| 
			 
				Sau cùng th́ tất cả 
				chúng con đều đă nh́n thấy bộ mặt của Satăng. Đó là ngày tận 
				thế. Ngày phán xử đă đến. Trận chiến cuối cùng là đây…Trận chiến 
				đấu cuối cùng…Trận chiến đấu cuối cùng giữa cái thiện và cái ác.
				
				
				 
				 
				Chương 1 
				 
				 
				Ngày thứ nhất. 
				Thứ hai, 15 tháng Mười 
				- Anh lại thấy ḿnh trong cái quân y viện chật chội ở căn cứ Củ 
				Chi, Việt Nam và Susan đang cúi người trên giường anh, trông 
				thật đáng yêu trong chiếc áo choàng trắng, th́ thầm, "Tỉnh dậy 
				nào, chàng thuỷ thủ. Anh đâu có muốn chết!". 
				Và khi nghe thấy giọng nói đầy quyến rũ của cô, anh gần như quên 
				đi sự đau đớn của ḿnh. Cô đang th́ thầm điều ǵ đó nữa bên tai 
				anh, nhưng một cái chuông nào đó đang réo vang, và anh không thể 
				nghe rơ cô nói ǵ. Anh đưa tay kéo cô lại gần nhưng bàn tay chỉ 
				quờ vào một khoảng không. 
				Chính tiếng chuông điện thoại đă làm Robert Bellamy tỉnh hẳn. 
				Anh miễn cưỡng mở mắt, không muốn giấc mơ qua đi. Chiếc điện 
				thoại bên cạnh giường vẫn réo dai dẳng. Anh nh́n đồng hồ, 4 giờ 
				sáng. Anh chụp lấy máy, bực bội v́ ngủ dỡ mắt, giấc mơ ngắt 
				quăng. 
				- Quỷ quái thật, có biết mới là mấy giờ không hả? 
				- Ông chỉ huy Bellamy phải không? 
				- Phải. 
				- Tôi có một tin báo cho ông, ông chỉ huy. Ông được lệnh phải 
				tŕnh diện tướng Hilliard tại trụ sở Cục An ninh Quốc gia (NSA) 
				ở Fort Meade vào đúng 6 giờ sáng. Ông đă nghe rơ chưa, thưa ông 
				chỉ huy? 
				- Rồi. Và chưa. Phần lớn là chưa rơ. 
				Robert Bellamy chậm chạp đặt ống nghe xuống, trầm ngâm. Chuyện 
				quái ǵ mà NSA đ̣i anh thế nhỉ? 
				Và chuyện ǵ gấp gáp đến mức phải gặp vào lúc 6 giờ sáng? Anh 
				lại nằm xuống và nhắm mắt lại, cố t́m lại giấc mơ. Giấc mơ giống 
				như thật. Tất nhiên anh biết điều ǵ đă khiến giấc mơ xuất hiện. 
				Susan vừa gọi điện cho anh tối hôm trước. 
				- Robert… 
				Như từ bao giờ vẫn vậy, giọng nói của cô luôn có tác động đến 
				anh. Anh run run thở mạnh. 
				- Chào Susan. 
				- Mọi chuyện b́nh thường cả chứ, anh Robert? 
				- Tất nhiên. Tuyệt vời. Moneybags thế nào? 
				- Thôi đừng, anh. 
				- Thôi được. Thế Monte Banks thế nào? 
				Anh đă không thể nói "chồng em". Anh ta là chồng cô ấy, Susan. 
				- Anh ấy khoẻ. Em chỉ muốn nói với anh là chúng ta sắp phải xa 
				nhau một thời gian. Em không muốn anh phải lo lắng. 
				Thật đúng là cô ấy, đúng là Susan. Anh cố giữ giọng nói b́nh 
				tĩnh. 
				- Lần nầy em đi đâu vậy? 
				- Bọn em bay qua Brasil.  
				Trên chiếc Boeing 727 của Moneybags. 
				- Monte có chút công việc ở đó mà. 
				- Thật ư? Anh nghĩ là chồng em sở hữu cả quốc gia đó. 
				- Thôi đi Robert. Xin anh. 
				- Xin lỗi. 
				Một giây im lặng. 
				- Em mong anh tỏ ra dễ chịu hơn. 
				- Nếu em có ở đây th́ hẳn là thế. 
				- Em muốn anh t́m được một ai đó thật tuyệt vời, và anh hạnh 
				phúc. 
				- Susan, anh đă t́m được một người tuyệt vời. - Cổ họng anh tắt 
				nghẹn. - Và em biết chuyện ǵ xảy ra không? Anh đă mất cô ấy. 
				- Nếu anh cứ c̣n nói thế, em sẽ không gọi anh nữa đâu. 
				Đột nhiên, anh cảm thấy sợ hăi. 
				- Đừng nói thế. Đừng, em? 
				Với anh, cô là chiếc phao cứu sinh. Anh không thể chịu nổi ư 
				nghĩ rằng không bao giờ được nói chuyện với cô nữa. Anh cố tỏ ra 
				vui vẻ. 
				- Anh sẽ ra ngoài và kiếm một cô tóc vàng thật khêu gợi để rồi 
				cùng làm t́nh cho đến bă người ra th́ thôi. 
				- Em muốn anh kiếm được một ai đó. 
				- Anh hứa với em đấy. 
				- Em lo cho anh, em yêu anh! 
				- Không cần thiết. Anh thật sự b́nh thường. - Anh nghẹn lời với 
				lời nói đối của chính ḿnh. Giá mà cô biết sự thật. Nhưng anh 
				không thể nào mang chuyện của ḿnh ra bàn với ai. Đặc biệt là 
				Susan. Anh không thể chịu được ư nghĩ về sự buồn khổ của cô. 
				- Từ Brasil, em sẽ gọi điện cho anh. - Susan nói. 
				Một lúc im lặng. Họ không thể rời nhau ra bởi v́ có quá nhiều 
				điều để nói, quá nhiều thứ tốt hơn là không nên nói đến, không 
				được nói đến. 
				- Anh Robert, em phải đi đây. 
				- Susan? 
				- Dạ. 
				- Anh yêu em. Anh sẽ luôn luôn yêu em! 
				- Em biết. Em cũng yêu anh, Robert. 
				Và đó chính là điều mỉa mai cay đắng. Họ vẫn yêu nhau đến thế. 
				Hai người thật đẹp đôi, tất cả bạn bè họ đều đă nói như vậy. 
				Điều ǵ đă làm đảo lộn tất cả? 
				Robert Bellamy ra khỏi giường và đi ngang căn pḥng khách vắng 
				lặng với đôi chân trần. Căn pḥng gợi nhớ sự vắng bóng của 
				Susan. Quanh pḥng là hàng chục tấm ảnh của Susan và anh, những 
				h́nh ảnh đọng lại. Hai người đi câu cá ở vùng cao nguyên 
				Scotland, trước một tượng Phật trên đất Thái Lan, trên một cỗ xe 
				ngựa chạy trong mưa qua những khu vườn Borghese ở Rome. Và trong 
				mỗi tấm ảnh, họ đều đang cười và ôm chặt lấy nhau, hai con người 
				đang yêu nhau nồng thắm. 
				Anh đi vào pḥng bếp đặt một b́nh cà phê. Đồng hồ chỉ 4 giờ 15. 
				Anh lưỡng lự giây lát, rồi nhấc điện thoại quay số. Sáu hồi 
				chuông réo và sau cùng anh nghe thấy tiếng Đô đốc Whittaker ở 
				đầu dây đằng kia. 
				- Hêlô. 
				- Thưa Đô đốc. 
				- Ǵ vậy? 
				- Đây là Robert. Tôi thật xin lỗi v́ đă đánh thức ngài. Tôi vừa 
				có một cú điện thoại khá kỳ lạ từ Cục an ninh quốc gia. 
				- NSA à? Họ muốn ǵ vậy? 
				- Tôi không biết. Tôi được lệnh tŕnh diện tướng Hilliard vào 
				lúc 6 giờ. 
				Một thoáng im lặng trầm ngâm. 
				- Có thể là người ta định chuyển anh sang đó. 
				- Không thể thế được. Điều đó thật vô lư. Sao họ lại… 
				- Robert, rơ ràng là có chuyện ǵ đấy khẩn cấp. 
				- Sao anh không gọi lại cho tôi sau cuộc gặp nhỉ? 
				- Tôi sẽ gọi. Cảm ơn ngài. 
				Cuộc đối thoại chấm dứt. Robert nghĩ: lẽ ra ḿnh không nên làm 
				phiền ông già. Đô đốc đă rời chức vụ đứng đầu T́nh báo hải quân 
				để nghỉ hưu từ hai năm trước đây. Bị buộc phải nghỉ hưu th́ đúng 
				hơn. Người ta bàn tán rằng để an ủi, Bộ Hải quân đă dành cho ông 
				một văn pḥng nhỏ ở đâu đó để ngồi chơi xơi nước với mấy thứ 
				công việc vớ vẩn. Giờ đây, ông Đô đốc không hề biết ǵ về những 
				hoạt động t́nh báo hiện nay. Nhưng ông là thầy của Robert. Ông 
				là người gần gũi với Robert hơn bất kỳ ai trên thế gian nầy, tất 
				nhiên là không kể Susan. Mà Robert th́ cần phải nói chuyện với 
				ai đó. Với việc Susan ra đi, anh cảm thấy hoàn toàn mất thăng 
				bằng và luôn tưởng tượng rằng ở một nơi nào đó, trong một thời 
				gian và không gian khác, anh và Susan vẫn đang là một cặp vợ 
				chồng hạnh phúc, cười đùa vô tư và yêu thương nhau. Hoặc có thể 
				là không, Robert mệt mỏi nghĩ. Có thể do ḿnh đă không biết khi 
				nào nên dừng lại. 
				Cà phê đă xong. Vị đắng ngắt. Anh băn khoăn không biết liệu có 
				phải nó được nhập về từ Brasil hay không nữa. 
				Anh mang theo ly cà phê vào pḥng tắm và ngắm ḿnh trong gương. 
				Anh đang nh́n vào một người đàn ông ở độ tuổi bốn mươi, cao to 
				và khoẻ mạnh, khuôn mặt rắn rỏi, cái cằm khoẻ, mái tóc đen và 
				cặp mắt sẫm, sắc sảo, thông minh. Trên ngực anh là một vết sẹo 
				dài và sâu, kỷ niệm vụ máy bay rơi. Nhưng đó là ngày hôm qua. Đó 
				là Susan. C̣n lúc nầy là hôm nay. Không có Susan. Anh cạo râu, 
				tắm và rồi bước lại tủ quần áo. Ḿnh mặc ǵ nhỉ, anh băn khoăn. 
				Đồng phục Hải quân hay đồ dân sự? Mà nào ai quan tâm đâu nhỉ? 
				Anh khoác lên người bộ complê màu tàn thuôc lá cùng với chiếc 
				sơmi trắng và chiếc càvạt màu lục lam. Anh biết rất ít về Cục An 
				ninh quốc gia, chỉ biết cái Dinh Thự bí mật đó, như người ta đặt 
				tên lóng cho nó, đă thay thế cho tât cả các cơ quan t́nh báo 
				khác của nước Mỹ và là cơ quan bí mật nhất trong tất cả số đó. 
				Họ muốn ǵ ở ḿnh? Ḿnh sẽ biết ngay thôi mà. 
				 
				Chương 2 
				 
				 
				Cục An ninh quốc gia nằm ẩn 
				ḿnh kín đáo trong một cánh rừng hoang rộng tám mươi hai mẫu ở 
				Fort Meade, bang Maryland, với hai toà nhà lớn gấp đôi khu trụ 
				sở CIA ở Langley, bang Virginia. Cơ quan nầy được lập ra nhằm 
				giúp đỡ kỹ thuật để bảo vệ các kênh thông tin của nước Mỹ và thu 
				lượm các số liệu t́nh báo điện tử trên khắp thế giới, hoạt động 
				khủng khiếp đến mức mỗi ngày nó sản sinh ra chừng bốn mươi tấn 
				tài liệu. 
				Khi Robert Bellamy đến cổng th́ trời vẫn c̣n tối. Anh cho xe đỗ 
				sát bờ tường cao tới hai mét rưỡi, c̣n căng dây thép gai phía 
				trên. Một bốt gác đặt ở đó với hai người bảo vệ có vũ trang. Một 
				người lính đứng lại bên trong nh́n ra trong lúc người kia tiến 
				đến bên chiếc xe. 
				- Tôi có thể giúp ǵ cho ông? 
				- Sĩ quan chỉ huy Bellamy tới gặp tướng Hilliard. 
				- Xin ông cho xem giấy tờ, ông chỉ huy? 
				Robert Bellamy móc ví và lấy tấm thẻ căn cước của anh có ghi 
				Pḥng 17 T́nh báo hải quân. Người lính gác xem tấm thẻ một cách 
				cẩn thận và đưa trả lại cho anh. 
				- Cảm ơn ông chỉ huy. 
				Anh ta gật đầu với người lính đứng trong bốt gác, và cánh cổng 
				mở ra. Người lính gác phía trong nhấc điện thoại. 
				- Sĩ quan chỉ huy Bellamy đang trên đường vào. 
				Một phút sau, Robert Bellamy tiến đến trước một chiếc cổng điện 
				đóng kín bưng. 
				Một người lính gác tiến đến bên chiếc xe. 
				- Sĩ quan chỉ huy Bellamy phải không? 
				- Đúng vậy. 
				- Xin phép được xem giấy tờ của ông? 
				Anh đă toan phản đối nhưng rồi lại nghĩ. Thây kệ. Đây là lănh 
				địa của họ mà. Anh lại móc ví ra và đưa tấm thẻ cho người lính. 
				- Cảm ơn ông chỉ huy. - Người lính làm một tín hiệu nào đó không 
				rơ, và cánh cổng mở ra. 
				Khi Robert Bellamy lái xe tiến vào, anh lại nh́n thấy một bức 
				tường bảo vệ thứ ba ở trưóc mặt. Lạy Chúa, anh nghĩ, ḿnh đang ở 
				trong vùng cấm rồi. 
				Một người gác mặc quân phục khác bước lại bên chiếc xe. Khi 
				Robert Bellamy đưa tay để lấy chiếc ví ra th́ người gác nh́n 
				biển số xe và nói:. 
				- Xin chạy thẳng tới toà nhà điều hành, thưa ông chỉ huy. Sẽ có 
				người đón ông tại đó. 
				- Cám ơn. 
				Cánh cổng mở ra, và Robert cứ theo đường xe chạy, tới bên một 
				toà nhà khổng lồ trắng toát. Một người đàn ông mặc đồ dân sự 
				đang đứng đợi phía bên ngoài, run lên v́ những cơn gió lạnh của 
				tháng mười. 
				- Ông chỉ huy, ông có thể để xe ở ngay đó. Chúng tôi sẽ lo sau. 
				- Anh ta gọi to. 
				Robert Bellamy để ch́a khoá lại trong xe và bước ra. Người đàn 
				ông đứng đón anh chừng ba mươi tuổi, dáng cao, gầy, nước da mai 
				mái. 
				- Tôi là Harrison Keller. Tôi sẽ đưa ông đến pḥng làm việc của 
				tướng Hilliard. 
				Họ đi vào một pḥng tiền sảnh lớn, trần nhà cao. 
				Một người đàn ông mặc đồ dân sự đang ngồi sau chiếc bàn. 
				- Sĩ quan chỉ huy Bellamy. 
				Robert Bellamy quay người lại. Anh nghe tiếng kêu tách của một 
				chiếc máy ảnh. 
				- Cám ơn ngài. 
				- Cái ǵ? - Robert Bellamy quay sang Keller. 
				- Chỉ mất một phút thôi. - Keller đoán chắc với anh. 
				Sáu mươi giây sau, Robert Bellamy được trao cho một tấm phù hiệu 
				nhận dạng màu xanh trắng với ảnh của anh trên đó. 
				- Xin ông đeo tấm phù hiệu nầy liên tục trong thời gian ông ở 
				trong toà nhà nầy, ông chỉ huy. 
				Được. Họ bắt đầu đi theo một hành lang dài, sơn màu trắng, 
				Robert Bellamy thấy những chiếc camêra bảo vệ được đặt cách nhau 
				chừng sáu mét dọc theo cả hai bên hành lang. 
				- Toà nhà nầy có lớn lắm không? 
				- Khoảng hơn hai trăm ngàn mét vuông, thưa ông chỉ huy… 
				- Thế cơ à? 
				- Dạ. Cái hành lang nầy là hành lang dài nhất thế giới - ba trăm 
				hai mươi lăm mét. Chúng tôi hoàn toàn tự nhốt ḿnh ở đây. Tại 
				đây có một trung tâm mua bán, tiệm cà phê, trạm bưu điện, tám 
				Snackbar, một bệnh viện kèm theo một pḥng mổ, một pḥng khám 
				nha khoa, một chi nhánh ngân hàng nhà nước của vùng Laurel, một 
				tiệm giặt là, một tiệm giầy, một hiệu cắt tóc và một vài cửa 
				hàng linh tinh khác nữa. 
				Một cái nhà ở xa của ḿnh, Robert nghĩ. Anh cảm thấy chán nản 
				một cách kỳ lạ. 
				Họ đi ngang qua một khu vực rộng lớn đầy những máy tính điện tử. 
				Robert dừng chân, kinh ngạc. 
				- Một ấn tượng mạnh, phải không ạ? Đó mới chỉ là một trong số 
				những pḥng máy tính của chúng tôi. Hệ thống nầy gồm những máy 
				giải mă và những máy tính trị giá 3 tỉ đôla. 
				- Có tất cả bao nhiêu người làm việc ở đây? 
				- Khoảng mười sáu ngàn. 
				Anh được dẫn vào chiếc thang máy, loại dành riêng, mà Keller sử 
				dụng với một ch́a khoá. Họ đi lên tầng trên và bắt đầu theo một 
				lối khác trên dăy hành lang dài cho tới khi họ tới khu pḥng làm 
				việc ở phía cuối hành lang. 
				- Ngay trong nầy thôi, ông chỉ huy. 
				Họ bước vào một pḥng đợi lớn, với bốn bàn thư kư. Hai trong số 
				thư kư đă đến làm việc. Harrison Keller gật đầu với một trong 
				hai người, và cô ta bấm một cái nút. Cánh cửa dẫn vào căn pḥng 
				phía trong bật mở. 
				- Xin mời vào, thưa quư vị. Tướng quân đang đợi các ông. 
				- Đi lối nầy. - Harrison Keller nói. 
				Robert Bellamy lặng lẽ theo anh ta. Anh thấy ḿnh bước vào căn 
				pḥng rộng lớn, trần nhà và tường đều được bọc một lớp cách âm 
				dầy. Căn pḥng đầy đủ tiện nghi, với nhiều những bức ảnh và vật 
				kỷ niệm có tính chất cá nhân. Rơ ràng là người đàn ông ngồi sau 
				chiếc bàn kia đă ở đây khá lâu rồi. 
				Tướng Mark Hilliard, phó giám đốc NSA, có vẻ chừng giữa tuổi 50, 
				dáng rất cao, khuôn mặt nổi bật với cặp mắt giá lạnh, sắt đá, tư 
				thế đĩnh đạc. Ông tướng mặc một bộ complê mà xám, chiếc sơmi 
				trắng và càvạt xám. Ḿnh đă đoán đứng, Robert nghĩ. 
				Harrison Keller cất tiếng: 
				- Báo cáo tướng Hilliard, đây là sĩ quan chỉ huy Bellamy. 
				- Cảm ơn ông đă ghé qua, ông sĩ quan. 
				Cứ như là một lời mời đên dự bữa tiệc trà vậy. 
				Hai người đàn ông bắt tay nhau. 
				- Mời ngồi. Tôi xin cược là ông muốn dùng một ly cà phê. 
				Ông ta đọc được ư nghĩ người khác. 
				- Vâng, thưa ngài. 
				- C̣n Harrison? 
				- Không, cảm ơn ngài. - Anh ta ngồi xuống một chiếc ghế dựa ở 
				góc pḥng. 
				Một nút bấm được ấn xuống, cánh cửa mở ra, một người phương Đông 
				mặc đồng phục bước vào với một khay cà phê và bánh nướng Đan 
				Mạch. Robert để ư thấy anh ta không đeo phù hiệu nhận dạng. Thật 
				tệ. 
				Cà phê được rót ra. Mùi thơm ngào ngạt. 
				- Ông uống thế nào nhỉ? - Tướng Hilliard hỏi. 
				- Uống đen ạ. - Ly cà phê thật ngon. 
				Hai người đàn ông ngồi đối diện nhau, trên những chiếc ghế da 
				mềm. 
				- Ngài giám đốc yêu cầu tôi gặp ông. 
				Ngài giám đốc, Edward Sanderson. Một nhân vật huyền thoại trong 
				nghề gián điệp. Một nghệ sĩ rối, bậc thầy, tài ba và nhẫn tâm, 
				nổi danh với vỉệc tổ chức hàng chục cuộc đảo chính táo bạo trên 
				khắp thế giới ít khi người ta nh́n thấy ông xuất hiện trước công 
				chúng mà chỉ thầm th́ nói về ông ta ở chốn riêng tư. 
				- Ông đă ở pḥng 17 ngành t́nh báo hải quân bao lâu rồi, ông sĩ 
				quan? - Tướng Hilliard hỏi. 
				- Mười lăm năm. Robert không úp mở. Anh dám đánh cược cả tháng 
				lương rằng ông tướng có thể nói chính xác ngày anh gia nhập ONI. 
				- Trước đó, tôi tin là ông đă chỉ huy một phi đội máy bay của 
				Hải quân ở Việt Nam. 
				- Thưa ngài, vâng. 
				- Ông đă bị bắn rơi. Họ không nghĩ là ông có thể qua khỏi. 
				Tay bác sĩ nói: "Hăy quên anh ta đi. Anh ta sẽ không qua 
				được được đâu". Anh đă muốn chết đi cho rảnh. Sự đau đớn 
				thật không thể chịu nổi. Và rồi Susan đang cúi xuống bên anh: "Mở 
				mắt ra nào, chàng thuỷ thủ anh đâu có muốn chết". Anh đă 
				bắt hai mắt ḿnh phải mở ra và qua sự lờ mờ trong đau đớn, nh́n 
				thấy người phụ nữ đẹp nhất mà anh từng thấy trên đời. Cô có 
				khuôn mặt trái xoan mềm mại, mái tóc đen dầy, đôi mắt nâu long 
				lanh và một nụ cười ấm ḷng. Anh đă cố mở miệng nói, nhưng điều 
				đó quá sức. 
				Tướng Hilliard đang nói điều ǵ đó. 
				Robert Bellamy kéo đầu óc ḿnh trở về với hiện tại. 
				- Ngài nó́ ǵ, thưa tướng quân? 
				- Chúng ta có một rắc rối, ông sĩ quan. Chúng tôi cần sự giúp đỡ 
				của ông. 
				- Chuyện ǵ vậy, thưa ngài? 
				Ông tướng đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại. 
				- Điều tôi sắp nói với ông là một vấn đề rất nhạy cảm. Nó c̣n 
				trên mức tối mật. 
				- Rơ, thưa ngài. 
				Ngày hôm qua, ở vùng núi Alps, Thuỵ Sĩ, một quả bóng thám không 
				thời tiết của NATO đâm vào núi. Có một vài dụng cụ thí nghiệm 
				quân sự tối mật ở trên quả cầu đó. 
				Robert thấy ḿnh bỗng phân vân, không hiểu tất cả những chuyện 
				nầy sẽ dẫn tới đâu. 
				- Chính phủ Thuỵ Sĩ đă chuyển tất cả những dụng cụ nầy khỏi quả 
				cầu đó, nhưng đáng tiếc là h́nh như có một số người đă chứng 
				kiến vụ tai nạn. Điều có tính quan trọng sống c̣n là không ai 
				trong số họ được nói với bất kỳ ai khác về những ǵ họ đă trông 
				thấy. Bởi nó có thể cung cấp những thông tin quư giá cho một số 
				nước nhất định. Ông nghe tôi nói đấy chứ? 
				- Thưa ngài, tôi nghĩ là như vậy. Ông muốn tôi nói chuyện với 
				các nhân chứng và cảnh cáo họ không bàn tán về những ǵ họ đă 
				trông thấy. 
				- Không hoàn toàn như vậy, ông sĩ quan. 
				- Vậy th́ tôi không hiểu? 
				- Tôi muốn ông đơn thuần t́m ra những nhân chứng nầy. Những 
				người khác sẽ nói với họ về sự im lặng cần thiết kia. 
				- Tôi hiểu. Tất cả những nhân chứng nầy đều ở Thuỵ Sĩ ư? 
				Tướng Hilliard dừng lại trước mặt Robert. 
				- Đó chính là khó khăn của chúng ta, ông sĩ quan ạ ông biết đấy, 
				chúng ta không hề biết họ là ai. Hay họ ở đâu. 
				Robert nghĩ là anh đă bỏ qua điều ǵ đó. 
				- Xin ngài nói lại? 
				- Chúng ta chỉ có một thông tin duy nhất là các nhân chứng đi 
				trên một chiếc xe buưt du lịch theo tuyến. Họ ngẫu nhiên đi qua 
				hiện trường khi quả bóng thám không bị nạn gần một làng nhỏ tên 
				là… ông ta quay sang Harrison Keller. 
				- Uctendort. 
				Viên tướng quay lại phía Robert. 
				- Khách xuống xe trong ít phút để xem vụ tai nạn và rồi lại tiếp 
				tục đi. Khi chuyến du lịch kết thúc, những người khách nầy lại 
				tản đi tứ phương. 
				Robert chậm răi nói: 
				- Thưa tướng quân Hilliard, có phải ngài đang nói rằng không hề 
				có hồ sơ ǵ về việc những người nầy là ai hoặc họ đă đi đâu ư? 
				- Đúng thế. 
				- Và ngài muốn tôi sang đó t́m họ? 
				- Đúng thế. Ông đă được người ta tin cậy tiến cử. Tôi nghe nói 
				ông có thể nói lưu loát dăm bảy thứ ngôn ngữ, và ông có một tiểu 
				sứ hoạt động tuyệt vời: Ngài giám đốc đă thu xếp để ông được tạm 
				thời chuyển sang NSA. 
				- Khủng khiếp thật! Tôi cho là tôi sẽ làm việc với chính phủ 
				Thuỵ Sĩ về chuyện nầy? 
				- Không, ông sẽ làm việc một ḿnh thôi. 
				- Một ḿnh? Thế nhưng… 
				- Chúng ta không được kéo bất kỳ ai khác vào sứ mệnh nầy. Tôi 
				không sao nói hết được tầm quan trọng của những ǵ có trong quả 
				cầu đó, ông sĩ quan ạ. Vấn đề là thời gian. Tôi muốn ông báo cáo 
				với tôi về kết quả mỗi ngày của công việc ông làm. 
				Viên tướng viết một con số lên tấm các và đưa nó cho Robert. 
				- Có thể gọi tôi ở số máy nầy, ngày cũng như đêm. Một chiếc máy 
				bay đang đợi để đưa ông tới Zurich. Ông sẽ được đưa về chỗ ở để 
				thu xếp hành lư cần thiết, và rồi ông sẽ được đưa ra sân bay. 
				Quá nhiều cho lời "Cảm ơn ông đă ghé qua". Robert muốn hỏi "Sẽ 
				có người cho mấy con cá vàng của tôi ăn trong thời gian tôi đi 
				vắng chứ?" nhưng anh có cảm giác rằng câu trả lời sẽ là "ông 
				không có con cá vàng nào cả" 
				- Ông sĩ quan, trong công việc của ông bên ONI, tôi cho là ông 
				có những quan hệ t́nh báo ở nước ngoài? 
				- Thưa ngài, vâng. Tôi có một vài người bạn có thể có ích. 
				- Ông không được tiếp xúc với bất kỳ ai trong số họ. Ông không 
				được phép có bất kỳ tiếp xúc nào cả. Không c̣n nghi ngờ là những 
				nhân chứng mà ông sẽ t́m kiếm là công dân của nhiều nước khác 
				nhau. - Viên tướng quay sang Harrison Keller. 
				Keller bước đến bên một chiếc tủ hồ sơ ở góc pḥng và mở ra. Anh 
				ta lấy một phong b́ lớn, chuyển cho Robert. 
				- Có năm mươi ngàn đôla trong nầy bằng một số đồng tiền châu Âu 
				khác nhau và hai mươi ngàn đôla Mỹ. Ông cũng sẽ thấy dăm bộ giấy 
				tờ giả sẽ được chuyển đến vào lúc cần thiết. 
				Tướng Hilliard giơ ra một tấm các bọc nhựa màu đen bóng và dầy 
				cộp với một vạch trắng trên đó. 
				- C̣n đây là chiếc thẻ tín dụng. 
				- Tôi không cho là tôi sẽ cần đến nó, thưa tướng quân. Số tiền 
				mặt sẽ là đủ, và tôi c̣n một chiếc thẻ tín dụng của ONI rồi. 
				- Cầm lấy. 
				- Tốt thôi. - Robert xem xét tấm thẻ. Nó được đảm bảo bởi một 
				nhà băng mà anh chưa bao giờ được nghe thấy tên. Phía dưới tấm 
				thẻ có một số điện thoại. 
				- Không có cái tên nào trên thẻ cả. - Robert nói. 
				- Nó tương đương với một tấm ngân phiếu trắng đấy. Nó không đ̣i 
				hỏi sự nhận diện nào. Hăy yêu cầu họ gọi điện đến số máy trên 
				thẻ khi ông mua một thứ ǵ đó. Điều quan trọng là ông phải luôn 
				luôn giữ nó trong người. 
				- Vâng. 
				- Và nầy, ông sĩ quan? 
				- Dạ, thưa ngài. 
				- Ông phải t́m được những nhân chứng đó. Tất cả bọn họ. Tôi sẽ 
				thông báo với giám đốc rằng ông đă bắt đầu nhận nhiệm vụ nầy. 
				Cuộc gặp gở kết thúc. 
				Harrison Keller tiễn Robert ra pḥng ngoài. Một lính thuỷ đánh 
				bộ mặc quân phục đă ngồi ở đó. Anh ta đứng dậy khi hai người 
				bước vào pḥng. 
				- Đây là đại uư Dougherty. Anh ấy sẽ đưa ông ra sân bay. Chúc 
				may mắn. 
				- Cảm ơn. 
				Hai người bắt tay nhau. Keller quay đi và bước trở vào văn pḥng 
				của tướng Hilliarđ. 
				- Ông đă sẵn sàng chưa, thưa ông sĩ quan chỉ huy? - Đại uư 
				Dougherty hỏi. 
				- Rồi. 
				Mà sẵn sàng ǵ mới được cơ chứ? Trong qụá khứ, anh đă giải quyết 
				nhiều nhiệm vụ t́nh báo phức tạp, nhưng chưa bao giờ có chuyện 
				điên rồ như thế nầy. Người ta muốn anh t́m kiếm một số lượng 
				không rơ những nhân chứng không được biết là ai và không biết là 
				người nước nào. Xác suất được thua trong chuyện nầy ra sao đây? 
				Robert phân vân. Ḿnh cảm thấy giống như Nữ hoàng Trắng trong 
				Xuyên qua lớp kính vậy. Sao có lúc tôi tin là có tới sáu điều 
				không thể được trước bữa ăn sáng. Ồ, đây là cả sáu điều đó cộng 
				lại. 
				- Tôi được lệnh đưa ông thẳng về chỗ ở và rồi ra căn cứ không 
				quân Andrews, - đại uư Dougherty nói. - Có một chiếc máy bay 
				đang đợi. 
				Robert lắc đầu. 
				- Tôi phải ghé vào cơ quan tôi trước đă. 
				Dougherty lưỡng lự. 
				- Cũng được. Tôi sẽ cùng đi với ông đến đó và đợi ông. 
				Dường như không thấy anh th́ họ không tin anh vậy. Bởi v́ anh đă 
				biết có một quả bóng thám không bị nạn ư? Điều đó thật vô lư. 
				Anh trao lại tấm phù hiệu của ḿnh tại bàn đón tiếp và bước ra 
				ngoài trời giá lạnh, rạng sáng. Chiếc xe của anh không c̣n đó. 
				Thay vào chỗ đó là một chiếc xe sang trọng dài thượt. 
				- Chiếc xe của ông sẽ được bảo quản, thưa ông chỉ huy, - đại uư 
				Dougherty nói với anh. - Chúng ta sẽ đi chiếc xe nầy. 
				Có một sự quan tâm chu đáo về tất cả đến mức Robert cảm thấy hơi 
				khó chịu. 
				- Được anh nói. 
				Và họ lên đường tới Cục T́nh báo hải quân. Mặt trời buổi sớm mờ 
				nhạt đă biến mất sau những đám mây mưa. Sẽ là một ngày xấu. Theo 
				nhiều nghĩa chứ không hẳn chỉ là một, Robert nghĩ. 
				 
				Chương 3 
				 
				 
				Ottawa, Canada, 24 giờ 
				00 
				Mật danh của ông ta là Janus. Ông ta đang tŕnh bày trước mười 
				hai người trong một căn pḥng được bảo vệ cẩn mật nằm trong một 
				khu vực quân sự. 
				- Như tất cả các ông đă được thông báo, Chiến dịch Ngày Tận Thế 
				đă được bắt đầu. Có một số các nhân chứng phải được t́m ra một 
				cách nhanh chóng và lặng lẽ nhất ở chừng mức có thể. Chúng ta 
				không thể tính chuyện t́m kiếm họ thông qua các kênh an ninh 
				chính quy do nguy cơ bị tiết lộ. 
				- Chúng ta đang dùng ai vậy? - Người Nga. Nóng nảy. To lớn. 
				- Tên anh ta là Robert Bellamy, sĩ quan chỉ huy. 
				- Anh ta được lựa chọn như thế nào vậy? - Người Đức. Vẻ quư 
				tộc. Tàn nhẫn. 
				- Viên sĩ quan nầy được chọn sau khi máy tính t́m kiếm một 
				cách kỹ càng trong các hồ sơ của CIA, FIA, và nửa tá cơ quan 
				t́nh báo khác. 
				- Xin cho tôi được hỏi về những phẩm chất của anh ta? - Người 
				Nhật Bản. Lịch sự. Quỷ quyệt. 
				- Sĩ quan chỉ huy Bellamy là sĩ quan nghiệp vụ nói được sáu thứ 
				tiếng một cách thành thạo và có một lư lịch mẫu mực. Anh ta liên 
				tiếp tỏ ra hết sức năng lực. Anh ta không c̣n ai thân thích đang 
				sống. 
				- Anh ta biết ǵ về tính cấp bách của vụ nầy không? - Người Anh.
				Trưởng giả. Nguy hiểm. 
				- Anh ta biết. Chúng ta hoàn toàn có thể mong đợi rằng anh 
				ta sẽ rất nhanh chóng t́m thấy tất cả các nhân chứng. 
				- Anh ta có biết mục đích của sứ mệnh ḿnh đang làm không? - 
				Người Pháp. Ưa tranh luận. Bướng bỉnh. 
				- Không. 
				- Và khi anh ta đă t́m thấy các nhân chứng th́ sao? - Người 
				Trung Quốc thông minh. Kiên nhẫn. 
				- Anh ta sẽ được khen thưởng xứng đáng. 
				 
