô ngang qua.
Ông phải t́m ra tất cả bọn họ. Từng người trong số mười nhân chứng đă mục kích vụ tại nạn. Rơ chưa?
- Rơ, thưa ngài.
Robert gác ống nghe, đầu óc rối bời. Những vật thể bay lạ là chuyện có thật. Những sinh vật xa lạ kia là những kẻ thù. Tướng Hilliard đă trao cho anh nhiệm vụ nầy nhưng đă không nói với anh tất cả. Họ c̣n giấu anh điều ǵ nữa không nhỉ?

o0o

Hăng cho thuê xe hơi Avis đặt ở số 44 phố Lausanne ở trung tâm Geneva. Robert xồng xộc đi vào và tiến tới trước một phụ nữ đang ngồi sau bàn.
- Tôi có thể giúp ông chứ?
Robert ném mẩu giấy với số biển kiểm soát của chiếc xe Renault được viết trên đó.
- Tuần trước, hăng cô đă cho thuê chiếc xe nầy. - Tôi muốn biết tên cái người đă thuê nó. - Giọng anh đầy tức giận.
Cô nhân viên rúm người lại.
- Tôi xin lỗi, chúng tôi không được phép đưa ra các thông tin đó.
- Ồ, thế th́ thật là quá tại hại, - Robert cáu kỉnh - bởi v́ trong trường hợp đó, tôi sẽ phải kiện hăng của cô để đ̣i một khoản tiền lớn.
- Tôi không hiểu. Có chuyện ǵ vậy?
- Tôi sẽ nói cho cô nghe có chuyện ǵ, cô gái. Chủ nhật tuần trước chiếc xe nầy đă đâm vào tôi trên xa lộ và làm xe tôi hỏng nặng. Tôi đă ghi lại được số xe của hắn ta, nhưng hắn th́ lái xe chạy mất trước khi tôi có thể giữ được hắn.
- Tôi hiểu rồi. - Cô nhân viên nh́n Robert trong giây lát. - Xin lỗi một chút. - Cô biến mất vào trong một căn pḥng phía sau. Mấy phút sau cô quay lại, mang theo một hồ sơ. - Theo hồ sơ của chúng tôi, có một trục trặc với động cơ của chiếc xe nầy, nhưng không có báo cáo về bất kỳ một tai nạn nào.
- Ồ th́ bây giờ tôi đang báo cáo đây thôi. Và tôi cho rằng hăng của cô phải chịu trách nhiệm về chuyện nầy. Các cô sẽ phải trả tiền sửa xe cho tôi. Đó là một chiếc xe Porsche mới tinh, và nó sẽ làm cho các cô mất một đống tiền…
- Tôi rất lấy làm tiếc, thưa ông, nhưng do không được báo về vụ tai nạn nên chúng tôi không thể chịu bất kỳ trách nhiệm ǵ.
- Nầy, - Robert nói bằng một giọng dịu hơn. - Tôi muốn thật công bằng. Tôi không muốn hăng của cô phải chịu trách nhiệm. Tất cả những ǵ tôi muốn là cái thằng cha kia phải trả tiền cho những hư hỏng mà hắn đă gây ra cho cái xe của tôi. Đó là cái tṛ gây chuyện rồi bỏ chạy. Thậm chí tôi có thể báo cảnh sát về chuyện nầy. Nếu cô cho tôi biết tên và địa chỉ hắn ta, tôi sẽ nói chuyện trực tiếp với hắn và chúng tôi có thể giải quyết với nhau mà không mắc mớ ǵ đến hăng nầy. Như thế đă công bằng chưa nào?
Cô nhân viên ngẫm nghĩ.
- Được. Chúng tôi hẳn là muốn vậy hơn. - Cô nh́n xuống cặp hồ sơ trong tay và nói. - Tên của người thuê xe là Leslie Mothershed.
- C̣n địa chỉ?
- 213 A đường Grove, Whitechapel, London, khu 3 Đông. - Cô ngước lên. - Ông chắc chắn là hăng chúng tôi không dính vào chuyện kiện tụng chứ hả?
- Tôi hứa với cô như vậy, - Robert cam đoan. - Đây là chuyện riêng giữa Leslie Mothershed và tôi.
Robert Bellamy có mặt trên chuyến bay đầu tiên đi London.

o0o

Ông ta ngồi một ḿnh trong bóng tối, tập trung và thận trọng rà lại từng giai đoạn của bản kế hoạch đề tin chắc rằng không có một kẽ hở nào, không thể có trục trặc ǵ. Những ư nghĩ của ông ta bị gián đoạn bởi tiếng chuông điện thoại dịu dàng.
- Janus đây.
- Janus. Tướng Hilliard.
- Nói đi.
- Sĩ quan Bellamy đă phát hiện hai nhân chứng đầu tiên.
- Rất tốt. Lo việc đó ngay đi.
- Thưa ngài, vâng.
- Hiện giờ ông sĩ quan đang ở đâu?
- Trên đường đi London. Ông ta sẽ sớm xác định được người thứ ba.
- Tôi sẽ báo cho Uỷ ban về những kết quả của ông ta. Hăy tiếp tục báo cho tôi biết t́nh h́nh. T́nh trạng của chiến dịch nầy vẫn là khẩn cấp.
- Thưa ngài, tôi hiểu. Tôi đề nghị…
Đường liên lạc bị cắt.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Giám đốc Bundesanwaltschaft.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
1. Hans Beckerman - Kapel.
2. Fritz Manael - Bern.
Hết.


Chương 13

Vào lúc nửa đêm, trong một trang trại nhỏ cách Uctendort mười lăm dặm, gia đ́nh Lagenfeld bị khuấy động bởi một chuỗi các hiện tượng lạ. Đứa con lớn thức giấc bởi một luồng ánh sáng màu vàng nhạt chiếu qua cửa sổ pḥng ngủ. Khi cậu ta trở dậy để xem chuyện ǵ th́ luồng ánh sáng biến mất.
Ở ngoài sân, Tozzi, con chó săn giống Đức, bắt đầu sủa vang giận dữ, đánh thức ông già Lagenfeld.
Ông chủ trại miễn cưỡng rời khỏi giường để nạt con vật thôi sủa, và khi vừa bước ra ngoài th́ nghe tiếng bầy cừu hoảng hot trong chuồng, t́m cách thoát ra.
Khi đi qua cái máng ăn vốn đầy nước do trời mới mưa, ông thấy rằng cái máng khô khốc.
Và đúng lúc đó, tất cả đèn trong nhà vụt tắt. Khi ông chủ trại trở vào nhà và nhấc điện thoại để gọi bảo sở điện lực th́ thấy đường dây bị cắt rồi.
Nếu như điện c̣n sáng thêm một vài giây th́ ông chủ trại có thể đă trông thấy một phụ nữ đẹp một cách kỳ lạ từ khu sân trại của ông đi ra phía ngoài đồng.


Chương 14

Cục T́nh báo – Geneva
13 giờ 00.
Vị bộ trưởng ngồi trong cán pḥng nằm lọt ở trung tâm của toà nhà trụ sở Cục T́nh báo Thuỵ Sĩ, nh́n viên phó giám đốc đang đọc nốt bức điện.
Rồi ông ta thu nó về, bỏ vào trong cái cặp hồ sơ có đánh dấu Tuyệt mật, cất cái cặp vào trong ngàn kéo bàn và khoá lại.
- Hans Beckerman và Fritz Mandel.
- Phải.
Không có vấn đề ǵ; thưa ngài bộ trưởng. Chuyện nầy sẽ được lo liệu chu tất.
- Tốt.
- Sao ạ?
- Thủ tiêu. Ngay lập tức.

o0o

Sáng ngày hôm sau, trên đường đi làm, Hans Beckerman lại bị cái bụng của ông ta hành hạ. Lẽ ra ḿnh phải bắt cái thằng cha phóng viên kia x́ tiền cho cái vật mà ḿnh đă nhặt được. Tất cả những tờ tạp chí nầy đều lắm tiền cả. Có thể ḿnh đă kiếm được vài trăm đồng mác. Và như vậy ḿnh đă có thể đến một bác sĩ tử tế để chữa cái bụng của ḿnh.
Đang lái xe chạy ngang hồ Turler th́ phía trước, bên lề xa lộ, ông ta thấy một người phụ nữ vẫy xin đi nhờ. Beckerman cho xe chạy chậm lại để có thể nh́n người phụ nữ rơ hơn. Cô ta trẻ trung và trông thật hấp dẫn. Ông ta dừng xe lại bên lề đường. Cô gái tiến lại bên xe.
- Xin chào, - Beckerman nói - Tôi có thể giúp cô chứ?
Ở gần, trông cô ta c̣n xinh đẹp hơn.
- Cảm ơn. - Cô ta có giọng Thuỵ Sĩ. - Em căi cọ với người bạn trai của em, và anh ta đă ném em xuống đây, giữa nơi đồng không mông quạnh nầy.
- Chà, chà. Thật là tồi tệ.
- Ông không phiền ḷng cho em đi nhờ xe tới Zurich chứ?
- Có ǵ đâu. Vào đi, vào đi!
Cô gái mở cửa và vào ngồi cạnh Hans.
- Ông thật tốt bụng, - Cô ta nói. - Tên em là Karen.
- Hans. - Ông ta cho xe chuyển bánh.
- Em không biết em sẽ xoay sở thế nào nếu không có ông, Hans ạ.
- Ồ tôi chắc là sẽ không ai không dừng xe một cô gái xinh đẹp như cô.
Cô xích lại gần ông ta hơn.
Nhưng em chắc rằng người đó sẽ không đẹp trai như ông đâu.
- Thế hả? - Ông ta đưa mắt nh́n sang.
- Em nghĩ là ông thật đẹp trai.
- Cô nên nói như vậy với vợ tôi. - Ông ta mỉm cười.
- Ồ, ông có vợ à. - Cô gái tỏ vẻ thất vọng. - Sao tất cả những người đàn ông tuyệt vời th́ đều có vợ rồi nhỉ? Mà trông ông cũng thông minh nữa.
Ông ta ngồi thẳng người thêm chút nữa.
- Nói thật với ông là em rất lấy làm tiếc v́ đă dính dáng với cái người bạn trai kia của em. - Cô ta cọ quậy người trên ghế và chiếc váy ngắn hếch lên tới ngang đùi. Hans cố không đưa mắt nh́n. - Em thich những người đàn ông đứng tuổi, chín chắn, Hans ạ. Em thấy họ gợi t́nh hơn so với những người trẻ tuổi. Cô ta cọ người vào ông. - Hans, ông có thích chuyện t́nh dục không?
Ông ta hắng giọng.
- Tôi à? Ồ cô biết đấy tôi là một thằng đàn ông mà…
- Em có thể thây điều đó, - Cô ta đáp và vuốt ve đùi Beckerman. - Em có thể nói với ông thế nầy không nhỉ? Rằng cái cuộc căi vă với người bạn trai đă làm cho em hứng t́nh đấy. Ông có muốn làm t́nh với em không?
Hans đă không thể nào tin được ở vận may của ḿnh. Cô ta thật xinh đẹp và từ những ǵ ông ta có thề nh́n thấy th́ hắn cô ta phải có một tấm thân rất quyến rũ. Ông ta nuốt nước bọt.
- Tôi muốn, nhưng mà tôi đang trên đường đi làm và…
- Sẽ chỉ mất it phút thôi mà. - Cô ta mỉm cười. - Phía trước mặt có một con đường nhánh dẫn vào rừng. Sao chúng ta lại không dừng lại… ở đó nhỉ?
Ông ta cảm thấy bị kích thích. Mẹ kiếp. Đến lúc mà ḿnh nói chuyện với đám đàn ông ở sở chuyện nầy. Họ sẽ không bao giờ tin mất.
- Được thôi. Sao lại không nhỉ? - Hans cho xe rời khỏi xa lộ và chạy theo con đường nhỏ bụi bặm dẫn vào một cánh rừng mà ở đó những chiếc xe chạy ngang không thể nh́n thấy họ.
Cô ả lần tay người lên đùi ông ta:
- Lạy Chúa, ông có cặp chân thật khoẻ mạnh.
- Hồi trẻ, tôi là một vận động viên điền kinh mà, - Beckerman khoác lác.
- Em cởi quần ông ra nhé. - Cô ta cởi chiếc thắt lưng và rồi giúp Hans tụt quần xuống. Ông ta đă cương cứng.
- A, thật là to. - Cô ta bắt đầu ve vuốt nó.
- Hăy ngậm nó vào miệng. - Ông ta rên rỉ.
- Ông thích được hôn ở chỗ đó phải không?
- Phải.
Vợ ông ta không bao giờ làm như vậy cả.
- Vâng. Ông cứ thoải mái.
Beckerman thở mạnh và nhắm mắt lại. Hai bàn tay mềm mại của cô ta đang vuốt ve cái vật giống đực của ông ta. Hans cảm thấy như có một mũi kim châm vào đùi và mở choàng mắt ra. "Cái ǵ…?"
Toàn thân ông ta cứng đờ, mắt trợn lên. Cổ ông ta tắc nghẹn và không thể nào thở được. Người phụ nữ nh́n ông ta sụp xuống trên tay lái. Cô ta ra khỏi xe và đẩy cái xác chết sang ghế bên, rồi ngồi vào sau tay lái, cho xe chạy trở lại xa lộ. Tới ŕa một đoạn đường vắng bóng xe cộ, cô ta mở cửa xe, giậm ga và khi chiếc xe bắt đầu trườn về phía trước th́ lao ra ngoài, rồi đứng nh́n chiếc xe lộn xuống bờ dốc dựng đứng. Năm phút sau, một chiếc xe hơi sang trọng màu đen dừng lại bên cạnh cô ta.
- Có ǵ trục trặc không.
- Không.

