Tay Cự Phách   Sidney Sheldon Pages Previous  1  2  3  4  Next   
Chương 18

Tony đă đến Paris trước kia, nhưng lần này hoàn cảnh đă khác hẳn. Thành phố của ánh sáng đă bị mờ đi v́ sự chiếm đóng của quân Đức, nhưng nó đă thoát sự tàn phá, khi thành phố ấy được tuyên bố bỏ ngỏ. Dân chúng đă phải khổ sở rất nhiều và quân Đức Quốc xă đă cướp bóc nhiều thứ quư giá ở Viện bảo tàng Le Louvre. Mặc dầu vậy Tony vẫn thấy Paris tương đối nguyên vẹn. Hơn nữa, lần này anh sẽ sống ở đấy, sẽ là một thành phần của thành phố này, chứ không phải là một du khách. Anh có thể ở trong một dăy pḥng của Kate trên đại lộ Maréchal Foch, không bị hư hại v́ cuộc chiếm đóng, nhưng anh không làm như vậy. Anh thuê một căn hộ không có đồ đạc trong một ngôi nhà cổ sau lưng
Grand Parnasse. Căn hộ này gồm một pḥng khách có ḷ sưởi, một pḥng ngủ nhỏ và một cái bếp xinh xắn không có tủ lạnh. Giữa pḥng ngủ và bếp có xen một pḥng tắm với một bồn tắm có chân, một chậu rửa nhỏ, hoen ố và một bàn toạ đă găy, lúc có nước lúc không.
Bà chủ nhà mở miệng xin lỗi th́ Tony đă vội ngăn lại, “Như thế này là tuyệt hảo rồi”.
Suốt ngày chủ nhật, anh có mặt ở chợ trời. Ngày thứ hai, thứ ba, anh đi rảo ở các tiệm đồ cũ dọc theo Tả ngạn, rồi đến ngày thứ tư, anh đă có những đồ đạc căn bản cần thiết. Một chiếc giường vừa dùng làm sô pha, vừa làm giường ngủ, một chiếc bàn dơ bẩn, hai chiếc ghế độn quá chặt, một tủ áo cũ chạm trổ công phu, đèn, một bàn làm bếp ọp ẹp, và hai chiếc ghế thẳng lưng. Mẹ ḿnh mà trông thấy các thứ này chắc phải kinh hăi, Tony nghĩ thầm. Anh có thể nhét đầy căn hộ anh bằng những thứ đồ cổ vô giá, nhưng làm như thế là đóng vai tṛ của một nghệ sĩ trẻ người Mỹ ở Paris. Anh không muốn đóng vai tṛ mà dự định sẽ sống với vai tṛ ấy.
Bước kế tiếp là xin vào một trường hội hoạ tốt. Trường hội hoạ có uy tín nhất khắp nước Pháp là École des Beaux Arts của thành phố Paris. Tiêu chuẩn nhập học rất cao, và ít người Mỹ được được thâu nhận vào đó. Tony làm đơn xin vào học. Anh nghĩ thầm họ sẽ chẳng bao giờ nhận ḿnh vào học. Nhưng biết đâu họ sẽ nhận? Anh phải chứng tỏ cho mẹ anh thấy rằng anh đă đưa ra quyết định đúng. Anh nộp ba bức tranh của anh và chờ đợi bốn tuần lễ xem họ có chấp nhận hay không. Vào cuối tuần thứ tư, người gác cổng đưa cho anh một lá thư của nhà trường. Anh phải đến tŕnh diện vào ngày thứ hai sắp tới.
Trường Mỹ thuật Paris là một ṭa nhà bằng đá lớn, cao hai tầng với hàng chục lớp học đầy nhóc sinh viên. Tony đến tŕnh diện ông hiệu trưởng, giáo sư Gessand, một người cao to, trông có vẻ khó khăn, cổ rụt và môi mỏng dính.
“Các bức tranh của anh có vẻ tài tử”, ông nói với Tony, “nhưng anh cũng có nhiều hứa hẹn. Hội đồng đă lựa chọn anh v́ những ǵ không có trong những tranh ấy hơn là những ǵ đă có trong ấy. Anh có hiểu không?”
“Thưa giáo sư, tôi không hiểu rơ lắm ạ”.
“Rồi sẽ đến lúc anh hiểu thôi. Tôi giao anh cho giáo sư Cantal phụ trách. Ông ấy sẽ là thầy giáo dạy anh trong năm năm tới, nếu anh c̣n tồn tại được lâu như vậy”.
Tôi sẽ tồn tại lâu như vậy, Tony tự hứa với ḿnh.
Giáo sư Cantal là một người lùn tịt, với một cái đầu sói hoàn toàn, khiến ông ta phải che nó bằng một cái mũ nồi màu tím. Ông có cặp mắt nâu đậm, cái mũi củ hành và cặp môi giống như xúc xích. Ông chào đón Tony bằng câu nói: “Người Mỹ là hạng tay chơi tài tử, những kẻ man rợ. Tại sao anh lại đến đây?”
“Để học, thưa giáo sư”.
Giáo sư Cantal hứ một tiếng.
Có hai mươi lăm học sinh trong lớp, hầu hết là người Pháp. Các giá vẽ được bày ra khắp căn pḥng. Tony lựa một chiếc gần cửa sổ nh́n xuống một quán rượu b́nh dân. Rải rác xung quanh pḥng là những mấu đúc các bộ phận cơ thể bằng thạch cao theo các pho tượng Hi Lạp. Tony nh́n xung quanh để t́m một mẫu vẽ, nhưng chẳng cái nào cả.
“Bây giờ các anh bắt đầu”, giáo sư Cantal nói.
“Xin lỗi thầy, tôi… tôi không đem sơn màu theo”, Tony nói.
“Anh không cần sơn màu. Trong năm đầu tiên, anh chỉ học vẽ theo đúng cách thôi”.
Giáo sư chỉ các tượng Hi Lạp. “Anh sẽ vẽ những cái kia. Đối với anh, nó có vẻ đơn giản, nhưng tôi nói trước cho anh biết một điều: trước khi một năm học kết thúc, một nửa trong số các anh sẽ bị loại”. Giọng nói của ông trở nên sôi nổi, “Năm thứ nhất, anh học về cơ thể học. Năm thứ hai – cho những người nào qua được môn học ấy, anh sẽ vẽ theo những người mẫu sống, bằng sơn dầu. Năm thứ ba – tôi cam đoan với anh rằng lúc ấy sẽ c̣n rất ít người – anh sẽ vẽ tranh sơn màu với tôi, theo kiểu của tôi, tất nhiên là phải làm tốt hơn thế. Qua năm thứ tư và thứ năm, anh sẽ t́m ra được kiểu vẽ của riêng anh, tiếng nói của riêng anh. Thôi, bây giờ chúng ta bắt tay vào việc”.
Lớp học bắt đầu làm việc.
Ông giáo sư đi quanh pḥng, dừng lại ở từng giá vẽ để đưa ra lời chỉ trích hay b́nh luận. Khi đi đến bức vẽ của Tony, ông nói cộc lốc, “Không, như thế không được. Tôi chỉ thấy ở đây cái bên ngoài của cánh tay. Tôi muốn thấy cái bên trong kia. Bắp thịt, xương, các dây chằng. Tôi muốn biết rằng có máu đang chảy ở bên dưới. Anh có biết vẽ như vậy không?”
“Vâng, thưa thầy. Ḿnh phải suy nghĩ, trông thấy và cảm thấy nó trước khi vẽ nó ra”.
Khi không đến lớp học, Tony thường vẽ trong căn hộ của anh. Anh có thể vẽ từ b́nh minh hôm nay đến b́nh minh hôm sau. Hội hoạ tạo cho anh một cảm giác tự do mà anh không hề bao giờ được biết trước đó. Hành vi đơn giản ngồi trước giá vẽ với một cái cọ trong tay tạo cho anh cảm giác giống như là Thượng đế. Anh có thể tạo ra toàn thể các thế giới chỉ bằng một bàn tay. Anh có thể tạo ra một cái cây, một bông hoa, một con người, một vũ trụ. Thật là một công việc dễ làm say mê. Anh đă được sinh ra cho công việc này. Khi nào không vẽ, anh đi ra ngoài, lang thang trên các đường phố để thăm ḍ thành phố huyền thoại này. Bây giờ nó là thành phố của anh, nơi nghệ thuật của anh sẽ ra đời. Có hai Paris, phân chia bởi con sông Seine thành Tả ngạn và Hữu ngạn. Đó là hai thế giới tách biệt nhau. Hữu ngạn là dành cho những người giàu có, có địa vị. Tả ngạn thuộc về các sinh viên, nghệ sĩ, những kẻ tranh đấu. Nó là Montparnasse, Boulevard Romail, trà Saint Germain des Rué. Nó là cà phê Floce, Henry Miller và Eliot Paul. Đối với Tony, nó là quê hương. Anh vẫn thường ngồi hàng giờ ở Boule Blanche hay La Coupole với các bạn sinh viên, thảo luận với nhau về các thế giới bí mật của họ.
“Tôi nghe nói rằng viên giám đốc nghệ thuật của viện bảo tàng Guggenheim đang ở Paris, mua hết tất cả mọi thứ ông ta thấy”.
“Bảo ông ta hăy chờ tôi”.
Tất cả họ đều đọc những tạp chí giống nhau và chia cho nhau đọc, v́ các tạp chí ấy đắt tiền: Studio, Cahiers d’Arts, Formes et Couleurs, và tờ Gazette des Beaux Arts.
Tony đă học tiếng Pháp ở Le Rosey, nên anh dễ dàng làm bạn với các sinh viên khác trong lớp, v́ tất cả đều cùng chia sẻ một niềm say mê chung. Họ không biết chút ǵ về gia đ́nh Tony, và chấp nhận anh như là một người trong bọn họ. Các nghệ sĩ nghèo, vật lộn với cuộc sống tập hợp lại với nhau ở quán cà phê Flore và Les Deux Maggots trên đại lộ Saint Germain. Họ ăn cơm ở Le Pot d’Etian trên đường Canettes và đường Rue d’Université. Không một người nào trong bọn họ đă từng bước chân vào Lasserre hay Maxim.
Năm 1944, những người khổng lồ trong hội hoạ đều thực thi nghệ thuật của họ tại Paris. Th́nh thoảng, Tony bắt gặp thoáng qua Pablo Picasso, và một hôm Tony cùng bạn anh đă nh́n thấy Marc Chagall, một con người to lớn, trông có vẻ hoa hoè, trạc trung tuần, với mớ tóc bù xù như chổi xể, bắt đầu nhuốm bạc. Chagall ngồi ở bàn căn bên kia quán cà phê, đang nghiêm trang nói chuyện với một nhóm người.
“Chúng ḿnh thật là may mắn được gặp ông ấy”, bạn của Tony th́ thầm nói, “Ông ấy ít khi đến Paris lắm. Nhà ông ấy ở Vence, gần bờ bề Địa Trung Hải”.
Anh thấy Max Ernest nhấm nháp rượu khai vị ở quán cà phê trên vỉa hè, và Alberto Giacometti vĩ đại đang đi xuống đường Rivoli, giống như các pho tượng của ông ấy, cao, gầy và xương xẩu. Tony ngạc nhiên nhận ra rằng chân ông ta bị vẹo. Tony gặp Hans Belmer một người đă tạo nên tên tuổi nhờ những bức tranh khiêu dâm, vẽ những cô gái giống như những con búp bê chặt đứt chân tay. Nhưng giờ phút vui sướng nhất của Tony là khi anh được giới thiệu với Braque. Nhà nghệ sĩ này rất thân thiện nhưng Tony th́ ríu cả lưỡi, không nói được nên lời.
Các thiên tài tương lai thường lui tới các pḥng tranh nghệ thuật, nghiên cứu sự cạnh tranh của họ. Pḥng trưng bày Drouand David lúc ấy đang triển lăm tranh của một nghệ sĩ trẻ chưa có tên tuổi, Bernard Buffet, đă từng theo học Trường Mỹ thuật, của Soutine, Utrillot và Dufy. Các sinh viên tụ họp tại Salon d’Automne, các pḥng trưng bày Charpentier, Mille Roussa trên đường Rue de Seine, rồi trong những lúc rảnh rỗi họ bàn tán với nhau về các địch thủ thành công của họ.
Lần đâu tiên Kate thấy căn hộ của Tony, bà bị choáng váng, nhưng do bản tính khôn ngoan, bà không đưa ra lời b́nh phẩm nào. Bà nghĩ thầm, mẹ kiếp! Làm sao thằng con trai ḿnh lại có thể ở trong một căn pḥng tối tăm, ảm đạm như thế này? Bà nói, “Nó cũng rất xinh xắn, Tony ạ. Mẹ không thấy tủ lạnh đâu cả. Thể con để thức ăn ở đâu?”
“Để ở ngoài cửa sổ kia ḱa”.
Kate bước đến cửa sổ, mở cánh cửa, chọn một quả táo đặt trên ngưỡng cửa số, ở phía ngoài. “Chắc mẹ không ăn một trong các đối tượng hội hoạ của con đấy chứ?”
Tony cười, “Ồ, không đâu, mẹ ạ”.
Kate cắn quả táo. “Nào con hăy kể về công việc hội hoạ của con đi”.
“Chưa có… có ǵ nhiều lắm để… để mà kể. Năm nay chúng con chỉ mới học vẽ đồ hoạ qua loa thôi”.
“Con có thích ông giáo sư Cantal không?”
“Ông ấy tuyệt… tuyệt vời. Điều quan trọng là ông ấy có thích con không. Chỉ có một phần ba số sinh viên được lên năm kế tiếp thôi”.
Không một lần nào bà nhắc nhở đến việc Tony về làm việc cho công ty.
Giáo sư Cantal không phải là người dễ dàng ban lời khen cho ai. Lời khen tặng lớn lao nhất ông ban cho Tony là một câu nói miễn cưỡng, “Tôi chắc là tôi đă thấy những bức tranh c̣n tệ hơn thế”, hay “Tôi mới h́nh như bắt đầu nh́n thấy được cái ở bên dưới”
Vào cuối học ḱ, Tony được chọn trong số tám sinh viên được lên năm thứ hai. Để ăn mừng, Tony và một số sinh viên khác, cũng được cảm thấy trong ḷng nhẹ nhơm như anh, cùng đi đến một hộp đêm ở Montmartre, uống rượu say mèm, rồi ngủ đêm với mấy cô gái người Anh đang đi du lịch ở Pháp.
Khi trường học mở cửa lại, Tony bắt đầu vẽ với sơn dầu và người mẫu. Thật là giống như vừa được thoát khỏi trường mẫu giáo. Sau một năm học về các bộ phận cơ thể, Tony cảm thấy anh đă biết rơ từng bắp thịt, đường gân và tuyến trên thân thể con người. Đó không phải là hội hoạ – nó chỉ là sự sao chép lại thôi. Bây giờ, với cái cọ trong tay và một người mẫu trước mắt, Tony bắt đầu sáng tạo. Ngay cả đến Cantal cũng phải chú ư.
“Anh biết nhận xét đấy”, ông nói một cách miễn cưỡng. “Bây giờ chúng ta phải học về kĩ thuật”.
Có hơn một chục người ngồi làm mẫu cho các lớp học ở trường. Những người mà giáo sư Cantal thường sử dụng nhiều nhất là Carlos, một chàng trai trẻ làm việc kiếm tiền để theo học trường thuốc; Annette, một cô giá da ngăm ngăm đen, thấp, khỏe mạnh, có một cḥm lông đỏ ở hạ bộ và lưng có nhiều vết sẹo do mụn nhọt; và Dominique Masson, một cô gái xinh đẹp, tóc hoe lả lướt, với g̣ má xinh xắn và đôi mắt xanh đậm. Dominique đă từng làm mẫu cho nhiều hoạ sĩ danh tiếng. Nàng rất được mọi người ưa thích. Hằng ngày, sau buổi học, các nam sinh viên thường vây quanh nàng, t́m cách hẹn ḥ với nàng.
Nàng thường nói với họ, “Tôi không bao giờ lẫn lộn công việc làm ăn với vui chơi. Dẫu sao, như vậy cũng không công bằng. Các anh đă thấy tất cả những ǵ tôi có thể cống hiến. Làm sao tôi biết được các anh có cái ǵ để cống hiến cho tôi?”
Thế rồi lối nói chuyện thô tục ấy lại tiếp tục. Nhưng Dominique không bao giờ đi chơi với bất cứ ai ở trường này.
Vào một buổi chiều nọ, khi tất cả các sinh viên khác đều đă rời lớp học và Tony sắp vẽ xong một bức hoạ của Dominique, nàng bất ngờ đi đến phía sau lưng Tony và nói, “Cái mũi tôi dài quá”.
Tony bối rối. “Ồ, tôi xin lỗi, để tôi sửa lại”.
“Không, không. Cái mũi trong bức hoạ th́ tốt rồi. Chính cái mũi của tôi mới dài quá thôi”.
Tony cười. “Thế th́ tôi e rằng tôi phải chịu bó tay rồi”.
“Giá như một người Pháp th́ người ấy sẽ nói, “Mũi của em thật hoàn hảo, “Chérie” ạ”.
“Tôi thích cái mũi của cô, nhưng tôi không phải là người Pháp”.
“Điều đó th́ rơ ràng rồi. Anh không bao giờ rủ tôi đi chơi cả. Tôi không hiểu v́ sao”.
Tony tỏ vẻ ngạc nhiên. “Tôi… tôi không biết. Tôi nghĩ rằng ấy là v́ mọi người khác đă làm như vậy, nhưng cô không đi chơi với ai cả”.
Dominique tủm tỉm cười. “Người nào cũng có một ai đó để đi chơi với ḿnh chứ. Thôi chào anh nhé”.
Rồi nàng bỏ đi.
Tony nhận ra rằng bất cứ hôm nào anh ở lại trễ, Dominique mặc quần áo xong cũng trở lại đứng ở phía sau lưng anh để xem anh vẽ.
Một buổi chiều nọ, nàng nói, “Anh vẽ rất đẹp. Rồi đây anh sẽ là một hoạ sĩ danh tiếng”.
“Cảm ơn, Dominique, tôi hi vọng cô nói đúng”.
“Hội hoạ đối với anh quan trọng lắm à?”
“Phải”.
“Vậy th́ một người sắp sửa trở thành một hoạ sĩ danh tiếng có chịu đăi tôi một bữa cơm tối không?”
Nàng nh́n thấy vẻ ngạc nhiên hiện rơ trên mặt Tony. “Tôi không ăn ǵ nhiều đâu. Tôi phải giữ h́nh dáng của tôi”.
Tony cười. “Cố nhiên tôi rất lấy làm vui mừng”.
Họ cùng ăn cơm tối tại một quán ăn b́nh dân gần Sacré Coeur. Hai người bàn chuyện với nhau về các hoạ sĩ và hội hoạ. Tony nghe rất say mê các câu chuyện nàng kể về các nghệ sĩ danh tiếng đă từng nhờ nàng làm mẫu. Khi hai người dùng xong cà phê sữa, Dominique nói, “Tôi cần phải nói cho anh biết. Anh cũng giỏi như bất ḱ ai trong số ấy”.
Tony sung sướng vô cùng, nhưng anh chỉ nói, “Tôi c̣n xa lắm mới được bằng các ông ấy”.
Ra khỏi quán ăn, Dominique hỏi, “Anh có định mời tôi đến xem căn hộ anh đang ở không?”
“Tôi cũng muốn lắm chứ, nhưng tôi e rằng nó chẳng có ǵ đẹp đẽ lắm đâu”.
Đến nơi, Dominique nh́n quanh căn hộ bé nhỏ, ngổn ngang, rồi lắc đầu nói, “Anh nói đúng. Nó chẳng có ǵ đẹp đẽ thật. Ai trông nom cho anh?”
“Có một bà đến đây mỗi tuần để lau chùi”.
“Đuổi bà ấy đi. Nơi này bẩn thỉu quá. Thế anh không có một bạn gái nào sao?”
“Không”.
Dominique nh́n anh một lúc rồi hỏi. “Anh không thấy khó chịu à?”
“Không”.
“Tốt. Thật là phí phạm kinh khủng. Anh hăy kiếm cho tôi một xô nước và một ít xà pḥng”.
Dominique bắt đầu lau chùi, cọ rửa căn hộ, rồi cuối cùng xếp đặt lại mọi thứ cho gọn ghẽ. Làm xong công việc nàng nói, “Hôm nay, như thế là tạm được rồi. Lạy Chúa, tôi cần phải tắm mới được”.
Nàng đi vào pḥng tắm bé nhỏ, cho nước chảy vào bồn tắm. “Làm thế nào anh ngồi được trong cái này?” Nàng kêu to lên.
“Tôi co chân lại”.
Nàng cười. “Tôi muốn xem anh làm như vậy quá!”
Mười lăm phút sau, Dominique ra khỏi pḥng tắm với chỉ có một chiếc khăn lông quấn xung quanh người, làn tóc hoe của nàng ướt đẫm và quăn lại. Nàng có một thân h́nh rất đẹp, ngực đầy đặn, eo nhỏ và dài, cặp đùi thon thon. Trước kia, Tony không bao giờ để ư đến nàng như là một người đàn bà. Nàng chỉ là một h́nh khoả thân để vẽ trên vải. Ḱ lạ thay, chiếc khăn lông ấy đă thay đổi tất cả mọi thứ. Đột nhiên, anh cảm thấy máu như dồn lên ở chỗ thắt lưng.
Dominique đang đứng nh́n anh. “Anh có muốn ân ái với em không?”
“Muốn lắm”.
Nàng chậm răi thả tấm khăn lông ra. “Anh hăy chứng tỏ cho em xem đi”.
Tony chưa hề bao giờ được biết một người đàn bà nào như Dominique. Nàng tặng cho anh tất cả, nhưng không đ̣i hỏi một điều ǵ. Hầu như tất cả mọi buổi tối, nàng đến nấu ăn cho Tony. Khi hai người cùng đi ăn ở ngoài, nàng bao giờ cũng đ̣i phải đến những quán ăn rẻ tiền hay những quầy bán bánh sandwich. Nàng thường la rầy, “Anh phải biết dành dụm tiền. Bước đầu bao giờ cũng rất khó khăn ngay đối với cả một nghệ sĩ tài giỏi. Mà anh cũng là một nghệ sĩ tài giỏi, “chéri” ạ”.
Họ đi với nhau đến Les Halles vào những lúc sáng sớm, và ăn súp hành ở Pied de Cochon. Họ cùng đi đến Bảo tàng Carnavalet và những nơi xa xôi các du khách thường không lui tới, chẳng hạn như Nghĩa địa Père Lachaise – nơi yên nghỉ của Oscar Wilde, Fédéric Chopin, Honoré de Balzac và Marcel Proust. Họ viếng thăm các hầm mộ, và trong những ngày nghỉ lễ họ thường đi xuôi con sông Seine trên một chiếc thuyền của một người bạn của Dominique.
Tony rất lấy làm vui sướng được sống bên cạnh Dominique. Nàng vui tính, thích khôi hài, và mỗi khi Tony có vẻ buồn bă, nàng cười to lên làm cho anh khuây khoả. Nàng có vẻ như quen biết rất rộng, và thường đưa Tony đến dự những buổi tiệc tùng rất thú vị để chàng có thể gặp những nhân vật danh tiếng thời ấy, chẳng hạn như thi sĩ Paul Élouard và André Breton, phụ trách pḥng trưng bày Maeght rất có uy tín.
Dominique là một nguồn khích lệ thường trực. “Anh sẽ danh tiếng hơn tất cả những người ấy, “chéri” ạ. Hăy tin em đi. Em biết mà”.
Nếu Tony muốn vẽ vào ban đêm, Dominique cũng sẵn sàng ngồi làm mẫu cho anh vẽ, dù cho nàng có phải làm việc suốt cả ngày hôm ấy. Lạy chúa, ḿnh thật là may mắn, Tony nghĩ thầm. Đây là lần đầu tiên trong đời anh tin chắc rằng có một người nào đó yêu mến anh v́ bản chất của anh chứ không phải v́ anh là ai.
Tony e ngại không muốn nói cho Dominique biết anh là người thừa kế một trong những tài sản lớn nhất thế giới, e ngại rằng nàng sẽ thay đổi, e ngại chàng sẽ mất đi những ǵ chàng hiện đang có. Nhưng đến ngày sinh nhật của Dominique, Tony không thể nào cưỡng lại ư định mua cho nàng một chiếc áo bằng lông mèo rừng của Nga.
“Đó là một thứ đẹp đẽ nhất em chưa từng thấy trong đời!” Dominique xoay tṛn chiếc áo xung quanh người, nhảy múa khắp căn pḥng. Đang xoay như vậy, bỗng nàng dừng phắt lại hỏi, “Cái này ở đâu mà có, Tony? Anh lấy tiền đâu mà mua cái áo này?”
Anh đă có sẵn câu trả lời. “Cái áo ấy mới bị ăn trộm. Anh mua nó từ trong tay một anh chàng bé nhỏ đứng bên ngoài bảo tàng Rodin. Hắn ta muốn bán tống bán tháo nó đi, cho nên giá chiếc áo ấy chẳng đắt hơn giá một chiếc áo vải loại tốt ở nhà hàng Au Printemps”.
Dominique nh́n anh một hồi, rồi phá lên cười. “Em sẽ mặc chiếc áo ấy dù cho cả hai chúng ta có phải ngồi tù”.
Rồi nàng choàng hai cánh tay ôm lấy Tony, rồi gào lên, “Ồ Tony, anh ngốc quá! Anh yêu quư, anh ngốc kinh khủng!”
Nói dối như vậy thật không uổng công chút nào, Tony nghĩ thầm.
Một buổi tối nọ, Dominique gợi ư với Tony rằng chàng nên dọn đến ở chung với nàng. Vừa làm việc ở Trường Mỹ thuật, vừa làm kiểu mẫu cho một số nghệ sĩ danh tiếng ở Paris, Dominique đă thuê được một căn hộ rộng răi, hiện đại, trên đường Rue Prêtres - Saint Severain. “Anh không nên ở một nơi như thế này, Tony ạ. Nó kinh khủng lắm. Hăy đến sống với em, anh sẽ không phải trả một xu nào tiền thuê nhà. Em có thể giặt giũ, nấu cơm cho anh, và…”
“Không được, Dominique ạ. Xin cảm ơn em”.
“Nhưng tại sao?”
Làm sao anh có thể giải thích được? Lẽ ra, ngay từ lúc đầu, anh đă phải nói cho nàng biết rằng anh rất giàu có, nhưng lúc này th́ đă quá trễ rồi. Nàng sẽ nghĩ rằng anh đă đánh lừa nàng. Nghĩ vậy, anh nói, “Anh muốn sống cách xa em. Em giúp đỡ cho anh quá nhiều rồi”.
“Vậy th́ em sẽ dời bỏ căn hộ của em để đến ở đây. Em muốn ở bên cạnh anh”.
Nàng dọn đến ngay ngày hôm sau.
Giữa hai người có một sự thân ái tuyệt diệu và thoải mái. Vào những ngày cuối tuần, họ đi chơi với nhau về miền quê, dừng lại những quán trọ bên đường, rồi Tony dựng giá vẽ lên, vẽ phong cảnh. Khi nào họ đói bụng, Dominique trải ra trên có những thức ăn nàng đă nấu sẵn, rồi hai người cùng ăn chung với nhau giữa cánh đồng cỏ. Sau đó, họ ân ái với nhau thật lâu và thật thắm thiết. Tony chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc như vậy.
Công việc học tập của anh tiến triển tốt đẹp. Một hôm giáo sư Cantal giơ một bức hoạ của Tony lên cho cả lớp xem, “Xem cái thân h́nh này. Các anh có thể thấy nó như đang thở”.
Tony hăm hở báo tin ấy ngay cho Dominique. “Em biết làm thế nào anh diễn tả được đúng cái hơi thở ấy không? Ấy là bởi v́ đêm nào anh cũng ôm cái người mẫu ấy trong ṿng tay”.
Dominique cười lên vui sướng, nhưng ngay sau đó nàng ra vẻ nghiêm nghị, “Tony ạ, em không nghĩ rằng anh cần học thêm ba năm nữa ở trường. Anh bây giờ đă sẵn sàng rồi. Mọi người ở trường đều nhận thấy như vậy. Cả ông Cantal nữa”.
Tony e ngại rằng như vậy vẫn chưa đủ. Anh chưa được khá lắm, anh chỉ là một hoạ sĩ khác thôi, và tác phẩm của anh sẽ bị ch́m nghỉm trong hàng ngh́n bức hoạ sản xuất bởi hàng ngh́n hoạ sĩ trên thế giới mỗi ngày. Anh không thể chịu được với ư tưởng như vậy. Chiến thắng mới là vấn đề quan trọng, Tony ạ. Nhớ kĩ điều ấy.
Đôi khi anh vừa vẽ xong một bức tranh, anh thường thấy tràn ngập một nỗi hân hoan, rồi anh suy nghĩ, “Ḿnh có tài năng. Ḿnh thực sự có tài năng”. Lúc khác, anh nh́n lên tác phẩm của ḿnh, rồi tự nhủ, “Ḿnh chỉ là một tay tài tử khốn kiếp thôi”.
Được sự khuyến khích của Dominique, Tony mỗi lúc một thêm tin tưởng vào việc làm của ḿnh. Anh đă hoàn tất được trên hai chục bức hoạ theo ư riêng của anh. Phong cảnh và tĩnh vật. Có một bức tranh vẽ Dominique đang nằm khoả thân dưới một lùm cây, ánh nắng lốm đốm trên thân h́nh nàng. Một chiếc áo vét và sơ mi đàn ông ở cận cảnh, khiến cho người xem có thể hiểu rằng người đàn bà đang chờ đợi người t́nh.
Khi trông thấy bức tranh ấy, Dominique kêu lên, “Anh phải có một cuộc triển lăm mới được”.
“Em điên rồi hay sao, Dominique? Anh chưa sẵn sàng đâu”.
“Anh lầm rồi, “mon cher” ạ”.
Tony về đến nhà trễ vào trưa hôm sau th́ thấy Dominique đang có khách. Đó là Anton Goerg, một người đàn ông gầy, với một cái bụng phệ và đôi mắt lồi màu xanh nhạt. Ông ta là chủ nhân của pḥng trưng bày nghệ thuật Goerg Gallery, một pḥng trưng bày khiêm tốn trên đường Dauphine. Các bức hoạ của Tony trải khắp căn pḥng.
“Có chuyện ǵ vậy, Dominique?”
Anton Goerg liền kêu lên, “Có chuyện là, thưa ông, các tác phẩm của ông thật là xuất sắc”. Ông đập nhẹ lên lưng Tony, “Tôi rất lấy làm hân hạnh được dành cho ông một cuộc trưng bày tại pḥng tranh của tôi”.
Tony nh́n qua phía Dominique. Nàng cũng nh́n chàng, nét mặt rạng rỡ.
“Tôi… tôi không biết nói làm sao nữa”.
“Ông đă nói rất nhiều rồi đấy”, ông Goerg đáp, “Trên các bức tranh này đây”.
Tony và Dominique bàn với nhau về vấn đề này suốt cả nửa đêm ấy.
“Anh cảm thấy ḿnh chưa sẵn sàng. Các nhà phê b́nh sẽ treo anh lên thập tự giá”.
“Anh lầm rồi, “chéri”. Như thế này là tuyệt hảo cho anh. Đó là pḥng trưng bày nhỏ thôi. Chỉ có những người địa phương đến xem tranh và phê phán thôi. Không có cách nào xúc phạm anh được. Ông Goerg không bao giờ đề nghị anh trưng bày tranh nếu ông ấy không tin tưởng ở anh. Ông ấy đồng ư với em rằng anh sẽ trở thành một nghệ sĩ quan trọng”.
“Thôi được rồi”, Tony cuối cùng phải chấp nhận. “Ai mà biết? Ḿnh cũng có thể bán một bức tranh cũng chưa biết chừng”.
Bức điện văn viết: SẼ ĐẾN PARIS THỨ BẢY. ĐẾN DÙNG CƠM VỚI MẸ. THÂN YÊU. MẸ.
Ư nghĩ đầu tiên khi Tony trông thấy mẹ bước vào xưởng vẽ là, “Mẹ ḿnh trông xinh đẹp quá!”. Bà nay đă trạc ngũ tuần, tóc không nhuộm, với những sợi tóc bạc xen lẫn tóc đen, nhưng bà vẫn rất linh hoạt. Có lần Tony hỏi bà v́ sao bà không tái giá, th́ bà trầm tĩnh trả lời, “Chỉ có hai người đàn ông quan trọng trong cuộc đời của mẹ. Đó là cha con và con”.
Bây giờ đứng trong căn hộ bé nhỏ ở Paris, đối diện với mẹ, Tony nói, “Con… con rất mừng được gặp m… mẹ”.
“Tony, con trông thật là tuyệt vời! Lại mới có cái cḥm râu này nữa!” Bà cười, dùng các ngón tay vân vê cḥm râu Tony. “Con trông giống như Abe Lincoln” . Bà đưa mắt nh́n khắp căn hộ bé nhỏ. “Lạy Chúa, con đă có một người hầu pḥng thật giỏi. Nó giống như là một nơi khác hẳn”.
Kate đi đến giá vẽ, nơi Tony đang vẽ dở một bức tranh. Bà dừng lại, ngắm nh́n một hồi lâu. Tony đứng tại đó, lo lắng chờ đợi phản ứng của mẹ.
Khi Kate mở lời, giọng bà rất hiền dịu. “Thật là xuất sắc, Tony ạ. Rất xuất sắc”. Bà không có một cố gắng nào che giấu niềm hănh diện của bà. Không ai có thể đánh lừa bà về mặt nghệ thuật, nên bà cảm thấy một niềm hân hoan nhận ra rằng con trai bà có tài năng thật sự.
Bà quay mặt về phía Tony, nói, “Cho mẹ xem thêm ít bức tranh nữa”.
Hai giờ kế tiếp đó, Tony và mẹ cùng xem xét cả một chồng tranh của anh. Họ bàn căi từng bức tranh một thật chi tiết. Không có ǵ là vị nể trong lối nói của bà cả. Bà đă thất bại trong cố gắng kiểm soát đời sống của con trai bà, nhưng Tony phải thán phục và chấp nhận sự thất bại ấy thật là duyên dáng.
Kate nói, “Mẹ sẽ thu xếp việc trưng bày các bức tranh này. Mẹ có quen biết một số nhà buôn tranh…”
“Cảm ơn m… mẹ. Mẹ không… không cần phải bận tâm. Con sẽ có một cuộc triển lăm tranh vào ngày thứ sáu tuần sau. Một pḥng tranh sẽ tổ chức việc triển lăm ấy cho con”.
Kate đưa hai tay ra, ôm chầm lấy Tony. “Thật tuyệt vời! Pḥng triển lăm nào vậy?”
“Pḥng triển lăm G… Goerg Gallery”.
“H́nh như mẹ không nghe tên ấy bao giờ”.
“Nó nhỏ thôi, mẹ ạ. Con chưa sẵn sàng để trưng bày tranh tại Hammer hay W… Wildenstein”.
Bà chỉ bức tranh Dominique dưới lùm cây, “Con lầm rồi, mẹ cho rằng bức tranh này…”
Ngay lúc ấy có tiếng cánh cửa trước mở ra. “Em đang nổi hứng đây. Hăy cởi cái…” Dominique chợt thấy Kate, “Thôi chết tôi rồi! Xin lỗi bà. Tôi… tôi không có biết Tony đang có khách”.
Một phút im lặng băng giá.
“Dominique, đây là m… mẹ tôi. Mẹ ạ, con xin giới thiệu với mẹ cô Dominique Masson”.
Hai người đàn bà đứng nh́n nhau chằm chằm, như ḍ xét.
“Bà có được mạnh khỏe không ạ, thưa bà Blackwell?”
Kate nói, “Tôi đă được xem bức tranh con trai tôi vẽ cô”, phần c̣n lại được bỏ lửng, không nói ra.
Lại một phút im lặng ngượng nghịu khác nữa.
“Tony có nói cho bà biết về cuộc triển lăm sắp tới của anh ấy hay chưa, thưa bà Blackwell?”
“Có. Thật là một tin rất đáng mừng”.
“Mẹ có… có thể ở lại để tham dự không, mẹ?”
“Mẹ rất mong muốn có thể có mặt ở đó, nhưng ngày kia mẹ sẽ có một cuộc họp của ban giám đốc ở Johannesburg, không thể vắng mặt được. Giá như mẹ được biết sớm hơn, có lẽ mẹ đă sửa đổi lại được thời khóa biểu”.
“Thôi thế cũng được”, Tony nói. “Con hiểu”, Tony lo sợ rằng mẹ anh có thể sẽ nói thêm nữa về công ty trước mặt Dominique, nhưng may thay, trí óc của Kate chỉ nghĩ đến các bức tranh.
“Điều quan trọng là phải có những người xứng đáng đến xem cuộc triển lăm ấy”.
“Ai là những người xứng đáng, thưa bà Blackwell?”
Kate quay về phía Dominique. “Những người tạo dư luận, những nhà phê b́nh. Cân phải có một người nào đó như André d’Usseau – Ông ấy cần phải có mặt ở đó”.
André d’Usseau là một nhà phê b́nh nghệ thuật được kính trọng nhất ở Pháp. Ông là một con sư tử hung dữ canh gác ngôi đền nghệ thuật, mà chỉ một bài điểm tranh của ông cũng đủ để tạo nên hay để đánh ngă gục một nghệ sĩ chỉ qua một đêm. d’Usseau được mời khai mạc tất cả các cuộc triển lăm, nhưng ông chỉ tham dự những cuộc triển lăm quan trọng thôi. Các chủ pḥng tranh, các nghệ sĩ run rẩy, chờ đợi các bài phê b́nh của ông xuất hiện trên báo chí. Ông là bậc thầy về “bon mot”, và những câu nói châm biếm của ông bay đi khắp Paris trên những chiếc cánh tẩm thuốc độc. Ông ta là người bị ghét nhất trong giới nghệ sĩ ở Paris, nhưng cũng là người được kính nể nhất. Lối phê b́nh hóm hỉnh và cay độc một cách tàn nhẫn của ông được tha thứ bởi v́ khả năng chuyên môn của ông.
Tony quay về phía Dominique nói, “Bà ấy là mẹ của ḿnh nên mới nói thế”. Rồi anh quay lại nói với mẹ. “André d’Usseau không đi đến dự những cuộc triển lăm nhỏ đâu”.
“Ồ, Tony, ông ấy thể nào cũng phải đến. Ông ta có thể giúp cho con nổi danh chỉ qua một đêm”.
“Hay đánh gục ngă con cũng chưa biết chừng”.
“Thế con không tin vào khả năng của con hay sao?” Kate nh́n con và nói.
“Cố nhiên là anh ấy tin.”. Dominique nói. “Nhưng chúng cháu không dám hi vọng rằng ông d’Usseau sẽ đến”.
“Tôi có thể t́m các người bạn quen biết ông ta”.
Mặt Dominique rạng hẳn lên. “Thế th́ tuyệt vời!” Nàng quay lại nói với Tony, “Chéri, anh có biết nếu ông ấy đến vào ngày khai mạc th́ điều ấy sẽ có ư nghĩa như thế nào không?”
“Ḿnh sẽ rơi vào quên lăng hoàn toàn”.
“Đừng có nói đùa. Em biết sở thích của ông ấy, Tony ạ. Em biết ông ấy thích những ǵ. Chắc chắn ông ấy sẽ thích các bức hoạ của anh”.
Kate nói, “Mẹ không t́m cách mời ông ta đến, trừ khi con bằng ḷng”.
“Dĩ nhiên anh ấy muốn rồi, thưa bà Blackwell”.
Tony thở mạnh một cái. “Con sợ… sợ quá, nhưng thôi, ḿnh cứ thử làm như vậy xem sao”.
“Để mẹ sẽ t́m cách”, Kate nh́n bức tranh trên giá vẽ một hồi lâu, rất lâu, rồi quay lại nh́n Tony. Một vẻ buồn thoáng qua trong đôi mắt bà. “Con ạ, mẹ phải rời Paris ngày mai. Chúng ta có thể ăn cơm chung tối nay được không?”
Tony đáp, “Được lắm, mẹ ạ. Chúng con rảnh tối nay”.
Kate quay về phía Dominique và nói một cách duyên dáng, “Cô thích ăn cơm ở Maxim’s hay ở…”
Tony nói thật nhanh. “Dominique và con có biết một quán ăn nhỏ rất tốt, không xa đây lắm”.
Họ cùng đến một quán ăn rẻ tiền ở Place Victorie. Thức ăn ở đấy ngon và rượu cũng tuyệt hảo. Hai người đàn bà có vẻ ăn ư với nhau lắm. Tony cảm thấy hănh diện về cả hai người. Đó là một đêm vui vẻ nhất trong đời ḿnh, anh nghĩ thầm. Ḿnh đang ở bên cạnh mẹ ḿnh và một người đàn bà ḿnh sẽ cưới làm vợ.
Sáng hôm sau, Kate gọi điện thoại từ phi trường. “Mẹ đă gọi điện thoại đến hơn chục nơi. Không ai trả lời dứt khoát về André d’Usseau cả. Nhưng dù thế nào chăng nữa, Tony ạ, mẹ rất hănh diện về con. Các bức tranh của con tuyệt vời. Tony, mẹ yêu con”.
“Con cũng yêu mẹ, mẹ ạ”.
Pḥng triển lăm Goerg Gallery chỉ vừa đủ lớn để thoát khỏi cái mà người ta gọi là “Pḥng triển lăm thân mật”. Chừng hai chục bức tranh của Tony đang được treo lên các bức tường trong một sự chuẩn bị gấp gáp vào giờ phút chót trước khi khai mạc. Trên một chiếc bàn cẩm thạch là những lát phó mát, bánh bích quy và những chai rượu Chablis. Pḥng tranh vắng tanh, chỉ có mặt Anton Goerg, Tony, Dominique và cô phụ tá trẻ đang treo bức tranh cuối cùng lên tường.
Anton Goerg nh́n vào đồng hồ. “Các giấy mời ghi rơ “bảy giờ”. Chắc các quan khách sẽ bắt đầu đến ngay bây giờ đây”.
Tony không nghĩ rằng anh sẽ bồn chồn, sốt ruột. “Ḿnh không bồn chồn, sốt ruột”, anh tự nhủ. “Ḿnh chỉ cảm thấy hoảng sợ!”
“Nếu không ai đến cả th́ sao nhỉ?” Anh hỏi. “Tôi muốn nói là, nếu không có một ma nào đến th́ ḿnh sẽ làm thế nào?”
Dominique mỉm cười, vuốt má Tony và nói, “Th́ chúng ḿnh tha hồ ăn uống, cho hết tất cả các thứ này!”
Khách khứa bắt đầu lục tục kéo đến. Thoạt tiên họ đến chậm răi, nhưng sau đó họ đến đông hơn nhiều. Ông Goerg đứng ở cửa, niềm nở chào mọi người. Họ có vẻ không giống như là những khách mua tranh, Tony nghĩ thầm một cách bực bội. Con mắt nhận xét của anh phân chia họ ra làm ba hạng người: thứ nhất là những nghệ sĩ và sinh viên mỹ thuật tham dự các cuộc triển lăm để đánh giá sự cạnh tranh giữa họ với nhau; thứ hai, những nhà buôn bán tranh vẫn hay đến tất cả các cuộc triển lăm để họ có thể loan truyền những tin tức xúc phạm làm giảm uy tín những kẻ đang mong muốn trở thành hoạ sĩ; và thứ ba là đông đảo quần chúng làm ra vẻ ưa thích nghệ thuật, trong đó bao gồm số đông những kẻ đồng tính luyến ái nam và nữ. Những kẻ này dường như sống cuộc đời của họ quanh quẩn ở ven ŕa thế giới nghệ thuật. Tony quả quyết, “Ḿnh chắc sẽ không bán được một bức tranh khỉ khô nào”.
Ông Goerg vẫy tay ra dấu cho Tony từ bên kia pḥng.
“Anh nghĩ rằng anh không muốn gặp bất ḱ ai trong số người này”. Tony th́ thầm với Dominique, “Họ đến đây để xé toạc anh ra từng mảnh”.
“Nói bậy nào. Họ đến đây để được gặp anh. Bây giờ, anh hăy tỏ ra dễ mến đi, Tony”.
Và v́ thế, anh tỏ ra dễ mến. Anh gặp tất cả mọi người, tủm tỉm cười luôn miệng, và thốt ra những lời lẽ thích hợp để đáp lại những lời khen tặng dành cho anh. Nhưng có thật đó là những lời khen tặng hay không? Tony tự hỏi. Qua bao nhiêu năm, người ta đă đặt ra trong các giới nghệ thuật một thứ ngôn ngữ để sử dụng khi nói về những cuộc triển lăm của các hoạ sĩ không có tên tuổi. Những câu nói, nói lên đủ mọi thứ, nhưng chẳng có nghĩa ǵ cả.
“Ḿnh thực sự cảm thấy như ḿnh đang hiện diện ở đó…”
“Thật tôi chưa hề được thấy một lối vẽ nào hoàn toàn giống như của anh…”
“Đó mới thực sự là một bức tranh!”
“Nó như nói lên với tôi…”
“Anh khó có thể làm tốt hơn thế được…”
Khách vẫn tiếp tục kéo đến. Tony tự hỏi sức thu hút ấy là do sự ṭ ṃ muốn biết về các bức tranh của anh hay là do phó mát và rượu được cung cấp miễn phí. Cho đến lúc ấy, chưa có bức tranh nào được bán, nhưng rượu và phó mát đang được tiêu thụ rất mạnh.
“Hăy kiên nhẫn”, ông Goerg th́ thầm vào tai Tony. “Họ thích đấy. Thoạt tiên họ phải nếm mùi vị tổng quát của các bức tranh nào đó họ ưa thích, họ sẽ quay trở lại với bức tranh ấy. Một lát sau đó, họ hỏi giá, và khi họ rỉa vào cái mồi th́, A lê hấp! Cá đă cắn câu!”
“Lạy Chúa, anh có cảm tưởng như anh đang tham dự vào một cuộc đi câu cá vậy!” Tony nói với Dominique.
Ông Goerg hối hả chạy đến Tony, “Chúng ta bán được một bức rồi!”, ông kêu lên. “Bức phong cảnh Normandy. Năm trăm francs”.
Đó là những giây phút mà Tony sẽ nhớ măi chừng nào anh c̣n sống. Một người nào đó đă mua một bức tranh của anh! Một người nào đó đă suy nghĩ khá kĩ về tác phẩm của anh để bỏ tiền ra mua, rồi treo nó ở nhà hay văn pḥng, để được nh́n ngắm nó, sống với nó, tŕnh bày nó cho các bạn xem. Nó là một mảnh nhỏ của sự bất diệt. Nó là một lối sống, hơn là một đời sống, được có mặt tại nhiều nơi trong cùng một lúc. Một nghệ sĩ thành công có mặt ở hàng trăm gia đ́nh, văn pḥng và viện bảo tàng trên khắp thế giới, đem đến sự vui thích cho hàng ngàn – có khi hàng triệu con người. Tony có cảm tưởng như ḿnh đă bước vào đền thờ của Da Vinci, Michelangelo và Rembrandt. Anh không c̣n là hoạ sĩ tài tử nữa, anh đă trở thành chuyên nghiệp. Một kẻ nào đó đă trả tiền để mua tác phẩm của anh.
Dominique vội vă đến chỗ Tony, cặp mắt sáng lên sung sướng. “Ḿnh lại vừa bán được một bức nữa, Tony ạ”.
“Bức nào?” Anh hăm hở hỏi.
“Bức tranh hoa”.
Pḥng tranh bé nhỏ lúc này đă đông nghẹt người. Họ nói chuyện ồn ào, cụng ly với nhau lách cách. Bỗng một sự im lặng đột nhiên giăng khắp căn pḥng. Có những tiếng th́ thầm như sóng ngầm, rồi mọi con mắt đều hướng về phía cửa.
André d’Usseau đang đi vào pḥng tranh. Ông ở vào trạc trung tuần, cao hơn người Pháp b́nh thường, với một khuôn mặt khỏe mạnh giống như sư tử, và một cái bờm tóc bạc. Ông mặc một chiếc áo choàng kiểu Tô Cách Lan, và đội một chiếc mũ Borsalino, và sau lưng ông là một đoàn tùy tùng gồm những kẻ “theo đóm ăn tàn”. Mọi người trong pḥng tự động giăn ra để nhường lối cho d’Usseau. Không một ai hiện diện ở đó mà không biết ông là ai.
Dominique bóp chặt tay Tony, nói “Ông ấy đă đến kia! Ông ấy có mặt ở đây!”.
Một vinh dự lớn lao như vậy chưa hề bao giờ xảy đến với ông Goerg. V́ vậy, ông điên lên v́ vui mừng, ông cúi đầu xuống, quỵ lụy, trước nhân vật vĩ đại; ông làm đủ mọi thứ, chỉ thiếu điều giựt mạnh chùm tóc trên trán ông mà thôi.
“Thưa ông d’Usseau”, ông lắp bắp nói, “Thật là một điều vui sướng, một vinh dự lớn lao! Xin cho phép tôi được mời ông chút rượu và ít lát phó mát”. Ông tự trách ḿnh đă khônng mua thứ rượu sang hơn.
“Xin cảm ơn”, nhân vật vĩ đại nói. “Tôi đến đây chỉ để cho cặp mắt tôi được thoả măn với cái đẹp thôi. Tôi muốn được gặp nghệ sĩ”.
Tony quá choáng váng, không c̣n có thể cử động được. Dominique đẩy anh ra phía trước.
“Ông ấy đây ạ”, ông Goerg nói. “Thưa ông d’Usseau, đây là Tony Blackwell”.
Lúc ấy Tony mới thốt được ra lời. “Xin kính chào ông. Cảm ơn ông đă đến thăm cuộc triển lăm”.
André d’Usseau khẽ cúi đầu, rồi đi thẳng đến các bức tranh treo trên tường. Mọi người lùi lại để nhường chỗ cho ông. Ông đi một cách chậm răi, nh́n mỗi bức tranh thật lâu và cẩn thận, rồi lại tiếp tục đi đến bức tranh kế tiếp. Tony cố đọc các ư nghĩ của ông qua nét mặt, nhưng anh không thấy ǵ hết. d’Usseau không nhăn mặt cũng không cười. Ông dừng lại một hồi lâu trước một bức hoạ đặc biệt, đó là bức hoạ Dominique khoả thân, rồi lại tiếp tục di chuyển. Ông đi hết một ṿng khắp căn pḥng, không bỏ sót một bức tranh nào. Tony toát mồ hôi như tắm.
Xem xong d’Usseau bước đến chỗ Tony. “Tôi vui sướng được đến đây”. Ông chỉ nói vỏn vẹn có thế.
Chỉ trong ṿng ít phút sau, khi nhà phê b́nh nổi danh ấy rời căn pḥng, tất cả mọi bức tranh đều được bán hết. Một nghệ sĩ vĩ đại sắp ra đời, và mọi người đều muốn tham dự vào buổi khai sinh ấy.
“Tôi chưa hề chứng kiến một chuyện như thế này”, ông Goerg kêu lên. “André d’Usseau đến pḥng tranh này. Pḥng tranh của tôi! Tất cả Paris sẽ đọc thấy sự kiện này trên báo chí ngày mai. Ông ấy nói, “Tôi vui sướng đến đây”. Ông André d’Usseau không phải là một người chịu phí lời nói. Riêng chuyện này không cũng đáng phải gọi thêm rượu sâm banh rồi. Nào chúng ta hăy ăn mừng”.
Khuya hôm ấy, Tony và Dominique tổ chức cuộc ăn mừng riêng tư của họ. Dominique rúc vào cánh tay Tony và nói, “Em đă ngủ với nhiều hoạ sĩ trước kia, nhưng không có ai danh tiếng như anh sau này. Ngày mai cả Paris sẽ biết anh là ai”.
Dominique đă nói đúng.
Vào lúc năm giờ sáng hôm sau, Tony và Dominique hối hả mặc quần áo để đi ra ngoài mua số đầu tiên của một tờ báo xuất bản vào buổi sáng. Số báo này vừa được đưa đến sạp bán báo. Tony chụp lấy một tờ, lật sang trang Văn nghệ. Bài điểm tranh của d’Usseau là bài báo đăng ở trang đầu dưới cái tên André d’Usseau in ngay ở phía trên. Tony đọc lên thật to:
“Một cuộc triển lăm tranh của một hoạ sĩ trẻ người Mỹ, tên Anthony Blackwell, vừa được khai mạc đêm hôm qua ở pḥng tranh Goerg Gallery. Đây là một kinh nghiệm học hỏi lớn lao đối với người viết bài phê b́nh này. Tôi đă tham dự nhiều cuộc triển lăm tranh của các hoạ sĩ có tài năng đến nỗi tôi đă quên đi thế nào là những bức tranh thực sự là tồi. Đêm qua, tôi mới được nhắc nhở lại điều này…“
Mặt Tony tái mét lại…
“Thôi, đừng đọc nữa”, Dominique năn nỉ. Nàng cố giằng lấy tờ báo khỏi tay Tony.
“Để anh đọc tiếp”, Tony ra lệnh.
Anh tiếp tục đọc:
“Thoạt tiên, tôi tưởng rằng người ta muốn bày ra một tṛ đùa. Tôi không thể nào tin được một cách nghiêm chỉnh rằng có một kẻ nào đó lại bạo gan treo những bức tranh tài tử như thế và dám gọi đó là nghệ thuật. Tôi cố t́m chút tài năng rất nhỏ bé le lói trong những bức tranh ấy. Thế nhưng tôi chẳng thấy chút ǵ cả. Lẽ ra người ta nên treo cổ nhà hoạ sĩ ấy thay v́ treo các bức tranh của anh ta lên. Tôi xin thành thực khuyên cái ông Blackwell loạn óc ấy nên trở về cái nghề thực sự của anh ta, mà tôi chỉ có thể phỏng đoán rằng đó là nghề sơn nhà, sơn cửa.”
“Em không thể nào tin nổi”, Dominique th́ thào, “Em không thể nào tin được rằng ông ấy không thấy tài năng của anh. Trời, cái lăo chó đẻ ấy!” Dominique bắt đầu khóc sướt mướt.
Tony cảm thấy như ngực anh chứa đầy ch́. Anh thấy khó thở quá. “Ông ấy đă thấy”, anh nói, “Ông ấy biết rơ tài năng của anh, Dominique ạ. Ông ấy biết rơ lắm”. Giọng anh tràn ngập đau khổ. “Đau đớn nhất chính là chỗ đấy. Lạy Chúa. Ḿnh thật là một thằng điên!” Anh sắp sửa bước ra ngoài.
“Anh định đi đâu, Tony?”
“Anh không biết”.
Anh đi lang thang quanh các đường phố lạnh lẽo vào lúc rạng đông, không biết rằng những giọt nước mắt đang tuôn xuống mặt anh. Chỉ trong ít giờ đồng hồ nữa, cả Paris sẽ đọc bài b́nh luận ấy. Anh sẽ trở thành một đối tượng chế giễu. Nhưng đau đớn hơn thế nữa, anh đă tự lừa dối ḿnh. Anh đă thực sự tin tưởng rằng anh có một sự nghiệp xán lạn trước mắt với tư cách là một hoạ sĩ. Ít nhất ông André d’Usseau đă cứu anh ra khỏi sự lầm lẫn ấy. Những mảnh nhỏ dành cho hậu thế! Tony nghĩ một cách chua chát. Những mảnh phân c… th́ đúng hơn! Anh bước vào một quán rượu đầu tiên vừa mở cửa, rồi ngồi xuống uống rượu cho đến lúc không c̣n biết trời đất ǵ nữa.
Khi Tony cuối cùng trở về căn hộ th́ đă năm giờ sáng hôm sau.
Dominique đang chờ đợi anh, lo sợ cuống cuồng. “Hôm qua đến giờ anh ở đâu, Tony? Mẹ anh đă t́m cách tiếp xúc với anh. Bà ấy lo lắng lắm”.
“Thế em có đọc bài báo ấy cho bà nghe chưa?”
“Có, bà ấy cứ đ̣i em phải đọc. Em…”
Tiếng điện thoại reo vang. Dominique đưa mắt nh́n Tony, rồi nhặt ống nghe lên. “Alô? Phải, thưa bà Blackwell, anh ấy mới về”. Nàng đưa ống nghe cho Tony. Anh do dự một lát, rồi cầm lấy.
“Alô, m… mẹ”
Giọng Kate có vẻ buồn bă. “Tony yêu quư, nghe mẹ nói đây này. Mẹ có thể yêu cầu ông ta rút lại lời tuyên bố ấy…”
“M… mẹ ạ”, Tony nói một cách chán chường. “Đây không phải là một vụ giao dịch mua bán. Đây là một nhà phê b́nh bày tỏ ư kiến của ḿnh. Ư kiến của ông ta là con đáng bị treo cổ”.
“Con ạ, mẹ không thích để người ta xúc phạm đến con như thế. Chắc là mẹ không chịu đựng nổi rồi…” Nói xong bà ngưng bặt lại, không thể tiếp tục được nữa.
“Không hề ǵ đâu mẹ ạ. Con muốn thử tài con một chút. Con đă thử rồi và thất bại. Con không có cái mà nghề ấy đ̣i hỏi. Chỉ đơn giản có thế thôi. Con không thích lối nói của d’Usseau, nhưng ông ta là một trong những nhà phê b́nh nghệ thuật “chết tiệt” tài giỏi nhất trên thế giới. Con phải công nhận điều đó. Ông ấy đă giúp con thoát khỏi một sự lầm lẫn kinh khủng”.
“Tony ạ, mẹ ao ước có một điều ǵ đó mẹ có thể nói…”
“d’Usseau đă nói hết rồi. May mà con phát hiện được điều ấy ngay vào lúc này, c̣n hơn là chờ cho đến mười năm nữa, phải thế không mẹ? Con phải rời khỏi thành phố này”.
“Hăy ở đó chờ mẹ, con ạ. Mẹ sẽ đi Johannesburg ngày mai, rồi chúng ta sẽ cùng trở về New York với nhau”.
“Được rồi”, Tony nói. Anh đặt ống nghe xuống, quay về phía Dominique. “Xin lỗi Dominique, em đă chọn lầm một người bạn rồi”.
Dominique không nói ǵ. Nàng chỉ nh́n anh bằng những con mắt chứa đầy nỗi u sầu không nói được ra lời.
Trưa ngày hôm sau, ở văn pḥng của Kruger-Brent trên đường Magnon, Kate Blackwell ngồi viết trên tấm ngân phiếu. Người ngồi đối diện với bà ở bàn viết thở dài nói, “Thật đáng tiếc. Cậu con trai bà có tài năng, bà Blackwell ạ. Lẽ ra anh ấy có thể trở thành một hoạ sĩ nổi danh”.
Kate nh́n ông ta, nét mặt lạnh lùng. “Ông d’Usseau ạ, hiện có hàng chục ngàn hoạ sĩ trên thế giới. Tôi không dự tính cho con trai tôi trở thành một trong đám đông người ấy”. Bà đưa tấm ngân phiếu ngang qua bàn viết. “Ông đă hoàn thành phần giao kèo của ông. Tôi cũng chuẩn bị làm tốt phần giao kèo của tôi. Hăng Kruger-Brent sẽ bảo trợ các Viện Bảo tàng nghệ thuật ở Johannesburg, London và New York. Ông sẽ phụ trách việc tuyển chọn các bức tranh – dĩ nhiên là ông sẽ nhận được tiền hoa hồng hậu hĩnh”.
Nhưng, sau khi d’Usseau đă ra về khá lâu rồi, bà ngồi ở bàn viết, tràn ngập một nỗi u sầu sâu đậm. Bà quá yêu thương con bà. Nếu như một ngày nào đó nó phát hiện ra điều này th́… Bà biết rơ điều rủi ro mà bà đă chấp nhận. Nhưng bà không thể ngồi đó để nh́n Tony vứt bỏ đi tài sản lớn lao nó sẽ thừa kế sau này. Dù cái giá phải trả như thế nào chăng nữa, Tony cũng phải được bảo vệ. Công ty phải được bảo vệ. Kate đứng dậy, đột nhiên cảm thấy mệt mỏi. Đă đến lúc bứng Tony đi, đưa anh ta về nhà. Bà sẽ giúp Tony quên đi câu chuyện này, để có thể bắt tay vào thứ công việc anh ta đă được sinh ra để hoàn tất.
Đó là điều khiển công ty.


