Van
der Merwe mỗi lúc mỗi thêm nợ nần. Mọi người trong thị trấn đều
từ chối không cho lăo vay tiền, ngoại trừ ngân hàng mà Jamie đă
kín đáo làm chủ. Chỉ thị hiện hành, mà anh ban cho viên quản lư
ngân hàng, là, “Hăy cho Salomon van der Merwe mọi thứ hắn cần”.
Cửa hàng bách hoá bây giờ dường như không mở cửa bao giờ. Van
der Merwe bắt đầu uống rượu vào buổi sáng sớm, rồi đến trưa lăo
thường đi đến nhà bà Agnès, và đôi khi lăo ở luôn đêm tại đấy.
Một buổi sáng nọ, Margaret đang đứng ở quầy hàng thịt chờ đợi
mua gà theo lệnh của bà Owens th́ nàng chợt thoáng thấy qua cửa
sổ cha nàng vừa rời khỏi nhà thổ. Nàng khó mà nhận ra được ông
già lôi thôi lếch thếch đang lê bước dọc theo đường phố. Chính
ḿnh đă gây cho ông cảnh ngộ này. Lạy Chúa, xin Người tha tội
cho con, v́ chính con đă gây nên nông nỗi này!
Salomon van der Merwe không có một chút ư tưởng nào về những ǵ
đang xảy ra với lăo. Lăo biết rằng, bằng một cách nào đó, không
phải lỗi do lăo, cuộc đời của lăo đang bị huỷ hoại. Chúa đă chọn
lăo – giống như xưa kia Người đă chọn Job (1) – để thử thách sức
mạnh của đức tin của lăo. Van der Merwe tin chắc rằng cuối cùng
lăo cũng sẽ chiến thắng được kẻ thù giấu mặt. Điều cần thiết đối
với lăo là thời gian và tiền bạc nhiều hơn nữa. Lăo đă đưa ra
làm bảo đảm cửa hàng bách hoá của lăo, phần hùn của lăo tại sáu
mỏ kim cương nhỏ, ngay cả con ngựa và chiếc xe ngựa cũa lăo nữa.
Cuối cùng, lăo không c̣n ǵ nữa, ngoài mỏ kim cương ở Namib, và
vào ngày lăo đưa nốt mỏ này ra để kư quỹ th́ Jamie chụp ngay lấy
nó.
“Thu lại tất cả các giấy tờ của lăo”, Jamie ra lệnh cho viên
quản lư. “Cho lăo ta hai mươi bốn tiếng đồng hồ để trả toàn thể
số nợ, nếu không sẽ tịch thu cả tài sản”.
“Thưa ông McGregor, ông ta không thể nào kiếm ra được số tiền
ấy. Ông ta…”.
“Hai mươi bốn tiếng đồng hồ”.
Vào đúng bốn giờ trưa hôm sau, viên phụ tá quản lư ngân hàng
xuất hiện ở cửa hàng bách hoá cùng với viên cảnh sát trưởng và
một lệnh tịch biên tất cả mọi tài sản của Salomon van der Merwe.
Từ toà nhà trụ sở của anh ở bên kia đường, Jamie đứng nh́n Van
der Merwe bị trục xuất khỏi cửa hiệu bách hoá. Lăo đứng ở bên
ngoài, mắt hấp háy dưới ánh nắng, không c̣n biết làm ǵ hay quay
vào đâu để t́m sự giúp đỡ. Lăo bị lột sạch mọi thứ. Cuộc trả thù
của Jamie đă hoàn tất. Thế nhưng, Jamie tự hỏi, tại sao ḿnh
không có cảm giác chiến thắng? Anh chỉ thấy trong ḷng trống
rỗng. Kẻ mà anh huỷ hoại đă huỷ hoại anh trước tiên.
Khi Jamie bước vào nhà bà Agnès đêm hôm ấy, bà ta nói, “Anh có
nghe tin chưa, Jamie? Salomon van der Merwe đă bắn vào đầu tự tử
cách đây một giờ đồng hồ”.
Tang lễ được cử hành tại một nghĩa địa ảm đạm, lộng gió, bên
ngoài thị trấn. Ngoài toán người lo việc chôn cất, chỉ có hai
người tham dự: Margaret và McGregor. Margaret mặc chiếc áo dài
đen không ra h́nh thù ǵ để che cái bụng lớn của nàng. Nàng
trông xanh xao, ốm yếu. Jamie đứng cao to, sang trọng, kín đáo
và xa vời. Cả hai đứng ở phía đối diện nhau bên cạnh huyệt, nh́n
theo chiếc ḥm bằng gỗ thông thô sơ dần dần được hạ xuống ḷng
đất. Những cục đất được ném cồm cộp trên mặt ḥm, nghe như tiếng
kêu dội vào tai Margaret: Con đĩ !... con đĩ !....
Nàng nh́n Jamie qua cái huyệt. Hai cặp mắt gặp nhau. Cái nh́n
của Jamie trông lạnh lùng, trống rỗng, như thể nàng là một kẻ xa
lạ. Margaret cảm thấy ghét anh ta ngay lúc ấy. Anh đứng ở đấy mà
không có một cảm xúc nào cả, nhưng chính anh cũng tội lỗi giống
như tôi. Chính chúng ta đă giết ông ấy, cả anh và tôi.
Dưới con mắt của Thượng đế, tôi là vợ anh. Nhưng chúng ta là
những kẻ đồng loă trong tội ác. Nàng nh́n xuống cái huyệt chưa
đắp kín, xem những xuổng đất cuối cùng phủ lên nắp ḥm gỗ thong.
“Hăy yên nghỉ”, nàng th́ thầm, “Hăy yên nghỉ”.
Khi nàng ngước mắt nh́n lên, Jamie đă rời đi rồi.
Có hai ngôi nhà gỗ ở Klipdrift được dùng làm bệnh xá, nhưng
chúng đều bẩn thỉu, mất vệ sinh, nên ở đó nhiều bệnh nhân bị
chết hơn là được cứu sống. Trẻ được sinh ở nhà riêng. Khi ngày
sinh của Margaret đă gần kề, bà Owens nhờ sự giúp đỡ của một bà
mụ đỡ tên là Hannah. Cơn đau đẻ bắt đầu lúc ba giờ sáng.
“Bây giờ, cố rặn đi nhé, rồi cứ để nó tự nhiên như vậy, ra sao
th́ ra”.
Cơn đau đầu tiên đem đến một nụ cười trên môi Margaret. Nàng cho
ra đời một đứa con trai của nàng, và nó sẽ có một cái tên. Nàng
sẽ cố làm sao để Jamie McGregor phải công nhận đứa con này của
anh ta. Con trai nàng sẽ không bị trừng phạt.
Cơn đau đẻ vẫn tiếp tục, giờ này qua giờ khác, và khi một số
khách trọ bước vào pḥng Margaret để xem th́ bị đuổi ra ngay lập
tức.
Bà Hannah nói với Margaret, “Đây là vấn đề riêng tư giữa cô,
Thượng đế và thằng quỷ sứ đă gây cho cô sự rắc rối này”.
“Có chắc là con trai không?” Margaret hổn hển hỏi.
Bà Hannah lau trán Margaret bằng một cái khăn ướt. “Tôi sẽ cho
cô biết ngay sau khi thăm ḍ ở bên trong. Bây giờ cố rặn đi.
Thật mạnh vào. Thật mạnh, mạnh hơn nữa”.
Những cơn co giật bắt đầu xảy ra gần nhau hơn, cơn đau như xé
truyền khắp thân h́nh. Lạy Chúa, chắc có ǵ không ổn rồi,
Margaret nghĩ thầm.
“Cố gắng thêm nữa !”, bà Hannah nói. Bỗng tiếng nói của bà ta
nghe có vẻ hoảng sợ, bà kêu lên, “Nó cuộn lại ở bên trong, tôi
không thể nào lôi nó ra được!”.
Qua một lớp sương mù màu đỏ, Margaret thấy bà Hannah cúi xuống,
vặn vẹo thân h́nh nàng, căn pḥng bắt đầu mờ đi, rồi đột nhiên
nàng không thấy đau nữa. Nàng đang bập bềnh trong không gian.
Ánh sáng chói lọi loé lên ở cuối đường hầm, một người nào đó vẫy
nàng lại gần. Đó là Jamie. “Anh đến đây, Maggie, em yêu quí. Em
sắp cho anh một đứa con trai xinh đẹp”. Anh ấy đă trở về với
nàng. Nàng không c̣n ghét anh ấy nữa. Lúc ấy nàng mới biết rằng
nàng không hề bao giờ ghét anh ấy cả. Nàng nghe một tiếng nói,
“Gần xong rồi”, tiếp theo đó là cơn đau như xé ruột gan khiến
nàng phải thét to lên.
“Nào, nó sắp ra rồi đấy”, bà Hannah nói.
Một giây sau, nàng thấy như có một luồng nước ươn ướt tuôn ra
giữa hai đùi, tiếp theo là tiếng kêu đắc thắng của bà Hannah. Bà
giơ cao lên một khối đỏ hỏn và nói, “ Chào mừng cháu đến
Klipdrift. Cô em yêu quư ạ, cô đă có một đứa con trai rồi đấy”.
Nàng đặt tên cho nó là Jamie.
Margaret biết rằng tin về đứa trẻ sẽ đến tai Jamie nhanh chóng.
Nàng chờ đợi Jamie đến thăm hay cho người mời nàng đến. Thế
nhưng, nhiều tuần lễ trôi qua, Margaret không nghe tin tức ǵ.
Nàng nhắn lời cho Jamie. Người nàng nhờ đưa tin trở về ba mươi
phút sau.
Margaret rất nóng ḷng chờ đợi tin tức. “Em có gặp ông McGregor
không?”
“Thưa bà, có ạ”.
“Thế em có chuyển lời nhắn của chị chứ?”
“Thưa bà, có ạ”.
“Thế ông ấy bảo sao?”, nàng hỏi.
Thằng bé có vẻ bối rối. “Ông ấy bảo… ông ấy bảo ông không có đứa
con trai nào cả, bà Van der Merwe ạ”.
Nàng khoá chặt cửa lại, cùng với đứa bé nằm trong pḥng suốt cả
ngày, đêm, nhất định không ra ngoài. “Vào lúc này, cha con đang
bực bội, con ạ. Ông ấy nghĩ rằng mẹ con đă làm điều ǵ xấu đối
với ông ấy. Nhưng con là con trai của ông ấy, ông ấy sẽ đưa mẹ
con ḿnh về nhà ông, và sẽ yêu mến mẹ con ta. Rồi con sẽ thấy,
con yêu quí ạ. Mọi sự sẽ tốt đẹp cả thôi”.