o0o

Fritz Mandel đang ở trong văn pḥng, sắp đóng cửa gara th́ hai người đàn ông bước vào.
- Xin lỗi, - anh ta nói, - tôi đang chuẩn bị đóng cửa rồi. Tôi không thể…
Một trong hai người kia cắt ngang.
- Xe chúng tôi chết trên xa lộ. Chúng tôi muốn kéo nó đi.
- Vợ con tôi đang đợi. Chúng tôi có việc tối nay.
- Tôi có thể cho các ông tên một…
- Chúng tôi sẵn sàng trả hai trăm đôla. Chúng tôi đang vội.
- Hai trăm đôla?
- Đúng thế. Và chiếc xe của chúng tôi cũng bị hỏng nặng. Chúng tôi muốn anh sửa chữa nó. Điều đó có thể là chúng tôi sẽ phải trả thêm hai hoặc ba trăm đôla nữa.
- Thé hả? - Mandel trở nên quan tâm hơn.
- Đó là một chiếc Rolls, - một trong hai người đàn ông kia nói. - Hăy cho chúng tôi xem ông có những thiết bị ǵ ở đây mới được. - Họ, bước vào trong khu xưởng và đứng bên kho dầu mỡ. - Trang thiết bị tốt đấy.
- Thưa ông, vâng! - Mandel hănh diện nói. - Toàn thứ tốt nhất.
Người lạ mặt móc ví ra.
- Đây. Tôi có thể trả ông trước một chút. - Anh ta lấy ra mấy tờ giấy bạc và trao nó cho Mandel. Khỉ anh ta đưa tay ra, chiếc ví tuột khỏi tay và rơi vào trong thùng mỡ.
- Chết rồi. - Đừng lo. - Mandel nói. - Tôi sẽ lấy lên.
- Anh ta nhoài vào trong thùng. Đúng lúc đó, một trong hai người đàn ông kia bước lại bên cái nút bấm dùng để điều khiển chiếc máy nâng thuỷ lực và ấn nút. Chiếc bàn nâng bắt đầu hạ xuống.
- Cẩn thận. Ông đang làm ǵ đấy? - Mandel nh́n lên.
Anh ta định trèo lên. Khi những ngón tay anh ta vừa bám lên thành, người đàn ông thứ hai dùng chân đạp nghiến lên và Mandel kêu lên đau đớn, rơi xuống.
Chiếc bàn nâng thuỷ lực nặng trịch vẫn lạnh lùng hạ xuống phía trên đầu anh ta.
- Hăy cho tôi ra. - Anh ta kêu gào. - Cứu tôi với!
Chiếc bàn nâng đă chạm vào vai và bắt đầu ép anh ta xuống dưới sàn. Vài phút sau, khi những tiếng la thét đă chấm dứt, một trong hai ngựời đàn ông kia bấm nút nâng chiếc bàn nâng lên. Người đồng hành của anh ta cúi xuống nhặt lấy cái ví, thận trọng không để máu giây vào quần áo. Hai người đàn ông quay ra và cho xe chạy biến vào trong màn đêm.
Điện khẩn.
Tối mật.
Cục T́nh báo Thuỵ Sĩ gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
1. Hans Beckerman đă bị thủ tiêu.
2. Fritz Manael đă bị thủ tiêu.
Hết.
Ottawa, Canada.
24 giờ 00.
Janus đang phát biểu trước nhóm mười hai thành viên.
- Đang có những tiến bộ đáng hài ḷng. Hai trong số các nhân chứng đă được bịt miệng. Sĩ quan Bellamy đaag bám theo người thứ ba.
- Đă có bước đột phá nầy trong Sáng kiến pḥng thủ chiến lược (SDI) chưa? - Người Italia. Dữ dội. Không kiên nhẫn.
- Chưa, nhưng chúng tôi tin rằng kỹ thuật Chiến tranh giữa các hành tinh sẽ được hoàn thiện và sớm phát huy tác dụng.
Chúng ta phải làm mọi việc có thể được để đẩy nhanh nó. Nếu có chuyện tiền bạc th́… - Người Arập. Bí ẩn. Dè dặt.
- Không. Chỉ c̣n phải thử nghiệm thêm mà thôi.
- Cuộc thử sắp tới sẽ diễn ra khi nào? Người Autralia. Nhiệt t́nh. Thông minh.
Một tuần nữa. Chúng ta sẽ gặp lại ở đây sau 48 giờ.


Chương 15

Ngày thứ tư - London.
Thứ năm, ngày 18 tháng Mười.
Leslie Mothershed có thần tượng là Robin Leach. Là một người ham mê chương tŕnh "Phong cách của những người giàu có và nổi tiếng", Mothershed chăm chú theo dơi cách đi đứng, ăn mặc và nói năng của những vị khách của Robin Leach, bởi v́ anh ta tin rằng một ngày nào đó, ḿnh cũng sẽ xuất hiện trên chương tŕnh nầy. Từ khi c̣n là một cậu bé, anh ta đă cảm thấy rằng số mệnh của ḿnh là phải trở thành một nhân vật nào đó, giàu và nổi tiếng.
- Con là người rất đặc biệt đấy, - mẹ anh ta vẫn thường nói. - Con của mẹ rồi đây sẽ nổi tiếng khắp thế giới.
Cậu bé con thường đi ngủ với lời nói đó vang vang trong tai cho đến khi cậu ta thực sự tin là như thế.
Khi lớn lên, Mothelshed biết rằng ḿnh có những khó khăn: Cậu ta không hề biết rơ ḿnh sẽ trở nên nổi tiếng và giàu có bằng cách nào. Một dạo, Mothershed ám ảnh với ư nghĩ sẽ trở thành một ngôi sao màn bạc, thế nhưng cậu ta lại có tính nhút nhát khác thường. Cũng đă thoáng thèm muốn trở thành một ngôi sao bóng đá, nhưng cậu ta lại không phải là một vận động viên. Rồi lại nghĩ tới việc trở thành một khoa học gia nổi tiếng, hay một luật gia vĩ đại, có trong tay những ngân khoản khổng lồ. Thật không may, học lực của cậu ta vào loại xoàng và rồi cậu ta rời ghế nhà trường mà cũng không gần hơn được chút nào với ước vọng. Đơn giản là cuộc sống nầy không công bằng. Về mặt thể lực, trông cậu thật thiếu cảm t́nh, gầy, với nước da xanh nhợt, ốm yếu và cậu thấp choằn, chỉ có một mét sáu lẻ một chút. Mothershed luôn nhấn mạnh tới cái chỗ lẻ ấy. Cậu tự an ủi ḿnh với một thực tế là những người nổi tiếng đều có khổ người thấp: Napoléon, Dudley Moore, Dustin Hoffman, Peter Falk…
Nghề duy nhất thực sự làm cho Leslie Mothershed thấy thích thú là chụp ảnh. Song nó thật là đơn giản. Ai cũng có thể làm được. Người ta chỉ cần ấn cái nút.
Mẹ cậu đă mua cho cậu một cái máy ảnh nhân sinh nhật lần thứ sáu của cậu và đă không tiếc lời ngợi ca những tấm ảnh mà cậu chụp được. Khi lên mười, Mothershed đă tin rằng cậu là một nhà nhiếp ảnh sáng giá. Cậu tự nhủ rằng ḿnh hoàn toàn có tài như Ansel Adams, Richard Avedon, hay Margaret Bourke White. Với một khoản cho vay của bà mẹ, Leshe Mothershed đă mở một hiệu ánh ngay trong cái căn hộ ở Whitechpel của ḿnh.
- Hăy bắt đầu bằng việc nhỏ, - bà mẹ nói, - nhưng nghĩ lớn. Và đó chính là điều Leslie đă làm. Anh ta bắt đầu rất nhỏ và nghĩ th́ rất lớn, nhưng thật không may là anh ta không hề có tài năng nhiếp ảnh. Anh ta chụp những cuộc diễu hành, những con vật, những bông hoa và tin tưởng gửi chúng cho tất cả các tờ báo và tạp chí, và chúng luôn luôn bị gửi trả. Mothershed tự an ủi ḿnh rằng tất cả những thiên tài đều đă bị phản bác trước khi tài năng của họ được công nhận. Anh ta tự cho ḿnh là một kẻ tử v́ đạo trước chủ nghĩa vật chất tầm thường.
Và rồi, từ trên trời cơ hội lớn cho anh ta đă tới. Người anh em họ của bà mẹ anh ta, làm việc cho hăng xuất bản Anh Harper Collins, tiết lộ vớí Mothershed rằng họ đang chuẩn bị làm một cuốn sách nhỏ giới thiệu về Thuỵ Sĩ.
- Lislie, họ vẫn chưa chọn được người nhiếp ảnh vậy cháu nên sang Thuỵ Sĩ ngay đi và mang về vài tấm ảnh có tầm cỡ th́ cuốn sách nầy có thể sẽ là của cháu.
Lislie Mothershed vội vă thu xếp hành trang và lên đường đi Thuỵ Sĩ. Anh ta biết, một cách thật sự, rằng đây chính là cơ hội mà anh ta đă t́m kiếm. Cuối cùng th́ những kẻ ngu ngốc cũng sắp phải công nhận một tài năng. Anh ta thuê một chiếc xe ở Geneva và đi khắp nơi chụp h́nh những ngôi nhà gỗ kiểu Thuỵ Sĩ, những thác nước, và những đỉnh núi cao tuyết phủ. Anh ta chụp cảnh hoàng hôn, b́nh minh và cảnh những người nông dân đang làm việc trên những cánh đồng.
Và rồi, giữa những thứ đó, số mệnh đă can thiệp và thay đổi cuộc sống của anh ta. Trên đường đến Bern, động cơ xe của anh ta bị hỏng. Anh ta dừng xe lại bên lề đường, bực tức. V́ sao lại là ḿnh? Anh ta ngồi đó, cáu kỉnh, tiếc cho thời gian bị mất và món tiền phải trả để kéo xe đi sửa. Mothershed rền rĩ, v́ sao những chuyện nầy luôn xảy ra với ḿnh nhỉ? Phía sau anh ta mười lăm kilômét là làng Thun. Ḿnh sẽ gọi xe kéo ở đó, Mothershed nghĩ. Như vậy th́ không đến nỗi quá đắt.
- Anh ta vẫy một chiếc xe chở dầu chạy ngang.