Chương 19

Trong hai năm kế tiếp đó, Tony Blackwell cảm thấy ḿnh như đang ở trên một cái cối xay khổng lồ, không đưa ḿnh đi đến đâu cả. Anh là vị Hoàng thái tử thừa kế đế quốc Kruger-Brent, một tổng công ty lớn khủng khiếp đă được mở rộng ra để bao gồm cả các nhà máy giấy, một đường hàng không, nhiều ngân hàng và cả một dây chuyền bệnh viện. Tony nhận thức được rằng một cái tên chính là một ch́a khóa mở tất cả mọi cánh cửa. Có những câu lạc bộ tổ chức và phe nhóm xă hội, mà ở đó yếu tố chủ yếu không phải là tiền bạc hay ảnh hưởng mà là tên tuổi. Tony được nhận làm hội viên cho nhiều câu lạc bộ danh tiếng, được tiếp đăi ở khắp mọi nơi, nhưng anh cảm thấy ḿnh giống như một kẻ mạo danh. Anh không làm để xứng đáng với các thứ ấy. Anh chỉ là một cái bóng khổng lồ của ông ngoại anh; anh cảm thấy ḿnh như luôn luôn được so sánh với ông ấy. Thật là không đúng, không công bằng, v́ anh không bao giờ phải ḅ qua băi ḿn, không có tên bảo vệ nào bắn vào anh, không có những con cá mập đe doạ anh. Những câu chuyện xưa cũ về các hành động gan dạ không có liên quan ǵ đến anh cả. Chúng thuộc về thế kỉ trước, một thời đại khác, một nơi chốn khác, những hành động anh hùng thuộc về một nhân vật xa lạ.
Tony làm việc gấp đôi bất cứ người nào khác ở Kruger-Brent. Anh làm việc cật lực, cố vứt bỏ những kỉ niệm quá đau đớn, không thể chịu đựng nổi. Anh viết thư cho Dominique, nhưng các thư của anh đều bị trả lại nguyên vẹn. Anh điện thoại cho giáo sư Cantal, nhưng Dominique không c̣n làm người mẫu cho Trường Mỹ thuật nữa. Nàng đă biến mất rồi.
Tony giải quyết công việc một cách thành thạo và có phương pháp, nhưng không đam mê hay ham thích ǵ, và nếu anh cảm thấy một sự trống rỗng trong ḷng th́ cũng không một ai nghi ngờ ǵ. Cả Kate cũng không nghi ngờ điều đó. Bà vẫn nhận được những báo cáo hàng tuần về Tony và lấy làm hài ḷng.
“Nó có năng khiếu tự nhiên về kinh doanh”, bà nói với Brad Rogers.
Đối với Kate, những giờ làm việc kéo dài của Tony là bằng chứng cho thấy anh yêu mến công việc đang làm. Mỗi khi nhớ lại rằng Tony đă có lần suưt vứt bỏ cả tương lai, bà vẫn thường rùng ḿnh và cảm ơn trời đất rằng bà đă cứu anh ra khỏi cảnh ngộ ấy.
Năm 1948, Đảng Dân tộc nắm toàn quyền ở Nam Phi, cùng với nạn ḱ thị chủng tộc ở khắp nơi công cộng. Cuộc di cư bị kiểm soát chặt chẽ, và nhiều gia đ́nh bị phân cách cho sự thuận tiện của Chính phủ. Mỗi người da đen đều phải mang một cái “bewshoek”. Cái này không phải chỉ là một thứ giấy thông hành mà nó c̣n là một thứ bùa hộ mệnh, một giấy khai sinh, một giấy cho phép làm việc, một biên lai trả thuế. Nó quy định tất cả các hoạt động, các sự di chuyển và đời sống của người ấy. Càng lúc càng có nhiều cuộc nổi loạn ở Nam Phi, nhưng tất cả đều bị đàn áp một cách tàn nhẫn bởi cảnh sát. Thỉnh thoảng, Kate đọc những bài báo kể về những vụ phá hoại, bất ổn, và tên Banda luôn được nhắc đến hàng đầu. Ông vẫn là lănh tụ của những tổ chức bí mật, mặc dầu tuổi tác đă lớn. Dĩ nhiên, bác ấy chiến đấu cho đồng bào của bác, Kate thầm nghĩ. Bác là Banda mà.
Kate tổ chức lễ sinh nhật thứ năm mươi sáu một ḿnh với Tony ở ngôi nhà trên Đại lộ Thứ năm. Bà nghĩ thầm. Người con trai hai mươi bốn tuổi đang ngồi ở bên kia chiếc bàn không thể là con trai của ḿnh được. Ḿnh c̣n quá trẻ. Tony nâng ly chúc mừng mẹ, “Mừng bà mẹ ḱ diệu của con. Chúc mẹ một ngày sinh nhật vui vẻ”.
“Con phải nâng ly chúc mừng bà mẹ già ḱ diệu mới phải”.
Bà nghĩ thầm, “Chẳng bao lâu nữa ḿnh sẽ rút lui dưỡng già, nhưng con trai ḿnh sẽ thay thế ḿnh. Con trai của tôi”
Do lời yêu cầu khẩn khoản của mẹ, Tony đă dọn đến ở tại ṭa lâu đài trên Đại lộ Thứ năm.
“Nơi ấy quá rộng lớn để mẹ đi lại trong đó một ḿnh”, Kate nói với con trai. “Con sẽ có cả một chái phía tây dành riêng cho con, tha hồ yên tĩnh, kín đáo”. Tony thấy tốt hơn hết là nhượng bộ thay v́ căi lại bà.
Tony và Kate ăn điểm tâm với nhau mỗi buổi sáng. Đề tài nói chuyện của họ bao giờ cũng về công ty Kruger-Brent. Tony ngạc nhiên không hiểu v́ sao mẹ anh lại có thể tha thiết như vậy với một thực thể không có linh hồn, không có mặt mũi, một tập hợp vô h́nh dạng những tên nhà, máy móc và những con số kế toán. Cái ma thuật ấy nằm ở đâu? Trước bao nhiêu những điều bí mật trên thế giới c̣n cần phải khám phá, tại sao lại có người muốn phí phạm th́ giờ trong cuộc sống để tích lũy của cải cho mỗi lúc một nhiều hơn nữa và để thu thập lấy quyền hành càng ngày càng lớn mạnh? Tony không hiểu được mẹ anh. Nhưng anh yêu mẹ. Và anh cố gắng sống để đạt đến những mong ước của bà.
Chuyến bay của hăng Pan Am đi từ Rome đến New York mà không có ǵ trục trặc. Tony thích hăng máy bay này. Nó vừa dễ chịu vừa có hiệu quả. Anh ngồi xem xét các báo cáo của các cơ sở công ty ở nước ngoài từ lúc máy bay bắt đầu cất cánh, bỏ cả bữa ăn, không để ư đến những người chiêu đăi viên đem các thức uống, gối nằm và mọi thứ tiện nghi cho ông hành khách quư này của họ.
“Cảm ơn cô. Tôi cảm thấy dễ chịu rồi”.
“Thưa ông Blackwell, ông cần thêm thứ ǵ nữa không ạ?”
“Cảm ơn”.
Một người đàn bà trạc trung niên, ngồi bên cạnh Tony đang đọc một tạp chí thời trang. Trong khi bà giở trang báo, Tony chợt liếc mắt qua. Anh bỗng thấy lạnh người. Trên tờ báo có h́nh một người mẫu mặc một chiếc áo choàng. Đó là Dominique. Không thể lầm lẫn được. Cũng là đôi g̣ má cao, xinh xắn, cũng vẫn đôi mắt xanh màu lục sẫm và làn tóc hoe sum sê ấy. Mạch trong người Tony bắt đầu đập thật nhanh.
“Xin lỗi bà”, Tony nói với bà hành khách bên cạnh, “Bà có thể cho tôi mượn trang báo ấy được không?”
Sáng sớm hôm sau, Tony gọi điện thoại đến cửa hiệu bán áo dài phụ nữ để hỏi tên của hăng quảng cáo. Anh điện thoại đến nơi này. “Tôi muốn t́m địa chỉ của một người làm mẫu cho quư hăng”. Anh nói với nhân viên pḥng điện thoại. “Cô có thể nào…”
“Xin chờ một lát”.
Tiếp đó là tiếng của một người đàn ông. “Thưa ông cần ǵ ạ?”
“Tôi trông thấy một bức h́nh trên số báo Vogue tháng này. Một người mẫu quảng cáo một chiếc áo dài khiêu vũ cho các cửa hiệu Rothman. Có phải quảng cáo ấy của quư ông không?”
“Phải”.
“Ông có thể cho tôi biết tên hăng giới thiệu người mẫu cho quư ông được không?
“Có lẽ đó là hăng Carleton Blessing”. Người ấy cho Tony số điện thoại.
Một phút sau, Tony nói chuyện với một người đàn bà ở hăng Carleton Blessing. “Tôi muốn t́m một trong các cô làm người mẫu của quư hăng. Cô ấy tên là Dominique Masson”.
“Xin lỗi, hăng chúng tôi đă có nguyên tắc không cung cấp mọi thông tin có tính cách cá nhân”. Đường dây điện thoại bị cúp.
Tony ngồi tại chỗ, nh́n chằm chằm vào ống nghe. “Chắc phải có cách tiếp xúc với Dominique”. Anh đi vào văn pḥng của Brad Rogers.
“Chào anh Tony. Uống cà phê nhé?”
“Không, cảm ơn. Bác Brad, bác có nghe nói về hăng người mẫu Carleton Blessing không?”
“Có. Hăng ấy thuộc về chúng ta”.
“Sao?”
“Hăng ấy được đặt dưới sự bảo trợ của một trong các chi nhánh của chúng ta”.
“Chúng ta mua hăng ấy lúc nào vậy?”
“Chừng một vài năm trước đây. Ngay vào lúc anh bắt đầu vào làm việc cho công ty. Anh có ǵ phải quan tâm về hăng ấy?”
“Tôi cố t́m cho ra một người mẫu làm cho hăng ấy. Cô ta là một người bạn của tôi”.
“Chẳng có ǵ khó khăn cả. Tôi sẽ gọi điện thoại, rồi…”
“Bác khỏi bận tâm, để tôi tự làm việc ấy. Cảm ơn bác Brad”.
Một cảm giác mong đợi ấm áp dâng lên trong ḷng Tony.
Chiều hôm ấy, Tony đi lên phố, đến văn pḥng hăng Carleton, ch́a danh thiếp của anh ra. Chỉ sáu mươi giây sau, anh ngồi tại văn pḥng của ông chủ hăng, ông Tilton.
“Thưa ông Blackwell, đây là một vinh dự lớn cho chúng tôi. Tôi hi vọng rằng không có vấn đề ǵ rắc rối cả. Tiền lời của chúng tôi trong quư trước là…”
“Chẳng có vấn đề ǵ cả. Tôi chỉ muốn gặp một người làm mẫu cho các ông, tên là Dominique Masson”.
Mặt của Tilton sáng lên. “Cô ấy đă trở thành một trong các cô làm mẫu khá nhất của chúng tôi. Bà thân mẫu của ông thật là một người có mắt”.
Tony tưởng rằng Tilton hiểu lầm câu nói của anh, “Tôi xin lỗi”.
“Chính bà thân mẫu của ông đích thân yêu cầu tôi nhận cô Dominique ấy vào làm việc. Đó cũng là một phần của hợp đồng khi Công ty Kruger-Brent tiếp quản chúng tôi. Tất cả đều ghi trong hồ sơ. Nếu ông muốn xem th́…”
“Không”, Tony không thể hiểu được chút nào về những ǵ anh vừa nghe. Tại sao mẹ anh lại…? “Ông cho tôi địa chỉ của cô Dominique được không?”
“Dĩ nhiên là được, thưa ông Blackwell. Cô ấy đang có một cuộc trưng bày ở Vermont hôm nay, nhưng cô ấy thể nào cũng trở về”. Tilton nh́n vào thời khóa biểu trên bàn – “vào trưa ngày mai”.
Tony đang chờ đợi ở bên ngoài ṭa nhà, nơi có căn hộ của Dominique, th́ một chiếc xe hơi đen dừng lại, và Dominique bước ra khỏi xe. Cùng đi với nàng là một anh chàng to lớn như lực sĩ đang vác một va li của Dominique. Dominique dừng phắt lại, đứng sững sờ khi nh́n thấy Tony.
“Tony! Lạy Chúa! Anh làm cái ǵ ở đây?”
“Anh cần nói chuyện với em”.
“Thôi, bữa khác đi, anh bạn”. Anh chàng lực sĩ ấy nói. “Trưa nay chúng tôi bận lắm”.
Tony không thèm để ư đến hắn ta. “Em bảo cái anh bạn này của em hăy đi chỗ khác đi”.
“Này, anh kia, anh nghĩ anh là cái quái ǵ mà…”
Dominique quay về phía anh chàng lực sĩ. “Thôi đi đi, Ben. Tôi sẽ gọi lại anh tối nay”.
Hắn ta do dự một lúc, rồi nhún vai nói, “Ô kê”. Hắn đưa mắt giận dữ nh́n Tony, trở lại chiếc xe, rồi rồ máy chạy thẳng.
Dominique quay về phía Tony. “Chúng ta nên đi vào trong nhà nói chuyện”.
Căn hộ của Dominique là một buồng hai tầng rộng lớn với những tấm thảm và màn màu trắng và đồ đạc tối tân, có vẻ rất đắt tiền.
“Em có vẻ làm ăn khá nhỉ”.
“Vâng. Em may mắn thôi”. Các ngón tay của Dominique bấu vào chiếc áo choàng, có vẻ bồn chồn. “Anh muốn uống thứ ǵ không?”
“Không, cảm ơn. Anh cố t́m cách liên lạc với em sau khi rời Paris”.
“Lúc ấy em rời đi nơi khác”.
“Rời sang Mỹ phải không?”
“Phải”.
“Làm sao em kiếm được việc làm ở hăng Carleton Blessing này?”
“Em… em viết thư trả lời cho một mục quảng cáo trên báo”. Nàng ấp úng nói.
“Em gặp mẹ anh lần đầu tiên vào lúc nào?”
“Tại… tại căn hộ của anh ở Paris, anh không nhớ sao? Chúng ḿnh…”
“Thôi đừng giở tṛ nữa”, Tony nói. Anh cảm thấy cơn giận sôi lên sùng sục. “Cái tṛ đùa ấy chấm dứt rồi. Tôi chưa hề bao giờ đánh một người đàn bà, nhưng nếu cô c̣n dối trá với tôi nữa, tôi hứa với cô rằng cái mặt của cô không c̣n được nguyên vẹn để chụp ảnh nữa đâu”.
Dominique định mở miệng nói, bỗng khựng lại v́ cặp mắt giận dữ của Tony.
“Tôi hỏi cô lại một lần nữa. Cô gặp mẹ tôi lần đầu tiên ở đâu?”
Lần này, Dominique không c̣n do dự ǵ nữa. “Khi anh được nhận vào Trường Mỹ thuật Paris. Mẹ anh thu xếp cho tôi làm kiểu mẫu ở đó”.
Tony cảm thấy đau nhói trong ḷng. Anh cố tiếp tục hỏi, “Như vậy để tôi có thể gặp cô, phải thế không?”
“Phải, em…”
“Rồi mẹ tôi trả tiền cho cô để cô làm nhân t́nh cho tôi, để giả vờ yêu tôi, phải thế không?”
“Phải. Lúc ấy chiến tranh vừa chấm dứt. Thật là kinh khủng. Em không có tiền, anh hiểu không? Nhưng, Tony ạ, anh hiểu cho em, em mến, em thực sự mến…,”
“Cứ trả lời thẳng câu hỏi của tôi”. Vẻ hung bạo trong giọng nói của Tony làm cho nàng hoảng sợ. Đây là một người lạ mặt đang đứng trước mặt nàng, một kẻ có thể trở nên hung bạo vô cùng.
“Mục đích là để làm ǵ?”
“Mẹ anh muốn em canh chừng anh”.
Anh nghĩ đến vẻ âu yếm của Dominique trước kia, đến những lúc hai người ân ái với nhau – tất cả đều do mẹ anh bỏ tiền ra mua. Anh cảm thấy đau đớn v́ thẹn. Th́ ra trong suốt thời gian ấy, anh chỉ là một tên bù nh́n của mẹ anh, bị kiểm soát, bị vận dụng. Mẹ anh đă coi anh chẳng ra cái quái ǵ. Anh không phải là con trai của bà ta. Anh là vị hoàng thái tử, là vị thừa kế của bà. Bà chỉ xem công ty của bà là quan trọng đối với bà mà thôi. Anh đưa mắt nh́n Dominique lần cuối cùng, rồi lảo đảo bước ra ngoài. Nàng nh́n theo anh, đôi mắt nḥa lệ. Nàng nói thầm trong bụng. “Em không nói dối về t́nh yêu của em đối với anh, Tony ạ. Em không nói dối về chuyện ấy đâu”.
Kate đang ngồi trong thư viện th́ Tony bước vào, vừa uống rượu say mèm.
“Con… con vừa nói chuyện với Do… Dominique. Hai người chắc tha hồ vui thích, chế giễu sau lưng tôi…”
Kate lập tức cảm thấy hoảng sợ. “Tony…”
“Từ nay trở đi, con muốn mẹ đừng có xen vào cuộc sống riêng tư của con nữa, mẹ có nghe không?” Nói xong, anh quay người lại, loạng choạng bước ra khỏi pḥng.
Kate nh́n theo, đột nhiên cảm thấy linh tính của bà báo trước một điều ǵ kinh khủng sẽ xảy ra.