				Chương 4 
				 
				 
				Trụ sở cục T́nh báo hải 
				quân chiếm toàn bộ tầng năm của khu Ngũ Giác Đàirộng lớn, một 
				tầng nhà lọt thỏm giữa cái khu trụ sở làm việc lớn nhất thế 
				giới, với tổng cộng mười bảy dặm hành lang và hai mươi chín 
				ngh́n nhân viên quân sự và dân sự. 
				Nội thất của trụ sở Cục phản ánh truyền thống đi biển của nó. 
				Bàn làm việc và tủ hồ sơ hoặc mang màu xanh ôliu, của thời chiến 
				tranh thế giới thứ hai, hoặc màu xám của tàu chiến, trong thời 
				kỳ chiến tranh Việt nam. Tường và trần nhà được sơn màu da ḅ 
				hoặc màu kem. Hồi đầu, Robert không thể chịu nổi cách trang trí 
				nội thất kiểu Spartan nầy, nhưng từ lâu nay, anh đă trở nên quen 
				thuộc với nó. 
				Lúc nầy, khi anh bước vào toà nhà và tiến lại bàn thường trực, 
				người lính gác quen thuộc ngồi sau bàn nói: 
				- Xin chào ông sĩ quan chỉ huy. Tôi có thể xem giấy ra vào của 
				ông được không ạ? 
				Robert đă làm việc ở đây 7 năm, nhưng thủ tục nầy chưa bao giờ 
				thay đổi. Anh xuất tŕnh giấy tờ theo đúng bổn phận của ḿnh. 
				- Cám ơn ông chỉ huy. 
				Trên đường tới pḥng làm việc của ḿnh, Robert nghĩ tới đại uư 
				Dougherty đang đợi anh trong khu đậu xe phía cổng vào lối bờ 
				sông. Anh ta đang chờ để đưa anh ra chuyến bay tới Thuỵ Sĩ, bắt 
				đầu một cuộc đi săn vô vọng. 
				Khi Robert tới pḥng làm việc của ḿnh, cô thư kư Barbara của 
				anh đă ở đó. 
				- Xin chào ông chỉ huy. Ông phó giám đốc muốn gặp ông tại pḥng 
				làm việc của ông ấy. 
				- Ông ấy có thể đợi. Hăy liên lạc với Đô đốc Whittaker cho tôi. 
				- Thưa ông, vâng. 
				Một phút sau, Robert đă đang nói chuyện với Đô đốc. 
				- Tôi cho là anh đă kết thúc cuộc gặp của anh rồi phải không, 
				Robert? 
				- Cách đây chỉ vài phút. 
				- Chuyện thế nào? 
				- Cũng thú vị. Ngài có rảnh để đến ăn sáng với tôi không, thưa 
				Đô đốc? - Anh cố giữ giọng nói b́nh thường. Không hề có chút 
				lưỡng lự nào. 
				- Được. Chúng ta sẽ gặp nhau ở đó chứ? 
				- Vâng. Tôi sẽ để sẵn cho ngài tấm giấy ra vào dùng cho khách. 
				Rất tốt. Tôi sẽ đến anh trong ṿng một giờ. 
				Robert gác máy và nghĩ. Việc ḿnh phải để giấy ra vào dùng 
				cho khách cho ngài Đô đốc: thật là điều mỉa mai. Chỉ mới 
				cách đây vài năm, ông c̣n là một ông gíà đáng kính đây, phụ 
				trách T́nh báo hải quân. 
				Ông nghĩ ǵ về chuyện đó nhỉ? 
				Robert bấm nút gọi thư kư của anh trên máy liên lạc nội bộ: 
				- Dạ, thưa ông chỉ huy? 
				- Tôi đang chờ Đô đốc Whittaker. Thu xếp một giấy ra vào cho 
				ông. 
				- Tôi sẽ lo việc đó ngay ạ. 
				Bây giờ đă đến lúc phải tŕnh diện lăo phó giám đốc. Lăo Dustin 
				Thornton khốn kiếp. 
				
				
				
				 
				Chương 5 
				 
				 
				Lustin Thornton "bẩn thỉu", 
				phó giám đốc Cục T́nh báo hải quân, đă nổi tiếng là một trong 
				những vận động viên điền kinh xuất sắc nhất trong số những người 
				tốt nghiệp trường Annapolis. Thornton có được cái vị trí cao 
				hiện nay là nhờ một trận bóng bầu dục. 
				Nói chính xác là một trận đấu giữa Lục quân và Hải quân. 
				Thornton, một sinh viên sắp tốt nghiệp của Annapolis, với dáng 
				người cao to lừng lững, giữ chân hậu vệ trong trận đấu quan 
				trọng nhất trong năm của Hải quân. Vào đầu hiệp thứ tư, Lục quân 
				đang dẫn 13-0, hai lần được phạt sau gôn và sắp đến lúc đổi sân, 
				số mệnh đă can thiệp và thay đổi cuộc đời Thornton. Anh ta chặn 
				được một đường chuyền của Lục quân, xoay người và lướt qua đội 
				h́nh của đối phương để dành một cú phạt tiếp gôn. Hải quân để lỡ 
				cơ hội ghi điểm nhưng nhanh chóng có được một bàn thắng. Sau cú 
				phát bóng sau đó, Lục quân để lỡ cơ hội đầu tiên và phạm lỗi bên 
				sân Hải quân. Tỉ số trận đấu lúc đó là Lục quân 13, Hải quân 9, 
				và thời gian đang trôi mau. 
				Khi trận đấu bắt đầu trở lại, một quả bóng được chuyền cho 
				Thornton và anh ta bị chèn ngă bởi một cầu thủ Lục quân. Phải 
				mất một lúc lâu anh ta mới đứng dậy được. Viên bác sĩ chạy vào 
				sân. Thornton giận dữ xô ông ta ra. 
				Chỉ c̣n ít giây nữa, các cầu thủ la hét gọi một đường chuyền 
				biên. Thornton được được bóng ở ngay trên vạch năm mét năm mươi 
				của anh ta và dẫn bóng lên với tốc độ và sức mạnh dường như 
				không ǵ cản nổi. Anh ta lao qua đội h́nh đối phương như một 
				chiếc xe tăng, quật ngă tất cả những kẻ thiếu may mắn ngáng 
				đường. Chỉ c̣n hai giây nữa, Thornton vượt qua đường biên ngang 
				với bàn thắng quyết định, và lần đầu tiên trong bốn năm trời, 
				Hải quân đă có trận thắng Lục quân. Nhưng bản thân điều đó không 
				có mấy tác động đến cuộc đời của Thornton. Điều đă làm cho trận 
				đấu nầy trở nên có ư nghĩa là việc Willard Stone và con gái là 
				Eleanor ngồi trong khu dành riêng cho những nhân vật quan trọng. 
				Khi đám đông khán giả đứng cả dậy, reo ḥ chúc mừng người anh 
				hùng của Hải quân th́ Eleanor quay sang cha và th́ thào nói: 
				"Con muốn gặp anh ta". 
				Eleanor Stone là một phụ nữ đầy ham muốn. Cô ả có khuôn mặt thô, 
				một thân h́nh nở nang và những đ̣i hỏi không thể nào thoả măn 
				được. Ngắm nh́n Dustin Thornton lừng lững trên sân, cô ả đă cố 
				h́nh dung xem anh ta sẽ như thế nào ở trên giường. Giá mà cái 
				kia của anh ta cũng to như thân thể… Cô ả đă không phải thất 
				vọng. 
				Sáu tháng sau, Eleanor và Dustin Thornton làm đám cưới. Đó là 
				điểm khới đầu. Dustin Thornton đi làm cho bố vợ và được đưa vào 
				một thế giới huyền bí mà anh ta nằm mơ cũng không thấy. 
				Willard Stone, bố vợ của Thornton, là một người đàn ông kỳ lạ. 
				Một tỉ phú với những mối liên hệ chính trị đầy thế lực và một 
				quá khứ được che phủ trong một bức màn bí mật. Ông ta là một 
				nhân vật trong bóng tối có thể giật dây mọi chuyện tại các thủ 
				đô trên khắp thế giới. Khi đó, ông ta đă ở tuổi 60, một người 
				đàn ông thận trọng mà mỗi cử chỉ đều chính xác và hợp lư, một 
				con người sắc sảo với cặp mắt sụp xuống không bao giờ để lộ điều 
				ǵ. Willard Stone tin rằng không nên phung phí những lời nói và 
				t́nh cảm, và để đạt được mục đích th́ ông ta sẵn sàng tàn nhẫn. 
				Những lời đồn đại về Willard Stone thật huyền bí. Ông ta được 
				cho là đă hạ sát một đối thủ cạnh tranh ở Malaysia và có một 
				cuộc t́nh nồng cháy với người vợ yêu của một vị tiểu vương. 
				Người ta nói rằng chính ông ta đă trợ giúp cho một cuộc cách 
				mạng thành công ở Nigiêria. Chính phủ đă có dăm bảy phán quyết 
				chống lại ông ta, nhưng chúng luôn luôn bị bỏ rơi nửa chừng một 
				cách bí hiểm. Rồi chuyện về các vụ hối lộ các thượng nghị sĩ bị 
				mua chuộc, các bí mật kinh doanh hị đánh cắp, và những nhân 
				chứng bị mất tích… 
				Stone là một cố vấn cho các tổng thống và các quốc vương. Ông ta 
				là một thế lực trần trụi và thô thiển. 
				Một trong số rất nhiều những tài sản của ông ta là một dinh thự 
				rộng lớn, biệt lập trên vùng núi bang Colorado, nơi hàng năm, 
				các nhà khoa học, các ông chủ công nghiệp, và các nhà lănh đạo 
				thế giới tụ họp với những cuộc bàn bạc bí mật. Lính gác có vũ 
				trang ngăn chặn tất cả những vị khách không được mời. 
				Willard Stone không chỉ tán thành cuộc hôn nhân của con gái, mà 
				c̣n khuyến khích nó. Thằng con rể mới của ông trông sáng sủa, 
				đầy tham vọng và quan trọng nhất là có vẻ dễ bảo. 
				Mười hai năm sau cuộc hôn nhân đó, Stone thu xếp để Dustin được 
				bo nhiệm làm đại sứ tại Nam Triều Tiên. Mấy năm sau, Tổng thống 
				bổ nhiệm ông ta làm đại sứ tại Liên Hiệp Quốc. Khi Đô đốc Ralph 
				Whittaker đột ngột bị đẩy khỏi chức vụ quyền giám đốc Cục T́nh 
				báo hải quân, Thornton đă ngồi vào vị trí nầy. 
				Ngay hôm đó, Willard Stone hứa: 
				- Tao có những kế hoạch lớn cho mầy, Dustin. Những kế hoạch vĩ 
				đại. - Và ông ta phác ra những nét lớn. 
				Hai năm trước, Robert có cuộc gặp đầu tiên vớỉ vị quyền giám đốc 
				mới của ONI. 
				- Ngồi xuống, ông sĩ quan. - Không một vẻ thân t́nh trong giọng 
				nói của Dustin Thornton. - Qua hồ sơ về ông, tôi biết ông là một 
				tay vô tổ chức, đại loại là như vậy. 
				Lăo muốn nói chuyện quái quỷ ǵ vậy nhỉ? Robert băn khoăn. Anh 
				quyết định phải giữ mồm giữ miệng. 
				Thornton ngước mắt lên. 
				- Tôi không biết Đô đốc Whittaker điều hành cái Cục nầy như thế 
				nào thời ông ta phục trách, nhưng kể từ bây giờ trở đi, chúng ta 
				sẽ làm việc theo đúng nguyên tắc. Tôi muốn mọi mệnh lệnh của tôi 
				phải được thực hiện đúng tới từng chữ. Tôi nói đă rơ chưa hả? 
				Giêxu, Robert, nghĩ chúng ta gặp chuyện ǵ ở đây thế nhỉ? 
				- Tôi nói đă rơ chưa hả, ông sĩ quan? 
				- Rơ. 
				Ông muốn mệnh lệnh của ông phải được thực hiện đúng tới từng 
				chữ. Anh phân vân không hiểu người ta có muốn anh đứng nghiêm 
				chào hay không. Tất cả là vậy thôi. 
				Nhưng đă đâu phải là tất cả. 
				Một tháng sau, Robert được phái đi Đông Đức để đón một nhà khoa 
				học muốn đào tẩu. Đó là một nhiệm vụ đầy nguy hiểm bởi lẽ Stasi 
				cơ quan cảnh sát mật Đông Đức, đă biết về vụ đào tẩu được dự 
				kiến nầy và đang theo dơi nhà khoa học một cách chặt chẽ. 
				Bất chấp điều đó, Robert đă mang được nhà khoa học qua khỏi biên 
				giới, tơi một địa chỉ an toàn. Khi anh đang thu xếp để đưa ông 
				ta về Washington th́ nhận được một cú điện của Dustin Thornton 
				nói rằng t́nh h́nh đă thay đổi và anh phải chấm dứt nhiệm vụ 
				ngay. 
				- Chúng ta không thể cứ quẳng ông ta ở đây được, - Robert đă 
				phản đối. - Họ sẽ giết ông ta mất. 
				- Đó là việc của lăo ta, - Thornton đáp. - Nhiệm vụ của ông là 
				trở về ngay. 
				Kệ xác ông, Robert nghĩ, tôi sẽ không bỏ rơi ông ấy. Anh đă gọi 
				cho một người bạn ở MI6, Cơ quan T́nh báo Anh, và phân trần với 
				anh ta về t́nh thế của ḿnh. 
				- Nếu như quay về Đông Đức, - Robert nói, - họ sẽ cắt cổ ông ấy. 
				Anh sẽ nhận ông ta chứ? 
				- Ồ anh bạn cũ, tôi sẽ xem có thể làm ǵ được. 
				- Mang ông ta lại. 
				Và nhà khoa học kia đă được dành cho một nơi ẩn náu ở nước Anh. 
				Dustin Thornton đă không bao giờ tha thứ cho Robert về việc 
				không chấp hành chỉ thị của hắn. Có sự thù địch giữa hai người 
				kể từ đó. 
				Thornton đă mang chuyện nầy bàn với bố vợ. 
				- Những khẩu đại bác không kiểm soát được như Bellamy là rất 
				nguy hiểm, - Willard Stone cảnh cáo. - Họ là một mối nguy hiểm 
				về mặt an ninh. Những người như thế hăy nên loại bỏ đi. Hăy nhớ 
				như vậy và Thornton đă ghi nhớ. 
				Lúc nầy, bước dọc theo hành lang đến pḥng làm việc của Dustin 
				Thornton, Robert không thể không nghĩ tới những khác biệt giữa 
				hắn và Whittaker. Trong cái nghề như nghề của anh, sự tin cậy là 
				yếu tố đầu tiên. Anh không tin Dustin Thornton. 
				 
				o0o 
				 
				Thornton đang ngồi ở bàn làm việc khi Robert bước vào. 
				- Ông muốn gặp tôi phải không? 
				- Phải. Ngồi xuống, ông sĩ quan. - Mối quan hệ giữa họ chưa bao 
				giờ đạt đến giai đoạn có thể gọi tên nhau. 
				- Tôi được báo là ông tạm thời chuyển sang Cục An ninh quốc gia. 
				Khi ông trở lại, tôi có một… 
				- Tôi sẽ không trở lại. Đây là sứ mạng cuối cùng của tôi. 
				- Cái ǵ? 
				- Tôi sẽ thôi việc. 
				Sau nầy nghĩ lại, Robert không biết chính xác anh đă chờ đợi một 
				phản ứng như thế nào nữa. Có vài khả năng, Dustin Thornton có 
				thể tỏ ra ngạc nhiên, hoặc có thể đă tranh luận, hoặc tức giận 
				hay tỏ ra nhẹ nhơm… Thay v́ thế, ông ta chỉ nh́n Robert và gật 
				đầu. 
				- Ra vậy đấy hả? 
				Khi Robert trở lại phong ḿnh, anh nói với cô thư kỷ. 
				- Tôi chuẩn bị đi xa một thời gian. Tôi sẽ lên đường trong ṿng 
				một giờ nữa. 
				- Có chỗ nào để có thể kiếm ông được không ạ? 
				Robert nhớ đến mệnh lệnh của tướng Hilliard. 
				- Không. 
				- C̣n mấy cuộc gặp mà ông đă… 
				- Huỷ đi. - Anh nh́n đồng hồ. Đă đến lúc gặp Đô đốc Whittaker. 
				 
				o0o 
				 
				Họ ăn sáng trong khu vườn trung tâm của Ngũ Giác Đàitại tiệm cà 
				phê Ground Zero (Mặt bằng Số Không). Nó được gọi như vậy là bởi 
				lẽ đă có người cho rằng Ngũ Giác Đài sẽ là nơi diễn ra đ̣n tấn 
				công hạt nhân đầu tiên chống lại nước Mỹ. Robert đă thu xếp để 
				họ ngồi được ở chiếc bàn trong góc, nơi có thể có một chút riêng 
				tư. Đô đốc Whittaker đến rất đúng giờ và trong khi nh́n ông đi 
				đến bên bàn anh thấy dường như ông có vẻ già hơn và nhỏ bé hơn 
				đi, như thế là t́nh trạng chờ nghỉ hưu đă làm cho ông già quắc 
				người lại vậy. Ông vẫn là một người đàn ông có vẻ ngoài dễ gây 
				ấn tượng, dáng dấp khoẻ mạnh, cái mũi La Mă, hai g̣ má cao và 
				tóc lốm đốm bạc. 
				Robert đă từng phục vụ dưới quyền đô đốc trong chiến tranh Việt 
				nam và sau nầy ở Cục T́nh báo hải quân, và anh rất tôn trọng 
				ông. C̣n hơn cả sự tôn trọng nữa. Robert thừa nhận với chính 
				ḿnh. Đô đốc Whittaker là người thay cho cha anh. 
				Vị đô đốc ngồi xuống. 
				- Chào Robert. Ồ, có phải họ chuyển anh qua bên NSA không? 
				Robert gật đầu. 
				- Vâng, tạm thời. 
				Cô phục vụ đến và hai người xem thực đơn. 
				- Tôi đă quên mất là đồ ăn ở đây tồi tệ thế nào rồi, - Đô đốc 
				Whittaker vừa nói vừa mỉm cười. Ông nh́n quanh pḥng, vẻ mặt đầy 
				nỗi luyến tiếc không được nói ra thành lời. 
				Ông ấy mong muốn được trở lại chốn nầy. Robert nghĩ, lạy Chúa. 
				Họ gọi món ăn. Khi cô phục vụ đă đi ra ngoài tầm nghe, Robert 
				nói: 
				- Thưa Đô đốc, tướng Hillard đang phái tôi đi một chuyến đi dài 
				ba ngh́n dặm rất khẩn cấp để t́m cho được một số nhân chứng đă 
				nh́n thấy một vụ tai nạn khinh khí cầu. Tôi thấy rất lạ. Và có 
				điều ǵ đó thậm chí c̣n lạ hơn nữa. "Vấn đề là thời gian", đó là 
				nguyên văn lời tướng Hilliard, ấy thế mà tôi đă được lệnh không 
				được dùng tới bất kỳ cơ sở t́nh báo nào của tôi ở nước ngoài vào 
				vụ nầy. 
				Đô đốc Whittaker có vẻ lúng túng. 
				- Tôi cho rằng ông ta có những lư do của ḿnh. 
				- Tôi không thể nào h́nh dung ra những lư do đó là cái ǵ nữa. - 
				Robert nói. 
				Đô đốc Whittaker chăm chú nh́n Robert. Sĩ quan chỉ huy Bellamy 
				đă phục vụ dưới quyền ông ở Việt nam và là phi công giỏi nhất 
				phi đoàn. Con trai của đô đốc, Edward, là người phụ trách ném 
				bom của Robert, và trong cái ngày khủng khiếp mà máy bay của họ 
				bị bắn hạ, Edward đă chết. Robert may mắn lắm mới c̣n sống. Đô 
				đốc đă tới quân y viện thăm anh. 
				"Anh ta chắc không qua khỏi được", các bác sĩ đă nói với ông như 
				vậy. Robert nằm đó trong nỗi đau đớn cùng cực cực, đă th́ thầm, 
				"Cháu xin lỗi về Edward… Cháu thật có lỗi". 
				Đô đốc Whittaker đă nắm chặt tay Robert. "Bác biết là cháu đă 
				làm tất cả những ǵ có thể làm được. Giờ đây, cháu phải b́nh 
				phục lại, rồi cháu sẽ khoẻ". 
				Ông rất mong Robert sống được. Trong tâm trí Đô đốc, Robert là 
				con trai ông, đứa con trai sẽ thay cho chỗ của Edward. Và Robert 
				đă qua khỏi. 
				- Robert nầy. 
				- Dạ, thưa Đô đốc? 
				- Tôi hy vọng là anh sẽ thành công trong chuyến đi Thuỵ Sĩ nầy. 
				- Tôi cũng vậy. Đây là sứ mạng cuối cùng của tôi. 
				- Anh vẫn quyết tâm thôi việc à? 
				Vị Đô đốc là người duy nhất mà Robert có thể tin cậy. 
				- Tôi đă chán ngấy rồi. 
				- Với Thornton ấy à? 
				- Không chỉ hắn ta. Tôi nữa. Tôi đă chán chuyện can thiệp vào 
				cuộc đời của những người khác. Tôi chán những lời dối trá và sự 
				lừa lọc cùng với những lời hứa suông không bao giờ được có ư 
				thực hiện cả. Tôi chán chuyện lôi kéo người khác và để bị người 
				khác lôi kéo. Tôi chán những cuốc chơi, sự nguy hiểm và những 
				sụ, phản bội. Nó đă làm mất đỉ của tôi mọi thứ. 
				- Anh có ư định sẽ làm ǵ không? 
				- Tôi sẽ kiếm một việc ǵ đó có ích cho cuộc đời tôi một việc 
				tích cực ǵ đó. 
				- Nếu họ không để cho anh đi th́ sao? 
				- Họ không có sự lựa chọn nào khác, phải vậy không? - Robert 
				nói. 
				 
				Chương 6 
				 
				 
				Chiếc xe hơi sang trọng 
				đang đợi ở khu đậu xe cạnh cổng vào lối bờ sông. 
				- Ông sẵn sàng chưa, thưa ông sĩ quan chỉ huy? - Đại uư 
				Dougherty hỏi. 
				Sẵn sàng như bao giờ tôi cũng vậy, Robert nghĩ. 
				 
				o0o 
				 
				Đại uư Dougherty đưa Robert trở về nhà để anh có thể thu xếp 
				hành lư. Robert không hề biết anh sẽ phả́ đi bao lâu. Cái nhiệm 
				vụ không thể thực hiện được nầy sẽ mất bào nhiêu thời gian nhỉ? 
				Anh sắp xếp số quần áo đủ dùng trong một tuần và, ở phút cuối 
				cùng, bỏ thêm vào tấm ảnh của Susan lồng trong khung kính. Anh 
				nh́n đăm vào gương mặt yêu quư hồi lâu và nghĩ liệu có phải cô 
				đang vui vẻ ở Brasil không. Anh nghĩ, ḿnh hy vọng là không. 
				Ḿnh hy vọng lá cô ấy đang cô nhưng ngày tệ hại nhất. Và ngay 
				lập tức anh cảm thấy xấu hổ với chính ḿnh. 
				Khi đến căn cứ không quân Andrews, máy bay đợi anh. Đó là chiếc 
				C20A, một máy bay phản lực của không quân. 
				Đại uư Dougherty ch́a tay ra. 
				- Chúc ông may mắn. 
				- Cám ơn. Ḿnh sẽ cần tới nó. Robert leo lên máy bay. Tổ lái đă 
				có mặt đông đủ, kết thúc việc kiểm tra trước chuyến bay. Có một 
				phi công, phi công phụ, hoa tiêu dẫn đường bay, và người phục 
				vụ, tất cả đều mặc quân phục không quân. Robert rất quen thuộc 
				với chiếc máy bay nầy. Nó chứa đầy những thiết bị điện tử. Phía 
				bên ngoài, gần đuôi, có một ăng-ten tần số cao trông giống như 
				một chiếc cần câu lớn. Trong khoang máy bay, có mười hai chiếc 
				điện thoại màu đỏ treo trên vách và một chiếc điện thoại thường, 
				màu trắng. Các liên lạc bằng ra-đa đều được mă hoá và ra-đa của 
				máy bay hoạt động trên một tần số quăn sự. Phần lớn màu trong 
				khoang máy bay là màu xanh da trời của không quân và trong 
				khoang ngồi là những chiếc ghế dựa rất tiện dụng. 
				Robert thấy rằng anh là người khách duy nhất. 
				Người lái chính chào anh. 
				- Xin được đón tiếp ông, thưa ông sĩ quan chỉ huy. Nếu như ông 
				cài dây an toàn vào là chúng ta được phép cất cánh. 
				Robert làm theo và ngả người trên ghế trong khi chiếc máy bay 
				chạy dọc theo đường băng. Một phút sau, anh thấy cái cảm giác 
				quen thuộc của t́nh trạng tăng trọng lượng khi máy bay lao lên 
				không trung. 
				Anh đă thôi lái từ vụ bị rơi kia, khi anh được thông báo rằng 
				anh sẽ không bao giờ có thể lái được nữa. C̣n bay nữa, Robert 
				nghĩ, họ nói ḿnh sẽ không sống nổi ấy chứ. Một điều kỳ diệu - 
				Không, đó là nhờ Susan… Việt nam. Anh đă được đưa đến đó với cấp 
				bậc thượng uư, biên chế trên hàng không mẫu hạm Ranger với cương 
				vị một sĩ quan tác chiến, chịu trách nhiệm huấn luyện phi công 
				tiêm kích và vạch kế hoạch cho chiến lược tiến công. Anh chỉ huy 
				một phi đội cường kích Kẻ xâm nhập A- 6A và có rất ít 
				thời gian nghỉ ngơi sau những căng thẳng của cuộc chiến. Một 
				trong số ít những kỳ nghỉ phép, anh đă đến thăm Bangkok, chừng 
				một tuần lễ, và trong thời gian, đó thậm chí anh không thèm ngủ 
				nghê ǵ. Thành phố ấy giống như một vương quốc Disney được tạo 
				ra cho những khoái lạc của giống đực. Trong giờ đầu tiên ở thành 
				phố nầy, anh gặp một cô gái Thái Lan xinh đẹp, và cô ta đă ở 
				suốt bên anh cả quăng thời gian và dạy anh một vài câu tiếng 
				Thái. Anh thấy thứ ngôn ngữ đó thật mềm mại và ngọt ngào. 
				Arun sawasdi. Chào buổi sáng. 
				Khưn na chak nai? Bạn từ đâu đến? 
				Khun kamrant chain pai? Bạn đi đâu bây giờ thế? 
				Cô cũng dạy anh một số câu khác nữa, nhưng không nói với anh 
				nghĩa của chúng là thế nào, và khi anh nói lại th́ cô khúc khích 
				cười. 
				Khi Robert trở về tàu Ranger, Bangkok dường như chỉ c̣n là một 
				giấc mơ xa xôi. Chiến tranh mới là hiện thực và là một nỗi khủng 
				khiếp. Ai đó cho anh xem một số nhưng tờ truyền đơn mà lính thuỷ 
				đánh bộ Mỹ rải ở Bắc Việt nam. Truyền đơn viết: 
				"Các công dân thân mến, 
				Lính thuỷ quân lục chiến Mỹ đang chiến đấu bên cạnh các lực 
				lượng Nam Việt nam tại Đức Phổ (1) nhằm tạo cho nhân dân Việt 
				nam một cơ hội sống cuộc sống tự do, hạnh phúc, không phải chịu 
				đói khát và đau khổ. Nhưng nhiều người Việt nam đă phải trả giá 
				bằng tính mạng của họ, và nhà cửa của họ bị huỷ hoại bởi lẽ họ 
				đă giúp đỡ cho Việt Cộng. 
				Những làng xóm ở Hải Môn, Hải Tân, Sa Đ́nh, Tạ B́nh và nhiều nơi 
				khác đă bị huỷ diệt v́ lư do đó. Chúng tôi sẽ không ngần ngại 
				trước mọi làng xóm nào tiếp tay cho Việt Cộng, những kẻ đang bất 
				lực trước việc ngăn chặn sức mạnh phối hợp của Chính phủ Việt 
				nam (2) và đồng minh. Sự lựa chọn thuộc về các bạn. Nếu các bạn 
				từ chối để Việt Cộng dùng làng xóm thôn ấp của các bạn như chiến 
				trường của họ, nhà cửa và sinh mạng của các bạn sẽ được an 
				toàn". 
				Chúng ta đang cứu vớt những người dân khốn khổ cứ cho là thế, 
				Robert đă nung nấu nghĩ ngợi. 
				Và tất cả những ǵ chúng ta đang huỷ diệt là đất nước của họ. 
				 