Đến buổi sáng, khi bà Owens bước vào, nàng ra mở cửa. Nàng có vẻ
b́nh tĩnh một cách lạ thường.
“Cô thấy thế nào, Maggie?”
“Tôi cảm thấy khoẻ rồi, xin cám ơn bà”. Nàng mặc cho Jamie một
trong bộ quần áo mới. “Tôi sắp sửa cho cháu đi ra ngoài bằng xe
đẩy sáng hôm nay”.
Chiếc xe đẩy, món quà tặng của bà Agnès và các cô gái, là một
chiếc xe rất đẹp. Nó làm bằng thứ sậy rất tốt, có đáy mây chắc,
vững, tay cầm bằng gỗ uốn. Nó được bọc nệm gấm nhập cảng, với
những đường viền nhung lụa, và có một cái dù cắm ở phía sau với
diềm đăng ten xếp.
Margaret đẩy chiếc xe xuống lề đường chật hẹp của đường Loop.
Chốc chốc có một người lạ mặt dừng lại, mỉm cười với đứa bé,
nhưng các bà th́ đưa mắt nh́n sang chỗ khác hay đi sang bên kia
lề đường để tránh Margaret.
Nhưng Margaret không chú ư đến họ. Nàng đang cố t́m một người.
Mỗi khi thời tiết đẹp, Margaret cho thằng bé ăn mặc đẹp đẽ, rồi
đưa nó ra ngoài trong chiếc xe đẩy. Vào cuối một tuần lễ, khi
Margaret đă không gặp được Jamie một lần nào trên các đường phố,
nàng nhận ra rằng chàng đă cố t́nh lẩn tránh nàng. Được rồi, nếu
anh không muốn đến thăm con th́ hắn sẽ đến tận nơi để gặp bố.
Maggie quyết định như vậy.
Sáng hôm sau Margaret đến gặp bà Owens trong pḥng khách, “Tôi
sẽ đi chơi một thời gian ngắn, bà Owens ạ. Tôi sẽ trở về nhà
trong một tuần lễ”.
“Cháu bé c̣n quá nhỏ, chưa đi xa được đâu, Maggie ạ”.
“Nó sẽ ở lại trong thị trấn này”.
Bà Owens nhăn mặt, “Cô muốn nói rằng nó ở đây à?”
“Không, bà Owens ạ. Không phải ở lại trong nhà này”.
Jamie McGregor đă xây dựng một ngôi nhà của anh trên một đỉnh
đồi nh́n xuống Klipdrift. Đó là một ngôi nhà trệt thấp, mái
xuôi, với hai chái lớn, nối với toà nhà chính bằng những mái
hiên rộng. Xung quanh ngôi nhà có những băi cỏ xanh, điểm thêm
những cây to và một khu vườn hồng tươi tốt. Phía sau là nhà xe
và nơi ăn ở riêng của gia nhân. Mọi công việc xếp đặt trong nhà
đều giao cho bà Eugenia Talley đảm trách. Đó là một bà goá phụ
trạc trung niên, có sáu đứa con đă lớn ở bên Anh.
Margaret đi đến nơi ấy, với đứa con trai bồng trên tay lúc mười
giờ sáng, tức là vào giờ nàng biết rằng Jamie đang ở Văn pḥng.
Bà Talley mở cửa, nh́n Margaret và đứa bé với vẻ ngạc nhiên.
Cũng như mọi người khác sống trong phạm vi một trăm dặm, bà
Talley biết rơ họ là ai rồi.
“Tôi xin lỗi bà, ông McGregor không có ở nhà”, bà quản gia nói,
định đóng cánh cửa lại.
Margaret ngăn bà ta lại. “Tôi không định đến gặp ông McGregor.
Tôi chỉ đem cho ông ta đứa con trai của ông ấy”.
“Tôi e rằng tôi không biết chút ǵ về chuyện ấy cả. Bà….”
“Tôi sẽ đi vắng chừng một tuần lễ. Tôi sẽ trở lại đây xin lại
đứa bé”. Nàng đưa đứa bé cho bà Talley. “Tên cháu là Jamie”.
Một vẻ kinh hăi thoáng hiện trên khuôn mặt bà Talley. “Bà không
thể để nó ở lại đây được!. Ông McGregor sẽ… “
“Có hai cách lựa chọn, bà Talley ạ. Bà có thể hoặc đưa nó vào
trong nhà, hoặc để mặc nó ở đây trên bục cửa này cũng được”.
Không nói thêm một lời nào, nàng dúi đứa bé vào cánh tay của bà
Talley, rồi bước ra về.
“Khoan đă, bà không thể làm thế được. Trở lại đây! Bà… ".
Nhưng Margaret không quay mặt trở lại. Bà Talley đứng yên tại
chỗ, bồng một cái gói bé nhỏ trong tay, suy nghĩ. Ôi, lạy Chúa!
Ông McGregor sẽ nổi sùng lên cho mà coi!
Bà Talley chưa hề thấy Jamie trong một trạng thái giận dữ như
vậy bao giờ. Anh hét lên, “Sao bà có thể ngu xuẩn đến như vậy?
Bà chỉ việc đóng sầm cánh cửa trước mặt cô ấy!”.
“Nhưng cô ấy không cho tôi kịp làm cái ǵ cả, ông McGregor a. Cô
ấy… “.
“Tôi không muốn đứa con của cô ấy ở trong nhà tôi!”.
Trong cơn giận dữ, anh bước lên bước xuống, thỉnh thoảng dừng
lại trước mặt người đàn bà không may ấy, và nói, “Tôi phải đuổi
bà ra khỏi cửa v́ vụ này”.
“Cô ấy sẽ trở lại đây trong một tuần lễ nữa để lấy lại đứa con.
Tôi… ".
“Tôi không cần biết lúc nào th́ cô ta trở lại đây”, Jamie hét
lên. “Đem đứa bé này ra khỏi nơi này. Ngay bây giờ! Đem đi cho
rảnh mắt tôi”.
“Ông bảo tôi làm thế nào bây giờ, ông McGregor?” Bà hỏi với một
giọng cứng rắn.
“Thả nó ra ở một nơi nào đó trong thành phố. Chắc phải có một
nơi nào đó để bà để lại nó chứ?”.
“Nơi nào?”
“Làm sao tôi biết nơi quỷ quái nào được?”.
Bà Talley nh́n cái gói bé nhỏ đang bồng trong tay. Tiếng la hét
đă làm cho thằng bé bắt đầu khóc thét lên. “Không có nhà nuôi
trẻ mồ côi nào ở Klipdrift”. Bà bồng đứa bé đưa qua đưa lại,
nhưng nó lại càng la hét lớn hơn nữa. “Phải có người nào săn sóc
nó”.
Jamie cào ngón tay lên tóc, nói với vẻ tuyệt vọng, “Mẹ kiếp,
thôi được rồi. Bà đă rộng lượng nhận đứa bé ấy th́ bà săn sóc
cho nó”.
“Vâng, thưa ông”.
“Và bà ngăn chặn cái tiếng khóc của nó lại, kẻo tôi không sao
chịu nổi. Nhớ điều này nhé, bà Talley. Tôi muốn nó khuất khỏi
mắt tôi. Tôi không muốn biết rằng có nó trong nhà này. Rồi khi
nào mẹ nó đến đây lấy nó trong tuần sau, tôi không muốn nh́n
thấy cô ấy. Rơ cả chưa?”
Thằng bé lại bắt đầu khóc lớn hơn nữa.
“Tôi đă rơ rồi ạ, ông McGregor”. Rồi bà Talley hối hả rời khỏi
pḥng.
Jamie McGregor ngồi một ḿnh trong căn pḥng nhỏ, nhấm nháp rượu
mạnh và hút điếu x́ gà. Con mụ đàn bà ngu xuẩn. Nó tưởng rằng
ḿnh trong thấy thằng bé ấy là tim ḿnh sẽ mềm đi, rồi ḿnh sẽ
nhảy xổ đến nó và nói, “Anh yêu em. Anh yêu đứa bé. Anh muốn
cưới em”. Thế nhưng, anh đă không thèm nh́n đến thằng bé. Anh có
liên qua ǵ đến nó đâu. Anh sinh nó ra đâu có phải v́ t́nh yêu,
cũng chẳng phải v́ thèm muốn nữa. Nó được sinh ra từ một sự trả
thù. Anh nhớ măi vẻ mặt của lăo Salomon ven der Merwe, khi anh
báo cho lăo biết rằng Margaret đă có mang. Đó là lúc bắt đầu.
Cuối cùng là đất ném lên chiếc ḥm của lăo. Anh phải đi t́m
Banda để nói cho anh ta biết rằng nhiệm vụ của hai người thế là
đă xong.
Jamie cảm thấy nỗi trống rỗng trong ḷng. Ḿnh cần phải đặt ra
những mục tiêu mới, anh thầm nghĩ. Anh đă trở nên giàu có ngoài
sức tưởng tượng. Anh đă làm chủ hàng trăm mẫu đất mỏ. Anh mua
đất ấy để khai thác kim cương có thể t́m thấy ở đó, nhưng cuối
cùng anh làm chủ cả vàng, bạch kim, và năm sáu loại khoáng sản
khác. Ngân hàng của anh nhận cầm cố nửa số tài sản ở Klipdrift,
và đất chiếm hữu của anh trải rộng từ Namib đến Cape Town. Anh
cảm thấy thoả măn về điều này, nhưng như thế chia đủ. Anh đă mời
cha mẹ anh đến ở với anh, nhưng họ không muốn rồi Tô Cách Lan.
Các anh và chị của Jamie đều đă lập gia đ́nh. Jamie gửi những số
tiền lớn cho cha mẹ, và anh lấy thế làm sung sướng, nhưng cuộc
đời anh lúc này quá bằng phẳng. Mới mấy năm trước đây, cuộc đời
anh đă trải qua bao nhiêu thăng trầm, nhưng anh cảm thấy sinh
động. Anh thấy ḿnh sinh động khi anh và Banda điều khiển chiếc
bè vượt qua những tảng đá ngầm ở Vùng Đất Cấm. Anh thấy ḿnh
sinh động khi ḅ ngang qua những băi ḿn, xuyên qua sa mạc cát.
Jamie cảm tưởng dường như ḿnh đă không c̣n sinh động nữa một
thời gian lâu dài rồi. Anh dám thú nhận với chính ḿnh rằng anh
đang rất cô đơn.
Một lần nữa, anh với tay lấy b́nh rượu mạnh, và thấy nó đă cạn.
Anh đă uống quá nhiều rượu hơn là anh nghĩ, hay là bà Talley đă
vô ư không đổ rượu vào b́nh. Jamie đứng dậy khỏi chiếc ghế, nhặt
ly rượu, đi đến pḥng chứa thức ăn của bà quản gia, nơi cất
rượu. Anh vừa mở chai ra th́ nghe tiếng u ơ của một đứa trẻ con.