Chương 20
 

Ngày hôm sau, Tony thuê một căn hộ trong vùng Greenwich Village. Không c̣n có những bữa cơm thân mật với mẹ anh nữa. Mối liên hệ giữa anh với mẹ vẫn tiếp tục trên căn bản công việc, không mang tính chất t́nh cảm. Đôi lúc Kate cũng t́m cách giảng hoà với con, nhưng Tony làm như không để ư đến. Kate cảm thấy đau đớn trong tim. Nhưng bà đă làm những ǵ mà bà cho là đúng cho Tony, cũng y hệt như trước kia bà đă làm đúng cho David. Bà không muốn bất ḱ người nào trong hai người ấy rời bỏ công ty của bà. Tony là người duy nhất trên thế gian này mà bà yêu mến, nhưng bà nhận thấy anh mỗi ngày một tách rời, kín đáo, chối bỏ tất cả mọi người. Anh không có bạn bè nào. Nếu trước kia anh là một con người nồng nhiệt, cởi mở th́ bây giờ anh trở nên lạnh nhạt, dè dặt. Anh đă xây dựng lên một bức tường xung quanh ḿnh mà không một ai có thể phá vỡ được. “Nó cần có một người để chăm sóc nó”, Kate nghĩ thầm, “Và một đứa con trai để tiếp tục sự nghiệp của nó. Ḿnh phải giúp đỡ cho nó mới được”.
Brad Rogers bước vào văn pḥng của Kate và nói, “Tôi lo rằng chúng ta sẽ phải dính líu vào nhiều vụ rắc rối nữa, Kate ạ”.
“Có chuyện ǵ xảy ra vậy?”
Brad đặt một bức điện lên bàn. “Quốc hội Nam Phi đă đặt Hội đồng Đại diện các dân bản xứ ra ngoài ṿng pháp luật và thông qua Đạo luật chống Cộng sản”.
Kate nói, “Lạy Chúa”. Đạo luật ấy chẳng có liên quan ǵ đến Cộng sản cả. Nó tuyên bố rằng bất cứ ai bất đồng ư kiến với chính phủ và cố thay đổi bằng bất cứ cách nào sẽ bị coi là phạm tội theo đạo luật chống Cộng sản ấy, và có thể bị tù.
“Đó là cách của họ nhằm phá vỡ phong trào chống đối của người da đen”, Kate nói. “Nếu…”, câu nói của bà bị cắt ngang v́ cô thư kư của bà vừa lúc ấy bước vào và nói.
“Có điện thoại từ nước ngoài gọi đến, thưa bà. Đó là ông Pierce ở Johannesburg”.
Jonathan Pierce là giám đốc chi nhánh của bà ở Johannesburg. Kate nhấc điện thoại. “A lô, Johnny. Mạnh khoẻ chứ?”
“Vẫn khoẻ, thưa bà. Tôi có ít tin tức cần cho bà biết”.
“Chuyện ǵ vậy?”
“Tôi vừa nhận được báo cáo cho biết rằng Banda vừa bị bắt”.
Kate lên máy bay đi Johannesburg ngay trong chuyến bay kế tiếp đó. Bà đă báo động cho các luật sư của công ty và ra lệnh cho họ nghiên cứu xem có cách nào giúp đỡ Banda được hay không. Ngay đến cả quyền lực và uy tín của Kruger-Brent cũng có thể bất lực trong việc này. Banda đă bị xem như là kẻ thù của quốc gia, nên bà lo sợ mỗi khi nghĩ đến thứ trừng phạt mà Banda sẽ phải gánh chịu. Ít nhất bà cũng phải gặp Banda, nói chuyện với bác ấy và đề nghị mọi sự giúp đỡ có thể có được.
Khi máy bay hạ cánh xuống Johannesburg, Kate đi ngay đến văn pḥng của bà, rồi điện thoại đến giám đốc các nhà tù.
“Thưa bà Blackwell, hắn ta bị nhốt trong một khu riêng biệt, không được phép tiếp khách khứa nào đến thăm. Thế nhưng trong trường hợp của bà, tôi sẽ t́m cách thu xếp…”
Sáng hôm sau, Kate có mặt ở nhà tù Johannesburg, mặt đối mặt với Banda. Ông bị xiềng xích chân tay, và có một tấm vách ngăn bằng kính giữa hai người. Tóc Banda đă hoàn toàn bạc trắng. Trước đó, Kate không biết lúc gặp Banda, bác ta sẽ có thái độ như thế nào – thất vọng, thách thức – thế nhưng, khi gặp bà, Banda nhoẻn miệng cười và nói, “Bác biết thế nào cháu cũng đến. Cháu y hệt như cha cháu. Cháu không thể nào t́m cách tránh xa mọi sự rắc rối hay sao?”
“Bác hăy nh́n kĩ xem ai đang nói chuyện với bác ở đây”, Kate căi lại. “Mẹ kiếp! Làm thế nào đưa bác ra khỏi nơi này được?”
“Trong một chiếc quan tài. Đó là cách duy nhất họ sẽ cho phép bác ra khỏi nơi này”.
“Tôi có nhiều luật sư tài giỏi có thể…”
“Bỏ qua chuyện ấy đi, Kate ạ. Chúng nó bắt bác một cách đàng hoàng th́ bây giờ bác cũng phải ra đi một cách đàng hoàng”.
“Bác nói ǵ lạ vậy?”
“Bác không thích các lồng sắt. Chẳng bao giờ thích cả. Thế nhưng chúng nó không bao giờ dựng lên thứ lồng sắt nào khả dĩ giữ bác lại được”.
“Bác Banda, bác đừng có làm thế. Tôi xin bác. Chúng nó sẽ giết bác mất”.
“Không thứ ǵ có thể giết bác được đâu”, Banda nói. “Cháu đang nói chuyện với một người đă từng gặp cá mập, băi ḿn và chó săn mà vẫn sống”. Một tia sáng lóe lên trong mắt Banda. “Cháu biết không, Kate? Có lẽ đó là những giờ phút thú vị nhất trong cuộc đời của bác đó”.
Khi Kate đến thăm Banda ngày hôm sau, viên giám thị nhà giam nói, “Tôi xin lỗi, thưa bà Blackwell. Chúng tôi bắt buộc phải di chuyển hắn đi nơi khác v́ lí do an ninh”.
“Ông ta bây giờ ở đâu?”
“Tôi không được phép nói ra”.
Khi Kate thức dậy vào sáng hôm sau, bà nh́n thấy hàng tít lớn trên tờ báo được đem đến trên chiếc khay đựng các thức ăn điểm tâm. Ḍng tít ấy như sau: LĂNH TỤ PHIẾN LOẠN BỊ GIẾT TRONG KHI CỐ GẮNG VƯỢT NGỤC. Một giờ sau, Kate đến văn pḥng của viên quản đốc nhà giam.
“Hắn ta bị bắn chết trong khi cố gắng vượt ngục, thưa bà Blackwell. Thế là chấm dứt mọi thứ”.
Ông lầm rồi, Kate nghĩ thầm, c̣n nhiều hơn thế nữa chứ. Banda đă chết, nhưng ước mơ tự do của bác ấy cho đồng bào của bác có chết được không?
Hai ngày sau, sau khi xếp đặt công việc mai táng cho Banda, Kate lên máy bay trở về New York. Bà nh́n ra ngoài cửa sổ máy bay để xem lại một lần cuối cùng vùng đất nước thân yêu của bà. Đất màu đỏ, giàu có và màu mỡ, và trong ḷng đất của nó đang chứa đựng những kho tàng lớn vượt sức tưởng tượng của con người. Đó là đất lựa chọn của Chúa, và Người đă tỏ ra rất rộng lượng. Nhưng có một lời nguyền rủa trên đất nước ấy. Ta sẽ không bao giờ trở lại nơi này nữa, Kate thầm nghĩ. Không bao giờ.
Một trong các trách nhiệm của Brad Rogers là trông coi cục Quy hoạch Dài hạn của công ty Kruger-Brent. Anh tỏ ra rất xuất sắc trong việc t́m ra những dịch vụ kinh doanh đem đến nhiều lợi lộc cho công ty.
Một hôm, vào đầu tháng năm, anh bước vào văn pḥng của Kate Blackwell “Tôi vừa bắt được một cơ hội rất hay, Kate ạ”. Anh đặt hai tập hồ sơ trên bàn. “Hai công ty. Nếu ta nắm được một trong hai công ty này th́ đó sẽ là một việc làm phi thường”.
“Cảm ơn, Brad. Để tôi xem xét các hồ sơ này tối nay”.
Tối hôm ấy, Kate ăn cơm một ḿnh, rồi nghiên cứu các báo cáo mật của Brad về hai công ty – Công ty dầu và công cụ Wyatt, và công ty Kĩ thuật Quốc tế. Các báo cáo ấy dài và đi sâu vào chi tiết, nhưng cả hai đều kết thúc bằng chữ NIS, một thứ mật mă của công ty viết tắt chữ NOT INTERESTED IN SELLING (Không muốn bán). Điều này có nghĩa là, nếu muốn thủ đắc công ty ấy, họ cần phải thực hiện một lối giao dịch kinh doanh không phải là đơn giản. Nhưng Kate thầm nghĩ, hai công ty này đều đáng được tiếp quản cả. Mỗi công ty ấy đều do tư nhân kiểm soát, đứng đầu là một cá nhân giàu có, cương quyết; điều này loại trừ mọi cố gắng tiếp quản, nếu có. Thật là một cuộc thử thách lớn, nhưng đă từ lâu Kate quen đương đầu với các cuộc thử thách rồi. Càng nghĩ đến chuyện này, Kate lại càng thấy các khả năng ấy trở nên hấp dẫn. Bà nghiên cứu lại một lần nữa các bản quyết toán mật về tài sản của các công ty ấy. Công ty Wyatt do một người vùng Texas làm chủ, tên là Charlie Wyatt, và tài sản của công ty này gồm có các giếng dầu, một công ty dịch vụ công cộng, và hàng chục hợp đồng cho thuê đất có dầu rất nhiều lợi lộc. Không c̣n phải nghi ngờ ǵ nữa, Công ty Công cụ và Dầu Wyatt sẽ là một sự thủ đắc tốt đẹp cho Kruger-Brent.
Kate quay sự chú ư của bà sang công ty thứ hai. Công ty Kĩ thuật Quốc tế do một người Đức, Bá tước Frederick Hoffman làm chủ. Công ty này khởi sự bằng một nhà máy cán thép nhỏ ở Essen, rồi qua nhiều năm nó phát triển lên thành một tổ hợp công ty đồ sộ, với các xưởng đóng tàu, nhà máy hoá dầu, một đoàn tàu chở dầu và một chi cục điện toán.
Một công ty lớn như công ty Kruger-Brent cũng chỉ có thể “tiêu hoá” được một trong hai cơ sở khổng lồ ấy mà thôi. Kate đă biết được bà cần theo đuổi công ty nào. NIS, tờ báo cáo nói cho biết như vậy.
Ta sẽ xem xét kĩ vấn đề này, Kate nghĩ thầm.
Sáng sớm hôm sau, bà cho mời Brad Rogers đến văn pḥng. Bà cười và nói, “Tôi muốn biết bằng cách nào anh đă có được các bản quyết toán mật ấy. Hăy nói rơ về Charlie Wyatt và Frederick Hoffman cho tôi nghe”.
Brad đă chuẩn bị sẵn. Charlie Wyatt sinh ở Dallas. Một con người thích phô trương, ồn ào, điều khiển cả đế quốc của ông ta một cách rất khôn ngoan. Thoạt tiên, ông ta chẳng có ǵ cả, sau đó may mắn t́m được dầu nhờ ở tính liều lĩnh, và từ đó phát triển lớn măi, cho đến bây giờ th́ một nửa Texas đă thuộc về ông ta”.
“Ông ta bao nhiêu tuổi?”
“Bốn mươi bảy”.
“Có con cái ǵ không?”
“Một con gái, hai mươi lăm tuổi. Theo như tôi được nghe nói th́ cô ta có sắc đẹp mê hồn”.
“Cô ấy có chồng chưa?”
“Ly dị chồng”.
“C̣n Frederick Hoffman?”
“Hoffman trẻ hơn Charlie Wyatt chừng vài tuổi. Ông ta là một bá tước, xuất thân từ một gia đ́nh quư tộc Đức từ thời Trung cổ. Ông ta goá vợ. Ông nội ông ấy khởi sự với một nhà máy thép nhỏ. Hoffman thừa hưởng tài sản ấy của cha, rồi xây dựng nó lên thành một tổ hợp công ty. Ông ta là một trong những người đầu tiên đi vào lĩnh vực điện toán. Ông ta nắm trong tay nhiều đặc quyền sáng chế các máy vi tính. Mỗi lần chúng ta sử dụng một máy điện toán, ông bá tước Hoffman hưởng quyền tác giả”.
“C̣n các con ông ta?”
“Một người con gái, hai mươi ba tuổi”.
“Cô ta trông thế nào?”
“Tôi không thể t́m hiểu được”, Brad nói. “Đó là một gia đ́nh rất kín đáo. Họ đi lại trong phạm vi nhỏ hẹp của riêng họ mà thôi”. Anh do dự một lúc rồi nói tiếp, “Có lẽ chúng ta sẽ phí mất th́ giờ về vấn đề này thôi, Kate ạ. Tôi có lần uống rượu với vài nhân vật cao cấp trong hai công ty ấy. Cả Wyatt lẫn Hoffman đều không muốn bán, sát nhập hay hợp tác kinh doanh với ai. Như chị thấy trong các quyết toán tài chính của họ, chỉ nghĩ đến vấn đề ấy cũng đủ làm họ phát điên lên rồi”.
Cảm tưởng thách đố một lần nữa lại trỗi dậy trong con người Kate, lôi kéo, thu hút bà.
Mười ngày sau, Kate được Tổng thống Mỹ mời tham dự một hội nghĩ các kĩ nghệ gia hàng đầu quốc tế để bàn về việc trợ giúp các nước kém phát triển. Kate gọi điện thoại rồi một thời gian ngắn sau đó, Charlie Wyatt và bá tước Frederick Hoffman cũng nhận được giấy mời tham dự hội nghị.
Kate đă h́nh dung trong đầu óc hai con người ấy – một người gốc Texas, người kia gốc Đức – như thế nào, và khi gặp họ, bà thấy họ đúng gần như chính xác những ǵ bà đă suy nghĩ về họ. Bà chưa hề bao giờ gặp một người xứ Texas nào mà lại bẽn lẽn, nhút nhát. Charlie Wyatt không phải là ngoại lệ. Ông ta có dáng người to lớn, vai rộng, thân h́nh của một vận động viên bóng bầu dục, nhưng béo hơn một chút. Mặt ông ta tṛn, hồng hào, giọng nói to, oang oang. Ông ta tỏ ra là một người đáng tin cậy, Charlie Wyatt xây dựng đế quốc của ông ta không phải do may mắn. Ông ta là một thiên tài trong lĩnh vực kinh doanh. Kate chỉ nói chuyện với ông không đầy mười phút đă nhận ngay ra rằng ông ta không phải là một con người có thể thuyết phục được, nếu ông ta không muốn. Ông ta khăng khăng giữ ư kiến của ḿnh và có vẻ rất ngoan cố. Không ai có thể tán tỉnh, dụ dỗ, đe doạ hay lừa gạt ông ta ra khỏi công ty của ông ta được. Nhưng Kate đă t́m được điểm yếu của ông và như thế là đủ rồi.
Frederick Hoffman là một mẫu người trái ngược hẳn lại. Ông này là một con người đẹp đẽ, có vẻ mặt quư phái, tóc nâu nhạt điểm những sợi bạc ở màng tang. Ông ta có vẻ đứng đắn, nghiêm túc cho đến từng chi tiết, với thái độ cử chỉ lịch sự theo lối xưa cổ. Ngoài mặt, Hoffman rất vui vẻ, hoà nhă, nhưng bên trong Kate biết rằng ông ta rất sắt đá.
Hội nghị Washington kéo dài ba ngày và tiến hành rất tốt. Các cuộc hội họp đều được đặt dưới sự chủ toạ của Phó Tổng thống, và chính Tổng thống cũng đă xuất hiện trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Mọi người đều có vẻ thán phục bà Blackwell. Bà là một người có uy tín và sức thu hút rất mạnh, đứng đầu một tổ hợp công ty lớn lao mà bà đă góp phần tạo dựng nên.
Khi Kate đứng riêng với Charlie Wyatt trong một lúc, bà hỏi, cố làm ra vẻ tự nhiên, “Ông có đem gia đ́nh theo không, ông Wyatt?”
“Tôi có đem con gái tôi theo. Nó cần phải mua sắm ít thứ”.
“Ồ, thật thế à? Như vậy tuyệt quá!” Không ai biết rằng không những bà đă biết rằng con gái ông có đi theo mà c̣n biết loại áo dài mà cô ta vừa mua ở hiệu Garfinckel sáng hôm ấy. Bà nói tiếp, “Tôi sắp sửa tổ chức một bữa tiệc nhỏ ở Dark Harbor vào ngày thứ sáu này. Tôi rất hân hạnh nếu ông và quư tiểu thư đến dùng cơm với chúng tôi vào cuối tuần này”.
Wyatt không do dự. “Tôi đă nghe nói về ngôi nhà của bà, bà Blackwell ạ. Chắc chắn là tôi muốn được đến đó xem”.
Kate mỉm cười. “Vậy th́ tốt. Tôi sẽ chuẩn bị để đưa ông đến đó bằng máy bay vào tối mai”.
Mười phút sau, bà nói chuyện với Frederick Hoffman. “Ông đến Washington một ḿnh hay sao, ông Hoffman?” bà hỏi. “Vậy bà nhà có đi theo không?”
“Nhà tôi mất cách đây mấy năm. Tôi hiện ở đây với con gái tôi”, Hoffman đáp.
Kate đă biết rằng hai người hiện đang ở tại khách sạn Hay Adams, trong dăy pḥng số 418. “Tôi sắp tổ chức một bữa tiệc nhỏ ở Dark Harbor. Tôi muốn mời ông và quư tiểu thư đến dùng cơm với chúng tôi vào cuối tuần này”.
“Tôi phải trở về Đức vào lúc ấy”, Hoffman đáp. Ông ta nh́n Kate một lúc như ḍ xét, rồi tủm tỉm cười nói, “Tôi chắc hoăn lại một vài ngày cũng không hề ǵ”.
“Vậy th́ hay quá. Tôi sẽ sắp đặt việc đưa đón ông và quư tiểu thư”.
Kate có thông lệ tổ chức tiệc tùng ở Dark Harbor, hai tháng một lần. Khách khứa đến dự là những người rất quan trọng và có thế lực trên thế giới, và các cuộc gặp mặt như vậy thường rất có lợi. Kate dự tính sẽ làm sao cho buổi tiệc sắp tới phải rất đặc biệt. Vấn đề khó khăn đối với bà là làm sao tin chắc được rằng Tony sẽ đến tham dự. Trong năm qua, Tony ít khi muốn đến gặp bà, và mỗi khi đến anh chỉ có mặt chiếu lệ, rồi đi về ngay. Lần này th́ bắt buộc anh ta phải đến và phải ở lại.
Khi Kate nhắc đến buổi tiệc cuối tuần này với Tony th́ anh chỉ nói ngắn gọn, “Con… con không thể đến được. Con sẽ đi Canada ngày thứ hai, nhưng trước khi đi c̣n phải giải quyết cho xong một số công việc”.
“Buổi tiệc này quan trọng”, Kate nói. “Charlie Wyatt và Frederick Hoffman sẽ có mặt. Họ…”.
“Con biết họ là ai rồi”, Tony ngắt lời. “Con đă nói chuyện với Brad Rogers. Không có hi vọng ǵ thủ đắc được bất cứ công ty nào trong hai công ty ấy đâu”.
“Mẹ muốn thử cố gắng xem xao”.
Anh nh́n mẹ, hỏi “Mẹ định nhắm công ty nào?”
“Công ty dầu Wyatt. Nếu được như vậy nó sẽ làm tăng lợi nhuận của chúng ta lên mười lăm phần trăm, có lẽ hơn thế. Khi các nước Ả rập nhận thấy họ đă nắm thế giới ở ngay cổ họng, họ sẽ lập nên một “các-ten” (cartel), lúc ấy giá dầu sẽ tăng vọt lên. Dầu sẽ trở thành một thứ vàng nước”.
“Thế c̣n Công ty Kĩ thuật Quốc tế th́ sao?”
Kate nhún vai. “Đó cũng là một công ty tốt, nhưng món bở nhất là công ty dầu Wyatt. Nó rất có lợi cho công ty ta. Mẹ muốn con có mặt hôm ấy. Việc đi Canada có thể hoăn lại it ngày”.
Tony ghét các buổi tiệc tùng. Anh ghét những cuộc chuyện tṛ chán ngắt, kéo dài như vô tận, các ông th́ khoe khoang, c̣n các bà th́ làm ra vẻ thông thái rởm. Nhưng đây là v́ công việc.
“Thôi được, con sẽ dự”.
Như vậy là mọi thứ đều xếp đặt đâu vào đấy.
Hai cha con ông Wyatt được đưa đến Maine bằng chiếc máy bay Cessna của Công ty, rồi từ bến phà họ đi xe hơi đến Ngôi nhà trên đồi thông. Bà Kate đứng ở trước cửa để đón khách. Brad Rogers đă nói rất đúng về cô con gái của ông Wyatt. Thật là một cô gái xinh đẹp. Dáng người nàng cao, tóc đen, đôi mắt nâu điểm chấm vàng, nét mặt gần như hoàn hảo. Chiếc áo dài bóng mượt làm nổi bật lên dáng người mạnh khoẻ, tuyệt đẹp. Brad cũng cho biết rằng cách đây hai năm nàng đă bỏ chồng, một anh chàng người Ư, ăn chơi, giàu có. Kate giới thiệu Lucy với Tony, và để ư xem phản ứng anh ta như thế nào. Nhưng Tony không có phản ứng nào. Anh chào ông Wyatt và cô con gái với những cử chỉ lịch sự y hệt như nhau, rồi đưa họ đến quầy rượu, nơi người phục vụ đang đứng đợi để pha rượu cho khách.
“Căn pḥng này thật là đẹp!” Lucy kêu lên. Giọng nàng nghe rất êm ái, dịu dàng, không mang một âm sắc nào của miền Texas cả. “Anh có hay đến nơi này không?”
“Không”.
Nàng chờ đợi Tony nói tiếp. Rồi, nàng hỏi, “Anh lớn lên ở đây sao?”
“Một phần nào”.
Bà Kate xen vào câu chuyện, cố khoả lấp sự im lặng của Tony. “Những kỉ niệm vui thích nhất của Tony là ở trong ngôi nhà này. Tội nghiệp, Tony quá bận rộn công việc nên ít khi có dịp ở lại vui chơi ở nơi này, có phải không, Tony?”
Anh đưa mắt lạnh nhạt nh́n mẹ, rồi nói, “Không. Lẽ ra tôi phải đi Canada…”
“Nhưng cậu ấy đă hoăn chuyến đi để được gặp cô và ông nhà đây”, bà Kate nói, trả lời hộ cho Tony.
“Thật là rất hân hạnh”, ông Wyatt nói. “Tôi đă nghe nói nhiều về cậu con bà”. Wyatt cười. “Cậu có muốn đến giúp việc cho tôi không?”
“Tôi không nghĩ rằng mẹ tôi có ư định như vậy, thưa ông Wyatt”.
Charlie lại nhe răng cười một lần nữa. “Tôi biết”. Rồi ông quay lại nh́n bà Kate. “Mẹ cậu đúng là một vị phu nhân tài giỏi. Phải trông thấy bà ấy dùng dây trói tay chân mọi người lại tại cuộc họp ở Nhà Trắng th́ mới biết được. Bà…” Ông dừng lại, v́ lúc ấy Frederick Hoffman và cô con gái, Marianne, đi vào trong pḥng. Marianne là một h́nh ảnh mờ nhạt của cha cô. Cũng là những nét quư phái giống như vậy, nhưng cô có làn tóc màu hoe dài, Nàng mặc một chiếc áo sa trắng nhờ nhờ. Ngồi bên cạnh Lucy, nàng trông có vẻ phờ phạc.
“Tôi xin phép giới thiệu, đây là con gái tôi”. Bá tước Hoffman nói, “Tôi xin lỗi chúng tôi đă đến trễ. Máy bay bị chậm trễ ở La Gardia”.
“Ồ, như vậy thật tệ quá”, Kate nói. Nhưng Tony biết rằng mẹ anh đă xếp đặt việc chậm trễ này. Bà muốn cho hai gia đ́nh Wyatt và Hoffman đi máy bay riêng, để làm sao cho cha con ông Wyatt phải đến trước, c̣n cha con Hoffman đến sau. Bà nói tiếp, “Chúng tôi mới dùng rượu thôi. Ông muốn dùng thứ ǵ ạ?”
“Cho tôi Scotch”, Bá tước Hoffman nói.
Kate quay sang Marianne. “Thế c̣n cô?”
“Cháu không uống ǵ cả. Xin cảm ơn bà”.
Ít phút sau, các khách khứa khác lục tục kéo đến. Tony đi đến hết người này, người kia, đóng vai chủ nhà lịch sự. Không một ai, ngoài Kate, biết rằng tiệc tùng đối với anh chẳng có ư nghĩa ǵ quan trọng. Bà biết rằng đó không phải là v́ Tony cảm thấy buồn chán. Nguyên nhân đơn giản chỉ v́ anh tự tách rời ra khỏi những ǵ diễn ra xung quanh anh. Anh không vui thích tiếp xúc với ai cả. Điều này khiến Kate rất lo lắng.
Hai chiếc bàn đă được bày ra trong pḥng ăn rộng lớn. Kate xếp đặt cho Marianne Hoffman ngồi giữa một vị thẩm phán Tối cao Pháp viện và một nghị sĩ ở một bàn, c̣n Lucy th́ ngồi bên phải Tony ở bàn thứ hai. Tất cả mọi người đàn ông – dù đă có vợ hay chưa có vợ – đều đưa mắt nh́n Lucy. Kate lắng nghe Lucy đang cố kéo Tony vào câu chuyện. Rơ ràng là Lucy đă có cảm t́nh với Tony. Kate tủm tỉm cười với chính ḿnh. Bước đầu như vậy là rất tốt.
Sáng hôm sau, ngày thứ bảy, vào lúc ăn sáng, Charlie Wyatt nói với Kate. “Bà có chiếc thuyền buồm rất đẹp đang đậu ở kia, bà Blackwell ạ. Nó dài bao nhiêu thước đấy nhỉ?”
“Tôi không rơ lắm”, Kate quay về phía con trai. “Tony này, chiếc “Corsaire” (cướp biển) ấy dài bao nhiêu, con nhỉ?”
Bà đă biết chán chiếc ấy dài bao nhiêu rồi, nhưng Tony vẫn trả lời cho phải phép, “Trên hai mươi ba thước”.
“Chúng tôi ở Texas không thích chơi thuyền lắm. Chúng tôi lúc nào cũng hối hả, nên đi đâu cũng đi bằng máy bay thôi”, Wyatt cười lên thật to. “Nhưng có lẽ tôi cũng nên thử một chút cho ướt đôi bàn chân, như thế cũng hay”.
Kate cười, “Tôi hi vọng ông sẽ cho phép chúng tôi đưa ông và cô đi chơi một ṿng xung quanh đảo. Chúng ta có thể đi bằng thuyền vào ngày mai”.
Charlie Wyatt nh́n Kate, ra dáng suy nghĩ, rồi nói, “Như vậy th́ tốt quá”.
Tony im lặng nh́n hai người, không nói câu ǵ. Thế là bước đầu tiên của mẹ anh đă được thực hiện. Anh tự hỏi không biết Charlie Wyatt có biết điều đó hay không. Chắc là không. Ông ta là một nhà kinh doanh rất khôn ngoan, nhưng chưa hề bao giờ phải đối phó với một người như bà Kate.
Kate quay về phía Tony và Lucy. “Hôm nay trời rất đẹp. Hai người nên đi chơi bằng thuyền buồm, có thích hơn không?”
Tony chưa kịp từ chối th́ Lucy đă vội nói. “Thế th́ thích quá”.
“Tôi xin lỗi”, Tony nói cộc lốc. “Tôi phải đợi điện thoại từ nước ngoài gọi về”. Tony trông thấy rơ vẻ bất măn của mẹ trong đôi mắt của bà.
Kate quay về phía Marianne Hoffman. “Tôi không gặp thân phụ cô sáng nay”.
“Cha tôi đang đi thăm ḥn đảo. Ông ấy có thói quen dậy sớm”.
“Tôi chắc cô thích cưỡi ngựa. Chúng tôi có nhiều ngựa rất tốt ở đây”.
“Cảm ơn bà, tôi muốn đi lang thang xung quanh đây, nếu bà cho phép”.
“Tất nhiên là tôi rất vui ḷng”. Kate quay về phía Tony. “Con nhất định không đưa cô Wyatt đi chơi một ṿng bằng thuyền buồm hay sao, Tony?”. Giọng nói của bà có vẻ cứng rắn như thép.
“Vâng, con không thay đổi ư kiến”.
Thật là một sự đắc thắng nhỏ nhoi, nhưng dẫu sao nó cũng là sự đắc thắng. Tony nhất định không chịu thua trong trận chiến lần này. Mẹ anh không c̣n có quyền lừa anh nữa. Bà đă từng có lần sử dụng anh như một quân cờ rồi, lần này bà lại muốn tái diễn thêm lần nữa. Nhưng bà sẽ thất bại. Bà muốn chiếm lấy công ty dầu hoả Wyatt, c̣n Wyatt th́ không có ư định sát nhập hay bán công ty ấy đi. Nhưng người nào cũng có một yếu điểm, và bà Kate đă t́m ra được yếu điểm ấy. Đó là cô con gái của ông ta. Nếu Lucy trở thành con dâu của gia đ́nh Blackwell th́ một h́nh thức sát nhập nào đó là điều không thể tránh được. Tony nh́n mẹ ngang qua bàn ăn và cảm thấy một sự khinh bỉ âm thầm. Bà đă đặt mồi nhử trong cái bẫy một cách tài t́nh. Lucy không những xinh đẹp, nàng c̣n thông minh, hấp dẫn nữa. Nhưng cô ta cũng là một quân cờ trong tṛ chơi này, chẳng khác ǵ chàng, v́ vậy anh không muốn động chạm đến nàng một chút nào. Đây là cuộc chiến giữa anh và mẹ.
Ăn cơm sáng xong, Kate đứng dậy. “Tony, trước khi có điện thoại gọi đến, sao con không đưa cô Wyatt đi xem các khu vườn một lát?”
Tony không c̣n cách nào từ chối được nữa. “Thế cũng được”. Anh nói. Nhưng anh dự định sẽ chỉ đi chơi trong một khoảng thời gian rất ngắn thôi.
Kate quay về phía ông Wyatt. “Ông có thích đọc những cuốn sách hiếm không? Tôi có cả một bộ sưu tập trong thư viện”.
Rồi như sực nhớ ra điều ǵ, bà quay về phía cô Marianne và hỏi. “Cô không có ǵ phiền hà chứ, cô Marianne thân mến?”
“Da không, xin cảm ơn bà Blackwell. Xin bà đừng bận tâm về tôi”.
“Vâng”, Kate nói.
Tony hiểu ư bà trong câu nói này. Cô Hoffman không ích lợi ǵ cho bà cả, v́ vậy bà cho cô ra ŕa. Bà thực hiện điều này với một vẻ duyên dáng và với một nụ cười, nhưng bên trong bà theo đuổi một mục đích tàn bạo duy nhất mà Tony rất ghét.
Lucy đang đưa mắt theo dơi Tony. “Anh sẵn sàng rồi chứ, Tony?”
“Vâng”.
Tony và Lucy đi về phía cửa. Chưa đi được xa bao nhiêu th́ Tony thoáng nghe bà Kate nói, “Thật là đẹp đôi!”
Hai người đi xuyên qua những khu vườn rộng, hướng về phía bến tàu, nơi chiếc Corsaire đang đậu. Có hàng mẫu Anh trồng hoa đủ màu sắc chói lọi, toả hương thơm trong không khí mùa hạ.
“Thật là một cảnh thiên đường!” Lucy nói.
“Vâng”.
“Chúng tôi không có những hoa như thế này ở Texas”.
“Không sao?”
“Ở đây thật là lặng lẽ, thanh b́nh”.
“Vâng”.
Lucy đột nhiên dừng lại, quay mặt lại nh́n Tony.
Anh trông thấy vẻ giận dữ hiện ra trên nét mặt nàng. “Không biết tôi có điều ǵ làm cô mất ḷng không?”
“Chính anh không nói ǵ cả mới làm tôi mất ḷng. Tôi chỉ nghe anh nói “Vâng” và “Không” thôi. Anh làm tôi có cảm tưởng như đang cố theo đuổi anh vậy”.
“Thật thế sao?”
“Phải, giá như tôi có thể dạy anh được cách nói chuyện, may ra anh mới có điều ǵ đó để mà nói”.
Tony nhoẻn miệng cười.
“Anh nghĩ ǵ vậy?” Lucy hỏi.
“Không”.
Anh đang nghĩ đến mẹ anh, và anh biết rằng mẹ anh không thích chịu thua bao giờ.
Kate dẫn Charlie Wyatt đi xem thư viện rất lớn, lát toàn bằng ván gỗ sồi. Trên giá sách là những ấn bản đầu tiên của Goldsmith, Laurence Sterne, Tobias Smolett và John Donne, cùng với bản thảo đầu tiên của Ben Johnson. Có cả tác phẩm của Samuel Butler, John Bunyan, và ấn bản đầu tiên của “Quenn Mab”, đă được in riêng vào năm 1813 và rất hiếm. Wyatt bước dọc theo các giá sách quư giá, mắt sáng rực lên. Ông dừng lại trước một ấn bản “Endymion”, đóng b́a da rất đẹp, của John Keats.
“Đây là bản của Roseberg” Charlie Wyatt nói.
Kate nh́n ông, tỏ vẻ ngạc nhiên. “Phải, người ta biết chỉ có hai bản mà thôi”.
“Tôi có bàn thứ hai”. Wyatt nói.
“Thế mà tôi không được biết đấy”, Kate cười to. “Tôi đă bị lừa v́ cái vẻ “anh chàng người Texas chất phác” của ông!”
Wyatt cười. “Thế hả? Biết che đậy như thế cũng giỏi đấy chứ!”
“Xưa kia, ông đi học trường nào vậy?”
“Trường mỏ ở Colorado, rồi học ở Oxford nhờ một học bổng Rhodes”, ông nh́n Kate một lát như ḍ xét, rồi nói tiếp. “Người ta bảo tôi rằng bà đă đề nghị mời tôi đến dự tại hội nghị ở Toà Bạch Ốc”.
Kate nhún vai. “Tôi chỉ nhắc tên ông thôi. Họ rất sung sướng có ông tham dự”.
“Bà thật là tốt bụng. Bây giờ chỉ có riêng chúng ta với nhau, tại sao mà không nói thẳng cho tôi biết bà đang có dự tính ǵ trong đầu?”
Tony đang làm việc trong pḥng đọc sách riêng của anh, một căn pḥng nhỏ cách xa hành lang chính ở tầng lầu dưới. Anh đang ngồi trên chiếc ghế bành th́ nghe có tiếng cánh cửa mở ra, rồi một người đi vào. Anh quay mặt lại. Đó là Marianne Hoffman. Tony chưa kịp lên tiếng cho biết có anh ngồi ở đấy th́ nghe tiếng Marianne thở hổn hển.
Nàng đang đi ngắm các bức tranh treo trên tường. Đó là những bức tranh của Tony – một số ít tranh anh đă đưa về đây từ căn hộ của anh ở Paris, và đây là căn pḥng duy nhất anh cho phép treo các bức tranh ấy. Anh nh́n theo nàng bước đi quanh pḥng, xem hết bức tranh này đến bức tranh khác. Quá chậm rồi, anh không nói được lời nào nữa cả.
“Không thể tin nổi”, Marianne nói lẩm bẩm.
Tony cảm thấy cơn giận dữ nổi lên đột ngột trong ḷng. Anh biết rằng các bức tranh của anh không đến nỗi tồi tệ như thế. Trong khi anh cử động, miếng da trên ghế anh ngồi kêu ken két, khiến Marianne quay lại, nh́n thấy anh.
“Ồ, xin lỗi”, nàng nói. “Tôi tưởng không có ai ở đây”.
Tony đứng dậy. “Không hề ǵ”. Giọng anh có vẻ hơi cứng rắn. Anh không muốn ai xâm phạm nơi ẩn náu này của anh. “Cô đang t́m ǵ vậy?”
“À không, tôi chỉ đi lang thang thôi. Bộ sưu tập này của anh chắc hẳn thuộc về viện bảo tàng nghệ thuật”.
“Ngoại trừ những bức này”.
Nàng bối rối trước vẻ thiếu thiện cảm trong giọng nói của anh. Nàng quay lại nh́n các bức tranh lần nữa. Nàng trông thấy chữ kí. “Anh vẽ các bức này sao?”
“Rất tiếc là các bức ấy không hấp dẫn lắm đối với cô”.
“Những bức ấy thật tuyệt vời!” Nàng tiến về phía anh. “Tôi thực không hiểu. Nếu anh vẽ được những bức tranh như thế này, tại sao anh c̣n muốn làm việc ǵ khác nữa? Tuyệt! Tôi không nói anh là một hoạ sĩ giỏi, mà tôi muốn nói rằng anh thật tuyệt vời!”
Tony đứng yên một chỗ, không nghe cô ta nói, mà chỉ muốn nàng ra khỏi nơi này.
“Tôi muốn trở thành một hoạ sĩ”, Marianne nói. “Tôi theo học ông Oska Kokosckka trong một năm. Cuối cùng tôi phải bỏ v́ biết rằng ḿnh không bao giờ vẽ giỏi được như ḿnh mong muốn. Nhưng mà anh th́ khác thế!” Nàng lại quay về phía các bức tranh. “Anh có học ở Paris sao?”
Anh chỉ muốn nàng để yên cho anh ngồi một ḿnh.
“Vâng”.
“Thế rồi anh bỏ ngang hay sao?”
“Phải”.
“Thật là uổng. Anh…”
“Ḱa, cô ấy đây rồi!”
Cả hai người đều quay đầu lại. Kate đang đứng ở cửa. Bà nh́n hai người một lát, rồi bước đến gần Marianne. “Tôi đang t́m cô khắp nơi, cô Marianne ạ. Cha cô nói rằng cô thích các cây ngọc lan. Cô phải đến thăm các nhà kính của tôi mới được”.
“Cảm ơn bà”, Marianne lẩm bẩm. “Thực ra tôi…”
Kate quay về phía Tony. “Tony, con ra tiếp các vị khách đi”. Trong giọng nói của bà có vẻ không hài ḷng.
Bà cầm lấy cánh tay Marianne, rồi cả hai rời khỏi pḥng.
Xem cái lối bà dùng thủ đoạn để điều khiển con người mới thấy là tài t́nh. Bà làm việc ấy một cách nhẹ nhàng trơn tru. Không có một động tác nào là thừa. Thoạt tiên bà xếp đặt để làm sao gia đ́nh Wyatt đến đây sớm, c̣n gia đ́nh Hoffman th́ đến trễ sau đó. Lucy được xếp ngồi cạnh Tony ở tất cả mọi bữa ăn. Những cuộc họp riêng tư với ông Wyatt. Thật là quá rơ ràng, lộ liễu, thế nhưng Tony biết rằng nó chỉ lộ liễu đối với anh thôi, v́ anh đă nắm được ch́a khoá. Anh biết rơ mẹ anh và cung cách hoạt động của trí óc bà. Lucy Wyatt là một cô gái xinh đẹp, có thể trở thành một người vợ tuyệt vời cho một ai đó, ngoài anh ra. Không thể nào như thế được, khi bà Blackwell đứng ra làm kẻ bảo trợ cho nàng. Mẹ chàng là một con người tàn bạo, tính toán, và chừng nào Tony nhớ đến điều ấy, anh không thể để bà chi phối được. Anh tự hỏi không biết bước kế tiếp của bà sẽ như thế nào.
Anh không cần phải chờ đợi lâu mới biết được điều đó.
Họ đang ngồi trên sân thượng uống rượu “cocktail”. Kate nói với Tony, “Ông Wyatt đă có ḷng tốt mời chúng ta đến thăm trang trại của ông vào cuối tuần sau. Con nghĩ xem, như thế có thích không?” Mặt bà rạng rỡ hẳn lên. “Mẹ chưa bao giờ được thấy một trang trại ở Texas”.
Thực ra, Kruger-Brent làm chủ một trang trại ở Texas và trang trại này lớn gấp đôi trang trại của Wyatt.
“Anh cũng đi chứ, Tony?” Ông Wyatt hỏi.
Lucy nói theo, “Anh hăy nhận lời đi”.
Họ cấu kết với nhau để thuyết phục anh. Thật là một cuộc thử thách. Anh quyết định nhận lời. “Tôi rất lấy làm vui thích”.
“Tốt”, trên nét mặt của Lucy lộ vẻ vui mừng thật sự. Và bà Kate cũng thế.
Tony nghĩ thầm, “Nếu Lucy cố ư quyến rũ ḿnh, cô ấy sẽ bị thất vọng và phí th́ giờ vô ích. Vết thương mà mẹ anh và Dominique gây ra đă ăn sâu vào ḷng anh khiến cho anh không c̣n tin cậy vào phụ nữ nữa. Sự liên hệ duy nhất của anh với phái nữ là những cuộc giao du với những gái điếm hạng sang. Trong tất cả các loại phụ nữ, họ là những kẻ chân thực nhất. Cái mà họ muốn là tiền, và họ nói thẳng cho ḿnh biết bao nhiêu tiền. Ḿnh trả tiền mua cái mà ḿnh cần và có được cái mà ḿnh bỏ tiền ra mua. Không có vấn đề ǵ rắc rối, không cần nước mắt, không cần phỉnh gạt”.
Lucy rồi đây sẽ phải gặp một điều bất ngờ.
Sáng sớm chủ nhật, Tony xuống bể bơi để bơi. Marianne đă ở sẵn trong nước, mặc chiếc áo may-ô trắng. Nàng có dáng người xinh đẹp, cao, thon thon và duyên dáng. Tony đứng ngắm nàng đang bơi trong nước, hai cánh tay đưa lên đưa xuống theo một nhịp đều đặn, duyên dáng. Nàng thấy Tony, và bơi lại gần anh.
“Chào anh”.
“Chào cô. Cô bơi giỏi nhỉ”. Tony nói.
Marianne mỉm cười. “Tôi thích thể thao. Tôi đă học cái thói ấy của cha tôi”. Nàng kéo người ra khỏi bờ bể bơi. Tony đưa cho nàng chiếc khăn tắm. Anh nh́n ngắm nàng trong khi lau khô tóc một cách không ngượng ngùng, e thẹn.
“Cô ăn sáng chưa?” Tony hỏi.
“Chưa. Chắc là người đầu bếp không dậy sớm như vậy”.
“Ở đây giống như là một khách sạn. Họ phục vụ hai mươi bốn trên hai mươi bốn”.
Nàng nh́n Tony, mỉm cười, “Thích nhỉ”.
“Nhà cô ở đâu vậy?”
“Phần lớn thời gian ở Munich. Chúng tôi ở trong một cái “Schloss” tức là một toà lâu đài, ở bên ngoài thành phố”.
“Thế cô học ở đâu?”
Marianne thở dài. “Chuyện ấy dài lắm. Trong thời gian chiến tranh, tôi được gửi đi học ở Thụy Sĩ. Sau đó tôi theo học tại Oxford, tại Sorbonne, rồi sống ở London trong mấy năm”. Nàng nh́n thẳng vào mắt Tony. “Tôi ở đó từ dạo ấy đến nay. Thế c̣n anh?”
“Ồ, tôi ở New York, Maine, Thụy Sĩ, Nam Phi, ít năm ở Thái B́nh Dương trong thời gian chiến tranh, Paris…” Anh đột ngột ngưng lại, như cảm thấy ḿnh đă nói quá nhiều.
“Xin lỗi, tôi có vẻ như ṭ ṃ, nhưng thực sự tôi không sao hiểu được lí do nào anh ngưng không vẽ tranh nữa”.
“Chuyện ấy chẳng có ǵ quan trọng cả”, Tony nói cộc lốc. “Thôi, chúng ta đi ăn sáng đi”.
Hai người ăn sáng với nhau trên sân thượng, nh́n xuống vịnh mênh mông, lóng lánh. Nàng là người rất dễ tiếp chuyện. Nàng có một vẻ đoan trang, hiền dịu, khiến Tony cảm thấy rất mến. Nàng không đùa cợt, không nói lảm nhảm. Nàng có vẻ thích anh một cách thành thực. Tony cảm thấy ḿnh bị thu hút bởi người thiếu nữ trầm lặng, nhạy cảm này. Tuy vậy, anh không thể nào không nghĩ rằng một phần sự cảm mến của anh đối với nàng là do anh muốn trêu tức mẹ anh.
“Khi nào cô trở về Đức?”
“Tuần sau”, Marianne đáp. “Tôi sắp lấy chồng”.
Câu nói của nàng quá bất ngờ, làm anh chưng hửng. “Ồ, thế à”, Tony nói ngắc ngứ. “Tuyệt quá nhỉ. Ai vậy?”
“Anh ấy là một bác sĩ. Chúng tôi quen biết nhau từ nhỏ đến lớn”. Tại sao cô ấy lại thêm câu này vào. Nó có ư nghĩa ǵ không nhỉ?
Bất chợt, Tony hỏi, “Cô có vui ḷng đến dùng cơm với tôi ở New York không?”
Nàng nh́n anh, cân nhắc câu trả lời. “Tôi cũng thích được như vậy”.
Tony mỉm cười, tỏ vẻ hài ḷng. “Đó là một cuộc hẹn ḥ”.
Họ ăn cơm với nhau tại một khách sạn nhỏ trên bờ biển ở Long Island. Tony muốn đi riêng với Marianne, tránh xa cặp mắt của mẹ anh. Đó là một buổi tối b́nh thường, không có chuyện ǵ, nhưng Tony biết rằng nếu mẹ anh nghe tin, bà sẽ t́m cách nào đó để ngăn cản. Đây là một chuyện riêng tư giữa anh và Marianne, và trong khoảng thời gian ngắn ây, anh không muốn có chuyện ǵ làm nó hư hỏng. Tony cảm thấy vui thích làm bạn với Marianne hơn là trước đây anh đă dự đoán. Nàng có tính t́nh nhanh nhẹn, vui tính một cách kín đáo. Tony thấy ḿnh cười đùa vui thích hơn bao giờ hết, kể từ ngày anh rời Paris. Nàng giúp cho anh cảm thấy nhẹ nhơm, vô tư.
Khi nào cô trở về Đức?
Tuần sau… Tôi sắp lấy chồng.
Trong năm ngày tiếp theo đó, Tony gặp Marianne nhiều lần. Anh huỷ bỏ cuộc hành tŕnh của anh đi Canada, nhưng không biết chắc chắn lí do v́ sao. Anh đă có lúc nghĩ rằng nó có thể là một dạng chống đối dự tính của mẹ anh, một vụ trả thù lặt vặt, nhưng nếu điều ấy đúng vào lúc đầu th́ bây giờ đây nó không c̣n đúng nữa. Anh cảm thấy ḿnh bị thu hút bởi Marianne mỗi lúc một mạnh mẽ hơn. Anh yêu nàng một cách chân thực. Đó là một đức tính mà anh đă cố t́m nhưng chưa hề bao giờ có được.
Từ ngày Marianne đến New York với tư cách là một du khách, Tony đưa nàng đi thăm viếng khắp nơi. Họ trèo lên tượng thần Tự Do, cùng đi đến Staten Island trên chiếc tàu phà, lên đến đỉnh toà nhà chọc trời Empire State Building, và ăn uống tại khu vực người Trung Hoa. Họ ở lại suốt ngày tại Viện Bảo tàng Nghệ thuật, và một buổi trưa tại Frick Collection. Họ chia sẻ các sở thích giống nhau. Họ thận trọng tránh né những vấn đề riêng tư, thế nhưng cả hai đều ư thức về sự hấp dẫn giới tính ngấm ngầm rất mạnh mẽ giữa họ với nhau. Ngày này qua ngày khác, chẳng mấy chốc đă đến ngày thứ sáu, ngày mà Tony phải đi thăm trang trại của ông Wyatt.
“Khi nào cô sẽ trở về Đức?”
“Sáng thứ hai”. Nhưng không có ǵ vui vẻ trong giọng nói của nàng cả.
Tony rời Houston vào buổi trưa hôm ấy. Lẽ ra anh có thể cùng đi với mẹ trong một chiếc máy bay của công ty, nhưng anh muốn tránh mọi cuộc gặp mặt riêng với mẹ. Đối với anh, mẹ anh chỉ là một người hợp tác kinh doanh, tài giỏi và nhiều quyền lực, không ngay thẳng và nguy hiểm.
Có một chiếc xe hơi hiệu Rolls Royce đón Tony tại phi trường Hobby ở Houston, từ nơi đó anh được đưa đến trang trại bằng xe hơi do một người tài xế mặc một chiếc quần “jean” hiệu Levi’s và một chiếc áo sơ mi thể thao màu sặc sỡ.
“Nhiều người muốn đi máy bay đến thẳng trang trại”, người tài xế nói. “Ông Wyatt có một băi đáp lớn ở đấy. Từ nơi băi đáp ấy về đến cổng trang trại phải mất một giờ xe hơi rồi thêm nửa giờ nữa mới đến ngôi nhà chính”.
Tony cho rằng anh tài xế này nói cường điệu. Nhưng chính anh đă lầm. Th́ ra trang trại của ông Wyatt giống như một thành phố hơn là một trang trại. Chiếc xe anh đi lọt qua cổng chính đi vào một con đường cái tư, rồi sau ba mươi phút nó bắt đầu đi ngang qua các nhà phát điện, các chuồng ngựa, băi nuôi gia súc, nhà khách, nhà ở của gia nhân. Toà nhà chính là một nhà một tầng có vẻ như dài vô tận. Tony cho rằng nó trông thật là xấu xí.
Kate đă đến nơi đó trước. Bà và Wyatt đang ngồi ở sân thượng nh́n xuống một hồ bơi lớn bằng một cái hồ nước nhỏ. Họ đang nói chuyện với nhau sôi nổi th́ Tony xuất hiện. Vừa trông thấy Tony, ông Wyatt ngưng lại đột ngột giữa một câu nói. Tony có cảm tưởng hai người đang bàn với nhau về anh.
“Ḱa cậu con trai của chúng ta kia rồi. Đi đường có vui không, Tony?”
“Vâng, xin cảm ơn ông”.
“Lucy mong con đáp chuyến máy bay sớm hơn thế”, Kate nói.
Tony quay lại nh́n mẹ, “Thế hả?”
Charli Wyatt vỗ nhẹ lên vai Tony, “Chúng tôi sẽ tổ chức một buổi ăn thịt nướng ngoài trời hết sức vĩ đại để mừng anh và bà Kate đấy. Mọi người sẽ bay đến đây để tham dự”.
“Ông thật tử tế quá”, Tony nói. Anh nghĩ thầm trong bụng, “Họ tổ chức càng to th́ rồi đây sẽ càng thất vọng lớn thôi”.
Lucy xuất hiện, mặc một chiếc áo sơ mi trắng và quần jean bó sát người. Tony phải công nhận rằng nàng đẹp đến nỗi gây kinh ngạc.
Nàng bước đến Tony, ch́a tay ra. “Tony! Em tưởng rằng anh không đến chứ!”
“Xin lỗi, tôi đến chậm”, Tony nói. “Tôi bận chút công việc, cần phải làm cho xong”.
Lucy ném cho anh một nụ cười niềm nở. “Không hề ǵ đâu. Miễn là anh có đến là được rồi. Anh muốn làm ǵ vào trưa hôm nay?”
“Cô có ǵ cho tôi nào?”
Lucy nh́n vào mắt Tony. “Bất cứ thứ ǵ anh muốn”, nàng nói khe khẽ.
Kate Blackwell và Charlie Wyatt cười rạng rỡ.
Buổi ăn thịt nướng ngoài trời thật là linh đ́nh, dù xét theo các tiêu chuẩn của vùng Texas này. Gần hai trăm khách mời đă đến đây bằng máy bay riêng, xe hơi Mercedes hay Rolls Royce. Hai ban nhạc giúp vui cùng một lúc ở hai nơi trên các khu đất khác nhau. Năm, sáu người phục vụ rượu sâm banh, uytxki, nước ngọt, bia, trong khi bốn tay đầu bếp bận bịu chuẩn bị thức ăn trên những ngọn lửa ở ngoài trời… Thật là cả một sự phí phạm hiển nhiên nhất Tony chưa từng thấy. Đó là sự khác biệt giữa những kẻ mới nổi và những kẻ đă giàu có từ lâu. Phương châm của những kẻ đă giàu có từ lâu là: nếu tôi có tiền, tôi phải giấu nó đi. C̣n những kẻ mới nổi th́ chủ trương: nếu tôi có tiền, tôi cần phải phô trương nó ra.
Đây là một sự phô trương giàu có ngoài sức tưởng tượng. Các bà mặc những chiếc áo dài rất táo bạo, đeo nữ trang làm loá mắt thiên hạ. Tony đứng một bên nh́n các khách khứa ăn uống nhồm nhoàm, gọi nhau ơi ới. Anh có cảm tưởng như đang tham dự vào một nghi thức suy đồi, vô ư thức. Mỗi khi quay lưng lại, anh lại chạm phải một chiêu đăi viên vác một chiếc khay chứa đựng những b́nh caviar hay pa-tê rất lớn, hay sâm banh. Dường như số gia nhân phục vụ cũng đông bằng số quan khách đến dự. Anh lắng nghe những câu nói chuyện ở xung quanh.
“Hắn ta đến đây từ New York để bán cho tôi một hoá đơn hàng hoá, nhưng tôi bảo hắn, “Anh chỉ phí thời giờ thôi, anh bạn. Không có vụ giao dịch béo bở nào về dầu đến được miền Đông Houston…”
“Anh phải coi chừng những đứa có miệng lưỡi khéo léo. Chúng nó chỉ khoác lác chứ thật ra chúng chẳng có cái đếch ǵ cả…”
Lucy xuất hiện ở bên cạnh Tony. “Anh không ăn ǵ cả”. Nàng nh́n chàng chăm chú. “Có ǵ không vui hay sao, Tony?”
“Không, mọi thứ đều rất vui. Buổi tiệc này thật là lớn”.
Nàng cười. “Chưa thấm ǵ đâu, anh bạn ạ. C̣n phải chờ xem pháo hoa nữa”
“Pháo hoa?”
“Ừ hứ”. Nàng sờ nhẹ lên cánh tay Tony. “Rất tiếc là đông người quá nên hơi lộn xộn. Không phải lúc nào cũng như thế này. Bố em muốn gây ấn tượng đối với mẹ anh”. Nàng cười tủm tỉm. “Ngày mai họ sẽ đi về hết”.
Tôi cũng thế, Tony thầm nghĩ một cách chua chát. Anh cho rằng anh đă phạm một sai lầm lớn v́ đă đến đây. Nếu mẹ anh muốn chiếm công ty dầu Wyatt một cách gắt gao như vậy, bà sẽ làm mọi cách để đoạt lấy nó. Anh đưa mắt nh́n đám đông để t́m ra mẹ anh. Anh thấy bà đang đứng giữa một nhóm người ngưỡng mộ. Bà trông thật đẹp. Bà đă gần sáu mươi tuổi, nhưng trông trẻ hơn đến mười tuổi. Mặt bà không có nếp nhăn, thân h́nh rắn chắc và gọn gàng, nhờ tập luyện và xoa bóp hàng ngày. Bà đặt ra kỉ luật cho chính bản thân cũng như cho những người khác chung quanh bà. Về điểm này Tony cảm thấy khó chịu, nhưng anh cũng phải thán phục bà. Ai nh́n thấy bà lúc ấy cũng phải nghĩ rằng bà đang vui thích lắm. Bà nói chuyện với khách, nét mặt rạng rỡ, vui tươi. Nhưng Tony nghĩ bụng, bà ghét tất cả những thứ này, và bà có thể chịu đựng bất cứ việc ǵ miễn sao bà có được thứ mà bà muốn. Anh nghĩ đến Marianne và tin chắc rằng nàng cũng ghét cái loại liên hoan cuồng nhiệt một cách vô ư thức này. Ư nghĩ về nàng khiến cho Tony cảm thấy đau nhói trong ḷng.
“Em sẽ lấy một bác sĩ. Em biết anh ta từ nhỏ đến lớn”.
Một nửa giờ sau, khi Lucy đến t́m anh th́ anh đă lên đường trở về New York.
Anh goi điện thoại cho Marianne từ một pḥng điện thoại công cộng ở phi trường. “Anh muốn gặp em”.
Không có một chút do dự nào. “Vâng”.
Tony không thể nào gạt được Marianne Hoffman ra khỏi những suy nghĩ của anh. Từ lâu nay, anh chỉ sống một ḿnh, nhưng không cảm thấy cô đơn. Bây giờ, sống xa Marianne đối với anh là một sự cô đơn, một cảm giác như một phần thân thể anh đă bị mất đi. Được ở bên cạnh nàng là sự ấm áp, là sự ca ngợi cuộc sống, là xua đi những bóng đen ghê tởm đă từng ám ảnh anh bấy lâu nay. Anh có cảm tưởng như nếu để mất Marianne, anh sẽ chết. Anh cần đến nàng hơn bất cứ ai khác trong cuộc sống của anh.
Marianne đến gặp Tony trong căn hộ của anh. Khi nàng đi đến cánh cửa, Tony cảm thấy trong ḷng một niềm khao khát tưởng chừng như đă bị tiêu diệt từ lâu rồi. Nh́n vào nét mặt nàng, anh biết rằng nàng cũng có niềm khao khát tương tự, nhưng họ không thốt ra một lời nào để tạo nên phép lạ này.
Nàng ngả vào ṿng tay chàng, nỗi xúc cảm của hai người như nước xoáy của thuỷ triều tung họ lên cao; rồi cuốn họ đi mà không có cách nào cưỡng nổi; nó như nổ bùng lên, tạo nên một sự thoả măn không thể nào tả xiết. Họ cùng nhau trôi nổi trong sự êm dịu, mượt mà như nhung, không c̣n biết thời gian, không gian, ch́m đắm trong sự huy hoàng ḱ diệu của người này với người kia. Sau đó họ nằm ôm lấy nhau, mệt mỏi, làn tóc mềm mại của nàng xoă lên mặt chàng.
“Anh sẽ cưới em, Marianne ạ”.
Nàng giữ mặt anh trong hai bàn tay, nh́n vào mắt chàng như ḍ hỏi. “Có chắc như vậy không, Tony?” Giọng nàng rất dịu dàng. “Có một vấn đề khó khăn, anh ạ”.
“Vấn đề đính hôn của em chứ ǵ?”
“Không, em sẽ huỷ cuộc hứa hôn ấy. Em chỉ lo về mẹ anh”.
“Mẹ anh không có liên quan ǵ…”
“Không, để em nói hết đă. Mẹ anh dự tính anh sẽ cưới Lucy Wyatt”.
“Đó là dự tính riêng của mẹ anh thôi”. Anh ôm choàng lấy nàng một lần nữa. “Dự tính của anh là ở đây”.
“Bà ấy sẽ ghét em, Tony ạ. Em không muốn thế”.
“Em có biết anh muốn ǵ không?” Tony th́ thầm.
Thế rồi phép lạ ấy lại diễn ra lần nữa.
Bốn mươi tám giờ sau đó, bà Kate Blackwell mới biết được tin tức về Tony. Anh đă biến mất khỏi trang trại của Wyatt mà không một lời giải thích hay từ biệt, và đă bay đi New York. Charlie Wyatt rất bối rối, c̣n Lucy Wyatt th́ giận dữ. Kate đă phải xin lỗi một cách ngượng ngùng, rồi lấy máy bay của công ty bay trở về New York tối hôm ấy. Về đến nhà, bà điện thoại đến căn hộ của Tony, nhưng không có ai trả lời. Ngày hôm sau cũng vậy.
Kate đang ngồi trong văn pḥng th́ điện thoại riêng của bà trên bàn reo lên. Bà đă biết ai gọi bà trước khi nhấc ống nghe lên.
“Tony, con có được mạnh khoẻ không?”
“Con vẫn khoẻ, mẹ ạ”.
“Con hiện đang ở đâu vậy?”
“Con đang vui tuần trăng mật với vợ con. Marianne Hoffman và con vừa mới cưới nhau ngày hôm qua”. Một sự im lặng rất lâu tiếp theo đó. “Mẹ có c̣n ở đó không, mẹ?”
“Có, mẹ đang ở đây”.
“Mẹ phải nói ǵ đó để mừng con, chẳng hạn như “bách niên giai lăo” hay “trăm năm hạnh phúc” vân vân”. Giọng nói của anh nghe có vẻ chua chát, chế nhạo.
“Phải, phải. Dĩ nhiên rồi. Mẹ chúc con hạnh phúc dồi dào”.
“Cảm ơn mẹ”. Đường dây điện thoại bị cúp.
Kate đặt ống nghe xuống, ấn nút trên máy “intercom”. “Brad, anh lại đây một chút được không?”
Khi Brad Rogers bước vào văn pḥng, Kate liền nói. “Tony vừa gọi điện thoại”.
Brad nh́n vào mặt Kate và nói, “Lạy Chúa! Chắc chị đă làm được chuyện ấy rồi chứ ǵ!”
“Không, chính Tony làm đấy”, Kate mỉm cười. “Chúng ta đă nắm được đế quốc Hoffman và đặt nó trên đùi rồi”.
Brad ngồi sụp xuống ghế. “Thật khó tin nổi! Tôi biết rằng Tony cứng đầu cứng cổ lắm mà. Làm thế nào chị thuyết phục được hắn lấy Marianne Hoffman?”
“Rất đơn giản. Tôi đă thúc đẩy hắn không đúng hướng”.
Nhưng bà biết rằng đó mới là hướng đúng đắn. Marianne sẽ là một bà vợ tuyệt vời đối với Tony.
Lucy đă có lần bị mổ tử cung.
Marianne sẽ cho Tony một đứa con trai.