				o0o 
				 
				Hàng không mẫu hạm Ranger được trang bị tất cả những kỹ thuật 
				hoàn hảo nhất có thể nhồi nhét được cho nó. Chiếc tàu là căn cứ 
				của 16 máy bay, 40 sĩ quan và 350 binh sĩ. Lịch bay được đưa ra 
				ba hoặc bốn giờ trước chuyến xuất kích đầu tiên trong ngày. 
				Trong pḥng kế hoạch chiến đấu của trung tâm t́nh báo con tàu, 
				các thông tin mới nhất và các bức ảnh do thám được trao cho 
				những người điều khiển vũ khí để rồi đến lượt họ lập lịch tŕnh 
				bay của chính họ. 
				Giêsu, sáng nay họ trao cho chúng ta một thắng cảnh, Edward 
				Whittaker, người phụ trách vũ khí của Robert, kêu lên. 
				Edward Whittaker trông giống cha như đúc nhưng có tính cách hoàn 
				toàn khác. Trong khi ngài đô đốc là một nhân vật khủng khiếp, 
				nghiêm túc và khổ hạnh th́ con trai ông là một thanh niên thực 
				dụng, nồng nhiệt và dễ mến. Anh ta đă có được cương vị của ḿnh 
				"giống như bao nhiêu người khác". Đồng đội không c̣n để ư đến 
				chuyện Edward là con trai người chỉ huy của họ song rất rơ rằng, 
				đó là người phụ trách vũ khí xuất sắc nhất trong phi đoàn. Anh 
				ta và Robert đă trở thành cặp bạn thân. 
				- Chúng ta sẽ bay tới đâu vậy? - Robert hỏi. 
				V́ những tội lỗi của chúng ta, ta đă chọn phải Khu Sáu. Đó là 
				phi vụ nguy hiểm nhất trong tất cả. Điều đó có nghĩa là phải bay 
				theo hướng bắc tới Hà Nội, Hải Pḥng và khu vực châu thổ sông 
				Hồng, nơi có lưới lửa pḥng không dày đặc nhất. Thời gian mười 
				hai năm xâm chiếm Việt nam là thời kỳ chiến tranh dài lâu nhất 
				từ trước đến nay đối với nước Mỹ. Robert Bellamy đang mắc phải 
				những vấn đề nghiêm trọng. 
				Những phi đội F-4 của họ đang bị tiêu hao. Bất chấp sự thật là 
				những máy bay của nó ưu việt hơn hẳn những chiếc MiG(3) của Nga, 
				Hải quân Mỹ đang phải mất một chiếc F-4 để có thể bắn hạ được 
				hai chiếc MiG. Đó là một tỉ lệ không thể chấp nhận được. 
				Robert được triệu tập đến Pḥng chỉ huy của Đô đốc Ralph 
				Whittaker. 
				- Thưa Đô đốc, ngài cho gọi tôi ạ? 
				- Anh nổi tiếng là một phi công cừ khôi. Tôi cần sự giúp đỡ của 
				anh. 
				- Thưa ngài, chuyện ǵ ạ? 
				- Chúng ta đang bị tiêu huỷ bởi kẻ thù khôn ngoan. Tôi đă cho 
				làm một báo cáo phân tích kỹ lưỡng. Không có vấn đề ǵ đối với 
				những máy bay của chúng ta. Vấn đề là việc huấn luyện những 
				người sử dụng chúng. Anh hiểu chứ? 
				- Thưa ngài, vâng. 
				- Tôi muốn anh chọn lấy một nhóm và dạy dỗ lại họ về chiến thuật 
				và cách sử dụng vũ khí… 
				Nhóm mới nầy được gọi là Top Gun, và trước khi họ kết thúc, th́ 
				tỉ lệ kia mới thay đổi từ 2-1 xuống 12-1. Cứ hai chiếc F-4 bị 
				mất là 24 chiếc MiG bị bắn hạ. Mất tám tuần huấn luyện căng 
				thẳng để hoàn thành nhiệm vụ nầy và sau cùng th́ Bellamy đă trở 
				về với chiếc tàu của ḿnh. Đô đốc Whittaker đă đón tiếp anh. 
				Một thành quả tuyệt hảo, chàng sĩ quan ạ. 
				- Cám ơn Đô đốc. 
				Bây giờ chúng ta hăy trở lại với công việc. 
				- Tôi sẵn sàng, thưa ngài. 
				Robert đă bay ba mươi tư phi vụ ném bom từ tàu Ranger không hề 
				có sự cố ǵ. 
				Phi vụ thứ ba mươi lăm của anh là tới Khu Sáu. 
				Họ đă bay qua bầu trời Hà Nội và đang hướng về phía tây bắc, tới 
				vùng trời Phú Thọ, Yên Bái. Lưới lửa pḥng không đang mỗi lúc 
				một dầy đặc thêm. Edward Whittaker ngồi phía bên phải Robert 
				chăm chú nh́n vào màn h́nh ra-đa , lắng nghe những âm thanh trầm 
				trầm đáng lo ngại của ra-đa cảnh giới của đối phương đang quét 
				trên bầu trời. 
				Bầu trời phía trước mặt họ giống như bầu trời nước Mỹ ngày quốc 
				khánh, điểm những cụm khói trắng của đạn pḥng không hạng nhẹ 
				phía dưới thấp, những cụm khói xám sẫm của đạn pháo 55mm, những 
				đám khói đen của đạn pháo 100mm và những đường đạn đỏ rực của 
				súng máy hạng nặng. 
				- Chúng ta đang tiến đến mục tiêu đấy, Edward nói. Giọng nói của 
				anh ta qua cáp nghe có vẻ xa xôi đến kỳ lạ. 
				- Rơ rồi. 
				Chiếc A- 6A Kẻ xâm nhập đang bay với tốc độ 800km một 
				giờ, và với vận tốc đó, thậm chí với cả sự nặng nề của lượng bom 
				mang theo, nó vẫn rất cơ động và đối phương khó có thể truy 
				đuổi. 
				Robert với tay và bật công tắc sử dụng vũ khí. Một tá bom loại 
				500 bảng Anh lúc nầy đă sẵn sàng được phóng ra. Anh đang hướng 
				thẳng đến mục tiêu. 
				Một giọng nói trong radio của anh vang lên. 
				- Romeo - anh có một con quỷ đằng sau đấy. 
				Robert ngoái lại nh́n. Một chiếc MiG đang từ phía mặt trời bay 
				lại phía anh. Robert lật nghiêng và bay chéo xuống. Chiếc MiG 
				bám theo. Nó đă bắn một quả tên lửa. Robert liếc mắt nh́n bảng 
				đồng hồ. Quả tên lửa đang lao đến rất nhanh. Cách ba trăm mét… 
				hai trăm mét trăm rươi mét… 
				- Đồ khốn! - Edward quát lên. - Chúng ta c̣n chờ ǵ nữa. 
				Robert đă đợi đến giây cuối cùng, rồi phóng ra một đám nhiễu kim 
				loại và đổi hướng bay vọt lên cao, để mặc quả tên lửa lao theo 
				đám nhiễu nổ tung một cách vô hại xuống phía mặt đất bên dưới. 
				- Ơn Chúa, - Edward nói. - Và cảm ơn cả cậu nữa, anh bạn ạ. 
				Robert tiếp tục bay lên và đột ngột ṿng lại phía sau chiếc MiG. 
				Tay phi công kia bắt đầu động tác lẩn tránh th́ đă quá muộn. 
				Robert phóng ra một quả Sidewinder và nh́n theo nó chui tọt vào 
				đuôi chiếc MIG rồi nổ tung. Một giây sau, bầu trời bị phủ bởi 
				một trận mưa những mảnh kim loại. 
				Một giọng nói vang lên trong cáp nghe. 
				- Khá lắm, Romeo. 
				Lúc nầy chiếc máy bay đă ở phía bên kia mục tiêu. 
				- Nào, ta bắt đầu, - Edward nói. Anh ta ấn cái nút đỏ rồi nh́n 
				những trái bom lao xuống mục tiêu. 
				Phi vụ đă hoàn thành. Robert hướng máy bay bay về phía tàu mẹ. 
				Đúng lúc đó, họ thấy một tiếng động khác thường. 
				Chiếc cường kích vốn nhanh nhẹn và ngoan ngoăn là thế bỗng trở 
				nên nặng trịch. 
				- Chúng ta đă dính đạn rồi. - Edward kêu lên. 
				Cả hai chiếc đèn tín hiệu báo cháy đều loè đỏ. 
				Chiếc máy bay lảo đảo và không c̣n tuân theo sự điều khiển. 
				Một giọng nói vang lên trong radio: 
				- Romeo nầy, đây là Tiger. Anh có muốn chúng tôi che chắn cho 
				không? 
				Robert đưa ra quyết định chớp nhoáng. 
				- Không, cứ tiếp tục đến mục tiêu của anh đi. Tôi sẽ cố lết về 
				căn cứ. 
				Chiếc máy bay bay chậm lại và càng trở nên khó điều khiển hơn. 
				- Nhanh lên, Edward hồi hộp nói, không th́ chúng ta sẽ muộn giờ 
				ăn trưa mất. 
				Robert nh́n đồng hồ đo độ cao. Chiếc kim đang tụt xuống nhanh 
				chóng. Anh mở máy liên lạc chính. 
				- Romeo gọi căn cứ. Chúng tôi đă bị đạn. 
				- Căn cứ gọi Romeo. T́nh h́nh xấu lắm không? 
				- Tôi không rơ. Tôi nghĩ là tôi có thể bay về nhà được. 
				- Giữ máy. - Một giây sau, giọng nói kia trở lại. - Tín hiệu của 
				anh là Chalie đang trở về. 
				Điều đó có nghĩa là họ được phép hạ cánh xuống hàng không mẫu 
				hạm ngay lập tức. 
				- Rơ. 
				- Chúc may mắn. 
				Chiếc máy bay đang sắp bị lật. Robert cố lấy lại thăng bằng, cố 
				lấy thêm độ cao. 
				- Nào, bạn thân mến, bạn có thể làm được mà. - Khuôn mặt Robert 
				căng thẳng. Họ đang mất độ cao quá nhiều. - Chúng ta c̣n bao lâu 
				nữa hả? 
				Edward nh́n bản đồ bay. 
				- Bảy phút. 
				- Tôi sẽ cho cậu ăn bữa trưa nóng sốt đấy. 
				Robert cố hết sức để giữ chiếc máy bay bay thẳng với tất cả tài 
				nghệ của ḿnh, sử dụng van dầu và bánh lái. Độ cao vẫn tiếp tục 
				tụt xuống tới mức báo động. Nhưng sau cùng, ở phía trước mặt, 
				Robert nh́n thấy mặt nước biển lấp loá của vịnh Bắc bộ. 
				- Chúng ta về đến nhà rồi, anh bạn ạ. - Robert nói - Chỉ vài dặm 
				nữa thôi. 
				- Khủng khiếp thật. Tớ không ngờ và không biết từ đâu, hai chiếc 
				MIG ầm ầm lao xuống. Những loạt đạn bắt đầu xuyên vào thân Kẻ 
				xâm nhập A-6A. 
				- Eddie. Nhảy dù đi! - Anh quay sang nh́n. Edward sụp người trên 
				chiếc dây an toàn, nửa bên phải bị xé nát, máu phun đầy khoang 
				lái. 
				- Không. - Anh thét lên. 
				Một giây sau, Robert chợt cảm thấy đau điếng ở ngực. Ngay lập 
				tức, bộ đồ bay của anh ướt đẫm máu. 
				Chiếc máy bay bắt đầu rơi theo một h́nh xoắn ốc. 
				- Anh cảm thấy ḿnh đang ngất đi. Với chút sức lực cuối cùng anh 
				tháo dây an toàn và quay sang nh́n Edward lần cuối cùng. 
				- Tớ xin lỗi, - anh th́ thầm, rồi ngất đi và cho tới sau nầy 
				cũng không thể nhớ được anh đă bật dù và rơi xuống mặt nước như 
				thế nào. Một tín hiệu cấp cứu được phát đi và một chiếc trực 
				thăng Vua biển SH-3A từ chiếc tàu U.S.S Yorktown bay ṿng tṛn, 
				t́m cách cứu anh lên. Ở phía xa, đội bay nh́n thấy những chiếc 
				tàu chiến Trung Quốc cỡ nhỏ đang lao đến, nhưng đă quá muộn. 
				Khi họ mang được Robert lên trực thăng, một nhân viên y tế 
				thoáng nh́n thân thể dập nát của anh và nói "Lạy Chúa, thậm chí 
				anh ta sẽ không về được tới bệnh viện nữa". 
				Họ tiêm cho Robert một liều thuốc giảm đau, băng chặt lồng ngực 
				anh lại và chở anh về bệnh viện dă chiến số 12 ở căn cứ Củ Chi. 
				Bệnh viện 12 phục vụ cho các căn cứ Củ Chi, Tây Ninh và Dầu 
				Tiếng có bốn trăm giường bệnh rải rác trong hơn một chục khu 
				điều trị với những chiếc nhà tôn tháo lắp được, nối liền với 
				nhau bằng những hành lang và tạo thành một khu liên hợp h́nh chữ 
				U. Bệnh viện nầy có hai bộ phận cấp cứu, một cho những ca phẫu 
				thuật và một cho những ca bỏng, mà cả hai luôn luôn trong t́nh 
				trạng quá tải. Khi Robert được đưa vào máu anh nhỏ giọt thành 
				vệt trên sàn. 
				Một bác sĩ phẫu thuật với vẻ khó chịu cắt những lớp băng quanh 
				lồng ngực Robert, xem xét, và uể oải nói: 
				- Anh ta sẽ không thể qua được. Đưa anh ta lại pḥng lạnh đi. - 
				Và viên bác sĩ bước đi. 
				Robert nửa mê nửa tỉnh, thoáng nghe thấy lời viên bác sĩ. Vậy 
				đấy, anh nghĩ, một kiểu chết thật tẻ ngắt. 
				- Anh không muốn chết phâi không, chàng thuỷ thủ? Mở mắt ra đi. 
				Nào. 
				Anh mở mắt và lờ mờ nh́n thấy một bóng áo trắng và một khuôn mặt 
				phụ nữ. Cô ta c̣n nói thêm ǵ nữa, nhưng anh không thể nghe được 
				lời cô. Khu điều trị quá ồn ào, đầy những tiếng la thét và rên 
				rỉ của bệnh nhân, tiếng các bác sĩ quát lên những mệnh lệnh, và 
				tiếng chân các y tá cuống cuồng chạy ṿng quanh chăm sóc những 
				thân thể đầy thương tích đang nằm đó. 
				Suất 48 tiếng đồng hồ sau đó, Robert luôn trong t́nh trạng đau 
				đớn và mê sảng. Chỉ măi sau nầy anh mới biết rằng cô y tá đó, 
				Susan Ward, đă thuyết phục được một bác sĩ mổ và tiếp máu cho 
				anh. 
				Để dành lại sự sống cho anh, họ đă đặt bốn đường truyền máu vào 
				cái thân thể nhàu nát của anh và liên tiếp truyền máu đồng thời 
				qua cả bốn đường. 
				Khi ca mổ kết thúc, viên bác sĩ trưởng kíp mổ thở dài: 
				- Chúng ta đă phí thời gian. Khả năng anh ta qua được không quá 
				mười phần trăm. 
				Thế nhưng viên bác sĩ đă không biết Robert Bellamy. Và ông ta 
				càng không biết Susan Ward. Robert thấy dường như bất kỳ lúc nào 
				anh mở mắt ra, Susan cũng đang ngồi bên, cầm tay anh, vuốt ve 
				trán anh, chăm sóc anh và mong anh sống. Anh mê sảng phần lớn 
				thời gian và lúc nào Susan cũng lặng lẽ bên anh trong đêm đơn 
				độc, nghe những lời lảm nhảm của anh. 
				"Góc bổ nhào sai, anh không thể lao cắm đầu vuông góc xuống mục 
				tiêu hoặc sẽ ném bom xuống sông… 
				Bảo họ chuyển góc bổ nhào chếch đi vài độ trên mục tiêu. Bảo họ… 
				- Anh lẩm bẩm. 
				- Em sẽ bảo họ, - Susan dịu dàng nói. 
				Người Robert ướt đẫm mồ hôi. Cô lau đi cho anh. 
				"Các anh phải bỏ cả năm cái kẹp an toàn đi nếu không ghế lái sẽ 
				không bật ra được… Kiểm tra lại chúng đi.. 
				Được rồi. Bây giờ th́ ngủ đi. 
				"Các chốt hăm trên các giá treo bị trục trặc… Có Chúa mới biết 
				được là bom rơi xuống những đâu… 
				Susan phần lớn không thể hiểu nổi bệnh nhân của cô nói ǵ cả. 
				Susan Ward là trưởng nhóm y tá phục vụ pḥng mổ cấp cứu. Cô sinh 
				ra ở một thị trấn nhỏ thuộc bang Idaho và đă lớn lên cùng với 
				cậu bé nhà trên, Frank Prescott, con trai ông thị trưởng. Mọi 
				người trong thị trấn đều cho rằng một ngày nào đó họ sẽ lấy 
				nhau. 
				Susan có một cậu em trai, Michael, mà cô rất yêu quư. Vào dịp 
				sinh nhật lần thứ mười tám, cậu ta đă nhập ngũ rồi được gửi sang 
				Việt nam, và ngày nào Susan cũng viết thư cho cậu. Ba tháng sau 
				ngày cậu đăng lính, gia đ́nh Susan nhận được một bức điện tín và 
				cô biết nó nói ǵ trước khi họ giở ra. 
				Khi Frank Prescott nghe tin, anh ta lao sang. 
				- Tôi rất lấy làm buồn, Susan. Tôi rất thích Michael. 
				Và rồi anh ta đă mắc lỗi khi cất lời. 
				- Chúng ta hăy cưới ngay đi thôi. 
				Susan nh́n anh ta và quả quyết. 
				- Không. Tôi c̣n phải làm một việc quan trọng đối với cuộc đời 
				của tôi. 
				- Hăy v́ chúa. Em c̣n việc ǵ quan trọng hơn việc làm vợ tôi hả? 
				Câu trả lời là Việt nam. 
				Susan nhập học một trường y tá. 
				Cô đă ở Việt nam được mười một tháng, làm việc không biết mệt 
				mỏi, khi Robert Bellamy được đưa đến và cầm chắc cái chết. Cứu 
				chữa có chọn lọc là một thực tiễn chung tại bệnh viện cấp cứu 
				tiền phương. 
				Các bác sĩ thường kiểm tra hai hoặc ba bệnh nhân một lượt và đưa 
				ra những phán quyết vắn tắt về việc sẽ cố cứu lấy ai trong số 
				họ. V́ những lư do mà chính cô cũng không thật rơ, Susan chỉ 
				nh́n thân thể bằm dập của Robert Bellamy và hiểu rằng cô không 
				thể để anh chết được. Có phải đó chính là cậu em trai mà cô muốn 
				cứu sống hay không? Hay c̣n là điều ǵ nữa. Cô đă kiệt sức và 
				quá mệt mỏi với công việc, nhưng thay cho việc nghỉ ngơi, cô đă 
				dành mọi thời gian rỗi để chăm sóc anh. 
				Susan đă xem xét lư lịch bệnh nhân của anh. Một phi công và một 
				huấn luyện viên cừ khôi, đă có một huân chương Chữ thập Hải 
				quân. Nơi sinh của anh là Harvey, bang Illinois, một thành phố 
				công nghiệp nhỏ ở phía nam Chicago. Anh đă gia nhập Hải quân sau 
				khi tốt nghiệp cao đẳng và đă huấn luyện ở Pensacola. Anh chưa 
				có vợ. 
				Mỗi ngày, trong khi Robert Bellamy đang b́nh phục, mấp mé giữa 
				làn ranh giới mỏng manh của sự sống và cái chết, Susan đều th́ 
				thầm bên tai anh. 
				- Cố lên, chàng thuỷ thủ. Em đang đợi anh đấy. 
				Một đêm, sáu ngày sau khi anh được mang vào bệnh viện, khi anh 
				đang lảm nhảm trong một cơn mê sảng, đột nhiên Robert ngồi thẳng 
				dậy trên giường, nh́n Susan, và nói một cách rơ ràng: 
				- Không phải là giấc mơ. Đúng cô thật. 
				Susan cảm thấy tim cô nẩy lên. 
				- Vâng, - Cô nói khẽ khàng. - Thật là em mà. 
				- Tôi nghĩ là tôi đang nằm mê. Tôi nghĩ là tôi đă lên thiên 
				đường và Chúa sai cô đến với tôi đấy. 
				Cô nh́n vào mắt Robert và nói đầy vẻ nghiêm túc. 
				- Nếu để anh chết, th́ thà là em giết anh. 
				Anh đưa mắt nh́n quanh pḥng điều trị. 
				- Tôi… ở đâu thế nầy? 
				- Bệnh viện dă chiến số 12 tại Củ Chi. 
				- Tôi đă ở đây bao lâu rồi? 
				- Sáu ngày. 
				- Eddie, cậu ấy… 
				- Em thật buồn. 
				- Tôi phải nói với ngài Đô đốc. 
				Cô cầm lấy tay anh và dịu dàng nói: 
				- Ông ấy biết rồi. Ông ấy đă đến đây thăm anh. 
				Robert ứa nước mắt. 
				- Tôi căm ghét cuộc chiến tranh khốn nạn nầy. Không thể nào nói 
				lên được. 
				 
				o0o 
				 
				Từ thời điểm đó trở đi, sự hồi phục của Robert đă làm cho các 
				bác sĩ ngạc nhiên. 
				- Chúng ta sắp chuyển anh ta đi khỏi đáy được rồi, - họ nói với 
				Susan. Và cô cảm thấy choáng váng. 
				Robert không hề biết một cách chính xác là anh đă yêu Susan từ 
				khi nào. Có thể là lúc cô đang thay băng cho anh và cô th́ thầm 
				khi họ nghe tiếng bom rơi gần đó. "Họ đang chơi bài ca của chúng 
				ta đấy". 
				Hoặc có thể là khi họ bảo Robert rằng anh đă đủ sức để được đưa 
				về bệnh viện Walter Reed ở Washington nằm dưỡng bệnh, và Susan 
				nói: "Anh nghĩ là em sẽ ở lại đây và để cho một cô y tá khác 
				được chăm sóc cái thân thể tuyệt vời nầy ư? Ồ, không. Em sẽ xoay 
				xở mọi cách để được cùng đi với anh! 
				Họ cưới nhau hai tuần sau đó. Robert phải mất một năm mới b́nh 
				phục hoàn toàn, và suốt thời gian đó Susan chăm sóc cho mọi nhu 
				cầu của anh, ngày và đêm. Anh chưa bao giờ gặp một ai giống như 
				cô và cũng chưa bao giờ anh có thể tưởng tượng ḿnh lại yêu ai 
				đến như vậy. Anh yêu ḷng trắc ẩn và sự nhạy cảm ở cô, t́nh yêu 
				nồng nàn và sức sống mănh liệt của cô. Anh yêu vẻ đẹp và tính 
				hài hước của cô. 
				Vào lần kỷ niệm ngày cưới đầu tiên, anh nói với cô "Em là người 
				phụ nữ đẹp nhất, tuyệt vời nhất, thân thương nhất trên đời nầy. 
				Trên trái đất nầy không có ai có sự nồng ấm, hóm hỉnh và thông 
				minh như em". 
				Và Susan đă ôm lấy anh thật chặt, thầm th́ bằng cái giọng mũi 
				nhưng trong trẻo của cô: "Anh cũng vậy em biết". 
				Họ chia xẻ với nhau không chỉ t́nh yêu. Họ thật sự ham muốn cũng 
				như tôn trọng nhau. Tất cả bạn bè đều như ghen tị và mừng cho 
				họ. Bất kỳ khi nào đó nói chuyện về một đám cưới hạnh phúc, th́ 
				Robert và Susan luôn luôn là tấm gương họ nêu ra. Họ hợp nhau về 
				mọi mặt, thực sự là một đôi bạn tinh thần. 
				Susan c̣n la người đàn bà gợi t́nh nhất mà Robert từng biết và 
				chỉ cần một lời nói, một sự đụng chạm là họ có thể làm cho nhau 
				bừng bừng ham muốn. Một buổi tối, họ dự tính đi đến một bữa tiệc 
				trịnh trọng, Robert đă hơi bị trễ. Anh đang đứng dưới ṿi tắm 
				hoa sen th́ Susan bước vào pḥng tắm với bộ váy áo hở vai, trông 
				thật đáng yêu. 
				- Lạy Chúa, trông em khêu gợi quá, - Robert nói. - Thật tệ là 
				chúng ta mất hết th́ giờ rồi. 
				- Ôi anh đừng lo về điều đó, - Susan nhoẻn cười. 
				Rồi một giây sau, cô tụt váy ra và ôm chầm lấy Robert trong làn 
				nước. 
				Họ không bao giờ đến được cái bữa tiệc kia. 
				Susan cảm nhận được những nhu cầu của Robert thậm chí c̣n trước 
				cả chính anh, và cô lo liệu cho tất cả những thứ đó. Robert cũng 
				chu đáo với cô ngang như vậy. Susan thường thấy những thư t́nh 
				trên bàn trang điểm hoặc trong giầy khi cô chuẩn bị mặc quần áo. 
				Hoa và những món quà nhỏ được gửi đến cô vào những ngày lễ nầy 
				nọ. 
				Và cái chính là tiếng cười mà họ chia sẻ. Tiếng cười tuyệt vời. 
				 
				o0o 
				 
				Tiếng viên phi công chợt vang lên trong hệ thống liên lạc nội 
				bộ. 
				- Thưa ông chỉ huy, mười phút nữa chúng ta sẽ hạ cánh xuống 
				Zurich. 
				Những ư nghĩ của Robert Benamy vụt trở lại với hiện tại, tới 
				nhiệm vụ của anh. Trong 15 năm ở T́nh báo Hải quân, anh đă từng 
				có hàng chục trường hợp đầy thách thức, nhưng vụ nầy hẳn là vụ 
				kỳ dị nhất. Anh đang trên đường tới Thuỵ Sĩ để t́m kiếm những 
				nhân chứng vô danh trên một chiếc xe bus, những người đă như 
				biến mất vào không khí rồi vậy. 
				Cứ cho đây là việc phải t́m một cái kim trong đồng cỏ khô đi 
				chăng nữa th́ thậm chí ḿnh cũng không biết cái đống rơm đó nằm 
				tại chỗ nào. Sherlock Holmes ở đâu khi mà ḿnh cần đến ông ấy 
				nhỉ? 
				- Xin ông thắt dây lưng an toàn vào cho? 
				Chiếc C20A đang lướt trên những khoảng rừng tối, và một giây 
				sau, hạ cánh xuống đường băng được đánh dấu bằng những ngọn đèn 
				hiệu hạ cánh của sân bay, hướng tới toà nhà nhỏ của bộ phận điều 
				hành chung, tránh xa khu ga chính. Vẫn c̣n những vũng nước đọng 
				trên sân do những trận mưa trước đó, nhưng bầu trời đêm th́ thật 
				trong trẻo. 
				- Thời tiết điên rồ, - Viên phi công nhận xét. - Chủ nhật trời 
				nắng, mưa suốt ngày hôm nay và đêm lại quang đăng. Ở đây ông 
				không cần đến đồng hồ đâu. Cái mà ông thật sự cần là một phong 
				vũ biểu. Tôi thu xếp cho ông một chiếc ô tô chứ, ông chỉ huy? 
				- Không, cảm ơn. 
				Từ phút nầy trở đi, anh phải hoàn toàn tự ḿnh làm mọi việc. 
				Robert chờ cho chiếc máy bay đă chạy đi xa, rồi lên một chiếc xe 
				bus nhỏ chạy về khách sạn trong sân bay. Ở đó, anh ch́m vào một 
				giấc ngủ không hề mơ mộng ǵ. 
				 
				 
				
				Chú thích: 
				(1) Một huyện của tỉnh Quảng Ngăi. 
				(2) Chính quyền Sài g̣n 
				(3) MiG máy bay tiêm kích của Liên Xô, viết tắt tên hai người 
				thiết kế là Mikoyan và Gurevich, chữ "i" nhỏ đứng giữa tương tự 
				"&" của tiếng Anh. Trong chiến tranh, không quân Bắc Việt nam sử 
				dụng chủ yếu MiG 21 (số lượng lúc cao nhất là 72 chiếc MiG 21). 
				Tác giả hơi quá cường điệu về máy bay A-6A là máy bay ném bom 
				đời cũ, bay chậm, chỉ sử dụng ở miền Nam, nơi lực lượng pḥng 
				không yếu, hoặc cùng lắm ở "Đường ṃn Hồ Chí Minh" và Nam Lào, 
				A-6A không dám xông vào khu vực Hà nội - Hải Pḥng, nơi có hệ 
				thống pḥng không được coi là khá mạnh với MiG 21, tên lửa SAM-2 
				và pháo 100 mm, A6A càng không phải là đối thủ của MIG-21. Tỷ lệ 
				rơi giữa F-4H và MiG-21 là 1:1, chứ không phải là 12:1 như tác 
				giả viết. Bản thân người đánh máy đă tận mắt nh́n thấy những 
				cuộc không chiến giữa MiG 21 và F4H trên vùng trời Thái Nguyên 
				và Hải Pḥng. Ngày 16-4-1967, chiếc F4H bị MiG 21 bắn rơi ngay 
				trên vùng trời thành phố Hải Pḥng, phi công Mỹ bị bắt tại chỗ 
				(chú thích của người đánh máy) 
				
				 
				Chương 7 
				 
				
				Ngày thứ hai. 
				8 giờ 00. 
				Sáng hôm sau, Robert đến trước một nhân viên đang ngồi sau chiếc 
				bàn làm việc của hăng cho thuê ô tô châu Âu. 
				- Xin chào, - Anh ta nói bằng tiếng Đức. 
				Đó là một lời nhắc nhở rằng anh đang ở trong vủng nói tiếng Đức 
				trên đất Thuỵ Sĩ. 
				- Xin chào, - anh đáp lại cũng bằng tiếng Đức. - Anh có xe cho 
				thuê không? 
				- Thưa ông, có. Ông sẽ cần nó trong bao lâu? 
				Một câu hỏi hay. Một giờ ư? Hay có thể là một năm hoặc hai năm? 
				- Tôi không rơ. 
				- Ông có định mang trả chiếc xe tại đây không? 
				- Có thể là như vậy. 
				Tay nhân viên lạ lùng nh́n anh. 
				- Rất tốt. Xin ông điền vào các mẫu giấy tờ nầy cho? 
				Robert trả tiền thuê xe bằng cái thẻ tín dụng đặc biệt màu đen 
				mà tướng Hilliard đă đưa cho anh. Tay nhân viên xem xét tấm thẻ, 
				lúng túng, và nói: 
				- Xin lỗi một chút. 
				- Anh ta biến mất vào một căn pḥng và khi trở ra, Robert hỏi, - 
				Có ǵ rắc rối không hả? 
				- Không, thưa ông. Không có ǵ cả. 
				Đó là một chiếc Opel Omega màu xám. Robert lái xe ra con đường 
				cao tốc của sân bay và chạy vào thành phố. Anh rất thích Thuỵ 
				Sĩ. Đây là một trong những đất nước đẹp nhất trên thế giới. 
				Nhiều năm về trước, anh đă từng đi trượt tuyết ở đây, liên hệ 
				với Espionage Abreilung - Cơ quan t́nh báo của Thuỵ Sĩ. Trong 
				thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, cơ quan nầy được tổ chức 
				thành 3 bộ phận: D, P và I, mỗi bộ phận phụ trách riêng rẽ các 
				địa bàn Đức, Pháp và Italia. 
				Hiện nay, mục tiêu chính yếu của nó gắn liền với việc phát triển 
				các hoạt động gián điệp được tiến hành trong các tổ chức khác 
				nhau của Liên Hiệp Quốc ở Geneva. 
				Robert có bạn hữu trong cơ quan t́nh báo Thuỵ Sĩ, nhưng anh nhớ 
				lời dặn của tướng Hilliard, "Anh không được liên hệ với bất 
				kỳ ai trong số họ". 
				Quăng đường vào thành phố mất hai mươi lăm phút. Robert đến đầu 
				mối giao thông Dubendorf rồi cho xe hướng về phía khách sạn 
				Doler Grand. Nó vẫn đúng như anh c̣n nhớ: một lâu đài kiểu Thuỵ 
				Sĩ lớn quá cỡ nh́n ra hồ Zurich với những tháp nhỏ gây ấn tượng 
				mạnh, bao bọc bởi cây cỏ. Anh đậu xe và bước vào tiền sảnh. Phía 
				bên trái là bàn tiếp tân. 
				- Xin chào. 
				- Xin chào. Tôi muốn có một pḥng cho một đêm, được chứ? 
				Họ trao đổi bằng tiếng Đức. 
				- Vâng. Ông thanh toán thế nào ạ? 
				- Bằng thẻ tín dụng của tôi. - Vẫn chiếc thẻ tín dụng có màu 
				trắng đen mà tướng Hilliard đă đưa cho anh. Robert hỏi xin một 
				tấm bản đồ Thuỵ Sĩ và sau đó được đưa tới một căn pḥng đầy đủ 
				tiện nghi trong khu pḥng mới của khách sạn. Căn pḥng có một 
				ban công nhỏ nh́n ra hồ. Robert đứng đó, hít thở khí trời mùa 
				thu mát lành và nghĩ tới nhiệm vụ trước mắt anh. 
				Anh không có ǵ để mà tiếp tục cả. Không một dấu vết chết tiệt 
				nào. Tất cả, các dữ liệu cho bài toán anh đều hoàn toàn không 
				được biết. Tên của cái hăng du lịch kia. Số lượng những du 
				khách kia. Tên tuổi và địa chỉ nào đó của họ. "Có phải tất cả 
				các nhân chứng đều ở Thuỵ Sĩ không? - "Đó chính là khó khăn của 
				chúng ta. Chúng ta không hề biết họ là ai, hay họ ở đâu. Và như 
				vậy th́ chỉ t́m được một vài nhân chứng đó cũng đă quá khó.
				"Ông phải t́m được tất cả các nhân chứng đó? Thông tin duy 
				nhất mà anh có được là địa điểm và thời gian: Uetendort, Chủ 
				nhật, ngày 14 tháng Mười". 
				Anh cần có một sợi rơm, một cái ǵ đó để mà bám vao. Nếu anh nhớ 
				chính xác th́ tất cả những xe du lịch theo tuyến trong thời gian 
				một ngày, chỉ xuất phát từ hai thành phố lớn Zurich và Geneva. 
				Robert mở một ngăn kéo và lấy ra cuốn danh bạ điện thoại dầy 
				cộp/ Ḿnh sẽ t́m vần M, để cầu may thôi, Robert nghĩ. 
				Có tới gần một chục hăng du lịch được đăng kư: Sunshine Tours, 
				Swisstour, Tour Service, Touralpino, Tourisma Reisen… Anh sẽ 
				phải kiểm tra từng hăng một. Anh ghi lại địa chỉ của tất cả các 
				hăng đó và lái xe tới những văn pḥng của vài hăng gần đấy nhất. 
				Có hai nhân viên ở sau dăy bàn dài để tiếp du khách. Khi một 
				trong hai người rảnh việc, Robert cất tiếng: 
				- Xin lỗi. Vợ tôi là một trong số khách đi theo tuyến của các 
				anh chủ nhật tuần trước, và cô ấy đă để quên chiếc ví trên xe. 
				Tôi nghĩ là cô ấy đă hồi hộp bởi v́ nh́n thấy quả bóng thám 
				không bị tai nạn ở gần Uetendort. 
				Tay nhân viên chau mầy. 
				Hẳn là ông nhầm rồi. Tuyến của chúng tôi không hề tới gần 
				Uctendort. 
				- Ồ xin lỗi. - Vậy là một. 
				Nơi dừng chân thứ hai có vẻ có kết quả hơn. 
				- Tuyến du lịch của các anh có đi Uetendort không nhỉ? 
				- Ồ có ạ - Người nhân viên mỉm cười. - Các tuyến của chúng tôi 
				đi đến khắp nơi trên đất Thuỵ Sĩ. Những thắng cảnh đẹp nhất. 
				Chúng tôi có một đi Zermatt - tuyến đặc biệt. Cũng có tuyến du 
				lịch tốc hành đi Glacier và Palm. Tuyến Ṿng tṛn lớn sẽ khởi 
				hành trong… 
				- Có phải các anh có một chuyến đi hôm chủ nhật mà xe đă dừng 
				lại để xem cái khinh khí cầu bị đâm vào núi đó không? Tôi hiểu 
				là vợ tôi đă trở về khách sạn muộn và… 
				Người nhân viên sau bàn nói với vẻ đầy công phẫn: 
				- Chúng tôi rất tự hào với thực tế là các chuyến đi du lịch theo 
				tuyến chúng tôi là không bao giờ trễ cả. Chúng tôi không dừng 
				ngoài chương tŕnh. 
				Vậy là một trong những xe của các anh đă không dừng lại để xem 
				cái khinh khí cầu đó phải không? 
				- Chắc chắn là không. 
				- Cảm ơn. - Vậy là hai. 
				Văn pḥng thứ ba mà Robert ghé đến đặt tại Bahnhofplatz, và tấm 
				biển bên ngoài đề SunBhme Tours. 
				Robert bước đến bên chiếc bàn tiếp khách. 
				- Xin chào… Tôi muốn hỏi anh về một trong số những xe đi tuyến 
				của các anh. Tôi có nghe một quả bóng thám không bị tai nạn ở 
				gần Uetendort và người lái xe của các anh đă dừng lại nửa giờ 
				cho du khách xem. 
				- Không, không. Anh ta chỉ dừng lại mười lăm phút thôi. Chúng 
				tôi có những lịch tŕnh rất nghiêm ngặt. 
				Trúng rồi. 
				- Ông nói là ông quan tâm đến chuyện ǵ trong việc nầy nhỉ? - 
				Nhân viên Hăng du lịch hỏi khi thấy khách im lặng. 
				Robert móc ra một trong những tấm các đă được trao cho anh. 
				- Tôi là phóng viên, - Robert nói một cách sốt sắng. - Và tôi 
				đang viết cho Tạp chí Du lịch và sự thanh thản về hiệu quả của 
				xe bus ở Thuỵ Sĩ, so sánh với các nước khác. Tôi không biết liệu 
				tôi có thể phỏng vấn người lái xe của các anh được không? 
				- Đó sẽ là một bài báo thú vị đấy. Rất thú vị là đằng khác. 
				Người Thuỵ Sĩ chúng tôi tự hào về hiệu quả làm việc của ḿnh. 
				- Và niềm tự hào đó là xứng đáng, - Robert quả quyết với anh ta. 
				- Liệu tên Hăng chúng tôi có được nhắc đến không? 
				- Sẽ ở vị trí nổi bật đấy. 
				Tay nhân viên mỉm cười. 
				- Ồ vậy th́ tôi thấy không có ǵ bất lợi cả. 
				- Tôi có thể nói chuyện với anh ta ngay bây giờ được không? 
				- Hôm nay là ngày nghỉ của ông ta. - Anh ta viết một cái tên lên 
				mẩu giấy. 
				Robert Bellamy đọc ngược ḍng chữ Hans Beckerman. 
				Tay nhân viên viết thêm địa chỉ. 
				- Ông ta ở Kapel. Đó là một làng nhỏ, cách Zurich chừng 40 
				kilômét. Lúc nầy th́ ông sẽ có thể t́m thấy ông ta ở nhà. 
				Robert Bellamy cầm lấy mẩu giấy. 
				- Rất cám ơn anh. Nhân tiện, - Robert nói, - để chúng tôi có đầy 
				đủ các dữ kiện cho câu chuyện, anh có biết số lượng vé đă bán ra 
				cho chuyến đi đó không? 
				- Tất nhiên. Chúng tôi lưu hồ sơ về tất cả các chuyến du lịch. 
				Xin đợi một phút. - Anh ta nhấc một cái cặp phía dưới bàn và giở 
				một trang ra. 
				- À, đây rồi. Chủ nhật, Hans Beckerman. Có 7 hành khách. Anh ta 
				lái chiếc Iveco ngày hôm đó, chiếc xe bus nhỏ. 
				Bảy người khách vô danh và người lái xe. Robert cố cầu 
				may. 
				- Anh có tên những du khách đó không? 
				- Thưa ông, người ta từ ngoài đường bước vào, mua vé và lên 
				đường. Chúng tôi không yêu cầu một thứ giấy tờ ǵ. 
				Tuyệt thật. 
				- Một lần nữa, cảm ơn anh nhé. - Robert đi ra phía ngoài cửa. 
				Tay nhân viên với theo: 
				- Tôi mong ông sẽ gửi cho chúng tôi một bản của bài báo nhé. 
				- Chắc chắn rồi. - Robert đáp. 
				 