- Tôi cần một cái xe kéo, - Mothershed giải thích. - Anh có thể dừng lại một cái gara nào đó ở Thun và bảo họ đến đây hộ tôi được không?
Người lái chiếc xe bồn lắc đầu.
- Hôm nay là chủ nhật anh bạn ạ. Gara gần nhất có thể vẫn làm việc sẽ phải là Bern.
- Bern à? Từ đây đến đó phải năm chục kilômét.
- Tôi sẽ phải trả cả đống tiền mất.
Người lái xe bồn mỉm cười.
- Đúng thế. Ở đó họ sẽ tính giá làm ngày chủ nhật mà. - Và anh ta rồ ga chuẩn bị cho xe chạy.
- Gượm đă. - Nhà nhiếp ảnh khó khăn lắm mới thốt ra lời.
- Tôi sẽ trả tiền cho chiếc xe kéo từ Bern.
- Được Tôi sẽ bảo họ phái ai đó đến đây.
Lislie Mothershed ngồi buồn nản trong chiếc xe hỏng của ḿnh. Tất cả những ǵ ḿnh cần là thế nầy đây, anh ta cay đắng nghĩ. Anh ta đă chi quá nhiều tiền để mua phim và bây giờ lại sẽ phải trả tiền cho một thằng ăn cắp nào đó để kéo chiếc xe nầy đi. Phải mất gần hai tiếng đồng hồ dài đằng đẵng, chiếc xe kéo mới đến. Khi người thợ máy bắt đầu móc sợi dây cáp từ chiếc xe tải vào chiếc xe của anh ta th́ từ phía bên kia con đường có một vầng sáng loá, kèm theo là một tiếng nổ lớn, và Mothershed ngẩng lên, thấy một vật thể sáng loá rơi từ trên trời xuống. Chiếc xe duy nhất khác trên xa lộ lúc bấy giờ là một chiếc bus du lịch, và nó dừng lại sau chiếc xe của Lislie. Hành khách trên chiếc xe bus vội vă chạy về phía xảy ra vụ tai nạn. Mothershed lưỡng lự, giằng xé giữa tính ṭ ṃ và việc muốn tiếp tục lên đường. Anh ta quay người và đi theo những hành khách của chiếc xe bus.
Khi đến nơi xảy ra sự cố, anh ta đứng đó chết lặng.
Lạy Chúa, anh ta nghĩ, đó không phải là sự thật. Anh ta nh́n chằm chằm vào chiếc đĩa bay… Lislie Mothershed đă nghe chuyện về những vật thể lạ và đă đọc về chúng, nhưng chưa bao giờ anh ta tin rằng chúng có thật.
Anh ta há hốc mồm, kinh hăi trước cái cảnh tượng kỳ quáỉ. Vỏ chiếc đĩa bay đă bị tung ra, và anh ta có thể thấy hai cái xác ở trong đó, nhỏ thó, với những cái đầu to, mắt trũng, không có tai và gần như không có cằm. Họ có vẻ như đang mặc những bộ quần áo bằng kim loại màu bạc.
Nhóm du khách chung quanh anh ta đứng nh́n trong sự im lặng ghê sợ. Người đàn ông đứng cạnh anh ta ngất xỉu. Một người đàn ông khác quay đi và nôn mửa. Một tu sĩ có tuổi nắm chặt lấy chuỗi hạt và cứ lảm nhảm điều ǵ đó.
- Lạy Chúa, - ai đó nói. - Đó là một cái đĩa bay.
Và đối với Mothershed th́ đó chính là lúc Chúa hiện h́nh. Một điều kỳ diệu đă rơi ngày vào trong ḷng anh ta. Anh ta, Lislie Mothershed, đă có mặt tại chỗ, với máy ảnh, để ghi lại câu chuyện thế kỷ nầy.
Không một tờ báo hay tạp chí nào trên thế giới nầy lại bác tấm h́nh mà anh ta sắp chụp. Một cuốn sách nhỏ giới thiệu về Thuỵ Sĩ ư? Thiếu chút nữa th́ anh ta cười váng lên với cái ư nghĩ đó. Anh ta sắp làm cho cả thế giới phải ngạc nhiên. Tất cả các chương tŕnh của Robin Leach đầu tiên. Anh ta sẽ bán những tấm h́nh của ḿnh cho các tờ London Times, Sun, Mail, Mirror - Cho tất cả các báo cht tiếng Anh và cho cả các báo chí nước ngoài nữa - Le FigaroParis Match, Oggi Der, Tag, TimeUSA Today. Báo chí khắp nơi sẽ năn nỉ để có được những tấm ảnh của anh ta. Nhật Bản và Nam Phi, Nga và Trung Quốc và không biết nhưng đâu nữa. Mothershed thấy tim ḿnh đập rộn lên v́ quá hồi hộp. Ḿnh sẽ không cho ké nào được độc quyền cả. Từng tờ báo sẽ phải trả tiền trực tiếp cho ḿnh. Ḿnh sẽ bắt đầu với giá một trăm ngh́n bảng một tấm, có thể là hai trăm ngàn. Và ḿnh sẽ bán đi bán lại. Anh ta bắt đầu sốt sắng nhẩm tính số tiền sắp sửa thu được.
Lislie Mothershed mải mê với tương lai may mắn của anh ta đến mức suưt quên cả việc chụp ảnh.
- Ôi lạy Chúa. Xin lỗi, - anh ta nói, không biết là với ai nữa, và chạy như bay trở lại xe để lấy bộ độ nghề chụp ảnh.
Người thợ máy đă nâng bổng một đầu chiếc xe hỏng lên và sẳn sàng kéo nó đi.
- Chuyện ǵ đang xảy ra ở đó thế? - Anh ta hỏi.
- Hăy lại đó mà xem. - Mothershed đáp.
Hai người chạy ngang qua đường về phía cánh rừng, và Mothershed chen qua đám du khách.
- Xin lỗi, xin lỗi.
- Anh ta điều chỉnh ống kính máy ảnh và bắt đầu chụp cái vật thể bay lạ kia với những hành khách kỳ dị của nó. Mỗi khi tiếng máy kêu tạch, Mothershed lại nghĩ, Một triệu bảng… một triệu bảng nữa… một triệu bảng nữa.
Vị tu sĩ bước qua chỗ anh ta và nói:
- Đó là gương mặt của quỷ Satăng.
Satăng, mẹ kiếp, Mothershed hào hứng nghĩ. Đó là gương mặt cửa tiền bạc. Đây sẽ là những bức ảnh đầu tiên chứng tỏ rằng thật sự có tồn tại những đĩa bay. Và rồi, đột nhiên, một ư nghĩa khủng khiếp nảy ra trong đầu anh ta. Nếu những tờ tạp chí chết tiệt kia cho rằng những tấm ảnh là giả th́ sao? Đă có hàng đống những tâm ảnh giả về những vật thể bay lạ. Cơn hào hứng của anh ta biến mất. Nếu như họ không tin ḿnh th́ sao? Và đó là lúc Lislie Mothershed chợt có một ư nghĩ khác.
Có chín nhân chứng đang đứng xung quanh anh ta. Dù chỉ là vô t́nh, họ sẽ xác nhận tính chân thực cho phát hiện của anh ta.
Mothershed quay lại trước nhóm du khách.
- Thưa quư bà và quư ông, - anh ta nói to. - Nếu tất cả quư vị muốn có ảnh của ḿnh được chụp ở đây, xin đứng thành hàng và tôi vui ḷng được gửi cho mỗi vị một tấm, tặng không thôi.
Những tiếng kêu lên vui vẻ. Chỉ trong tích tắc, các du khách trên chiếc xe bus, trừ vị tu sĩ, đă đứng thành hàng bên cạnh xác của chiếc vật thể bay kia. Vị tu sĩ đầy vẻ ái ngại. Ông ta nói:
- Tôi không thể, đó là quỷ dữ.
Mothershed cần vị tu sĩ. Ông ta sẽ là nhân chứng có sức thuyết phục nhất trong tất cả.
- Đó chính là vấn đề, - Mothershed cố thuyết phục. - Cha không thấy sao? Đây chính là lời chứng của cha về sự tồn tại của quỷ dữ.
Và sau cùng th́ vị tu sĩ đă bị thuyết phục.
- Đứng giăn ra một chút, - Mothershed yêu cầu, - để chúng ta c̣n có thể nh́n thấy cái đĩa bay chứ.
Các nhân chứng sửa lại chỗ đứng.
- Được rồi. Rất tốt. Tuyệt. Giữ nguyên thế nhé, nào.
- Anh ta chụp khoảng nửa tá ảnh nữa và lấy ra một cái bút ch́ và một mẩu giấy.
- Nếu như các vị ghi tên và địa chỉ lại, tôi sẽ lo để mỗi vị nhận được một tấm ảnh.
Anh ta không có ư định gửi tấm ảnh nào đi cả đề mỗi vị nhận được một tấm ảnh. Tất cả những ǵ anh ta muốn chỉ là những nhân chứng để chứng thực mà thôi. Hăy để mặc những tờ báo và tạp chí chết tiệt kia lo chuyện đó.
Và rồi, đột nhiên, anh ta nhận thấy một vài người trong nhóm du khách kia cũng có máy ảnh. Anh ta không thể để cho ai nữa ngoài anh ta có những bức ảnh nầy. Chỉ có những tấm ảnh đề "Do Lislie Mothersheđ chụp" mới được tồn tại mà thôi.
- Xin lỗi, - anh ta nói với tất cả. - Những ai trong số quư vị có máy ảnh, nếu các vị muốn tôi sẽ chụp giúp để các vị có vài tấm trong máy của chính các vị.
Những chiếc máy ảnh được nhanh chóng trao cho Lishe. Khi anh ta quỳ xuống để lấy khuôn h́nh cho lần chụp đầu, không ai để ư thấy rằng Mothershed bật mở buồng phim và cứ để nó hở như thế. Thế, một chút ánh sáng mặt trời tươi đẹp nầy sẽ giúp cho nhưng tấm ảnh biến mất. Thật tệ, các bạn của tôi, nhưng chỉ có những người chuyên nghiệp mới được phép chớp lấy các cơ hội lịch sử của bọ.
Mười phút sau, Mothershed đă có tất cả tên và địa chỉ của đám khách du lịch. Anh ta nh́n chiếc đĩa bay một lần cuối và phấn khởi nghĩ: Mẹ nói thật đúng, ḿnh sẽ trở nên giàu có và nổi tiếng.
Anh ta không thể nào đợi tới lúc quay trở về London để rửa những tấm ảnh quư giá kia.