Lại thằng bé ấy rồi! Chắc là bà Talley đă giữ nó lại trong pḥng
bà ta, xa nhà bếp. Bà đă tuân theo mệnh lệnh của Jamie một cách
chặt chẽ. Anh không hề thấy thằng bé ấy trong hai ngày nó “xâm
phạm gia cư” của anh. Bây giờ anh nghe cả tiếng bà Talley đang
nói nựng với đứa trẻ.
“Cháu là một đứa bé xinh xắn lắm, phải thế không? Cháu là một
thiên thần ấy mà. Đúng như vậy đó. Một thiên thần đây mà”.
Thằng bé lại u ơ với bà ta. Jamie bước đến căn pḥng ngủ đang mở
cửa của bà Talley, rồi nh́n vào bên trong. Không hiểu bà ta đă
kiếm ra được ở đâu, một cái giường cũi, và thằng bé lại nằm
trong đó. Bà Talley đang cúi người lên nó, bàn tay của nó quấn
thật chặt ngón tay bà.
“Jamie ạ, cháu bé nhỏ mà khoẻ mạnh dữ à. Rồi cháu sẽ lớn lên và
to lớn như là… là… ". Bà ngừng bặt lại câu nói, ngạc nhiên v́
biết rằng ông chủ của bà đang đứng ở ngưỡng cửa.
“Ồ, thưa ông, ông cần tôi có việc ǵ ạ?”
“Không”. Anh bước đến chiếc giường cũi. “Tôi bị quấy rầy v́
tiếng ồn ào ở đây”. Anh đưa mắt nh́n đứa bé lần đầu tiên. Thằng
bé to lớn hơn anh tưởng. Thân h́nh hắn cân đối. Hắn có vẻ như
đang tủm tỉm cười với anh.
“Xin lỗi ông McGregor. Thằng bé này thật ngoan và khoẻ mạnh. Ông
hăy đưa ngón tay ra cho nó nắm mới thấy nó khoẻ mạnh như thế
nào”.
Jamie quay mặt lại, rồi bước ra khỏi pḥng, không nói một lời
nào.
Jamie McGregor có một số nhân viên trên năm mươi người làm việc
trong các doanh nghiệp khác nhau của anh. Không một nhân viên
nào, từ thằng bé đưa thư cho đến nhân viên điều hành cao cấp, mà
không biết lư do v́ sao Công ty Hữu hạn của họ mang tên Kruger
Brent, và lấy làm hănh diện được làm việc cho McGregor. Anh vừa
mới thâu nhận David Blackwell, một người con trai mới mười sáu
tuổi, con của một trong cách đốc công của anh, một người Mỹ từ
Oregon tới Nam Phi để t́m kim cương. Khi tiền bạc của Blackwell
đă cạn, Jamie nhận ông Blackwell vào làm việc để trong coi các
xưởng máy. Người con trai của ông đến làm việc cho công ty được
một mùa hè th́ Jamie nhận ra rằng David là một công nhân giỏi,
nên anh giao cho anh ta một việc làm thường trực. David
Blackwell thông minh, dễ mến và có nhiều sáng kiến. Jamie cũng
biết rằng anh ta rất kín đáo, v́ vậy Jamie giao cho anh ta làm
công việc vặt đặc biệt này.
“David ạ, tôi muốn anh đi đến nhà trọ của bà Owens hộ tôi. Ở đó
có một người đàn bà tên là Margaret van der Merwe”.
Nếu David Blackwell đă từng nghe tên ấy hay biết hoàn cảnh của
nàng rồi th́ anh cũng không biểu lộ ra bên ngoài. “Thưa ông,
vâng ạ”.
“Anh chỉ được nói với cô ấy mà thôi. Cô ấy để lại đứa con cho bà
quản gia tôi trông nom. Bảo cô ấy đến đây lấy nó và đưa nó ra
khỏi nhà tôi ngay ngày hôm nay”.
“Vâng, thưa ông McGregor”.
Nửa giờ sau, David Blackwell trở lại. Jamie đang ngồi ở bàn
viết, ngẩng đầu lên.
“Thưa ông, tôi e rằng tôi không làm được việc ông yêu cầu”.
Jamie đứng phắt dậy, “Tại sao? Công việc ấy dễ dàng quá mà”.
“Cô Van der Merwe không có ở nhà”.
“Thế th́ anh đi t́m nó”.
“Cô ấy rời Klipdrift hai ngày rồi. Có lẽ cô ấy sẽ trở về trong
ṿng năm ngày nữa. Nếu ông muốn tôi điều tra thêm th́…”
“Không”. Đó là điều mà Jamie không muốn anh ta làm chút nào.
“Không cần. Thế là đủ rồi. David ạ”.
“Thưa ông, vâng ạ”. Cậu bé rời khỏi văn pḥng.
Mẹ kiếp cái con đàn bà ấy! Khi nào nó trở về nó sẽ phải ngạc
nhiên. Nó sẽ phải lấy lại con nó.
Tối hôm ấy, Jamie ăn cơm ở nhà một ḿnh. Anh đang uống rượu mạnh
trong pḥng làm việc th́ bà Talley đi vào để bàn với anh một vấn
đề thông thường. Đang nói chuyện nửa chừng, bà bỗng dừng lại
lắng nghe, và nói, “Xin ông tha lỗi. Tôi vừa nghe tiếng Jamie
khóc”. Nói xong bà vội vă chạy ra khỏi pḥng.
Jamie đập mạnh chiếc ly xuống, làm rượu đổ tung toé. Cái thằng
bé khốn kiếp! Ấy thế mà con mẹ nó dám cả gan đặt tên cho nó là
Jamie. Hắn có giống một Jamie đâu. Hắn trông chẳng giống cái ǵ
hết!
Mười phút sau, bà Talley quay trở lại pḥng làm việc. Bà nh́n
thấy rượu đổ tung toé. “Ông có muốn tôi rót thêm rượu nữa không
ạ?”.
“Cái ấy không cần thiết”. Jamie nói một cách lạnh lùng. “Điều
cần thiết là bà phải nhớ bà đang làm việc cho ai. Tôi không muốn
bị quấy rầy bởi cái thằng con hoang ấy. Rơ chưa, bà Talley?”
“Thưa ông, vâng ạ”.
“Thằng bé ấy ra khỏi nhà này sớm chừng nào th́ tốt hơn cho cả bà
lẫn tôi chừng ấy. Hiểu chưa?”
Môi bà Talley mím chặt lại. “Thưa ông, vâng. C̣n ǵ nữa không
ạ?”.
“Không”.
Bà quay lại định đi ra.
“Này, bà Talley…”.
“Vâng, thưa ông McGregor?”.
“Bà bảo rằng nó đang khóc. Có phải nó ốm không?”.
“Thưa ông, không ạ. Nó chỉ đái thôi. Cần phải thay tă cho nó”.
Jamie nhận thấy cái ư tưởng này thật đáng phẫn nộ. “Thôi, thế đủ
rồi”.
Jamie hẳn đă phải giận dữ điên cuồng nếu anh biết rằng bọn đầy
tớ trong nhà ngồi với nhau hàng giờ để bàn căi với nhau về anh
và đứa con trai. Họ đều đồng ư với nhau rằng ông chủ đă cư xử
một cách vô lư, nhưng họ cũng biết rằng họ chỉ cần nhắc đến vấn
đề này thôi cũng đủ bị đuổi ra khỏi nhà ngay tức khắc. Jamie
McGregor không phải là người sẵn sang nghe lời khuyên của bất cứ
ai.
Tối hôm sau, Jamie có một phiên họp bàn công việc cho đến tận
khuya. Anh đă đầu tư vào một đường xe hoả mới. Chắc chắn, con
đường này cũng chỉ nhỏ thôi, chạy dài từ khu mỏ ở sa mạc Namib
đến De Aar, nối liền với con đường Cape Town – Kimberley, nhưng
nhờ có nó mà việc chuyên chở vàng và kim cương đến hải cảng sẽ
rẻ hơn nhiều. Con đường sắt Nam Phi đầu tiên đă được mở ra từ
năm 1860, chạy từ Dumbar đến Point, và từ lúc ấy, nhiều con
đường khác đă được thiết lập, từ Cape Town đến Wellington. Đường
sắt sẽ là huyết mạch bằng thép cho người và hàng hoá lưu thong
tư do xuyên qua trái tim của Nam Phi, và Jamie dự định góp phần
vào đó. Nhưng đó chỉ là bước đầu trong các dự tính của anh. Sau
đó sẽ là tàu thuỷ. Các tàu thuỷ của ḿnh sẽ chuyên chở các
khoáng sản xuyên qua đại dương.
Anh trở về nhà vào lúc nửa đêm, cởi quần áo, lên giường nằm ngủ.
Anh đă nhờ một nhà trang trí từ London đến bày biện cho anh một
căn pḥng ngủ đàn ông rộng lớn, với một chiếc giường đồ sộ đă
được chạm trổ ở Cape Town. Ở đó có một chiếc tủ kiểu Tây Ban Nha
cổ xưa đặt ở trong góc pḥng, và nhiều tủ áo trong đó chứa đựng
năm mươi bộ quần áo và ba mươi chiếc giày. Jamie không chú ư đến
cách ăn mặc, nhưng anh thấy cần phải có những bộ quần áo ấy ở
đó. Anh đă trải qua quá nhiều ngày và đêm ăn mặc rách rưới.
Vừa mới chợp mắt ngủ, anh chợt nghe một tiếng khóc. Anh ngồi
nhổm dậy, lắng nghe. Không có ǵ cả. Đứa bé hay sao? Chắc là nó
vừa ngă ra khỏi cái giường cũi. Jamie biết rằng bà Talley thường
ngủ rất say. Thật là kinh khủng nếu có điều ǵ xảy ra với thằng
bé ấy trong khi nó ở trong nhà anh. Như vậy, anh sẽ phải chịu
trách nhiệm. Mẹ kiếp cái con mụ đàn bà ấy! Jamie nghĩ thầm.
Anh khoác chiếc áo choàng. xỏ đôi dép vào chân, rồi đi thẳng đến
pḥng bà Talley. Anh đặt tai trên cánh cửa đóng kín, nhưng không
nghe ǵ cả. Lặng lẽ, Jamie đầy cánh cửa cho nó mở ra. Bà Talley
đang ngủ say, vùi trong chăn, ngáy như sấm. Jamie bước đến cái
giường cũi. Thằng bé đang nằm ngửa, cặp mắt mở thao láo. Jamie
lại gần hơn nữa, nh́n xuống. Lạy Chúa, sao mà nó giống thế. Rơ
ràng là nó có cái miệng và cằm của Jamie. Mắt của nó bây giờ màu
xanh, nhưng trẻ con mới sinh nào mà lại chẳng có màu xanh. Nh́n
qua, Jamie cũng có thể đoán ra rằng sau này mắt của nó sẽ là màu
xám. Nó giơ hai bàn tay bé nhỏ quờ quạng không khí, phát ra
những tiếng u ơ bé nhỏ và tủm tỉm cười với Jamie. Chà, thằng bé
này thật can đảm, nằm ở đó mà không làm ồn ào, khóc thét lên như
những đứa trẻ con khác. Anh ghé mắt nh́n gần hơn nữa. Đúng rồi,
nó là một McGregor thật sự rồi.