				o0o 
				 
				Chi tiết đầu tiên của vấn đề là chiếc xe bus, và Robert lái xe 
				đến Talstrassr, nơi những chiếc xe bus khởi hành, thầm mong nó 
				có thể để lộ một dấu vết nào đó. Chiếc xe Iveco sơn màu nâu và 
				trắng bạc, nhỏ vừa đủ để có thể vượt những con đường dốc của dăy 
				núi Alps, với mười bốn ghế ngồi dành cho khách. Bảy người đó 
				là ai, và họ đă biến đi đường nào? 
				Robert ngồi vào xe của ḿnh. Anh xem bản đồ và đánh dấu 
				đường đi. Anh đi đường Lavessneralle ra khỏi thành phố, tới vùng 
				Albis, nơi bắt đầu dăy núi Alps, và hướng tới làng Kapel. Anh 
				chạy theo hướng nam, ngang qua dẫy đồi nhỏ bao quanh Zurich và 
				bắt đầu leo lên dây Alps huyền diệu. Anh lái xe chạy qua 
				Adliswil, Langnau và Hausen và bao nhiêu làng mạc vô danh khác 
				với những ngôi nhà nhỏ làm bằng gỗ và quang cảnh đẹp như tranh. 
				Gần một tiếng sau, anh tới Kapel. Ngôi làng nhỏ nầy có một tiệm 
				ăn, một nhà thờ, một bưu điện và khoảng hơn một chục ngôi nhà 
				nằm rải rác quanh những quả đồi. Robert đỗ xe và bước vào tiệm 
				ăn. Một cô hầu bàn đang lau chùi cái bàn gần cửa ra vào. 
				- Xin chào cô. Cô có biết nhà ông Beckerman ở đâu không? - Anh 
				nói bằng tiếng Đức. 
				- Dạ. - Cô gái chỉ tay dọc theo con đường. - Phía cuối kia ḱa. 
				- Cảm ơn. 
				Robert rẽ phải chỗ cái nhà thờ và chạy đến một ngôi nhà hai tầng 
				xây bằng đá vẻ khiêm nhường, với mái ngói. Anh ra khỏi xe và 
				bước đến trước cửa. Không nh́n thấy chuông, anh đành phải gơ 
				cửa. 
				Một người phụ nữ to lớn với hàng ria mép mờ mờ ra mở cửa. 
				- Có ǵ vậy? 
				- Xin lỗi v́ đă làm phiền chị. Ông Beckerman có nhà không ạ? 
				Chị ta nh́n anh có vẻ nghi ngờ. 
				- Ông muốn ǵ ở ông ấy hả? 
				Robert trao cho chị ta một nụ cười thật quyến rũ. 
				- Chị hẳn phải là vợ của ông Beckerman. - Anh móc cái thẻ phóng 
				viên ra. - Tôi đang làm một bài trên tạp chí về những người lái 
				xe bus Thuỵ Sĩ, và chồng chị được giới thiệu với tạp chí của tôi 
				là một trong những người lái xe an toàn nhất nước. 
				Gương mặt chị ta sáng lên và nói một cách đầy tự hào: 
				- Hans của tôi là một người lái xe tuyệt vời. 
				- Chị Beckerman, đó là điều mà mọi người đều nói với tôi. Tôi 
				muốn được phỏng vấn ông ấy. 
				- Phỏng vấn Hans của tôi cho một tờ tạp chí ư? - Chị ta đỏ bừng 
				mặt. - Điều đó thật thú vị. Xin mời vào. 
				Chị ta dẫn Robert vào một căn pḥng khách nhỏ và gọn gàng ngăn 
				nắp. 
				- Xin chờ ở đây. Tôi sẽ gọi Hans. 
				Ngôi nhà có trần thấp nhưng sáng sủa, sàn nhà bằng gỗ màu sẫm, 
				đồ đạc bằng gỗ trong nhà khá giản dị. Có một cái ḷ sưởi bằng đá 
				và những tấm rèm treo trên các cửa sổ. 
				Robert đứng đó ngẫm nghĩ. Đây không chỉ là đầu mối tốt nhất mà 
				c̣n là đầu mối duy nhất của anh. 
				"Người ta từ ngoài đường bước vào, mua vé và lên đường Chúng 
				tôi không yêu cầu một thứ giấy tờ ǵ…" 
				Từ đây ḿnh c̣n chưa biết sẽ đi đâu, Robert nhăn nhó nghĩ. Nếu ở 
				đây không ổn, ḿnh luôn luôn có thể cho đăng một lời rao: 
				"Xin mời bảy du khách trên chiếc xe bus đă nh́n thấy vụ tai 
				nạn khinh khí cầu hôm chủ nhật đến pḥng khách sạn của tôi vào 
				lúc mười hai gị trưa mai. Sẽ có bữa điểm tâm". 
				Một người đàn ông mảnh khảnh và hói đầu xuất hiện. Nước da ông 
				mai mái và ông ta để một bộ ria mép dầy, đen rất không hợp với 
				toàn bộ vẻ ngoài của ḿnh. 
				- Xin chào ông. 
				- Tôi là Smith. Xin chào ông. - Giọng Robert đầy nhiệt t́nh. - 
				Tôi đang rất mong ngóng được gặp ông, ông Beckerman. 
				- Vợ tôi nói là ông đang viết một câu chuyện về những người lái 
				xe bus chúng tôi. - Ông ta nói với một giọng Đức nặng trịch. 
				Robert nở một nụ cười với vẻ tranh thủ t́nh cảm. 
				- Đúng thế. Tờ tạp chí của tôi rất quan tâm đến hồ sơ lái xe an 
				toàn tuyệt vởi của ông và… 
				- Thôi đi. - Beckerman thô lỗ cắt ngang. - Ông quan tâm tới cái 
				vụ tai nạn chiều hôm qua, không phải thế ư? 
				Robert làm ra vẻ lúng túng. 
				- Sự thực là, vâng, tôi cũng muốn bàn cả chuyện đó nữa. 
				- Vậy th́ sao ông không nói thẳng ra hả? Ngồi xuống. 
				- Cảm ơn. - Robert ngồi xuống chiếc đi văng. 
				Beckerman nói: 
				- Tôi lấy làm tiếc là không thể mời ông uống một chút, nhưng quả 
				là chúng tôi không c̣n trữ sẵn rượu trong nhà. - Ông ta đập đập 
				tay vào bụng. - Loét dạ dày. Thậm chí các thầy thuốc không thể 
				cho tôi thuốc giảm đau được. Tôi phản ứng với tất cả các loại 
				đó. - Ông ta ngồi xuống phía đối diện với Robert. - Nhưng mà ông 
				không đến đây để nói về sức khoẻ của tôi có phải không, hả? Ông 
				muốn biết ǵ nào? 
				- Tôi muốn nói chuyện với ông về những người khách đi trên chiếc 
				xe của ông hôm chủ nhật, mà ông dừng lại gần Uetendort nơi quả 
				bóng thám không đâm vào núi ấy. 
				Hans Beckerman nh́n anh cḥng chọc. 
				- Bóng thám không nào? Ông nói chuyện ǵ vậy? 
				- Quả bóng mà… 
				- Ông nói con tàu không gian ấy ư? 
				Đến lượt Robert kinh ngạc. 
				- Tàu… không gian? 
				- Phải, một cái đĩa bay. 
				Phải mất một giây để những lời nầy được cảm nhận hết. Robert 
				thấy ớn lạnh một cách đột ngột. 
				- Có phải ông đang nói với tôi là ông đă nh́n thấy một cái đĩa 
				bay không? 
				- Phảỉ. Với những xác chết trong đó. 
				"Ngày hôm qua, ở vùng núi Alps, Thuỵ Sĩ, một quả bóng thám 
				không thời tiết của NATO đâm vào núi, có một vài dụng cụ thí 
				nghiệm quân sự tối mật trên quả cầu đó". 
				Robert phải rất cố gắng để giữ vẻ b́nh tĩnh. 
				Ông Beckerman, ông có chắc chắn cái mà ông đă nh́n thấy là một 
				đĩa bay không hả? 
				- Tất nhiên. Cái mà họ gọi là một vật thể bay lạ. 
				- Và có những người chết ở trong đó? 
				- Không phải là người, không phải. Những sinh vật. Rất khó mô tả 
				họ. - Ông ta hơi rùng ḿnh. - Họ rất nhỏ với những đôi mắt to, 
				rất lạ. Họ mặc những bộ quần áo có màu kim loại bạc. Trông rất 
				sợ. 
				Robert lắng nghe, đầu óc anh rối bời. 
				- Những hành khách của ông có trông thấy không? 
				- Ồ có. Tất cả chúng tôi đều trông thấy. Tôi đă dừng ở đó có tới 
				mười lăm phút ấy. Họ muốn chúng tôi dừng lại lâu hơn, nhưng hăng 
				luôn rất nghiêm ngặt về lịch tŕnh. 
				Robert biết câu hỏi là vô ích thậm chí trước cả lúc anh nói ra. 
				- Ông Beckerman, ông có biết tên của một hành khác nào trong số 
				đó không? 
				- Thưa ông, tôi là người lái xe. Hành khách mua vé ở Zurich và 
				chúng tôi đưa họ đi về phia táy nam đến Interlaken và rồi theo 
				hướng tây-bắc tơi Bern. Họ có thể hoặc là xuống Bern, hoặc trở 
				về Zurich. Không ai cho biết tên cả. 
				- Ông không có cách nào để nhận diện bất kỳ ai trong số họ à? - 
				Robert nói một cách tuyệt vọng. 
				Người lái xe bus ngẫm nghĩ giây lát. 
				- Ồ tôi có thể nói với ông là trên thuyến đó không có trẻ em. 
				Toàn đàn ông. 
				- Chỉ có đàn ông thôi hả? 
				Beckerman ngẫm nghĩ. 
				- Không, không phải thế. Cũng có một phụ nữ. 
				Kinh khủng. Điều đó thật sự thu hẹp thêm khả năng t́m kiếm, 
				Robert nghĩ. Câu hỏi tiếp theo: Quái quỷ thế nào mà ḿnh lại 
				nhận cái nhiệm vụ nầy cơ chứ? 
				- Ông Beckerman, ông đang nói là một nhóm du khách lên chiếc xe 
				bus của ông ở Zurich và rồi khi chuyến đi kết thúc th́ đơn thuần 
				là họ tản đi có phải vậy không? 
				- Đúng thế, ông Smith. 
				Vậy là thậm chí không có cả cái đống cỏ khô. 
				- Ông có nhớ bất kỳ điều ǵ về số hành khách không? Bất kỳ điều 
				ǵ họ đă nói hoặc làm? 
				Beckerman lắc đầu. 
				- Thưa ông, để ư đến họ làm ǵ, miễn là được trả tiền thôi chứ. 
				Trừ phi họ gây rắc rối ǵ. Như cái ông người Đức đó. 
				Robert ngồi im phăng phắc. Anh nhẹ nhàng hỏi: 
				- Người Đức nào? 
				- Tất cả những hành khách khác đều hứng thú xem cái vật thể bay 
				lạ kia và những sinh vật chết trong đó, thế mà cái lăo già nầy 
				cứ phàn nàn đ̣i chúng tôi phải nhanh lên để đến Bern v́ lăo ta 
				phải chuẩn bị bài giảng ǵ đó cho trường đại học vào buổi sáng… 
				Mọi sự bắt đầu đây. 
				- Ông có c̣n nhớ ǵ khác về ông ta không? 
				- Không. 
				- Không ǵ cả ư? 
				- Ông ta mặc một cái áo choàng màu đen. 
				Tuyệt. 
				- Ông Beckerman nầy, tôi muốn nhờ ông một việc. Ông có thể chở 
				tôi đến Uctendort được không? 
				- Hôm nay là ngày nghỉ của tôi. Tôi bận với… 
				- Tôi rất vui ḷng được trả công ông mà. 
				- Thế hả? 
				- Hai trăm đồng mác. 
				- Tôi không… 
				- Tôi sẽ trả bốn trăm mác. 
				Beckerman nghĩ một chút. 
				- Sao lại không nhỉ? Đi chơi hôm nay cũng đẹp trời đấy chứ? 
				Họ đi về phía nam, qua Luzern và những làng đẹp như tranh vẽ ở 
				Immensee và Meggen. Phong cảnh đẹp đến ngợp thở, nhưng đầu óc 
				Robert c̣n mải với những chuyện khác. 
				Họ chạy qua Engelberg, với tu viện cổ Benedictine, và Brunig, 
				con đèo dẫn tới vùng Interlaken. Xe họ băng qua Leissigen và 
				Faulensse, với một hồ lớn xanh thẳm điểm những cánh buồm trắng 
				xoá. 
				- C̣n bao xa nữa? - Robert hỏi. 
				- Sắp tới rồi, - Hans Beckerman hứa. 
				Sau khi chạy được gần một giờ th́ họ tới Spiez. 
				Hans Beckerman nói: 
				- Bây giờ th́ không c̣n xa nữa. Chỉ qua Thun là tới. 
				Robert cảm thấy tim ḿnh bắt đầu đập nhanh hơn. 
				- Anh sắp được chứng kiến một thứ ǵ đó vượt khỏi sức tưởng 
				tượng, những người khách xa lạ từ những hành tinh khác. Họ chạy 
				qua Thun, một ngôi làng nhỏ, và ít phút sau khi họ đến gần một 
				cánh rừng gần xa lộ Hans Beckerman đưa tay chỉ và nói: 
				- Kia, ḱa. 
				Robert đạp phanh và dừng lại bên đường. 
				- Bên kia ḱa. Sau những cái cây đó. 
				Robert thấy cái cảm giác hồi hộp mỗi lúc một tăng. 
				- Được. Chúng ta hăy nh́n xem. 
				Một chiếc xe vận tải chạy qua. Khi nó đi khỏi, Robert và Hans 
				Beckerman đi sang đường. Robert đi theo người lái xe bus ngược 
				lên một đoạn dốc dẫn tới cánh rừng. 
				Con đường đă hoàn toàn khuất khỏi tầm mắt. Lúc họ bước tới một 
				quăng trống, Beckerman lớn tiếng nói: 
				- Đúng chỗ nầy đây. 
				Nằm trên mặt đất phía trước họ là những mảnh vụn nát của một quả 
				bóng thám không. 
				 
				Chương 8 
				 
				 
				Ḿnh đă quá già trong nghề 
				nầy mất rồi, Robert mệt mỏi nghĩ. Ḿnh đă thực sự mê muội v́ câu 
				chuyện đĩa bay của hắn. 
				Hans Beckerman nh́n đăm đăm vào cái thứ đang nằm trên mặt đất, 
				một vẻ bối rối hiện lên trên gương mặt ông ta. 
				- Mẹ kiếp, không phải nó. 
				Robert thở dài. 
				- Không phải nó, có phải không? 
				Beckerman lắc đầu. 
				- Nó đă ở đây ngày hôm qua mà. 
				- Có thể là những người nhỏ bé màu xanh của ông đă chở nó đi rồi 
				đấy. 
				- Không, không. Họ chết cả rồi. - Beckerman khăng khăng. 
				Chết. Điều đó là lời kết luận chính xác cho cái sứ mệnh của 
				ḿnh. Đầu mối duy nhất của ḿnh là một thằng điên nh́n thấy 
				những con tàu không gian. 
				Robert bước đến bên mảnh quả cầu để xem xét nó một cách cẩn thận 
				hơn. Nó là một cái bao nhôm lớn có đường kính khoảng năm mét, 
				với những cạnh răng cưa nơi nó bị rách ra khi đâm xuống đất. Tất 
				cả các thiết bị đă được mang đi, đúng như tướng Hilliard đă nói 
				với anh. "Tôi không thể nào nói hết tầm quan trọng của những 
				ǵ chứa trong quả cầu đó" 
				Robert đi ṿng quanh quả cầu xẹp lép, sục mũi giầy trong đám cỏ 
				ướt t́m kiếm một dấu vết mờ nhạt nhất có thể có. Không có ǵ. Nó 
				giống hệt hàng chục quả bóng thám không thời tiết khác mà anh đă 
				từng nh́n thấy trong những năm qua. 
				Ông già vẫn không chịu đầu hàng, vẫn đầy cái vẻ ương ngạnh rất 
				Đức. "Những thứ lạ lùng đó… Họ làm chúng giống như thế nầy nầy. 
				Ông biết đấy, họ có thể làm được mọi thứ". 
				Không c̣n ǵ để làm ở đây nữa, Robert quyết định. 
				Bít tất của anh đă ướt hết v́ những đám cỏ ướt. Anh bước đến bên 
				cái vỏ quả cầu. 
				- Ông giúp tôi nâng cái góc nầy lên chứ? 
				Beckerman nh́n anh một chút, ngạc nhiên. 
				- Ông muốn tôi nâng nó lên ư? 
				- Phải. 
				Beckerman nhún vai. Ông ta cầm một góc của cái thứ vật liệu rất 
				nhẹ kia và nâng lên trong khi Robert nâng một góc khác. Anh nâng 
				mảnh nhôm lên cao quá đầu và bước vào phía trong. Hai chân anh 
				ngập trong cỏ. 
				- Ở dưới nầy cũng ướt. - Robert gọi với ra. 
				- Tất nhiên. Trời mưa suốt cả ngày hôm qua. Toàn bộ mặt đất đều 
				ướt. 
				Robert từ bên dưới quả cầu chui ra. 
				- Đáng ra nó phải khô. 
				"Thời tiết điên rồ, viên phi công nói. "Chủ nhật 
				trời nắng?" Đó là ngày quả cầu đâm xuống đất. Mưa suốt ngày 
				hôm nay và đêm lại quang đăng. Ở đây ông không cần đến đồng hồ 
				đâu. Cái mà ông thật sự cần là một cái phong vũ biểu. 
				- Cái ǵ hả? 
				- Thời tiết thế nào khi ông ta nh́n thấy cái vật thể bay lạ? 
				Beckerman ngẫm nghĩ một lát. 
				- Đó là một buổi chiều đẹp trời. 
				- Trời nắng chứ? 
				- Vâng. Trời nắng. 
				- Nhưng trời mưa suốt cả ngày hôm qua phải không? 
				Beckerman nh́n anh, khó hiều. 
				- Vậy th́ sao? 
				- Vậy th́ nếu quả câu nầy ở đây suốt đêm, mặt đất bên dưới nó 
				phải khô, hoặc cùng lắm là ẩm thôi do sự thẩm thấu. Thế nhưng nó 
				lại ướt đẫm, giống như phần c̣n lại ở khu vực nầy. 
				Beckerman ngẩn ra. 
				- Tôi không hiểu. Điều đó có nghĩa là thế nào? 
				- Nó có thể có nghĩa là, - Robert nói một cách thận trọng, - ai 
				đó đă đặt quả cầu nầy ở đây ngày hôm qua sau khi trời đă bắt đầu 
				mưa và mang đi cái mà ông đă nh́n thấy. 
				Hay có cách giải thích nào đó điên rồ hơn mà anh chưa nghĩ tới? 
				Ai lại làm một cái việc điên khùng như vậy? 
				Không điên đến thế đâu, Robert nghĩ. Chính phủ Thuỵ Sĩ có thể đă 
				làm việc nầy để đánh lừa bất kỳ một vị khách ṭ ṃ nào. Cái mẹo 
				đầu tiên cửa một việc bưng bít là tưng tin giả. Robert bước qua 
				đám cỏ ướt chăm chú nh́n mặt đất và tự mắng ḿnh là một kẻ khờ 
				dại cả tin. 
				Hans Beckerman nghi hoặc nh́n Robert. 
				- Nầy ông, ông nói là ông viết cho tạp chí nào nhỉ? 
				- Du lịch và Sự thanh thản. 
				Hans Beckerman mừng rỡ. 
				- Ồ. Vậy th́ tôi cho rằng ông sẽ muốn chụp ảnh tôi giống như cái 
				thằng cha kia. 
				- Cái ǵ? 
				- Cái tay chụp ảnh đă chụp h́nh bọn tôi ấy mà. 
				- Ông đang nói đến ai vậy? - Robert cau mầy. 
				Cái tay chụp ảnh. Tay đó đă chụp ảnh cho chúng tôi trước cái xác 
				con tàu. Hắn ta nói sẽ gửi cho chúng tôi mỗi người một tấm. Một 
				vài người khách khác cũng có máy ảnh. 
				Robert nói từ tốn: 
				- Hăy khoan nào. Ông đang nói là có ai đó đă chụp h́nh các du 
				khách kia ở đây ngay trước cái vật thể bay lạ phải không? 
				- Đó chính là điều tôi đang nói với ông đấy. 
				- Và ông ta hứa gửi cho mỗi người các ông một tấm ảnh? 
				- Đúng vậy. 
				- Vậy th́ ông ta hẳn phải lấy tên và địa chỉ của các ông chứ? 
				- Ồ tất nhiên. Nếu không th́ ông ta biết gửi chúng đi như thế 
				nào được? 
				Robert đứng lặng người, toàn thân nóng bừng bừng. 
				Sự t́nh cờ tuyệt vời, Robert, mi là một thằng không may mắn. Một 
				sứ mạng bất khả thi bỗng đột ngột trở thành một miếng bánh. Anh 
				không c̣n phải đi t́m bẩy du khách vô danh kia nữa. Tất cả những 
				ǵ mà anh phải làm là t́m tay chụp ảnh. 
				 
				o0o 
				 
				- Sao lúc trước ông không nhắc đến ông ta, ông Beckerman? 
				- Ông hỏi tôi về những hành khách kia mà. 
				- Ư ông nói ông ta không phải là một hành khách của ông à? 
				Hans Beckerman lắc đầu. 
				- Không - Ông ta chỉ tay. - Xe của ông ta bị chết máy phía bên 
				kia xa lộ. Một chiếc xe cẩu đang sắp sửa lôi nó đi th́ xảy ra vụ 
				nầy với chấn động mạnh, và ông ta chạy sang đường để xem có 
				chuyện ǵ xảy ra. Khi nh́n thấy nó, ông ta trở về xe, chộp lấy 
				máy ảnh và quay trở lại. Thế rồi ông ta bảo tất cả chúng tôi 
				đứng vào để chụp h́nh trước cái đĩa bay đó. 
				Cái người chụp ảnh đó có nói tên với ông không? 
				- Không. 
				- Ông có nhớ ǵ về ông ta không? 
				Hans Beckerman cố tập trung trí nhớ. 
				- Ồ, ông ta là một người ngoại quốc. Người Mỹ hoặc Anh. 
				- Ông nói là một chiếc xe cẩu đă sẵn sàng lôi xe của ông ta đi? 
				Đúng thế. 
				- Ông có nhớ chiếc xe cẩu chạy đi đường nào không? 
				- Phía bắc. Tôi đoán rằng ông ta mang nó đi Bern. Thun th́ gần 
				hơn nhưng vào chủ nhật th́ mọi ga-ra ở Thun đều đóng cửa. 
				- Cám ơn ông. Ông đă giúp tôi rất nhiều. - Robert mỉm cười. 
				- Ông sẽ không quên gửi cho tôi bài báo của ông sau khi kết thúc 
				chứ? 
				- Không. Đây là tiền của ông và thêm một trăm mác cho sự giúp đỡ 
				của ông. Tôi sẽ đưa ông về nhà. 
				Họ đi về xe. Khi Beckerman mở cửa xe, ông ta dừng lại và quay 
				sang Robert. 
				- Ông thật là hào phóng. - Ông ta móc trong túi ra một miếng kim 
				loại nhỏ h́nh vuông, cỡ bằng cái bật lửa, có chứa một tinh thể 
				màu trắng nhỏ xíu. 
				- Cái ǵ thế nầy? 
				- Tôi đă thấy nó trên mặt đất hôm chủ nhật trước lúc chúng tôi 
				quay lại xe. 
				Robert xem xét cái vật lạ lùng kia. Nó nhẹ như giấy và có màu 
				của cát. Một cạnh ráp của nó cho thấy nó có thể là một phần của 
				bộ phận khác. Một phần của cái thiết bị chứa trong quả bóng thám 
				không kia? Hay một phần của một vật thể bay lạ? 
				- Có thể nó sẽ mang lại may mắn cho ông, - Beckerman nói trong 
				lúc ông ta đang xếp những đồng tiền mà Robert vừa đưa cho ông ta 
				vào ví. - Với tôi th́ đă hẳn là thế rồi. - Ông ta ngoác miệng 
				cười và chui vào xe. 
				 
				o0o 
				 
				Đă đến lúc phải tự hỏi ḿnh một câu hỏi nghiêm túc: Ḿnh có thật 
				sự tin có những vật thể bay lạ không? Anh đă đọc nhiều bài báo 
				điên rồ của những g người nói là họ đă thấy những con tàu không 
				gian và đủ loại chuyện kỳ quặc khác và anh đă thường gắn những 
				tin tức nầy với những người hoặc là t́m kiếm sự nổi tiếng hoặc 
				là cần phải tự t́m đến sự giúp đỡ của một bác sĩ tâm thần giỏi. 
				Nhưng trong mấy năm gần đây, có những tin tức không dễ ǵ bác bỏ 
				được. Các tin tức về việc nh́n thấy các vật thể bay lạ bởi các 
				nhà du hành vũ trụ, các phi công quân sự các viên chức cảnh sát, 
				những người có uy tín những người né tránh sự xuất hiện trước 
				công chúng. 
				Thêm vào đó là tin đáng quan ngại về một vật thể lạ đâm xuống 
				Roswell bang New Mexico, nơi dường như đă t́m thấy xác của những 
				sinh vật lạ. Chính phủ bị cho là đă bưng bít chuyện đó và đă 
				mang đi mọi bằng chứng. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, các 
				phi công đă báo cáo về việc nh́n thấy những thứ lạ lùng mà họ 
				gọi là những chiếc máy bay tiêm kích Foo, những vật thể bay 
				không xác định được lai lịch bay sát tới họ và rồi biến mất. Có 
				những câu chuyện về những thị trấn được viếng thăm bởi những vật 
				thể không giải thích được từ trên trời bay vút xuống. Nếu thật 
				sự có những sinh vật lạ trong các vật thể bay lạ từ một hệ mặt 
				trời khác đến th́ sao? Robert phân vân. Điều đó sẽ ảnh hưởng thế 
				nào đến thế giới của chúng ta? Liệu điều đó sẽ có nghĩa là hoà 
				b́nh? Chiến tranh? Sự chấm dứt của nền vản minh mà chúng ta đă 
				biết chăng? Anh thấy minh phần nào mong rằng Hans Beckerman là 
				một kẻ ngớ ngẩn điên rồ, và thật sự là quả bóng thám không thời 
				tiết đă đâm xuống đất. Anh sẽ phải t́m một nhân chứng khác để 
				hoặc là xác nhận câu chuyện của Beckerman hoặc là bác bỏ nó. 
				Nh́n bề ngoài, câu chuyện dường như không thể tin được, thế 
				nhưng có một điều ǵ đó làm bận tâm Robert: Giá như nó chỉ là 
				một quả bóng thám không gặp nạn, thậm chí nó có mang những thiết 
				bị đặc biệt chăng nữa, v́ sao ḿnh lại bị gọi đến một cuộc gặp 
				gỡ tại NSA vào lúc 6 giờ sáng và được cho biết điều khẩn cấp là 
				phải nhanh chóng t́m ra tất cả các nhân chứng? Có một vụ bưng 
				bít nào không? 
				Và nếu vậy th́ v́ sao? 
				 
				Chương 9 
				 
				 
				Cuối ngày hôm đó, một cuộc 
				họp báo được tổ chức tại Geneva, trong khu văn pḥng giản dị của 
				Bộ Nội vụ Thuỵ Sĩ. Có tới hơn năm chục phóng viên có mặt trong 
				pḥng và cả một đám đông ở ngoài hành lang. Có các đại diện phát 
				thanh, truyền h́nh và báo chí từ hơn một chục nước, nhiều người 
				trong số họ lỉnh kỉnh với micrô và các thiết bị ghi h́nh. Dường 
				như tất cả bọn họ đều đang cất tiếng cùng một lúc. 
				- Chúng tôi nghe tin tức nói rằng đó không phải là một quả bóng 
				thám không thời tiết… 
				- Có phải đó là một cái đĩa bay không? 
				- Tin đồn rằng cô những xác chết lạ ở trên con tàu… 
				- Có phải một sinh vật lạ c̣n sống không? 
				- Phải chăng chính phủ đang t́m cách che giấu sự thật trước nhân 
				dân? 
				Vị quan chức báo chí cất cao giọng để lấy lại trật tự: 
				- Thưa các quư vị, đă có một sự hiểu lầm đơn giản. Chúng tôi 
				liên tục nhận được những cú điện thoại kiểu nầy. Người ta nh́n 
				thấy những vệ tinh, sao băng… Chẳng nhẽ không phải là thú vị sao 
				khi mà những tin tức về các vật thể bay lạ luôn luôn được đưa ra 
				dưới dạng nặc danh? Có thể người báo tin nầy thật sự tin đó là 
				một vật thể bay lạ, nhưng trên thực tế, chỉ là một quả bóng thám 
				không bị rớt xuống mặt đất. Chúng tôi đă thu xếp phương tiện để 
				đưa các bạn tới đó. Xin mời quư vị theo tôi… 
				Mười lăm phút sau, hai xe bus chở đầy các phóng viên và các 
				camera ghi h́nh đă lên đường đi Uctendort để mục kích những ǵ 
				c̣n lại của vụ tai nạn bóng thám không? Khi tới nơi, họ đứng 
				trong đám cỏ ướt xem xét cái vỏ kim loại rách toác. Vị quan chức 
				báo chí nói: 
				- Đây là cái đĩa bay bí ẩn của các vị. Nó đă xuất phát từ căn cứ 
				không quân của chúng tôi ở Vevey. Theo chỗ chúng tôi biết, thưa 
				quư vị, không hề có những vật thể bay lạ mà chính phủ chúng tôi 
				không thể giải thích một cách xác đáng và cũng theo chỗ chúng 
				tôi biết, không có bất kỳ một vị khách lạ nào tới thăm chúng ta. 
				Chính sách dứt khoát của chính phủ chúng tôi là nếu như thu được 
				bất kỳ băng chứng nào về vấn đề nầy, lập tức chúng tôi sẽ để 
				điều đó trở thành thông tin đại chúng. Nếu như không c̣n câu hỏi 
				nào nữa… 
				 
				Chương 10 
				 
				 
				Nhà để máy bay số 17 tại 
				căn cứ không quân Langley ở bang Virginia được khoá kín và bảo 
				vệ nghiêm ngặt. Bên ngoài, bốn lính thuỷ đánh bộ canh gác toà 
				nhà và bên trong, ba sĩ quan cấp cao của Lục quân luân phiên 
				nhau mỗi người tám giờ canh gác một căn pḥng luôn đóng kín. 
				Không một sĩ quan nào biết anh ta đang canh gác cái ǵ. Ngoài 
				các nhà khoa học và các bác sĩ đang làm việc trong đỏ, chỉ có ba 
				người khách được phép bước vào căn pḥng đóng kín kia. 
				Vị khách thứ tư vừa mới tới. Ông ta được thiếu tướng Paxton, 
				người phụ trách an mnh, ra đón. 
				- Xin mời thăm chuồng thú của chúng tôi. 
				- Tôi đă rất mong đợi điều đó. 
				- Ông sẽ không phải thất vọng. Xin đi lối nầy. 
				Bên ngoà́ cửa pḥng đóng kín là một cái giá với bốn bộ quần áo 
				khử trùng, trắng tinh có thể bao kín toàn bộ cơ thể. 
				- Xin ông vui ḷng mặc lên người cho! - Viên tướng nói. 
				- Tất nhiên rồi. - Janus chui người vào trong bộ quần áo. Chỉ 
				c̣n có thể thấy mặt ông ta qua tấm che mặt bằng kính. Ông ta 
				mang hai cái ủng trắng to tướng ra bên ngoài đôi giày của ḿnh 
				và viên tưóng dẫn ông ta tới cửa căn pḥng đóng kín kia. Người 
				lính gác đứng tránh sang một bên, và viên tướng mở cửa. 
				- Trong nầy đây. 
				Janus bước vào pḥng và nh́n quanh. Ở chính giữa pḥng là chiếc 
				phi thuyền không gian. Trên những chiếc bàn mổ ở phía bên là xác 
				của hai sinh vật lạ. 
				Một nhà nghiên cứu bệnh học đang thực hiện một ca giải phẫu trên 
				một trong hai cái xác. 
				Tướng Paxton hướng sự chú ư của vị khách tới chiếc phi thuyền. 
				- Chúng tôi đang xem xét ở đây cái mà chúng tôi cho là một con 
				tàu do thám, - tướng Paxton giải thích. - Chúng tôi tin chắc 
				rằng nó có một kênh liên lạc trực tiếp nào đó với phi thuyền mẹ. 
				Hai người bước lại gần hơn để xem xét. Đường kính của nó xấp xỉ 
				chục mét. Phần bên trong có h́nh dạng như một viên ngọc với cái 
				trần có thể mở rộng ra được và ba cái đi văng giống như những 
				chiếc ghế bố phân vách được phủ bằng những tấm panen có gắn 
				những đĩa kim loại rung. 
				- Có rất nhiều thứ chúng tôi chưa thể hiểu được, - tướng Paxton 
				thú nhận. - Nhưng mà những ǵ chúng tôi đă biết th́ thật đáng 
				ngạc nhiên - Ông ta chỉ một dăy thiết bị trên những tấm panen 
				nhỏ. - Đó là một hệ thống kính quang học mạch liên hợp có góc 
				nh́n rộng, có vẻ là một hệ thống ḍ t́m sự sống, một hệ thống 
				dẫn đường mà nói thẳng ra là nó khiến chúng ta mù tịt và một hệ 
				thống thông tin có khả năng tổng hợp ngôn ngữ. Chúng tôi nghĩ là 
				nó hoạt động bằng một dạng năng lượng điện từ trường nào đó. 
				- Có vũ khí nào trên đó không? - Janus hỏi. 
				Tướng Paxton giang rộng hai tay trong một cử chỉ tỏ ư thất bại. 
				- Chúng tôi không rơ. Có rất nhiều thiết bị trên đó mà chúng tôi 
				chưa hiểu. 
				- C̣n nguồn năng lượng th́ sao? 
				- Phán đoán cao nhất của chúng tôi là nó sử dụng hyđrô đơn 
				nguyên tử trong một mạch kín để chất thải của nó, nước, có thể 
				được liên tục tái chế thành hyđrô sản sinh năng lượng. Với nguồn 
				năng lượng vĩnh viên ấy nó có thể thoải mái bay trong khoảng 
				không gian liên hành tinh. Có thể phải mất nhiều năm chúng ta 
				mới biết hết những bí mật ở đây. Và c̣n có một điều kinh ngạc 
				nữa. Xác chết của hai sinh vật lạ được chằng trên ghế của họ. 
				Nhưng những vết lơm ở trên ghế thứ ba cho thấy nó cũng có một 
				chủ nhân. 
				- Ông đang nói, - Janus từ tốn hỏi, - rằng có thể một sinh vật 
				đang mất tích ư? 
				- Dường như chắc chắn là thế. 
				Janus đứng yên với một thoáng chau mầy. 
				- Chúng ta hăy nh́n các kẻ xâm nhập nầy một chút. 
				Hai người bước lại những chiếc bàn trên đó có xác hai sinh vật 
				lạ. Janus đứng nh́n chằm chằm vào những h́nh thù kỳ dị kia. Thật 
				khó tin là những sinh vật có trí tuệ. Trán của chúng lớn hơn mức 
				ông ta tưởng. Họ đều hói đầu và không có lông mi cũng như lông 
				mày. Mắt của họ trông giống như những quả bóng bàn vậy. 
				Người bác sĩ đang tiến hành phẫu thuật ngẩng lên khi hai người 
				bước lại. 
				- Thật kỳ lạ, - Ông ta nói. - Một bàn tay đă được cắt khỏi thân 
				thể một trong hai sinh vật lạ. Không hề thấy có máu, nhưng ở 
				trong những ống, có thể là mạch ven, có một chất lỏng màu xanh. 
				Phần lớn đă chảy hết ra ngoài. 
				- Một chất lỏng màu xanh à? - Janus hỏi. 
				- Phải, - Người bác sĩ lương lự. - Chúng tôi cho là những sinh 
				vật nầy là một dạng của đời sống thực vật. 
				- Một loài thực vật biết nghĩ ư? Ông nói nghiêm túc đấy chứ? 
				- Hăy nh́n cái nầy. - Người bác sĩ nhấc một can nước và dội lên 
				cánh tay của sinh vật đă mất một bàn tay. Trong khoảnh khắc, 
				không có chuyện ǵ xảy ra. Và rồi bỗng nhiên, tại đầu cụt của 
				cánh tay, một thứ chất màu xanh lục ứa ra và từ từ h́nh thành 
				một bàn tay. 
				Hai người nh́n chết lặng. 
				- Giêxu. Những sinh vật nầy đă chết hay chưa thế nầy? 
				Đó là một câu hỏi thú vị. Những cơ thể nầy không c̣n sống, theo 
				cảm nhận của con người, thế nhưng chúng cũng không phù hợp với 
				định nghĩa về sự chết. 
				- Tôi chỉ cho là họ đang ở trạng thái ngủ đông mà thôi. 
				Janus vẫn đang nh́n đăm đăm vào cái bàn tay vừa được h́nh thành. 
				- Nhiều thực vật cho thấy các dạng thông minh khác nhau. 
				- Thông minh ư? 
				- Ồ phải. Có những loài cây tự nguy trang ḿnh, tự bảo vệ bản 
				thân chúng. Lúc nầy, chúng ta đang có những thí nghiệm kinh 
				hoàng về đời sống thực vật. 
				- Tôi muốn được xem những thí nghiệm đó. - Janus nói. 
				- Được thôi. Tôi sẵn sàng thu xếp. 
				 