o0o

- Chuyện quái quỷ ǵ đang xảy ra thế nhỉ?
Suốt đêm, các đồn cảnh sát ở khu vực Uctendort ngập trong những cú điện thoại.
- Có kẻ nào đó cứ lảng vảng xung quanh nhà tôi…
- Có những thứ ánh sáng lạ phía bên ngoài…
- Đàn gia súc của tôi đang phát điên lên. Hẳn phải có những con sói đâu đây…
- Có ai đó làm khô kiệt máng nước của nhà tôi…
Và cú điện thoại khó giải thích trong số đó:
- Nầy, sếp, ngài nên phái nhiều xe kéo ra trục xa lộ chính ngay đi thôi. Một cơn ác mộng. Tất cả giao thông đă ngừng trệ.
- Cái ǵ hả? V́ sao?
- Không ai biết cả. Tất cả các động cơ xe đều chết đột ngột.
Đó là một đêm mà họ sẽ không bao giờ quên.


Chương 16

Nhiệm vụ nầy sẽ kéo dài bao lâu nhỉ? Robert nghĩ ngợi trong lúc buộc dây an toàn vào người trên chiếc ghế hạng nhất của hăng Hàng không Thuỵ Sĩ.
Khi chiếc máy bay lao trên đường băng, những chiếc động cơ Rolls - Royce khổng lồ của nó như uống lấy không khí của trời đêm, Robert thả lỏng người và nhắm mắt lại. Có phải mới chỉ cách đây vài năm ḿnh đă đi cũng chuyến bay nầy, cùng với Susan sang London không nhỉ? Không. Có vẻ như đă cách đây cả một đời người rồi.
Chiếc máy bay hạ cánh xuống sân bay Heathrow lúc 6 giờ 29 phút chiểu theo đúng thời gian biểu. Robert ra khỏi đám đông và lên một chiếc tắcxi chạy vào thành phố. Anh nh́n hàng trăm cái mốc quen thuộc và như có thể nghe thấy tiếng Susan thích thú b́nh luận về chúng. Trong nhưng ngày tươi sáng ấy, việc họ ở đâu không bao giờ là một vấn đề. Đơn giản là họ ở bên nhau, thế là đủ. Họ mang theo bên ḿnh hạnh phúc và những niềm hứng thú đặc biệt đối với nhau. Mối quan hệ của họ ]à một cuộc hôn nhân sẽ có một kết thúc vui sướng.
Gần như thế.
Những rắc rối của họ bắt đầu một cách thật t́nh cờ với một cú điện thoại của Đô đốc Whittaker khi Robert và Susan đang du ngoạn ở Thái Lan. Khi đó, Robert đă rời khỏi Hải quân được sáu tháng và không hề nói chuyện với vị Đô đốc trong suốt quăng thời gian đó. Cú điện thoại, gọi cho họ tại khách sạn Oriental ở Bangkok, là cả một sự ngạc nhiên.
- Robert hả? Đô đốc Whittaker.
- Thưa Đô đốc. Thật vui khi nghe thấy tiếng ngài.
- Không dễ ǵ t́m được anh đâu. Anh đang theo đuổi chuyện ǵ vậy hả?
- Không có ǵ nhiều. Nói một cách đơn giản là chúng tôi đang có một tuần trăng mật dài với nhau.
- Susan có khoẻ không? Mà là Susan chứ?
- Vâng. Cô ấy khoẻ, cảm ơn ngài.
- Anh phải mất bao lâu để trở về Washington hả?
- Ngài nói ǵ cơ ạ?
- Điều nầy chưa công bố, nhưng tôi đă được bổ nhiệm một chức vụ mới, Robert. Họ cứ tôi làm phó giám đốc Pḥng 17 T́nh báo hải quân. Tôi muốn anh cùng làm việc.
Robert giật ḿnh.
- T́nh báo hải quân ạ? Thưa Đô đốc, tôi không hề biết ǵ về…
- Anh có thể học. Anh sẽ làm một công việc rất hữu ích cho đất nước ḿnh, Robert. Anh sẽ đến và bàn việc nầy với tôi chứ?
- Ồ.
- Tốt. Tôi sẽ chờ anh ở văn pḥng của tôi vào ngày thứ hai, lúc 9 giờ 00. Cho tôi gửi lời chào tới Susan nhé.
Robert kể lại câu chuyện với Susan.
- T́nh báo hải quân à? Có vẻ thú vị đấy.
- Có thể, - Robert nói vẻ nghi ngờ. - Anh không hề biết công việc thế nào.
- Th́ anh phải t́m hiểu chứ.
Anh nh́n cô trong giây lát.
- Em muốn anh nhận phải không?
Cô quàng tay ôm lấy anh.
- Em muốn anh làm bất kỳ điều ǵ mà anh muốn làm. Em nghĩ là anh sẵn sàng trở lại với công việc. Em để ư thấy là trong mấy tuần vừa qua, anh đă trở nên bồn chồn.
- Anh nghĩ là em đang t́m cách vứt bỏ anh, - Robert trêu chọc. - Tuần trăng mật đă kết thúc rồi.
Susan kề đôi môi cô lại sát môi anh.
- Không bao giờ. Em chưa bao giờ nói với anh là em đến phát điên lên v́ anh như thế nào hả, chàng thuỷ thủ? Để em cho anh thấy nhé…
Sau nầy nghĩ lại, khỉ đă quá muộn, Robert cho rằng đó chính là lúc bắt đầu của sự chấm dứt cuộc hôn nhân của họ. Lời đề nghị lúc đó có vẻ thật tuyệt vời và anh đă trở lại Washington để gặp Đô đốc Whittaker.
- Công việc nầy đ̣i hỏi trí tuệ, ḷng dũng cảm, và sự sáng tạo, Robert ạ. Anh có cả ba thứ đó. Đất nước chúng ta đă trở thành mục tiêu của bất kỳ một chế độ độc tài tầm thường và nhỏ bé nào có thể nuôi dưỡng một nhóm khủng bố hoặc xây dựng một nhà máy chế tạo vũ khí hoá học. Một trong số các nước nầy đang t́m cách sản xuất bom nguyên tử để buộc chúng ta phải hối lộ họ. Công việc của tôi là xây dựng một mạng lướ́ t́nh báo để phát hiện chính xác họ đang làm ǵ và t́m cách ngăn chặn lại. Tôi muốn anh giúp đỡ.
Sau cùng, Robert đă chấp nhận công việc ở T́nh báo hải quân, và chính anh cũng ngạc nhiên là anh thấy thích thú và hơn thế, có năng khiếu với nó. Susan t́m được một căn hộ tử tế ở Rosslyn, bang Virginia không xa nơi Robert làm việc, và vùi đầu vào việc mua sắm đồ đạc trong nhà. Robert đă được gửi đến Trang trại - trung tâm huấn luyện của CIA, dành cho những điệp viên hoạt động ngầm.
Nằm trong một khu vực được canh gác cẩn mật thuộc bang Virgineia, Trang trại chiếm một diện tích hai mươi dặm vuông, hầu hết được bao phủ bởi những rừng thông cao vút, với những toà nhà chính nằm trong một khu quang đăng rộng mười mẫu và cách cổng chính hai dặm. Những con đường đất toả ra qua những cánh rừng, với những barie chắn ngang và những tấm biển Miễn vào đặt ở mọi nơi. Tại một sân bay nhỏ, những chiếc máy bay không số hiệu hạ cánh và cất cánh vài lần mỗi ngày. Trang trại có vẻ bề ngoài đầy yên b́nh, với cây lá sum suê, hươu nai chạy nhảy trong rừng và những toà nhà nhỏ nằm rải rác thanh thản quanh một khu đất rộng lớn. Tuy nhiên, bên trong khu vực nầy lại là một thế giới khác hẳn.
Robert đă nghĩ là sẽ được huấn luyện cùng với người của Hải quân, nhưng anh ngạc nhiên khi thấy học viên là một sự pha trộn cả người của CIA, Lính thuỷ đánh bộ, Lục quân, Hải quân và Không quân. Mỗi học viên mang một con số riêng và ở trong một căn pḥng như kiểu nhà ngủ tập thể thuộc một trong số những ngôi nhà Spartan hai tầng xây bằng gạch.
Tại khu dành cho các sĩ quan độc thân, nơi Robert ở mỗi người có một pḥng riêng và dùng chung pḥng tắm với một người khác. Pḥng ăn chung ở phía bên kia đường, đối diện với khu nhà nầy.
Hôm Robert nhập trường, anh được đưa tới một giảng đường cùng với ba mươi người mới tới khác.
Một đại tá người da đen to lớn đă phát biểu với nhóm học viên. Ông ta chừng ở giữa tuổi 50, tạo ấn tượng bằng một vẻ thông minh, sắc sảo và lạnh lùng. Ông ta nói một cách rơ ràng, sinh động và không một câu thừa.
- Tôi là đại tá Frank Johnson. Tôi muốn hoan nghênh các bạn có mặt ở đây. Trong thời gian nầy, các bạn sẽ chỉ dùng tên đầu của ḿnh. Từ giờ phút nầy trở đi cuộc đời các bạn sẽ là một cuốn sách đóng kín.
Tất cả các bạn đă được tuyên thệ giữ bí mật. Tôi khuyên các bạn phải giữ lời thề đó, thật nghiêm ngặt. Các bạn không bao giờ được phép bàn công việc của ḿnh với bất kỳ ai - Vợ con, gia đ́nh, bè bạn. Các bạn đă được tuyển lựa đưa tới đây bởi v́ các bạn có những phẩm chất đặc biệt. Trước mặt các bạn có nhiều công việc nặng nề để phát triển nhưng phẩm chất đó, và không phải tất cả các bạn đều sẽ vượt qua được. Các bạn sẽ tham gia vào những công việc mà trước đây các bạn chưa từng bao giờ nghe đến. Tôi không thể nào nói hết được tầm quan trọng của công việc mà các bạn sẽ làm sau khi kết thúc ở đây. Trong các giới tự do nào đó, người ta lấy việc chỉ trích các ngành t́nh báo của chúng ta làm một thứ mốt, dù đó là CIA, Lục quân, Hải quân hay Không quân, nhưng tôi có thể đảm bảo với các bạn rằng nếu không có những người chịu hy sinh như các bạn th́ đất nước nầy sẽ gặp phải những khó khăn khủng khiếp. Ngăn chặn điều đó sẽ là công việc của các bạn. Những người nào trong số các bạn tốt nghiệp trường nầy sẽ trở thành các sĩ quan chỉ huy. Mà nói thẳng ra th́ một sĩ quan chỉ huy là một điệp viên. Anh ta hoạt động bí mật.
Trong lúc ở đây, các bạn sẽ được sự huấn luyện tốt nhất thế giới trong lĩnh vực t́nh báo và phản gián.
Các bạn sẽ có những bài giảng về liên lạc điện đài, mật mă, vũ khí và bản đồ. Các bạn sẽ dự một lớp về mối quan hệ giao tiếp giữa con người với nhau.
Các bạn sẽ được hướng dẫn cách xây dựng một mối quan hệ như thế nào làm sao kết luận được về các động cơ của một cá nhân, lảm sao để làm cho đối tượng của bạn cảm thấy yên tâm.
Cả lớp nghe từng lời.
Các bạn sẽ học cách gặp gỡ và tuyển một gián điệp như thế nào. Các bạn sẽ được huấn luyện để đảm bảo rằng các địa điểm gặp gỡ là an toàn. Các bạn sẽ hợc về các "hộp thư chết", về cách liên lạc bí mật với các nguồn tin của các bạn. Nếu các bạn thành công với những việc làm nầy, các bạn sẽ hoàn thành nhiệm vụ của ḿnh một cách bí mật và không bị lộ.
Robert cảm thấy không khí hồi hộp bao trùm tất cả.
Một số trong các bạn sẽ hoạt động dưới b́nh phong chinh thức. Nó có thể là b́nh phong ngoại giao hoặc quân sự. Những người khác sẽ làm việc dưới những b́nh phong bán chính thức trong tư cách cá nhân; như những nhà kinh doanh, những nhà khảo cổ, hoặc những nhà văn., bất kỳ nghề nghiệp ǵ cho phép các bạn tiếp cận được những lĩnh vực và những loại người có thể có những thông tin quan trọng mà các bạn đang t́m kiếm. Và bây giờ, tôi sẽ trao các bạn lại cho các hướng dẫn viên của các bạn. Chúc may mắn.
Robert thấy công việc huấn luyện thật hấp dẫn. Hướng dẫn viên là những người đă từng hoạt động ngoài địa bàn và đều là những chuyên gia đầy kinh nghiệm.
Robert tiếp thu các thông tin kỹ thuật khá dễ dàng. Ngoài những chương tŕnh mà đại tá Johnson đă đề cập đến, c̣n có một chương tŕnh ôn luyện các ngôn ngữ và một chương tŕnh về mật mă thật khó khăn.
Đại tá Johnson là cả một sự hấp dẫn đối với Robert. Người ta x́ xào rằng ông ta có những mối quan hệ chặt chẽ tại Nhà Trắng và từng tham gia vào những hoạt động ngầm cao cấp. Ông ta thường biến mất khỏi Trang trại vào ngày nào đó và đột nhiên lại xuất hiện.
Một điệp viên tên Ron đang điều khiển một buổi lên lớp.
"Trong một chuyên án nghiệp vụ ngầm có sáu giai đoạn. Đầu tiên là phát hiện. Khi bạn biết bạn cần thông tin ǵ, thách thức đầu tiên đối với bạn là phát hiện và nghiên cứu những cá nhân có khả năng tiếp cận với thông tin đó. Giai đoạn hai là đánh giá. Một khi bạn đă phát hiện được đối tượng, bạn phải đánh giá anh ta có thật sự có thông tin mà bạn cần và liệu có thể tuyển chọn anh ta được không. Động cơ ǵ thúc đẩy anh ta? Anh ta có hài ḷng với công việc không? Anh ta có hằn học ǵ với sếp của anh ta không? Anh ta có khó khăn về tiền bạc không? Nếu triển vọng là có thể tiếp cận được và có một động cơ nào đó có thể khai thác được thi các bạn chuyển sang giai đoạn ba.
"Giai đoạn ba là giai đoạn phát triển. Các bạn xây dựng một mối quan hệ với một đối tượng dự tuyển.
Đầu tiên, các bạn phải tạo được tiếp xúc nhiều nhất có thể. Giai đoạn tiếp theo là tuyển chọn. Khi bạn nghĩ là đă sẵn sàng, bạn phải nghiên cứu anh ta về mặt tâm ly. Bạn sử dụng bất kỳ thứ vũ khí tâm lư ǵ mà bạn có trong tay: trả thù sếp của anh ta, tiền bạc, tác động của nó. Nếu một sĩ quan chỉ huy làm tốt công vĩẹc của anh ta th́ thường là đối tượng dự tuyển sẽ đồng ư.
Đến thế là tốt rồi. Bạn đă có một gián điệp làm việc cho bạn. Bước tiếp theo là điều khiển anh ta. Bạn phải đảm bảo an toàn không chỉ cho chính bạn mà c̣n cho cả anh ta nữa. Bạn phải tổ chức các cuộc gặp gỡ bí mật và huấn luyện anh ta sử dụng vi phim và, nếu thích hợp, cả điện đài nữa. Bạn sẽ huấn luyện cho anh ta cách phát hiện ngoại tuyến, cách khai báo khi bị tra hỏi, vân vân.
"Giai đoạn cuối cùng là chấm dứt liên lạc. Sau một thời gian, có thể là người được bạn tuyển chọn sẽ bị thuyên chuyển tới một vị trí công tác khác và không c̣n tiếp cận được với nguồn thông tin nữa, hoặc có thể chúng ta không c̣n cần tới nguồn thông tin mà anh ta có. Trong bất kỳ t́nh huống nào, mối quan hệ đó phải chấm dứt, nhưng điều quan trọng là phái chấm dứt nó ra sao để gián điệp đó không cảm thấy bị lợi dụng và t́m cách trả thù…
Đại tá Johnson đă nói đúng. Không phải tất cả đều qua được khoá học. Những gương mặt quen cứ biến mất. Không chút dấu tích. Không ai biết v́ sao.
Không ai hỏi.
Một hôm, trong khi nhóm học chuẩn bị đi Richmond để thực tập ngoại tuyến, hướng dẫn viên của Robert nói:
- Chúng ta sẽ xem khả năng của anh thế nào, Robert ạ. Tôi sẽ phái ai đó bám đuôi anh. Tôi muốn anh cắt đuôi. Anh có nghĩ là anh có thể làm được điều đó không?
- Có thưa ông.
- Chúc may mắn.

o0o

Robert đi xe bus đến Richmond và rồi bắt đầu đi bộ trên các đường phố. Chỉ trong ṿng năm phút anh đă nhận diện được nhưng người bám theo anh.
Bọn họ có hai người. Một người đi bộ và một người đi trong ô tô. Robert t́m cách lẩn vào trong các tiệm ăn và các cửa hiệu rồi nhanh chóng ra bằng các cửa sau, nhưng anh không thể nào dứt họ được. Họ được huấn luyện quá tốt. Sau cùng, lúc gần như đă đến giờ phải trở về Trang trại, Robert vẫn chưa thể nào thoát khỏi họ. Họ bám theo anh quá chặt chẽ. Robert bước vào một cửa hiệu bách hoá, và hai người kia đứng vào những vị trí mà họ có thể khống chế được cả các lối vào lẫn lối ra. Robert dùng thang máy đi lên khu bán quần áo cho đàn ông. Ba mươi phút sau, khi đi xuống, anh mặc trên người một bộ complê khác, cái áo khoác và mũ khác, và đang vừa đi vừa nói chuyện với một người phụ nữ, trong tay anh bế một đứa trẻ.
- Anh đi ngang qua những người theo dơi anh mà không hề bị nhận ra.
Ngày hôm đó, anh là người duy nhất đă cắt "đuôi" thành công.