Rụt rè, Jamie với tay xuống, ch́a ngón tay ra. Thằng bé nắm chặt
ngón tay với cả hai bàn tay, bóp thật chặt. Nó khoẻ như một con
ḅ mộng, Jamie nghĩ thầm. Ngay lúc ấy, mặt thằng bé bỗng thờ ra,
anh ngữi thấy mùi chua chua.
“Bà Talley !”
Bà chồm dậy trên giường, đầy vẻ hoảng sợ. “Cái… cái ǵ vậy?”.
“Thằng bé đang cần bà đấy. Bà bắt tôi phải làm tất cả mọi thứ
trong nhà này hay sao?”
Nói xong, Jamie oai vệ bước ra khỏi pḥng.
“David, anh có biết chút ǵ về trẻ sơ sinh không?”
“Về phương diện nào, thưa ông?” David Blackwell hỏi.
“À, anh biết đấy chứ? Chẳng hạn như chúng thích chơi những thứ
ǵ, hay đại khái như vậy”.
Cậu con trai người Mỹ này nói, “Tôi đoán rằng khi chúng c̣n rất
nhỏ, chúng rất thích chơi lục lạc, thưa ông McGregor ạ”.
“Anh hăy đi mua cho tôi chừng một chục cái”.
“Thưa ông, vâng ạ”.
Không cần đặt ra những câu hỏi không cần thiết. Jamie muốn như
vậy. David Blackwell rồi đây sẽ tiến xa.
Tối hôm ấy, Jamie về nhà với một cái gói nhỏ màu nâu, bà Talley
nói, “Tôi muốn xin lỗi ông về việc tối hôm qua, thưa ông
McGregor ạ. Tôi không biết v́ sao mà tôi lại có thể ngủ say như
thế được. Thằng bé ấy chắc đă khóc thét ghê gớm lắm cho nên ông
mới nghe được đến tận pḥng ông”.
“Bà khỏi bận tâm về chuyện ấy”, Jamie nói với vẻ rộng lượng.
“Chừng nào có bà hoặc tôi nghe là tốt rồi”. Anh đưa gói đồ cho
bà Talley. “Đưa cái này cho thằng bé ấy. Đó là mấy cái lục lạc
để nó chơi. Làm tù nhân suốt ngày trong cái cũi ấy chắc cũng
không thích thú ǵ lắm đối với thằng bé ấy”.
“Ồ, thưa ông. Nó không phải là tù nhân. Để tôi bồng nó ra… ".
“Bà định bồng nó đi đâu?”.
“Đi ra vườn thôi ạ. Ở đó, tôi có thể trông nom nó được”.
Jamie nhăn mặt. “Đêm hôm qua, tôi thấy h́nh như nó không được
khoẻ”.
“Không khoẻ sao?”.
“Không. Màu da của nó không được tốt lắm. Không nên để cho nó bị
ốm trước khi mẹ nó đến đây nhận lại nó”.
“Vâng. Dĩ nhiên rồi”.
“Có lẽ tôi cần xem nó lại một lần nữa”.
“Thưa ông, vâng ạ. Tôi đưa nó lại đây hay sao?”.
“Phải”.
“Tôi sẽ làm ngay lập tức, thưa ông ạ”.
Ít phút sau, bà Talley trở lại, bồng đứa bé trên tay. Thằng bé
đang cầm cái lục lạc màu xanh. “Tôi thấy da dẻ nó cũng tốt, chứ
có hề ǵ đâu”.
“Ừ, có lẽ tôi lầm. Bà đưa nó cho tôi”.
Cẩn thận, bà đưa đứa bé ra cho Jamie. Anh bồng nó lên tay lần
đầu tiên. Một cảm giác là lạ tuôn khắp người anh hoàn toàn do
bất ngờ. Dường như thể bấy lâu nay anh đang mong mỏi giây phút
này, sống cho giây phút này, mà anh không hề biết. Anh đang ôm
trong ṿng tay anh máu và da thịt của chính anh – đứa con trai
của anh, Jamie McGregor con. Cần ǵ phải xây dựng một đế quốc,
một triều đại bằng kim cương, vàng và đường sắt, nếu không có ai
để anh truyền lại cho tất cả tài sản ấy. Ḿnh thật là một thằng
khờ! Jamie nghĩ thầm. Cho măi đến lúc này, Jamie mới nhận ra
được anh đang thiếu thốn những thứ ǵ. Nỗi thù hận đă làm anh mờ
mắt. Nh́n xuống khuôn mặt xinh xắn, anh cảm thấy sự cứng rắn, ở
một nơi nào đó sâu trong cốt lơi con người anh, vụt tan biến.
“Chuyển cái cũi của thằng Jamie vào trong buồng tôi, bà Talley”.
Ba ngày sau, khi Margaret xuất hiện trước cửa nhà Jamie, bà
Talley nói, “ông McGregor hiện ở văn pḥng, không có ở nhà, cô
Van der Merwe ạ, nhưng ông ấy có dặn phải mời ông ấy về khi nào
cô đến lấy thằng bé. Ông ấy muốn nói chuyện với cô”.
Margaret ngồi chờ đợi trong pḥng khách, ôm bé Jamie trong cánh
tay. Nàng nhớ con kinh khủng. Nhiều lần, trong suốt tuần lễ ấy,
nàng hầu như đă mất cả chí cương quyết, chỉ muốn nhảy xổ về
Klipdrift, v́ lo sợ có chuyện ǵ xảy ra cho đứa bé; nó có thể bị
ốm hay gặp một tai nạn nào đó. Nhưng nàng tự buộc ḿnh phải xa
đứa trẻ, và kế hoạch này của nàng đă thành công. Bây giờ, cả ba
người sẽ lại được đoàn tụ.
Lúc Jamie bước vào trong pḥng khách, Margaret một lần nữa cảm
thấy một nỗi xúc cảm quen thuộc như đang dâng tràn ngập khắp
thân thể. Lạy Chúa! Nàng nghĩ thầm, ḿnh yêu chàng quá.
“Chào cô, Maggie”.
Nàng mỉm cười, một nụ cười ấm áp, sung sướng. “Chào anh, Jamie”.
“Tôi cần có đứa con của tôi”.
Trái tim của Margaret như reo lên. “Cố nhiên, anh cần đứa con
của anh, Jamie ạ. Em không bao giờ dám nghi ngờ điều ấy”.
“Tôi sẽ lo sao cho nó được nuôi nấng tử tế. Nó sẽ có được tất cả
mọi lợi lộc mà tôi có thể đem lại cho nó, và dĩ nhiên, tôi cũng
sẽ lo liệu sao cho cô cũng có cuộc sống đầy đủ”.
Margaret nh́n anh với vẻ bối rối. “Em… em không hiểu”.
“Tôi đă nói rằng tôi cần có đứa con của tôi”.
“Tôi đă tưởng rằng… tôi muốn nói… anh và tôi sẽ…”.
“Không. Tôi chỉ cần thằng bé mà thôi”.
Margaret đột nhiên cảm thấy ḿnh bị lăng nhục. “Tôi hiểu rồi.
Vậy th́ tôi sẽ không để cho anh giành nó khỏi tôi”.
Jamie quan sát nàng trong một lát. “Được lắm, chúng ta sẽ có thể
t́m ra một giải pháp dung hoà. Cô sẽ ở lại đây với thằng bé
Jamie. Cô có thể là… là vú nuôi của nó”. Anh nh́n thẳng vào mặt
nàng. “Cô thực sự muốn ǵ nào?”.
“Tôi muốn con trai tôi có một cái tên”, nàng nói một cách giận
dữ, “tên của cha nó”.
“Được rồi, tôi sẽ nhận nó làm con nuôi”.
Margaret nh́n anh với vẻ khinh bỉ, “Nhận con tôi làm con nuôi à?
Ồ không đâu. Ông sẽ không lấy được đứa con của tôi đâu. Tôi cảm
thấy thương hại cho ông, ông McGregor vĩ đại: Dù với tiền bạc và
thế lực của ông, ông chẳng có ǵ hết, ông quả là đáng thương
thật!”
Jamie đứng sững, nh́n theo Margaret quay lưng lại rồi bước khỏi
nhà, tay bồng thằng bé.
Sáng hôm sau, Margaret sửa soạn đồ đạc để lên đường sang Mỹ.
Jamie lúc nào cũng tự hào rằng ḿnh là con người vẫn giữ được
b́nh tĩnh dù có bị áp lực. Nhưng lúc này anh đi khắp nơi, la hét
với tất cả mọi người anh thấy mặt. Văn pḥng của anh lúc nào
cũng ầm ĩ. Không có ǵ làm anh được hài ḷng cả. Anh gầm thét,
phàn nàn về tất cả mọi chuyện, không c̣n khả năng tự chủ được
nữa. Anh đă mất ngủ luôn ba đêm. Anh vẫn không quên được câu
chuyện giữa anh và Margaret vừa rồi. Con đàn bà khốn kiếp! Lẽ ra
anh phải hiểu rằng cô ấy cố buộc anh phải lấy cô ta làm vợ. Thật
là xảo quyệt, chẳng khác ǵ cha cô ấy! Anh vụng về trong cuộc
điều đ́nh ấy. Anh nói với cô ta anh sẽ chăm nom cho cô, nhưng
anh đă nói không rơ ràng. Dĩ nhiên rồi. Tiền! Lẽ ra anh nên tặng
cho cô ta một món tiền. Một ngh́n bảng Anh – mười ngh́n bảng –
và có thể hơn thế nữa.
“Tôi có nhiệm vụ tế nhị muốn giao cho anh” anh nói với David
Blackwell.
“Thưa ông, vâng ạ”
“Tôi muốn anh nói chuyện với cô Van der Merwe và bảo với cô ấy
rằng tôi sẽ cho cô ấy hai mươi ngh́n bảng Anh. Cô ấy sẽ hiểu
rằng tôi muốn có một sự trao đổi”. Jamie viết tấm ngân phiếu. Đă
khá lâu rồi, anh đă hiểu được sự thu hút mănh liệt của đồng
tiền. “Đưa cái này cho cô ta”.