				o0o 
				 
				Căn nhà kính thí nghiệm khổng lồ nằm trong một khu liên hợp của 
				chính phủ cách Washington 30 dặm. 
				Trên tường là một tấm biển đề: 
				"Những cây thích và những cây dương xỉ vẫn không hề mục nát, 
				Tuy nhiên, không có ǵ phải nghi ngờ khi chúng bừng tỉnh. Chúng 
				cũng sẽ nguyền rủa và thề nguyện. Ralph Waldo Emerson Thiên 
				nhiên, 1836."  
				Giáo sư Rachman, người phụ trách khu liên hợp nầy là một ông 
				thần giữ của sốt sắng, đầy nhiệt huyết với nghề nghiệp của ḿnh. 
				- Chính Charles Darwin là người đầu tiên nhận biết được khả năng 
				suy nghĩ của cỏ. Luther Burbank đă tiếp nối bằng việc giao tiếp 
				với chúng. 
				- Ông có thật sự tin rằng có thể có điều đó không? 
				- Chúng tôi biết là có điều đó. George Washington Carver đă 
				chuyện tṛ với cây cối và chúng đă cho ông hàng trăm sản phẩm 
				mới. Carver nói. Khi tôi chạm vào một bông hoa, nghĩa là tôi 
				đang chạm vào Thượng đế. Nhưng bông hoa có mặt trước loài người 
				từ lâu trên trái đất nầy, và chúng sẽ tiếp tục tồn tại hàng 
				triệu năm sau loài người. Qua loài hoa, tôi nói chuyện với 
				Thượng đế… 
				Janus nh́n quanh ngôi nhà kính lớn mà họ đang đứng ở bên trong. 
				Những cây cỏ và các loài hoa lạ làm khu nhà ngập trong những sắc 
				màu rực rỡ của cầu vồng. Hương hoa pha quyện vào nhau, thơm 
				ngát. 
				- Tất cả những ǵ trong khu nhà nầy đếu sống động. - Giáo sư 
				Rachman nói. - Những cây cỏ nầy có thể cảm thấy yêu, ghét, đau 
				đớn và kích động… giống như những động vật. Ngài Jagadis Chandra 
				Bose đă chứng minh rằng chúng phản ứng với một giọng nói. 
				- Làm sao người ta có thể chứng minh điều đó? - Janus hỏi. 
				- Tôi sẽ sẵn sàng chứng minh cho ông thấy. - Racham bước đến bên 
				chiếc bàn chất đầy cây. Bên cạnh là một chiếc máy đo. Rachman 
				nhấc một đầu dây và cặp nó vào một cái cây. Kim trên đồng hồ của 
				máy ở vị trí không làm việc. 
				- Trông nầy, - Ông ta nói, rồi ghé lại gần cái cây hơn và th́ 
				thầm. - Ta nghĩ rằng mi rất đẹp. Mi đẹp hơn tất cả những cái cây 
				khác ở đây… 
				Janus thấy chiếc kim hơi dịch chuyển. 
				Đột nhiên, giáo sưa Rachman quát lên với cái cây: 
				- Mi thật là xấu. Mi sắp phải chết. Mi có nghe ta nói không? Mi 
				sắp phải chết. 
				Chiếc kim bắt đầu rung lên, rồi giật bắn lên trên. 
				- Lạy Chúa, - Janus nói. - Tôi không thể nào tin được. Điều mà 
				ông nh́n thấy, - Rachman nói, - tương tự như một con người bị 
				quát mắng. Các tạp chí quốc gia đều đă đăng những bài viết về 
				các thí nghiệm nầy. 
				Một trong những thí nghiệm hấp dẫn nhất là một thí nghiệm về khả 
				năng nh́n, được tiến hành với sáu sinh viên. Một trong số họ, 
				những người kia không biết, được chọn đi vào một căn pḥng có 
				hai cái cây, một cây được nối với máy đo. Cậu ta phá nát hoàn 
				toàn cái cây kia. Sau đó, từng người sinh viên một được yêu cầu 
				đi vào trong pḥng, bước ngang qua cái cây. 
				Khi những sinh viên vô tội đi vào, máy đo không ghi lại được ǵ 
				cả Nhưng đúng lúc kẻ có tội xuất hiện th́ kim trên máy đo vọt 
				lên. 
				- Thật không thể tin được. 
				- Nhưng đó là sự thật. Chúng ta cũng đă biết rằng cây cối có 
				phản ứng với các loại âm nhạc khác nhau. 
				- Các loại khác nhau? 
				- Phải. Họ đă làm một thí nghiệm tại Đại học Temple Buell ở 
				Denver với những cây hoa khoẻ mạnh được đặt trong các lồng kính 
				riêng biệt. Nhạc rock gay gắt được truyền dẫn vào một lồng, nhạc 
				xita miền Đông Ấn Độ được truyền dẫn vào một lồng, và lồng thứ 
				ba không có âm nhạc ǵ hết. Một kíp ghi h́nh của hăng CBS đă ghi 
				lại thí nghiệm nầy với kỹ thuật chụp h́nh cách quăng. Vào cuối 
				tuần thứ hai, những cây hoa được nghe nhạc rock đă chết, nhóm 
				không có nhạc th́ phát triển b́nh thường và nhóm nghe nhạc xita 
				th́ nở rộ với hoa và cành vươn cả về phía phát ra tiếng nhạc. 
				Walter Cronkite đă cho chiếu bộ phim trên chương tŕnh của ông 
				ta. Nếu như ông muốn kiểm tra, bộ phim đó được chiếu ngày 26 
				tháng 10 năm 1970. 
				- Ông đang nói là cây cối cũng có một sự thông minh nào đó phải 
				không? 
				- Chúng thở, ăn và sinh sản. Chúng có thể cảm thấy đau và chúng 
				có thể có các biện pháp tự vệ chống lại những kẻ thù của ḿnh. 
				Thí dụ, một số loài cây tiết ra một thứ độc tố để đầu độc vùng 
				đất xung quanh nó và nhờ vậy, ngăn chặn những kẻ cạnh tranh. Một 
				số loài khác th́ tiết ra những chất kiềm để làm cho chúng trở 
				nên không thể chấp nhận được đối với các loại côn trùng. Chúng 
				tôi đă chứng minh được rằng cây cỏ giao tiếp với nhau được ở mức 
				nào đó. 
				- Có. Tôi có nghe chuyện đó. - Janus nói. 
				- Một vài loài cây là những loài ăn thịt. Chẳng hạn như cây bắt 
				ruồi. Một số loài phong lan có vẻ ngoài và mùi giống như những 
				con ong cái để bắt những con ong đực. Những giống khác th́ lại 
				giống những con ong bắp cày cái để lôi cuốn những con ong bắp 
				cày đực t́m đến thụ phấn cho chúng. Một loài phong lan khác lại 
				có mùi như mùi thịt ôi để dụ dỗ những con nhặng quanh đó đến với 
				chúng. 
				Janus lắng nghe từng lời. 
				- Có một loài hoa có một cánh phía trên có khớp nối và khi một 
				con ong đậu vào th́ cánh hoa đậy lại. Lối thoát duy nhất là một 
				lối nhỏ xíu dẫn ra phía sau và trong khi con ong loay hoay để 
				thoát ra th́ nó đă phải mang theo một chút phấn hoa. Có tới năm 
				ngh́n loài cây hoa mọc ở vùng Đông Bắc và mỗi loài lại có những 
				đặc tính riêng. Việc cây cỏ có khả năng suy nghĩ đă được chứng 
				tỏ nhiều lần. 
				Janus đang ngẫm nghĩ: Và sinh vật mất tích kia đang lấn khuất 
				đâu đó. 
				
				
				
				 
				Chương 11 
				 
				 
				Ngày thứ ba, Bern, 
				Thuỵ Sĩ 
				Thứ tư ngày 17 tháng Mười 
				Bern là một trong những thành phố mà Robert yêu thích nhất. Nó 
				duyên dáng, đầy những tượng đài thật đáng yêu và những ngôi nhà 
				cổ bằng đá tuyệt đẹp được xây dựng từ hồi thế kỷ 18. Nó là thủ 
				đô của Thuỵ Sĩ, là một trong những thành phố phồn vinh nhất của 
				nước nầy, và Robert cứ băn khoăn không biết những chiếc xe điện 
				màu xanh lá cây có liên quan ǵ tới màu sắc của đồng tiền không. 
				Anh thấy rằng người dân ở Bern dễ chịu hơn những người dân ở các 
				vùng khác của Thuỵ Sĩ. Họ đi lại khoan thai hơn, nói năng chậm 
				răi hơn và nh́n chung là điềm đạm hơn. Trước đây anh đă có mấy 
				lần làm việc ở Bern với Cục An ninh Thuỵ Sĩ, trong trụ sở 
				Waisenhauspoatz của họ. Anh có bạn bè có thể giúp ích ở đó, 
				nhưng những chl thị đối với anh là rơ ràng. 
				Khó hiểu, nhưng rơ ràng. Phải mất mười lăm phút gọi điện thoại 
				Robert mới t́m ra được cái gara đă chữa xe của tay thợ ảnh kia. 
				Đó là một xưởng nhỏ ở Fribourgstrasse, và người thợ máy, Fritz 
				Mandel, cũng đồng thời là ông chủ. Mandel có lẽ vào cuối tuổi 
				bốn mươi, với một khuôn mặt dễ sợ, đầy mụn trứng cá, một thân 
				h́nh gầy g̣ và một cái bụng phệ ra v́ bia. Khi Robert đến, ông 
				ta đang làm việc trong cái kho chứa dầu mỡ. 
				- Xin chào, - Robert lên tiếng. 
				Mandel ngẩng lên. 
				- Xin chào. Tôi có thể làm ǵ cho ông? 
				- Tôi quan tâm tới một chiếc xe mà ông đă mang về đây hôm chủ 
				nhật. 
				- Đợi một chút, để tôi làm xong cái nầy đă. 
				Mười phút sau, Mandel chui ra và chùi hai bàn tay đầy dầu mỡ vào 
				một cái giẻ bẩn thỉu. 
				- Chính ông là người đă gọi điện sáng nay? Có chuyện phàn nàn về 
				việc ấy à? - Mandel hỏi. - Tôi không chịu trách nhiệm về… 
				- Không, - Robert đảm bảo với ông ta. - Không có ǵ cả. Tôi đang 
				tiến hành một điều tra và tôi quan tâm tới người lái chiếc xe 
				đó. 
				- Mời vào văn pḥng! 
				Hai người đi vào một văn pḥng nhỏ và Mandel mở một tủ đựng giấy 
				tờ. 
				- Ông nói chủ nhật trước à? 
				- Đúng vậy. 
				Mandel lấy ra một tấm các. 
				- À! Cái tay đă chụp tấm h́nh trước cái vật thể bay lạ đó chứ 
				ǵ. 
				Hai bàn tay Robert chợt ướt đẫm mồ hôi. 
				- Ông đă nh́n thấy cái vật thể bay lạ đó à? 
				- Phải. Tôi gần như chết lặng. 
				- Ông có thể mô tả lại không? 
				Mandel nhún vai. 
				- Nó - nó dường như đang hoạt động. 
				- Ông nói ǵ cơ? 
				- Ư tôi nói, có một thứ ánh sáng quanh nó. Nó liên tục thay đổi 
				màu sắc. Nó có màu xanh da trời… rồi xanh lục trong không biết. 
				Rất khó mô tả. Và có những sinh vật nhỏ bé trong đó. Không phải 
				là con người, nhưng… - Ông ta ngừng bặt. 
				- Bao nhiêu? 
				- Hai. 
				- Họ c̣n sống không? 
				- Tôi thấy họ như đă chết. - Ông ta nhíu mầy. - Tôi sung sướng 
				là ông đă tin tôi. Tôi đă nói với bạn bè, song họ đều cười nhạo 
				tôi. Ngay cả vợ tôi cũng nghĩ là tôi đă say. Nhưng mà tôi biết 
				tôi đă nh́n thấy ǵ chứ. 
				- Về cái xe mà ông đă kéo đi… - Robert nói. 
				- À. Chiếc Renault. Nó bị chảy dầu và những đệm lót bị cháy. 
				Việc kéo nó đi phải trả một trăm hai mươi lăm francs. Chủ nhật, 
				tôi tính gấp đôi. 
				- Người lái xe trả bằng séc hay thẻ tín dụng hả? 
				- Tôi không nhận séc cũng như thẻ tín dụng. Anh ta trả bằng tiền 
				mặt. 
				- Francs Thuỵ Sĩ chứ? 
				- Đồng bảng. 
				- Ông có chắc không? 
				- Chắc. Tôi nhớ là đă phải kiểm tra tỉ giá hối đoái mà. 
				- Ông Mandel, ông có t́nh cờ biết ǵ về cái biển số của chiếc xe 
				đó không? 
				- Tất nhiên. - Mandel liếc nh́n tấm các. - Đó là một chiếc xe đi 
				thuê. Avis. Anh ta thuê nó ở Geneva. 
				- Ông có thể cho tôi cái số xe đó không? 
				- Được có ǵ đâu? Ông ta viết những con số lên một mẩu giấy và 
				trao nó cho Robert. - Mà có chuyện ǵ vậy? Cái vật thể bay lạ 
				kia à? 
				- Không, - Robert nói với một giọng chân thành nhất. Anh móc ví 
				và lấy ra một tấm thẻ chứng minh. - Tôi ở IAC, Câu lạc bộ ô tô 
				Quốc tế. Hăng của tôi đang làm một nghiên cứu điều tra về những 
				xe kéo. 
				- Ồ. 
				 
				o0o 
				 
				Robert rời khỏi cái gara, trong ḷng bàng hoàng. 
				Có vẻ như chúng ta có trong tay một vật thể bay lạ khốn kiếp và 
				hai sinh vật lạ chết trên đó. Vậy th́ tại sao tướng Hilliard nói 
				dối anh khi mà ông ta biết Robert sẽ phát hiện rằng đó là một 
				chiếc đĩa bay bị đâm xuống đất? 
				Chỉ có thể có một lời giải thích, và đột nhiên Robert cảm thấy 
				rùng ḿnh ớn lạnh. 
				 
				Chương 12 
				 
				 
				Chiếc phi thuyền mẹ khổng 
				lộ lặng lẽ treo lơ lửng trong khoảng không gian vũ trụ tối sẫm, 
				dường như bất động, đang di chuyển với tốc độ hai mươi hai ngh́n 
				dặm một giờ, đồng bộ một cách chính xác với quỹ đạo của trái 
				đất. Sáu sinh vật lạ ở trên phi thuyền đang chăm chú lên chiếc 
				màn h́nh quang học có thị trường ba chiều chiếm cả một bức tường 
				của phi thuyền. 
				Trên màn h́nh, trong khi hành tinh trái đất quay, họ theo dơi 
				những h́nh ảnh tự động hiện lên về những ǵ ở phía dưới đồng 
				thời một máy quang phổ điện tử phân tích về thành phần hoá học 
				của những h́nh ảnh vừa xuất hiện. Bầu khí quyển của những vùng 
				đất mà họ đang bay qua bị ô nhiễm nặng nề. Những nhà máy lớn làm 
				bẩn không khí với những khí thải độc hại, dầy và đen đặc trong 
				khi những chất thải không thể bị phân huỷ nhờ vi khuẩn được đổ 
				đầy những băi thải và xuống biển. 
				Những sinh vật lạ nầy ch́m xuống những đại dương, đă có thời 
				hoang sơ và trong xanh, giờ đây đen ng̣m v́ dầu và nâu vàng v́ 
				những chất cặn bă. Mầu hồng rực của vùng Vách Chắn lớn đang ngả 
				sang trắng nhợt và hàng tỉ con cá đang chết dần chết ṃn. Nơi 
				cây cối bị chặt hạ ở vùng rừng nhiệt đới Amazon giờ đây là một 
				khoảng trống lớn, khô cằn. Những máy móc trên phi thuyền cho 
				thấy nhiệt độ ở trái đất đă tăng lên kể từ cuộc thám hiểm trước 
				của họ cách đây ba năm. Họ có thể nh́n thấy những cuộc chiến 
				tranh đang được tiến hành trên trái đất phía dưới, phun thêm 
				những chất độc mới vào bầu khí quyển. 
				Những sinh vật lạ nầy trao đổi với nhau bằng thần giao cách cảm. 
				- Con người trên trái đất đă không có ǵ thay đổi. 
				Thật đáng buồn. Họ đă không học được ǵ cả. 
				- Chúng ta sẽ dạy họ. 
				- Anh đă thứ liên lạc với những thành viên kia chưa? 
				- Rồi. Có chuyện trục trặc. Không có trả lời. 
				- Anh phải tiếp tục cố xem. 
				- Chúng ta phải t́m thấy con tàu. 
				Trên trái đất, phía dưới quỹ đạo của chiếc phi thuyền không 
				gian kia hàng cây số Robert đă đặt một cú điện thoại cho tướng 
				Hilliard từ một máy điện thoại an toàn. Dường như ông ta có mặt 
				ở đầu dây ngay lập tức. 
				- Xin chào ông sĩ quan ông có ǵ để báo cáo không hả? 
				Có. Tôi muốn nói rằng ông là một thằng chó đẻ dối trá. 
				- Về quả bóng thám không đó, thưa ngài… hoá ra đó có thể là một 
				vật thể bay lạ. 
				Anh chờ đợi. 
				- Phải, tôi biết. Có những lư do an ninh quan trọng mà tôi đă 
				không thể nào nói hết với anh trước đó. 
				Cái tṛ hai mặt quan cách. Một thoáng im lặng. 
				Tướng Hilliard nói: 
				- Ông sĩ quan, tôi sắp nói với ông một điều tuyệt mật. Cách đây 
				ba năm, chính phủ chúng ta đă phải đối mặt với những sinh vật 
				lạ. Họ đă hạ cánh xuống một trong những căn cứ thuộc khối NATO 
				của chúng ta. Chúng ta đă giao tiếp được với họ. 
				- Họ… họ đă nói ǵ ạ? - Robert cảm thấy tim ḿnh đập rộn lên. 
				- Họ nói rằng có ư định tiêu diệt chúng ta. 
				- Tiêu diệt chúng ta ư? - Anh cảm thấy rùng ḿnh. 
				- Đúng vậy. Họ nói sẽ trở lại để chiếm lấy hành tinh nầy và biến 
				chúng ta thành nô lệ, và rằng chúng ta không có cách ǵ để ngăn 
				cản họ được. Chưa có. Nhưng chúng ta đang t́m. Chính bởi vậy, 
				điều khẩn cấp là chúng ta phải tránh nỗi kinh hoàng cho dân 
				chúng và dành thêm thời gian. Tôi nghĩ là bây giờ th́ ông có thể 
				hiểu tầm quan trọng của việc không để các nhân chứng bàn luận về 
				những ǵ họ đă nh́n thấy. Nếu chuyện về họ được tiết lộ ra th́ 
				đó sẽ là một thảm hoạ đối với thế giới. 
				- Ngài không nghĩ rằng tốt hơn là chuẩn bị cho dân chúng và… 
				- Ông sĩ quan, vào năm 1938, một bác sĩ trẻ tên là Orson Welles 
				làm một vở kịch truyền thanh với cái tên "Chiến tranh giữa các 
				hành tinh" về chuyện những sinh vật lạ xâm lăng trái đất nầy. 
				Chỉ trong ṿng ít phút, đă có một sự hoảng sợ trong các thành 
				phố trên khắp nước Mỹ. Một bộ phận dân chúng quá khích đă t́m 
				cách chạy trốn khỏi những kẻ xâm lăng tưởng tượng kia. Các đường 
				liên lạc điện thoại bị nhiễu loạn, các xa lộ bị tắc nghẽn. Nhiều 
				người bị chết. Tất cả trở nên rối loạn. Không, chúng ta phải t́m 
				ra cách tiếp đón các sinh vật lạ kia trước khi công bố mọi 
				chuyện. Chúng tôi muốn ông t́m ra những nhân chứng kia là để bảo 
				vệ cho chính họ và để chúng ta có thể kiểm soát được t́nh h́nh. 
				- Vâng. Tôi… tôi hiểu. - Robert thấy ḿnh đang toát mồ hôi. 
				- Tốt. Tôi cho rằng ông đă nói chuyện với một trong số các nhân 
				chứng? 
				- Tôi đă t́m được hai trong số họ. 
				- Tên? 
				- Hans Beckerman. - Ông ta là người lái xe của chiếc xe bus du 
				lịch theo tuyến đó. Ông ta sống ở Kapel… 
				- Và người thứ hai? 
				- Fritz Mandel. Anh ta có một cái gara ở Bern. Anh ta chính là 
				người thợ máy đă kéo chiếc xe của nhân chứng thứ ba về xưởng. 
				- Tên của nhân chứng đó? 
				- Tôi chưa có. Tôi đang t́m kiếm. Ngài có muốn tôi nói chuyện 
				với họ về việc cần thiết phải im lặng về cái vật thể bay lạ nầy 
				không? 
				- Không. Nhiệm vụ của ông đơn thuần là t́m ra các nhân chứng. 
				Sau đó, chúng ta sẽ để các chính phủ của họ lo chuyện với từng 
				người. Ông đă biết có bao nhiêu nhân chứng chưa? 
				- Rồi. Bẩy hành khách cùng người lái xe, người thợ máy và một 
				người đi ô tô ngang qua. 
				Ông phải t́m ra tất cả bọn họ. Từng người trong số mười nhân 
				chứng đă mục kích vụ tại nạn. Rơ chưa? 
				- Rơ, thưa ngài. 
				Robert gác ống nghe, đầu óc rối bời. Những vật thể bay lạ là 
				chuyện có thật. Những sinh vật xa lạ kia là những kẻ thù. Tướng 
				Hilliard đă trao cho anh nhiệm vụ nầy nhưng đă không nói với anh 
				tất cả. Họ c̣n giấu anh điều ǵ nữa không nhỉ? 
				 
				o0o 
				 
				Hăng cho thuê xe hơi Avis đặt ở số 44 phố Lausanne ở trung tâm 
				Geneva. Robert xồng xộc đi vào và tiến tới trước một phụ nữ đang 
				ngồi sau bàn. 
				- Tôi có thể giúp ông chứ? 
				Robert ném mẩu giấy với số biển kiểm soát của chiếc xe Renault 
				được viết trên đó. 
				- Tuần trước, hăng cô đă cho thuê chiếc xe nầy. - Tôi muốn biết 
				tên cái người đă thuê nó. - Giọng anh đầy tức giận. 
				Cô nhân viên rúm người lại. 
				- Tôi xin lỗi, chúng tôi không được phép đưa ra các thông tin 
				đó. 
				- Ồ, thế th́ thật là quá tại hại, - Robert cáu kỉnh - bởi v́ 
				trong trường hợp đó, tôi sẽ phải kiện hăng của cô để đ̣i một 
				khoản tiền lớn. 
				- Tôi không hiểu. Có chuyện ǵ vậy? 
				- Tôi sẽ nói cho cô nghe có chuyện ǵ, cô gái. Chủ nhật tuần 
				trước chiếc xe nầy đă đâm vào tôi trên xa lộ và làm xe tôi hỏng 
				nặng. Tôi đă ghi lại được số xe của hắn ta, nhưng hắn th́ lái xe 
				chạy mất trước khi tôi có thể giữ được hắn. 
				- Tôi hiểu rồi. - Cô nhân viên nh́n Robert trong giây lát. - Xin 
				lỗi một chút. - Cô biến mất vào trong một căn pḥng phía sau. 
				Mấy phút sau cô quay lại, mang theo một hồ sơ. - Theo hồ sơ của 
				chúng tôi, có một trục trặc với động cơ của chiếc xe nầy, nhưng 
				không có báo cáo về bất kỳ một tai nạn nào. 
				- Ồ th́ bây giờ tôi đang báo cáo đây thôi. Và tôi cho rằng hăng 
				của cô phải chịu trách nhiệm về chuyện nầy. Các cô sẽ phải trả 
				tiền sửa xe cho tôi. Đó là một chiếc xe Porsche mới tinh, và nó 
				sẽ làm cho các cô mất một đống tiền… 
				- Tôi rất lấy làm tiếc, thưa ông, nhưng do không được báo về vụ 
				tai nạn nên chúng tôi không thể chịu bất kỳ trách nhiệm ǵ. 
				- Nầy, - Robert nói bằng một giọng dịu hơn. - Tôi muốn thật công 
				bằng. Tôi không muốn hăng của cô phải chịu trách nhiệm. Tất cả 
				những ǵ tôi muốn là cái thằng cha kia phải trả tiền cho những 
				hư hỏng mà hắn đă gây ra cho cái xe của tôi. Đó là cái tṛ gây 
				chuyện rồi bỏ chạy. Thậm chí tôi có thể báo cảnh sát về chuyện 
				nầy. Nếu cô cho tôi biết tên và địa chỉ hắn ta, tôi sẽ nói 
				chuyện trực tiếp với hắn và chúng tôi có thể giải quyết với nhau 
				mà không mắc mớ ǵ đến hăng nầy. Như thế đă công bằng chưa nào? 
				Cô nhân viên ngẫm nghĩ. 
				- Được. Chúng tôi hẳn là muốn vậy hơn. - Cô nh́n xuống cặp hồ sơ 
				trong tay và nói. - Tên của người thuê xe là Leslie Mothershed. 
				- C̣n địa chỉ? 
				- 213 A đường Grove, Whitechapel, London, khu 3 Đông. - Cô ngước 
				lên. - Ông chắc chắn là hăng chúng tôi không dính vào chuyện 
				kiện tụng chứ hả? 
				- Tôi hứa với cô như vậy, - Robert cam đoan. - Đây là chuyện 
				riêng giữa Leslie Mothershed và tôi. 
				Robert Bellamy có mặt trên chuyến bay đầu tiên đi London. 
				 
				o0o 
				 
				Ông ta ngồi một ḿnh trong bóng tối, tập trung và thận trọng rà 
				lại từng giai đoạn của bản kế hoạch đề tin chắc rằng không có 
				một kẽ hở nào, không thể có trục trặc ǵ. Những ư nghĩ của ông 
				ta bị gián đoạn bởi tiếng chuông điện thoại dịu dàng. 
				- Janus đây. 
				- Janus. Tướng Hilliard. 
				- Nói đi. 
				- Sĩ quan Bellamy đă phát hiện hai nhân chứng đầu tiên. 
				- Rất tốt. Lo việc đó ngay đi. 
				- Thưa ngài, vâng. 
				- Hiện giờ ông sĩ quan đang ở đâu? 
				- Trên đường đi London. Ông ta sẽ sớm xác định được người thứ 
				ba. 
				- Tôi sẽ báo cho Uỷ ban về những kết quả của ông ta. Hăy tiếp 
				tục báo cho tôi biết t́nh h́nh. T́nh trạng của chiến dịch nầy 
				vẫn là khẩn cấp. 
				- Thưa ngài, tôi hiểu. 
				Tôi đề nghị… 
				Đường liên lạc bị cắt. 
				Điện khẩn. 
				Tối mật. 
				NSA gửi Giám đốc Bundesanwaltschaft. 
				Không ghi chép lại. 
				Bản số 1 duy nhất. 
				Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế. 
				1. Hans Beckerman - Kapel. 
				2. Fritz Manael - Bern. 
				Hết. 
				 
				Chương 13 
				 
				 
				Vào lúc nửa đêm, trong một 
				trang trại nhỏ cách Uctendort mười lăm dặm, gia đ́nh Lagenfeld 
				bị khuấy động bởi một chuỗi các hiện tượng lạ. Đứa con lớn thức 
				giấc bởi một luồng ánh sáng màu vàng nhạt chiếu qua cửa sổ pḥng 
				ngủ. Khi cậu ta trở dậy để xem chuyện ǵ th́ luồng ánh sáng biến 
				mất. 
				Ở ngoài sân, Tozzi, con chó săn giống Đức, bắt đầu sủa vang giận 
				dữ, đánh thức ông già Lagenfeld. 
				Ông chủ trại miễn cưỡng rời khỏi giường để nạt con vật thôi sủa, 
				và khi vừa bước ra ngoài th́ nghe tiếng bầy cừu hoảng hot trong 
				chuồng, t́m cách thoát ra. 
				Khi đi qua cái máng ăn vốn đầy nước do trời mới mưa, ông thấy 
				rằng cái máng khô khốc. 
				Và đúng lúc đó, tất cả đèn trong nhà vụt tắt. Khi ông chủ trại 
				trở vào nhà và nhấc điện thoại để gọi bảo sở điện lực th́ thấy 
				đường dây bị cắt rồi. 
				Nếu như điện c̣n sáng thêm một vài giây th́ ông chủ trại có thể 
				đă trông thấy một phụ nữ đẹp một cách kỳ lạ từ khu sân trại của 
				ông đi ra phía ngoài đồng. 
				 