o0o

Bản thân những thuật ngữ được dạy ở Trang trại cũng là một thứ ngôn ngữ rồi.
"Các bạn có thể sẽ không dùng đến tất cả những thuật ngữ nầy, - người hướng dẫn viên nói với cả lớp nhưng các bạn nên biết chúng. Có hai loại gián điệp khác nhau: gián điệp gây ảnh hưởng và gián điệp hành động. Người gián điệp gây ảnh hưởng t́m cách thay đổi dư luận ở quốc gia nơi anh ta hoạt động.
C̣n gián điệp hành động được phái đi để gây rối và tạo ra những t́nh h́nh lộn xộn. "Đ̣n bẩy sinh vật là tiếng lóng của CIA chỉ việc hăm doạ. Cũng có nhưng vụ "túi đen", thay đổi từ những vụ hối lộ đến những vụ đột nhập. Watergate là một vụ như vậy.
Ông ta nh́n quanh lớp để tin rằng cả lớp đang chú ư. Họ nghe như uống lấy từng lời.
Đôi khi các bạn có thể cần tới "thợ giày" - đó là người làm hộ chiếu giả mạo.
Robert băn khoăn, liệu có bao giờ anh cần tới một thợ giày hay không.
Thuật ngữ "Giáng cấp tối đa" là một thuật ngữ đáng sợ. Nó có nghĩa là sự thanh lọc bằng cách giết đi. Từ thanh loại cũng như vậy. Nếu bạn nghe ai đó nói về "Công ty", th́ đó là biệt danh chúng ta dùng đề cập tới Cơ quan t́nh báo Anh. Nếu bạn được yêu cầu "tẩy uế" một căn pḥng, bạn sẽ không đi t́m các tổ mối mà bạn sẽ phải t́m ra các dụng cụ nghe trộm.
Lối nói bí ẩn nầy làm cho Robert thấy hứng thú.
"Các tiểu thư" là tiếng lóng chỉ các cô gái được phái đi để dàn xếp với đối tượng. "Huyền thoại" là lai lịch của một gián điệp được tạo ra để cung cấp cho anh ta một vỏ bọc. "Đi riêng" có nghĩa là rời khỏi nghề.
Hướng dẫn viên đưa mắt nh́n cả lớp.
- Có ai trong các bạn biết một "người dạy sư tử" là thế nào không hả?
Ông ta đợi câu trả lời. Im lặng.
- Khi một gián điệp bị bỏ rơi, đôi khi anh ta cảm thấy tức bực và có thể đe doạ tiết lộ những ǵ anh ta biết. Một người đầy cơ bắp, một tài tử dạy sư tử, được gọi đến để làm cho anh ta dịu đi. Tôi tin chắc không ai trong số các bạn sẽ phải đối mặt với một tài tử như thế.
Lời b́nh luận gây ra một tiếng cười sợ hăi.
Rồi có từ "lên sởi". Nếu một đối tượng chết v́ lên sởi điều đó có nghĩa là đối tượng bị giết một cách khéo léo đến mức cái chết có vẻ như là một tai nạn hoặc do những lư do tự nhiên. Một cách gây bệnh sởi là đúng hợp chất "Tabun". Đó là một hợp chất không màu hoặc hơi nâu, gây tê liệt thần kinh khi ngấm qua da. Nếu ai đó trao cho bạn một cái "đàn hộp" điều đó có nghĩa là họ đang trao cho bạn một máy phát vô tuyến. Người sử dụng điện đài được gọi là một nhạc sĩ. Trong tương lai, một số trong các bạn sẽ phải hoạt động "trần trụi". Đừng vội cởi bỏ quần áo điều đó đơn giản có nghĩa là bạn chỉ có một ḿnh và không có sự hỗ trợ nào cả. C̣n một điều nữa mà tôi muốn nói đến hôm nay. Sự trùng lặp t́nh cờ. Trong công việc của chúng ta, không có "con vật" đó: Nó thường báo hiệu nguy hiểm. Nếu các bạn thường xuyên chạm trán cùng một người nào đó, hoặc khi hoạt động các bạn thường xuyên phát hiện một chiếc xe nào đó, hăy che cái mông của ḿnh đi. Có thể các bạn đang gặp chuyện chẳng lành. Cuối cùng, tôi nghĩ là hôm nay thế là đủ, thưa quư vị. Ngày mai chúng ta sẽ lại tiếp tục nơi chúng ta ngừng lại nầy.
Thỉnh thoảng, đại tá Johnson gọi Robert vào văn pḥng của ông ta để "chuyện gẫu", như cách ông ta nói. Các câu chuyện có vẻ b́nh thường một cách không tin nổi và Robert biết ẩn trong đó là một cuộc thăm ḍ đang diễn ra.
- Tôi nghe nói anh có một cuộc hôn nhân hạnh phúc, Robert.
- Đúng vậy ạ.
Suốt nửa giờ sau đó, họ nói chuyện về hôn nhân, ḷng trung thành, và ḷng tin.
Một lần khác:
- Đô đốc Whittaker coi anh như con, Robert. Anh biết thế chứ?
- Vâng. Nỗi đau về cái chết của Edward là một cái ǵ đó không bao giờ qua đi.
Họ đă nói chuyện về sự trung thành, bổn phận và cái chết.
- Robert, anh đă đối mặt với cái chết hơn một lần. Anh có sợ chết không?
Không. Nhưng chết cho đáng chết, Robert nghĩ. Chứ không phải một cái chết vô nghĩa.
Những cuộc gặp làm cho Robert chán nản bởi v́ họ như đang nh́n vào một tấm gương dị dạng. Đại tá Johnson có thể nh́n rơ anh, nhưng bản thân đại tá lại vô h́nh, một con người bi ẩn được bao bọc bởi một bức màn bí mật.
Khoá học kéo dài 16 tuần, và trong thời gian đó, không ai trong số họ được giao tiếp với thế giới bên ngoài. Robert nhớ Susan một cách ghê gớm. Đây là thời gian họ xa nhau lâu nhất. Khi đă hết bốn tháng, đại tá Johnson gọi Robert vào văn pḥng của ông ta.
- Đây là cuộc gặp để tạm biệt. Anh đă làm việc rất tuyệt vời, Robert. Tôi nghĩ là anh sẽ thấy tương lại của ḿnh rất hấp dẫn đấy.
- Cám ơn ngài. Tôi cũng hy vọng như thế.
- Chúc may mắn.
Đại tá Johnson nh́n Robert bước ra. Ông ta ngồi yên trong năm phút rồi có một quyết định. Ông ta bước tới bên cửa và khoá trái lại. Rồi ông ta nhấc điện thoại lên gọi.

o0o

Susan đang đợi anh. Cô mở cửa căn hộ của họ, trên người là một chiếc váy ngủ trong veo chẳng che đậy được ǵ cả. Cô lao vào trong ṿng tay anh và ôm anh thật chặt.
- Chào anh, chàng thuỷ thuỷ. Anh muốn một cuộc vui chứ?
- Th́ anh đang có đây thôi, - Robert nói đầy vẻ hạnh phúc, - Chỉ bằng việc ôm em.
- Chúa ơi, em nhớ anh quá. - Susan lùi lại và thốt lên. - Nếu có chuyện ǵ xảy ra với anh th́ em nghĩ là em chết mất.
- Chẳng bao giờ có chuyện ǵ xảy ra với anh cả.
- Anh hứa chứ?
- Anh hứa.
- Trông anh có vẻ mệt mỏi. - Cô nh́n anh, một thoáng lo lắng.
- Đó là một khoá học rất căng thẳng, - Robert thừa nhận. Anh đă nói bớt đi. Với tất cả bài vở phải học, cùng với các bài thực hành trực tiếp, không học viên nào có thể ngủ quá vài tiếng một đêm. Không có mấy lời phàn nàn chỉ v́ một lư do rất đơn giản: Họ đều biết rơ rằng cái mà họ đang học, một ngày nào đó có thể cứu mạng sống cho họ.
- Em biết chính xác là anh cần ǵ bây giờ, - Susan tuyên bố.
- Anh sẽ nói. - Robert nhoẻn cười. Anh ôm lấy cô.
- Khoan đă. Cho em vài phút. Anh cởi quần áo đi.
- Anh nh́n cô bước đi và nghĩ, Sao người ta lại có thể may mắn thế nhỉ? Anh bắt đầu cởi quần áo.
Vài phút sau, Susan quay lại. Cô dịu dàng nói.
- Hừm, em thích anh trần truồng cơ.
Anh nghe thấy giọng người hướng dẫn viên nói:
"Một số trong các bạn sẽ hoạt động trần trụi. Điều đó có nghĩa là bạn chỉ có một ḿnh và không có sự hỗ trợ nào?" Ḿnh đang lao vào chuyện ǵ thế nhỉ? Anh đă đẩy Susan vào chuyện ǵ vậy?
Cô dẫn anh vào trong pḥng tắm. Bồn tắm được bơm đầy nước có lẫn nước hoa, và căn pḥng mờ tối với bốn ngọn nến lung linh.
- Đón anh về nhà, anh yêu. - Cô cởi chiếc váy ngủ mỏng dính và bước vào bồn tắm. Anh theo bước cô.
- Susan.
- Đừng nói. Hăy dựa vào người em.
- Anh cảm thấy hai bàn tay cô vuốt ve trên lưng và hai bả vai anh, cảm thấy những đường cong mềm mại của thân thể cô áp vào người anh, và anh quên đi nỗi mệt của ḿnh. Họ làm t́nh với nhau, trong làn nước ấm, và khi họ đă lau khô người, Susan nói:
- Chơi trước thế là quá nhiều đấy. Bây giờ ḿnh mới thật sự vào cuộc nhé.
Họ lại làm t́nh và sau đó, khi Robert sắp thiếp đi ôm Susan trong tay, anh nghĩ, sẽ luôn luôn là như thế nầy. Măi măi.