Chương 21

Sáu tháng sau khi Tony và Marianne cưới nhau, công ty Hoffman được sát nhập vào công ty hữu hạn Kruger-Brent. Lễ kí bản thoả hiệp chính thức được tổ chức ở Munich, như là cử chỉ bày tỏ t́nh hữu nghị đối với Frederick Hoffman. Ông này điều hành chi nhánh của công ty ở Đức. Tony ngạc nhiên về thái độ hiền lành của mẹ anh khi chấp nhận cuộc hôn nhân này. Bà không có thói quen chấp nhận sự chiến bại một cách duyên dáng như vậy, thế nhưng bà tỏ ra rất thân thiện với Marianne khi Tony và cô dâu mới trở về nhà sau tuần trăng mật ở Bahamas. Bà nói cho Tony biết rằng bà rất sung sướng về cuộc hôn nhân này. Điều khiến Tony hết sức khó hiểu là bà đă tỏ ra rất thành thực. Sự thay đổi lập trường ấy quá nhanh chóng, không hợp với tính t́nh bà chút nào.Tony cho rằng anh chưa hiểu mẹ anh lắm như anh đă tưởng.
Cuộc hôn nhân này thành công một cách xuất sắc ngay từ lúc đầu. Marianne đă thoả măn được một nhu cầu đă cảm thấy từ lâu của Tony, và mọi người xung quanh đều nhận ra sự thay đổi của anh – đặc biệt là Kate.
Khi Tony đi đây đó v́ công việc, Marianne lúc nào cũng đi theo anh. Họ cùng vui chơi, cười đùa với nhau, và đều cảm thấy thực sự hạnh phúc. Nh́n hai người, Kate thầm nghĩ: “Ḿnh đă làm được việc rất tốt cho con trai ḿnh”.
Chính Marianne là người đă bắc cầu thông cảm giữa Tony và mẹ chàng. Khi trở về nhà, sau tuần trăng mật, Marianne nói với Tony: “Em muốn mời mẹ đến ăn cơm”.
“Đừng làm thế. Em không hiểu mẹ anh, Marianne ạ. Bà...”
“Em muốn làm quen với bà, Tony ạ. Xin anh nghe em, Tony”.
Anh không thích ư kiến này, nhưng rồi cũng đành phải nhượng bộ. Tony đoán rằng buổi tối hôm ấy chắc buồn chán lắm, nhưng anh đă phải ngạc nhiên. Bà Kate tỏ vẻ sung sướng đến cảm động được ngồi chung với hai người. Tuần lễ sau, bà mời hai vợ chồng đến dùng cơm tại nhà bà. Rồi sau đó điều này trở thành một thông lệ hàng tuần.
Kate và Marianne trở nên thân thiết với nhau. Họ nói chuyện với nhau trên điện thoại nhiều lần trong tuần lễ và ăn cơm với nhau ít nhất mỗi tuần một lần.
Họ gặp nhau vào buổi ăn trưa tại nhà hàng Lutece, nhưng ngay khi Marianne vừa bước vào, bà thấy có ǵ đó không ổn.
“Cho tôi một ly uưtxki lớn có đá” Marianne nói. Thường ngày ,Marianne chỉ dùng rượu vang thôi.
“Có chuyện ǵ xảy ra vậy, Marianne?”
“Con đă phải đi khám bác sĩ Harley”
Kate đột nhiên cảm thấy hoảng sợ. “Con không ốm chứ , Marianne?”
“Không , con vẫn khoẻ. Chỉ có điều...” Toàn thể câu chuyện bắt đầu tuôn ra.
Câu chuyện ấy bắt đầu mấy ngày trước đó. Marianne cảm thấy trong người không được khoẻ nên nàng đă xin gặp mặt bác sĩ John Harley...
“Bà trông khoẻ mạnh đấy chứ “, bác sĩ Harley tủm tỉm cười nói. “Năm nay bà bao nhiêu tuổi, bà Blackwell?”
“Hai mươi ba”.
“Có ai bị đau tim trong gia đ́nh bà không?”
“Không”.
Ông ghi chép. “Ung thư ?”
“Không”.
“Cha mẹ bà c̣n sống không?”
“Cha tôi c̣n sống. Mẹ tôi mất v́ một tai nạn”.
“Bà có bao giờ bị quai bị không?”
“Không”.
“Bệnh sởi?”
“Có lúc tôi lên mười”.
“Ho gà?”
“Không”.
“Có bị mổ bao giờ không?”
“Mổ amiđan, lúc chín tuổi”.
“Ngoài chuyện ấy ra, bà có bao giờ phải nằm bệnh viện v́ lí do nào đó không?”
“Không... À có, chỉ có một lần, nhưng trong thời gian ngắn thôi”.
“V́ chuyện ǵ vậy?”
“Lúc đó tôi ở trong đội khúc côn cầu ở trường học, và trong lúc chơi, tôi bị ngất xỉu. Lúc tỉnh dậy th́ thấy ḿnh đang nằm ở bệnh viện. Chỉ hai ngày thôi, thực ra chẳng có ǵ quan trọng cả”.
“Bà có bị thương trong khi chơi không?”
“Không. Tôi... tôi chỉ bị ngất thôi”.
“Lúc ấy bà bao nhiêu tuổi?”
“Mười sáu. Bác sĩ bảo đó chỉ là do sự rối loạn các tuyến vào tuổi thanh niên thôi”.
John Harley chồm về phía trước trên chiếc ghế ông đang ngồi.
“Khi bà tỉnh dậy vào lúc ấy, bà có thấy yếu ở một bên người không?”
Marianne suy nghĩ một lát. “Thật ra cũng có. Phải, thấy yếu ở bên phải. Nhưng chỉ ít ngày sau là hết. Từ đó không bao giờ bị trở lại nữa”.
“Bà có thấy đau đầu không? Có bị mờ mắt không?”
“Có, nhưng những triệu chứng ấy cũng biến mất”. Nàng bắt đầu cảm thấy lo ngại. “Ông nghĩ tôi có bệnh ǵ hay sao, thưa bác sĩ Harley?”
“Tôi chưa dám chắc. C̣n phải làm ít cuộc thử nghiệm. Chỉ là để cho chắc chắn thôi”.
“Loại thử nghiệm ǵ?”
“Tôi muốn đo u mạch ở năo. Không có ǵ phải lo ngại cả. Chúng tôi có thể làm ngay thôi”.
Ba ngày sau, Marianne nhận cú điện thoại của cô y tá yêu cầu nàng đến gặp bác sĩ John Harley. Ông ngồi trong pḥng khám đợi nàng. “Chúng tôi đă t́m ra cái bí mật ấy rồi”.
“Có ǵ xấu không?”
“Không hẳn thế. Cuộc thử nghiệm cho biết bà bị một cơn “sốc” nhỏ thôi. Về y khoa chúng tôi gọi là chứng ph́nh mạch “aneurysm”, rất thông thường ở phụ nữ, đặc biệt là những cô gái dưới hai mươi. Một mạch máu nhỏ trong năo bị vỡ ra, làm rỉ ra một ít máu. Áp suất là cái đă gây nên chứng nhức đầu và mờ mắt. May thay, những thứ ấy có thể tự lành lại được”.
Marianne ngồi lắng nghe, trí óc nàng cố chống chọi với nỗi hoảng sợ. “Như thế... như thế là nghĩa thế nào? Nó có thể xảy ra lần nữa không?”
“Rất khó xảy ra lần nữa”. Ông tủm tỉm cười. “Trừ phi bà dự định tham gia đội khúc côn cầu lần nữa, ngoài ra bà có thể sống hoàn toàn b́nh thường”.
“Tony và tôi thích cưỡi ngựa và chơi quần vợt. Như thế có...?”
“Chừng nào bà không làm quá sức, mọi thứ đều được cả. Từ quần vợt cho đến việc ăn nằm. Không có vấn đề ǵ”.
Nàng mỉm cười cảm thấy an tâm. “Cảm ơn Chúa”.
Khi Marianne đứng dậy, John Harley nói. “Chỉ có một điều, bà Blackwell ạ. Nếu bà và Tony muốn có con th́ tôi khuyên ông bà nên có con nuôi th́ hơn”.
Marianne cảm thấy lạnh người. “Ông vừa bảo là tôi hoàn toàn b́nh thường mà”.
“Bà vẫn b́nh thường. Chỉ có điều là nếu bà có mang, nó sẽ làm tăng lên thể tích các mạch máu rất nhiều. Và trong thời ḱ từ sáu đến tám tháng mang thai, sẽ có sự gia tăng huyết áp. Một khi đă bị chứng ph́nh mạch trong quá khứ, điều này sẽ có nguy cơ xảy ra nhiều hơn. Không những nó nguy hiểm mà c̣n có khi rất tai hại nữa. Việc nuôi con nuôi bây giờ cũng rất dễ dàng tôi có thể thu xếp...”
Nhưng Marianne không c̣n nghe ǵ nữa. Nàng chỉ nghe văng vẳng tiếng Tony: ”Anh muốn chúng ta có một đứa con gái giống hệt như em.”
“...Con không thể nghe được nữa”, Marianne kể lại với Kate. “Con cố gắng hết sức d́m các cảm xúc xuống. Thật là một cú đánh choáng váng đối với bà, nhưng vẫn phải có cách giải quyết nào đó. Lúc nào cũng có một cách.
Bà cố nở một nụ cười rồi nói. “Thế mà mẹ tưởng rằng sắp có chuyện ǵ tệ hại hơn thế chứ”.
“Nhưng mẹ ạ, Tony và con rất mong có một đứa con”.
“Marianne ạ, ông bác sĩ John Harley là kẻ chuyên môn làm cho người ta hoảng sợ. Cách đây mấy năm con chỉ gặp một vấn đề nhỏ nhoi, thế rồi ông ta biến nó trở thành một điều ǵ ghê gớm lắm. Con cũng biết bọn bác sĩ họ như thế nào rồi”. Bà nắm lấy tay Marianne. “Con vẫn thấy khoẻ, phải không , Marianne?”
“Trước đây con vẫn khoẻ, nhưng khi...”
“Đó, con thấy không. Con không c̣n thỉnh thoảng bị những cơn ngất xỉu ngắn nữa phải không?”
“Không”.
“Ấy là bởi v́ con đă khỏi hẳn rồi. Chính ông bác sĩ ấy nói những chừng ấy có thể tự nó chữa lành mà”.
“Ông ấy bảo những nguy cơ...”
Kate thở dài. “Marianne này, mỗi lần người đàn bà có mang, họ đều gặp rủi ro này khác. Cuộc đời toàn là rủi ro cả mà. Điều quan trọng trên đời là ḿnh phải quyết định thứ rủi ro đáng để cho ḿnh gánh chịu, con có đồng ư như vậy không?”
“Vâng” Marianne ngồi tại chỗ suy nghĩ. Nàng đă quyết định. “Mẹ nói đúng, chúng ta sẽ không nói ǵ về chuyện này với Tony cả. Nó chỉ làm cho anh ấy lo lắng thêm thôi. Chúng ta sẽ giữ bí mật”.
Kate thầm nghĩ, ḿnh có thể giết cái lăo John Harley chết tiệt ấy v́ đă làm cho Marianne hoảng sợ. Bà nói: “Nó sẽ là một điều bí mật của chúng ta”, để bày tỏ ư tán thành.
Ba tháng sau, Marianne có mang. Tony mừng rỡ đến run người. Bà Kate cảm thấy đắc thắng âm thầm. C̣n bác sĩ John Harley th́ kinh hăi.
“Để tôi phải chuẩn bị cho việc phá thai ngay tức khắc”, ông nói với Marianne.
“Đừng bác sĩ Harley ạ. Tôi thấy khoẻ mà. Tôi sẽ có một đứa con”.
Khi Marianne nói với Kate về cuộc viếng thăm này, Kate đùng đùng nổi giận, xông đến pḥng khám bệnh của bác sĩ John Harley. “Sao ông lại dám khuyên con dâu tôi phải phá thai?”
“Bà Kate này, tôi đă nói với bà ấy rằng nếu bà ấy mang thai cho đến thời ḱ ở cữ th́ có nguy cơ là bà ấy sẽ chết”.
“Ông không hiểu ǵ cả. Bà ấy sẽ khoẻ mạnh như thường. Đừng có làm cho bà ấy hoảng sợ”.
Tám tháng sau, vào lúc bốn giờ sáng, đầu tháng hai, cơn đau đẻ của Marianne bắt đầu trước thời hạn. Những tiếng rên rỉ của nàng khiến Tony choàng tỉnh dậy.
Anh hối hả mặc quần áo. “Đừng lo, em yêu quư ạ. Anh sẽ đưa em đến bệnh viện ngay lập tức”.
Cơn đau thật là khủng khiếp. “Vội đi anh”.
Nàng do dự không biết có nên nói với Tony về cuộc nói chuyện giữa nàng và bác sĩ John Harley hay không. Không, bà Kate nói đúng. Nàng phải tự quyết định lấy.
Cuộc sống rất tuyệt vời, cho nên Chúa sẽ không để xảy ra chuyện ǵ không hay cho nàng đâu.
Khi Marianne và Tony đến bệnh viện, mọi thứ đều đă sẵn sàng. Tony được đưa đến pḥng đợi. Marianne được chở đến pḥng khám bệnh. Ông bác sĩ sản khoa, Mattson, đo huyết áp cho nàng. Ông nhăn mặt, đo lại một lần nữa, rồi ngước mắt lên, nói với cô y tá, “Đưa bà ấy đến pḥng mổ – nhanh lên!”.
Tony đang đứng ở máy bán thuốc lá trong hành lang bệnh viện th́ một giọng nói nổi lên ở sau lưng anh. “Phải, phải, nếu đó không phải là Rembrant”. Tony quay lại. Anh nhận ra người đàn ông trước đây anh gặp trước căn hộ cũa Dominique. Không biết lúc ấy nàng gọi tên anh ta là ǵ nhỉ? À Ben. Người ấy nh́n Tony trừng trừng, với vẻ khó chịu. Hắn ta ghen chăng? Không biết Dominique đă nói ǵ với hắn? Ngay lúc ấy Dominique xuất hiện. “Cô y tá bảo Micheline đang được săn sóc đặc biệt. Chúng ta sẽ đến...” Nàng nh́n thấy Tony, liền ngưng lại giữa câu nói.
“Tony, anh làm ǵ ở đây?”
“Vợ tôi sắp sinh”.
“Mẹ anh đă sắp đặt việc này à?” Ben hỏi.
“Anh nói thế là nghĩa thế nào?”
“Dominique nói với tôi rằng mẹ anh sắp đặt mọi thứ cho anh, anh bạn ạ”.
“Ben, anh câm mồm đi!”
“Sao? Không phải là sự thật hay sao? Chính em nói như vậy mà”.
Tony quay về phía Dominique. “Anh này nói ǵ lạ vậy?”.
“Không có ǵ đâu”, Dominique nhanh nhảu nói. “Ben, chúng ḿnh đi ra khỏi nơi này”.
Nhưng Ben vẫn lấy làm thích thú. “Tôi muốn được có một bà mẹ như anh, anh bạn ạ. Anh muốn có một người mẫu để ngủ chung th́ mẹ anh mua ngay cho anh một người. Anh muốn có một cuộc triển lăm tranh ảnh ở Paris th́ mẹ anh thu xếp cho anh có pḥng triển lăm. Anh...”
“Anh điên rồi”.
“Anh mà điên à, Dominique?” Ben quay về phía Dominique, nói “Anh chàng này không biết hay sao?”
“Anh bảo tôi không biết cái ǵ?”
“Chẳng có ǵ cả, Tony ạ”.
“Anh này bảo mẹ tôi xếp đặt cuộc triển lăm ở Paris. Đó là điều nói dối, phải không?” Tony nh́n thấy nét mặt của Dominique. “Có phải thế không?”
“Không”, Dominique nói một cách miễn cưỡng.
“Cô muốn nói rằng mẹ tôi đă trả tiền cho Goerg để... để trưng bày tranh của tôi, phải không?”
“Tony, ông ấy thực sự thích các bức tranh của anh mà”.
“Nói cho anh ta biết về vụ nhà phê b́nh tranh đi, Dominique”, Ben thúc giục.
“Thôi thế là đủ rồi Ben”. Dominique quay lưng đi. Tony nắm cánh tay Dominique, giữ nàng lại. “Khoan đă. Cô nói cho tôi biết về nhà phê b́nh ấy đi. Có phải là mẹ tôi xếp đặt cho ông ta đến dự cuộc triển lăm tranh không?”
“Phải”, Dominique nói, giọng nàng hạ thấp xuống thành một tiếng th́ thào.
“Nhưng ông ta ghét tranh của tôi mà.”
Nàng nghe giọng nói chàng có vẻ đau đớn. “Không. Ông ấy không ghét. André d Usseau nói với mẹ anh rằng anh có thể đă trở thành một hoạ sĩ nổi tiếng.”
Anh đang phải đương đầu với một điều không thể nào tin nổi. “Mẹ tôi cho ông d Usseau tiền để ông ấy huỷ hoại tôi, phải thế không?”
“Không phải để huỷ hoại anh đâu. Bà tin rằng như thế là làm điều tốt cho anh.”
Tầm lớn lao của những ǵ mẹ anh đă làm thật là khủng khiếp. Mọi thứ bà nói với anh đều là giả dối cả. Bà không bao giờ có ư định để cho anh sống cuộc sống của riêng anh. Thế c̣n André d Usseau? Làm sao một người như ông ta mà lại có thể mua chuộc được? Nhưng mà dĩ nhiên, mẹ anh đă biết được cái giá của từng con người. Wilde có thể đă ám chỉ đến Kate khi ông nói về một con người biết được giá tiền của tất cả mọi thứ, nhưng không biết được giá trị của một thứ nào cả. Tất cả mọi thứ là để phục vụ cho công ty. Và công ty ấy chính là Kate Blackwell. Tony quay lại, bước đi dọc hành lang như một người mù.
Trong pḥng mổ, các bác sĩ đă chiến đấu tuyệt vọng để cứu sống Marianne. Huyết áp của nàng xuống thấp một cách đáng lo ngại, và nhịp tim của nàng hỗn loạn. Người ta cho nàng thở oxy, truyền máu, nhưng tất cả đều vô ích. Marianne nằm bất tỉnh do xuất huyết năo khi đứa bé đầu tiên được đỡ ra, rồi nàng qua đời ba phút sau khi đứa bé sinh đôi thứ hai được lấy ra.
Tony nghe tiếng gọi, “Ông Blackwell.” Anh quay lại. Bác sĩ Mattson đang đứng bên cạnh anh.
“Ông có hai đứa con gái sinh đôi rất kháu khỉnh và khoẻ mạnh, ông Blackwell ạ.”
Tony nhận ra trong mắt ông có vẻ ǵ khác lạ. “Marianne – nhà tôi vẫn khoẻ chứ? Phải thế không?”
Bác sĩ Mattson thở một cái thật sâu. “Tôi rất lấy làm tiếc. Chúng tôi đă làm mọi cách có thể được. Bà ấy qua đời trên...”
“Bà ấy sao?” Đó là một tiếng kêu thét. Tony nắm chặt lấy áo ông bác sĩ, lay thật mạnh. “Ông nói dối! Nhà tôi không chết!”
“Ông Blackwell...”
“Nhà tôi hiện ở đâu? Tôi muốn thấy bà ấy!”
“Ông không thể vào bây giờ được. Họ đang chuẩn bị...”
Tony thét lên. “Ông giết nhà tôi rồi! Ông là đồ chó đẻ! Ông giết bà ấy.” Anh đấm lên người bác sĩ thùm thụp. Hai bác sĩ nội trú vội vă chạy vào, giữ tay anh lại.
“Nào. ông hăy b́nh tĩnh lại đi, ông Blackwell.”
Bác sĩ John Harley vội vă đi đến nhóm người này.
“Thả ông ấy ra. Để chúng tôi nói chuyện riêng với nhau”. Ông ra lệnh.
Bác sĩ Mattson và hai viên nội trú bỏ đi. Tony khóc nức nở. “John, chúng nó giết Marianne rồi. Chúng ám sát nhà tôi.”
“Chị ấy qua đời rồi ,Tony ạ. Tôi rất lấy làm đau buồn. Nhưng không ai giết chị ấy cả. Tôi đă nói với chị ấy cách đây nhiều tháng rằng nếu chị ấy cứ tiếp tục mang thai th́ điều này có thể dẫn đến cái chết.”
Phải một thời gian khá lâu nhưng lời lẽ này mới thấm vào đầu óc Tony. “Ông vừa nói ǵ lạ vậy?”.
“Thế Marianne không nói với ông sao? Mẹ anh cũng không nói ǵ cả à?”
Tony nh́n John Harley chằm chằm, chưa hiểu ǵ cả, “Mẹ tôi?”
“Bà ấy nghĩ rằng tôi chỉ làm cho người ta hoảng hốt thôi. Bà khuyên Marianne cứ tiếp tục mang thai. Tôi rất ân hận, Tony ạ. Tôi đă thấy hai đứa trẻ sinh đôi ấy. Chúng rất kháu khỉnh. Anh có muốn...?”
Nhưng Tony đă bỏ đi rồi.
Viên quản gia của Kate mở cửa cho Tony.
“Chào ông Blackwell.”
“Chào bác Lester.”
Viên quản gia đă nhận ra vẻ phờ phạc, nhếch nhác của Tony. “Không có chuyện ǵ cả chứ, ông Blackwell?”
“Chẳng có chuyện ǵ cả. Bác cho tôi một tách cà phê được không, Lester?”
“Thưa ông, có ngay ạ.”
Tony nh́n theo viên quản gia đi về phía nhà bếp. Nào, Tony, một tiếng nói trong đầu anh ra lệnh.
Phải, ngay bây giờ. Tony quay lại, bước đến pḥng trưng bày chiến lợi phẩm. Anh đến một cái tủ nhỏ đựng bộ sưu tập súng. Anh nh́n chằm chằm vào những dụng cụ giết người được xếp đặt ngay ngắn, sáng ngời.
Mở tủ ra, Tony.
Anh mở tủ. Anh chọn một khẩu súng lục từ giá súng, kiểm soát ṇng súng để tin chắc rằng nó đă được nạp đạn sẵn sàng.
Bà ấy sẽ ở lầu trên, Tony ạ.
Tony quay lại, bắt đầu bước lên cầu thang. Anh biết rằng không v́ lỗi của mẹ anh mà bà ấy đă trở nên xấu xa như vậy. Bà ấy bị ám ảnh, và anh sẽ chữa trị cho bà. Công ty đă cướp mất linh hồn của bà, và bà Kate không chịu trách nhiệm về những ǵ bà làm. Mẹ anh và công ty đă hoà nhập lại với nhau thành một, và khi anh giết bà, công ty sẽ chết.
Bây giờ anh đang đứng ở ngoài pḥng ngủ của bà Kate.
Mở cửa đi, tiếng nói ra lệnh.
Tony mở cánh cửa. Bà Kate đang mặc áo trước một tấm gương th́ nghe tiếng cánh cửa mở ra.
“Tony! Con làm cái ǵ vậy...”
Tony chĩa súng vào người bà, rồi bắt đầu bóp c̣.