Mười lăm phút sau, David trở về, trả lại tấm ngân phiếu cho
Jamie. Tấm giấy ấy đă bị xé toạc làm đôi. Jamie cảm thấy mặt
ḿnh đỏ bừng lên. “Cảm ơn, David. Thế là đủ rồi”.
Vậy ra Margaret muốn đ̣i tiền nhiều hơn nữa. Được lắm. Anh sẽ
cho cô ta. Nhưng lần này th́ anh sẽ tự tay giải quyết lấy…
Vào xế trưa hôm ấy, Jamie đi đến nhà trọ của bà Owens. “Tôi muốn
gặp cô Van der Merwe”, Jamie nói.
“Tôi e rằng chuyện ấy khó thực hiện được”, bà Owens nói. “Cô ấy
đang trên đường sang Mỹ”.
Jamie cảm thấy như ḿnh bị đấm một cú mạnh vào bụng. “Không thể
được! Cô ấy đi vào lúc nào?”
“Cô ấy cùng với thằng bé đă đáp chuyến xe đi Worcester vào lúc
mười hai giờ trưa”.
Chuyến tàu đỗ ở nhà ga Worcester đông nghẹt hành khách. Các ghế
ngồi và lối đi trong toa đầy cả hành khách đi Cape Town, nói
chuyện với nhau ồn ào. Họ là những nhà buôn, những nhà nội trợ,
những người bán hàng, người đi t́m mỏ, người “Kaffir”, binh lính
và thuỷ thủ trở về lại nơi làm việc. Đa số những người ấy đều đi
tàu hoả lần đầu tiên, nên không khí giữa các hành khách có vẻ
như ngày hội. Margaret t́m được một chỗ ngồi gần cửa sổ, để cho
Jamie khỏi bị đè bẹp bởi đám đông. Nàng ngồi ôm đứa bé trong
ḷng, không cần biết ǵ đến mọi sự xung quanh, và suy nghĩ đến
một cuộc đời mới đang chờ đợi nàng trước mặt. Cuộc đời ấy có lẽ
không dễ dàng ǵ. Dù đi đến đâu, nàng cũng là người đàn bà không
chồng mà có con, một tội lỗi đối với xă hội. Nhưng nàng sẽ t́m
một cách nào đó để đảm bảo cho con trai một cuộc sống đàng
hoàng, tử tế. Nàng nghe người soát vé gọi to, “Mời hành khách
lên xe!”.
Nàng ngước mắt nh́n lên, chợt thấy Jamie đang đứng trước mặt.
“Gom tất cả hành lư lại. Cô sẽ phải rời khỏi tàu ngay”, anh ra
lệnh.
Anh ấy tưởng có thể mua được ḿnh, nàng thầm nghĩ. “Thế lần này,
ông định đề nghị bao nhiêu tiền?”
Jamie nh́n xuống đứa con trai, đang ngủ yên trên cánh tay
Margaret. “Tôi đề nghị sẽ cưới cô”.
-----------------
Chú thích:
(1): Job: tên
một nhân vật trong Cựu ước, đă từng chịu nhiều đau khổ nhưng vẫn
không mất đức tin vào Thượng đế.
Chương 9
Họ cưới nhau ba ngày sau
trong một cuộc lễ ngắn, tổ chức riêng tư, với nhân chứng duy
nhất là David Blackwell.
Trong lễ cuới này, Jamie McGregor thấy trong ḷng tràn ngập
những cảm xúc lẫn lộn. Anh là một con người quen khống chế, vận
dụng kẻ khác, nhưng lúc này chính anh là kẻ bị vận dụng. Anh
liếc mắt nh́n sang Margaret. Đứng bên cạnh anh, nàng trông khá
xinh đẹp. Anh nhớ lại thái độ đam mê, buông lỏng của nàng, nhưng
đó chỉ là một kỉ niệm, không hơn không kém, không nồng nhiệt hay
cảm xúc. Anh đă sử dụng Margaret như một công cụ trả thù, nhưng
nàng đă sinh cho anh một đứa con thừa kế.
Ông mục sư nói, “Bây giờ, ta tuyên bố các ngươi là vợ và chồng.
Ngươi có thể hôn cô dâu đi”.
Jamie vươn người ra phía trước, hôn phớt qua trên má Margaret.
“Chúng ta về nhà nào”, Jamie nói. Con trai anh đang chờ anh.
Khi hai người về đến nhà, Jamie đưa Margaret đến một pḥng ngủ ở
một trong các chái nhà.
“Đây là pḥng ngủ của bà”.
“À, ra thế”.
“Tôi sẽ thuê một người quản gia khác, và giao cho bà Talley
trông nom Jamie. Nếu bà cần thứ ǵ cứ bảo David Blackwell”.
Margaret cảm thấy như bị giáng một cái đánh. Anh ấy coi nàng như
một gia nhân. Nhưng điều đó không quan trọng. Con ḿnh đă có một
cái tên. Đối với ḿnh như thế là đủ rồi.
Jamie không trở về nhà ăn cơm. Margaret ngồi đợi anh, nhưng cuối
cùng phải ăn một ḿnh. Đêm hôm ấy nàng nằm thao thức trên
giường, lắng nghe từng tiếng động. Đến bốn giờ sáng, cuối cùng
nàng ngủ lúc nào không hay. Ư nghĩ cuối cùng của nàng là tự hỏi
không biết Jamie đă chọn người nào trong số các cô gái ở nhà bà
Agnès.
Nếu mối liên hệ giữa Margaret và Jamie không hề thay đổi sau
ngày cưới th́ mối tương quan giữa nàng và dân thị trấn Klipdrift
đă trải qua một sự biến đổi kỳ lạ. Chỉ thoáng một cái, từ một kẻ
bị ruồng bỏ, nàng trở thành một nhân vật có quyền ở Klipdrift.
Đa số người dân trong thị trấn tuỳ thuộc bằng cách này hay cách
khác vào Jamie McGregor và Công ty Hữu hạn Kruger Brent. Họ nghĩ
rằng nếu Margaret van der Merwe đă được Jamie McGregor lựa chọn
th́ hẳn nàng cũng đáng được kính nể đối với họ. Bây giờ, mỗi khi
Margaret bồng bé Jamie ra ngoài chơi th́ nàng bắt gặp những nụ
cười, nhưng lời chào hỏi vui vẻ. Các giấy mời bắt đầu tuôn đến.
Nàng được mời tham dự những tiệc trà, những bữa ăn trưa và tối,
giúp các hội từ thiện và buộc phải đứng đầu các uỷ ban công dân
vụ. Khi nàng làm tóc theo một kiểu khác thường nào đó th́ hàng
chục các bà, các cô trong thị trấn đều cố bắt chước theo. Nàng
mua một chiếc áo dài mới màu vàng, thế là những chiếc áo màu
vàng đột nhiên trở thành phổ biến. Margaret cư xử đối với những
cử chỉ xu nịnh của họ cũng giống như trước kia nàng đối xử với
thái độ thù nghịch của họ, nghĩa là bằng một thái độ đoan trang,
b́nh tĩnh.
Jamie chỉ trở về nhà để chơi với con trai. Thái độ của anh đối
với Margaret vẫn xa vời, lễ độ. Mỗi buổi sáng vào lúc điểm tâm,
nàng đóng vai tṛ một bà vợ hạnh phúc để che mắt các gia nhân,
bất kể đến thái độ thờ ơ, lạnh lùng của người đàn ông ngồi đối
diện với nàng ở bàn ăn. Nhưng khi Jamie đă đi rồi và nàng có thể
thoát ra để trở về pḥng, nàng vẫn thường bị ướt đẫm mồ hôi.
Nàng căm ghét chính bản thân ḿnh. Ḷng tự trọng của nàng để ở
đâu? Ấy chỉ v́ nàng biết nàng c̣n yêu Jamie. Ḿnh sẽ luôn luôn
yêu anh ấy. Lạy Chúa. Người hăy giúp đỡ cho con.
Jamie ở lại Cape Town trong ba ngày để lo toan công việc. Khi
anh vừa ra khỏi khách sạn Hoàng gia, một người đánh xe mặc chế
phục hỏi, “Thưa ông dùng xe chứ ạ?”.
“Không”, Jamie nói, “Tôi đi bộ”.
“Banda nghĩ rằng có lẽ ông muốn đi xe”.
Jamie dừng lại, nh́n chằm chằm vào người ấy. “Banda?”.
“Vâng, đúng vậy. Thưa ông McGregor”.
Jamie bước lên chiếc xe ngựa. Người đánh xe quất mạnh cây roi,
họ bắt đầu lên đường. Jamie ngả người trên chiếc ghế, suy nghĩ
về Banda, về ḷng can đảm của anh ta và t́nh bạn giữa hai người.
Trong hai năm qua, anh đă cố gắng nhiều lần t́m Banda, nhưng
không có kết quả. Bây giờ anh đang lên đường để gặp người bạn
cũ.
Người đánh xe bẻ quặt chiếc xe về phía bến tàu. Ngay lập tức,
Jamie biết rằng họ đang đi đến đâu. Mười lăm phút sau, chiếc xe
dừng lại trước nhà kho vắng vẻ, nơi Jamie và Banda đă có lần
cùng bàn tính với nhau về cuộc phiêu lưu vào sa mạc Namib. Lúc
ấy chúng ḿnh là những thằng trai quá ư liều lĩnh, anh nghĩ
thầm. Anh bước ra khỏi xe, tiến lại gần nhà kho. Banda đang chờ
đợi anh ở đó. Anh ấy trông vẫn hệt như xưa kia, chỉ có khác bây
giờ anh mặc một bộ “com-plê” chỉnh tề, với sơ mi và cà vạt.
Hai người đứng ở đó, lặng lẽ nhe răng cười với nhau, rồi họ ôm
choàng lấy nhau.
“Trông anh có vẻ làm ăn thịnh vượng lắm nhỉ”, Jamie nói.
Banda gật đầu. “Tôi làm ăn cũng không đến nỗi tệ lắm. Tôi đă mua
nông trại như tôi có lần nói với anh đấy. Tôi đă có vợ và hai
đứa con trai. Tôi trồng lúa mạch và nuôi đà điểu”.
“Đà điểu?”
“Lông đà điểu đem lại rất nhiều tiền”.
“À, tôi muốn gặp gia đ́nh anh, Banda ạ”.
Jamie nghĩ đến gia đ́nh anh ở Tô Cách Lan, và anh cảm thấy rất
nhớ nhà. Anh đă xa nhà được bốn năm rồi.
“Bấy lâu nay tôi vẫn t́m anh”.
“Tôi bận lắm, Jamie ạ”. Banda xích lại gần hơn. “Tôi cần phải
gặp anh để báo trước cho anh một chuyện. Anh sắp sửa gặp rắc rối
đấy”.
Jamie nh́n kỹ Banda. “Rắc rối về chuyện ǵ?”