Chương 17

Ngày thứ hai sau đó, Robert đến làm việc ngày đầu tiên tại Pḥng 17 Cục T́nh báo hải quân tại Lầu Năm Góc. Đô đốc Whittaker nồng nhiệt:
- Chúc mừng đă trở về, Robert. Rơ ràng là anh đă rất gây ấn tượng với đại tá Johnson.
- Chính ông ta cũng rất gây ấn tượng. - Robert mỉm cười.
Ngồi uống cà phê, vị đô đốc hỏi:
- Anh đă sẵn sàng làm việc chưa hả?
- Rất sẵn sàng.
- Tốt. Chúng ta có một vụ việc ở Rhodesia…
Làm việc ở Cục T́nh báo hải quân thậm chí c̣n hấp dẫn hơn cả những ǵ Robert đă chờ đón. Mỗi nhiệm vụ một khác, và Robert được giao những việc được phân loại là tối nhạy cảm. Anh mang về một người đào nhiệm cho biết hoạt động buôn lậu ma tuư của Noriega ở Panama, phát hiện một điệp viên làm việc cho Marcos trong toà lănh sự quán Mỹ ở Manila, và giúp dựng lên một trạm nghe lén ở Morocco. Anh được cử đi công tác tới Nam Phi và vùng Đông Âu. Điều duy nhất làm anh phiền muộn là việc phải xa Susan lâu. Anh không muốn phải xa cô và anh thường nhớ cô một cách khủng khiếp. Anh có sự hứng thú trong công việc của ḿnh nhưng Susan th́ không có ǵ cả.
Công việc nghiệp vụ của Robert cứ ngày càng tăng lên. Anh ngày càng ít khi có mặt ở nhà, và đó chính là thời gian mà vấn đề đối với Susan trở nên nghiêm trọng.
Mỗi khi Robert về đến nhà, anh và Susan thường lao vào ṿng tay của nhau một cách đầy thèm khát và rồi làm t́nh đầy cuồng nhiệt. Nhưng những lúc như thế mỗi ngày mỗi thưa ra. Với Susan dường như ngay sau khi Robert trở về th́ anh lại lập tức bị phái đi với một nhiệm vụ mới.
Chuyện càng xấu thêm khi Robert không thể nào bàn công việc của anh với cô. Susan không hề biết anh đi đâu, làm ǵ. Cô chỉ biết rằng anh liên quan với những công việc nguy hiểm và cô lo sợ rằng một ngày nào đó anh sẽ không bao giờ trở về nữa. Cô không dám hỏi anh. Cô cảm thấy ḿnh như một người lạ, hoàn toàn bị tách khỏi một phần quan trọng trong đời sống của anh. Đời sống của họ. Ḿnh không thể tiếp tục như thế nầy được. Susan quyết định.
Khi Robert trở về sau bốn tuần đi công tác ở Trung Mỹ, Susan nói:
- Robert, em nghĩ chúng ta nên nói chuyện với nhau.
- Có chuyện ǵ vậy? - Robert hỏi. Anh đă biết là có chuyện ǵ.
- Em sợ. Chúng ḿnh đang mất nhau, và em không muốn thế. Em không thể chịu được.
- Susan.
- Khoan đă. Để em nói nốt. Anh có biết trong bốn tháng qua chúng ḿnh được ở bên nhau bao lâu không? Chưa đầy hai tuần. Mỗi khi anh trở về, em cảm thấy dường như anh là một người khách chứ không phải là chồng em.
Anh ôm chặt Susan vào trong ḷng.
- Em biết là anh yêu em đến thế nào mà.
- Xin đừng để chuyện ǵ xảy ra cho chúng ḿnh. - Cô tựa đầu vào anh.
- Anh sẽ không để như thế, - anh hứa. - Anh sẽ nói chuyện với Đô đốc Whittaker.
- Bao giờ nào?
- Ngay lập tức.
***
- Đô đốc sẽ gặp ông bây giờ, thưa ông chỉ huy.
- Cảm ơn.
Đô đốc Whittaker đang ngồi sau bàn làm việc, kư giấy tờ. Khi Robert bước vào, ông ngẩng lên và mỉm cười.
- Chúc mừng đă trở về và xin có lời khen ngợi. Công việc của anh làm ở El Salvador thật là tuyệt vời.
- Cảm ơn ngài.
- Mời ngồi. Tôi có thể mời anh chút cà phê chứ?
- Không, xin cảm ơn Đô đốc.
- Anh muốn nói chuyện với tôi hả? Thư kư của tôi nói là có việc khẩn cấp. Tôi có thể làm ǵ cho anh nào?
Thật là khó mở đầu.
- Ồ thưa ngài, đây là chuyện cá nhân thôi. Tôi đă cưới vợ chưa đầy hai năm và…
- Anh có một sự lựa chọn tuyệt vời đấy, Robert. Susan là một phụ nữ đáng yêu.
- Vâng, tôi đồng ư như vậy. Vấn đề là ở chỗ tôi đi xa hầu hết thời gian, và cô ấy bất hạnh về chuyện đó - Anh vội nói thêm. - Và cô ấy hoàn toàn có quyền như vậy. Đó không phải là chuyện b́nh thường.
Đô đốc Whittaker dựa người trên lưng ghế và trầm ngâm nói:
- Tất nhiên là anh không được làm việc trong điều kiện b́nh thường. Đôi lúc phải có những hy sinh.
- Tôi biết, - Robert bướng bỉnh đáp, - nhưng tôi sẽ không hy sinh cuộc sống vợ chồng của tôi. Điều đó là quá sức đối với tôi.
- Tôi hiểu. Thế anh yêu cầu ǵ nào? - Vị Đô đốc nh́n anh ḍ xét.
- Tôi hy vọng là ngài có thể t́m cho tôi một vài công việc mà tôi không phải xa nhà nhiều như vậy. Hẳn phải có cả trăm công việc cho tôi ở quanh đây.
- Nghĩa là gần nhà hơn.
- Vâng.
Vị đô đốc chậm răi nói:
- Chắc chắn là anh sẽ toại nguyện. Tôi không cho là không thể dàn xếp được một chuyện như vậy.
Robert mỉm cười nhẹ nhơm.
- Ngài thật tốt bụng, thưa Đô đốc. Tôi rất biết ơn về điều đó
- Phải, tôi nghĩ chắc chắn là chúng ta có thể thu xếp chuyện đó. Hăy nói hộ tôi với Susan là vấn đề đă được giải quyết.
- Tôi không c̣n biết cảm ơn ngài như thế nào cho phải. - Robert đứng dậy, rạng rỡ.
Đô đốc Whittaker vẫy tay ngỏ ư cho anh đi ra.
- Tôi không thể để chuyện ǵ xảy ra đối với một nhân viên quư báu như anh được. C̣n bây giờ th́ hăy về nhà với người vợ trẻ của anh đi.
Khi Robert nói lại với Susan, cô sướng run lên. Cô choàng tay ôm lấy anh.
- Ôi anh yêu. Thật là tuyệt diệu.
- Anh sẽ xin ông ta nghỉ vài tuần để chúng ta có thể có một chuyến đi đâu đó. Nó sẽ là tuần trăng mật thứ hai của chúng ta.
- Em đă quên mất thế nào là một tuần trăng mật rồi, - Susan th́ thầm. - Hăy cho em thấy đi!
Robert đă cho cô thoả ḷng.
***
Sáng hôm sau, Đô đốc Whittaker cho gọi Robert.
- Tôi muốn anh biết rằng tôi đang thu xếp vấn đề mà chúng ta bàn ngày hôm qua.
- Cảm ơn Đô đốc. - Bây giờ là lúc nói đến chuyện xin nghỉ phép đây. - Thưa ngài…
Đô đốc Whittaker nói:
- Robert, có chuyện thế nầy. - Vị Đô đốc bắt đầu đi đi lại lại Khi ông cất lời, giọng ông ta đầy vẻ lo lắng sâu sắc. - Tôi vừa được thông báo rằng CIA đă bị đối phương cấy người vào. Dường như có một sự tiết lộ đều đặn các thông tin tối mật. Tất cả những ǵ họ biết về điệp viên nầy chỉ là cái mật danh Con Cáo của anh ta. Hiện nay anh ta đang ở Argentina. Họ cần một người bên ngoài CIA lo cho vụ nầy. Giám đốc CIA đă yêu cầu anh. Họ muốn anh t́m ra điệp viên kia và mang anh ta về đây. Tôi đă bảo với họ là quyết định nầy tuỳ thuộc ở anh. Anh có muốn nhận nó hay không?
- Tôi e rằng phải bỏ qua nó thôi, thưa Đô đốc. - Robert lưỡng lự.
- Robert, tôi tôn trọng quyết định của anh. Anh đă phải đi liên tục và chưa bao giờ từ chối một nhiệm vụ nào. Tôi biết là điều đó không dễ dàng ǵ đối với đời sống vợ chồng của anh.
- Thưa ngài, tôi muốn nhận nhiệm vụ nầy. Chỉ có điều - Anh không cần phải nói đâu, Robert. Ư kiến của tôi về công việc và sự cống hiến của anh vẫn giữ nguyên.
- Tôi chỉ mong ở anh có một điều thôi.
- Điều ǵ vậy thưa Đô đốc?
- Ông phó giám đốc CIA yêu cầu được gặp anh, bất luận quyết định của anh là thế nào. V́ phép lịch sự. Anh không phiền ḷng chứ?
- Tất nhiên là không, thưa ngài.
Ngày hôm sau, Robert lái xe đến Langley để gặp viên phó giám đốc CIA.
- Xin mời ngồi, ông sĩ quan, - Viên phó giám đốc nói khi Robert bước vào pḥng đầu căn nhà rộng lớn. - Tôi đă nghe nhiều về ông. Tất nhiên là toàn những lời tốt đẹp cả.
- Cảm ơn ngài.
Đó là một người đàn ông đă sang tuổi sáu mươi, dáng người mảnh khảnh với mái tóc bạc trắng và một bộ ria mép nhỏ cứ động đậy mỗi khi ông ta hút píp thuốc. Tốt nghiệp Đại học Yale, ông ta ra nhập Cục phục vụ chiến lược (OSS) trong chiến tranh thế giới thứ hai và rồi vào CIA khi cơ quan nầy được thành lập sau chiến tranh và dần dần lên tới chức vụ hiện nay của một trong những cơ quan t́nh báo lớn nhất và hùng mạnh nhất thế giới.
Ông sĩ quan, tôi muốn ông biết rằng tôi tôn trọng quyết định của ông.
Bellamy gật đầu.
- Tuy nhiên, có một việc mà tôi cảm thấy cần phải lưu ư với ông.
- Chuyện ǵ vậy, thưa ngài?
- Tổng thống đích thân tham gia vào chiến dịch lột mặt nạ của Con Cáo.
- Thưa ngài, tôi đă không biết điều đó.
- Ông coi nó, cũng như tôi nữa, là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của cơ quan nầy kể từ khi ra đời đến nay. Tôi có biết về chuyện của gia đ́nh ông, và tôi chắc rằng Tổng thống cũng thông cảm. Ông thực sự là một người đàn ông có khuynh hướng gia đ́nh. Nhưng việc ông không nhận nhiệm vụ nầy có thể, tôi phải nói thế nào nhỉ, làm xấu mặt Cục T́nh báo Hải quân và Đô đốc Whittaker.
- Đô đốc không có liên quan ǵ tới quyết định của tôi thưa ngài, - Robert nói.
- Tôi hiểu điều đó, ông sĩ quan, thế nhưng Tổng thống có hiểu như vậy hay không?
Tuần trăng mật sẽ phải bị hoăn lại mất, Robert nghĩ.
Khi Robert báo tin với Susan, anh nhẹ nhàng nói:
- Đây sẽ là chuyến đi công tác ra nước ngoài cuối cùng của anh. Sau chuyến nầy, anh sẽ ở nhà nhiều đến mức em phát chán lên cho mà xem.
Cô mỉm cười với anh.
- Trên đời nầy làm ǵ có nhiều thời gian đến thế.
- Chúng ḿnh sẽ ở bên nhau măi măi.
Cuộc săn đuổi Con Cáo là một trong những công việc tuyệt vọng nhất mà Robert từng gặp. Anh đă t́m được dấu vết của hắn ở Argentina nhưng chậm so với con mồi một ngày. Những dấu vết dẫn tới Tokyo và Trung Quốc, rồi Malaisia. Dù Con Cáo là ai không biết, hắn để lại một chút dấu vết đủ để dẫn đến nơi hắn đă có mặt nhưng không bao giờ đến được nói hắn đang có mặt.
Hết ngày rồi đến tuần, hết tuần rồi đến tháng, và Robert luôn ở phía sau Con Cáo. Hầu như ngày nào anh cũng gọi điện cho Susan. Thoạt đầu th́ là: "Anh sẽ trở về nhà sau vài ngày thôi, em yêu". Và rồi, "Anh có thể về nhà vào tuần tới". Và sau cùng "Anh không rơ là khi nào th́ sẽ về được". Cuối cùng, Robert đă phải bỏ cuộc. Anh đă bám theo dấu vết Con Cáo suốt hai tháng rưỡi mà không có kết quả ǵ.
Khi anh trở về với Susan, cô có vẻ thay đổi. Hơi lạnh nhạt một chút.
- Anh xin lỗi, em yêu, - Robert xin lỗi. - Anh không hề biết là phải mất nhiều thời gian như thế. Chỉ là…
- Họ sẽ không bao giờ buông tha anh, có phải không, Robert?
- Ǵ cơ? Tất nhiên là họ sẽ phải buông anh ra.
- Em không nghĩ như thế. Em đă nhận việc làm ở bệnh viện Memorial ở Washington. - Cô lắc đầu.
- Em nói ǵ? - Anh giật ḿnh.
- Em sẽ lại là một y tá. Em không thể cứ ngồi chờ anh trở về nhà với em, phiền muộn về việc anh đang ở đâu và anh đang làm ǵ, phiền muộn không hiểu anh đă chết hay c̣n sống nữa.
- Susan, anh…
- Cũng được thôi mà, anh yêu của em. It nhất th́ em cũng sẽ làm được việc ǵ đó có ích trong những lúc anh đi vắng. Điều đó sẽ làm cho sự chờ đợi trở nên nhẹ nhàng hơn.
Và Robert không c̣n biết trả lời thế nào. Anh báo cáo lại thất bại của ḿnh với Đô đốc Whittaker. Vị Đô đốc tỏ ra thông cảm.
- Tôi đă có lỗi trong việc đồng ư để anh làm nhiệm vụ đó Từ nay trở đi, chúng ta sẽ để cho CIA tự giải quyết những vấn đề khốn kiếp của họ. Robert, tôi xin lỗi.