				Chương 14 
				 
				 
				Cục T́nh báo – 
				Geneva 
				13 giờ 00. 
				Vị bộ trưởng ngồi trong cán pḥng nằm lọt ở trung tâm của toà 
				nhà trụ sở Cục T́nh báo Thuỵ Sĩ, nh́n viên phó giám đốc đang đọc 
				nốt bức điện. 
				Rồi ông ta thu nó về, bỏ vào trong cái cặp hồ sơ có đánh dấu 
				Tuyệt mật, cất cái cặp vào trong ngàn kéo bàn và khoá lại. 
				- Hans Beckerman và Fritz Mandel. 
				- Phải. 
				Không có vấn đề ǵ; thưa ngài bộ trưởng. Chuyện nầy sẽ được lo 
				liệu chu tất. 
				- Tốt. 
				- Sao ạ? 
				- Thủ tiêu. Ngay lập tức. 
				 
				o0o 
				 
				Sáng ngày hôm sau, trên đường đi làm, Hans Beckerman lại bị cái 
				bụng của ông ta hành hạ. Lẽ ra ḿnh phải bắt cái thằng cha phóng 
				viên kia x́ tiền cho cái vật mà ḿnh đă nhặt được. Tất cả những 
				tờ tạp chí nầy đều lắm tiền cả. Có thể ḿnh đă kiếm được vài 
				trăm đồng mác. Và như vậy ḿnh đă có thể đến một bác sĩ tử tế để 
				chữa cái bụng của ḿnh. 
				Đang lái xe chạy ngang hồ Turler th́ phía trước, bên lề xa lộ, 
				ông ta thấy một người phụ nữ vẫy xin đi nhờ. Beckerman cho xe 
				chạy chậm lại để có thể nh́n người phụ nữ rơ hơn. Cô ta trẻ 
				trung và trông thật hấp dẫn. Ông ta dừng xe lại bên lề đường. Cô 
				gái tiến lại bên xe. 
				- Xin chào, - Beckerman nói - Tôi có thể giúp cô chứ? 
				Ở gần, trông cô ta c̣n xinh đẹp hơn. 
				- Cảm ơn. - Cô ta có giọng Thuỵ Sĩ. - Em căi cọ với người bạn 
				trai của em, và anh ta đă ném em xuống đây, giữa nơi đồng không 
				mông quạnh nầy. 
				- Chà, chà. Thật là tồi tệ. 
				- Ông không phiền ḷng cho em đi nhờ xe tới Zurich chứ? 
				- Có ǵ đâu. Vào đi, vào đi! 
				Cô gái mở cửa và vào ngồi cạnh Hans. 
				- Ông thật tốt bụng, - Cô ta nói. - Tên em là Karen. 
				- Hans. - Ông ta cho xe chuyển bánh. 
				- Em không biết em sẽ xoay sở thế nào nếu không có ông, Hans ạ. 
				- Ồ tôi chắc là sẽ không ai không dừng xe một cô gái xinh đẹp 
				như cô. 
				Cô xích lại gần ông ta hơn. 
				Nhưng em chắc rằng người đó sẽ không đẹp trai như ông đâu. 
				- Thế hả? - Ông ta đưa mắt nh́n sang. 
				- Em nghĩ là ông thật đẹp trai. 
				- Cô nên nói như vậy với vợ tôi. - Ông ta mỉm cười. 
				- Ồ, ông có vợ à. - Cô gái tỏ vẻ thất vọng. - Sao tất cả những 
				người đàn ông tuyệt vời th́ đều có vợ rồi nhỉ? Mà trông ông cũng 
				thông minh nữa. 
				Ông ta ngồi thẳng người thêm chút nữa. 
				- Nói thật với ông là em rất lấy làm tiếc v́ đă dính dáng với 
				cái người bạn trai kia của em. - Cô ta cọ quậy người trên ghế và 
				chiếc váy ngắn hếch lên tới ngang đùi. Hans cố không đưa mắt 
				nh́n. - Em thich những người đàn ông đứng tuổi, chín chắn, Hans 
				ạ. Em thấy họ gợi t́nh hơn so với những người trẻ tuổi. Cô ta cọ 
				người vào ông. - Hans, ông có thích chuyện t́nh dục không? 
				Ông ta hắng giọng. 
				- Tôi à? Ồ cô biết đấy tôi là một thằng đàn ông mà… 
				- Em có thể thây điều đó, - Cô ta đáp và vuốt ve đùi Beckerman. 
				- Em có thể nói với ông thế nầy không nhỉ? Rằng cái cuộc căi vă 
				với người bạn trai đă làm cho em hứng t́nh đấy. Ông có muốn làm 
				t́nh với em không? 
				Hans đă không thể nào tin được ở vận may của ḿnh. Cô ta thật 
				xinh đẹp và từ những ǵ ông ta có thề nh́n thấy th́ hắn cô ta 
				phải có một tấm thân rất quyến rũ. Ông ta nuốt nước bọt. 
				- Tôi muốn, nhưng mà tôi đang trên đường đi làm và… 
				- Sẽ chỉ mất it phút thôi mà. - Cô ta mỉm cười. - Phía trước mặt 
				có một con đường nhánh dẫn vào rừng. Sao chúng ta lại không dừng 
				lại… ở đó nhỉ? 
				Ông ta cảm thấy bị kích thích. Mẹ kiếp. Đến lúc mà ḿnh nói 
				chuyện với đám đàn ông ở sở chuyện nầy. Họ sẽ không bao giờ tin 
				mất. 
				- Được thôi. Sao lại không nhỉ? - Hans cho xe rời khỏi xa 
				lộ và chạy theo con đường nhỏ bụi bặm dẫn vào một cánh rừng mà ở 
				đó những chiếc xe chạy ngang không thể nh́n thấy họ. 
				Cô ả lần tay người lên đùi ông ta: 
				- Lạy Chúa, ông có cặp chân thật khoẻ mạnh. 
				- Hồi trẻ, tôi là một vận động viên điền kinh mà, - Beckerman 
				khoác lác. 
				- Em cởi quần ông ra nhé. - Cô ta cởi chiếc thắt lưng và rồi 
				giúp Hans tụt quần xuống. Ông ta đă cương cứng. 
				- A, thật là to. - Cô ta bắt đầu ve vuốt nó. 
				- Hăy ngậm nó vào miệng. - Ông ta rên rỉ. 
				- Ông thích được hôn ở chỗ đó phải không? 
				- Phải. 
				Vợ ông ta không bao giờ làm như vậy cả. 
				- Vâng. Ông cứ thoải mái. 
				Beckerman thở mạnh và nhắm mắt lại. Hai bàn tay mềm mại của cô 
				ta đang vuốt ve cái vật giống đực của ông ta. Hans cảm thấy như 
				có một mũi kim châm vào đùi và mở choàng mắt ra. "Cái ǵ…?" 
				Toàn thân ông ta cứng đờ, mắt trợn lên. Cổ ông ta tắc nghẹn và 
				không thể nào thở được. Người phụ nữ nh́n ông ta sụp xuống trên 
				tay lái. Cô ta ra khỏi xe và đẩy cái xác chết sang ghế bên, rồi 
				ngồi vào sau tay lái, cho xe chạy trở lại xa lộ. Tới ŕa một 
				đoạn đường vắng bóng xe cộ, cô ta mở cửa xe, giậm ga và khi 
				chiếc xe bắt đầu trườn về phía trước th́ lao ra ngoài, rồi đứng 
				nh́n chiếc xe lộn xuống bờ dốc dựng đứng. Năm phút sau, một 
				chiếc xe hơi sang trọng màu đen dừng lại bên cạnh cô ta. 
				- Có ǵ trục trặc không. 
				- Không. 
				 
				o0o 
				 
				Fritz Mandel đang ở trong văn pḥng, sắp đóng cửa gara th́ hai 
				người đàn ông bước vào. 
				- Xin lỗi, - anh ta nói, - tôi đang chuẩn bị đóng cửa rồi. Tôi 
				không thể… 
				Một trong hai người kia cắt ngang. 
				- Xe chúng tôi chết trên xa lộ. Chúng tôi muốn kéo nó đi. 
				- Vợ con tôi đang đợi. Chúng tôi có việc tối nay. 
				- Tôi có thể cho các ông tên một… 
				- Chúng tôi sẵn sàng trả hai trăm đôla. Chúng tôi đang vội. 
				- Hai trăm đôla? 
				- Đúng thế. Và chiếc xe của chúng tôi cũng bị hỏng nặng. Chúng 
				tôi muốn anh sửa chữa nó. Điều đó có thể là chúng tôi sẽ phải 
				trả thêm hai hoặc ba trăm đôla nữa. 
				- Thé hả? - Mandel trở nên quan tâm hơn. 
				- Đó là một chiếc Rolls, - một trong hai người đàn ông kia nói. 
				- Hăy cho chúng tôi xem ông có những thiết bị ǵ ở đây mới được. 
				- Họ, bước vào trong khu xưởng và đứng bên kho dầu mỡ. - Trang 
				thiết bị tốt đấy. 
				- Thưa ông, vâng! - Mandel hănh diện nói. - Toàn thứ tốt nhất. 
				Người lạ mặt móc ví ra. 
				- Đây. Tôi có thể trả ông trước một chút. - Anh ta lấy ra mấy tờ 
				giấy bạc và trao nó cho Mandel. Khỉ anh ta đưa tay ra, chiếc ví 
				tuột khỏi tay và rơi vào trong thùng mỡ. 
				- Chết rồi. - Đừng lo. - Mandel nói. - Tôi sẽ lấy lên. 
				- Anh ta nhoài vào trong thùng. Đúng lúc đó, một trong hai người 
				đàn ông kia bước lại bên cái nút bấm dùng để điều khiển chiếc 
				máy nâng thuỷ lực và ấn nút. Chiếc bàn nâng bắt đầu hạ xuống. 
				- Cẩn thận. Ông đang làm ǵ đấy? - Mandel nh́n lên. 
				Anh ta định trèo lên. Khi những ngón tay anh ta vừa bám lên 
				thành, người đàn ông thứ hai dùng chân đạp nghiến lên và Mandel 
				kêu lên đau đớn, rơi xuống. 
				Chiếc bàn nâng thuỷ lực nặng trịch vẫn lạnh lùng hạ xuống phía 
				trên đầu anh ta. 
				- Hăy cho tôi ra. - Anh ta kêu gào. - Cứu tôi với! 
				Chiếc bàn nâng đă chạm vào vai và bắt đầu ép anh ta xuống dưới 
				sàn. Vài phút sau, khi những tiếng la thét đă chấm dứt, một 
				trong hai ngựời đàn ông kia bấm nút nâng chiếc bàn nâng lên. 
				Người đồng hành của anh ta cúi xuống nhặt lấy cái ví, thận trọng 
				không để máu giây vào quần áo. Hai người đàn ông quay ra và cho 
				xe chạy biến vào trong màn đêm. 
				Điện khẩn. 
				Tối mật. 
				Cục T́nh báo Thuỵ Sĩ gửi Phó giám đốc NSA. 
				Không ghi chép lại. 
				Bản số 1 duy nhất. 
				Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế. 
				1. Hans Beckerman đă bị thủ tiêu. 
				2. Fritz Manael đă bị thủ tiêu. 
				Hết. 
				Ottawa, Canada. 
				24 giờ 00. 
				Janus đang phát biểu trước nhóm mười hai thành viên. 
				- Đang có những tiến bộ đáng hài ḷng. Hai trong số các nhân 
				chứng đă được bịt miệng. Sĩ quan Bellamy đaag bám theo người thứ 
				ba. 
				- Đă có bước đột phá nầy trong Sáng kiến pḥng thủ chiến lược 
				(SDI) chưa? - Người Italia. Dữ dội. Không kiên nhẫn. 
				- Chưa, nhưng chúng tôi tin rằng kỹ thuật Chiến tranh giữa các 
				hành tinh sẽ được hoàn thiện và sớm phát huy tác dụng. 
				Chúng ta phải làm mọi việc có thể được để đẩy nhanh nó. Nếu có 
				chuyện tiền bạc th́… - Người Arập. Bí ẩn. Dè dặt. 
				- Không. Chỉ c̣n phải thử nghiệm thêm mà thôi. 
				- Cuộc thử sắp tới sẽ diễn ra khi nào? Người Autralia. Nhiệt 
				t́nh. Thông minh. 
				Một tuần nữa. Chúng ta sẽ gặp lại ở đây sau 48 giờ. 
				 
				Chương 15 
				 
				 
				Ngày thứ tư - 
				London. 
				Thứ năm, ngày 18 tháng Mười. 
				Leslie Mothershed có thần tượng là Robin Leach. Là một người ham 
				mê chương tŕnh "Phong cách của những người giàu có và nổi 
				tiếng", Mothershed chăm chú theo dơi cách đi đứng, ăn mặc và nói 
				năng của những vị khách của Robin Leach, bởi v́ anh ta tin rằng 
				một ngày nào đó, ḿnh cũng sẽ xuất hiện trên chương tŕnh nầy. 
				Từ khi c̣n là một cậu bé, anh ta đă cảm thấy rằng số mệnh của 
				ḿnh là phải trở thành một nhân vật nào đó, giàu và nổi tiếng. 
				- Con là người rất đặc biệt đấy, - mẹ anh ta vẫn thường nói. - 
				Con của mẹ rồi đây sẽ nổi tiếng khắp thế giới. 
				Cậu bé con thường đi ngủ với lời nói đó vang vang trong tai cho 
				đến khi cậu ta thực sự tin là như thế. 
				Khi lớn lên, Mothelshed biết rằng ḿnh có những khó khăn: Cậu ta 
				không hề biết rơ ḿnh sẽ trở nên nổi tiếng và giàu có bằng cách 
				nào. Một dạo, Mothershed ám ảnh với ư nghĩ sẽ trở thành một ngôi 
				sao màn bạc, thế nhưng cậu ta lại có tính nhút nhát khác thường. 
				Cũng đă thoáng thèm muốn trở thành một ngôi sao bóng đá, nhưng 
				cậu ta lại không phải là một vận động viên. Rồi lại nghĩ tới 
				việc trở thành một khoa học gia nổi tiếng, hay một luật gia vĩ 
				đại, có trong tay những ngân khoản khổng lồ. Thật không may, học 
				lực của cậu ta vào loại xoàng và rồi cậu ta rời ghế nhà trường 
				mà cũng không gần hơn được chút nào với ước vọng. Đơn giản là 
				cuộc sống nầy không công bằng. Về mặt thể lực, trông cậu thật 
				thiếu cảm t́nh, gầy, với nước da xanh nhợt, ốm yếu và cậu thấp 
				choằn, chỉ có một mét sáu lẻ một chút. Mothershed luôn nhấn mạnh 
				tới cái chỗ lẻ ấy. Cậu tự an ủi ḿnh với một thực tế là những 
				người nổi tiếng đều có khổ người thấp: Napoléon, Dudley Moore, 
				Dustin Hoffman, Peter Falk… 
				Nghề duy nhất thực sự làm cho Leslie Mothershed thấy thích thú 
				là chụp ảnh. Song nó thật là đơn giản. Ai cũng có thể làm được. 
				Người ta chỉ cần ấn cái nút. 
				Mẹ cậu đă mua cho cậu một cái máy ảnh nhân sinh nhật lần thứ sáu 
				của cậu và đă không tiếc lời ngợi ca những tấm ảnh mà cậu chụp 
				được. Khi lên mười, Mothershed đă tin rằng cậu là một nhà nhiếp 
				ảnh sáng giá. Cậu tự nhủ rằng ḿnh hoàn toàn có tài như Ansel 
				Adams, Richard Avedon, hay Margaret Bourke White. Với một khoản 
				cho vay của bà mẹ, Leshe Mothershed đă mở một hiệu ánh ngay 
				trong cái căn hộ ở Whitechpel của ḿnh. 
				- Hăy bắt đầu bằng việc nhỏ, - bà mẹ nói, - nhưng nghĩ lớn. Và 
				đó chính là điều Leslie đă làm. Anh ta bắt đầu rất nhỏ và nghĩ 
				th́ rất lớn, nhưng thật không may là anh ta không hề có tài năng 
				nhiếp ảnh. Anh ta chụp những cuộc diễu hành, những con vật, 
				những bông hoa và tin tưởng gửi chúng cho tất cả các tờ báo và 
				tạp chí, và chúng luôn luôn bị gửi trả. Mothershed tự an ủi ḿnh 
				rằng tất cả những thiên tài đều đă bị phản bác trước khi tài 
				năng của họ được công nhận. Anh ta tự cho ḿnh là một kẻ tử v́ 
				đạo trước chủ nghĩa vật chất tầm thường. 
				Và rồi, từ trên trời cơ hội lớn cho anh ta đă tới. Người anh em 
				họ của bà mẹ anh ta, làm việc cho hăng xuất bản Anh Harper 
				Collins, tiết lộ vớí Mothershed rằng họ đang chuẩn bị làm một 
				cuốn sách nhỏ giới thiệu về Thuỵ Sĩ. 
				- Lislie, họ vẫn chưa chọn được người nhiếp ảnh vậy cháu nên 
				sang Thuỵ Sĩ ngay đi và mang về vài tấm ảnh có tầm cỡ th́ cuốn 
				sách nầy có thể sẽ là của cháu. 
				Lislie Mothershed vội vă thu xếp hành trang và lên đường đi Thuỵ 
				Sĩ. Anh ta biết, một cách thật sự, rằng đây chính là cơ hội mà 
				anh ta đă t́m kiếm. Cuối cùng th́ những kẻ ngu ngốc cũng sắp 
				phải công nhận một tài năng. Anh ta thuê một chiếc xe ở Geneva 
				và đi khắp nơi chụp h́nh những ngôi nhà gỗ kiểu Thuỵ Sĩ, những 
				thác nước, và những đỉnh núi cao tuyết phủ. Anh ta chụp cảnh 
				hoàng hôn, b́nh minh và cảnh những người nông dân đang làm việc 
				trên những cánh đồng. 
				Và rồi, giữa những thứ đó, số mệnh đă can thiệp và thay đổi cuộc 
				sống của anh ta. Trên đường đến Bern, động cơ xe của anh ta bị 
				hỏng. Anh ta dừng xe lại bên lề đường, bực tức. V́ sao lại là 
				ḿnh? Anh ta ngồi đó, cáu kỉnh, tiếc cho thời gian bị mất và món 
				tiền phải trả để kéo xe đi sửa. Mothershed rền rĩ, v́ sao những 
				chuyện nầy luôn xảy ra với ḿnh nhỉ? Phía sau anh ta mười lăm 
				kilômét là làng Thun. Ḿnh sẽ gọi xe kéo ở đó, Mothershed nghĩ. 
				Như vậy th́ không đến nỗi quá đắt. 
				- Anh ta vẫy một chiếc xe chở dầu chạy ngang. 
				- Tôi cần một cái xe kéo, - Mothershed giải thích. - Anh có thể 
				dừng lại một cái gara nào đó ở Thun và bảo họ đến đây hộ tôi 
				được không? 
				Người lái chiếc xe bồn lắc đầu. 
				- Hôm nay là chủ nhật anh bạn ạ. Gara gần nhất có thể vẫn làm 
				việc sẽ phải là Bern. 
				- Bern à? Từ đây đến đó phải năm chục kilômét. 
				- Tôi sẽ phải trả cả đống tiền mất. 
				Người lái xe bồn mỉm cười. 
				- Đúng thế. Ở đó họ sẽ tính giá làm ngày chủ nhật mà. - Và anh 
				ta rồ ga chuẩn bị cho xe chạy. 
				- Gượm đă. - Nhà nhiếp ảnh khó khăn lắm mới thốt ra lời. 
				- Tôi sẽ trả tiền cho chiếc xe kéo từ Bern. 
				- Được Tôi sẽ bảo họ phái ai đó đến đây. 
				Lislie Mothershed ngồi buồn nản trong chiếc xe hỏng của ḿnh. 
				Tất cả những ǵ ḿnh cần là thế nầy đây, anh ta cay đắng nghĩ. 
				Anh ta đă chi quá nhiều tiền để mua phim và bây giờ lại sẽ phải 
				trả tiền cho một thằng ăn cắp nào đó để kéo chiếc xe nầy đi. 
				Phải mất gần hai tiếng đồng hồ dài đằng đẵng, chiếc xe kéo mới 
				đến. Khi người thợ máy bắt đầu móc sợi dây cáp từ chiếc xe tải 
				vào chiếc xe của anh ta th́ từ phía bên kia con đường có một 
				vầng sáng loá, kèm theo là một tiếng nổ lớn, và Mothershed ngẩng 
				lên, thấy một vật thể sáng loá rơi từ trên trời xuống. Chiếc xe 
				duy nhất khác trên xa lộ lúc bấy giờ là một chiếc bus du lịch, 
				và nó dừng lại sau chiếc xe của Lislie. Hành khách trên chiếc xe 
				bus vội vă chạy về phía xảy ra vụ tai nạn. Mothershed lưỡng lự, 
				giằng xé giữa tính ṭ ṃ và việc muốn tiếp tục lên đường. Anh ta 
				quay người và đi theo những hành khách của chiếc xe bus. 
				Khi đến nơi xảy ra sự cố, anh ta đứng đó chết lặng. 
				Lạy Chúa, anh ta nghĩ, đó không phải là sự thật. Anh ta nh́n 
				chằm chằm vào chiếc đĩa bay… Lislie Mothershed đă nghe chuyện về 
				những vật thể lạ và đă đọc về chúng, nhưng chưa bao giờ anh ta 
				tin rằng chúng có thật. 
				Anh ta há hốc mồm, kinh hăi trước cái cảnh tượng kỳ quáỉ. Vỏ 
				chiếc đĩa bay đă bị tung ra, và anh ta có thể thấy hai cái xác ở 
				trong đó, nhỏ thó, với những cái đầu to, mắt trũng, không có tai 
				và gần như không có cằm. Họ có vẻ như đang mặc những bộ quần áo 
				bằng kim loại màu bạc. 
				Nhóm du khách chung quanh anh ta đứng nh́n trong sự im lặng ghê 
				sợ. Người đàn ông đứng cạnh anh ta ngất xỉu. Một người đàn ông 
				khác quay đi và nôn mửa. Một tu sĩ có tuổi nắm chặt lấy chuỗi 
				hạt và cứ lảm nhảm điều ǵ đó. 
				- Lạy Chúa, - ai đó nói. - Đó là một cái đĩa bay. 
				Và đối với Mothershed th́ đó chính là lúc Chúa hiện h́nh. Một 
				điều kỳ diệu đă rơi ngày vào trong ḷng anh ta. Anh ta, Lislie 
				Mothershed, đă có mặt tại chỗ, với máy ảnh, để ghi lại câu 
				chuyện thế kỷ nầy. 
				Không một tờ báo hay tạp chí nào trên thế giới nầy lại bác tấm 
				h́nh mà anh ta sắp chụp. Một cuốn sách nhỏ giới thiệu về Thuỵ Sĩ 
				ư? Thiếu chút nữa th́ anh ta cười váng lên với cái ư nghĩ đó. 
				Anh ta sắp làm cho cả thế giới phải ngạc nhiên. Tất cả các 
				chương tŕnh của Robin Leach đầu tiên. Anh ta sẽ bán những tấm 
				h́nh của ḿnh cho các tờ London Times, Sun, Mail, Mirror 
				- Cho tất cả các báo cht tiếng Anh và cho cả các báo chí nước 
				ngoài nữa - Le Figaro và Paris Match, Oggi
				và Der, Tag, Time và USA Today. 
				Báo chí khắp nơi sẽ năn nỉ để có được những tấm ảnh của anh ta. 
				Nhật Bản và Nam Phi, Nga và Trung Quốc và không biết nhưng đâu 
				nữa. Mothershed thấy tim ḿnh đập rộn lên v́ quá hồi hộp. Ḿnh 
				sẽ không cho ké nào được độc quyền cả. Từng tờ báo sẽ phải trả 
				tiền trực tiếp cho ḿnh. Ḿnh sẽ bắt đầu với giá một trăm ngh́n 
				bảng một tấm, có thể là hai trăm ngàn. Và ḿnh sẽ bán đi bán 
				lại. Anh ta bắt đầu sốt sắng nhẩm tính số tiền sắp sửa thu được. 
				Lislie Mothershed mải mê với tương lai may mắn của anh ta đến 
				mức suưt quên cả việc chụp ảnh. 
				- Ôi lạy Chúa. Xin lỗi, - anh ta nói, không biết là với ai nữa, 
				và chạy như bay trở lại xe để lấy bộ độ nghề chụp ảnh. 
				Người thợ máy đă nâng bổng một đầu chiếc xe hỏng lên và sẳn sàng 
				kéo nó đi. 
				- Chuyện ǵ đang xảy ra ở đó thế? - Anh ta hỏi. 
				- Hăy lại đó mà xem. - Mothershed đáp. 
				Hai người chạy ngang qua đường về phía cánh rừng, và Mothershed 
				chen qua đám du khách. 
				- Xin lỗi, xin lỗi. 
				- Anh ta điều chỉnh ống kính máy ảnh và bắt đầu chụp cái vật thể 
				bay lạ kia với những hành khách kỳ dị của nó. Mỗi khi tiếng máy 
				kêu tạch, Mothershed lại nghĩ, Một triệu bảng… một triệu bảng 
				nữa… một triệu bảng nữa. 
				Vị tu sĩ bước qua chỗ anh ta và nói: 
				- Đó là gương mặt của quỷ Satăng. 
				Satăng, mẹ kiếp, Mothershed hào hứng nghĩ. Đó là gương mặt cửa 
				tiền bạc. Đây sẽ là những bức ảnh đầu tiên chứng tỏ rằng thật sự 
				có tồn tại những đĩa bay. Và rồi, đột nhiên, một ư nghĩa khủng 
				khiếp nảy ra trong đầu anh ta. Nếu những tờ tạp chí chết tiệt 
				kia cho rằng những tấm ảnh là giả th́ sao? Đă có hàng đống những 
				tâm ảnh giả về những vật thể bay lạ. Cơn hào hứng của anh ta 
				biến mất. Nếu như họ không tin ḿnh th́ sao? Và đó là lúc Lislie 
				Mothershed chợt có một ư nghĩ khác. 
				Có chín nhân chứng đang đứng xung quanh anh ta. Dù chỉ là vô 
				t́nh, họ sẽ xác nhận tính chân thực cho phát hiện của anh ta. 
				Mothershed quay lại trước nhóm du khách. 
				- Thưa quư bà và quư ông, - anh ta nói to. - Nếu tất cả quư vị 
				muốn có ảnh của ḿnh được chụp ở đây, xin đứng thành hàng và tôi 
				vui ḷng được gửi cho mỗi vị một tấm, tặng không thôi. 
				Những tiếng kêu lên vui vẻ. Chỉ trong tích tắc, các du khách 
				trên chiếc xe bus, trừ vị tu sĩ, đă đứng thành hàng bên cạnh xác 
				của chiếc vật thể bay kia. Vị tu sĩ đầy vẻ ái ngại. Ông ta nói: 
				- Tôi không thể, đó là quỷ dữ. 
				Mothershed cần vị tu sĩ. Ông ta sẽ là nhân chứng có sức thuyết 
				phục nhất trong tất cả. 
				- Đó chính là vấn đề, - Mothershed cố thuyết phục. - Cha không 
				thấy sao? Đây chính là lời chứng của cha về sự tồn tại của quỷ 
				dữ. 
				Và sau cùng th́ vị tu sĩ đă bị thuyết phục. 
				- Đứng giăn ra một chút, - Mothershed yêu cầu, - để chúng ta c̣n 
				có thể nh́n thấy cái đĩa bay chứ. 
				Các nhân chứng sửa lại chỗ đứng. 
				- Được rồi. Rất tốt. Tuyệt. Giữ nguyên thế nhé, nào. 
				- Anh ta chụp khoảng nửa tá ảnh nữa và lấy ra một cái bút ch́ và 
				một mẩu giấy. 
				- Nếu như các vị ghi tên và địa chỉ lại, tôi sẽ lo để mỗi vị 
				nhận được một tấm ảnh. 
				Anh ta không có ư định gửi tấm ảnh nào đi cả đề mỗi vị nhận được 
				một tấm ảnh. Tất cả những ǵ anh ta muốn chỉ là những nhân chứng 
				để chứng thực mà thôi. Hăy để mặc những tờ báo và tạp chí chết 
				tiệt kia lo chuyện đó. 
				Và rồi, đột nhiên, anh ta nhận thấy một vài người trong nhóm du 
				khách kia cũng có máy ảnh. Anh ta không thể để cho ai nữa ngoài 
				anh ta có những bức ảnh nầy. Chỉ có những tấm ảnh đề "Do Lislie 
				Mothersheđ chụp" mới được tồn tại mà thôi. 
				- Xin lỗi, - anh ta nói với tất cả. - Những ai trong số quư vị 
				có máy ảnh, nếu các vị muốn tôi sẽ chụp giúp để các vị có vài 
				tấm trong máy của chính các vị. 
				Những chiếc máy ảnh được nhanh chóng trao cho Lishe. Khi anh ta 
				quỳ xuống để lấy khuôn h́nh cho lần chụp đầu, không ai để ư thấy 
				rằng Mothershed bật mở buồng phim và cứ để nó hở như thế. Thế, 
				một chút ánh sáng mặt trời tươi đẹp nầy sẽ giúp cho nhưng tấm 
				ảnh biến mất. Thật tệ, các bạn của tôi, nhưng chỉ có những người 
				chuyên nghiệp mới được phép chớp lấy các cơ hội lịch sử của bọ. 
				Mười phút sau, Mothershed đă có tất cả tên và địa chỉ của đám 
				khách du lịch. Anh ta nh́n chiếc đĩa bay một lần cuối và phấn 
				khởi nghĩ: Mẹ nói thật đúng, ḿnh sẽ trở nên giàu có và nổi 
				tiếng. 
				Anh ta không thể nào đợi tới lúc quay trở về London để rửa những 
				tấm ảnh quư giá kia. 
				 
				o0o 
				 
				- Chuyện quái quỷ ǵ đang xảy ra thế nhỉ? 
				Suốt đêm, các đồn cảnh sát ở khu vực Uctendort ngập trong những 
				cú điện thoại. 
				- Có kẻ nào đó cứ lảng vảng xung quanh nhà tôi… 
				- Có những thứ ánh sáng lạ phía bên ngoài… 
				- Đàn gia súc của tôi đang phát điên lên. Hẳn phải có những con 
				sói đâu đây… 
				- Có ai đó làm khô kiệt máng nước của nhà tôi… 
				Và cú điện thoại khó giải thích trong số đó: 
				- Nầy, sếp, ngài nên phái nhiều xe kéo ra trục xa lộ chính ngay 
				đi thôi. Một cơn ác mộng. Tất cả giao thông đă ngừng trệ. 
				- Cái ǵ hả? V́ sao? 
				- Không ai biết cả. Tất cả các động cơ xe đều chết đột ngột. 
				Đó là một đêm mà họ sẽ không bao giờ quên. 
				 