“Tên phụ trách mỏ Namib – Hans Zimmermans – là một tên xấu. Bọn
công nhân ghét hắn lắm. Họ đang bàn với nhau sẽ bỏ đi. Nếu họ
làm như vậy, bọn bảo vệ sẽ cố ngăn chặn họ lại, và như thế sẽ có
nổi loạn”.
Jamie vẫn nh́n Banda không rời mắt.
“Anh có c̣n nhớ tôi đă có lần tôi nói với anh về một người tên
là John Tengo Javabu không?”
“Có. Anh ta là một lănh tụ chính trị. Tôi có đọc những bài viết
về anh ta. Anh ta đang quấy động, làm nổ ra một “donderstorm”
(cơn băo táp)”.
“Tôi là một trong những người theo ông ta”.
Jamie gật đầu. “Tôi hiểu. Tôi sẽ làm tất cả những ǵ cần thiết”.
Jamie hứa.
“Tốt lắm. Anh đă trở thành một trong những người có thế lực,
Jamie ạ. Tôi mừng cho anh”.
“Cảm ơn anh, Banda”.
“Anh lại có một đứa con trai rất kháu khỉnh nữa”.
Jamie không dấu nỗi ngạc nhiên. “Làm sao anh biết được điều ấy?”
“Tôi vẫn thích theo dơi các bạn bè”. Banda đứng dậy. “Tôi phải
đi họp bây giờ đây, Jamie ạ. Tôi sẽ bảo với họ rằng mọi việc sẽ
được giải quyết và sửa chữa ở Namib”.
“Phải. Tôi sẽ lo chuyện ấy”. Jamie bước theo người da đen to lớn
ra đến cửa. “Khi nào chúng ta sẽ gặp nhau lại?”
Banda mỉm cười. “Tôi sẽ quanh quẩn bên anh mà. Anh không thể dứt
khỏi tôi dễ dàng như vậy đâu”.
Nói xong, Banda bỏ đi.
Khi Jamie trở lại Klipdrift, anh cho gọi ngay David Blackwell
đến. “Có vụ lộn xộn nào xảy ra ở Namib không, David?”
“Không, thưa ông McGregor”. Anh ta do dự một lát rồi nói tiếp,
“Nhưng tôi có nghe đồn rằng có thể có lộn xộn ở đó”.
“Viên giám thị ở đó là Hans Zimmerman. Anh hăy điều tra xem có
phải hắn đă ngược đăi công nhân hay không. Nếu đúng như vậy, anh
hăy ngăn chặn nó ngay. Tôi muốn anh đích thân đến nơi ấy xem
xét”.
“Tôi sẽ đi đến đó vào sáng mai”.
Khi David đến mỏ kim cương ở Namib, anh bỏ ra hai giờ đồng hồ
nói chuyện b́nh tĩnh với các công nhân và bọn bảo vệ. Những ǵ
anh nghe được đă khiến anh giận sục sôi lên trong ḷng. Khi đă
nắm vững được những ǵ cần biết, anh đến gặp Hans Zimmerman.
Hans Zimmerman là một tên khổng lồ Goliath. Hắn nặng trên một
trăm kí, cao chừng hai thước. Hắn có một cái mặt heo lúc nào
cũng đẫm mồ hôi, đôi mắt có những tia máu đỏ, nhưng hắn là một
trong những người dễ lôi cuốn nhất mà David Blackwell chưa từng
thấy. Hắn là một tên giám thị làm việc rất có hiệu quả cho công
ty Kruger Brent. Hắn đang ở bàn viết trong một văn pḥng nhỏ,
thân h́nh ph́ nộn của hắn có vẻ làm cho căn pḥng bé nhỏ hẳn
lại. Ngay lúc ấy, David Blackwell bước vào.
Zimmerman đứng dậy, bắt tay David. “Rất hân hạnh được gặp ông,
ông Blackwell ạ. Đáng lẽ ông nên cho chúng tôi biết ông sẽ đến,
như vậy mới phải”.
David tin chắc rằng hắn đă được nghe tin về cuộc thăm viếng của
anh rồi.
“Ông dùng uưt ki nhé?”.
“Không, cảm ơn”.
Zimmerman tựa người vào lưng ghế, nhe răng cười. “Ông cần ǵ tôi
vậy? Chúng tôi đă đào được khá nhiều kim cương, như vậy chắc ông
chủ vừa ḷng rồi chứ ǵ?”.
Cả hai biết rằng việc sản xuất kim cương ở Namib đă tiến hành
rất tốt. “Tôi bắt bọn Kaffir làm việc nhiều hơn bất cứ một ai
khác trong công ty này”.
“Chúng tôi nghe được nhiều lời kêu ca về các điều kiện làm việc
ở đây”, David nói.
Nụ cười tắt hẳn trên mặt Zimmerman. “Kêu ca như thế nào?”.
“Họ bảo rằng công nhân ở đây bị đối xử tàn tệ, và… ".
Zimmerman nhẩy chồm dậy, cử động với vẻ lạnh lẹ khác thường. Mặt
hắn đỏ bừng lên v́ giận dữ. “Chúng không phải là công nhân.
Chúng là Kaffirs. Các ông ngồi chễm chệ ở trụ sở chính làm sao
có thể… ".
“Nghe tôi nói đây này”, David nói, “Không có… ".
“Chính ông mới phải nghe tôi nói! Tôi sản xuất ra nhiều kim
cương hơn bất kỳ ai khác trong công ty, nhưng ông biết tại sao
không? Ấy là bởi v́ tôi đă làm cho bọn chó đẻ ấy phải biết sợ
Thượng đế”.
“Ở các mỏ khác”, David nói, “Chúng tôi trả năm mươi chín
shillings một tháng và nuôi ăn ở. Ông chỉ trả cho công nhân ở
đây năm mươi shillings mà thôi”.
“Vậy ra ông phàn nàn v́ tôi đă làm lợi cho các ông. Điều đáng kể
duy nhất là lợi nhuận”.
“Ông McGregor không đồng ư như vậy”. David đáp. “Hăy tăng lương
cho họ”.
Zimmerman nói với vẻ cáu kỉnh. “Được rồi. Đó là tiền của ông
chủ”.
“Tôi nghe nói có nhiều vụ đánh đập công nhân xảy ra ở đây”.
Zimmerman hứ một tiếng. “Lạy Chúa, bọn dân bản xứ có bao giờ
biết đau đâu, thưa ông. Da chúng nó dày lắm, nên dù có quất roi
túi bụi lên người, chúng cũng chẳng cảm thấy ǵ. Chỉ làm cho
chúng sợ thôi”.
“Vậy th́ chính ông đă làm cho ba công nhân sợ đến chết đó, ông
Zimmerman ạ”.
Zimmerman nhún vai, “Ở xứ sở của chúng, chúng c̣n chết nhiều
hơn”.
Thật là một con vật khát máu, David nghĩ thầm. Lại rất nguy hiểm
nữa! Anh nh́n lên tên giám thị to lớn và nói, “Nếu có nhiều rắc
rối thêm nữa ở đây, ông sẽ bị thay thế đấy”. Anh đứng phắt dậy,
“Từ nay ông phải đối đăi với họ như những con người. Phải chấm
dứt mọi sự trừng phạt ngay tức khắc. Tôi đă xem xét các nơi ăn ở
của họ. Đó là những chuồng lợn. Ông phải quét dọn sạch sẽ ngay”.
Hans Zimmerman nh́n anh trừng trừng, cố nén cơn giận dữ. Cuối
cùng hắn mới thốt ra lời. “C̣n ǵ nữa không?”.
“C̣n. Tôi sẽ trở lại đây trong ṿng ba tháng nữa. Nếu tôi không
được hài ḷng về những ǵ tôi thấy được, ông nên t́m cho ông một
công việc nào đó tại một công ty khác. Chào ông.” David quay
người lại, bước ra khỏi pḥng.
Hans Zimmerman đứng tại chỗ một lúc lâu, cảm thấy nỗi tức giận
sục sôi trong ḷng. Bọn khùng điên! Bọn “uitlanders” (1).
Zimmerman là một người Boer. Cha hắn cũng là người Boer. Đất đai
này thuộc về họ, và Chúa đă sinh ra người da đen để phục vụ cho
họ. Ví thử như Chúa muốn bọn chúng được đối xử như những con
người th́ Người đă không làm cho da chúng phải là màu đen. Jamie
McGregor không hiểu được điều đó. Nhưng ai c̣n có thể mong đợi
ǵ được ở một người “uitlander”, một kẻ yêu dân bản xứ? Hans
Zimmerman biết rằng hắn phải cẩn thận hơn chút nữa từ rày về
sau. Nhưng hắn sẽ tỏ cho bọn chúng biết ai là người có trách
nhiệm ở Namib.
Công ty Kruger Brent vẫn tiếp tục phát triển, và Jamie McGregor
thường đi vắng luôn luôn. Anh mua một xưởng làm giấy ở Canada và
một xưởng đóng tàu ở Australia. Khi có mặt ở nhà, anh chỉ chơi
với con trai. Thằng bé mỗi ngày lại càng giống cha nó. Jamie cảm
thấy hănh diện quá chừng về đứa con trai anh. Anh muốn đem nó đi
theo trong những cuộc hành tŕnh lâu dài, nhưng Margaret không
chịu để cho nó đi.
“Nó c̣n nhỏ quá, không thể đi xa được. Khi nào nó lớn hơn nữa,
nó có thể đi với anh. Nếu anh muốn gần nó, anh có thể thăm nó ở
đây”.
Con trai anh đă trải qua ngày kỉ niệm sinh nhật lần thứ nhất,
rồi thứ hai mà Jamie không ngờ đến. Anh ngạc nhiên thấy thời
gian đi quá nhanh. Lúc ấy là vào năm 1887…
Đối với Margaret, hai năm qua kéo dài lê thê. Mỗi tuần lễ một
lần, Jamie mời khách khứa đến nhà ăn cơm, và trong những bữa ăn
ấy, Margaret đóng vai một bà chủ nhà duyên dáng. Những người đàn
ông khác cho rằng nàng là một người đàn bà thông minh, dí dỏm,
và đều thích nói chuyện với nàng. Nàng biết nhiều người trong
bọn họ thấy nàng rất hấp dẫn, nhưng cố nhiên họ không bao giờ
dám tấn công công khai, v́ nàng là vợ của Jamie McGregor.
Khi người khách cuối cùng đă ra về, Margaret hỏi chồng, “Anh
thấy buổi tối vừa rồi có tốt đẹp không?”.
Jamie vẫn đưa câu trả lời giống như mọi lần, “Tốt. Chúc bà ngủ
ngon”, rồi bỏ đi để tạt qua thăm bé Jamie. Ít phút sau, Margaret
nghe tiếng cửa trước đóng lại, khi Jamie rời khỏi nhà.