Chương 22

Quyền con trưởng thừa kế, tức là quyền hưởng chức tước tài sản gia đ́nh của đứa trẻ sinh đầu tiên, có cội rễ ăn sâu trong lịch sử. Trong các gia đ́nh vua chúa ở Âu Châu, một viên quan cao cấp phải hiện diện vào lúc sinh của vị thừa kế vị sẽ không bị tranh căi. V́ vậy, bác sĩ Mattson phải cẩn thận ghi chép ai là người được đỡ ra trước tiên trong hai đứa trẻ sinh đôi.
Ai cũng phải đồng ư với nhau rằng những đứa con sinh đôi của Blackwell rất là xinh đẹp. Chúng nó khoẻ mạnh và có vẻ linh hoạt ḱ lạ. Các y tá trong bệnh viện luôn t́m cớ để đi vào xem hai đứa bé. Sự thu hút của chúng, mặc dầu không được thú nhận, một phần là do nhưng câu chuyện bí mật người ta loan truyền về gia đ́nh của chúng. Mẹ chúng qua đời trong lúc sinh ra chúng. Cha chúng đă biến mất, và có tin đồn rằng ông ta đă bắn mẹ ruột của ḿnh, nhưng người ta không thể xác nhận các lời đồn đại ấy. Báo chí không đề cập ǵ về chuyện này mà chỉ nói một cách ngắn ngủi rằng Tony Blackwell đă bị suy sụp thần kinh và bị nhốt ở một nơi. Khi báo chí hỏi ông bác sĩ Harley th́ ông ta đưa ra một câu nói cộc lốc. “Không b́nh luận.”
Những ngày vừa qua quả là địa ngục đối với ông bác sĩ John Harley. Chừng nào ông c̣n sống, ông vẫn c̣n nhớ măi đến quang cảnh ông đă chứng kiến khi ông đi đến pḥng bà Kate Blackwell sau khi nhận được một cú điện thoại rối rít của người quản gia. Kate nằm dài trên sàn nhà trong cơn hôn mê, với nhiều vết đạn ở cổ và ngực, máu tuôn ra nhuộm đỏ cả tấm thảm trắng.Tony đang sục sạo các tủ áo của mẹ anh cắt loạn xạ các chiếc áo của bà ra từng mảnh bằng một cái kéo.
Bác sĩ Harley đưa mắt nh́n bà Kate thật nhanh, rồi hối hả gọi xe cứu thương đến. Ông quỳ xuống bên cạnh bà Kate, bắt mạch. Mạch của bà rất yếu và rất nhỏ, mặt bà đang trở sang màu xanh nhợt. Bà sắp sửa bị kích ngất. Ông liền tiêm cho bà một mũi adrenaline và sodium bicarbonate.
“Chuyện ǵ xảy ra vậy?” Bác sĩ Harley hỏi.
Viên quản gia, mồ hôi vă ra như tắm, đáp, “Tôi... tôi không biết. Ông Blackwell bảo tôi đi pha cà phê cho ông. Lúc tôi đang ở trong bếp th́ nghe tiếng súng nổ. Tôi chạy lên lầu th́ thấy bà Kate Blackwell nằm trên sàn nhà, như thế này. Ông Blackwell lúc ấy đang đứng phía trên bà ấy và nói. “Nó sẽ không làm hại mẹ nữa đâu, mẹ ạ. Con đă giết nó rồi.” Thế rồi ông ấy đi đến tủ áo và bắt đầu cắt các áo trong đó.”
Bác sĩ Harley quay về phía Tony. “Anh làm ǵ ở đấy Tony?”.
Anh lại cắt xé dữ dội. “Tôi giúp mẹ tôi. Tôi đang huỷ hoại công ty. Chính nó đă giết mẹ tôi, ông hiểu không?”Anh lại tiếp tục cắt xé quần áo trong tủ.
Người ta đưa gấp bà Kate vào khu cấp cứu trong một bệnh viện tư của Kruger-Brent. Bà được truyền máu bốn lần trong khi bác sĩ mổ để lấy các viên đạn ra.
Phải có ba người y tá nam mới lôi được Tony vào trong chiếc xe cứu thương, sau khi bác sĩ John Harley tiêm cho anh ta một mũi thuốc để làm cho anh yên bớt. Một toán lính cảnh sát đáp ứng lời kêu gọi của xe cứu thương, và bác sĩ John Harley cho mời Brad Rogers đến để tiếp xúc với họ. Bằng phương tiện nào đó mà bác sĩ Harley không hiểu được, các giới truyền tin không đề cập một chút ǵ đến vụ nổ súng.
Bác sĩ Harley đi đến bệnh viện để thăm bà Kate Blackwell, lúc này đang được chăm sóc đặc biệt. Câu nói đầu tiên bà thều thào thốt ra là: “Con trai tôi đâu rồi?”
“Anh ấy được chăm sóc, bà Kate ạ. Anh ấy không hề ǵ đâu.”
Tony được đưa đến một dưỡng đường tư ở Connecticut.
“Bác sĩ John này, tại sao Tony lại cố t́nh giết tôi?Tại sao?” Sự đau khổ trong giọng nói của bà dường như không thể nào chịu đựng nổi.
“Anh ấy oán trách bà về cái chết của Marianne.”
“Thật là điên rồ!”
John Harley không đưa ra lời b́nh luận nào.
Anh ấy trách bà về cái chết của Marianne!
Sau khi bác sĩ John Harley đă ra khỏi pḥng, bà Kate nằm ở đó, không thể nào chấp nhận được những lời nói ấy. Bà đă yêu Marianne v́ nàng đem lại hạnh phúc đến cho Tony. Tất cả những ước mơ của mẹ là dành cho con. Làm sao con không thể hiểu được điều ấy?
Thế nhưng anh ta đă ghét bà đến nỗi cố giết bà. Kate cảm thấy trong ḷng tràn ngập đau khổ; bà chỉ muốn được chết. Nhưng bà không để cho ḿnh phải chết. Bà đă làm những ǵ bà cho là phải. Họ đều lầm cả. Tony là một con người yếu đuối không dám một ḿnh đương đầu với cuộc sống. Nhưng ta, Kate Blackwell, không yếu đuối. Ta có thể đương đầu với câu chuyện này, có thể đương đầu với bất cứ chuyện ǵ. Ta sẽ sống. Ta sẽ sống sót. Công ty của ta sẽ tồn tại.


Chương 23

Kate hồi phục sức khoẻ ở Dark Harbor, để cho mặt trời và gió bể giúp bà chóng b́nh phục.
Tony ở trong một dưỡng đường tư để được sự săn sóc tốt nhất. Kate đă mời những nhà chuyên môn về tâm thần đến từ Paris, Vienna và Berlin, nhưng khi tất cả những cuộc thử nghiệm và khám nghiệm thực hiện xong, sự chẩn đoán của họ đều giống nhau: con trai bà bị chứng hoang tưởng bộ phận và tâm thần phân lập có khuynh hướng giết người.
“Anh ấy không có đáp ứng đối với các loại thuốc và biện pháp điều trị tâm lí. Chúng tôi phải giữ anh ấy trong t́nh trạng kiềm chế?”
“Kiềm chế như thế nào?”
“Anh ấy ở trong một căn pḥng có bọc đệm xung quanh. Chúng tôi cho anh ấy mặc một thứ áo bó chặt chân tay hầu như suốt cả ngày.”
“Có cần thiết phải làm như vậy không?”
“Thưa bà Blackwell, nếu không làm thế, anh ấy sẽ giết bất cứ ai lại gần.”
Bà đau đớn, nhắm đôi mắt lại. Họ không phải đang nói chuyện về Tony hiền lành, dịu dàng của bà, mà nói về một kẻ lạ mặt nào đó, một kẻ bị ám ảnh. Bà mở cặp mắt ra.
“Không có cách đi đến được tận trí óc của anh ấy. Chúng tôi vẫn cho anh ấy dùng thuốc, nhưng ngay khi thuốc hết hiệu lực th́ anh ta lại điên cuồng trở lại. Không thể nào tiếp tục lối điều trị này măi măi được.”
Kate đứng thẳng người dậy. “Vậy ông đề nghị làm thế nào, bác sĩ?”
“Trong những trường hợp tương tự như vậy, chúng tôi phải lấy đi một phần năo thuỳ tương tự như vậy, chúng tôi phải lấy đi một phần năo thuỳ th́ cũng tạo nên kết quả khả quan.”
Kate nuốt nước bọt đánh ực một cái. “Một cuộc phẫu thuật năo thuỳ?”
“Đúng vậy. Con trai bà sẽ vẫn có thể hoạt động về mọi phương diện, duy chỉ có điều là anh ấy sẽ không c̣n có những cảm xúc mạnh mẽ bất thường nữa.”
Kate ngồi yên tại chỗ, đầu óc và thân thể bà như run lên v́ lạnh. Bác sĩ Morris, một bác sĩ trẻ của bệnh viện Menninger, phá tan sự im lặng. “Tôi biết rằng bà khó có thể chịu đựng được một hoàn cảnh như vậy. Nhưng nếu bà nghĩ đến...”
“Nếu đó là lối duy nhất để ngăn chặn sự đau khổ dày ṿ nó, th́ các ông cứ tiến hành.” Kate nói.
Frederick Hoffman muốn đem các cháu của ông về nuôi. “Tôi muốn đưa chúng nó về Đức.”
Kate nhận thấy ông ta có vẻ như già đi đến hai mươi tuổi từ ngày Marianne qua đời. Bà thương hại ông ta, nhưng nhất định không chịu rời xa các con của Tony. “Chúng được nuôi dưỡng ở nơi này. Ông hăy đến thăm các cháu luôn.”
Cuối cùng, ông Frederick đành phải nghe lời.
Hai đứa trẻ sinh đôi được đưa đến ở tại nhà bà Kate. Một dăy buồng nuôi trẻ được xép đặt dành cho chúng. Kate phỏng vấn các cô nuôi dạy trẻ, và cuối cùng tuyển được một cô người Pháp tên là Solange Dunas.
Kate đặt tên cho đứa sinh ra đầu tiên là Eve và đứa em sinh đôi của nó là Alexandra. Chúng giống nhau như hệt, khó mà phân biệt được đứa này với đứa kia. Trông chúng chơi đùa với nhau giống như là nh́n vào h́nh ảnh trong một tấm gương. Kate ngạc nhiên trước phép lạ ḱ diệu mà con trai bà và Marianne đă tạo ra. Chúng là những đứa trẻ thông minh, nhanh nhẹn và dễ bảo, nhưng chỉ ít tuần lễ, Eve có vẻ phát triển hơn Alexandra. Eve là đứa đầu tiên biết ḅ, nói chuyện và bước đi. Alexandra theo kịp nhanh chóng, nhưng ngay từ lúc đầu, Eve là đứa trẻ đi tiên phong. Alexandra yêu thương chị nó, và cố bắt chước mọi thứ chị nó làm. Kate cố dành nhiều th́ giờ tối đa để chơi với các cháu. Chúng làm cho bà thấy trẻ lại. Rồi bà lại bắt đầu mơ tưởng. Một ngày nào đó, khi ta già yếu, sẵn sàng rút lui th́...
Vào ngày sinh nhật đầu tiên của hai đứa trẻ song sinh, Kate tổ chức một bữa tiệc. Chúng có hai chiếc bánh sinh nhật y hệt như nhau, và hàng chục món quà của bạn bè, nhân viên công ty, và gia nhân. Tiệc sinh nhật lần thứ hai đến tiếp đó nhanh chóng. Kate không thể tin được rằng thời gian trôi qua nhanh như vậy, và các cháu bà cũng lớn lên như thổi. Bà có thể nhận ra rơ ràng hơn sự khác biệt về nhân cách của chúng: Eva, mạnh khoẻ hơn, táo bạo hơn, Alexandra th́ dịu dàng hơn, sẵn sàng chịu sự điều khiển của chị nó. Kate thầm nghĩ, chúng nó không có mẹ có cha mà chúng yêu thương nhau như vậy th́ đó là một phước lớn.
Nhưng,vào đêm trước ngày sinh nhật thứ năm, Eve t́m cách giết Alexandra.
Đă khá lâu rồi, Eve vẫn ghét em nó. Nó nổi sùng lên một cách âm thầm khi có người nào đó bồng Alexandra lên vuốt ve nó hay cho nó một món quà. Eve cảm thấy như nó bị đánh lừa. Nó muốn có tất cả riêng cho nó – tất cả t́nh thương, tất cả những thứ đẹp đẽ xung quanh hai đứa. Nó không thể có một ngày sinh nhật riêng cho nó. Nó ghét Alexandra v́ cô bé này giống nó. mặc quần áo y như nó, chiếm đoạt một phần t́nh thương của bà nội mà đáng lẽ nó phải được hưởng hoàn toàn. Alexandra yêu mến Eve, nhưng Eve lại khinh bỉ Alexandra v́ chuyện ấy. Alexandra có tính t́nh rộng răi, sẵn sàng nhường lại cho Eve các con búp bê và đồ chơi, nhưng điều đó lại càng làm cho Eve thêm khinh bỉ. Eve không chia sẻ thứ ǵ cả. Cái ǵ thuộc về nó là của nó; nhưng như thế chưa đủ. Nó muốn bất cứ thứ ǵ mà Alexandra có. Đến đêm, dưới cặp mắt canh chừng của cô Solange Dunas, cả hai đứa bé cùng đọc kinh thật to, nhưng Eve bao giờ cũng thêm vào đó một lời cầu nguyện âm thầm rằng Chúa sẽ đánh chết Alexandra đi. Khi lời cầu nguyện ấy không được đáp ứng, Eve không thể chịu đựng được ư tưởng phải chia sẻ một bữa tiệc sinh nhật nữa với Alexandra. Khách khứa hôm ấy là những người bạn của riêng nó, các quà sinh nhật cũng là những quà riêng cho nó mà em gái nó sẽ đánh cắp từ tay nó. Nó phải giết Alexandra cho sớm.
Đêm trước hôm sinh nhật, Eve nằm trên giường, mắt mở thao láo. Khi đă biết chắc rằng mọi người trong nhà đều ngủ cả, nó đi đến giường của Alexandra đánh thức em nó dậy. “Alex.” nó th́ thầm, “chúng ḿnh xuống bếp xem các bánh sinh nhật đi.”
Alexandra nói với giọng c̣n ngái ngủ, “Mọi người đang ngủ cả.”
“Ḿnh sẽ không đánh thức ai dậy cả.”
“Cô Dunas sẽ không bằng ḷng đâu. Tại sao chúng ta không chờ đến sáng mai xem bánh cũng được?”
“Bởi v́ chị muốn xem các bánh ấy ngay bây giờ. Em có đi hay không?”
Alexandra giụi mắt cho tỉnh ngủ. Nó chẳng thích ǵ xem các bánh ấy, nhưng không muốn làm chị nó phải buồn ḷng. “Em đi.” nó nói.
Alexandra đi ra khỏi giường, xỏ chân vào đôi giày vải. Cả hai đứa đều mặc áo ngủ bằng ni lông màu hồng.
“Ta đi nào. Đừng có làm ồn ào nhé.” Eve nói.
“Vâng,” Alexandra đáp.
Chúng rón rén ra khỏi pḥng ngủ, đi vào hành lang ngang qua cửa pḥng cô Dunas, xuống chiếc cầu thang dốc dẫn xuông bếp. Đó là một cái bếp rất rộng, với hai chiếc ḷ lớn đốt bằng khí, sáu cái ḷ nhỏ, ba tủ lạnh và một tủ ướp lạnh có thể bước vào được.
Trong tủ lạnh, Eve t́m thấy những chiếc bánh mà bà làm bếp Tyler đă làm xong. Một trong những chiếc bánh ấy có ghi ḍng chữ, “Mừng sinh nhật Alexandra”, chiếc kia ghi, “Mừng sinh nhật Eve.”
Năm sau, Eve tự nhủ thầm. chỉ có một tên mà thôi.
Eve lấy chiếc bánh sinh nhật của Alexandra ra, đặt nó trên một cái thớt gỗ giữa bếp. Nó mở một ngăn kéo, lấy ra một gói nến đủ màu sắc.
“Chị làm ǵ thế?” Alexandra hỏi.
“Chị muốn xem khi ḿnh đốt tất cả các cây nến lên nó sẽ trông như thế nào.” Eve bắt đầu gắn các cây nến lên lớp kem trên bánh.
“Em nghĩ chị không nên làm thế, Eve ạ. Chị làm hỏng chiếc bánh ấy đi, chắc bà Tyler sẽ giận lắm đấy.”
“Bà ấy sẽ chẳng để ư đến đâu.” Eve mở một ngăn kéo khác, lấy ra hai hộp diêm lớn. “Nào, giúp đỡ chị một tay.”
“Em muốn về giường nằm ngủ.”
Eve quay lại nh́n em, giận dữ. “Thôi được, mày về giường mà nằm. Đồ nhát như thỏ. Để tao làm một ḿnh.”
Alexandra do dự. “Chị muốn em làm ǵ nào?”
Eve đưa nó một hôp diêm. “Thắp các ngọn nến đi.”
Alexandra sợ lửa. Cả hai đứa đều được căn dặn về sự nguy hiểm của việc chơi diêm. Chúng đă được nghe nói những câu chuyện ghê gớm về những đứa trẻ không nghe lời căn dặn ấy. Nhưng Alexandra không muốn làm chị buồn ḷng, v́ vậy nó phải vâng lời, bắt đầu châm các ngọn nến.
Eve đứng nh́n em nó trong một lát. “Mày quên không châm những cây nến phía bên kia, đồ ngu,” nó nói.
Alexandra nhoài người ra để châm những ngọn nến ở phía xa, lưng nó quay về phía Eve. Ngay lập tức, Eve quệt một que diêm, đặt nó sát vào các que khác trong chiếc hộp nó đang cầm ở tay. Các que diêm này cháy xoè lên thành những ngọn lửa. Eve thả hộp diêm dưới chân Alexandra, làm cho gấu chiếc áo ngủ của Alexandra bắt lửa. Một lát sau, Alexandra mới biết được chuyện ǵ đang xảy ra. Nó thấy đau đớn khủng khiếp ở chân, vội nh́n xuống, rồi hét to lên, “Cứu! Cứu tôi với!”
Eve nh́n chiếc áo đang bốc cháy, kinh hăi trước sự thành công mĩ măn của ḿnh. Alexandra đứng nguyên tại chỗ, cứng đờ, tê cóng v́ sợ hăi.
“Đừng có động đậy !” Eve nói. “Để ta đi lấy một xô nước.” Nó hối hả chạy đến pḥng chứa thực phẩm, tim đập rộn ràng với nỗi vui mừng pha lẫn chút sợ hăi.
Chính là nhờ một phim chớp bóng kinh hoàng mà người ta đă cứu sống được Alexandra. Đêm hôm ấy, bà Tyler, người đầu bếp của bà Blackwell, đi xem xi nê với một viên trung sĩ cảnh sát. Anh này thỉnh thoảng cũng chia sẻ chiếc giường nằm với bà ta. Đặc biệt tối hôm ấy, màn ảnh chiếu toàn những cảnh người ta chết chóc, cụt tay cụt chân một cách quá ghê rợn khiến cho bà Tyler không thể chịu đựng được nữa. Giữa một cảnh chặt đầu ghê rợn bà Tyler nói, “Richard này, có lẽ anh quen với những cảnh tượng này hàng ngày, chứ tôi th́ không chịu nổi rồi.”
Viên trung sĩ Richard Dougherty miễn cưỡng đưa bà ra khỏi rạp xi nê.
Hai người về đến nhà bà Blackwell sớm hơn một giờ. Vừa mới mở cửa ra, bà nghe tiếng Alexandra kêu thét từ trong bếp. Bà Tyler và Richard liền nhảy xổ vào trông thấy cảnh kinh hoàng trước mắt, họ lập tức ra tay hành động. Richard nhẩy đến chỗ Alexandra ngă lăn ra sàn nhà, nằm bất tỉnh. Bà Tyler đổ đầy một b́nh nước, rồi tưới lên ngọn lửa đang lan trên sàn nhà.
“Gọi ngay một chiếc xe cứu thương,” Trung sĩ Richard Dougherty ra lệnh, “Bà Blackwell có nhà không?”
“Có lẽ bà ấy đang ngủ trên lầu.”
Khi bà Tyler vừa gọi xong xe cứu thương, có tiếng khóc phát ra từ pḥng chứa thực phẩm của viên quản gia, rồi Eve chạy ra, vác một xô nước, vừa chạy vừa khóc lóc điên cuồng.
“Alexandra có chết không?” Eve thét lên, “Nó chết rồi hay sao?”
Bà Tyler ôm nó trong hai cánh tay để an ủi. “Không, cháu yêu quư ạ. em nó không hề ǵ. Rồi nó sẽ khoẻ lại ngay thôi.”
“Đó là do lỗi tại tôi”, Eve nức nở. “Nó muốn thắp đèn nến trên cái bánh sinh nhật của nó. Lẽ ra tôi phải ngăn cản nó.”
Bà Tyler vuốt lưng Eve. “Không hề ǵ đâu. Cháu đừng có tự trách ḿnh như thế.”
“Các que... que diêm ấy rớt ra khỏi tay tôi, thế là áo của nó bắt lửa. Ghê gớm quá!”
Trung sĩ Richard nh́n Eve, nói với vẻ thương xót, “Tội nghiệp con bé.”
“Alexandra bị bỏng ở chân và lưng.” bác sĩ Harley nói với Kate, “nhưng rồi nó sẽ khỏi ngay thôi. Vào thời buổi bây giờ, chúng tôi có thể chữa những trường hợp bị bỏng một cách ḱ diệu. Bà hăy tin tôi đi, chuyện vừa rồi có thể đă gây một thảm kịch khủng khiếp.”
“Tôi biết.” Kate nói. Bà đă nh́n thấy những vết phỏng của Alexandra và rất lấy làm kinh sợ. Do dự một lúc bà nói tiếp, “Bác sĩ này, tôi lo về Eve hơn đấy.”
“Eve cũng bị thương hay sao?”
“ Không phải về thể chất. Con bé tội nghiệp ấy tự trách ḿnh đă gây ra tai nạn. Nó bị những cơn ác mộng khủng khiếp. Ba đêm qua, tôi đă phải đi vào pḥng nó, ôm nó trên tay, nó mới ngủ lại được. Tôi không muốn câu chuyện này gây nên chấn thương nặng hơn nữa. Eve là một đứa bé rất nhạy cảm.”
“Trẻ con dễ quên đi nhanh chóng. Nếu có vấn đề ǵ, bà cứ cho tôi biết, rồi tôi giới thiệu cho bà một bác sĩ nhi khoa.”
“Cảm ơn,” Kate nói đầy vẻ biết ơn.
Eve rất bối rối khó chịu. Buổi tiệc sinh nhật đă bị huỷ bỏ. Chính Alexandra đă đánh lừa để làm ḿnh mất đi cơ hội này, Eve thầm nghĩ một cách chua chát.
Alexandra đă lành lại hoàn toàn, không mang một vết sẹo nào trên người. Eve cũng vượt qua được cảm giác tội lỗi một cách dễ dàng đến ḱ lạ. V́ bà Kate đă trấn an nó, “Tai nạn có thể xảy ra với bất cứ ai, cháu ạ. Cháu đừng có tự trách ḿnh như thế.”
Eve đâu có tự trách ḿnh. Nó trách bà Tyler tại sao bà ấy lại về nhà sớm để làm hư hỏng tất cả mọi sự? Nó đă chuẩn bị hoàn hảo rồi mà.
Dưỡng đường, nơi Tony bị nhốt, nằm trong một vùng đất yên tĩnh có nhiều cây ở Connecticut. Kate vẫn đi xe đến đó thăm anh mỗi tháng một lần. Cuộc giải phẫu năo thuỳ đă thành công. Anh không c̣n biểu lộ những dấu hiệu hung hăn nữa. Anh nhận ra được Kate và hỏi han về Eve và Alexandra. Nhưng anh không tỏ ra có ư muốn nào gặp chúng nó. Anh rất ít quan tâm đến bất cứ thứ ǵ. Anh có vẻ như vui thích. Không, không phải là vui thích, Kate chữa lại câu nói. Hài ḷng th́ đúng hơn. Nhưng hài ḷng – về cái ǵ?
Kate hỏi ông Burger viên giam đốc dưỡng đường, “Con trai tôi có làm việc ǵ suốt mỗi ngày không?”
“Có chứ ạ, thưa bà Blackwell. Anh ấy ngồi hàng giờ để vẽ.”
Con trai bà lẽ ra có thể làm chủ cả thế giới này, thế mà anh ta lại ngồi vẽ suốt ngày. Kate cố không nghĩ đến sự phí phạm nếu cái đầu óc thông minh sáng láng ấy bị mất đi vĩnh viễn. “Anh ấy vẽ cái ǵ vậy?”
Viên giám đốc tỏ vẻ bối rối. “Không ai có thể nhận ra được anh ấy vẽ cái ǵ.”