Robert nói với ông về việc Susan nhận làm y tá.
- Có thể đó là một ư kiến hay đấy, - Vị Đô đốc trầm ngâm nói. - Nó sẽ làm cho cuộc sống vợ chồng của anh bớt căng thẳng. Thỉnh thoảng, nếu như ảnh có những công tác ở hải ngoại, tôi chắc cũng đỡ rắc rối.
Cái gọi là thỉnh thoảng kia hoá ra gần như liên tục. Đó chính là lúc cuộc hôn nhân thật sự bắt đầu tan ră.
Susan làm việc tại bệnh viện Memorial trên cương vị một y tá giúp việc ở pḥng mổ, và khi Robert có nhà, cô thường cố gắng xin nghỉ để ở bên anh, nhưng càng ngày cô càng bận rộn hơn với công việc.
- Em thật sự cảm thấy thích thú, anh yêu ạ. Em cảm thấy em đang làm được một công việc có ích.
Cô thường nói chuyện với Robert về các bệnh nhân của cô, và anh nhớ cô đă từng chăm sóc anh như thế nào, cô đă giúp anh trở nên khoẻ mạnh và trở lại với cuộc sống ra sao. Anh đă hài ḷng thấy rằng cô đang làm một công việc tốt mà cô cảm thấy yêu thích, song có một thực tế là họ ngày càng gặp nhau ít hơn. Khoảng cách về t́nh cảm giữa họ ngày càng rộng ra. Có một sự ngượng ngập mà trước đây chưa bao giờ có. Họ như hai người xa lạ, cố gắng một cách tuyệt vọng để bắt chuyện với nhau.
Khi Robert trở lại Washington sau sáu tuần công công tác tại Thổ Nhĩ Kỳ, anh đưa Susan đi ăn tối ở Sans Souci.
Sulsan nói:
- Ở bệnh viện chỗ em mới có một bệnh nhân. Anh ta bị một tai nạn máy bay khủng khiếp và các bác sĩ nghĩ rằng anh ta khó có thể sống nổi, thế nhưng em sẽ chăm sóc để anh ta có thể qua được. - Đôi mắt cô bừng sáng.
Vớí ḿnh, cô ấy cũng như vậy. Robert nghĩ. Anh băn khoăn không biết liệu cô cũng cúi xuống bên người bệnh mới nầy và nói: "Hăy mau khoẻ. Em đang đợi anh" hay không. Anh cố dứt bỏ ư nghĩ đó.
- Robert, anh ta tuyệt lắm. Tất cả các y tá đều phát điên lên v́ anh ta.
- Tất cả ư? Anh ngẫm nghĩ.
Trong ḷng anh nhen nhóm một chút nghi ngờ, dằn vặt nhưng anh đă dẹp được ư nghĩ đó đi.
Họ gọi bữa ăn.
Ngày thứ bẩy tiếp đó, Robert đi Bồ Đào Nha và ba tuần lễ sau, khi anh trở về, Susan mừng rỡ chào đón anh.
- Ngày hôm nay, lần đầu tiên Monte đă đi lại được. - Nụ hôn của cô đầy vẻ qua quưt.
- Monte?
- Monte Banks. Đó là tên anh ta. Anh ta sẽ đâu vào đấy. Các bác sĩ đă không thể tin nổi, nhưng mà tụi em sẽ không chịu đâu.
- Tụi em.
- Kể cho anh nghe về anh ta xem nào.
- Anh ta thật sự đáng mến. Anh ta luôn luôn cho mấy đứa bọn em quà. Anh ta rất giàu có. Anh ta lái một chiếc máy bay riêng và anh ta đă bị một tai nạn khủng khiếp, và…
- Những quà ǵ hả?
- Ồ, anh biết đấy, chỉ những thứ lặt vặt ấy mà - kẹo, hoa, sách và đĩa hát. Anh ta muốn tặng những chiếc đồng hồ đắt tiền cho tất cả bọn em nhưng tất nhiên là bọn em phải từ chối rồi.
- Th́ tất nhiên.
- Anh ta có một chiếc du thuyền, những con ngựa…
Đó là khi mà Robert bắt đầu gọi anh ta là Cái túi tiền (moneybags).
Lần nào từ bệnh viện trở về nhà, Susan cũng nói chuyện về anh ta.
- Robert, anh ta thật sự chân thành.
Chân thành là nguy hiểm đây.
- Và anh ta rất quan tâm đến người khác. Anh có biết hôm nay anh ta đă làm ǵ không? Đă yêu cầu tiệm Jockey gửi bữa trưa tới cho tất cả những y tá có mặt đấy.
Thằng cha nầy kinh tởm thật. Thật lố bịch, Robert cảm thấy ḿnh trở nên cáu kỉnh.
- Cái thằng cha bệnh nhân tuyệt vời đó của em đă có vợ chưa hả?
- Chưa, anh yêu. Nhưng sao cơ?
- Anh chợt nghĩ vậy thôi.
- Hăy v́ Chúa, anh không ghen đấy chứ? - Cô cười vang.
- Với cái thằng cha già cỗi mới học đi ấy ư? Tất nhiên là không.
Mẹ kiếp, dứt khoát là thế. Nhưng anh không hề muốn làm phiền ḷng cô.
Khi Robert ở nhà, Susan cố không nhắc tới bệnh nhân của cô, nhưng nếu cô không th́ Robert lại gợi chuyện.
- Cái túi tiền thế nào rồi?
- Tên anh ta không phải là Cái túi tiền, - Cô nói vẻ trách móc, mà là Monte Banks.
- Ǵ chả được.
Thật tiếc là cái thằng chó đẻ đó không chết trong vụ tai nạn kia cho rảnh chuyện.
***
Hôm sau là ngày sinh nhật của Susan.
- Nầy, anh bảo nhé, - Robert sốt sắng nói, - Chúng ta sẽ làm lễ kỷ niệm. Chúng ta sẽ đi và có một bữa tối tuyệt vời ở đâu đó và…
- Em phải làm việc ở bệnh viện cho tới 8 giờ cơ.
- Cũng được. Anh sẽ tới đón em ở đó.
- Được đấy Monte muốn gặp anh lắm. Em đă nói về anh rất nhiều cho anh ta nghe.
- Anh cũng muốn gặp thằng cha đó, - Robert quả quyết với cô.
Khi Robert tới bệnh viện, người thường trực nói:
- Xin chào ông sĩ quan. Susan đang làm việc trên khoang chỉnh h́nh ở tầng ba. Cô ấy đang đợi ông đấy. - Chị ta nhấc điện thoại lên.
Lúc Robert bước ra khỏi thang máy, Susan đang đứng chờ anh trong bộ đồng phục trắng bong, và tim anh đập rộn lên. Ôi, nàng sao mà đẹp thế.
- Xin chào người đẹp.
Susan mỉm cười, nhưng cảm thấy không thoải mái một cách hơi lạ.
- Chào anh, Robert. Vài phút nữa là em hết phiên trực. Nào đi. Em sẽ giới thiệu anh với Monte.
- Tôi đang sốt ruột đây.
Cô dẫn anh vào một pḥng riêng rộng răi, đầy những sách và hoa quả, và nói:
- Monte, đây là chồng… em, anh Robert.
Robert đứng đó, nh́n người đàn ông nằm trên giường. Anh ta lớn hơn anh chừng ba, bốn tuổi và rất giống Paul Newman. Thoáng nh́n, Robert đă thấy coi thường anh ta.
- Tôi rất vui ḷng được gặp ông, ông sĩ quan. Susan đă kể tất cả về ông cho tôi nghe.
Phải chăng đó là thứ chuyện họ nói với nhau vào lúc nửa đêm khi cô ấy ở bên giường anh ta?
- Cô ấy rất tự hào về ông. - Cái túi tiền nói thêm.
Thế đấy anh bạn, lại c̣n ném ra vài mẩu bánh nữa.
Susan nh́n Robert, ḷng những mong anh xử sự cho lịch thiệp. Anh phải cố gắng lắm.
- Tôi hiểu là ông sắp rời khỏi nơi đây.
- Vâng, chủ yếu là nhờ có người vợ của ông. Cô ấy là một người y tá kỳ diệu.
Nào, chàng thuỷ thủ. Anh nghĩ là em sẽ để cho một gă nào đó được có tấm thân tuyệt vời nầy ư?
- Vâng, đó chính là đặc tính của cô ấy. - Robert không thể nào giấu nổi vẻ cay đắng trong giọng nói của ḿnh.
Bữa tiệc sinh nhật là cả một sự tuyệt vọng. Susan chỉ những muốn nói chuyện về người bệnh nhân của cô.
- Anh ta có làm cho anh nhớ tới ai không, anh yêu?
- Đến Boris Karloff.
- Sao anh cứ phải thô lỗ với anh ta thế nhỉ?
- Anh nghĩ là anh xử sự lịch thiệp. Có đíều anh không thích hắn ta. - Anh lạnh lùng nói.
- Thậm chí anh chưa hề quen biết ǵ. Anh ta có ǵ để anh không thích nào? - Susan nh́n anh chằm chằm.
- Anh không thích cái lối hắn ta nh́n em. Anh không thích cái lối em nh́n hắn ta. Anh không thích thấy cuộc sống vợ chồng cửa chúng ta đang tiêu tan như thế nầy. Lạy Chúa, anh không muốn mất em.
- Xin lỗi. Anh cho là anh hơi mệt.
Họ im lặng suốt bữa ăn.
Sáng hôm sau, khi Robert chuẩn bị tới sở, Susan nói:
- Anh Robert, em có chuyện muốn nói với anh…
Và anh cảm thấy như bị một cú đánh vào bụng.
Anh không thể nào chịu được việc cô sắp nói thành lời những ǵ đang xảy ra.
- Susan…
- Anh biết là em yêu anh. Em sẽ luôn yêu anh. Anh là người đàn ông đáng yêu nhất, tuyệt vời nhất mà em từng biết.
- Thôi nào…
- Không, để em nói nốt. Em thật khó nói ra chuyện nầy. Trong năm qua, chúng ta khơng mấy khi được sống bên nhau: Chúng ta không c̣n một cuộc sống vợ chồng nữa. Chúng ta đă xa cách nhau.
Mỗi lời nói của cô như một phát dao đâm vào thân thể anh.
- Em nói đúng, - anh nói với một vẻ tuyệt vọng. - Anh sẽ thay đổi. Anh sẽ thôi việc ở cơ quan. Ngay bây giờ. Hôm nay. Chúng ḿnh sẽ đi đâu đó và…
Cô lắc đầu:
- Không, anh Robert. Cả hai chúng ta đều biết là như thế không được. Anh đang làm công việc mà anh muốn làm. Nếu v́ em mà anh bỏ việc, anh sẽ luôn luôn dằn vặt về chuyện đó. Đây không phải là chuyện là lỗi của ai. Có điều - Chuyện là thế. Em muốn ly dị.
Tất cả dường như tối sầm trước mắt anh. Đột nhiên, anh cảm thấy bụng quặn lên.
- Đừng nghĩ như thế, Susan. Chúng ta sẽ t́m cách để…
- Quá muộn rồi. Em đă nghĩ về chuyện nầy từ lâu lắm rồi. Suốt cả thời gian anh đi xa và em ở nhà mong ngóng anh, em đă nghĩ về điều nầy. Chúng ta đă đang sống những cuộc đời riêng rẽ. Em cần hơn thế kia. Em cần cái mà anh không thể cho em được nữa.
Anh đứng lặng, cố kiềm chế t́nh cảm của ḿnh.
- Chuyện nầy - Chuyện nầy có liên quan ǵ tới thằng cha Cái túi tiền không hả?
- Monte đă ngỏ lời cầu hôn với em. – Susan lưỡng lự.
- Và em sẽ bằng ḷng ư? - Anh cảm thấy tim ḿnh thắt lại.
- Vâng.
Đó là cơn ác mộng điên rồ. Không phải chuyện nầy đang xảy ra, anh nghĩ. Không thể như thế được. Nước mắt anh ứa ra.
Susan choàng tay, ôm chặt lấy anh.
- Em sẽ không bao giờ cảm thấy yêu một ngứời đàn ông như em đă cảm thấy yêu anh được. Em yêu anh bằng cả tâm hồn và trái tim ḿnh. Em sẽ luôn luôn yêu anh. Anh là người bạn yêu quư nhất của em. - Cô lùi ra và nh́n vào mắt anh. - Song như thế chưa đủ. Anh có hiểu thế không?
Tất cả những ǵ anh hiểu là cô đang ṿ xé anh.
- Chúng ta có thể cố gắng. Chúng ta sẽ làm lại và…
- Anh Robert, em xin lỗi. - Giọng cô nghẹn lại. - Em thật xin lỗi, nhưng mọi chuyện đđ hết rồi.
Susan bay đi Reno để làm thủ tục ly dị, và chàng sĩ quan Robert Bellamy say rượu suốt hai tuần lễ liền.
***
Nhưng thói quen cũ thật khó mất. Robert gọi điện cho một người bạn ở Cục Điều tra Liên bang (FBI).
Trước đây, Al Traynor đă nhiều dịp có quan hệ với Robert và anh tin cậy anh ta.
- Tray, tôi cần cậu giúp đờ.
- Giúp đỡ? Cậu cần một bác sĩ thần kinh th́ có. Quái quỷ thế nào mà cậu lại để mất Susan thế hả?
Chuyện của họ có thể đă lan đi khắp cả thành phố. Đó là cả một câu chuyện dài và buồn.
- Robert, tôi thật sự lấy làm tiếc. Cô ấy là một phụ nữ tuyệt vời. Tôi… mà thôi. Tôi có thể giúp ǵ cậu?
- Tôi muốn cậu kiểm tra về một người trên máy tính điện tử.
- Được rồi. Cậu cho tôi cái tên.
- Monte Banks. Chỉ là chuyện thẩm tra thông thường thôi.
- Rồi. Cậu muốn biết những ǵ?
- Có thể là hắn ta không có trong hồ sơ của cậu. Tray ạ, nhưng nếu có… hắn ta có bao giờ bị phạt v́ chuyện đậu xe, đánh chó, vượt đèn đỏ chẳng hạn? Chuyện thông thường ấy mà.
- Chắc chắn là thế rồi.
- Tôi muốn biết hắn kiếm tiền ở đâu ra. Tôi muốn biết về tiểu sử của hắn.
- Vậy hả, chỉ chuyện thông thường, phải vậy không?
- Và nầy, Tray, chỉ giữ chuyện nầy riêng giữa chúng ta thôi nhé. Đó là chuyện riêng mà. Được chứ?
- Không có ǵ cả. Tôi sẽ gọi cho cậu vào sáng mai.
- Cảm ơn. Tôi nợ cậu một bữa trưa đấy.
- Bữa tối.
- Cũng được.
Robert gác máy và nghĩ: H́nh ảnh một người đang vớ những cọng rơm. Ḿnh hy vọng vào chuyện ǵ nhỉ, rằng hắn ta và tên Jack kẻ cướp và Susan lại lao trở vào ṿng tay ḿnh chăng?