Đêm này qua đêm khác, Margaret thao thức nằm trên giường, nghĩ
đến cuộc đời nàng. Nàng biết rằng nhiều người đàn bà trong thị
trấn thèm muốn được như nàng. Điều này khiến nàng đau đớn, v́
nàng biết rằng nàng chẳng có ǵ đáng thèm muốn, ao ước cả. Nàng
sống cho đến lúc tàn cuộc đời trong một thứ tṛ chơi đố với một
người chồng đối xử với nàng tệ hơn là một kẻ xa lạ. Giá như
chàng để ư đến nàng th́ không biết sẽ ra sao! Nàng tự hỏi không
biết chàng sẽ làm ǵ, nếu một buổi sáng nào đó, vào giờ ăn điểm
tâm, nàng nhấc bát cháo yến mạch, đặc biệt nhập từ cảng Tô Cách
Lan, rồi dội lên cái đầu ngu xuẩn của anh ta. Nàng tưởng tượng
thấy cái vẻ mặt của anh ta lúc ấy, và ư tưởng ngộ nghĩnh này
khiến nàng bật cười lên, rồi tiếng cười ấy biến thành tiếng nức
nở như xé ruột gan. Ḿnh không muốn yêu anh ấy nữa. Ḿnh không
muốn. Ḿnh sẽ ngăn chặn bằng cách nào đó, trước khi ḿnh bị huỷ
hoại…
Vào năm 1880, Klipdrift đă đạt đến mức sống mà Jamie vẫn hằng
mong đợi. Chỉ trong bảy năm anh sống ở đấy, nó đă trở thành một
thị trấn phát triển về đủ mọi mặt, với những người thăm ḍ mỏ
tuôn đến đây từ mọi nơi trên thế giới. Cũng vẫn là câu chuyện
xưa cũ. Họ đến đây bằng tàu hoả, xe ngựa hay đi bộ. Lúc mới đến,
họ chẳng có ǵ cả, ngoài những bộ quần áo rách rưới mặc trên
người. Họ cần có thực phẩm, đồ trang bị, nơi trú ngụ và tiền bạc
làm vốn liếng. Jamie có sẵn ở đó để cung cấp cho họ mọi thứ. Anh
đă có cổ phần của anh trong hàng chục mỏ kim cương và vàng, danh
tiếng, tên tuổi của anh mỗi lúc mỗi tăng lên. Một buổi sáng nọ,
anh đang tiếp một viên luật sư đại diện cho hăng De Beers, một
tổ hợp khổng lồ kiểm soát nhiều mỏ kim cương rất lớn ở
Kimberley.
“Ông cần tôi có chuyện ǵ?”, Jamie hỏi.
“Tôi được tổ hợp gửi đến đây để đưa ra với ông một đề nghị, ông
McGregor ạ. Hăng De Beers muốn mua hết tài sản của ông. Ông cho
giá đi”.
Thật là những giây phút điên đầu. Jamie cười chế nhạo và nói.
“Ông cứ đưa giá của các ông đi”.
David Blackwell trở thành mỗi lúc thêm quan trọng đối với Jamie.
Anh trông thấy ở người Mỹ trẻ tuổi này tất cả h́nh ảnh của anh
xưa kia. Đó là một chàng trai tính t́nh ngay thật, thông minh và
trung thành. Jamie đă dung David làm thư kí riêng của anh, sau
đó là phụ tá riêng, và cuối cùng, chàng trai hai mươi mốt tuổi
ấy trở thành một Tổng giám đốc của anh.
Đối với David Blackwell, Jamie là một người cha nuôi. Khi cha
ruột của David bị một cơn đau tim, chính Jamie đă xếp đặt cho
ông ta vào bệnh viện, và trả mọi phí tổn thuốc thang, và khi ông
ta qua đời, Jamie cũng là người lo toan tất cả mọi công việc
chôn cất. Trong năm năm làm việc với hăng Kruger – Brent, David
thấy thán phục Jamie hơn bất cứ một người nào khác anh đă từng
quen biết. Anh biết rơ vần đề rắc rối giữa Jamie và Margaret, và
rất lấy làm tiếc, bởi v́ anh yêu mến cả hai người. Nhưng David
tự nhủ, “Đó không phải là công việc của ḿnh. Công việc của ḿnh
là giúp đỡ Jamie bằng mọi cách trong phạm vi khả năng của ḿnh”.
Jamie bỏ ra mỗi lúc mỗi nhiều th́ giờ hơn với đứa con trai của
anh. Đứa bé ấy bây giờ đă năm tuổi, và sau lần đầu tiên Jamie
đưa nó đi thăm mỏ, nó không nói về vấn đề nào khác ngoài chuyện
ấy. Hai bố con cũng đi cắm trại ngoài trời với nhau, và ngủ dưới
một chiếc lều vải dưới bầu trời đầy sao. Jamie quen thuộc với
bầu trời ở Tô Cách Lan, nơi các v́ sao biết các vị trí đúng đắn
của chúng trên ṿm trời. Ở đây, tại Nam Phi này, các cḥm sao
như lẫn lộn cả. Vào tháng Giêng, sao Canopus (2) chiếu chói lọi
trên đỉnh đầu; vào tháng Năm, sao Thập tự phương Nam gần lên đến
tột đỉnh. Tháng Sáu là mùa Đông ở Nam Phi, và lúc ấy sao Ḅ cạp
chiếu rạng rỡ trên bầu trời. Thật là rắc rối khó hiểu. Thế
nhưng, Jamie vẫn có một cảm giác rất đặc biệt mỗi khi anh nằm
trên mặt đất ấm áp, nh́n lên bầu trời không có thời gian, với
đứa con trai ở bên cạnh, và biết rằng ḿnh cũng là một thành
phần của sự vĩnh cửu giống như vậy.
Hai bố con thức dậy lúc b́nh minh, bắn các loại chim rừng để làm
thức ăn. Bé Jamie có một con ngựa con riêng, và hai bố con cùng
cưỡi ngựa dọc theo thảo nguyên, cẩn thận tránh những hố sâu
chừng hai thước do những con gấu ăn kiến đào lên. Những hố này
sâu đến nỗi cả người lẫn ngựa có thể lọt xuống đó, c̣n những hố
nhỏ do loại mèo rừng đào lên.
Trong thảo nguyên cũng có thể gặp nguy hiểm. Trong một buổi đi
chơi Jamie và con trai cắm trại ở một ḷng sông, và suưt bị giết
bởi một đàn linh dương di cư. Dấu hiệu đầu tiên báo trước mối
nguy hiểm là một đám mây bụi lờ mờ ở chân trời. Những con thỏ,
chó rừng, mèo rừng chạy vụt ngang qua, và những con rắn lớn vọt
ra khỏi các bụi cây để t́m nơi ẩn nấp dưới các hốc đá. Jamie
nh́n về phía chân trời một lần nữa. Đám mây bụi tiến lại gần
hơn.
“Chúng ta hăy ra khỏi nơi này”, Jamie nói.
“Lều của chúng ta…”
“Để mặc nó ở đó !”.
Hai người vội vă nhảy lên ngựa, hướng về phía đỉnh đồi cao. Họ
nghe tiếng chân của đàn linh dương đập rồn rập như tiếng trống,
rồi thấy toán linh dương đi đầu, chạy theo một hành dài đến ít
nhất là ba dặm. Có đến trên nửa triệu con, quét sạch tất cả mọi
thứ trên đường đi của chúng. Cây bị xô ngă xuống, các bụi cây bị
xé vụn ra, và tiếp theo sau đợt thuỷ triều tàn nhẫn ấy là xác
hàng trăm con vật bé nhỏ. Thỏ, rắn, chó rừng và gà tây đều bị đè
bẹp dưới chân của đàn linh dương khủng khiếp ấy. Không khí tràn
ngập bụi mù và tiếng gầm thét ran lên như sấm, và khi cảnh tượng
này chấm dứt, Jamie ước lượng rằng nó kéo dài trên ba giờ đồng
hồ.
Vào ngày sinh nhật thứ sáu của bé Jamie, cha nó nói, “Bố sẽ đem
con đi Cape Town tuần sau để cho con thấy một thành phố thực sự
nó như thế nào”.
“Mẹ có thể nào đi với chúng ta được không, bố?”, bé Jamie hỏi.
“Mẹ không thích săn bắn, nhưng mẹ thích các thành phố”.
Cha nó xoa đầu nó và nói. “Mẹ con bận ở đây, con ạ. Chỉ có hai
cha con ḿnh đi thôi, được không?”
Thằng bé thắc mắc và lấy làm khó chịu v́ mẹ nó và cha nó có vẻ
xa cách nhau quá, nhưng lúc ấy nó chưa hiểu được v́ sao.
Hai cha con thực hiện cuộc hành tŕnh ấy bằng toa xe riêng của
họ. Vào năm 1891, xe hoả đă trở thành một phương tiện giao thông
vượt trội hơn cả ở Nam Phi, v́ nó rẻ tiền, thuận tiện và nhanh
chóng. Toa xe riêng mà Jamie đă đặt đóng để anh sử dụng là một
toa xe hoả dài trên hai mươi ba mét, và có bốn pḥng ngủ đóng
ván, có thể chứa mười hai người, một pḥng khách có thể sử dụng
như pḥng làm việc, một pḥng ăn, một pḥng tắm, và một cái bếp
trang bị đầy đủ. Các pḥng ngủ có giường đồng, đèn khí và những
cửa sổ rộng.
“Tất cả hành khách ở đâu, hở bố?” Thằng bé hỏi.
Jamie cười to, “Chúng ta là tất cả hành khách rồi. Đây là chiếc
tàu hoả của riêng chúng ta, con ạ”.
Bé Jamie nh́n qua khung cửa sổ hầu như suốt chặng đường, ngạc
nhiên trước những khoảng đất vô tận chạy vun vút ngang qua trước
mặt.
“Đây là đất của Chúa”, cha nó nói, “Người đă rải đầy ra ở đó các
thứ khoáng sản quư giá cho chúng ta. Tất cả những thứ ấy đều nằm
trong ḷng đất, chờ đợi được phát hiện ra. Những ǵ đă t́m được
cho đến nay chỉ mới là bước đầu thôi, Jamie ạ”.
Khi đến Cape Town, bé Jamie khiếp hăi trước những đám đông và
toà nhà đồ sộ. Jamie dắt con đi thăm Công ty Chuyên chở Đường bể
McGregor, rồi chỉ cho nó thấy hàng chục chiếc tàu đang bốc dỡ
hàng ở bến tàu. “Con có thấy các chiếc tàu kia không? Chúng
thuộc về cha con ḿnh đấy”.