Chương 24

Trong hai năm kế tiếp, Kate rất lo lắng về Alexandra. Đứa bé ấy gặp hết tai nạn này đến tai nạn khác. Trong thời gian Eve và Alexandra nghỉ hè ở Bahamas trong một vùng đất thuộc gia đ́nh Blackwell, Alexandra suưt bị chết ch́m trong khi chơi với Eve trong bể bơi; may mà có bác làm vườn cứu kịp thời nên nó mới thoát chết. Năm sau, khi hai đứa đi cắm trại ngoài trời ở Palisades, không hiểu sao Alexandra bị trượt chân trên bờ vách núi, nhưng thoát chết nhờ bấu víu vào một bụi cây nhô ra khỏi sườn núi dốc.
“Bà muốn cháu trông nom em cháu cho thật kĩ”, Kate căn dặn Eve. “Nó vô ư vô tứ, không biết tự giữ ǵn như cháu đâu”.
“Cháu hiểu”. Eve nói một cách trang nghiêm. “Cháu sẽ trông nom nó”.
Kate yêu các cháu gái, nhưng theo cách khác nhau. Chúng bây giờ đă bảy tuổi, và đều xinh đẹp giống như nhau, với tóc hoe dài, mềm mại, những nét mặt thanh tú và cặp mắt McGregor. Chúng trông giống nhau, nhưng cá tính th́ hoàn toàn khác nhau.Vẻ hiền lành của Alexandra khiến cho bà nhớ đến Tony, trong khi Eve giống bà hơn, cũng bướng bỉnh và tự măn như vậy.
Một người tài xế lái xe chở chúng đến trường trong một chiếc xe Rolls Royce. Alexandra bối rối khi các bạn bè trông thấy nó đi học bằng xe hơi với tài xế lái, nhưng Eve lại lấy thế làm thích thú. Kate cho mỗi đứa một số tiền tiêu vặt hàng tuần, và ra lệnh cho chúng phải ghi chép mọi thứ chi tiêu. Eve lúc nào cũng tiêu hết tiền trước cuối tuần và vay tiền của Alexandra; Eve học cách điều chỉnh sổ sách sao cho bà nội không biết được. Nhưng Kate biết và bà không thể giấu một nụ cười. Mới bảy tuổi mà nó đă chứng tỏ là một tay kế toán có đầu óc sáng tạo.
Thoạt tiên, Kate vẫn nuôi dưỡng hi vọng thầm kín rằng một ngày kia Tony sẽ trở lại b́nh thường, rằng anh sẽ rời dưỡng đường để trở về với công ty Kruger-Brent. Nhưng thời gian trôi qua, giấc mơ ấy phai tàn dần. Người ta mặc nhiên hiểu rằng mặc dầu Tony có thể rời dưỡng đường để thực hiện những cuộc viếng thăm ngắn ngủi, anh sẽ không bao giờ có thể tham dự vào thế giới bên ngoài.
Lúc ấy là vào năm 1962, và khi Kruger-Brent trở nên thịnh vượng và mở rộng, nhu cầu có lănh đạo mới trở lại càng trở nên cấp bách. Kate vừa ăn mừng lễ thất tuần. Tóc bà bây giờ đă bạc, nhưng bà vẫn giữ dáng vẻ mạnh mẽ, thẳng thắng và linh hoạt, tràn đầy sức sống. Bà cũng biết rằng tuổi già ṃn mỏi rồi đây sẽ bắt kịp bà. Bà phải chuẩn bị cho lúc ấy. Công ty phải được ǵn giữ cho gia đ́nh bà. Brad Rogers là một tay quản lí giỏi, nhưng ông ta không phải là một Blackwell. Ta phải sống cho đến khi hai đứa song sinh này có khả năng nắm lấy việc điều hành công ty. Bà nghĩ đến lời nói cuối cùng của Cecil Rhodes: “Việc đă làm c̣n quá ít, nhưng việc phải làm th́ rất nhiều.”
Hai đứa trẻ song sinh lên mười hai tuổi, sắp sửa trở thành nhưng thiếu nữ. Kate đă dành nhiều th́ giờ ở bênh cạnh chúng, nhưng lúc này bà phải chú ư đến chúng nhiều hơn. Bây giờ là lúc phải đưa ra một quyết định quan trọng.
Trong tuần lễ Phục sinh, Kate và hai đứa trẻ song sinh hay đến Dark Harbor bằng máy bay của công ty. Hai cô gái này đă viếng thăm tất cả những tài sản đất đai của gia đ́nh, ngoại trừ tài sản ở Johannesburg, nhưng trong số đó, Dark Harbor là nơi chúng thích hơn cả. Chúng yêu thích vẻ tự do hoang dă và hẻo lánh của ḥn đảo này. Chúng thích đi thuyền buồm, bơi lội, trượt trên nước, và ở Dark Harbor có đủ các thứ này cho chúng. Eve yêu cầu bà nội cho phép nó đem bạn bè theo về nơi đó, như trong quá khứ, nhưng lần này bà từ chối. Bà nội, một người đàn bà đầy quyền lực, uy nghi, vẫn thường đi ra đi vào, ban bố một món quà ở nơi này hôn lên má ở nơi kia, thỉnh thoảng lại căn dặn các con gái phải cư xử thế này, thế nọ, bà nội ấy bây giờ chỉ muốn được ở một ḿnh với hai cháu. Lần này, các cô gái cảm thấy có ǵ khác lạ sắp sửa xảy ra. Bà nội chúng ngồi với chúng ở tất cả mọi bữa ăn. Bà đưa chúng đi chèo thuyền, bơi lội và cưỡi ngựa nữa. Kate điều khiển con ngựa với vẻ chắc chắn của một tay lăo luyện.
Các cô gái vẫn c̣n giống nhau một cách lạ lùng, cả hai đều rất xinh đẹp, nhưng bà Kate quan tâm đến sự khác biệt của chúng hơn là sự giống nhau. Ngồi ở hàng hiên, nh́n xuống chúng vừa chơi xong một ván quần vợt, bà làm một bản tổng kết về chúng trong đầu óc. Eve là kẻ lănh đạo, c̣n Alexandra chỉ là kẻ thừa hành. Eve là một vận động viên bẩm sinh, Alexandra vẫn c̣n gặp tai nạn. Chỉ mấy ngày trước đó, khi hai đứa cùng đi chơi trong một chiếc thuyền buồm nhỏ, Eve ngồi ở bánh lái. Gió thổi đến phía sau chiếc buồm, và cánh buồm lái theo chiều gió, xoay ngang một cái về phía đầu Alexandra. Cô gái không kịp tránh, bị quét ra khỏi thuyền và suưt ch́m nghỉm. Một chiếc thuyền khác gần đó giúp Eve cứu Alexandra. Kate tự hỏi không biết tất cả những sự kiện như thế có liên quan ǵ đến việc Alexandra ra đời sau Eve ba phút hay không, nhưng các lí do không có ǵ là quan trọng. Kate đă có một quyết định. Trí óc bà không c̣n có ǵ phải thắc mắc nữa cả. Bà sẽ dồn tiền của bà về phía Eve, một sự đánh cuộc trị giá mười tỉ đô la. Bà sẽ kiếm một người chồng thật tốt cho Eve, rồi khi bà lui về dưỡng già, Eve sẽ điều khiển công ty Kruger-Brent. C̣n về Alexandra, nó sẽ có một cuộc đời giàu sang, và đầy đủ tiện nghi. Nó sẽ rất có khả năng trông coi các khoản trợ cấp từ thiện mà bà Kate đă thiết lập nên. Phải, như thế là rất tốt cho Alexandra. Nó vốn là một đứa trẻ dịu dàng, giàu ḷng thương người.
Bước đầu tiên nhằm đến việc thực hiện dự tính này của bà Kate là sao cho Eve được theo học một trường thích hợp. Bà Kate chọn trường Briarcrest, một trường rất tốt ở Nam Carolina, “Cả hai cháu tôi đều ngoan ngoăn cả” bà Kate nói bà hiệu trưởng, Chandler, như vậy. “Nhưng bà sẽ nhận thấy rằng Eve là một đứa rất thông minh. Nó là một đứa con gái ḱ lạ, và tôi chắc chắn rằng bà sẽ giúp cho nó thâu nhận được tất cả mọi lợi ích của trường này”.
“Alexandra à? Nó cũng dễ thương”. Đó là một lối nói không ngụ ư ǵ khen ngợi cả, Kate đứng dậy.
“Tôi sẽ kiểm soát sự tiến bộ của chúng một cách điều đặn”.
Bà hiệu trưởng nhận ra trong những câu nói của bà Blackwell một lời cảnh cáo nào đó, thật là ḱ lạ.
Eve và Alexandra yêu thích ngôi trường mới của chúng, đặc biệt là Eve. Nó cảm thấy được tự do v́ sống xa nhà, không phải giải thích ǵ với bà nội và cô Solange Dunas. Các quy tắc ở trường Briarcrest rất nghiêm ngặt, nhưng Eve chẳng bận tâm ǵ về điều ấy v́ nó dễ dàng tránh né các quy tắc ấy. Mối bận tâm duy nhất của Eve là Alexandra cùng ở nơi này với nó. Khi Eve mới nghe nói đến trường Briarcrest, nó năn nỉ,”Bà cho cháu đi học một ḿnh, được không?”
Bà nó đáp, “Không, cháu ạ. Bà nghĩ rằng cho Alexandra cùng đi với cháu th́ tốt hơn”.
Eve cố giấu nỗi bực tức. “Bà bảo sao cũng được bà ạ”.
Nó lúc nào cũng tỏ ra lễ phép và thân ái khi ở bên cạnh bà nội, v́ nó biết quyền lực nằm ở đâu rồi. Cha nó là một người điên khùng đang bị nhốt trong một dưỡng đường của người điên. Mẹ nó đă chết rồi. Chính bà nội mới là người kiểm soát tiền bạc. Nó biết gia đ́nh nó rất giàu có. Nó không biết họ có bao nhiêu tiền tất cả, nhưng chắc là nhiều lắm – thừa để mua tất cả những thứ đẹp đẽ mà nó thích. Eve thích những thứ đẹp đẽ. Chỉ có vấn đề khó khăn duy nhất: Alexandra.
Một trong các hoạt động được ưa thích nhất ở Briarcrest là lớp học cưỡi ngựa. Phần nhiều các cô gái học trường này đều có ngựa riêng. Eve và Alexandra cũng được bà nội cho mỗi đứa một con ngựa vào ngày sinh nhật thứ mười hai. Jerome Davis huấn luyện viên cưỡi ngựa, xem các học tṛ trổ tài trong sân tập, nhảy qua hàng rào cao ba mươi phân, rồi sáu mươi phân, rồi cuối cùng nhảy qua hàng rào trên một thước ba. Davis là một trong những huấn luyện viên tài ba nhất trong xứ. Nhiều học tṛ của ông ta được mề đay vàng, và ông rất thành thạo trong việc phát hiện ra một tay cưỡi ngựa có tài năng bẩm sinh. Người con gái mới đến trường, Eve Blackwell, là một trong những người ấy. Nó không cần phải suy nghĩ về việc ǵ nó sẽ làm, làm thế nào nắm dây cương hay ngồi trên yên ngựa. Nó với con ngựa là một, và trong khi người và ngựa nhảy vọt qua các hàng rào, làn tóc vàng óng của Eve bay tung trong gió, quang cảnh ấy thật là đẹp. Không có ǵ ngăn cản được cô bé ấy, Davis nghĩ thầm.
Tommy, tay giữ ngựa, ưa thích Alexandra hơn. Ông Davis nh́n Eve thắng yên ngựa, chuẩn bị đến phiên ḿnh. Alexandra và Eve đeo những dải ruy băng màu sắc khác nhau để dễ phân biệt. Eve giúp Alexandra thắng yên ngựa trong khi Tommy bận bịu với một học sinh khác.
Davis được gọi đến toà nhà chính v́ có điện thoại, rồi những ǵ xảy ra sau đó trở thành một vấn đề rắc rối vô cùng.
Do các chi tiết Davis thu nhặt và xếp đặt lại sau đó, ông được biết rằng Alexandra trèo lên ngựa, đi một ṿng sân, rồi sắp sửa cho ngựa nhảy qua hàng rào thấp thứ nhất th́ con ngựa bỗng chồm hai vó lên, ném Alexandra vào một bức tường. Nó bị ngă xuống bất tỉnh và suưt nữa bị vó ngựa đá vào mặt. Tommy khiêng Alexandra đến bệnh xá. Ở đó, ông bác sĩ của nhà trường chẩn đoán cho biết nó bị chấn thương nhẹ ở đầu.
“Không bị găy xương, không có ǵ quan trọng cả”. Ông nói. “Đến sáng mai cô ấy sẽ khoẻ mạnh như thường, sẵn sàng lên ngựa lại”.
“Nhưng nó có thể đă bị chết!” Eve thét lên.
Eve không chịu rời Alexandra. Bà Chandler nghĩ thầm rằng bà chưa hề bao giờ thấy một người chị hết ḷng đối với em như vậy. Thật là cảm động.
Khi ông Davis đă đưa được con ngựa của Alexandra trở lại bài tập, ông thấy tấm mền lót yên ngựa đẫm cả máu. Ông nhấc nó lên th́ thấy một miếng thiếc lởm chởm cắt ra từ hộp bia, nhô ra từ lưng ngực và đă cắm sâu vào da thịt khi chiếc yên ngựa bị ép xuống. Ông liền báo cáo với bà Chandler. Sau đó bà cho mở một cuộc điều tra ngay lập tức. Tất cả những cô gái đă đứng ở gần chuồng ngựa đều bị chất vấn.
Bà Chandler nói, “Tôi chắc rằng kẻ nào đặt miếng kim khí vào đó tưởng rằng đó là một tṛ tinh nghịch vô hại, nhưng thực ra nó có thể dẫn đến những hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Tôi muốn biết tên cô nào bày ra cái tṛ này”.
Khi không có ai thú nhận cả, bà Chandler nói chuyện với họ, từng người một, tại văn pḥng. Khi đến lượt Eve bị chất vấn, nó tỏ ra bối rối một cách lạ lùng.
“Cô có nghi ai gây ra chuyện này cho em gái cô không?” bà Chandler hỏi.
Eve nh́n xuống nói. “Con không muốn nói”. Nó lầm bầm.
“Vậy cô có thấy ǵ không?”
“Cháu xin bà, bà Chandler ạ...”.
“Eve, Alexandra có thể bị thương nặng rồi. Cô gái nào làm chuyện ấy phải bị trừng trị để lần sau đừng có xảy ra những chuyện như thế nữa”.
“Không phải là một cô gái nào làm chuyện ấy”.
“Cô nói ǵ vậy?”
“Đó là Tommy”.
“Tên giữ ngựa?”
“Vâng, thưa bà, cháu thấy hắn. Cháu tưởng hắn buộc dây nịt ngựa thôi. Cháu chắn hắn không có ư làm hại. Alexandra thường hay sai bảo hắn nhiều nên có lẽ hắn muốn cho em cháu một bài học. Trời, thưa bà Chandler, lẽ ra bà không nên buộc cháu phải nói ra điều này. Cháu không muốn gây rắc rối cho ai cả”. Tội nghiệp con bé, nó hối hận, gần như phát cuồng lên.
Bà Chandler đi ṿng quanh bàn viết, rồi quàng tay lên người Eve. “Không hề ǵ đâu, Eve ạ. Cháu nói với ta như thế là phải. Bây giờ, hăy quên hết tất cả mọi thứ. Để bà sẽ lo việc này cho”.
Sáng hôm sau, khi các cô gái đi ra đến chuồng ngựa th́ đă thấy có một tay giữ ngựa mới.
Ít tháng sau, lại thêm một chuyện khó chịu nữa xảy ra ở trường học. Nhiều cô gái đă bị bắt quả tang đang hút thuốc lá có chất ma túy, và một đứa trong bọn chúng tố cáo Eve đă cung cấp thứ ấy. Eve chối lỗi một cách giận dữ. Bà Chandler liền cho lục lọi khắp mọi nơi th́ phát hiện ra rằng chất cần sa được giấu trong ngăn kéo của Alexandra.
“Cháu không thể tin nổi chuyện này”. Eve nói thật lớn. “Có kẻ nào đó đă bỏ thứ ấy vào đó. Cháu biết”.
Bà hiệu trưởng báo cáo chuyện này với bà Kate, và bà này khen ngợi Eve hết lời v́ đă t́m cách che chở cho em gái. Nó đúng là một McGregor.
Vào ngày sinh nhật thứ mười lăm, bà Kate đưa cả hai đứa đến một ngôi nhà của bà ở Nam Carolina, ở đó bà tổ chức một bữa tiệc mừng các cháu. Lúc này không phải là quá sớm để cho Eve làm quen với những chàng trai trẻ xứng đáng, v́ vậy mọi chàng trai xứng đôi vừa lứa với nàng đều được mời đến tham dự.
Các cậu con trai đang ở vào tuổi chưa quan tâm đến các cô gái một cách nghiêm chỉnh, nhưng bà Kate cho rằng nhiệm vụ của bà là tạo nên cơ hội cho chúng quen biết nhau và kết thân với nhau. Biết đâu trong số ấy lại chẳng có một người chồng tương lai của Eve, một người thuộc về công ty Kruger-Brent về sau này.
Alexandra không thích tiệc tùng, nhưng lúc nào nó cũng làm ra vẻ vui thích để làm vừa ḷng bà nội. Eve th́ rất thích tiệc tùng. Nó thích được ăn mặc đẹp đẽ, được người ta ca ngợi, thán phục. Alexandra chỉ thích đọc sách và hội hoạ. Nó ngồi hàng giờ ngắm các bức tranh của bố nó ở Dark Harbor, và ao ước được biết bố trước khi ông ta bị ốm. Tony về nhà vào những ngày nghỉ với một đàn ông khác đi kèm, nhưng Alexandra nhận thấy nó không cách nào lại gần bố được. Ông là một người lạ mặt vui vẻ, dễ mến, muốn làm vui ḷng kẻ khác, nhưng chẳng có ǵ để nói cả. Ông ngoại của hai đứa trẻ, Frederick Hoffman, c̣n sống ở Đức, nhưng ốm yếu lắm. Chúng ít khi có dịp được gặp ông.
Trong năm thứ hai ở trường học Eve có mang. Trong nhiều tuần lễ nàng tỏ ra lừ đừ, mặt mũi tái nhợt, và bỏ học nhiều buổi sáng. Khi bắt đầu nôn oẹ thường xuyên, nàng được đưa đến bệnh xá để khám bệnh. Bà Chandler được mời đến đó gấp.
“Eve đă có mang”, ông bác sĩ nói với bà Chandler.
“Nhưng nó chỉ mới là một đứa bé con thôi mà”
“Vâng nhưng đứa bé con này sắp làm mẹ rồi”.
Eve tỏ ra can đảm, không chịu nói ǵ về chuyện này. “Cháu không muốn ai bị lôi thôi về chuyện này”.
Đó là lối trả lời mà bà Chandler mong đợi ở một con người như Eve.
“Eve thân mến ạ, cháu phải nói cho ta biết chuyện ǵ đă xảy ra”.
Cuối cùng, Eve mới tiết lộ, “Cháu bị người ta hiếp”. rồi khóc oà lên.
Bà Chandler lộ vẻ sửng sốt. Bà ôm thân h́nh run rẩy của Eve sát vào người bà, rồi hỏi, “Ai vậy?”
“Thầy Parkinson”.
Đó là thầy giáo dạy nàng môn Anh văn.
Nếu như một kẻ nào, ngoài Eve ra, nói với bà Chandler như vậy hẳn bà đă không tin. Joseph Parkinson là một con người trầm tĩnh, ít nói, đă có vợ và ba con. Ông đă dạy học ở trường Briarcrest được tám năm rồi, và là người mà bà không bao giờ ngờ có thể làm những chuyện như vậy.
Bà cho gọi ông Parkinson đến văn pḥng, và lập tức bà biết rằng Eve đă nói sự thực. Ông ta ngồi trước mặt bà, mặt co rúm v́ lo lắng.
“Ông biết v́ sao tôi gọi ông lên đây chứ, ông Parkinson?”
“V... vâng, có lẽ vậy”.
“Vấn đề có liên quan đến Eve”.
“V... vâng, tôi... tôi cũng đoán ra thế”.
“Nó bảo chính ông đă hiếp nó”.
Parkinson nh́n bà có vẻ không tin. “Hiếp cô ấy? Lạy Chúa! Nếu có ai bị hiếp th́ người ấy chính là tôi”. Trong lúc bị quá xúc động ông sa vào lỗi văn phạm tiếng Anh mà không hay.
Bà Chandler nói một cách khinh bỉ. “Ông có hiểu những ǵ ông đang nói không? Con bé ấy nó...”.
“Cô ấy không phải là một con bé”. Giọng ông ta có vẻ độc địa. “Nó là một con quỷ cái”. Ông lau mồ hôi trên trán. “Suốt cả học ḱ, cô ấy ngồi ở bàn đầu ở lớp tôi dạy, vén cao váy lên. Hết giờ học, cô ấy lên bàn tôi, hỏi hết câu này đến câu khác một cách vô nghĩa trong khi ấy cô ta cứ cọ xát vào người tôi. Tôi vẫn không coi chuyện ấy là quan trọng. Thế rồi, vào một buổi trưa nọ, cách đây sáu tuần lễ, cô ấy đến nhà tôi trong khi vợ con tôi đi vắng rồi...”. Giọng ông tắc lại. “Trời Giê su Chúa tôi! Tôi không chịu nổi nữa rồi”. Ông ta bật khóc lên.
Người ta đưa Eve lên văn pḥng. Dáng điệu của cô vẫn b́nh tĩnh. Cô nh́n thẳng vào mắt ông Parkinson, khiến ông ta phải quay mặt đi trước tiên. Trong văn pḥng lúc ấy có bà Chandler, bà hiệu phó, viên cảnh sát trưởng địa phương.
Viên cảnh sát trưởng nói một cách ngọt ngào. “Cô có vui ḷng nói cho chúng tôi biết câu chuyện xảy ra như thế nào không?”
“Vâng, thưa ông”. Giọng Eve hết sức b́nh tĩnh. “Thầy Parkinson nói ông ấy muốn thảo luận về bài Anh văn của tôi. Ông yêu cầu tôi đến nhà ông vào trưa chủ nhật. Lúc ấy ông ở nhà một ḿnh. Ông bảo ông muốn cho tôi xem một cái ǵ đó trong pḥng ngủ, thế rồi tôi theo ông lên lầu. Ông lôi tôi xuống giường, rồi ông ấy...”
“Nói láo!” Parkinson thét lên. “Chuyện xảy ra không phải như vậy. Không phải như vậy!”
Bà Kate được mời đến và nghe giải thích các t́nh tiết. Bà đưa ra quyết định rằng, v́ lợi ích chung của mọi người, câu chuyện này phải được giữ kín. Ông Parkinson bị đuổi khỏi trường và phải rời khỏi tiểu bang trong ṿng hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Sau đó, người ta sắp đặt việc phá thai cho Eve một cách kín đáo.
Kate lặng lẽ mua đứt văn tự cầm cố của nhà trường, do một ngân hàng cầm giữ, rồi tịch thu để thế nợ.
Khi Eve được tin tức này, cô thở dài một tiếng, “Cháu rất lấy làm ân hận, bà ạ. Cháu thực sự thích cái trường ấy”.
Ít tuần lễ sau, Eve đă b́nh phục sau một cuộc phẫu thuật. Cô và Alexandra ghi danh học tại trường Fernwood, một trường học Thuỵ Sĩ gần Lausanne.


Chương 25

Có một ngọn lửa bùng cháy trong con người của Eve, mà nàng không thể nào dập tắt được. Đó không phải là tính dục. Tính dục chỉ là một phần nhỏ thôi. Đó là một sự ham muốn đên cuồng được sống, một nhu cầu phải làm bất cứ thứ ǵ, phải trở thành bất cứ một hạng người nào. Cuộc đời là một người yêu, và Eve ham muốn một cách hung dữ chiếm đoạt lấy nó với tất cả những ǵ nàng có. Nàng ghen tị với tất cả mọi người. Đi xem ba-lê (ballet), nàng ghét các vũ công bởi v́ nàng không được lên sân khấu nhảy múa và được khán giả hoan hô. Nàng muốn trở thành một nhà khoa học, một phẫu thuật gia, một phi công, một nữ nghệ sĩ. Nàng muốn làm tất cả mọi thứ, và làm giỏi hơn bất ḱ ai. Nàng muốn tất cả và không thể nào chờ đợi lâu hơn nữa.
Ở phía bên kia thung lũng, từ trường Fernwood nh́n sang, có một trường vơ bị cho thanh niên. Lúc Eve mười tám tuổi, hầu hết tất cả sinh viên và non một nửa huấn luyện viên đều dính líu đến nàng. Nàng ve văn họ một cách trắng trợn và có những chuyện t́nh với họ một cách bừa băi, nhưng vào lúc này, nàng đề pḥng cẩn thận hơn v́ không muốn bị mang bầu lần nữa. Nàng ưa thích tính dục, nhưng không phải nàng thích cái hành động tính dục mà thích cái uy quyền nó tạo ra cho nàng. Nàng là kẻ làm chủ tất cả. Nàng hể hả trước những cái nh́n van lơn của các thanh niên và đàn ông lớn tuổi nào muốn đưa nàng lên giường và ân ái với nàng. Nàng thích những lời hứa hẹn dối trá của bọn họ nhằm chiếm đoạt lấy nàng. Nàng ưa thích uy quyền của nàng trên thể xác của họ. Nàng có thể kích thích họ bằng một cái hôn, rồi khiến họ phải “x́u” đi bằng một lời nói. Nàng không cần đến họ, chỉ có họ mới cần đến nàng. Nàng kiểm soát họ hoàn toàn, và cảm xúc ấy thật là mạnh mẽ vô cùng. Chỉ trong ṿng ít phút, nàng có thể đo lường những chỗ mạnh, chỗ yếu của một người đàn ông. Nàng cho rằng đàn ông là những kẻ điên rồ, tất cả bọn chúng đều thế.
Eve là một cô gái xinh đẹp, thông minh, thừa kế một trong những tài sản lớn nhất thế giới, nên có hàng chục nơi ḍm ngó, đề nghị hôn nhân nghiêm chỉnh. Nàng không thích nơi nào cả. Những chàng trai mà nàng ưa thích là những người mà Alexandra có cảm t́nh hơn cả.
Trong một buổi khiêu vũ đêm thứ bảy, Alexandra gặp một sinh viên người Pháp trẻ, tỏ vẻ ân cần, tên là René Mallot. Anh không đẹp trai, nhưng thông minh, nhạy cảm, và Alexandra cho rằng anh ta là tuyệt vời. Hai người chuẩn bị gặp nhau ở thị trấn vào thứ bảy sau.
“Bảy giờ nhé”, René nói.
“Em sẽ đợi”.
Trong pḥng ngủ tối hôm ấy, Alexandra kể lại cho Eve về người bạn trai. “Anh ấy không giống như những người con trai khác. Hơi nhút nhát và dịu dàng. Chúng em sẽ đi xem hát với nhau vào thứ bảy này”.
“Em thích anh chàng ấy lắm, phải không, cô em bé nhỏ?” Eve trêu chọc.
Eve nằm xuống giường, hai tay chắp lại sau gáy. “Không, chị không biết. Em nói đi. Có phải anh chàng ấy cố dụ em lên giường với hắn, phải không?”
“Eve! Anh ấy không phải hạng người như vậy đâu. Em nói với chị là anh ấy nhút nhát mà”.
“Phải, phải. Cô em gái bé nhỏ của tôi đă si t́nh rồi”.
“Dĩ nhiên là không. Lẽ ra em không nên nói với chị chuyện này”.
“Chị rất mừng là em đă nói cho chị biết”, Eve nói một cách thành thực.
Khi Alexandra đến trước rạp hát vào ngày thứ bảy sau, nàng không thấy René đâu cả. Alexandra chờ ở góc phố cho đến một giờ đồng hồ, không để ư đến những cái nh́n ṭ ṃ của khách qua đường. Nàng cảm thấy ḿnh như một con điên. Cuối cùng, nàng phải ăn cơm một ḿnh trong một quán cà phê nhỏ, rồi trở về trường, hết sức khổ sở. Eve không ở trong pḥng. Alexandra ngồi đọc sách cho đến khuya, rồi tắt đèn. Đến hai giờ sáng, Alexandra nghe tiếng bước chân Eve rón rén đi vào pḥng.
“Em đang lo lắng cho chị quá”. Alexandra th́ thào.
“Chị gặp vài người bạn cũ – C̣n em th́ thế nào? Tuyệt vời chứ?”
“Tệ lắm chị ạ. Anh ấy không thèm đến”.
“Tệ quá nhỉ” Eve ra vẻ thông cảm. “Em phải rút kinh nghiệm là đừng bao giờ tin cậy bọn đàn ông”.
“Không biết có chuyện ǵ xảy ra với anh ấy không?”
“Không đâu, Alex ạ, chị cho rằng anh ta có lẽ đă gặp một người nào đó anh ta thích hơn”.
Đúng vậy, Alexandra thầm nghĩ. Nàng không lấy thế làm ngạc nhiên cho lắm. Nàng không biết rằng nàng xinh đẹp đáng yêu như thế nào. Từ nhỏ đến lớn nàng sống trong cái bóng của người chị sinh đôi. Nàng yêu mến chị, và cho rằng nếu có ai đó say mê Eve th́ đó cũng là điều phải thôi. Nàng cảm thấy ḿnh thua kém Eve, nhưng nàng không bao giờ nghĩ rằng người chị gái của nàng đă nuôi dưỡng cái ư nghĩ ấy từ ngày c̣n bé.
Có nhiều cuộc lỡ hẹn khác nữa. Những chàng trai Alexandra thích cũng tỏ ra vẻ mến nàng, nhưng sau đó họ không bao giờ gặp lại nàng lần nữa. Vào một ngày cuối tuần nọ, nàng bất ngờ gặp René trên đường phố của Lausanne. Anh vội vă đi lại gần nàng và nói, “Có chuyện ǵ vậy? Em đă hứa sẽ gọi cho anh kia mà”.
“Gọi anh? Anh nói ǵ lạ vậy?”
Anh ta bước lùi lại, như chợt hiểu ra. “Eve đó phải không...?”
“Không, Alexandra”.
Mặt anh ta đỏ bừng lên. “Tôi... tôi xin lỗi. Tôi phải đi ngay bây giờ”.
Thế rồi anh ta vội vă bỏ đi, để nàng lại một ḿnh, nh́n theo bối rối.
Tối hôm ấy, Alexandra kể lại cho Eve nghe chuyện này. Eve nhún vai nói. “Hắn rơ ràng là một thằng điên. Tốt hơn hết là em tránh hắn đi, Alex ạ”.
Mặc dầu Eve sành sỏi về đàn ông, có một điểm yếu của họ mà nàng không biết và chính điều đó đă gần như gây tai hoạ cho nàng. Từ thuở xa xưa, đàn ông vẫn có tính hay khoe khoang về những cuộc chinh phục của họ, và các sinh viên ở trường vơ bị không phải là ngoại lệ. Họ bàn tán với nhau về cô Eve Blackwell với vẻ thán phục pha lẫn kinh sợ.
“Khi cô ấy đă làm xong xuôi mọi việc với tôi rồi, tôi không c̣n cựa quậy được nữa...”
“Tôi không bao giờ nghĩ rằng ḿnh lại gặp được một “cái mông” như thế...”
“Lạy Chúa nó giống như một con hổ cái”.
Ít nhất có đến hàng chục bọn con trai và nửa tá huấn luyện viên ca ngợi khả năng t́nh dục của Eve. V́ vậy, câu chuyện này trở thành một điều bí mật mà trong trường ai cũng biết. Một trong các huấn luyện viên kể lại câu chuyện bàn tán này với một cô giáo ở Fernwood, rồi cô này báo cáo lại với bà Collins, hiệu trưởng của trường này. Một cuộc điều tra kín đáo được mở ra, kết quả là có một cuộc họp giữa bà hiệu trưởng và Eve.
“Tôi nghĩ rằng v́ danh tiếng của nhà trường, cô nên rời khỏi nơi này”.
Eve nh́n bà hiệu trưởng trừng trừng như thể cô cho rằng bà này bị loạn trí. “Bà nói cái ǵ lạ đời vậy?”
“Tôi đang nói về chuyện cô bấy lâu nay phục vụ cho một nửa số người ở trường vơ bị. C̣n nửa kia đang xếp hàng, nôn nóng chờ đợi”.
“Tôi chưa hề bao giờ được nghe những lời dối trá như vậy”. Giọng Eve run lên v́ bực tức. “Bà không nghĩ rằng tôi sẽ báo cáo chuyện này với bà nội tôi sao? Nếu bà ấy nghe được...”.
“Cô khỏi phải làm chuyện ấy”, bà hiệu trưởng ngắt lời. “Tôi muốn tránh sự bối rối, khó xử cho trường chúng tôi, nhưng nếu cô không ra đi một cách lặng lẽ, tôi có sẵn một danh sách dài dự định sẽ gửi đến cho bà nội cô”.
“Tôi muốn xem cái danh sách ấy”.
Bà Collins đưa cho Eve, không nói một lời nào. Đó là một danh sách dài. Eve đọc thật kĩ và nhận ra rằng nó c̣n sót ít nhất là bảy tên. Nàng ngồi yên lặng, suy nghĩ.
Cuối cùng nàng ngẩng đầu lên, nói với một vẻ oai vệ, “Rơ ràng đây là một âm mưu chống lại gia đ́nh tôi. Một kẻ nào đó muốn dùng tôi để gây bối rối cho bà nội tôi. Tôi sẵn ḷng rời khỏi nơi này, thay v́ để cho chuyện ấy xảy ra”.
“Như thế là một quyết định khôn ngoan”, bà Collins nói một cách lạnh nhạt. “Sẽ có một chiếc xe hơi đưa cô ra phi trường vào sáng mai. Tôi sẽ đánh điện cho bà nội cô để bà ấy biết cô sắp về nhà. Bây giờ cô có thể đi ra khỏi đây”.
Eve quay lưng lại, bước ra cửa, rồi đột nhiên nàng quay lại hỏi, “Thế c̣n em gái tôi?”
“Cô ấy sẽ ở lại đây”.
Khi Alexandra trở về pḥng ngủ, nàng thấy Eve đang gói ghém quần áo. “Chị đang làm ǵ vậy?”
“Chị về nhà”.
“Về nhà? Ngay giữa học ḱ hay sao?”
Eve quay về phía cô em gái. “Alex, em không nhận ra rằng đi học tại trường này là một sự phí phạm lớn hay sao? Chúng ḿnh chẳng học được ǵ ở đây cả. Chỉ là giết th́ giờ thôi”.
“Chị đă nói với bà Collins chưa?”
“Có, mới cách đây mấy phút”.
“Thế bà ấy bảo sao?”
“Lại c̣n phải hỏi nữa? Bà ấy khổ sở lắm.Bà ấy sợ mất danh tiếng của trường bà, nên bà năn nỉ xin chị ở lại”.
Alexandra ngồi xuống bên mép giường. “Em chẳng biết nói sao nữa”.
“Em chẳng cần phải nói ǵ nữa hết. Chuyện này chẳng có liên quan ǵ đến em”.
“Dĩ nhiên có liên quan chứ. Nếu chị ở đây khổ sở như thế th́...” nàng ngưng lại. “Có lẽ chị nói đúng. Ḿnh quả có phí th́ giờ thật. Ai mà cần chia động từ tiếng latinh kia chứ?”
“Đúng vậy. Hay ai cần biết cái ông Hannibal nào đó với cái thằng em trai khốn kiếp của ông ta tên là Hasdrubal?”
Alexandra bước đến chiếc tủ gắn vào tường, lấy ra chiếc va li của nàng, đặt nó lên giường.
Eve tủm tỉm cười. “Chị không yêu cầu em rời khỏi nơi này, Alex ạ. Nhưng chị cũng rất vui sướng nêu chúng ta cùng về nhà với nhau”.
Alexandra bóp bàn tay chị thât mạnh. “Em cũng vậy”.
Eve nói, làm ra vẻ t́nh cờ. “Chị bảo em thế này nhé. Trong khi chị xếp đặt đồ đạc, em hăy gọi điện cho bà nội để tin cho bà biết chúng ḿnh sẽ đi máy bay về nhà ngày mai. Em nói với bà rằng chúng ḿnh không thể chịu nổi nơi này. Em có chịu làm cho chị không?”
“Được”. Alexandra do dự. “Em lo rằng bà nội sẽ không bằng ḷng”.
“Đừng có lo về chuyện bà già ấy”. Eve nói với vẻ tin tưởng. “Chị có cách giải quyết với bà”.
Alexandra không có lí do nào để nghi ngờ điều ấy. Eve có thể xoay xở bà nội theo ư muốn của nàng. Thế nhưng mà, Alexandra thầm nghĩ, ai mà có thể từ chối Eve điều ǵ?
Nàng liền đi gọi điện thoại.
Bà Kate Blackwell có nhiều bạn bè, kẻ thù và những người kết giao trong giới kinh doanh ở các địa vị cao cấp, nên trong những tháng vừa qua có nhiều tin đồn khó chịu đă lọt đến tai bà. Thoạt tiên bà không để ư, cho rằng đó là do sự ghen tị nhỏ. Nhưng rồi các tin đồn ấy vẫn cứ dai dẳng. Eve đă giao du quá nhiều với bọn con trai ở trường vơ bị. Eve đă có một lần phá thai. Eve đang được chữa trị v́ một bệnh phong t́nh.
V́ vậy, khi được tin các cháu gái sắp về nhà, bà cũng cảm thấy đôi chút nhẹ nhơm. Bà dự tính sẽ t́m hiểu cặn kẽ về các tin đồn xấu xa ấy.
Ngày các cô gái trở về, bà ngồi ở nhà chờ đón chúng. Bà dẫn Eve vào pḥng khách, cách xa pḥng ngủ của bà, và nói, “Bà có nghe một số chuyện đáng buồn, v́ vậy hôm nay bà muốn biết v́ lí do nào mà cháu bị đuổi ra khỏi trường?” Mắt bà như xoáy vào mắt hai cô cháu gái.
“Chúng cháu không bị đuổi khỏi trường”, Eve đáp. “Alex và cháu đă quyết định rời khỏi nơi ấy”.
“V́ một số chuyện lôi thôi với bọn con trai, phải không?”
Eve nói, “Cháu xin bà. Cháu không muốn nhắc đến chuyện ấy nữa”.
“Bà nghĩ rằng rồi thế nào cháu cũng phải nói. Cháu đă làm những ǵ?”
“Cháu không làm ǵ cả. Chỉ có Alex nó...”
“Alex nó sao?” Bà Kate hỏi gay gắt.
“Cháu xin bà đừng trách nó”. Eve vội vă nói. “Cháu tin chắc rằng nó ở trong một hoàn cảnh không thể cưỡng lại được.Nó thích cái tṛ chơi trẻ con là giả làm cháu. Cháu không biết nó đă làm những chuyện ǵ cho măi đến khi bọn con gái trong trường bắt đầu bàn tán. H́nh như là nó đi lại với rất nhiều bọn con trai”. Đến đây Eve ngưng lại, không nói thêm được nữa, v́ quá bối rối.
“Giả làm cháu à?” Bà Kate choáng váng. “Tại sao cháu không t́m cách ngăn cản nó?”
“Cháu cũng cố hết sức”. Eve ra vẻ khổ sở. “Nó doạ tự tử. Trời, bà ạ, chúa nghĩ rằng Alexandra có tính t́nh hơi...” Nàng làm ra vẻ như cố gắng thốt ra một tiếng – “hơi bất ổn định. Nếu bà nói chút ǵ với nó về chuyện này th́ cháu rất lo sợ không biết nó có thể làm chuyện dại dột ǵ”. Đôi mắt đẫm lệ của Eve lộ vẻ đau khổ rơ rệt.
Bà Kate cảm thấy ḷng ḿnh như nặng trĩu trước vẻ đau khổ sâu sắc của Eve. “Eve ạ cháu đừng có khóc, cháu yêu quư. Bà sẽ chẳng nói ǵ với Alexandra đâu. Câu chuyện này chỉ có bà và cháu biết với nhau thôi”.
“Cháu... cháu không muốn cho bà biết chuyện này. Trời, bà ạ”. Nàng nức nở. “Cháu biết rằng nó làm cho bà buồn ḷng lắm”.
Sau đó, vào giờ uống trà, bà Kate nh́n Alexandra chăm chú. Con bé ấy bề ngoài xinh đẹp ngoan ngoăn thế, nhưng bên trong th́ hư hỏng, thối nát, bà thầm nghĩ. Alexandra dính líu vào những vụ bẩn thỉu như thế đă là một hành động, xấu xa lắm rồi, ấy thế mà nó c̣n t́m cách trút tất cả những lời chê trách lên đầu chị nó nữa! Bà Kate thấy khiếp hăi!
Hai năm kế tiếp đó, Eve và Alexandra hoàn tất việc học ở trường của bà Porter. Eve tỏ ra rất kín đáo. Nàng đă bị khiếp hăi v́ câu chuyện suưt gây nguy hại cho nàng vừa rồi. Nàng không được làm ǵ khả dĩ gây nguy hại đến mối liên hệ với bà nội. Bà già này không c̣n sống lâu nữa. Nay bà đă bảy mươi chín tuổi rồi. Eve quyết sẽ trở thành người thừa kế của bà nội.
Để mừng ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt của các cháu gái bà, bà Kate đưa hai cháu đi Paris để mua cho chúng ít quần áo mới ở hiệu Coco Chanel.
Trong một bữa tiệc nhỏ ở nhà hàng Le Petit Bedouin, Eve và Alexandra gặp bá tước Alfred Maurier và bà vợ là nữ bá tước Vivien. Ông bá tước là một người trạc ngũ tuần, trông có vẻ sang trọng với mái tóc bạc xám và thân thể cứng cáp của một vận động viên thể dục. Vợ ông ta là một người đàn bà vui vẻ và nổi tiếng là hay đăi đằng các khách quốc tế.
Eve không để ư đến cả ông bá tước lẫn bà bá tước, ngoại trừ một câu nhận xét nàng thoáng nghe được do một người nào đó nói với bà bá tước, “Tôi rất ao ước được như bà và ông bá tước. Hai vị là một cặp vợ chồng hạnh phúc nhất. Hai vị lấy nhau bao nhiêu lâu rồi nhỉ? Hai mươi lăm năm rồi phải không?”
“Năm tới là hai mươi sáu”, Alfred đáp. “Và có lẽ tôi là người Pháp duy nhất trong lịch sử không hề bao giờ phản bội vợ ḿnh”.
Mọi người đều cười rộ, trừ Eve. Trong phần c̣n lại của buổi tiệc hôm ấy, nàng nh́n chăm chú ông bá tước và vợ ông ta. Eve không thể tin tưởng được ông bá tước ấy thấy ǵ hấp dẫn ở người đàn bà trung niên có da thịt mềm xèo ấy. Có lẽ ông ta chưa hề bao giờ được biết làm t́nh thực sự là như thế nào. Cái lối khoe khoang của ông ta thật là ngu xuẩn. Bá tước Alfred Maurier là một cuộc thử thách đối với nàng.
Ngày hôm sau, Eve gọi điện thoại cho Maurier tại văn pḥng của ông ta. “Đây là Eve Blackwell. Có lẽ ông không nhớ tôi, nhưng...”.
“Làm sao tôi lại quên cô được, hỡi cô bé. Cô là một trong hai cô cháu gái xinh đẹp của bà bạn tôi. Kate Blackwell”.
“Tôi rất hân hạnh được ông nhớ đến, ông bá tước ạ. Tôi xin lỗi đă quấy rầy ông, nhưng tôi được nghe nói là ông rất sành về các loại rượu vang. Tôi đang chuẩn bị một bữa tiệc cho bà nội tôi”. Nàng phát ra một tiếng cười buồn bă. “Tôi muốn biết nên dọn ra loại rượu nào, nhưng tôi lại không biết ǵ về các loại rượu cả.Ông có thể vui ḷng chỉ bảo cho tôi được không”.
“Tôi rất sẵn ḷng”, ông nói với vẻ khoái trá. “Điều đó tuỳ thuộc vào thức ăn nào cô đang dọn ra. Nếu bắt đầu ăn bằng món cá th́ nên dùng thứ rượu ngon và nhẹ tên là Chablis là thích hợp...”.
“Trời, làm thế nào mà nhớ được những thứ này nhỉ. Hay là tôi đến thăm ông để bàn thêm về chuyện này có được không? Ông có rảnh đến dùng cơm trưa với tôi ngày hôm nay không?”
“Để làm vui ḷng một người bạn cũ th́ tôi chắc có thể thu xếp được”.
“Thế th́ hay quá”. Eve đặt ống nghe xuống chậm răi. Đó sẽ là một bữa ăn trưa mà ông bá tước sẽ phải nhớ đời.
Hai người gặp nhau ở Laserre. Cuộc thảo luận về rượu chỉ ngắn ngủi thôi. Eve lắng nghe bài thuyết tŕnh chán phèo của ông Maurier với vẻ sốt ruột, rồi cắt ngang câu nói của ông ta. “Em mê anh quá, anh Alfred ạ”.
“Em nói rằng em mê anh quá”.
Ông nhắp một hớp rượu. “Một năm được mùa nho”. Ông vỗ nhẹ lên bàn tay của Eve, rồi tủm tỉm cười. “Bạn bè tốt th́ đều mến nhau cả”.
“Em không nói về t́nh yêu bạn bè, Alfred ạ”.
Thế rồi ông bá tước nh́n vào mắt Eve, và biết ngay rằng thứ t́nh yêu mà nàng muốn nói là t́nh yêu ǵ rồi. Ông lo sợ rơ rệt. Cô gái này chỉ mới hai mươi mốt tuổi, mà ông th́ đă quá tuổi trung niên rồi và là một người chồng hạnh phúc. Ông thực sự không hiểu được cái ǵ đă len lỏi vào đầu óc của các cô gái trẻ vào thời buổi này. Ông ngồi đối diện với nàng mà cảm thấy bối rối, không yên. Ông lắng nghe nàng nói, và càng thấy bứt rứt hơn nữa bởi v́ cô gái ấy có lẽ là người đàn bà xinh đẹp nhất, hấp dẫn nhất ông chưa từng gặp. Nàng mặc một chiếc váy xếp nếp màu “beige” và một chiếc áo len xanh mềm làm lộ ra bộ ngực căng phồng. Nàng không đeo nịt ngực nên ông thấy rơ những cái núm trên nhũ bộ nàng nhô lên. Ông nh́n khuôn mặt trẻ ngây thơ mà không biết ăn nói làm sao. “Cô... cô chưa hề biết rơ tôi”.
“Có chứ, em vẫn mơ tưởng đến anh từ ngày em c̣n nhỏ. Em tưởng tượng đến một người đàn ông mặc bộ áo giáp bóng loáng, cao, đẹp trai, và...”.
“Nhưng tôi e rằng bộ áo giáp của tôi hơi bị rỉ sét. Tôi...”.
“Xin anh đừng có chế giễu em nữa”, Eve năn nỉ. “Khi em thấy anh ở bàn tiệc tối hôm qua, em nh́n anh, không thể rời mắt. Em không nghĩ đến chuyện ǵ khác nữa từ lúc ấy. Em đă không ngủ được. Em không thể gạt h́nh ảnh anh ra khỏi đầu óc em dù chỉ trong chốc lát”. Điều này cũng hầu như là đúng.
“Tôi... tôi không biết nói với cô thế nào nữa, Eve ạ. Tôi là một người chồng hạnh phúc. Tôi...”.
“Trời, em không thể nói em thèm muốn được như vợ anh biết chừng nào. Bà ấy là người may mắn nhất trên thế gian này. Không biết bà ấy có nhận thấy như vậy không, Alfred nhỉ”.
“Cố nhiên bà ấy nhận ra điều ấy. Tôi nói với bà luôn luôn như vậy”. Ông tủm tỉm cười với vẻ lo lắng, không biết làm thế nào để xoay sang vấn đề khác.
“Bà ấy có thực sự thích anh không? Bà ấy có biết rằng anh nhạy cảm như thế nào không? Bà ấy có biết lo lắng cho hạnh phúc của anh hay không? Nhưng em th́ quan tâm đến các vấn đề ấy”.
Ông bá tước cảm thấy mỗi lúc mỗi thêm khó xử. Ông nói, “Cô rất xinh đẹp. Rồi một ngày kia cô sẽ gặp được một chàng hiệp sĩ trong chiếc áo giáp sáng loáng, không rỉ sét, rồi th́...”.
“Em đă t́m thấy chàng ấy rồi, và em muốn được ân ái với chàng”.
Ông bá tước nh́n xung quanh, sợ có ai nghe tiếng. “Tôi xin cô, Eve!”.
Nàng vươn người về phía trước.”Em chỉ yêu cầu có từng ấy. Kỉ niệm này sẽ tồn tại với em suốt cả cuộc đời”.
Ông bá tước nói một cách cương quyết, “Không thể thế được. Cô đang đặt tôi vào một t́nh thế hết sức khó xử. Những cô gái trẻ như cô không nên đưa ra những lời gạ gẫm như thế với người lạ mặt”.
Chậm răi, đôi mắt Eve nhoà lệ. “nh nghĩ em như vậy sao? Em gạ gẫm hay sao? Em chỉ biết một người đàn ông duy nhất trên đời. Chúng em đă đính hôn và sắp sửa cưới nhau”. Nàng không cần phải chùi đi những giọt nước mắt. “Anh ấy rất tốt, hiền lành và yêu mến em. Sau đó anh ấy bị chết trong một tai nạn leo núi. Chính mắt em trông thấy, thật là kinh khủng quá”.
Bá tước Maurier đặt một bàn tay lên người nàng. “Tôi rất ân hận”.
“Anh làm em nhớ đến anh ấy. Khi em gặp anh lần đầu tiên, em tưởng như là Bill trở về với em. Nếu anh chỉ dành cho em một giờ thôi, em sẽ không bao giờ quấy rầy anh nũa. Anh sẽ không cần phải gặp em lại lần nữa. Em van anh, anh Alfred!”.
Ông bá tước nh́n Eve một hồi lâu, như cân nhắc phải giải quyết như thế nào.
Dù thế nào đi chăng nữa, ông cũng là một người Pháp.
Hai người ở cùng nhau suốt một buổi trưa ở một khách sạn nhỏ trên đường Sainte Anne. Trong tất cả các kinh nghiệm của ông trước khi ông lập gia đ́nh, bá tước Maurier chưa hề bao giờ ăn nằm với ai giống như Eve. Nàng là một cơn gió lốc, một vị nữ thần xinh đẹp, một con quỷ sứ. Nàng biết quá nhiều. Đến cuối trưa hôm ấy, Bá tước Maurier hoàn toàn kiệt sức.
Trong khi hai người đang mặc quần áo, Eve nói, “Khi nào th́ em có thể gặp lại anh, anh yêu quư?”
“Anh sẽ gọi điện thoại cho em”, Maurier nói.
Ông không dự tính gặp lại cô gái này nữa. Nàng có vẻ ǵ đó làm cho ông khiếp hăi – một cái ǵ xấu xa tội lỗi. Nàng là thứ mà người Mỹ gọi là “bad news” (tin xấu), nên ông không có ư định dính líu với nàng nhiều hơn nữa.
Câu chuyện này lẽ ra đến đó là chấm dứt, nếu hai người không bị bà Alicia Vanderlake trông thấy khi họ cùng nhau rời khỏi khách sạn. Bà Alicia Vanderlake là người đă từng làm việc trong một uỷ ban từ thiện chung với bà Kate Blackwell năm ngoái. Bà là một người bon chen, nên dịp này là một thứ thang trời giúp cho bà thăng tiến. Bà đă thấy các bức h́nh của ông bà bá tước Maurier trên mặt báo, và cũng nh́n thấy h́nh các cô cháu gái song sinh của bà Blackwell. Bà Vanderlake biết nhiệm vụ của bà nên đặt ở đâu rồi. Bà liền giở cuốn điện thoại riêng t́m số điện thoại của bà Blackwell.
Người quản gia trả lời điện thoại. “Bonjour!”.
“Tôi muốn nói chuyện với bà Blackwell”.
“Xin cho tôi biết ai đang gọi?”
“Bà Vanderlake. Đây là một vấn đề riêng”.
Một phút sau, bà Kate Blackwell ở máy điện thoại. “Ai đó?”
“Đây là Alicia Vanderlake, bà Blackwell ạ. Tôi chắc bà vẫn c̣n nhớ tôi. Chúng ta cùng làm việc trong cùng một uỷ ban vào năm ngoái”.
“Nếu bà muốn quyên tiền th́ xin gọi...”
“Không, không”, bà Alicia Vanderlake vội nói. “Đây là vấn đề riêng tư về cô cháu gái của bà đấy”.
Chắc bà Kate sẽ mời bà ta đến dùng trà để hai người cúng bàn về vấn đề ấy, giữa đàn bà với nhau. Đó sẽ là bước đầu cho một t́nh bạn nồng thắm giữa hai người.
Bà Kate nói. “Có chuyện ǵ về nó vậy?”
Bà Vanderlake không có ư định bàn về chuyện này trên điện thoại nhưng giọng không có vẻ thân thiện lắm của bà Kate khiến cho bà ta không c̣n lựa chọn nào khác. “Vâng, tôi nghĩ rằng tôi có bổn phận nói cho bà biết rằng cách đây ít phút tôi thấy cô ấy lén lút rời khỏi một khách sạn với Bá tước Alfred Maurier. Rơ ràng đó là một cuộc hẹn ḥ bất chính”.
Giọng bà Kate lạnh như nước đá.” Tôi thấy điều này khó tin lắm. Cô cháu nào trong hai đứa cháu của tôi?”
Bà Vanderlake cười với vẻ không chắc chắn. “Tôi... tôi không biết. Không thể phân biệt được hai cháu gái của bà. Mà ai có thể phân biệt được phải thế không?”
“Cảm ơn bà đă cho biết tin này”. Kate đặt điện thoại xuống.
Bà đứng ngay tại chỗ, cố suy nghĩ về tin bà mới nghe được. Chỉ mới tối qua, họ dùng cơm tối với nhau. Bà Kate đă quen biết Alfred Maurier từ mười lăm năm nay, và những ǵ bà vừa nghe được hoàn toàn không phù hợp với tính t́nh của ông ta và không thể tưởng tượng được. Thế nhưng, đàn ông nào cũng dễ động ḷng nếu Alexandra đă t́m cách để dụ dỗ ông Alfred vào giường ngủ th́...
Bà nhấc điện thoại lên, gọi tổng đài, Tôi muốn gọi điện thoại sang Thuỵ Sĩ, Trường Fernwood, ở Lausanne”.
Khi Eve trở về nhà xế trưa hôm ấy, nàng đỏ mặt v́ thoả măn, không phải v́ nàng thấy vui thú về việc ân ái với Bá tước Maurier mà chính là v́ nàng đă chiến thắng ông ta. Nếu ḿnh có thể chiếm đoạt ông ta dễ dàng như thế th́ ḿnh có thể chiếm đoạt bất cứ ai. Ḿnh sẽ làm chủ cả thế giới, Eve thầm nghĩ. Nàng bước vào thư viện th́ thấy bà Kate đang ngồi ở đấy.
“Chào bà ạ. Ngày hôm nay bà có thấy vui không?”
Kate đứng nh́n đứa cháu nội duyên dáng. “Không vui lắm. Thế c̣n cháu?”
“Ồ, cháu đă mua sắm ít thứ. Không gặp được thứ ǵ cháu thích cả. Bà đă mua cho cháu đủ mọi thứ rồi. Bà lúc nào cũng...”
“Đóng cửa lại, Eve”.
Giọng nói của bà có vẻ như cảnh cáo. Eve đóng cánh cửa bằng gỗ sồi lại.
“Ngồi xuống”.
“Có chuyện ǵ không hay chăng thưa bà?”
“Cái ấy th́ cháu nói cho bà nghe mới đúng. Bà đă dự tính mời Alfred Maurier lại đây, nhưng rồi bà quyết định tránh cho chúng ta tất cả sự nhục nhă ấy”.
Đầu óc Eve bắt đầu quay cuồng. Thật vô lí! Chẳng có ai biết được về chuyện nàng với Alfred Maurier. Nàng chỉ mới chia tay với ông ta một giờ trước đó.
“Cháu... cháu không hiểu được bà đang nói ǵ”.
“ Vậy th́ để ta nói thẳng ra cho mà biết. Cháu ngủ với Alfred Maurier trưa hôm nay phải không?”
Những giọt nước mắt như vọt ra khỏi mắt Eve. “Cháu... cháu hi vọng rằng bà sẽ không bao giờ biết được những ǵ hắn đă làm với cháu, bởi v́ hắn là bạn của bà”. Eve cố nói không vấp váp. “Thật kinh tởm quá. Hắn điện thoại cho cháu, mời cháu ăn cơm, phục rượu cho cháu say, rồi…”
“Câm mồm đi!” Giọng bà Kate như một con roi quất vào người. Mắt bà tràn ngập vẻ ghê tởm. “Mày thật đáng khinh bỉ”.
Bà Kate trải qua giờ phút đau đớn nhất trong đời bà, khi bà bắt đầu nhận ra được sự thật về đứa cháu gái. Bà vẫn c̣n nghe văng vẳng lời bà hiệu trưởng, “Thưa bà Blackwell, con gái nào th́ cũng là con gái, v́ vậy nếu chúng có một mối t́nh kín đáo th́ đó không phải là vấn đề của tôi. Thế nhưng Eve nó ngủ bậy bạ một cách quá trâng tráo, cho nên v́ lợi ích của nhà trường...”
Thế mà Eve lại trút tất cả tội lỗi lên đầu Alexandra.
Bà Kate nhớ lại các tai nạn đă xảy ra. Vụ Alexandra suưt chết cháy. Vụ Alexandra ngă từ vách núi, Alexandra bị hất ngă ra khỏi thuyền buồm có Eve ngồi trên ấy, suưt bị chết ch́m. Bà c̣n nghe tiếng Eve kể lại vụ “hiếp dâm” do ông thầy dạy Anh văn: ông Parkinson nói ông muốn bàn luận với cháu về bài Anh văn. Ông yêu cầu cháu đến nhà ông vào trưa thứ bảy. Khi cháu đến đấy, ông ấy ở nhà một ḿnh. Ông bảo ông muốn cho cháu xem cái ǵ đó trong buồng ngủ ông ấy. Theo ông lên cầu thang. Ông đè cháu xuống giường, rồi ông...
Bà nhớ đến chuyện xảy ra ở Briancrest, khi Eve bị buộc tội là bán cần sa, rồi tội lỗi ấy lại bị trút lên đầu Alexandra. Eve đă không trách cứ Alexandra, mà lại bênh vực cho nó. Đó là cái mánh khoé của Eve. Nó là một kẻ xấu xa, nhưng lại đóng vai tṛ một kẻ anh hùng. Trời, thật là xảo quyệt!
Lúc này, bà Kate nh́n chăm chú con quỷ sứ xinh đẹp với nét mặt thiên thần đang đứng trước mặt bà. Ta xây dựng tất cả các dự tính tương lai xung quanh ngươi. Chính ngươi sẽ là kẻ nắm quyền điều khiển Kruger-Brent một ngày nào đó. Chính ngươi là kẻ mà trước đây ta yêu quư, nâng niu. Bà nói: “Tao muốn mày rời khỏi ngôi nhà này. Tao không muốn nh́n mặt mày nữa”.
Mặt Eve tái hẳn lại.
“Mày là một con đĩ. Tao nghĩ tao cũng có thể chịu đựng được điều ấy. Nhưng mày lại lừa đảo, xảo quyệt, lại mắc phải cái bệnh dối trá. Tao không thể chịu đựng được cái tính như vậy”.
Tất cả mọi sự diễn ra quá nhanh. Eve nói với vẻ đau khổ, “Bà ạ nếu Alexandra đă nói với bà những điều dối trá về cháu th́...”.
“Alexandra không biết chút ǵ về chuyện này. Tao vừa nói chuyện rất lâu với bà Collins”.
“Chỉ có thế thôi sao?” Eve cố làm ra vẻ như vừa trút ra khỏi một gánh nặng, qua giọng nói. “Bà Collins ghét cháu v́...”.
Bà Kate đột nhiên tỏ vẻ chán ngán, mệt mỏi. “Cái lối nói ấy không c̣n hiệu quả ǵ nữa đâu, Eve ạ. Dẹp nó đi. Hết rồi. Tao đă cho mời ông luật sư đến, và sẽ tước quyền thừa kế của mày”.
Eve cảm thấy như thế giới sụp đổ xung quanh nàng. “Bà không thể làm như thế được. Như thế th́ cháu sẽ sống bằng cách nào?”
“Mày sẽ được một khoản trợ cấp nhỏ. Từ nay trở đi, mày sẽ sống tự lập. Mày muốn làm ǵ th́ làm”. Giọng bà Kate trở nên cứng rắn. “Nhưng nếu tao c̣n nghe hay đọc thấy một lời nào về những vụ tai tiếng của mày, nếu mày làm ô danh gia đ́nh Blackwell bằng cách nào đó, th́ tao sẽ ngưng luôn khoản trợ cấp ấy. Nghe rơ chưa?”
Eve nh́n vào mắt bà nội, và biết rằng lần này th́ không có sự hoăn lại việc thi hành quyết định này. Hàng chục cái cớ để tự bênh vực vọt lên đến môi nàng nhưng đều tắt ngay đi ở đó.
Bà Kate đứng dậy, nói bằng một giọng run run, “Tao không biết điều này có một ư nghĩa ǵ đối với mày hay không, nhưng đối với tao, đó là một việc khó khăn nhất mà tao đă quyết định phải làm trong đời tao”.
Bà quay lưng lại, bước ra khỏi pḥng, lưng bà cứng nhắc và thẳng băng.
Kate ngồi trong căn pḥng tối tăm, tự hỏi v́ sao mà mọi thứ đều diễn ra tệ hại đến như vậy.
Nếu David không chết v́ tai nạn, và Tony được quen biết bố nó.....
Nếu Marianne c̣n sống...
NẾU. Một từ chỉ gồm có ba chữ cái để nói lên cái mơ ước hăo huyền.
Tương lai làm bằng đất sét để có thể nặn ra ngày này qua ngày khác, nhưng qua khứ là nền đá cứng, không thể thay đổi h́nh dạng. Tất cả những người ḿnh yêu đă phản bội ḿnh. Tony, Marianne, Eve. Sarter đă nói rất đúng: “Địa ngục là những kẻ khác”. Bà tự hỏi không bao giờ nỗi đau đớn của bà mới tan đi được.
Nếu bà Kate cảm thấy nỗi đau đớn tràn ngập, th́ Eve cảm thấy tràn ngập nỗi giận dữ. Tất cả những ǵ nàng làm là để vui hưởng một vài giờ ân ái, thế mà bà nội lại coi như nàng đă phạm một ác không thể diễn tả được! Thật là một con mụ độc ác xưa cổ! Không, không phải xưa cổ mà là “già nua”. Đúng vậy, bà đă suy yếu v́ tuổi già. Eve sẽ t́m một luật sư tài giỏi và sẽ làm cho bản chúc thư mới của bà bị huỷ bỏ trước toà án. Cha nàng và bà nội nàng đều là những người mất trí. Không ai có quyền tước bỏ quyền thừa kế của nàng. Kruger-Brent là công ty của nàng. Đă bao nhiêu lần, bà nội tuyên bố rằng một ngày kia công ty ấy sẽ thuộc về nàng. C̣n Alexandra nữa! Trong suốt thời gian này, Alexandra đă hăm hại nàng. Không biết nó đă th́ thầm những ǵ để đầu độc các lỗ tai của bà nội. Hắn muốn chiếm lấy công ty làm của riêng. Điều kinh khủng nhất vào lúc này là hắn có lẽ sẽ chiếm đoạt được công ty ấy. Những ǵ vừa xảy ra trưa nay đă tệ hại lắm rồi, nhưng ư tưởng là Alexandra sẽ chiếm đoạt quyền kiểm soát công ty th́ thật không làm sao chịu nổi. Ḿnh không thể để cho chuyện ấy xảy ra. Ḿnh sẽ t́m cách ngăn chặn lại. Nàng đóng các khoá trên va li lại, rồi t́m em gái.
Alexandra đang ngồi đọc sách trong vườn. Nàng ngẩng đầu lên khi Eve bước lại gần.
“Alexandra ạ chị quyết định trở lại New York”.
Alexandra nh́n chị với vẻ ngạc nhiên. “Bây giờ sao? Bà nội đang dự tính cho chúng ḿnh đi du thuyền dọc bờ biển Dalmatian vào tuần sau kia mà”.
“Ai cần đi chơi dọc bờ biển? Chị đă suy nghĩ nhiều về chuyện này rồi. Bây giờ đă đến lúc chị phải có riêng một căn hộ rất đẹp để ở, và nếu em tốt với chị, chị sẽ cho em thỉnh thoảng ở lại đêm tại đó”. Nói như thế là đúng, Eve thầm nghĩ. Thân mật, nhưng không bộc lộ t́nh cảm quá nhiều. Đừng có để cho nó biết ḿnh đă rơ được ư định của nó.
Alexandra nh́n chị nó chằm chằm với vẻ lo lắng. “Thế bà nội đă biết chưa?”
“Chị đă nói với bà nội trưa nay. Dĩ nhiên là bà không hài ḷng nhưng bà hiểu. Chị muốn có một việc làm, nhung bà cứ nhất thiết đ̣i tặng chị một khoản trợ cấp”.
Alexandra hỏi, “Chị có muốn em cùng đi với chị không?”.
Mẹ kiếp, cái con đàn bà hai mặt này! Thoạt tiên, nó làm áp lực buộc nàng phải ra khỏi nhà, bây giờ nó lại vờ muốn đi với nàng. Được rồi, họ không thể vứt bỏ Eve này dẽ dàng như vậy đâu. Ḿnh sẽ tỏ rơ cho họ biết. Nàng sẽ có một căn hộ của riêng ḿnh nàng sẽ t́m một nhà trang trí tài giỏi để làm công việc này – rồi nàng sẽ được hoàn toàn tự do đi đi về về tuỳ thích. Nàng sẽ mời bạn trai đến pḥng nàng, dụ họ ngủ đêm tại đó. Nàng sẽ được tự do thực sự lần đầu tiên trong đời ư nghĩ này khiến ḷng nàng cảm thấy phơi phới.
Váo lúc này nàng nói với Alexandra, “Em nói như thế là rất tử tế, Alexandra ạ, nhưng chị muốn ở riêng một ḿnh một thời gian đă”.
Alexandra nh́n chị, cảm thấy một sự mất mát sâu sắc. Đây là lần đầu tiên hai chị em phải xa nhau. Nàng nói, “Vậy th́ chúng ta sẽ gặp nhau luôn nhé?”.
“Dĩ nhiên là như vậy”, Eve hứa,”Gặp nhau nhiều hơn là em nghĩ đấy”.