				Chương 16 
				 
				 
				Nhiệm vụ nầy sẽ kéo dài bao 
				lâu nhỉ? Robert nghĩ ngợi trong lúc buộc dây an toàn vào người 
				trên chiếc ghế hạng nhất của hăng Hàng không Thuỵ Sĩ. 
				Khi chiếc máy bay lao trên đường băng, những chiếc động cơ Rolls 
				- Royce khổng lồ của nó như uống lấy không khí của trời đêm, 
				Robert thả lỏng người và nhắm mắt lại. Có phải mới chỉ cách đây 
				vài năm ḿnh đă đi cũng chuyến bay nầy, cùng với Susan sang 
				London không nhỉ? Không. Có vẻ như đă cách đây cả một đời người 
				rồi. 
				Chiếc máy bay hạ cánh xuống sân bay Heathrow lúc 6 giờ 29 phút 
				chiểu theo đúng thời gian biểu. Robert ra khỏi đám đông và lên 
				một chiếc tắcxi chạy vào thành phố. Anh nh́n hàng trăm cái mốc 
				quen thuộc và như có thể nghe thấy tiếng Susan thích thú b́nh 
				luận về chúng. Trong nhưng ngày tươi sáng ấy, việc họ ở đâu 
				không bao giờ là một vấn đề. Đơn giản là họ ở bên nhau, thế là 
				đủ. Họ mang theo bên ḿnh hạnh phúc và những niềm hứng thú đặc 
				biệt đối với nhau. Mối quan hệ của họ ]à một cuộc hôn nhân sẽ có 
				một kết thúc vui sướng. 
				Gần như thế. 
				Những rắc rối của họ bắt đầu một cách thật t́nh cờ với một cú 
				điện thoại của Đô đốc Whittaker khi Robert và Susan đang du 
				ngoạn ở Thái Lan. Khi đó, Robert đă rời khỏi Hải quân được sáu 
				tháng và không hề nói chuyện với vị Đô đốc trong suốt quăng thời 
				gian đó. Cú điện thoại, gọi cho họ tại khách sạn Oriental ở 
				Bangkok, là cả một sự ngạc nhiên. 
				- Robert hả? Đô đốc Whittaker. 
				- Thưa Đô đốc. Thật vui khi nghe thấy tiếng ngài. 
				- Không dễ ǵ t́m được anh đâu. Anh đang theo đuổi chuyện ǵ vậy 
				hả? 
				- Không có ǵ nhiều. Nói một cách đơn giản là chúng tôi đang có 
				một tuần trăng mật dài với nhau. 
				- Susan có khoẻ không? Mà là Susan chứ? 
				- Vâng. Cô ấy khoẻ, cảm ơn ngài. 
				- Anh phải mất bao lâu để trở về Washington hả? 
				- Ngài nói ǵ cơ ạ? 
				- Điều nầy chưa công bố, nhưng tôi đă được bổ nhiệm một chức vụ 
				mới, Robert. Họ cứ tôi làm phó giám đốc Pḥng 17 T́nh báo hải 
				quân. Tôi muốn anh cùng làm việc. 
				Robert giật ḿnh. 
				- T́nh báo hải quân ạ? Thưa Đô đốc, tôi không hề biết ǵ về… 
				- Anh có thể học. Anh sẽ làm một công việc rất hữu ích cho đất 
				nước ḿnh, Robert. Anh sẽ đến và bàn việc nầy với tôi chứ? 
				- Ồ. 
				- Tốt. Tôi sẽ chờ anh ở văn pḥng của tôi vào ngày thứ hai, lúc 
				9 giờ 00. Cho tôi gửi lời chào tới Susan nhé. 
				Robert kể lại câu chuyện với Susan. 
				- T́nh báo hải quân à? Có vẻ thú vị đấy. 
				- Có thể, - Robert nói vẻ nghi ngờ. - Anh không hề biết công 
				việc thế nào. 
				- Th́ anh phải t́m hiểu chứ. 
				Anh nh́n cô trong giây lát. 
				- Em muốn anh nhận phải không? 
				Cô quàng tay ôm lấy anh. 
				- Em muốn anh làm bất kỳ điều ǵ mà anh muốn làm. Em nghĩ là anh 
				sẵn sàng trở lại với công việc. Em để ư thấy là trong mấy tuần 
				vừa qua, anh đă trở nên bồn chồn. 
				- Anh nghĩ là em đang t́m cách vứt bỏ anh, - Robert trêu chọc. - 
				Tuần trăng mật đă kết thúc rồi. 
				Susan kề đôi môi cô lại sát môi anh. 
				- Không bao giờ. Em chưa bao giờ nói với anh là em đến phát điên 
				lên v́ anh như thế nào hả, chàng thuỷ thủ? Để em cho anh thấy 
				nhé… 
				Sau nầy nghĩ lại, khỉ đă quá muộn, Robert cho rằng đó chính là 
				lúc bắt đầu của sự chấm dứt cuộc hôn nhân của họ. Lời đề nghị 
				lúc đó có vẻ thật tuyệt vời và anh đă trở lại Washington để gặp 
				Đô đốc Whittaker. 
				- Công việc nầy đ̣i hỏi trí tuệ, ḷng dũng cảm, và sự sáng tạo, 
				Robert ạ. Anh có cả ba thứ đó. Đất nước chúng ta đă trở thành 
				mục tiêu của bất kỳ một chế độ độc tài tầm thường và nhỏ bé nào 
				có thể nuôi dưỡng một nhóm khủng bố hoặc xây dựng một nhà máy 
				chế tạo vũ khí hoá học. Một trong số các nước nầy đang t́m cách 
				sản xuất bom nguyên tử để buộc chúng ta phải hối lộ họ. Công 
				việc của tôi là xây dựng một mạng lướ́ t́nh báo để phát hiện 
				chính xác họ đang làm ǵ và t́m cách ngăn chặn lại. Tôi muốn anh 
				giúp đỡ. 
				Sau cùng, Robert đă chấp nhận công việc ở T́nh báo hải quân, và 
				chính anh cũng ngạc nhiên là anh thấy thích thú và hơn thế, có 
				năng khiếu với nó. Susan t́m được một căn hộ tử tế ở Rosslyn, 
				bang Virginia không xa nơi Robert làm việc, và vùi đầu vào việc 
				mua sắm đồ đạc trong nhà. Robert đă được gửi đến Trang trại - 
				trung tâm huấn luyện của CIA, dành cho những điệp viên hoạt động 
				ngầm. 
				Nằm trong một khu vực được canh gác cẩn mật thuộc bang 
				Virgineia, Trang trại chiếm một diện tích hai mươi dặm vuông, 
				hầu hết được bao phủ bởi những rừng thông cao vút, với những toà 
				nhà chính nằm trong một khu quang đăng rộng mười mẫu và cách 
				cổng chính hai dặm. Những con đường đất toả ra qua những cánh 
				rừng, với những barie chắn ngang và những tấm biển Miễn vào đặt 
				ở mọi nơi. Tại một sân bay nhỏ, những chiếc máy bay không số 
				hiệu hạ cánh và cất cánh vài lần mỗi ngày. Trang trại có vẻ bề 
				ngoài đầy yên b́nh, với cây lá sum suê, hươu nai chạy nhảy trong 
				rừng và những toà nhà nhỏ nằm rải rác thanh thản quanh một khu 
				đất rộng lớn. Tuy nhiên, bên trong khu vực nầy lại là một thế 
				giới khác hẳn. 
				Robert đă nghĩ là sẽ được huấn luyện cùng với người của Hải 
				quân, nhưng anh ngạc nhiên khi thấy học viên là một sự pha trộn 
				cả người của CIA, Lính thuỷ đánh bộ, Lục quân, Hải quân và Không 
				quân. Mỗi học viên mang một con số riêng và ở trong một căn 
				pḥng như kiểu nhà ngủ tập thể thuộc một trong số những ngôi nhà 
				Spartan hai tầng xây bằng gạch. 
				Tại khu dành cho các sĩ quan độc thân, nơi Robert ở mỗi người có 
				một pḥng riêng và dùng chung pḥng tắm với một người khác. 
				Pḥng ăn chung ở phía bên kia đường, đối diện với khu nhà nầy. 
				Hôm Robert nhập trường, anh được đưa tới một giảng đường cùng 
				với ba mươi người mới tới khác. 
				Một đại tá người da đen to lớn đă phát biểu với nhóm học viên. 
				Ông ta chừng ở giữa tuổi 50, tạo ấn tượng bằng một vẻ thông 
				minh, sắc sảo và lạnh lùng. Ông ta nói một cách rơ ràng, sinh 
				động và không một câu thừa. 
				- Tôi là đại tá Frank Johnson. Tôi muốn hoan nghênh các bạn có 
				mặt ở đây. Trong thời gian nầy, các bạn sẽ chỉ dùng tên đầu của 
				ḿnh. Từ giờ phút nầy trở đi cuộc đời các bạn sẽ là một cuốn 
				sách đóng kín. 
				Tất cả các bạn đă được tuyên thệ giữ bí mật. Tôi khuyên các bạn 
				phải giữ lời thề đó, thật nghiêm ngặt. Các bạn không bao giờ 
				được phép bàn công việc của ḿnh với bất kỳ ai - Vợ con, gia 
				đ́nh, bè bạn. Các bạn đă được tuyển lựa đưa tới đây bởi v́ các 
				bạn có những phẩm chất đặc biệt. Trước mặt các bạn có nhiều công 
				việc nặng nề để phát triển nhưng phẩm chất đó, và không phải tất 
				cả các bạn đều sẽ vượt qua được. Các bạn sẽ tham gia vào những 
				công việc mà trước đây các bạn chưa từng bao giờ nghe đến. Tôi 
				không thể nào nói hết được tầm quan trọng của công việc mà các 
				bạn sẽ làm sau khi kết thúc ở đây. Trong các giới tự do nào đó, 
				người ta lấy việc chỉ trích các ngành t́nh báo của chúng ta làm 
				một thứ mốt, dù đó là CIA, Lục quân, Hải quân hay Không quân, 
				nhưng tôi có thể đảm bảo với các bạn rằng nếu không có những 
				người chịu hy sinh như các bạn th́ đất nước nầy sẽ gặp phải 
				những khó khăn khủng khiếp. Ngăn chặn điều đó sẽ là công việc 
				của các bạn. Những người nào trong số các bạn tốt nghiệp trường 
				nầy sẽ trở thành các sĩ quan chỉ huy. Mà nói thẳng ra th́ một sĩ 
				quan chỉ huy là một điệp viên. Anh ta hoạt động bí mật. 
				Trong lúc ở đây, các bạn sẽ được sự huấn luyện tốt nhất thế giới 
				trong lĩnh vực t́nh báo và phản gián. 
				Các bạn sẽ có những bài giảng về liên lạc điện đài, mật mă, vũ 
				khí và bản đồ. Các bạn sẽ dự một lớp về mối quan hệ giao tiếp 
				giữa con người với nhau. 
				Các bạn sẽ được hướng dẫn cách xây dựng một mối quan hệ như thế 
				nào làm sao kết luận được về các động cơ của một cá nhân, lảm 
				sao để làm cho đối tượng của bạn cảm thấy yên tâm. 
				Cả lớp nghe từng lời. 
				Các bạn sẽ học cách gặp gỡ và tuyển một gián điệp như thế nào. 
				Các bạn sẽ được huấn luyện để đảm bảo rằng các địa điểm gặp gỡ 
				là an toàn. Các bạn sẽ hợc về các "hộp thư chết", về cách liên 
				lạc bí mật với các nguồn tin của các bạn. Nếu các bạn thành công 
				với những việc làm nầy, các bạn sẽ hoàn thành nhiệm vụ của ḿnh 
				một cách bí mật và không bị lộ. 
				Robert cảm thấy không khí hồi hộp bao trùm tất cả. 
				Một số trong các bạn sẽ hoạt động dưới b́nh phong chinh thức. Nó 
				có thể là b́nh phong ngoại giao hoặc quân sự. Những người khác 
				sẽ làm việc dưới những b́nh phong bán chính thức trong tư cách 
				cá nhân; như những nhà kinh doanh, những nhà khảo cổ, hoặc những 
				nhà văn., bất kỳ nghề nghiệp ǵ cho phép các bạn tiếp cận được 
				những lĩnh vực và những loại người có thể có những thông tin 
				quan trọng mà các bạn đang t́m kiếm. Và bây giờ, tôi sẽ trao các 
				bạn lại cho các hướng dẫn viên của các bạn. Chúc may mắn. 
				Robert thấy công việc huấn luyện thật hấp dẫn. Hướng dẫn viên là 
				những người đă từng hoạt động ngoài địa bàn và đều là những 
				chuyên gia đầy kinh nghiệm. 
				Robert tiếp thu các thông tin kỹ thuật khá dễ dàng. Ngoài những 
				chương tŕnh mà đại tá Johnson đă đề cập đến, c̣n có một chương 
				tŕnh ôn luyện các ngôn ngữ và một chương tŕnh về mật mă thật 
				khó khăn. 
				Đại tá Johnson là cả một sự hấp dẫn đối với Robert. Người ta x́ 
				xào rằng ông ta có những mối quan hệ chặt chẽ tại Nhà Trắng và 
				từng tham gia vào những hoạt động ngầm cao cấp. Ông ta thường 
				biến mất khỏi Trang trại vào ngày nào đó và đột nhiên lại xuất 
				hiện. 
				Một điệp viên tên Ron đang điều khiển một buổi lên lớp. 
				"Trong một chuyên án nghiệp vụ ngầm có sáu giai đoạn. Đầu tiên 
				là phát hiện. Khi bạn biết bạn cần thông tin ǵ, thách thức đầu 
				tiên đối với bạn là phát hiện và nghiên cứu những cá nhân có khả 
				năng tiếp cận với thông tin đó. Giai đoạn hai là đánh giá. Một 
				khi bạn đă phát hiện được đối tượng, bạn phải đánh giá anh ta có 
				thật sự có thông tin mà bạn cần và liệu có thể tuyển chọn anh ta 
				được không. Động cơ ǵ thúc đẩy anh ta? Anh ta có hài ḷng với 
				công việc không? Anh ta có hằn học ǵ với sếp của anh ta không? 
				Anh ta có khó khăn về tiền bạc không? Nếu triển vọng là có thể 
				tiếp cận được và có một động cơ nào đó có thể khai thác được thi 
				các bạn chuyển sang giai đoạn ba. 
				"Giai đoạn ba là giai đoạn phát triển. Các bạn xây dựng một mối 
				quan hệ với một đối tượng dự tuyển. 
				Đầu tiên, các bạn phải tạo được tiếp xúc nhiều nhất có thể. Giai 
				đoạn tiếp theo là tuyển chọn. Khi bạn nghĩ là đă sẵn sàng, bạn 
				phải nghiên cứu anh ta về mặt tâm ly. Bạn sử dụng bất kỳ thứ vũ 
				khí tâm lư ǵ mà bạn có trong tay: trả thù sếp của anh ta, tiền 
				bạc, tác động của nó. Nếu một sĩ quan chỉ huy làm tốt công vĩẹc 
				của anh ta th́ thường là đối tượng dự tuyển sẽ đồng ư. 
				Đến thế là tốt rồi. Bạn đă có một gián điệp làm việc cho bạn. 
				Bước tiếp theo là điều khiển anh ta. Bạn phải đảm bảo an toàn 
				không chỉ cho chính bạn mà c̣n cho cả anh ta nữa. Bạn phải tổ 
				chức các cuộc gặp gỡ bí mật và huấn luyện anh ta sử dụng vi phim 
				và, nếu thích hợp, cả điện đài nữa. Bạn sẽ huấn luyện cho anh ta 
				cách phát hiện ngoại tuyến, cách khai báo khi bị tra hỏi, vân 
				vân. 
				"Giai đoạn cuối cùng là chấm dứt liên lạc. Sau một thời gian, có 
				thể là người được bạn tuyển chọn sẽ bị thuyên chuyển tới một vị 
				trí công tác khác và không c̣n tiếp cận được với nguồn thông tin 
				nữa, hoặc có thể chúng ta không c̣n cần tới nguồn thông tin mà 
				anh ta có. Trong bất kỳ t́nh huống nào, mối quan hệ đó phải chấm 
				dứt, nhưng điều quan trọng là phái chấm dứt nó ra sao để gián 
				điệp đó không cảm thấy bị lợi dụng và t́m cách trả thù… 
				Đại tá Johnson đă nói đúng. Không phải tất cả đều qua được khoá 
				học. Những gương mặt quen cứ biến mất. Không chút dấu tích. 
				Không ai biết v́ sao. 
				Không ai hỏi. 
				Một hôm, trong khi nhóm học chuẩn bị đi Richmond để thực tập 
				ngoại tuyến, hướng dẫn viên của Robert nói: 
				- Chúng ta sẽ xem khả năng của anh thế nào, Robert ạ. Tôi sẽ 
				phái ai đó bám đuôi anh. Tôi muốn anh cắt đuôi. Anh có nghĩ là 
				anh có thể làm được điều đó không? 
				- Có thưa ông. 
				- Chúc may mắn. 
				 
				o0o 
				 
				Robert đi xe bus đến Richmond và rồi bắt đầu đi bộ trên các 
				đường phố. Chỉ trong ṿng năm phút anh đă nhận diện được nhưng 
				người bám theo anh. 
				Bọn họ có hai người. Một người đi bộ và một người đi trong ô tô. 
				Robert t́m cách lẩn vào trong các tiệm ăn và các cửa hiệu rồi 
				nhanh chóng ra bằng các cửa sau, nhưng anh không thể nào dứt họ 
				được. Họ được huấn luyện quá tốt. Sau cùng, lúc gần như đă đến 
				giờ phải trở về Trang trại, Robert vẫn chưa thể nào thoát khỏi 
				họ. Họ bám theo anh quá chặt chẽ. Robert bước vào một cửa hiệu 
				bách hoá, và hai người kia đứng vào những vị trí mà họ có thể 
				khống chế được cả các lối vào lẫn lối ra. Robert dùng thang máy 
				đi lên khu bán quần áo cho đàn ông. Ba mươi phút sau, khi đi 
				xuống, anh mặc trên người một bộ complê khác, cái áo khoác và mũ 
				khác, và đang vừa đi vừa nói chuyện với một người phụ nữ, trong 
				tay anh bế một đứa trẻ. 
				- Anh đi ngang qua những người theo dơi anh mà không hề bị nhận 
				ra. 
				Ngày hôm đó, anh là người duy nhất đă cắt "đuôi" thành công. 
				 
				o0o 
				 
				Bản thân những thuật ngữ được dạy ở Trang trại cũng là một thứ 
				ngôn ngữ rồi. 
				"Các bạn có thể sẽ không dùng đến tất cả những thuật ngữ nầy, - 
				người hướng dẫn viên nói với cả lớp nhưng các bạn nên biết 
				chúng. Có hai loại gián điệp khác nhau: gián điệp gây ảnh hưởng 
				và gián điệp hành động. Người gián điệp gây ảnh hưởng t́m cách 
				thay đổi dư luận ở quốc gia nơi anh ta hoạt động. 
				C̣n gián điệp hành động được phái đi để gây rối và tạo ra những 
				t́nh h́nh lộn xộn. "Đ̣n bẩy sinh vật là tiếng lóng của CIA chỉ 
				việc hăm doạ. Cũng có nhưng vụ "túi đen", thay đổi từ những vụ 
				hối lộ đến những vụ đột nhập. Watergate là một vụ như vậy. 
				Ông ta nh́n quanh lớp để tin rằng cả lớp đang chú ư. Họ nghe như 
				uống lấy từng lời. 
				Đôi khi các bạn có thể cần tới "thợ giày" - đó là người làm hộ 
				chiếu giả mạo. 
				Robert băn khoăn, liệu có bao giờ anh cần tới một thợ giày hay 
				không. 
				Thuật ngữ "Giáng cấp tối đa" là một thuật ngữ đáng sợ. Nó có 
				nghĩa là sự thanh lọc bằng cách giết đi. Từ thanh loại cũng như 
				vậy. Nếu bạn nghe ai đó nói về "Công ty", th́ đó là biệt danh 
				chúng ta dùng đề cập tới Cơ quan t́nh báo Anh. Nếu bạn được yêu 
				cầu "tẩy uế" một căn pḥng, bạn sẽ không đi t́m các tổ mối mà 
				bạn sẽ phải t́m ra các dụng cụ nghe trộm. 
				Lối nói bí ẩn nầy làm cho Robert thấy hứng thú. 
				"Các tiểu thư" là tiếng lóng chỉ các cô gái được phái đi để dàn 
				xếp với đối tượng. "Huyền thoại" là lai lịch của một gián điệp 
				được tạo ra để cung cấp cho anh ta một vỏ bọc. "Đi riêng" có 
				nghĩa là rời khỏi nghề. 
				Hướng dẫn viên đưa mắt nh́n cả lớp. 
				- Có ai trong các bạn biết một "người dạy sư tử" là thế nào 
				không hả? 
				Ông ta đợi câu trả lời. Im lặng. 
				- Khi một gián điệp bị bỏ rơi, đôi khi anh ta cảm thấy tức bực 
				và có thể đe doạ tiết lộ những ǵ anh ta biết. Một người đầy cơ 
				bắp, một tài tử dạy sư tử, được gọi đến để làm cho anh ta dịu 
				đi. Tôi tin chắc không ai trong số các bạn sẽ phải đối mặt với 
				một tài tử như thế. 
				Lời b́nh luận gây ra một tiếng cười sợ hăi. 
				Rồi có từ "lên sởi". Nếu một đối tượng chết v́ lên sởi điều đó 
				có nghĩa là đối tượng bị giết một cách khéo léo đến mức cái chết 
				có vẻ như là một tai nạn hoặc do những lư do tự nhiên. Một cách 
				gây bệnh sởi là đúng hợp chất "Tabun". Đó là một hợp chất không 
				màu hoặc hơi nâu, gây tê liệt thần kinh khi ngấm qua da. Nếu ai 
				đó trao cho bạn một cái "đàn hộp" điều đó có nghĩa là họ đang 
				trao cho bạn một máy phát vô tuyến. Người sử dụng điện đài được 
				gọi là một nhạc sĩ. Trong tương lai, một số trong các bạn sẽ 
				phải hoạt động "trần trụi". Đừng vội cởi bỏ quần áo điều đó đơn 
				giản có nghĩa là bạn chỉ có một ḿnh và không có sự hỗ trợ nào 
				cả. C̣n một điều nữa mà tôi muốn nói đến hôm nay. Sự trùng lặp 
				t́nh cờ. Trong công việc của chúng ta, không có "con vật" đó: Nó 
				thường báo hiệu nguy hiểm. Nếu các bạn thường xuyên chạm trán 
				cùng một người nào đó, hoặc khi hoạt động các bạn thường xuyên 
				phát hiện một chiếc xe nào đó, hăy che cái mông của ḿnh đi. Có 
				thể các bạn đang gặp chuyện chẳng lành. Cuối cùng, tôi nghĩ là 
				hôm nay thế là đủ, thưa quư vị. Ngày mai chúng ta sẽ lại tiếp 
				tục nơi chúng ta ngừng lại nầy. 
				Thỉnh thoảng, đại tá Johnson gọi Robert vào văn pḥng của ông ta 
				để "chuyện gẫu", như cách ông ta nói. Các câu chuyện có vẻ b́nh 
				thường một cách không tin nổi và Robert biết ẩn trong đó là một 
				cuộc thăm ḍ đang diễn ra. 
				- Tôi nghe nói anh có một cuộc hôn nhân hạnh phúc, Robert. 
				- Đúng vậy ạ. 
				Suốt nửa giờ sau đó, họ nói chuyện về hôn nhân, ḷng trung 
				thành, và ḷng tin. 
				Một lần khác: 
				- Đô đốc Whittaker coi anh như con, Robert. Anh biết thế chứ? 
				- Vâng. Nỗi đau về cái chết của Edward là một cái ǵ đó không 
				bao giờ qua đi. 
				Họ đă nói chuyện về sự trung thành, bổn phận và cái chết. 
				- Robert, anh đă đối mặt với cái chết hơn một lần. Anh có sợ 
				chết không? 
				Không. Nhưng chết cho đáng chết, Robert nghĩ. Chứ không phải một 
				cái chết vô nghĩa. 
				Những cuộc gặp làm cho Robert chán nản bởi v́ họ như đang nh́n 
				vào một tấm gương dị dạng. Đại tá Johnson có thể nh́n rơ anh, 
				nhưng bản thân đại tá lại vô h́nh, một con người bi ẩn được bao 
				bọc bởi một bức màn bí mật. 
				Khoá học kéo dài 16 tuần, và trong thời gian đó, không ai trong 
				số họ được giao tiếp với thế giới bên ngoài. Robert nhớ Susan 
				một cách ghê gớm. Đây là thời gian họ xa nhau lâu nhất. Khi đă 
				hết bốn tháng, đại tá Johnson gọi Robert vào văn pḥng của ông 
				ta. 
				- Đây là cuộc gặp để tạm biệt. Anh đă làm việc rất tuyệt vời, 
				Robert. Tôi nghĩ là anh sẽ thấy tương lại của ḿnh rất hấp dẫn 
				đấy. 
				- Cám ơn ngài. Tôi cũng hy vọng như thế. 
				- Chúc may mắn. 
				Đại tá Johnson nh́n Robert bước ra. Ông ta ngồi yên trong năm 
				phút rồi có một quyết định. Ông ta bước tới bên cửa và khoá trái 
				lại. Rồi ông ta nhấc điện thoại lên gọi. 
				 
				o0o 
				 
				Susan đang đợi anh. Cô mở cửa căn hộ của họ, trên người là một 
				chiếc váy ngủ trong veo chẳng che đậy được ǵ cả. Cô lao vào 
				trong ṿng tay anh và ôm anh thật chặt. 
				- Chào anh, chàng thuỷ thuỷ. Anh muốn một cuộc vui chứ? 
				- Th́ anh đang có đây thôi, - Robert nói đầy vẻ hạnh phúc, - Chỉ 
				bằng việc ôm em. 
				- Chúa ơi, em nhớ anh quá. - Susan lùi lại và thốt lên. - Nếu có 
				chuyện ǵ xảy ra với anh th́ em nghĩ là em chết mất. 
				- Chẳng bao giờ có chuyện ǵ xảy ra với anh cả. 
				- Anh hứa chứ? 
				- Anh hứa. 
				- Trông anh có vẻ mệt mỏi. - Cô nh́n anh, một thoáng lo lắng. 
				- Đó là một khoá học rất căng thẳng, - Robert thừa nhận. Anh đă 
				nói bớt đi. Với tất cả bài vở phải học, cùng với các bài thực 
				hành trực tiếp, không học viên nào có thể ngủ quá vài tiếng một 
				đêm. Không có mấy lời phàn nàn chỉ v́ một lư do rất đơn giản: Họ 
				đều biết rơ rằng cái mà họ đang học, một ngày nào đó có thể cứu 
				mạng sống cho họ. 
				- Em biết chính xác là anh cần ǵ bây giờ, - Susan tuyên bố. 
				- Anh sẽ nói. - Robert nhoẻn cười. Anh ôm lấy cô. 
				- Khoan đă. Cho em vài phút. Anh cởi quần áo đi. 
				- Anh nh́n cô bước đi và nghĩ, Sao người ta lại có thể may mắn 
				thế nhỉ? Anh bắt đầu cởi quần áo. 
				Vài phút sau, Susan quay lại. Cô dịu dàng nói. 
				- Hừm, em thích anh trần truồng cơ. 
				Anh nghe thấy giọng người hướng dẫn viên nói: 
				"Một số trong các bạn sẽ hoạt động trần trụi. Điều đó có nghĩa 
				là bạn chỉ có một ḿnh và không có sự hỗ trợ nào?" Ḿnh đang lao 
				vào chuyện ǵ thế nhỉ? Anh đă đẩy Susan vào chuyện ǵ vậy? 
				Cô dẫn anh vào trong pḥng tắm. Bồn tắm được bơm đầy nước có lẫn 
				nước hoa, và căn pḥng mờ tối với bốn ngọn nến lung linh. 
				- Đón anh về nhà, anh yêu. - Cô cởi chiếc váy ngủ mỏng dính và 
				bước vào bồn tắm. Anh theo bước cô. 
				- Susan. 
				- Đừng nói. Hăy dựa vào người em. 
				- Anh cảm thấy hai bàn tay cô vuốt ve trên lưng và hai bả vai 
				anh, cảm thấy những đường cong mềm mại của thân thể cô áp vào 
				người anh, và anh quên đi nỗi mệt của ḿnh. Họ làm t́nh với 
				nhau, trong làn nước ấm, và khi họ đă lau khô người, Susan nói: 
				- Chơi trước thế là quá nhiều đấy. Bây giờ ḿnh mới thật sự vào 
				cuộc nhé. 
				Họ lại làm t́nh và sau đó, khi Robert sắp thiếp đi ôm Susan 
				trong tay, anh nghĩ, sẽ luôn luôn là như thế nầy. Măi măi. 
				 
				Chương 17 
				 
				 
				
				Ngày thứ hai sau đó, Robert đến làm việc ngày đầu tiên tại Pḥng 
				17 Cục T́nh báo hải quân tại Lầu Năm Góc. Đô đốc Whittaker nồng 
				nhiệt:  
				- Chúc mừng đă trở về, Robert. Rơ ràng 
				là anh đă rất gây ấn tượng với đại tá Johnson.  
				- Chính ông ta cũng rất gây ấn tượng. 
				- Robert mỉm cười.  
				Ngồi uống cà phê, vị đô đốc hỏi:
				 
				- Anh đă sẵn sàng làm việc chưa hả?
				 
				- Rất sẵn sàng.  
				- Tốt. Chúng ta có một vụ việc ở 
				Rhodesia…  
				Làm việc ở Cục T́nh báo hải quân thậm 
				chí c̣n hấp dẫn hơn cả những ǵ Robert đă chờ đón. Mỗi nhiệm vụ 
				một khác, và Robert được giao những việc được phân loại là tối 
				nhạy cảm. Anh mang về một người đào nhiệm cho biết hoạt động 
				buôn lậu ma tuư của Noriega ở Panama, phát hiện một điệp viên 
				làm việc cho Marcos trong toà lănh sự quán Mỹ ở Manila, và giúp 
				dựng lên một trạm nghe lén ở Morocco. Anh được cử đi công tác 
				tới Nam Phi và vùng Đông Âu. Điều duy nhất làm anh phiền muộn là 
				việc phải xa Susan lâu. Anh không muốn phải xa cô và anh thường 
				nhớ cô một cách khủng khiếp. Anh có sự hứng thú trong công việc 
				của ḿnh nhưng Susan th́ không có ǵ cả.  
				Công việc nghiệp vụ của Robert cứ ngày 
				càng tăng lên. Anh ngày càng ít khi có mặt ở nhà, và đó chính là 
				thời gian mà vấn đề đối với Susan trở nên nghiêm trọng.
				 
				Mỗi khi Robert về đến nhà, anh và 
				Susan thường lao vào ṿng tay của nhau một cách đầy thèm khát và 
				rồi làm t́nh đầy cuồng nhiệt. Nhưng những lúc như thế mỗi ngày 
				mỗi thưa ra. Với Susan dường như ngay sau khi Robert trở về th́ 
				anh lại lập tức bị phái đi với một nhiệm vụ mới.  
				Chuyện càng xấu thêm khi Robert không 
				thể nào bàn công việc của anh với cô. Susan không hề biết anh đi 
				đâu, làm ǵ. Cô chỉ biết rằng anh liên quan với những công việc 
				nguy hiểm và cô lo sợ rằng một ngày nào đó anh sẽ không bao giờ 
				trở về nữa. Cô không dám hỏi anh. Cô cảm thấy ḿnh như một người 
				lạ, hoàn toàn bị tách khỏi một phần quan trọng trong đời sống 
				của anh. Đời sống của họ. Ḿnh không thể tiếp tục như thế nầy 
				được. Susan quyết định.  
				Khi Robert trở về sau bốn tuần đi công 
				tác ở Trung Mỹ, Susan nói:  
				- Robert, em nghĩ chúng ta nên nói 
				chuyện với nhau.  
				- Có chuyện ǵ vậy? - Robert hỏi. Anh 
				đă biết là có chuyện ǵ.  
				- Em sợ. Chúng ḿnh đang mất nhau, và 
				em không muốn thế. Em không thể chịu được.  
				- Susan.  
				- Khoan đă. Để em nói nốt. Anh có biết 
				trong bốn tháng qua chúng ḿnh được ở bên nhau bao lâu không? 
				Chưa đầy hai tuần. Mỗi khi anh trở về, em cảm thấy dường như anh 
				là một người khách chứ không phải là chồng em.  
				Anh ôm chặt Susan vào trong ḷng.
				 
				- Em biết là anh yêu em đến thế nào 
				mà.  
				- Xin đừng để chuyện ǵ xảy ra cho 
				chúng ḿnh. - Cô tựa đầu vào anh.  
				- Anh sẽ không để như thế, - anh hứa. 
				- Anh sẽ nói chuyện với Đô đốc Whittaker.  
				- Bao giờ nào?  
				- Ngay lập tức.  
				***  
				- Đô đốc sẽ gặp ông bây giờ, thưa ông 
				chỉ huy.  
				- Cảm ơn.  
				Đô đốc Whittaker đang ngồi sau bàn làm 
				việc, kư giấy tờ. Khi Robert bước vào, ông ngẩng lên và mỉm 
				cười.  
				- Chúc mừng đă trở về và xin có lời 
				khen ngợi. Công việc của anh làm ở El Salvador thật là tuyệt 
				vời.  
				- Cảm ơn ngài.  
				- Mời ngồi. Tôi có thể mời anh chút cà 
				phê chứ?  
				- Không, xin cảm ơn Đô đốc.  
				- Anh muốn nói chuyện với tôi hả? Thư 
				kư của tôi nói là có việc khẩn cấp. Tôi có thể làm ǵ cho anh 
				nào?  
				Thật là khó mở đầu.  
				- Ồ thưa ngài, đây là chuyện cá nhân 
				thôi. Tôi đă cưới vợ chưa đầy hai năm và…  
				- Anh có một sự lựa chọn tuyệt vời 
				đấy, Robert. Susan là một phụ nữ đáng yêu.  
				- Vâng, tôi đồng ư như vậy. Vấn đề là 
				ở chỗ tôi đi xa hầu hết thời gian, và cô ấy bất hạnh về chuyện 
				đó - Anh vội nói thêm. - Và cô ấy hoàn toàn có quyền như vậy. Đó 
				không phải là chuyện b́nh thường.  
				Đô đốc Whittaker dựa người trên lưng 
				ghế và trầm ngâm nói:  
				- Tất nhiên là anh không được làm việc 
				trong điều kiện b́nh thường. Đôi lúc phải có những hy sinh.
				 
				- Tôi biết, - Robert bướng bỉnh đáp, - 
				nhưng tôi sẽ không hy sinh cuộc sống vợ chồng của tôi. Điều đó 
				là quá sức đối với tôi.  
				- Tôi hiểu. Thế anh yêu cầu ǵ nào? - 
				Vị Đô đốc nh́n anh ḍ xét.  
				- Tôi hy vọng là ngài có thể t́m cho 
				tôi một vài công việc mà tôi không phải xa nhà nhiều như vậy. 
				Hẳn phải có cả trăm công việc cho tôi ở quanh đây.  
				- Nghĩa là gần nhà hơn.  
				- Vâng.  
				Vị đô đốc chậm răi nói:  
				- Chắc chắn là anh sẽ toại nguyện. Tôi 
				không cho là không thể dàn xếp được một chuyện như vậy.
				 
				Robert mỉm cười nhẹ nhơm.  
				- Ngài thật tốt bụng, thưa Đô đốc. Tôi 
				rất biết ơn về điều đó  
				- Phải, tôi nghĩ chắc chắn là chúng ta 
				có thể thu xếp chuyện đó. Hăy nói hộ tôi với Susan là vấn đề đă 
				được giải quyết.  
				- Tôi không c̣n biết cảm ơn ngài như 
				thế nào cho phải. - Robert đứng dậy, rạng rỡ.  
				Đô đốc Whittaker vẫy tay ngỏ ư cho anh 
				đi ra.  
				- Tôi không thể để chuyện ǵ xảy ra 
				đối với một nhân viên quư báu như anh được. C̣n bây giờ th́ hăy 
				về nhà với người vợ trẻ của anh đi.  
				Khi Robert nói lại với Susan, cô sướng 
				run lên. Cô choàng tay ôm lấy anh.  
				- Ôi anh yêu. Thật là tuyệt diệu.
				 
				- Anh sẽ xin ông ta nghỉ vài tuần để 
				chúng ta có thể có một chuyến đi đâu đó. Nó sẽ là tuần trăng mật 
				thứ hai của chúng ta.  
				- Em đă quên mất thế nào là một tuần 
				trăng mật rồi, - Susan th́ thầm. - Hăy cho em thấy đi!
				 
				Robert đă cho cô thoả ḷng.  
				***  
				Sáng hôm sau, Đô đốc Whittaker cho gọi 
				Robert.  
				- Tôi muốn anh biết rằng tôi đang thu 
				xếp vấn đề mà chúng ta bàn ngày hôm qua.  
				- Cảm ơn Đô đốc. - Bây giờ là lúc nói 
				đến chuyện xin nghỉ phép đây. - Thưa ngài…  
				Đô đốc Whittaker nói:  
				- Robert, có chuyện thế nầy. - Vị Đô 
				đốc bắt đầu đi đi lại lại Khi ông cất lời, giọng ông ta đầy vẻ 
				lo lắng sâu sắc. - Tôi vừa được thông báo rằng CIA đă bị đối 
				phương cấy người vào. Dường như có một sự tiết lộ đều đặn các 
				thông tin tối mật. Tất cả những ǵ họ biết về điệp viên nầy chỉ 
				là cái mật danh Con Cáo của anh ta. Hiện nay anh ta đang 
				ở Argentina. Họ cần một người bên ngoài CIA lo cho vụ nầy. Giám 
				đốc CIA đă yêu cầu anh. Họ muốn anh t́m ra điệp viên kia và mang 
				anh ta về đây. Tôi đă bảo với họ là quyết định nầy tuỳ thuộc ở 
				anh. Anh có muốn nhận nó hay không?  
				- Tôi e rằng phải bỏ qua nó thôi, thưa 
				Đô đốc. - Robert lưỡng lự.  
				- Robert, tôi tôn trọng quyết định của 
				anh. Anh đă phải đi liên tục và chưa bao giờ từ chối một nhiệm 
				vụ nào. Tôi biết là điều đó không dễ dàng ǵ đối với đời sống vợ 
				chồng của anh.  
				- Thưa ngài, tôi muốn nhận nhiệm vụ 
				nầy. Chỉ có điều - Anh không cần phải nói đâu, Robert. Ư kiến 
				của tôi về công việc và sự cống hiến của anh vẫn giữ nguyên.
				 
				- Tôi chỉ mong ở anh có một điều thôi.
				 
				- Điều ǵ vậy thưa Đô đốc?  
				- Ông phó giám đốc CIA yêu cầu được 
				gặp anh, bất luận quyết định của anh là thế nào. V́ phép lịch 
				sự. Anh không phiền ḷng chứ?  
				- Tất nhiên là không, thưa ngài.
				 
				Ngày hôm sau, Robert lái xe đến 
				Langley để gặp viên phó giám đốc CIA.  
				- Xin mời ngồi, ông sĩ quan, - Viên 
				phó giám đốc nói khi Robert bước vào pḥng đầu căn nhà rộng lớn. 
				- Tôi đă nghe nhiều về ông. Tất nhiên là toàn những lời tốt đẹp 
				cả.  
				- Cảm ơn ngài.  
				Đó là một người đàn ông đă sang tuổi 
				sáu mươi, dáng người mảnh khảnh với mái tóc bạc trắng và một bộ 
				ria mép nhỏ cứ động đậy mỗi khi ông ta hút píp thuốc. Tốt nghiệp 
				Đại học Yale, ông ta ra nhập Cục phục vụ chiến lược (OSS) trong 
				chiến tranh thế giới thứ hai và rồi vào CIA khi cơ quan nầy được 
				thành lập sau chiến tranh và dần dần lên tới chức vụ hiện nay 
				của một trong những cơ quan t́nh báo lớn nhất và hùng mạnh nhất 
				thế giới.  
				Ông sĩ quan, tôi muốn ông biết rằng 
				tôi tôn trọng quyết định của ông.  
				Bellamy gật đầu.  
				- Tuy nhiên, có một việc mà tôi cảm 
				thấy cần phải lưu ư với ông.  
				- Chuyện ǵ vậy, thưa ngài?  
				- Tổng thống đích thân tham gia vào 
				chiến dịch lột mặt nạ của Con Cáo.  
				- Thưa ngài, tôi đă không biết điều 
				đó.  
				- Ông coi nó, cũng như tôi nữa, là một 
				trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của cơ quan nầy kể từ khi 
				ra đời đến nay. Tôi có biết về chuyện của gia đ́nh ông, và tôi 
				chắc rằng Tổng thống cũng thông cảm. Ông thực sự là một người 
				đàn ông có khuynh hướng gia đ́nh. Nhưng việc ông không nhận 
				nhiệm vụ nầy có thể, tôi phải nói thế nào nhỉ, làm xấu mặt Cục 
				T́nh báo Hải quân và Đô đốc Whittaker.  
				- Đô đốc không có liên quan ǵ tới 
				quyết định của tôi thưa ngài, - Robert nói.  
				- Tôi hiểu điều đó, ông sĩ quan, thế 
				nhưng Tổng thống có hiểu như vậy hay không?  
				Tuần trăng mật sẽ phải bị hoăn lại 
				mất, Robert nghĩ.  
				Khi Robert báo tin với Susan, anh nhẹ 
				nhàng nói:  
				- Đây sẽ là chuyến đi công tác ra nước 
				ngoài cuối cùng của anh. Sau chuyến nầy, anh sẽ ở nhà nhiều đến 
				mức em phát chán lên cho mà xem.  
				Cô mỉm cười với anh.  
				- Trên đời nầy làm ǵ có nhiều thời 
				gian đến thế.  
				- Chúng ḿnh sẽ ở bên nhau măi măi.
				 