***
Sáng sớm ngày hôm sau, Dustin Thornton cho gọi Robert.
- Ông đang làm ǵ vậy, ông sĩ quan?
Ông ta thừa biết ḿnh đang làm ǵ mà, Robert nghĩ. - Tôi đang giải quyết hồ sơ của tôi về nhà ngoại giao Singapore, và…
- Việc đó có vẻ như nhưng không chiếm bao nhiêu thời gian của ông.
- Ông nói ǵ ạ?
- Ông sĩ quan, trong trường hợp ông quên, tôi xin nhắc là Cục T́nh báo hải quân không được phép điều tra về các công dân Mỹ.
Robert nh́n ông ta, kinh ngạc.
- Ông…
- Tôi mới được bên FBI thông báo rằng ông đang t́m cách thu thập những thông tin hoàn toàn không thuộc thấm quyền của Cục nầy.
Robert cảm thấy một cơn giận chợt bùng lên. Thằng chó đẻ Traynor kia đă phản bội anh. Không ẹn ǵ là bạn bè nữa.
- Đó là một chuyện cá nhân, - Robert nói. - Tôi…
- Các máy tính của FBI không phải là để phục vụ cho những sở thích của ông, cũng không phải là để giúp ông xía vào đời tư của các công dân. Ông đă rơ chưa?
- Rơ.
- Thế thôi.
Robert chạy lao về phía pḥng của anh. Những ngón tay anh run rẩy khi quay số 202-324-3000. Một giọng trả lời:
- FBI đây.
- Cho tôi gặp Al Traynor.
- Xin chờ một chút.
Một phút sau, có tiếng một người đàn ông.
- Xin chào. Tôi có thể giúp ǵ ông vậy?
- Vâng. Tôi muốn gặp Al Traynor.
- Tôi xin lỗi. Điệp viên Traynor không c̣n ở cơ quan nầy.
- Cái ǵ? - Robert cảm thấy giật ḿnh.
- Điệp viên Traynor đă bị thuyên chuyển.
- Thuyên chuyển à?
- Phải.
- Đến đâu?
- Boiso. Nhưng anh ta sẽ c̣n chưa có mặt tại đó một thời gian. Tôi e là một thời gian dài đấy.
- Ư ông nói ǵ vậy?
- Đêm qua, trong khi đang chạy trong công viên Rock Creek, anh ta bị một chiếc xe đâm rồi bỏ chạy. Ông có thể tin được không hả? Một thằng khốn kiếp nào đó hẳn đă uống say đến phát rồ. Hắn lao xe của hắn trên đường chạy. Traynor bị quăng đi xa tới hơn chục mét. Anh ta khó mà qua khỏi được.
Robert gác máy. Đầu óc anh quay cuồng. Chuyện quỷ quái ǵ đang xảy ra thế nhỉ? Monte Banks, cái thằng giàu có, mắt xanh ấy đang được bảo vệ. Bảo vệ cái ǵ? Ai bảo vệ hắn? Lạy Chúa, Robert nghĩ, Susan đang lao vào chuyện ǵ không biết nữa?
Anh đến thăm cô ngay chiều hôm đó.
Cô ở tại căn hộ mới của ḿnh, một căn hộ kép đẹp đẽ trên phố M. Anh tự hỏi không biết có phải Cái túi tiền đă mua cho cô hay không. Đă mấy tuần họ không gặp nhau, và anh như nghẹt thở khi nh́n thấy cô.
- Susan, xin lỗi v́ đă đường đột như thế nầy. Anh biết là anh đă hứa không làm vậy.
- Anh nói là có chuyện ǵ đó nghiêm trọng.
Đúng thế. Bây giờ, khi đă ở đây, anh không biết phải bắt đầu như thế nào. Susan, anh đến để cứu em ư? Cô ấy sẽ cười vào mặt anh.
- Có chuyện ǵ vậy?
- Đó là chuyện về Monte.
- Chuyện ǵ về anh ấy vậy? - Cô chau mầy.
- Đây mới là phần khó khăn. Làm sao anh có thể nói với cô chuyện mà chính anh cũng chưa biết? Tất cả những ǵ anh biết là có một chuyện ǵ đó nghiêm trọng lắm. Đúng là Monte Banks có trong bộ nhớ của FBI, với một phiêu lưu ư: Không được tiết lộ thông tin nào nếu không được sự cho phép thích hợp. Và việc thẩm tra đă lập tức bị đá ngược lại đối với Cục T́nh báo hải quân. V́ sao?
- Anh không nghĩ là anh ta, anh ta có ǵ đó có vẻ không thật.
- Em không hiểu.
- Susan, anh ta kiếm tiền từ đâu hả?
Cô có vẻ ngạc nhiên trước câu hỏi nầy.
- Monte có một doanh nghiệp xuất khẩu rất thành công.
Cái thứ vỏ bọc cổ lỗ nhất trên thế gian nầy.
Lẽ ra anh phải biết là không nên đến đây để đưa ra cái lập luận nửa vời của ḿnh mới phải. Anh cảm thấy ḿnh ngớ ngẩn. Susan đang đợi câu trả lời và anh không có ǵ để nói.
- V́ sao anh lại hỏi như thế?
- Anh, anh chỉ muốn tin chắc rằng anh ta là người thích hợp cho em mà thôi, - Robert nói không ra đâu vào đâu.
- Ôi Robert. - Giọng cô đầy vẻ thất vọng.
Anh cho là anh không nên đến đây. Đúng thế, anh bạn.
- Anh xin lỗi em.
Susan bước đến và ôm lấy anh. Cô dịu dàng nói.
- Em hiểu.
Nhưng cô đâu có hiểu ǵ. Cô đă không hiểu rằng một cuộc thẩm tra b́nh thường về Monte Banks đă bị chặn đứng lại, hất ngược về Cục T́nh báo hải quân và cái người toan t́m kiếm những thông tin đó đă bị loại bỏ.
Có những cách khác để thu thập thông tin và Robert bắt tay vào việc t́m kiếm chúng một cách thận trọng.
Anh gọi điện cho một người bạn làm ở tạp chí Forbes.
- Robert. Lâu quá không gặp. Tôi có thể giúp ǵ anh thế?
Robert nói chuyện với anh ta.
- Monte Banks à? Rất thú vị là anh đă nhắc đến tên anh ta. Chúng tôi nghĩ rằng anh ta phải có tên trong danh sách Bốn trăm người giàu nhất của tờ Forbes nầy, nhưng mà không kiếm đâu ra thông tin về anh ta cả. Anh có ǵ cho chúng tôi không đấy?
Một con số không.
Robert đi tới thư viện công cộng t́m kiếm cái tên Monte Banks trong cuốn Tiểu sử các nhân vật. Hắn ta không có tên trong đó.
- Anh quay lại t́m kiếm trong bộ phận lưu trữ các số báo Bưu điện Washington xung quanh thời gian Monte Banks bị tai nạn máy bay. Có một mẩu nhỏ về vụ tai nạn nầy. Nó nhắc đến Banks như một nhà doanh nghiệp.
Tất cả đều có vẻ trong sáng cả. Có thể ḿnh nhầm, Robert nghĩ. Có thể thằng cha Monte Banks nầy chẳng có vấn đề ǵ cả. Chính phủ đă không bảo vệ cho hắn nếu như hắn là một tên gián điệp, một tên tội phạm hoặc một tên buôn lậu ma tuư… Sự thật là ḿnh vẫn đang cố bám vào Susan mà thôi.
***
Trở lại với cuộc sống độc thân là một nỗi cô đơn, một sự trống rỗng, một chuỗi những ngày bận rộn và những đêm mất ngủ. Một cơn sóng tuyệt vọng thường tràn lên anh một cách bất chợt và anh thường phải khóc. Anh khóc cho bản thân ḿnh, cho Susan và cho tất cả những ǵ mà họ đă mất. Sự hiện diện của Susan có ở mọi nơi. Căn hộ nầy vẫn đầy kỷ niệm về cô. Robert đau khổ với tất cả những điều nhắc nhở ấy, và mỗi pḥng đều hành hạ anh với những hồi tưởng về giọng nói của Susan, tiếng cười và sự nồng ấm của cô. Anh nhớ tất cả những đường cong mềm mại trên thân thề cộ khi cô nằm trần truồng trên giường đợi anh, và nỗi đau trong anh là không thể chịu đựng nổi.
Bạn bè quan tâm tới anh.
- Đừng phiền muộn, Robert.
Và sự quan tâm của họ đều thống nhất ở một việc:
- Tớ sẽ kiếm cho cậu một con bé.
Họ là những cô gái xinh đẹp và gợi t́nh, cao có, thấp có. Họ là những người mẫu, những cô thư kư, những người làm nghề quảng cáo, những phụ nữ bỏ chồng và những nữ luật sư. Nhưng không có ai trong số họ là Susan. Anh không có ǵ chung với bất kỳ ai trong số họ, và việc cố chuyện tṛ một chút với những cô gái xa lạ mà anh không hề quan tâm chỉ làm cho anh cảm thấy cô đơn hơn. Robert không có ham muốn kéo một ai trong số họ vào giường ngủ. Anh muốn có một ḿnh. Anh muốn quay lại cuốn phim kia từ đầu và viết lại kịch bản của nó. Khi nh́n lại, thật dễ thấy những sai lầm của anh, dễ thấy phải sửa lại cái kịch bản với Đô đốc Whittaker như thế nào.
CIA bị thâm nhập bởi một người mang mật danh Con Cáo. Ông phó giám đốc đă yêu cầu để anh t́m kiếm hắn.
Không, thưa Đô đốc. Xin lỗi. Tôi đang chuẩn bị đưa vợ tôi đi hưởng tuần trăng mật thứ hai.
***
Anh muốn thay đổi lại cuộc đời ḿnh, để nó có một kết thúc đẹp đẽ. Nhưng đă quá muộn. Cuộc sống không dành cho những cơ hội lần thứ hai. Anh đă hoàn toàn cô độc. Anh tự đi mua sắm, tự nấu ăn và đi tới hiệu giặt là gần đó mỗi khi anh ở nhà.
Đó là một thời gian cô đơn và khổ sở nhất trong đời Robert. Nhưng thế cũng vẫn c̣n chưa phải là điều tệ hại nhất. Một người phụ nữ làm nghề thiết kế thời trang xinh đẹp mà anh gặp ở Washington đă mấy lần gọi điện mời anh đi ăn tối. Robert thật sự không muốn, nhưng sau cùng th́ anh cũng nhận lời. Cô ta đă chụẩn bị một bữa tối ngon lành cho hai người dưới ánh sáng của những ngọn nến.
- Em là một đầu bếp giỏi, - Robert nói.
- Chuyện ǵ em cũng giỏi cả. - Và không có ǵ để nhẩm lẫn trong ư cô ta hết. Cô ta nhích lại gần anh hơn. - Hăy để em chứng tỏ cho anh thấy nhé. - Cô ta đặt tay lên hai đùi anh và đưa đầu lưỡi mơn trớn môi anh.
Đă lâu quá rồi, Robert nghĩ. Có thể là quá lâu thật.
Họ cùng nhau lên giường, và trước sự thất kinh của Robert, đó là một tai hoạ. Lần đầu tiên trong đời, anh hoàn toàn bất lực. Anh cảm thấy nhục nhă.
- Đừng phiền ḷng, anh yêu, - Cô ta nói. - Rồi đâu sẽ vào đấy thôi.
Cô ta đă nhầm.
Robert trở về nhà, cảm thấy ngượng ngùng và chán nản. Anh biết rằng thật là điên rồ và ngớ ngần, anh đă cảm thấy việc làm t́nh với một phụ nữ khác là một sự phản bội đối với Susan. Sao ḿnh lại có thể ngu ngốc đến thế nhỉ?
Vài tuần sau đó, anh lại thứ làm t́nh với một nữ thư kư xinh xắn ở Cục T́nh báo hải quân. Trên giường, cô gái đầy nhục cảm, mơn trớn khắp thân thể anh và ngậm anh trong cái miệng nóng ấm của cô. Nhưng không ăn thua ǵ. Anh chỉ muốn có Susan. Sau lần ấy anh không thử nữa. Anh đă nghĩ tới việc phải đến bác sĩ, nhưng lại thấy quá ngượng ngùng. Anh biết câu trả lời đối với vấn đề của anh, và nó không hề có liên quan ǵ đến chuyện y tế cả. Anh đành dồn tất cả sức lực của ḿnh vào công việc.
Susan gọi điện cho anh ít nhất mỗi tuần một lần.
"Đừng quên lấy quần áo ở chỗ hiệu giặt, - Cô thường nói. Hoặc. "Em đang cho một cô giúp việc đến chỗ anh để dọn dẹp căn hộ. Em cá với anh rằng nhà cửa rất lộn xộn đấy".
Mỗi cú điện thoại lại làm cho sự đơn độc càng trở nên khó chịu đựng hơn.
Cô đă gọi điện cho anh vào đêm trước ngày cưới.
- Anh Robert, em muốn anh biết rằng ngày mai em cưới.
Anh thấy ngạt thở. Anh hổn hển nói.
- Susan.
- Em yêu Monte, - Cô nói, nhưng em cũng yêu anh. Em sẽ yêu anh đến chết. Em không muốn anh quên điều đó.
C̣n biết đáp lại thế nào?
- Robert, anh có sao không?
Chắc chắn là không sao. Mạnh khoẻ. Trừ một việc ḿnh là một thằng quan hoạn khốn kiếp. Bỏ cái tính từ đó đi.
- Anh Robert?
- Anh không thể nào làm cô phiền ḷng v́ chuyện của ḿnh.
- Anh khoẻ. Song, anh xin em một điều thôi, được chứ, em yêu?
- Bất cứ điều ǵ mà em có thể làm được.
- Đừng… đừng để hắn ta đưa em đi trong tuần trăng mật tới những nơi mà chúng ta đă từng đến.
Anh cúp máy, lao ra ngoài và đi uống đến say mèm.

o0o

Đó là chuyện một năm trước. Đó là quá khứ. Anh đă bị buộc phải đối mặt với thực tế là giờ đây Susan thuộc về một người khác. Anh buộc phải sống trong hiện tại. Anh có công việc để làm. Bây giờ đă đến lúc phải nói chuyện với Leslie Mothershed, tay thợ ảnh đă chụp những tấm h́nh và có tên của các nhân chứng mà Robert có nhiệm vụ phải t́m kiếm trong chuyến công tác cuối cùng nầy của anh.


o0o

 

Pages  1  2  3  4  Next