Chương 26

Khi Eve trở lại New York, nàng thuê một căn pḥng trong khách sạn ở vùng giữa thành phố, như đă được chỉ dẫn. Một giờ sau, Brad Rogers gọi điện thoại cho nàng.
“Bà nội cô vùa gọi điện thoại từ Paris, Eve ạ. H́nh như có chuyện xích mích ǵ giữa cô và bà nội”
“Không hẳn thế”, Eve cười to. “Chỉ là vấn đề nhỏ trong gia đ́nh”. Nàng sắp sửa tung ra một cuộc chống chế tỉ mỉ, bổng nàng nhận ra được mối nguy hiểm nếu làm như vậy. Từ nay trở đi, nàng phải rất cẩn thận. Xưa nay, nàng chưa hề phải suy nghĩ về đồng tiền. Nhưng bây giờ nó hiện ra lù lù trong đầu óc nàng. Nàng chưa biết số tiền trợ cấp cho nàng là bao nhiêu, và lần đầu tiên trong đời, nàng cảm thấy lo sợ.
“Bà ấy có bảo cho cô biết rằng một bản chúc thư mới sẽ được soạn thảo, có phải vậy không?”
“Phải, bà có nhắc sơ sơ đến chuyện ấy”, nàng quyết phải tỏ ra lạnh nhạt.
“Tôi nghĩ có lẽ chúng ta nên gặp nhau để bàn về vấn đề này. Thứ hai này vào lúc ba giờ, được không?”
“Được, bác Brad ạ”
“Tại văn pḥng tôi nhé. Được không?”.
“Tôi sẽ có mặt ở đấy”.
Vào lúc ba giờ kém năm, Eve đi vào toà nhà Kruger-Brent. Nàng được đón tiếp một cách kính cẩn bởi viên bảo vệ an ninh, người bấm nút thang máy, và cả người gác thang máy nữa. Tất cả mọi người đều biết ḿnh. Eve thầm nghĩ. Ḿnh là một Blackwell. Chiếc thang máy đưa nàng đến tầng lầu của ban lănh đạo công ty, và một lát sau, Eve ngồi trong văn pḥng của Brad Rogres.
Brad rất ngạc nhiên khi nhận được điện thoại của bà Kate cho biết rằng bà sẽ tước quyền thừa kế của Eve, v́ ông biết rằng bà ta yêu thương đặc biệt cô cháu gái này và đă có nhiều dự tính dành cho cô ta. Brad không thể nào tưởng tượng ra được chuyện ǵ đă xảy ra. Dẫu sao, đó không phải là công việc của ông. Nếu Kate muốn bàn luận với ông về vấn đề ấy th́ ông cũng sẵn ḷng. Công việc của ông là thực hiện các lệnh của bà Kate. Ông cảm thấy một sự thương hại thoáng qua đối với cô con gái dễ thương đang ngồi trước mặt ông. Kate lúc gặp ông lần đầu tiên, vào thời xa xưa ấy, cũng trạc tuổi người con gái này, và ông lúc ấy cũng không già hơn bao nhiêu. Nhưng bây giờ, tuy ông đă già, tóc đă bạc, ông vẫn hi vọng rằng một ngày nào đó Kate Blackwell sẽ nhận thức rằng có kẻ nào đó vẫn c̣n yêu bà sâu đậm.
Ông nói với Eve, “Tôi có ít giấy tờ để cô kí. Xin cô đọc cho kĩ đă, rồi...”
“Điều đó không cần thiết”.
“Eve ạ, cái này quan trọng lắm. Cô cần phải hiểu đă”. Thế rồi ông bắt đầu giải thích, “Theo chúc thư của bà nội cô, cô là người thụ hưởng một quỹ kí thác không thể huỷ bỏ, hiện nay đă trên năm triệu đô la. Bà nội cô là người sử dụng quỹ này. Tuỳ theo ư muốn của bà ấy, số tiền ấy có thể trả cho cô bất cứ lúc nào từ tuổi hai mươi mốt đến ba mươi lăm”. Ông đằng hắng giọng, “Bà ấy quyết định sẽ trao số tiền ấy cho cô khi nào cô ba mươi lăm tuổi”.
Thật là một cái tát vào giữa mặt.
“Bắt đầu từ hôm nay, cô sẽ nhận được một khoản trợ cấp hằng tuần là hai trăm năm mươi đô la”
Thật vô lí! Một chiếc áo dài coi được cũng đắt hơn số tiền ấy. Làm thế nào nàng sống được với 250 đô la một tuần? Điều này chỉ nhằm mục đích hạ nhục nàng thôi. Lăo khốn kiếp này có lẽ toa rập với bà nội nàng trong vụ này. Lăo ấy đang ngồi sau chiếc bàn viết, cười cười ra vẻ thích thú lắm. Nàng chỉ muốn nhặt miếng chặn giấy bằng đồng trước mặt lăo và nện lên đầu hắn. Nàng cảm thấy như nghe tiếng xương sọ của lăo vỡ lạo xạo dưới tay nàng.
Brad vẫn tiếp tục nói với giọng đều đều. “Từ nay cô không được mua hàng chịu nữa, để thoả măn nhu cầu riêng tư hay v́ mọi lí do khác, và cũng không được dùng danh nghĩa gia đ́nh Blackwell để mua sắm ở các cửa hiệu. bất cứ thứ ǵ cô mua đều phải trả bằng tiền mặt”.
Cơn ác mộng mỗi lúc mỗi trở nên tệ hại hơn.
“Tiếp theo nữa, nếu có bất ḱ lời bàn tán nào liên hệ đến tên cô trên nhật báo hay tạp chí – trong nước hay ngoài nước – th́ số tiền trợ cấp hằng tuần này cũng sẽ bị ngưng lại. Cô rơ rồi chứ?”
“Vâng”. Giọng nói của nàng nghe như tiếng th́ thầm.
“Cô và em cô là Alexandra được cấp giấy bảo hiểm sinh mạng của bà nội các cô, giá trị năm triệu đô la cho mỗi người. Giấy bảo hiểm về phần cô đă bị huỷ bỏ bắt đầu từ sáng hôm nay. Đến cuối năm, nếu bà nội cô cảm thấy hài ḷng về cô, tiền trợ cấp hằng tuần của cô sẽ được tăng gấp đôi”. Ông do dự một lát rồi nói tiếp. “C̣n một điều khoản cuối cùng nữa”.
Bà ấy lại muốn treo ḿnh lên trước công chúng đây.
“Vâng?”
Brad Rogers trông có vẻ hơi bối rối. “Bà nội cô không bao giờ c̣n muốn gặp lại cô nữa, cô Eve ạ”
Nhưng mà, tôi muốn gặp lại bà lần nữa, bà già ạ. Eve nhủ thầm. Tôi muốn trông thấy bà chết trong sự đau đớn.
Giọng nói của Brad như nhỏ giọt vào đầu óc đang sôi sùng sục của Eve. “Nếu cô có gặp điều ǵ khó khăn, cứ điện thoại cho tôi. Bà nội cô không muốn cô bén mảng đến toà nhà này nữa hay đến thăm bất cứ tài sản nào của công ty”.
Về vấn đề này, Brad đă tranh luận với bà Kate. “Lạy Chúa! Cô ấy là cháu nội của bà mà. Nó là máu và thịt của bà. Thế mà bà đối xử với nó như là cùi hủi”
“Chính nó là cùi hủi”
Thế là cuộc bàn căi chấm dứt.
Lúc này, Brad nói một cách ngượng nghịu, “Thôi được, như thế là tôi đă cho cô biết tất cả mọi sự. Cô c̣n có câu hỏi ǵ nữa không, cô Eve?”
“Không”. Nàng đang bị xúc động mănh liệt.
“Vậy th́ cô hăy kí vào các giấy tờ này”.
Mười phút sau, Eve đi xuống dường phố, với một tấm ngân phiếu 250 đô la trong túi.