				Cuộc săn đuổi Con Cáo là một 
				trong những công việc tuyệt vọng nhất mà Robert từng gặp. Anh đă 
				t́m được dấu vết của hắn ở Argentina nhưng chậm so với con mồi 
				một ngày. Những dấu vết dẫn tới Tokyo và Trung Quốc, rồi 
				Malaisia. Dù Con Cáo là ai không biết, hắn để lại một 
				chút dấu vết đủ để dẫn đến nơi hắn đă có mặt nhưng không bao giờ 
				đến được nói hắn đang có mặt.  
				Hết ngày rồi đến tuần, hết tuần rồi 
				đến tháng, và Robert luôn ở phía sau Con Cáo. Hầu như 
				ngày nào anh cũng gọi điện cho Susan. Thoạt đầu th́ là: "Anh sẽ 
				trở về nhà sau vài ngày thôi, em yêu". Và rồi, "Anh có thể về 
				nhà vào tuần tới". Và sau cùng "Anh không rơ là khi nào th́ sẽ 
				về được". Cuối cùng, Robert đă phải bỏ cuộc. Anh đă bám theo dấu 
				vết Con Cáo suốt hai tháng rưỡi mà không có kết quả ǵ.
				 
				Khi anh trở về với Susan, cô có vẻ 
				thay đổi. Hơi lạnh nhạt một chút.  
				- Anh xin lỗi, em yêu, - Robert xin 
				lỗi. - Anh không hề biết là phải mất nhiều thời gian như thế. 
				Chỉ là…  
				- Họ sẽ không bao giờ buông tha anh, 
				có phải không, Robert?  
				- Ǵ cơ? Tất nhiên là họ sẽ phải buông 
				anh ra.  
				- Em không nghĩ như thế. Em đă nhận 
				việc làm ở bệnh viện Memorial ở Washington. - Cô lắc đầu.
				 
				- Em nói ǵ? - Anh giật ḿnh.
				 
				- Em sẽ lại là một y tá. Em không thể 
				cứ ngồi chờ anh trở về nhà với em, phiền muộn về việc anh đang ở 
				đâu và anh đang làm ǵ, phiền muộn không hiểu anh đă chết hay 
				c̣n sống nữa.  
				- Susan, anh…  
				- Cũng được thôi mà, anh yêu của em. 
				It nhất th́ em cũng sẽ làm được việc ǵ đó có ích trong những 
				lúc anh đi vắng. Điều đó sẽ làm cho sự chờ đợi trở nên nhẹ nhàng 
				hơn.  
				Và Robert không c̣n biết trả lời thế 
				nào. Anh báo cáo lại thất bại của ḿnh với Đô đốc Whittaker. Vị 
				Đô đốc tỏ ra thông cảm.  
				- Tôi đă có lỗi trong việc đồng ư để 
				anh làm nhiệm vụ đó Từ nay trở đi, chúng ta sẽ để cho CIA tự 
				giải quyết những vấn đề khốn kiếp của họ. Robert, tôi xin lỗi.
				 
				Robert nói với ông về việc Susan nhận 
				làm y tá.  
				- Có thể đó là một ư kiến hay đấy, - 
				Vị Đô đốc trầm ngâm nói. - Nó sẽ làm cho cuộc sống vợ chồng của 
				anh bớt căng thẳng. Thỉnh thoảng, nếu như ảnh có những công tác 
				ở hải ngoại, tôi chắc cũng đỡ rắc rối.  
				Cái gọi là thỉnh thoảng kia hoá ra gần 
				như liên tục. Đó chính là lúc cuộc hôn nhân thật sự bắt đầu tan 
				ră.  
				Susan làm việc tại bệnh viện Memorial 
				trên cương vị một y tá giúp việc ở pḥng mổ, và khi Robert có 
				nhà, cô thường cố gắng xin nghỉ để ở bên anh, nhưng càng ngày cô 
				càng bận rộn hơn với công việc.  
				- Em thật sự cảm thấy thích thú, anh 
				yêu ạ. Em cảm thấy em đang làm được một công việc có ích.
				 
				Cô thường nói chuyện với Robert về các 
				bệnh nhân của cô, và anh nhớ cô đă từng chăm sóc anh như thế 
				nào, cô đă giúp anh trở nên khoẻ mạnh và trở lại với cuộc sống 
				ra sao. Anh đă hài ḷng thấy rằng cô đang làm một công việc tốt 
				mà cô cảm thấy yêu thích, song có một thực tế là họ ngày càng 
				gặp nhau ít hơn. Khoảng cách về t́nh cảm giữa họ ngày càng rộng 
				ra. Có một sự ngượng ngập mà trước đây chưa bao giờ có. Họ như 
				hai người xa lạ, cố gắng một cách tuyệt vọng để bắt chuyện với 
				nhau.  
				Khi Robert trở lại Washington sau sáu 
				tuần công công tác tại Thổ Nhĩ Kỳ, anh đưa Susan đi ăn tối ở 
				Sans Souci.  
				Sulsan nói:  
				- Ở bệnh viện chỗ em mới có một bệnh 
				nhân. Anh ta bị một tai nạn máy bay khủng khiếp và các bác sĩ 
				nghĩ rằng anh ta khó có thể sống nổi, thế nhưng em sẽ chăm sóc 
				để anh ta có thể qua được. - Đôi mắt cô bừng sáng.  
				Vớí ḿnh, cô ấy cũng như vậy. Robert 
				nghĩ. Anh băn khoăn không biết liệu cô cũng cúi xuống bên người 
				bệnh mới nầy và nói: "Hăy mau khoẻ. Em đang đợi anh" hay không. 
				Anh cố dứt bỏ ư nghĩ đó.  
				- Robert, anh ta tuyệt lắm. Tất cả các 
				y tá đều phát điên lên v́ anh ta.  
				- Tất cả ư? Anh ngẫm nghĩ.  
				Trong ḷng anh nhen nhóm một chút nghi 
				ngờ, dằn vặt nhưng anh đă dẹp được ư nghĩ đó đi.  
				Họ gọi bữa ăn.  
				Ngày thứ bẩy tiếp đó, Robert đi Bồ Đào 
				Nha và ba tuần lễ sau, khi anh trở về, Susan mừng rỡ chào đón 
				anh.  
				- Ngày hôm nay, lần đầu tiên Monte đă 
				đi lại được. - Nụ hôn của cô đầy vẻ qua quưt.  
				- Monte?  
				- Monte Banks. Đó là tên anh ta. Anh 
				ta sẽ đâu vào đấy. Các bác sĩ đă không thể tin nổi, nhưng mà tụi 
				em sẽ không chịu đâu.  
				- Tụi em.  
				- Kể cho anh nghe về anh ta xem nào.
				 
				- Anh ta thật sự đáng mến. Anh ta luôn 
				luôn cho mấy đứa bọn em quà. Anh ta rất giàu có. Anh ta lái một 
				chiếc máy bay riêng và anh ta đă bị một tai nạn khủng khiếp, và…
				 
				- Những quà ǵ hả?  
				- Ồ, anh biết đấy, chỉ những thứ lặt 
				vặt ấy mà - kẹo, hoa, sách và đĩa hát. Anh ta muốn tặng những 
				chiếc đồng hồ đắt tiền cho tất cả bọn em nhưng tất nhiên là bọn 
				em phải từ chối rồi.  
				- Th́ tất nhiên.  
				- Anh ta có một chiếc du thuyền, những 
				con ngựa…  
				Đó là khi mà Robert bắt đầu gọi anh ta 
				là Cái túi tiền (moneybags).  
				Lần nào từ bệnh viện trở về nhà, Susan 
				cũng nói chuyện về anh ta.  
				- Robert, anh ta thật sự chân thành.
				 
				Chân thành là nguy hiểm đây.
				 
				- Và anh ta rất quan tâm đến người 
				khác. Anh có biết hôm nay anh ta đă làm ǵ không? Đă yêu cầu 
				tiệm Jockey gửi bữa trưa tới cho tất cả những y tá có mặt đấy.
				 
				Thằng cha nầy kinh tởm thật. Thật lố 
				bịch, Robert cảm thấy ḿnh trở nên cáu kỉnh.  
				- Cái thằng cha bệnh nhân tuyệt vời đó 
				của em đă có vợ chưa hả?  
				- Chưa, anh yêu. Nhưng sao cơ?
				 
				- Anh chợt nghĩ vậy thôi.  
				- Hăy v́ Chúa, anh không ghen đấy chứ? 
				- Cô cười vang.  
				- Với cái thằng cha già cỗi mới học đi 
				ấy ư? Tất nhiên là không.  
				Mẹ kiếp, dứt khoát là thế. Nhưng anh 
				không hề muốn làm phiền ḷng cô.  
				Khi Robert ở nhà, Susan cố không nhắc 
				tới bệnh nhân của cô, nhưng nếu cô không th́ Robert lại gợi 
				chuyện.  
				- Cái túi tiền thế nào rồi?  
				- Tên anh ta không phải là Cái túi 
				tiền, - Cô nói vẻ trách móc, mà là Monte Banks.  
				- Ǵ chả được.  
				Thật tiếc là cái thằng chó đẻ đó 
				không chết trong vụ tai nạn kia cho rảnh chuyện.  
				***  
				Hôm sau là ngày sinh nhật của Susan.
				 
				- Nầy, anh bảo nhé, - Robert sốt sắng 
				nói, - Chúng ta sẽ làm lễ kỷ niệm. Chúng ta sẽ đi và có một bữa 
				tối tuyệt vời ở đâu đó và…  
				- Em phải làm việc ở bệnh viện cho tới 
				8 giờ cơ.  
				- Cũng được. Anh sẽ tới đón em ở đó.
				 
				- Được đấy Monte muốn gặp anh lắm. Em 
				đă nói về anh rất nhiều cho anh ta nghe.  
				- Anh cũng muốn gặp thằng cha đó, - 
				Robert quả quyết với cô.  
				Khi Robert tới bệnh viện, người thường 
				trực nói:  
				- Xin chào ông sĩ quan. Susan đang làm 
				việc trên khoang chỉnh h́nh ở tầng ba. Cô ấy đang đợi ông đấy. - 
				Chị ta nhấc điện thoại lên.  
				Lúc Robert bước ra khỏi thang máy, 
				Susan đang đứng chờ anh trong bộ đồng phục trắng bong, và tim 
				anh đập rộn lên. Ôi, nàng sao mà đẹp thế.  
				- Xin chào người đẹp.  
				Susan mỉm cười, nhưng cảm thấy không 
				thoải mái một cách hơi lạ.  
				- Chào anh, Robert. Vài phút nữa là em 
				hết phiên trực. Nào đi. Em sẽ giới thiệu anh với Monte.
				 
				- Tôi đang sốt ruột đây.  
				Cô dẫn anh vào một pḥng riêng rộng 
				răi, đầy những sách và hoa quả, và nói:  
				- Monte, đây là chồng… em, anh Robert.
				 
				Robert đứng đó, nh́n người đàn ông nằm 
				trên giường. Anh ta lớn hơn anh chừng ba, bốn tuổi và rất giống 
				Paul Newman. Thoáng nh́n, Robert đă thấy coi thường anh ta.
				 
				- Tôi rất vui ḷng được gặp ông, ông 
				sĩ quan. Susan đă kể tất cả về ông cho tôi nghe.  
				Phải chăng đó là thứ chuyện họ nói với 
				nhau vào lúc nửa đêm khi cô ấy ở bên giường anh ta?  
				- Cô ấy rất tự hào về ông. - Cái túi 
				tiền nói thêm.  
				Thế đấy anh bạn, lại c̣n ném ra vài 
				mẩu bánh nữa.  
				Susan nh́n Robert, ḷng những mong anh 
				xử sự cho lịch thiệp. Anh phải cố gắng lắm.  
				- Tôi hiểu là ông sắp rời khỏi nơi 
				đây.  
				- Vâng, chủ yếu là nhờ có người vợ của 
				ông. Cô ấy là một người y tá kỳ diệu.  
				Nào, chàng thuỷ thủ. Anh nghĩ là em sẽ 
				để cho một gă nào đó được có tấm thân tuyệt vời nầy ư?
				 
				- Vâng, đó chính là đặc tính của cô 
				ấy. - Robert không thể nào giấu nổi vẻ cay đắng trong giọng nói 
				của ḿnh.  
				Bữa tiệc sinh nhật là cả một sự tuyệt 
				vọng. Susan chỉ những muốn nói chuyện về người bệnh nhân của cô.
				 
				- Anh ta có làm cho anh nhớ tới ai 
				không, anh yêu?  
				- Đến Boris Karloff.  
				- Sao anh cứ phải thô lỗ với anh ta 
				thế nhỉ?  
				- Anh nghĩ là anh xử sự lịch thiệp. Có 
				đíều anh không thích hắn ta. - Anh lạnh lùng nói.  
				- Thậm chí anh chưa hề quen biết ǵ. 
				Anh ta có ǵ để anh không thích nào? - Susan nh́n anh chằm chằm.
				 
				- Anh không thích cái lối hắn ta nh́n 
				em. Anh không thích cái lối em nh́n hắn ta. Anh không thích thấy 
				cuộc sống vợ chồng cửa chúng ta đang tiêu tan như thế nầy. Lạy 
				Chúa, anh không muốn mất em.  
				- Xin lỗi. Anh cho là anh hơi mệt.
				 
				Họ im lặng suốt bữa ăn.  
				Sáng hôm sau, khi Robert chuẩn bị tới 
				sở, Susan nói:  
				- Anh Robert, em có chuyện muốn nói 
				với anh…  
				Và anh cảm thấy như bị một cú đánh vào 
				bụng.  
				Anh không thể nào chịu được việc cô 
				sắp nói thành lời những ǵ đang xảy ra.  
				- Susan…  
				- Anh biết là em yêu anh. Em sẽ luôn 
				yêu anh. Anh là người đàn ông đáng yêu nhất, tuyệt vời nhất mà 
				em từng biết.  
				- Thôi nào…  
				- Không, để em nói nốt. Em thật khó 
				nói ra chuyện nầy. Trong năm qua, chúng ta khơng mấy khi được 
				sống bên nhau: Chúng ta không c̣n một cuộc sống vợ chồng nữa. 
				Chúng ta đă xa cách nhau.  
				Mỗi lời nói của cô như một phát dao 
				đâm vào thân thể anh.  
				- Em nói đúng, - anh nói với một vẻ 
				tuyệt vọng. - Anh sẽ thay đổi. Anh sẽ thôi việc ở cơ quan. Ngay 
				bây giờ. Hôm nay. Chúng ḿnh sẽ đi đâu đó và…  
				Cô lắc đầu:  
				- Không, anh Robert. Cả hai chúng ta 
				đều biết là như thế không được. Anh đang làm công việc mà anh 
				muốn làm. Nếu v́ em mà anh bỏ việc, anh sẽ luôn luôn dằn vặt về 
				chuyện đó. Đây không phải là chuyện là lỗi của ai. Có điều - 
				Chuyện là thế. Em muốn ly dị.  
				Tất cả dường như tối sầm trước mắt 
				anh. Đột nhiên, anh cảm thấy bụng quặn lên.  
				- Đừng nghĩ như thế, Susan. Chúng ta 
				sẽ t́m cách để…  
				- Quá muộn rồi. Em đă nghĩ về chuyện 
				nầy từ lâu lắm rồi. Suốt cả thời gian anh đi xa và em ở nhà mong 
				ngóng anh, em đă nghĩ về điều nầy. Chúng ta đă đang sống những 
				cuộc đời riêng rẽ. Em cần hơn thế kia. Em cần cái mà anh không 
				thể cho em được nữa.  
				Anh đứng lặng, cố kiềm chế t́nh cảm 
				của ḿnh.  
				- Chuyện nầy - Chuyện nầy có liên quan 
				ǵ tới thằng cha Cái túi tiền không hả?  
				- Monte đă ngỏ lời cầu hôn với em. – 
				Susan lưỡng lự.  
				- Và em sẽ bằng ḷng ư? - Anh cảm thấy 
				tim ḿnh thắt lại.  
				- Vâng.  
				Đó là cơn ác mộng điên rồ. Không phải 
				chuyện nầy đang xảy ra, anh nghĩ. Không thể như thế được. Nước 
				mắt anh ứa ra.  
				Susan choàng tay, ôm chặt lấy anh.
				 
				- Em sẽ không bao giờ cảm thấy yêu một 
				ngứời đàn ông như em đă cảm thấy yêu anh được. Em yêu anh bằng 
				cả tâm hồn và trái tim ḿnh. Em sẽ luôn luôn yêu anh. Anh là 
				người bạn yêu quư nhất của em. - Cô lùi ra và nh́n vào mắt anh. 
				- Song như thế chưa đủ. Anh có hiểu thế không?  
				Tất cả những ǵ anh hiểu là cô đang ṿ 
				xé anh.  
				- Chúng ta có thể cố gắng. Chúng ta sẽ 
				làm lại và…  
				- Anh Robert, em xin lỗi. - Giọng cô 
				nghẹn lại. - Em thật xin lỗi, nhưng mọi chuyện đđ hết rồi.
				 
				Susan bay đi Reno để làm thủ tục ly 
				dị, và chàng sĩ quan Robert Bellamy say rượu suốt hai tuần lễ 
				liền.  
				***  
				Nhưng thói quen cũ thật khó mất. 
				Robert gọi điện cho một người bạn ở Cục Điều tra Liên bang 
				(FBI).  
				Trước đây, Al Traynor đă nhiều dịp có 
				quan hệ với Robert và anh tin cậy anh ta.  
				- Tray, tôi cần cậu giúp đờ.
				 
				- Giúp đỡ? Cậu cần một bác sĩ thần 
				kinh th́ có. Quái quỷ thế nào mà cậu lại để mất Susan thế hả?
				 
				Chuyện của họ có thể đă lan đi khắp cả 
				thành phố. Đó là cả một câu chuyện dài và buồn.  
				- Robert, tôi thật sự lấy làm tiếc. Cô 
				ấy là một phụ nữ tuyệt vời. Tôi… mà thôi. Tôi có thể giúp ǵ 
				cậu?  
				- Tôi muốn cậu kiểm tra về một người 
				trên máy tính điện tử.  
				- Được rồi. Cậu cho tôi cái tên.
				 
				- Monte Banks. Chỉ là chuyện thẩm tra 
				thông thường thôi.  
				- Rồi. Cậu muốn biết những ǵ?
				 
				- Có thể là hắn ta không có trong hồ 
				sơ của cậu. Tray ạ, nhưng nếu có… hắn ta có bao giờ bị phạt v́ 
				chuyện đậu xe, đánh chó, vượt đèn đỏ chẳng hạn? Chuyện thông 
				thường ấy mà.  
				- Chắc chắn là thế rồi.  
				- Tôi muốn biết hắn kiếm tiền ở đâu 
				ra. Tôi muốn biết về tiểu sử của hắn.  
				- Vậy hả, chỉ chuyện thông thường, 
				phải vậy không?  
				- Và nầy, Tray, chỉ giữ chuyện nầy 
				riêng giữa chúng ta thôi nhé. Đó là chuyện riêng mà. Được chứ?
				 
				- Không có ǵ cả. Tôi sẽ gọi cho cậu 
				vào sáng mai.  
				- Cảm ơn. Tôi nợ cậu một bữa trưa đấy.
				 
				- Bữa tối.  
				- Cũng được.  
				Robert gác máy và nghĩ: H́nh ảnh một 
				người đang vớ những cọng rơm. Ḿnh hy vọng vào chuyện ǵ nhỉ, 
				rằng hắn ta và tên Jack kẻ cướp và Susan lại lao trở vào ṿng 
				tay ḿnh chăng?  
				***  
				Sáng sớm ngày hôm sau, Dustin Thornton 
				cho gọi Robert.  
				- Ông đang làm ǵ vậy, ông sĩ quan?
				 
				Ông ta thừa biết ḿnh đang làm ǵ mà, 
				Robert nghĩ. - Tôi đang giải quyết hồ sơ của tôi về nhà ngoại 
				giao Singapore, và…  
				- Việc đó có vẻ như nhưng không chiếm 
				bao nhiêu thời gian của ông.  
				- Ông nói ǵ ạ?  
				- Ông sĩ quan, trong trường hợp ông 
				quên, tôi xin nhắc là Cục T́nh báo hải quân không được phép điều 
				tra về các công dân Mỹ.  
				Robert nh́n ông ta, kinh ngạc.
				 
				- Ông…  
				- Tôi mới được bên FBI thông báo rằng 
				ông đang t́m cách thu thập những thông tin hoàn toàn không thuộc 
				thấm quyền của Cục nầy.  
				Robert cảm thấy một cơn giận chợt bùng 
				lên. Thằng chó đẻ Traynor kia đă phản bội anh. Không ẹn ǵ là 
				bạn bè nữa.  
				- Đó là một chuyện cá nhân, - Robert 
				nói. - Tôi…  
				- Các máy tính của FBI không phải là 
				để phục vụ cho những sở thích của ông, cũng không phải là để 
				giúp ông xía vào đời tư của các công dân. Ông đă rơ chưa?
				 
				- Rơ.  
				- Thế thôi.  
				Robert chạy lao về phía pḥng của anh. 
				Những ngón tay anh run rẩy khi quay số 202-324-3000. Một giọng 
				trả lời:  
				- FBI đây.  
				- Cho tôi gặp Al Traynor.  
				- Xin chờ một chút.  
				Một phút sau, có tiếng một người đàn 
				ông.  
				- Xin chào. Tôi có thể giúp ǵ ông 
				vậy?  
				- Vâng. Tôi muốn gặp Al Traynor.
				 
				- Tôi xin lỗi. Điệp viên Traynor không 
				c̣n ở cơ quan nầy.  
				- Cái ǵ? - Robert cảm thấy giật ḿnh.
				 
				- Điệp viên Traynor đă bị thuyên 
				chuyển.  
				- Thuyên chuyển à?  
				- Phải.  
				- Đến đâu?  
				- Boiso. Nhưng anh ta sẽ c̣n chưa có 
				mặt tại đó một thời gian. Tôi e là một thời gian dài đấy.
				 
				- Ư ông nói ǵ vậy?  
				- Đêm qua, trong khi đang chạy trong 
				công viên Rock Creek, anh ta bị một chiếc xe đâm rồi bỏ chạy. 
				Ông có thể tin được không hả? Một thằng khốn kiếp nào đó hẳn đă 
				uống say đến phát rồ. Hắn lao xe của hắn trên đường chạy. 
				Traynor bị quăng đi xa tới hơn chục mét. Anh ta khó mà qua khỏi 
				được.  
				Robert gác máy. Đầu óc anh quay cuồng. 
				Chuyện quỷ quái ǵ đang xảy ra thế nhỉ? Monte Banks, cái thằng 
				giàu có, mắt xanh ấy đang được bảo vệ. Bảo vệ cái ǵ? Ai bảo vệ 
				hắn? Lạy Chúa, Robert nghĩ, Susan đang lao vào chuyện ǵ không 
				biết nữa?  
				Anh đến thăm cô ngay chiều hôm đó.
				 
				Cô ở tại căn hộ mới của ḿnh, một căn 
				hộ kép đẹp đẽ trên phố M. Anh tự hỏi không biết có phải Cái túi 
				tiền đă mua cho cô hay không. Đă mấy tuần họ không gặp nhau, và 
				anh như nghẹt thở khi nh́n thấy cô.  
				- Susan, xin lỗi v́ đă đường đột như 
				thế nầy. Anh biết là anh đă hứa không làm vậy.  
				- Anh nói là có chuyện ǵ đó nghiêm 
				trọng.  
				Đúng thế. Bây giờ, khi đă ở đây, anh 
				không biết phải bắt đầu như thế nào. Susan, anh đến để cứu em ư? 
				Cô ấy sẽ cười vào mặt anh.  
				- Có chuyện ǵ vậy?  
				- Đó là chuyện về Monte.  
				- Chuyện ǵ về anh ấy vậy? - Cô chau 
				mầy.  
				- Đây mới là phần khó khăn. Làm sao 
				anh có thể nói với cô chuyện mà chính anh cũng chưa biết? Tất cả 
				những ǵ anh biết là có một chuyện ǵ đó nghiêm trọng lắm. Đúng 
				là Monte Banks có trong bộ nhớ của FBI, với một phiêu lưu ư: 
				Không được tiết lộ thông tin nào nếu không được sự cho phép 
				thích hợp. Và việc thẩm tra đă lập tức bị đá ngược lại đối với 
				Cục T́nh báo hải quân. V́ sao?  
				- Anh không nghĩ là anh ta, anh ta có 
				ǵ đó có vẻ không thật.  
				- Em không hiểu.  
				- Susan, anh ta kiếm tiền từ đâu hả?
				 
				Cô có vẻ ngạc nhiên trước câu hỏi nầy.
				 
				- Monte có một doanh nghiệp xuất khẩu 
				rất thành công.  
				Cái thứ vỏ bọc cổ lỗ nhất trên thế 
				gian nầy.  
				Lẽ ra anh phải biết là không nên đến 
				đây để đưa ra cái lập luận nửa vời của ḿnh mới phải. Anh cảm 
				thấy ḿnh ngớ ngẩn. Susan đang đợi câu trả lời và anh không có 
				ǵ để nói.  
				- V́ sao anh lại hỏi như thế?
				 
				- Anh, anh chỉ muốn tin chắc rằng anh 
				ta là người thích hợp cho em mà thôi, - Robert nói không ra đâu 
				vào đâu.  
				- Ôi Robert. - Giọng cô đầy vẻ thất 
				vọng.  
				Anh cho là anh không nên đến đây. Đúng 
				thế, anh bạn.  
				- Anh xin lỗi em.  
				Susan bước đến và ôm lấy anh. Cô dịu 
				dàng nói.  
				- Em hiểu.  
				Nhưng cô đâu có hiểu ǵ. Cô đă không 
				hiểu rằng một cuộc thẩm tra b́nh thường về Monte Banks đă bị 
				chặn đứng lại, hất ngược về Cục T́nh báo hải quân và cái người 
				toan t́m kiếm những thông tin đó đă bị loại bỏ.  
				Có những cách khác để thu thập thông 
				tin và Robert bắt tay vào việc t́m kiếm chúng một cách thận 
				trọng.  
				Anh gọi điện cho một người bạn làm ở 
				tạp chí Forbes.  
				- Robert. Lâu quá không gặp. Tôi có 
				thể giúp ǵ anh thế?  
				Robert nói chuyện với anh ta.
				 
				- Monte Banks à? Rất thú vị là anh đă 
				nhắc đến tên anh ta. Chúng tôi nghĩ rằng anh ta phải có tên 
				trong danh sách Bốn trăm người giàu nhất của tờ Forbes nầy, 
				nhưng mà không kiếm đâu ra thông tin về anh ta cả. Anh có ǵ cho 
				chúng tôi không đấy?  
				Một con số không.  
				Robert đi tới thư viện công cộng t́m 
				kiếm cái tên Monte Banks trong cuốn Tiểu sử các nhân vật. Hắn ta 
				không có tên trong đó.  
				- Anh quay lại t́m kiếm trong bộ phận 
				lưu trữ các số báo Bưu điện Washington xung quanh thời gian 
				Monte Banks bị tai nạn máy bay. Có một mẩu nhỏ về vụ tai nạn 
				nầy. Nó nhắc đến Banks như một nhà doanh nghiệp.  
				Tất cả đều có vẻ trong sáng cả. Có thể 
				ḿnh nhầm, Robert nghĩ. Có thể thằng cha Monte Banks nầy 
				chẳng có vấn đề ǵ cả. Chính phủ đă không bảo vệ cho hắn nếu như 
				hắn là một tên gián điệp, một tên tội phạm hoặc một tên buôn lậu 
				ma tuư… Sự thật là ḿnh vẫn đang cố bám vào Susan mà thôi.
				 
				***  
				Trở lại với cuộc sống độc thân là một 
				nỗi cô đơn, một sự trống rỗng, một chuỗi những ngày bận rộn và 
				những đêm mất ngủ. Một cơn sóng tuyệt vọng thường tràn lên anh 
				một cách bất chợt và anh thường phải khóc. Anh khóc cho bản thân 
				ḿnh, cho Susan và cho tất cả những ǵ mà họ đă mất. Sự hiện 
				diện của Susan có ở mọi nơi. Căn hộ nầy vẫn đầy kỷ niệm về cô. 
				Robert đau khổ với tất cả những điều nhắc nhở ấy, và mỗi pḥng 
				đều hành hạ anh với những hồi tưởng về giọng nói của Susan, 
				tiếng cười và sự nồng ấm của cô. Anh nhớ tất cả những đường cong 
				mềm mại trên thân thề cộ khi cô nằm trần truồng trên giường đợi 
				anh, và nỗi đau trong anh là không thể chịu đựng nổi.  
				Bạn bè quan tâm tới anh.  
				- Đừng phiền muộn, Robert.  
				Và sự quan tâm của họ đều thống nhất ở 
				một việc:  
				- Tớ sẽ kiếm cho cậu một con bé.
				 
				Họ là những cô gái xinh đẹp và gợi 
				t́nh, cao có, thấp có. Họ là những người mẫu, những cô thư kư, 
				những người làm nghề quảng cáo, những phụ nữ bỏ chồng và những 
				nữ luật sư. Nhưng không có ai trong số họ là Susan. Anh không có 
				ǵ chung với bất kỳ ai trong số họ, và việc cố chuyện tṛ một 
				chút với những cô gái xa lạ mà anh không hề quan tâm chỉ làm cho 
				anh cảm thấy cô đơn hơn. Robert không có ham muốn kéo một ai 
				trong số họ vào giường ngủ. Anh muốn có một ḿnh. Anh muốn quay 
				lại cuốn phim kia từ đầu và viết lại kịch bản của nó. Khi nh́n 
				lại, thật dễ thấy những sai lầm của anh, dễ thấy phải sửa lại 
				cái kịch bản với Đô đốc Whittaker như thế nào.  
				CIA bị thâm nhập bởi một người 
				mang mật danh Con Cáo. Ông phó giám đốc đă yêu cầu để anh t́m 
				kiếm hắn.  
				Không, thưa Đô đốc. Xin lỗi. Tôi 
				đang chuẩn bị đưa vợ tôi đi hưởng tuần trăng mật thứ hai.
				 
				***  
				Anh muốn thay đổi lại cuộc đời ḿnh, 
				để nó có một kết thúc đẹp đẽ. Nhưng đă quá muộn. Cuộc sống không 
				dành cho những cơ hội lần thứ hai. Anh đă hoàn toàn cô độc. Anh 
				tự đi mua sắm, tự nấu ăn và đi tới hiệu giặt là gần đó mỗi khi 
				anh ở nhà.  
				Đó là một thời gian cô đơn và khổ sở 
				nhất trong đời Robert. Nhưng thế cũng vẫn c̣n chưa phải là điều 
				tệ hại nhất. Một người phụ nữ làm nghề thiết kế thời trang xinh 
				đẹp mà anh gặp ở Washington đă mấy lần gọi điện mời anh đi ăn 
				tối. Robert thật sự không muốn, nhưng sau cùng th́ anh cũng nhận 
				lời. Cô ta đă chụẩn bị một bữa tối ngon lành cho hai người dưới 
				ánh sáng của những ngọn nến.  
				- Em là một đầu bếp giỏi, - Robert 
				nói.  
				- Chuyện ǵ em cũng giỏi cả. - Và 
				không có ǵ để nhẩm lẫn trong ư cô ta hết. Cô ta nhích lại gần 
				anh hơn. - Hăy để em chứng tỏ cho anh thấy nhé. - Cô ta đặt tay 
				lên hai đùi anh và đưa đầu lưỡi mơn trớn môi anh.  
				Đă lâu quá rồi, Robert nghĩ. Có thể là 
				quá lâu thật.  
				Họ cùng nhau lên giường, và trước sự 
				thất kinh của Robert, đó là một tai hoạ. Lần đầu tiên trong đời, 
				anh hoàn toàn bất lực. Anh cảm thấy nhục nhă.  
				- Đừng phiền ḷng, anh yêu, - Cô ta 
				nói. - Rồi đâu sẽ vào đấy thôi.  
				Cô ta đă nhầm.  
				Robert trở về nhà, cảm thấy ngượng 
				ngùng và chán nản. Anh biết rằng thật là điên rồ và ngớ ngần, 
				anh đă cảm thấy việc làm t́nh với một phụ nữ khác là một sự phản 
				bội đối với Susan. Sao ḿnh lại có thể ngu ngốc đến thế nhỉ?
				 
				Vài tuần sau đó, anh lại thứ làm t́nh 
				với một nữ thư kư xinh xắn ở Cục T́nh báo hải quân. Trên giường, 
				cô gái đầy nhục cảm, mơn trớn khắp thân thể anh và ngậm anh 
				trong cái miệng nóng ấm của cô. Nhưng không ăn thua ǵ. Anh chỉ 
				muốn có Susan. Sau lần ấy anh không thử nữa. Anh đă nghĩ tới 
				việc phải đến bác sĩ, nhưng lại thấy quá ngượng ngùng. Anh biết 
				câu trả lời đối với vấn đề của anh, và nó không hề có liên quan 
				ǵ đến chuyện y tế cả. Anh đành dồn tất cả sức lực của ḿnh vào 
				công việc.  
				Susan gọi điện cho anh ít nhất mỗi 
				tuần một lần.  
				"Đừng quên lấy quần áo ở chỗ hiệu 
				giặt, - Cô thường nói. Hoặc. "Em đang cho một cô giúp việc đến 
				chỗ anh để dọn dẹp căn hộ. Em cá với anh rằng nhà cửa rất lộn 
				xộn đấy".  
				Mỗi cú điện thoại lại làm cho sự đơn 
				độc càng trở nên khó chịu đựng hơn.  
				Cô đă gọi điện cho anh vào đêm trước 
				ngày cưới.  
				- Anh Robert, em muốn anh biết rằng 
				ngày mai em cưới.  
				Anh thấy ngạt thở. Anh hổn hển nói.
				 
				- Susan.  
				- Em yêu Monte, - Cô nói, nhưng em 
				cũng yêu anh. Em sẽ yêu anh đến chết. Em không muốn anh quên 
				điều đó.  
				C̣n biết đáp lại thế nào?  
				- Robert, anh có sao không?  
				Chắc chắn là không sao. Mạnh khoẻ. Trừ 
				một việc ḿnh là một thằng quan hoạn khốn kiếp. Bỏ cái tính từ 
				đó đi.  
				- Anh Robert?  
				- Anh không thể nào làm cô phiền ḷng 
				v́ chuyện của ḿnh.  
				- Anh khoẻ. Song, anh xin em một điều 
				thôi, được chứ, em yêu?  
				- Bất cứ điều ǵ mà em có thể làm 
				được.  
				- Đừng… đừng để hắn ta đưa em đi trong 
				tuần trăng mật tới những nơi mà chúng ta đă từng đến.  
				Anh cúp máy, lao ra ngoài và đi uống 
				đến say mèm.  
				 
				o0o 
				 
				
				Đó là chuyện một năm trước. Đó là quá khứ. Anh đă bị buộc phải 
				đối mặt với thực tế là giờ đây Susan thuộc về một người khác. 
				Anh buộc phải sống trong hiện tại. Anh có công việc để làm. Bây 
				giờ đă đến lúc phải nói chuyện với Leslie Mothershed, tay thợ 
				ảnh đă chụp những tấm h́nh và có tên của các nhân chứng mà 
				Robert có nhiệm vụ phải t́m kiếm trong chuyến công tác cuối cùng 
				nầy của anh. 
				 
				 
				
				
				
			 
			o0o 
				 
				   |