*
* *
Sáng ngày hôm sau, Eve đến gặp một nhân viên nhà đất và bắt đầu t́m một căn hộ. Trong trí tưởng tượng của nàng, nàng nghĩ đến một dăy buồng đẹp đẽ ở tầng lầu cao, nh́n xuống công viên Central Park, sơn màu trắng với những đồ đạc tối tân và một sân thượng để làm nơi đăi đằng khách khứa. Sự thật đến với nàng như một cú đánh làm xây xẩm mặt mày. Dường như không có dăy buồng nào ở đường Park Avenue dành cho một người với lợi tức 250 đô la một tuần cả. Nơi mà nàng có thể thuê được chỉ là một căn hộ một pḥng ở Little Italy với một cái đi văng dùng làm giường nằm, một cái góc thụt mà viên phụ trách nhà đất gọi cho đẹp đẽ là “thư viện”, một cái bếp nhỏ và một pḥng tắm xinh xắn lát gạch men hoen ố.
“Có... có phải đây là nơi tốt nhất mà ông có hay không?” Eve hỏi.
“Không”, y nói, “Tôi có một ngôi nhà giữa phố, gồm hai mươi pḥng, trên đường Sulton Place, giá nửa triệu đô la, thêm tiền bảo tŕ”.
Đồ khốn kiếp! Eve thầm nghĩ.
*
* *
Nhưng nỗi tuyệt vọng thật sự chỉ đến với Eve vào trưa hôm sau, khi nàng mới dọn đến. Nơi ở này đúng là một nhà tù. Pḥng trang điểm của nàng ở nhà rộng bằng toàn thể căn hộ này. Nàng nghĩ đến Alexandra ở sung sướng trong ngôi nhà đồ sộ ở Đại lộ thứ Năm. Lạy Chúa, v́ sao trước kia Alexandra không bị chết cháy cho rồi? Chỉ suưt chút nữa là nàng đă thành công rồi! Nếu Alexandra chết, và nàng, Eve, là người thừa kế duy nhất th́ đâu đến nổi này? Bà nội nàng ắt không dám tước quyền thừa kế của nàng.
Nhưng nếu bà Kate Blackwell tưởng rằng Eve sẽ từ bỏ quyền thừa kế của nàng dễ dàng như thế th́ bà chưa hiểu được cháu gái của bà. Eve không có ư định sống với 250 đô la một tuần lễ. Có năm triệu đô la thuộc về nàng c̣n nằm tại ngân hàng, mà bà già độc ác ấy vẫn c̣n giữ lại, không cho nàng sờ đến. Nhưng chắc chắn phải có cách lấy được số tiền ấy. Ḿnh phải t́m cho ra cách ấy.
Giải đáp cho vấn đề này đến với nàng ngày hôm sau.
*
* *
“Thưa cô Blackwell, tôi có thể giúp ǵ cho cô?”. Alvin Seagram hỏi Eve một cách kính cẩn. Ông là phó chủ tịch ngân hàng National Union, và thực sự ông sẵn sàng làm hầu như bất cứ thứ ǵ cho Eve. Ngọn gió may mắn nào đă đưa cô gái này đến với ông? Nếu ông có thể nắm được trương mục của Kruger-Brent, hay một phần của nó mà thôi, sự nghiệp của ông sẽ lên cao như hoả tiễn.
“Tôi có một số tiền kí thác cho tôi”. Eve giải thích. “Năm triệu đô la. Theo các quy tắc đă được ấn định cho việc kí thác này, tôi chỉ nhận được số tiền ấy vào lúc ba mươi lăm tuổi”, nàng tủm tỉm cười một cách ngây thơ. “Từ đây đến đó có vẻ lâu quá”
“Ở tuổi cô bây giờ th́ điều đó cũng đúng”, ông Seagram mỉm cười. “Cô... mười chín tuổi, phải không?”
“Không, hai mươi mốt”
“Mà lại xinh đẹp nữa, xin phép cô cho tôi nói như vậy, thưa cô Blackwell”.
Eve cười bẽn lẽn. “Cảm ơn ông Seagram”. Câu chuyện này chắc sẽ đơn giản hơn là ḿnh nghĩ. Eve tự nhủ. Lăo này là một thằng ngốc.
Seagram cũng cảm thấy mối thiện cảm giữa hai người. Cô ấy có vẻ thích ḿnh đây. “Thưa cô, nói cụ thể ra th́ tôi có thể giúp ích ǵ được cho cô?”
“Vâng, tôi không biết ông có thể nào cho tôi mượn một số tiền ứng trước, lấy số ngân quỹ kí thác của tôi làm bảo đảm được không? Chắc ông cũng biết, tôi cần tiền ấy bây giờ hơn là sẽ cần nó về sau này. Tôi đă hứa hôn và sắp đến ngày cưới. Vị hôn phu của tôi là một kĩ sư xây dựng làm việc ở Israel, và anh ấy phải ba năm nữa mới trở lại nơi này”.
Alvin Seagram tỏ vẻ rất thông cảm. “Tôi đă hiểu rất rơ”. Tim ông đập th́nh th́nh. Tất nhiên, ông có thể thoả măn lời yêu cầu của nàng. Tiền bạc vẫn thường ứng trước khi đă có ngân khoản kí thác. Và khi ông thoả măn được yêu cầu của nàng, nàng sẽ giới thiệu cho ông những thành viên khác của gia đ́nh Blackwell và ông cũng sẽ thoả măn họ. Sau đó th́ sẽ không có ǵ ngăn cản ông được nữa. Ông sẽ trở thành một thành viên của ban lănh đạo ngân hàng National Union. Có lẽ một ngày kia ông sẽ lên ghế chủ tịch. Tất cả điều này là nhờ ở cô gái tóc hoe bé nhỏ và xinh đẹp đang ngồi ở phía bên kia bàn giấy của ông.
“Không có vấn đề khó khăn nào cả”, Alvin Seagram cam đoan với Eve. “Đó chỉ là một vụ giao dịch đơn giản. Cô cũng hiểu rằng chúng tôi không thể cho cô vay toàn thể số tiền, nhưng chúng tôi có thể để cô vay ngay lập tức một số tiền, chẳng hạn như một triệu đô la. Như vậy đă đủ chưa?”
“Rất đủ”, Eve nói, cố không bộc lộ nỗi vui sướng.
“Vậy th́ tốt. Xin cô cho biết các chi tiết về ngân quỹ kí thác”, ông nhặt ng̣i bút lên.
“Ông có thể tiếp xúc với ông Brad Rogers ở Kruger-Brent. Ông ấy sẽ cung cấp các chi tiết ông cần”.
“Tôi sẽ gọi điện thoại đến ông ấy ngay”
Eve đứng dậy, “Cần phải đợi bao nhiêu lâu?”
“Không quá một vài ngày. Tôi sẽ tự tay làm gấp”
Nàng đưa bàn tay xinh đẹp, nhỏ nhắn, “Ông rất tốt”.
Ngay lúc Eve vừa bước ra khỏi pḥng làm việc, Alvin Seagram nhặt lấy điện thoại. “Cho tôi gặp ông Brad Rogers ở Công ty hữu hạn Kruger-Brent”. Ngay đến cái tên này cũng đủ làm cho xương sống ông rung lên một cảm giác sung sướng.
*
* *
Hai ngày sau, Eve trở lại ngân hàng và được dẫn đến văn pḥng của Alvin Seagram. Câu nói đầu tiên của ông này là: “Tôi e rằng không thể giúp được cô, cô Blackwell ạ”.
Eve không thể tin nổi những ǵ cô vừa nghe. “Tôi không hiểu. Chính ông đă nói rằng vấn đề này đơn giản mà. Ông bảo rằng...”.
“Tôi xin lỗi. Lúc ấy tôi chưa nắm được các sự kiện...”
Ông c̣n nhớ rất rơ cuộc nói chuyện với Brad Rogers. “Vâng, quả thật có một ngân quỹ năm triệu đô la được kí thác dưới tên Eve Blackwell. Ngân hàng của ông có thể tự do ứng trước bao nhiêu cũng được, căn cứ vào ngân quỹ ấy. Thế nhưng, tôi cũng cần phải cảnh cáo cho ông biết rằng bà Kate Blackwell sẽ coi việc này như là một hành động không thân thiện”.
Brad Rogers không cần phải nói rơ ra những hậu quả sẽ như thế nào. Kruger-Brent có những bạn bè đầy quyền lực ở khắp mọi nơi. Và nếu các bạn bè ấy bắt đầu rút tiền ra khỏi National Union th́ Alvin Seagram không cần phải dự đoán những điều tai hại sẽ lớn lao như thế nào cho sự nghiệp của ông.
“Tôi xin lỗi”, ông lặp lại câu nói với Eve. “Tôi không thể làm ǵ được”.
Eve nh́n ông ta, tỏ vẻ rất thất vọng. Nhưng nàng không để cho anh chàng ấy biết cái cú đánh ông ta vừa giáng xuống đầu nàng mạnh mẽ như thế nào. “Xin cảm ơn ông đă bận tâm về việc này. C̣n có nhiều ngân hàng ở New York nữa. Xin chào ông”.
“Thưa cô Blackwell”, Alvin Seagram nói. “Không có một ngân hàng nào trên thế giới sẵn sàng cho cô vay một xu nhỏ với ngân quỹ kí thác ấy”.
*
* *
Alexandra cảm thấy bối rối, không làm sao hiểu được. Trước kia, bà nội đă bày tỏ bằng mọi cách rằng bà mến chuộng Eve. Bây giờ, chỉ qua một đêm, mọi sự đều thay đổi cả. Nằng biết rằng đă có sự ǵ ghê gớm xảy ra giữa bà nội và Eve, nhưng không hiểu đó là chuyện ǵ.
Mỗi khi Alexandra cố đưa vấn đề này ra th́ bà nội nói, “Chẳng có ǵ bàn căi cả. Eve nó chọn cuộc sống riêng cho nó”.
Alexandra cũng chẳng biết được ǵ thêm qua Eve.
Kate Blackwell bắt đầu dành nhiều thời giờ hơn với Alexandra. Alexandra rất lấy làm ngạc nhiên. Nàng không những đối diện với bà luôn luôn, mà đă trở thành một thành phần thực sự trong đời sống của bà, giống như thể là bà nội mới nh́n thấy nàng lần đầu tiên vậy. Alexandra có cảm giác ḱ lạ là ḿnh đang được xem xét, đánh giá.
Kate quả thực trông thấy cô cháu gái của bà lần đầu tiên, nhưng bởi v́ bà đă bị lừa gạt một cách cay đắng nên bà phải dè dặt gấp đôi trước kia trong việc nhận định về cô gái song sinh với Eve. Bất cứ khi nào được rảnh rỗi, bà ngồi với Alexandra, ḍ hỏi, chất vấn và lắng nghe nàng nói. Cuối cùng, bà cảm thấy hài ḷng.
Thật ra không dễ ǵ hiểu được Alexandra. nàng là con người kín đáo, và dè dặt hơn Eve. Nàng có trí thông minh, lanh lẹn, và vẻ ngây thơ của nàng, phối hợp với sắc đẹp, khiến cho nàng càng thêm dễ mến. Nàng vẫn hay nhận những lời mời mọc nhiều vô kể để tham dự vào các buổi tiệc tùng, dạ hội và xem hát, nhưng vào lúc này chính bà Kate quyết định nàng nên chấp nhận nơi nào và từ chối nơi nào. Vấn đề t́m một chàng trai môn đăng hộ đối cũng chưa đủ hay gần như chưa đủ. Điều mà bà Kate đang t́m cho Alexandra là một người có thể giúp cho nàng tiếp tục triều đại của bà. Bà không nói ǵ với Alexandra về điều này. C̣n có nhiều th́ giờ để cho bà t́m được một người xứng đôi vừa lứa. Đôi khi, vào những buổi sáng sớm, khi Kate cảm thấy khó ngủ, bà nằm nghĩ đến Eve.
*
* *
Cuộc sống của Eve tiến triển khá tốt đẹp. Câu chuyện xảy ra với bà nội đă làm thương tổn “cái tôi” của nàng một cách nặng nề, đến nỗi nàng đă quên đi một điều rất quan trọng. Nàng đă quên hẳn rằng nàng rất hấp dẫn đối với đàn ông. Trong một bữa tiệc đầu tiên, sau ngày dọn đến căn hộ mới, nằng đă cho số điện thoại của nàng cho sáu chàng trai – bốn người trong số ấy đă có gia đ́nh – và chỉ trong ṿng hai mươi bốn giờ đồng hồ, nàng đă nhận được sự đáp ứng của tất cả sáu người. Từ ngày ấy, Eve biết rằng nàng không cần phải lo lắng ǵ nữa về vấn đề tiền bạc. Người ta gửi quà tặng đến cho nàng như mưa rào: những thứ nữ trang đắt tiền, những bức tranh quư và nhất là tiền mặt.
“Tôi vừa mới đặt mua một chiếc tủ chè, nhưng ngân phiếu về khoản trợ cấp của tôi chưa đến nơi. vậy có phiền anh lắm không, anh yêu quư”.
Nhưng, họ chẳng có ǵ phiền ḷng cả.
Khi Eve đi ra chỗ công cộng, nàng phải xếp đặt làm sao cho người đi theo nàng phải là những chàng trai độc thân. C̣n những người có gia đ́nh rồi th́ nàng tiếp họ tại nhà. Eve tỏ ra rất kín đáo. Nàng thận trọng không để cho tên tuổi của nàng trở thành đề tài bàn tán trên báo chí, điều này không phải là v́ nàng lo sợ số tiền trợ cấp của nàng sẽ bị cắt mà chính là v́ nàng đă quyết định rằng một ngày kia bà nội nàng sẽ phải ḅ sát đất để đến với nàng. Bà Kate Blackwell cần có một người thừa kế để thay bà đảm nhiệm công ty Kruger-Brent. Alexandra không đủ khả năng để làm bất cứ việc ǵ ngoài công việc của một bà nội trợ, Eve cảm thấy hể hả với ư nghĩ này.
Một buổi trưa nọ, lật những trang báo Town and Country, Eve chợt nh́n thấy bức h́nh Alexandra đang khiêu vũ với một chàng trai trông hấp dẫn. Eve không nh́n vào h́nh ảnh Alexandra mà nh́n chàng trai ấy. Và nàng nhận ra rằng nếu Alexandra lấy chồng và có con trai th́ đó là tai hoạ lớn cho Eve và cho các dự tính của nàng.
Nàng chăm chú nh́n bức h́nh một hồi lâu.
Trong suốt thời gian một năm, Alexandra đă gọi điện thoại cho Eve đều đặn, để mời nàng ăn trưa, ăn tối, nhưng lần nào Eve cũng kiếm cớ thoái thác. Nhưng bây giờ, Eve quyết định rằng đă đến lúc nàng phải nói chuyện với Alexandra. V́ vậy, nàng mời Alexandra đến căn hộ của nàng.
Alexandra chưa hề thấy căn hộ này trước đó, nên Eve cố thu hết can đảm để chờ đợi một lời bày tỏ thương hại. Thế nhưng, Alexandra chỉ nói, “Căn hộ này thật là thích, chị Eve ạ. Nó có vẻ rất ấm cúng, phải thế không, chị?”.
Eve tủm tỉm cười, “Nó hợp với chị. Chị thích một cái ǵ thật thân mật”. Eve đă cầm khá nhiều nữ trang và các bức tranh để có thể dời đến một căn hộ đẹp hơn, nhưng nếu làm như vậy th́ bà Kate sẽ biết và sẽ hỏi nàng kiếm đâu ra tiền. Vào lúc này, phương châm của nàng là “cẩn thận, kín đáo”.
“Bà nội có khoẻ không?” Eve hỏi.
“Cũng khoẻ”, Alexandra do dự đáp, “Chị Eve ạ, em không biết chuyện ǵ đă xảy ra giữa bà nội và chị, nhưng nếu có việc ǵ chị cần em giúp đỡ th́ em sẽ...”
Eve thở dài. “Bà không nói với em sao?”
“Không. Bà không muốn bàn đến chuyện ấy”.
“Chị không trách bà nội. Tội nghiệp, có lẽ bà cảm thấy ḿnh tội lỗi quá chừng. Số là trước đây chị có gặp một ông bác sĩ trẻ rất tốt. Chị và anh ấy sắp sửa cưới nhau. Hai người cùng ăn nằm với nhau. Thế là bà nội biết được chuyện ấy, bà đuổi chị ra khỏi nhà và không muốn nh́n thấy mặt chị nữa. Chị nghĩ rằng bà nội ḿnh quá xưa cổ, Alex ạ”
Nàng nh́n thấy vẻ lo ngại trên mặt Alexandra. “Thật kinh khủng quá. Hai người nên đến gặp bà nội. Chắc chắn bà sẽ...”
“Anh ấy chết trong một tai nạn máy bay”.
“Trời, chị Eve ạ, tại sao chị không nói với em chuyện này trước đây?”
“Lúc ấy chị thẹn quá, không dám nói với ai, ngay cả với em nữa”. Nàng cầm lấy tay em gái, bóp thật chặt. “Em cũng biết đấy, chị kể cho em nghe tất cả mọi chuyện”.
“Để em nói với bà nội. Em sẽ giải thích...”
“Đừng làm thế. Chị có quá nhiều tự ái. Em hăy hứa với chị rằng em sẽ không bao giờ nói điều này với bà. Không bao giờ”
“Nhưng chắc chắn bà nội sẽ...”
“Hứa đi!”
Alexandra thở dài. “Thôi được”.
“Em hăy tin lời chị. Chị ở đây rất sung sướng. Đi đi về về tuỳ thích. Thật là tuyệt”.
Alexandra nh́n chị và nhớ lại trước đây nàng đă nhớ chị biết bao nhiêu.
Eve quàng tay lên người Alexandra, và nói với vẻ trêu chọc. “Thôi, chị kể về chị như thế là đủ rồi. Bây giờ em hăy nói về những ǵ đă xảy đến với em. Em đă gặp được “Ông hoàng tử đáng yêu” chưa? Chắc là có rồi chứ ǵ?”
“Chưa”.
Eve nh́n kĩ cô em gái. Nó là tấm gương phản chiếu h́nh ảnh của nàng, v́ vậy nàng quyết định phải phá huỷ nó đi. “Rồi em sẽ có, em ạ”.
“Em chưa vội. Em cho rằng đă đến lúc em bắt đầu phải tự nuôi sống. Em đă nói với bà nội về chuyện ấy. Tuần sau, em sẽ gặp người đứng đầu một hăng quảng cáo để bàn về việc làm”.
Hai người cùng ăn trưa trong một quán ăn nhỏ gần nơi ở của Eve. Eve đ̣i trả tiền cho ḱ được. Nàng không cần chút ǵ của em gái.
Khi hai người chia tay nhau, Alexandra nói, “Chị Eve ạ, nếu chị cần tiền...”
“Đừng nói vớ vẩn thế, em ạ. Chị thiếu ǵ tiền...”
Alexandra vẫn chưa chịu. “Thế nhưng, khi nào chị thiếu tiền, chị có thể lấy bất cứ thứ ǵ em có”.
Eve nh́n thẳng vào mắt Alexandra. “Chị sẽ tin vào điều đó”. nàng mỉm cười “nhưng thực sự chị không cần ǵ cả, Alex ạ”. Nàng không thèm nhặt những mảnh vụn. nàng có ư định ăn cả cái bánh. Vấn đề là: Làm thế nào để chiếm lấy nó?
*
* *
Một buổi tiệc cuối tuần được tổ chức ở Nassau.
“Có chị đến dự th́ buổi tiệc sẽ khác hẳn, Eve ạ. Tất cả các bạn của chị đều sẽ có mặt”.
Người gọi là Nita Ludwig, một cô gái Eve đă quen biết ở trường học bên Thuỵ Sĩ.
Nàng sẽ gặp một số bạn trai mới. Nàng đă chán với những “thu hoạch” hiện tại rồi.
“Nghe có vẻ vui đấy. Tôi sẽ đến”. Eve nói.
Trưa hôm ấy, nàng cầm một chiếc ṿng ngọc do một ông chủ hăng bảo hiểm, đă có vợ và ba con, tặng nàng tuần trước v́ quá say đắm nàng. Với số tiền cầm đồ ấy, nàng sẽ sắm một bộ đồ mùa hè mới ở hiệu may Lord and Taylor, và mua vé khứ hồi đi Nassau... Sáng hôm sau, nàng lên máy bay.
*
* *
Tài sản của gia đ́nh Ludwig là một toà lâu đài to lớn, trải dài trên băi biển. Ngôi nhà chính có ba mươi pḥng, và pḥng nhỏ nhất cũng lớn hơn cả căn hộ của Eve. Eve được một người hầu gái mặc đồng phục dẫn đến căn pḥng dành riêng cho nàng. Trong khi Eve rửa ráy cho mát mẻ th́ người hầu gái ấy mở hành lí ra cho nàng. Sau đó, nàng đi xuống nhà gặp gỡ các khách mời.
Trong pḥng khách có mười sáu người, và họ có một đặc điểm chung duy nhất: họ đều giàu có cả. Nita Ludwig là người tin tưởng mạnh mẽ vào câu phương ngôn: “Ngưu tầm ngưu, mă tầm mă”. Những con người này có chung một suy nghĩ về cùng một thứ; họ cảm thấy dễ chịu khi ngồi với nhau v́ họ đều nói chung một thứ ngôn ngữ. Họ chia sẻ với nhau những trường nội trú sang trọng nhất, những ngôi nhà lộng lẫy nhất, những chiếc thuyền buồm, những chiếc máy bay phản lực tư nhân, và cả những vấn đề thuế má. Một nhà báo đă phong cho họ cái tên là “giới phản lực”, một danh xưng mà họ thường đưa ra để chế giễu nhau và lấy làm thích thú. Họ là một thiểu số được ưu đăi, được chọn lựa, tách rời ra khỏi những người khác do một vị thần biết phân biệt. Mặc kệ những người khác tin rằng tiền bạc không thể mua được tất cả mọi thứ. Nhóm người này biết rơ hơn. Với tiền bạc, họ mua được sắc đẹp, t́nh yêu, cuộc sống xa xỉ và một chổ đứng trên thiên đường. Đó là tất cả những thứ mà Eve đă bị tước đi do ư muốn bất thường của một bà già. Nhưng không được lâu đâu, Eve thầm nghĩ.
Nàng bước vào pḥng khách th́ cuộc nói chuyện ŕ rào ngưng bặt. Trong một căn pḥng toàn là những người đẹp, nàng nổi bật lên trên tất cả. Nita dẫn Eve đi chào các bạn bè, và giới thiệu nàng với những người không quen biết. Eve thật là xinh đẹp và vui vẻ. Nàng quan sát từng chàng trai với cái nh́n hiểu biết, và lựa ra các mục tiêu của nàng với sự thành thạo của một nhà chuyên môn. Đa số những người lớn tuổi đều có vợ con, nhưng điều đó chỉ làm cho việc lựa chọn của nàng dễ dàng hơn.
Một chàng trai hói đầu, mặc chiếc quần short vuông và chiếc sơ mi thể thao kiểu Hawaii, đến bên nàng và nói, “Tôi đoán chắc cô đă chán nghe người ta khen cô là rất xinh đẹp, phải thế không?”
Eve thưởng cho ông ta một nụ cười nồng thắm và nói, “Tôi không bao giờ chán chuyện ấy cả, thưa ông...”
“Tên tôi là Peterson. Nhưng cô cứ gọi tôi là Dan cho thân mật. Cô là một minh tinh Hollywood mới phải”.
“Tôi e rằng tôi không có tài đóng kịch”.
“Nhưng tôi th́ lại cho rằng cô có nhiều tài năng khác nữa”.
Eve cười một cách bí hiểm “Khi nào ông thử rồi th́ mới biết được, phải không, ông Dan?”
Dan liếm mép, “Cô đến đây một ḿnh sao?”
“Vâng”.
“Tôi có một chiếc du thuyền đậu ở trong vịnh. Có thể nào chúng ta cùng đi chơi vào ngày mai được không?”
“Nghe có vẻ thích đấy”, Eve nói.
Dan cười, “Tôi không hiểu sao trước đây chúng ta không gặp nhau bao giờ. Tôi quen biết bà nội cô nhiều năm rồi”.
Eve vẫn giữ nụ cười trên môi, nhưng phải cố gắng hết sức, “Bà nội tôi là một người rất được yêu mến”, Eve nói, “Bây giờ có lẽ chúng ta nên đi đến nói chuyện với các bạn khác nhỉ”.
“Đúng vậy, cô em yêu quư ạ”. Anh ta nháy mắt một cái, “Ngày mai nhé, nhớ đấy”.
*
* *
Từ lúc ấy, anh ta không thể nào gặp riêng Eve một lần nữa. Nàng tránh anh ta vào lúc ăn trưa, và sau bữa ăn, nàng mượn một chiếc xe hơi dành cho khách ở trong gara, rồi lái xuống phố. Nàng đi qua tháp Black-Beard và khu vườn xinh đẹp Ardastra, nơi có những con hồng hạc màu sắc sặc sỡ đang biểu diễn. Nàng dừng ở bờ bể để xem những chiếc thuyền đánh cá đang trút lên bờ những con rùa thật to, những con tôm hùm, cá nhiệt đới, và nhiều vỏ ốc màu sắc sặc sỡ. Những vỏ ốc này sẽ được đánh bóng và bán cho các du khách.
Mặt nước trong vịnh trơn láng, sóng bể lóng lánh như kim cương. Bên kia vũng nước Eve có thể trông thấy băi bể Paradise Island cong ṿng như lưỡi liềm. Một chiếc thuyền máy vừa rời bến đậu ở băi bể, và khi nó bắt đầu tăng thêm tốc độ th́ h́nh dáng một người đàn ông bắt đầu nhô lên trên nền trời, kéo lê ở phía sau chiếc thuyền. Thật là một quang cảnh khiến cho người ta phải giật ḿnh, sửng sốt. Người ấy xuất hiện, bám lơ lửng vào một thanh kim khí buộc chặt với một chiếc buồm màu xanh, thân h́nh anh ta dài, mảnh khảnh, duỗi ra chống chọi lại sức gió. Eve đứng nh́n say mê, trong khi chiếc thuyền máy gầm lên, tiến về phía cảng, và h́nh người treo lơ lửng trên không lướt đến gần hơn. Chiếc thuyền đến gần bến đậu, đổi hướng rất nhanh. Trong chốc lát, Eve nh́n thoáng thấy mặt người ấy, đen sẫm và đẹp trai, rồi anh ta biến đi đâu mất.
*
* *
Năm giờ sau, anh ta bước vào trong pḥng khách của Nita Ludwig. Eve có cảm tưởng như thể nàng đă buộc anh ta phải đến đây. Nàng đă biết anh sẽ xuất hiện. Nh́n gần, anh ta trông càng đẹp trai hơn nữa. Anh cao chừng hai thước, nét mặt rám nắng như được chạm trổ tuyệt hảo, mắt xanh và thân h́nh gọn gàng như một vận động viên. Khi cười, anh để lộ hàm răng trắng, đều đặn. Anh nh́n xuống Eve, tủm tỉm cười, khi Nita giới thiệu anh với nàng.
“Đây là George Mellis. C̣n đây là Eve Blackwell”.
“Lạy Chúa, cô giống như bức tranh trong viện bảo tàng Louvre”, George Mellis nói. Giọng anh ta trầm và khàn khàn với một âm điệu khó có thể xác định.
“Đi theo tôi nào”. Nita ra lệnh, “Tôi sẽ giới thiệu anh với các vị khách khác”.
Anh ta vẫy tay xua nàng đi. “Khỏi phải bận tâm. Tôi đă gặp mọi người rồi”.
Nita nh́n hai người, ra dáng suy nghĩ. “Thôi được, nếu tôi có thể làm ǵ được việc ǵ th́ anh cứ gọi tôi nhé”.
“Anh hơi lỗ măng đối với chị ấy đấy, anh không thấy hay sao?”, Eve hỏi.
Mellis cười. “Tôi không chịu trách nhiệm về những ǵ tôi nói hay tôi làm. Tôi đang yêu đây”.
Eve phá lên cười.
“Tôi nói thật đấy. Cô là người xinh đẹp nhất mà tôi chưa hề được thấy trong đời”.
“Tôi cũng đang nghĩ về anh giống như vậy”.
Eve không cần biết anh chàng này có nhiều tiền hay không. Nàng đă bị anh ta làm mê hoặc. Không phải chỉ là do dáng vẻ bên ngoài của anh ta mà thôi. Anh ta có một sức hút như nam châm, một thứ sức mạnh kích thích. Không một người đàn ông nào đă từng tác động đến nàng như vậy. “Anh là ai?”
“Nita đă giới thiệu rồi. George Mellis”.
“Anh là ai?” Nàng lặp lại câu hỏi.
“À, cô muốn hỏi theo nghĩa triết học chứ ǵ? Cái tôi hiện thực? Chẳng có ǵ hay ho để mà nói cả. Tôi là người Hi Lạp. Gia đ́nh tôi trồng cây ô liu và các thứ khác”.
Đúng là cái tên Mellis ấy rồi. Các nhăn hiệu thực phẩm Mellis có thể thấy ở tất cả các cửa hàng tạp hoá và siêu thị khắp nước Mỹ.
“Anh có gia đ́nh chưa?”
Anh cười. “Lúc nào cô cũng hay hỏi trực tiếp như thế à?”
“Không”.
“Tôi chưa có vợ”.
Câu trả lời này gây cho nàng một cảm giác sung sướng bất ngờ. Chỉ cần nh́n chàng, Eve đă cảm thấy muốn chiếm đoạt chàng và được chiếm đoạt.
“Tại sao anh bỏ bữa cơm tối?”
“Cô muốn biết sự thật à?”
“Phải”.
“Đó là một vấn đề rất riêng tư”.
Nàng chờ đợi.
“Lúc ấy tôi bận thuyết phục một cô gái đừng có tự tử”. Anh ta nói với một vẻ thản nhiên như thể đó là một chuyện xảy ra thông thường.
“Tôi hi vọng anh đă thành công”.
“Tạm thời vào lúc này. Tôi hi vọng cô không phải là loại người thích tự vẫn”.
“Không. Tôi cũng hi vọng anh không phải loại người ấy”.
George Mellis phá lên cười. “Anh yêu em”, anh nói, “Thật sự anh yêu em”. Anh cầm lấy cánh tay Eve. Sự động chạm này khiến nàng rùng ḿnh.
*
* *
Mellis ở luôn bên cạnh Eve tối hôm ấy, hoàn toàn chú tâm đến nàng và quên đi tất cả mọi người khác. Anh có những bàn tay dài, nhỏ nhắn, và luôn luôn làm một việc ǵ đó cho Eve: đem rượu đến cho nàng, châm thuốc là cho nàng, sờ vào người nàng một cách kín đáo. Sự gần gũi với chàng làm cho thân h́nh nàng như bốc lửa; nàng nóng ḷng muốn được ở một ḿnh với chàng.
Đến nửa đêm, khi khách khứa bắt đầu rút lui về pḥng, George Mellis nói, “Pḥng em ở đâu?”
“Ở cuối hành lang phía bắc”
Anh ta gật đầu, đôi mắt có lông mi dài như xoáy vào mắt nàng.
Eve cởi áo quần, tắm rửa, rồi mặc một chiếc áo ngủ mới, mỏng màu đen, bó sát thân h́nh. Vào lúc một giờ sáng, có tiếng gơ cửa nhè nhẹ. Nàng vội vă mở cánh cửa. George Mellis bước vào.
Anh đứng ở đó, đôi mắt đầy vẻ thán phục. “Em làm cho Venus de Milo giống như một con mụ xấu xí”.
“Em có lợi điểm hơn pho tượng ấy”, Eve thầm th́, “Em có hai cánh tay”.
Nàng choàng hai cánh tay xung quanh người Mellis, kéo anh ta sát lại người nàng. Nụ hôn của anh khiến một thứ ǵ đó trong người nàng nổ bùng lên. Môi anh áp sát với môi nàng. Nàng cảm thấy lưỡi chàng đang thăm ḍ trong miệng.
“Trời ơi!”, Eve rên rỉ.
Mellis bắt đầu cởi chiếc áo vét ra với sự giúp đỡ của Eve. Chỉ trong một lát, anh cởi hết áo quần, hoàn toàn trần truồng trước mặt nàng. Vóc người anh thật là tuyệt hảo. Nàng chưa bao giờ thấy ai như vậy bao giờ...
“Nhanh lên”, Eve thúc giục, “Hăy yêu em đi”. Nàng tiến đến chiếc giường, thân thể nàng như bốc lửa.
Mellis ra lệnh “Quay lưng lại...”
Nàng ngước mắt nh́n lên anh ta. “Em... em không...”
Y vả nàng một cái vào miệng. Nàng trố mắt nh́n, sửng sốt.
“Quay lưng lại!”
“Không”.
Y lại đánh thêm một cái nữa một cách tàn nhẫn.
Y đập mạnh cánh tay ngang gáy của Eve, khiến nàng bất tỉnh.
Nàng mở miệng định thét lên thật to, nhưng kịp ngăn chặn lại ngay v́ sợ y có thể làm điều ǵ ghê gớm đối với nàng.
Nàng van xin “Trời, tôi xin anh. Anh làm tôi đau đớn quá”.
“Trời! Lạy Chúa!”, Nàng th́ thào, “Ngưng lại ngay đi! Ngưng ngay cái tṛ ấy!”.
Điều cuối cùng mà Eve nhớ lại là tiếng lầm bầm hung dữ phát ra từ trong người y và dường như nổ lên trong tai nàng.
Khi tỉnh lại, mở mắt ra, nàng thấy George Mellis đang ngồi trên ghế, ăn mặc tề chỉnh, miệng ph́ phèo điếu thuốc lá. Y đi đến chiếc giường, vuốt ve trên trán nàng. Nàng co người lại để tránh cái sờ mó của y.
“Em cảm thấy như thế nào, em yêu quư?”
Eve cố ngồi dậy, nhưng cơn đau thật là mănh liệt. nàng cảm thấy như thân h́nh bị xé ra từng mảnh. “Đồ súc vật khốn kiếp...” Giọng nói của nàng nghe như tiếng th́ thào rời rạc.
Y cười. “Anh như thế là đă hiền dịu với em lắm rồi đó”.
Nàng nh́n y, có vẻ chưa tin.
Y cười, nói tiếp “Đôi khi anh rất thô bạo”. Y lại vuốt tóc nàng lần nữa. “Nhưng anh yêu em, v́ vậy anh tử tế với em. Rồi em sẽ quen đi. Anh hứa với em như vậy”.
Nếu nàng có một thứ vũ khí nào đó lúc bấy giờ, hẳn nàng đă giết hắn ta rồi. “Anh là một thằng loạn trí”.
Nàng thấy cặp mắt hắn loé lên, hai bàn tay hắn nắm chặt lại. Lúc ấy nàng cảm thấy kinh sợ vô cùng. Hắn là một thằng điên.
Nàng vội vă nói. “Tôi không có ư nói như vậy. Chỉ có điều là... là tôi chưa quen với kinh nghiệm như vậy trước kia. Xin anh để cho tôi ngủ bây giờ. Tôi xin anh”.
George Mellis nh́n nàng chằm chằm một lúc, rồi dịu lại. Y đứng dậy đi đến bàn trang điểm, nơi Eve để các nữ trang của nàng. Ở đó có một chiếc ṿng bạch kim và một chuỗi kim cương đắt tiền. Hắn nhặt lấy chuỗi kim cương bỏ vào túi. “Anh sẽ giữ cái này làm kỉ niệm”.
Eve quá sợ hăi, không dám mở miệng phản đối.
“Chúc em ngủ ngon nhé, em yêu quư”. Y bước đến chiếc giường, cúi người xuống hôn lên môi Eve.
Nàng chờ cho đến khi hắn đă đi khỏi mới ḅ ra khỏi giường, thân thể như cháy rực v́ đau đớn. Mỗi bước đi là một cơn đau khủng khiếp. Chỉ đến khi nàng khoá trái cửa pḥng, lúc ấy nàng mới cảm thấy an toàn. Không chắc có bước nổi đến pḥng tắm hay không, nàng ngă lăn xuống giường một lần nữa, chờ đợi cơn đau giảm bớt. Nàng không thể tin được nổi giận dữ của nàng lúc ấy lớn lao đến mức nào. Hắn đă làm t́nh với nàng như một con thú vật... một cách kinh tởm và tàn nhẫn. Nàng tự hỏi không biết hắn ta đă làm những ǵ để cho cô ấy phải tự vẫn.
Khi Eve kéo lê được đến pḥng tắm và nh́n vào trong gương, nàng bổng thất kinh. Mặt nàng bị bầm dập, mất cả màu sắc, ở những nơi hắn đánh đập, và một mắt nàng sưng vù lên. Nàng cho nước nóng chảy vào bồn tắm, rồi trèo vào trong đó như một con vật bị thương, để cho nước ấm làm dịu và trôi đi cơn đau nhức. Eve nằm ở đó thật lâu; cuối cùng, khi nước bắt đầu nguội đi, nàng ra khỏi bồn tắm, thử bước một vài bước. Cơn đau đă bớt đi nhưng vẫn c̣n nhức nhối lắm. Nàng nằm thao thức suốt cả đêm, lo sợ rằng hắn ta có thể trở lại.
*
* *
Khi Eve thức dậy vào lúc rạng đông, nàng thấy các tấm khăn trăi giường đều vấy máu. Nàng sẽ bắt hắn ta trả giá đắt về việc này. Nàng bước vào pḥng tắm, rất thận trọng, rồi lại cho nước nóng chảy vào bồn tắm. Mặt nàng lúc này sưng to hơn nữa, và các vết bầm rơ rệt hơn. Nàng nhúng một chiếc khăn vào nước lạnh, đắp lên má và mắt. Rồi nàng nằm trong bồn tắm, suy nghĩ về George Mellis. Có một cái ǵ đó khó hiểu trong hành vi của Mellis, không có liên hệ ǵ đến thói ác dâm của hắn. Đột nhiên nàng hiểu ra cái ấy là cái ǵ. Đó là chuỗi kim cương của nàng. Tại sao hắn lại lấy thứ đó đi?
*
* *
Hai giờ sau, Eve xuống nhà dưới để ăn sáng với mọi người, cho dù nàng không cảm thấy đói. Nàng rất cần phải gặp Nita Ludwig.
“Lạy Chúa! Mặt chị làm sao vậy?” Nita hỏi.
Eve cười buồn bă “Em thật là ngốc quá. Em thức dậy vào nửa đêm, định đi vệ sinh, thế nhưng em lại lười không chịu bật đèn lên. Em bước thẳng đến một trong các cánh cửa giả, rồi va vào đó”
“Chị có cần bác sĩ xem vết thương cho chị không?”
“Không có ǵ đâu”, Eve trấn an Nita, “Chỉ là một vết bầm nhỏ thôi mà”. Eve nh́n quanh quất, “George Mellis đâu rồi?”
“Anh ấy đang chơi quần vợt. Anh ấy là một tay chơi quần vợt số một đấy. Anh ấy nhờ nói với chị rằng anh ấy sẽ gặp chị vào bữa cơm trưa. Có vẻ như anh ấy thích chị thực sự”.
“Chị hăy nói cho em biết về anh ta đi”. Eve hỏi, làm ra vẻ t́nh cờ. “Gốc gác anh ta thế nào”
“George ấy à? Anh ấy xuất thân từ một gia đ́nh Hi Lạp giàu có. Anh ta là con trai trưởng, và rất giàu có. Anh ấy làm việc ở một hăng chuyên làm môi giới ở New York, tên là Hanson and Hanson”
“Anh ta không làm công việc kinh doanh của gia đ́nh hay sao?”
“Không. Anh ta ghét các cây ô liu. Dù sao với của cải của gia đ́nh Mellis, anh ta chẳng cần phải làm việc. Em cho rằng anh ấy làm việc để khỏi ngồi không vào ban ngày thôi”. Nàng cười và nói, “Đêm tối th́ anh ta bận rộn lắm”
“Thật thế sao?”
“Chị yêu quư ạ, George Mellis là một anh chàng độc thân rất đắt giá. Các cô gái đều sẵn sàng hiến dâng cho anh ta. Ai cũng hi vọng trở thành bà Mellis cả. Thành thực mà nói, nếu như chồng em không có tính hay ghen, em cũng đă theo đuổi anh chàng Mellis ấy rồi. Anh ta là một anh chàng “ba mươi lăm” ḱ tài, phải không chị?”
“Phải, ḱ tài”, Eve nói.
George bước vào sân thượng, nơi Eve đang ngồi một ḿnh. Nàng cảm thấy nỗi sợ hăi như nhát dao đâm vào da thịt.
Hắn bước đến gần nàng và nói. “Chào Eve. Em khoẻ chứ?”. Mặt hắn tỏ ra vẻ lo lắng thục sự. Hắn sờ nhẹ lên má bầm của Eve. “Em yêu quư ạ, em xinh đẹp lắm”. Hắn kéo một chiếc ghế, ngồi giạng hai chân trên đó, rồi chỉ về phía bể lóng lánh. “Em có thấy cảnh nào đẹp như vậy chưa?”
Y làm như thể câu chuyện đêm qua chưa hề bao giờ xảy ra. Nàng lắng nghe George Mellis trong khi y vẫn tiếp tục nói chuyện, và một lần nữa nàng cảm thấy sức hút mạnh như nam châm của con người này. Ngay cả sau cơn ác mộng nàng đă trăi qua, nàng vẫn cảm thấy điều đó. Anh ta giống như một vị thần Hi Lạp. Anh ấy là pho tượng trong bảo tàng. Một nhân vật trong dưỡng đường dành cho người điên.
“Anh phải trở về New York tối nay”, Mellis nói, “Anh sẽ gọi điện thoại cho em ở đâu?”
“Tôi mới dọn nhà”, Eve nói thật nhanh. “Chưa có số điện thoại. Khi nào có tôi sẽ gọi cho anh biết”
“Thế cũng được, em yêu quư ạ”. Y nhoẻn miệng cười. “Đêm qua, em thực sự thích chứ?”
Eve không c̣n tin nổi tai ḿnh nữa.
“Anh có nhiều thứ để dạy em, Eve ạ”. Y th́ thầm.
Và tôi cũng có nhiều thứ để dạy ông, ông Mellis ạ. Eve nhủ thầm.
*
* *
Ngay khi trở về nhà, Eve gọi điện thoại cho Dorothi Hollister. Ở New York, nơi các phương tiện truyền thông thường dành một phần cho những câu chuyện đi đi về về của cái mà người ta gọi là “những người đẹp”, Dorothi là một đầu nguồn thông tin cho những câu chuyện ấy. Bà đă có một người chồng thuộc hàng tai mắt trong xă hội, nhưng ông chồng đă li dị bà để lấy một cô thư kí hai mươi mốt tuổi của ông ta. Dorothi đành phải đi làm việc, chọn một nghề thích hợp với tài năng của bà nhất. Bà trở thành một nhà báo chuyên viết về những chuyện ngồi lê đôi mách. Bởi v́ bà quen biết nhiều người thuộc giới mà bà hay đề cập đến, và v́ người ta cho bà là một người đáng tin cậy, nên ít người giấu giếm những điều bí mật đối với bà.
Nếu có một người nào có thể cho Eve biết về George Mellis th́ người ấy ắt phải là Dorothi Hollister. Eve mời bà ta đến ăn cơm trưa ở La Pyramide. Hollister là một người đàn bà béo mập, với một khuôn mặt núc ních những mỡ, tóc nhuộm đỏ, một giọng nói khàn khàn và tiếng cười be be như lừa kêu. Người bà nặng trĩu nữ trang – tất cả là đồ giả.
Khi gọi các món ăn xong, Eve nói ra vẻ t́nh cờ. “Tôi ở Bahamas tuần trước. Nơi ấy thật là đẹp”
“Tôi biết cô ở đâu rồi”, Dorothi nói “Tôi có danh sách các khách mời của Nita Ludwig ở đây. Cuộc đi chơi ấy vui lắm nhỉ?”
Eve nhún vai. “Tôi đă gặp nhiều bạn cũ. Tôi cũng gặp một người đàn ông rất đáng chú ư tên là...” Nàng ngưng lại, nhăn mặt ra dáng suy nghĩ – “tên là George ǵ ǵ đó. H́nh như là Miller th́ phải. Một người Hi Lạp”.
Dorothi cười to lên một tiếng cười rất to vang lên suốt căn pḥng. “Mellis, cô em ạ. George Mellis”
“Đúng rồi, Mellis. Bà quen anh ta à?”
“Tôi đă gặp anh ta rồi. Lúc ấy tôi tưởng ḿnh sắp biến thành một cột mối. Lạy Chúa, anh ta trông thật là to lớn”
“Gốc gác anh ta thế nào?”
Dorothi nh́n quanh, rồi vươn người ra nói với vẻ bí mật. “Không ai biết điều này, nhưng cô phải giữ kín nhé. George Mellis là con chiên ghẻ trong gia đ́nh. Gia đ́nh anh ấy kinh doanh thực phẩm, và giàu có không sao tả xiết. Lẽ ra George sẽ nắm lấy cơ sở kinh doanh của gia đ́nh, nhưng anh ta dính líu vào nhiều vụ lôi thôi với bọn trai, gái và những kẻ dâm dục, cho nên ông bố chán nản quá, phải cho anh ta xuống tàu rời khỏi xứ”
Eve như uống từng lời lẽ một.
“Tội nghiệp anh chàng ta bị bố mẹ đuổi đi mà không có một đồng xu trong túi, v́ thế anh ta phải làm việc để tự nuôi sống”
Th́ ra là thế mà anh ta lấy chuỗi kim cương của ḿnh!
“Tất nhiên anh ta chẳng việc ǵ phải lo. Một ngày nào đó George sẽ lấy một cô vợ giàu”. Bà ta nh́n qua phía Eve và hỏi “Cô có thích không, hở cô em xinh đẹp?”
“Không hẳn thế”.
Thật ra Eve rất thích thú chuyện ấy. George Mellis sẽ là chiếc ch́a khoá để mở ra kho của cải của nàng.
Sáng sớm hôm sau, nàng gọi điện thoại cho Mellis ở hăng môi giới, nơi anh ta làm việc. Y nhận ra ngay tiếng nói của Eve.
“Anh đang chờ đợi em gọi đến điên người đây, Eve ạ. Chúng ta sẽ ăn cơm tối với nhau tối nay, sau đó....”
“Không. Cơm trưa, ngày mai”.
Mellis do dự, ngạc nhiên. “Được rồi, anh dự định sẽ ăn cơm trưa với một khách hàng, nhưng anh sẽ dời bữa ăn ấy sang ngày khác”
Eve không tin rằng đó là hắn ta. “Đến căn hộ của tôi”, Eve nói. Nàng cho y địa chỉ. “Tôi sẽ gặp anh lúc mười hai giờ ba mươi”.
“Anh sẽ đến đó”. Nàng nghe có vẻ khoái trá trong giọng nói của hắn ta.
*
* *
Y ta đến trễ ba mươi phút, nhưng Eve nghĩ rằng đó là do thói quen của y. Đó không phải là một hành vi bất lịch sự cố ư, mà là thái độ thờ ơ, một sự tin tưởng rằng người ta sẽ luôn luôn chờ đợi ḿnh. Những sự vui thích của y lúc nào cũng có sẵn ở đó cho y mỗi khi y chịu khó vươn tay ra để nắm lấy. Với vẻ hấp dẫn ghê gớm của y, tất cả thế giới đều thuộc về y. Chỉ trừ một điều duy nhất: y nghèo. Đó là điểm yếu của y.
George Mellis nh́n quanh căn pḥng bé nhỏ, đánh giá từng thứ một bằng cặp mắt thành thạo. “Trông rất vui tươi”
Y tiến đến gần Eve, dang hai cánh tay ra. “Anh nghĩ đến em từng phút, từng giây”.
Nàng tránh ra xa. “Khoan đă. Tôi có điều muốn nói với anh”.
Mắt y như xoáy vào mắt nàng. “Chúng ta sẽ nói sau”.
“Nói ngay bây giờ”. Nàng nói chậm răi và rơ ràng từng tiếng một, “Nếu anh sờ vào người tôi, tôi sẽ giết anh”.
Y nh́n Eve, môi cong lại cố nở nụ cười ngượng nghịu. “Tṛ đùa ǵ thế này?”
“Đây không phải là tṛ đùa, mà là chuyện nghiêm chỉnh. Tôi có một đề nghị làm ăn với anh”.
Trên mặt y lộ vẻ bối rối, chưa hiểu. “Em gọi anh đến đây để bàn chuyện làm ăn”.
“Đúng vậy. Tôi không biết anh kiếm được bao nhiêu tiền bằng cách lừa gạt các bà già ngu ngốc mua các chứng phiếu, các cổ phần, nhưng tôi chắc chắn rằng số tiền anh kiếm được không đủ cho anh tiêu xài”.
Mặt y tối sầm v́ giận dữ. “Em điên à? Gia đ́nh anh...”
“Gia đ́nh anh giàu, nhưng anh th́ không. Gia đ́nh tôi giàu, nhưng tôi chẳng có ǵ. Cả anh và tôi đều như đang ngồi trên chiếc thuyền thủng đáy, anh yêu quư ạ. Tôi biết cách làm sao biến nó trở thành một chiếc du thuyền”. Nàng đứng tại chổ, nh́n vẻ ṭ ṃ của y đang dần dần lấn át cơn giận dữ.
“Em nên nói rơ cho anh biết em đang muốn nói chuyện ǵ”.
“Đơn giản lắm. Tôi đă bị tước quyền thừa kế một tài sản rất lớn lao. Nhưng em gái Alexandra tôi th́ không thế”.
“Chuyện ấy th́ có liên quan ǵ đến tôi?”
“Nếu anh lấy Alexandra, của cải ấy sẽ thuộc về anh – về hai chúng ta”.
“Rất tiếc. Anh không bao giờ chịu đựng được ư tưởng bị ràng buộc với bất cứ người nào”.
“T́nh cờ mà vấn đề ấy không khó khăn ǵ cả trong trường hợp này. Em gái tôi lúc nào cũng dễ bị tai nạn”.


o0o

 

Pages Previous  1  2  3  4  Next