Khi trở về Klipdrift, bé Jamie nói huyên thuyên về những ǵ nó
đă trông thấy. “Bố làm chủ cả thành phố!” thằng bé kêu lên.
“Chắc mẹ phải thích lắm. Lần sau mẹ sẽ thấy”.
Margaret kéo con vào ḷng, nói, “Phải, con yêu quư ạ”.
Jamie vắng nhà nhiều đêm. Margaret biết rằng anh đang ở tại nhà
bà Agnès. Nàng có nghe nói anh đă mua một ngôi nhà cho một trong
các cô gái ở đó để anh có thể thăm viếng cô ta một cách riêng
tư. Nàng không có cách nào biết được điều đó có thực hay không.
Margaret chỉ biết rằng, dù cô ấy là ai, nàng cũng muốn giết cô
ta.
Để giữ cho tâm trí nàng được ôn hoà, lành mạnh, Margaret tự buộc
ḿnh phải chú tâm đến những hoạt động trong thị trấn. Nàng gây
quỹ để xây dựng một ngôi nhà thờ mới, và khởi sự một chương
tŕnh giúp đỡ gia đ́nh của những người thăm ḍ mỏ đang trong cơn
túng quẫn. Nàng yêu cầu Jamie sử dụng một trong các toa xe của
anh để chuyên chở miễn phí cho những người đi t́m mỏ trở về Cape
Town sau khi đă cạn hết tiền bạc và hi vọng.
“Bà yêu cầu tôi ném tiền qua cửa sổ”, anh gầm lên. “Họ đi bộ đến
đây th́ cứ để họ đi bộ trở về như lúc mới đến”.
“Họ không có điều kiện để đi bộ nữa”, Margaret căi lại. “Và nếu
họ ở lại đây th́ thị trấn sẽ nuôi ăn, nuôi mặc cho họ”.
“Thôi được rồi”, Jamie cuối cùng càu nhàu. “Nhưng đó là một ư
tưởng điên rồ !”.
“Cảm ơn, anh Jamie”.
Anh nh́n theo Margaret bước ra khỏi văn pḥng, và bất đắc dĩ anh
phải cảm thấy một chút hănh diện nào đó về nàng. Với một kẻ nào
đó, hẳn nàng sẽ là một người vợ rất tốt, Jamie nghĩ thầm.
Tên người đàn bà mà Jamie đă cho ở tại ngôi nhà riêng ấy là
Maggie, một cô gái điếm xinh đẹp đă có lần ngồi bên cạnh
Margaret vào buổi tặng quà cho đứa bé mới sinh. Thật là mỉa mai,
Jamie nghĩ thầm trong bụng, cô gái ấy lại mang cùng tên với vợ
anh (3). Hai người chẳng có ǵ giống nhau cả. Cô Maggie này là
một cô gái tóc hoe, hai mươi mốt tuổi, với khuôn mặt khoẻ mạnh
và thân h́nh nảy nở – một con cọp cái lúc ân ái. Jamie đă trả
cho bà Agnès rất hậu hĩnh để lấy cô gái này, và đă trả cho
Maggie một số tiền trợ cấp rộng răi. Jamie rất kín đáo khi anh
đến thăm ngôi nhà nhỏ ấy. Những cuộc viếng thăm này hầu như luôn
luôn vào ban đêm, và như vậy, anh tin chắc rằng không bị ai ḍm
ngó. Thật ra, có rất nhiều người ḍm ngó anh, nhưng không một ai
dám bàn tán về chuyện ấy. Đây là thị trấn của McGregor, nên anh
có quyền làm bất cứ thứ ǵ anh muốn.
Vào một buổi tối đặc biệt hôm ấy, Jamie không thấy vui thú ǵ
lắm. Anh đă đi đến nơi này, trong ḷng hí hửng, nhưng Maggie lại
ở trong một tâm trạng cáu kỉnh. Nàng nằm dài trên chiếc giường
lớn, trong chiếc áo choàng màu hồng hở hang, “Tôi chán cái cảnh
bị nhốt trong cái nhà khốn kiếp này rồi”, nàng nói. “Như thể tôi
là một tên nô lệ hày một cái ǵ đó. Ít nhất ở nhà bà Agnès, lúc
nào cũng có một cái ǵ đó thay đổi. Tại sao mỗi khi đi nơi này
nơi kia anh lại không cho tôi đi theo?”
“Anh đă giải thích với em rồi mà, Maggie. Anh không thể…”.
Nàng chổm dậy khỏi giường, đứng trước mặt anh ra vẻ thách thức,
chiếc áo choàng mở tung ra. “Đồ phân ngựa! Anh đem con trai anh
đi khắp mọi nơi. Tôi không được bằng con trai anh hay sao?”
“Không”, Jamie nói với một vẻ b́nh tĩnh sợ. “Cô không thể bằng
con trai tôi được”. Anh bước đến quầy rượu, rót một ly rượu mạnh
cho ḿnh. Đây là ly thứ tư – anh uống nhiều hơn thường lệ.
“Tôi không ra cái quái ǵ đối với anh cả”, Maggie hét lên. “Tôi
chỉ là một miếng mông đít mà thôi”. Nàng ngả đầu ra phía sau,
cười chế nhạo, “Đúng là một anh chàng “Scotchman” vĩ đại và đạo
đức !”.
“Scot – chứ không phải là “Scotchman” (4)”.
“V́ Chúa, tôi xin anh đừng chỉ trích tôi nữa. Tất cả những ǵ
tôi làm đều chẳng hay hớm ǵ cả. Thế anh tưởng anh là cái quái
ǵ? Là bố của tôi hả”.
Jamie nghe thế đă quá đủ rồi. “Cô có thể trở về với bà Agnès
sáng mai. Tôi sẽ báo cho bà ấy biết rằng cô sẽ trở về đó”. Anh
nhặt lấy mũ, bước ra khỏi cửa.
“Anh không thể dứt bỏ tôi như vậy được, đồ chó đẻ”. Nàng đi theo
anh, điên cuồng, giận dữ.
Jamie dừng lại ở cửa. “Tôi làm như thế thật đấy”. Nói xong, anh
biến vào bóng tối.
Anh ngạc nhiên khi thấy ḿnh bước đi loạng choạng. Trí óc anh
rối mù. Có lẽ v́ anh đă uống quá bốn ly rượu mạnh. Không hẳn
thế. Anh nghĩ đến thân h́nh trần truồng của Maggie trên giường
đêm hôm ấy. Nàng đă phô trương thân h́nh, đùa rỡn với anh, rồi
co rụt lại. Nàng đùa với anh, mơn trớn anh, đưa cái lưỡi mềm của
nàng lên khắp thân h́nh anh, làm cho người anh sục sôi lên. Thế
rồi nàng bắt đầu chống lại anh, làm cho người anh nóng rực lên
mà không được thoả măn.
Về đến nhà, anh đi ngang qua hành lang trước nhà, và khi sắp sửa
trở về pḥng ḿnh, anh đi ngang qua căn pḥng đóng cửa kín của
Margaret. Ở đó có đèn chiếu sáng từ dưới cánh cửa. Đột nhiên
Jamie tưởng tượng lúc ấy Margaret đang nằm trên giường, mặc
chiếc áo choàng mỏng dính, hay có lẽ không mặc ǵ cả. Anh nhớ
đến thân h́nh đầy đặn của nàng quằn quại bên dưới anh dưới bóng
cây bên bờ sông Orange. Hướng dẫn bởi chất rượu trong người, anh
mở cửa pḥng Maragret, rồi bước vào.
Nàng đang nằm đọc sách bên cạnh ngọn đèn dầu. Nàng ngẩng mặt
lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. “Jamie… có chuyện ǵ không hay chăng?”.
“Không hay v́ tôi muốn đến thăm bà vợ của tôi một chút hay sao?”
Tiếng nói của anh lắp bắp.
Nàng mặc một chiếc áo mỏng dính, lộ rơ thân h́nh bên dưới tấm
vải trong suốt. Lạy Chúa, nàng có một thân h́nh đẹp tuyệt trần.
Anh bắt đầu cởi quần áo ra.
Margaret nhẩy chồm ra khỏi giường, cặp mắt mở to. “Anh định làm
cái ǵ vậy?”.
Jamie đá cánh cửa cho nó sập lại sau lưng, rồi bước đến gần
nàng. Chỉ trong chốc lát, anh vật ngă nàng xuống giường, rồi nằm
xuống bên cạnh. “Lạy Chúa, anh muốn… em, Maggie ạ”.
Trong lúc mơ mơ màng màng v́ men rượu, anh không biết anh đang
muốn cô Maggie nào. Nàng đă giăy giụa dữ dội. Phải, đây là con
mèo rừng bé nhỏ của anh. Anh cười ha hả khi anh đă chế ngự được
các cánh tay và chân nàng đập lên người anh túi bụi. Nhưng rồi
đột nhiên nàng chịu nhượng bộ, kéo anh lại gần và nói, “Ôi, anh
yêu quư, anh Jamie yêu quư của em. Em đang rất cần có anh”.
Trong lúc ấy, Jamie thầm nghĩ. “Lẽ ra anh không nên đối xử tệ
bạc với em như thế. Đến sáng mai, anh sẽ nói cho em biết rằng em
không phải trở về nhà bà Agnès nữa đâu”.
Khi Margaret thức dậy vào sáng hôm sau, nàng thấy ḿnh đang nằm
một ḿnh trên giường. Nàng vẫn c̣n cảm thấy thân h́nh khoẻ mạnh
của Jamie bên trong người nàng, và nghe anh nói. “Lạy Chúa, anh
muốn… em”, rồi nàng thấy trong ḷng tràn ngập một niềm vui sướng
cuồng loạn và thật hoàn toàn. Nàng vẫn xử sự đúng từ trước đến
nay. Nàng yêu chàng thật sự. Bao nhiêu lâu chờ đợi, bao nhiêu
nỗi đau khổ, cô đơn và nhục nhă, thế nhưng tất cả đều không vô
ích.
Trong suốt thời gian c̣n lại của ngày hôm ấy, Margaret sống
trong một trạng thái sung sướng, mê ly. Nàng tắm rửa, gội đầu,
thay đổi ư định đến hàng chục lần chiếc áo nàng nên mặc để có
thể làm vui ḷng Jamie nhất. Nàng đuổi người nấu ăn đi nơi khác
để nàng có thể tự tay chuẩn bị những món ăn Jamie ưa thích. Nàng
xếp đặt lại bàn ăn không biết bao nhiêu lần mới hài ḷng được về
các ngọn nến và hoa bày biện trên đó. Nàng muốn rằng buổi tối
hôm ấy thật hoàn hảo.
Jamie không về nhà ăn cơm, cũng không về nhà ngủ suốt đêm hôm
ấy. Margaret ngồi trong thư pḥng chờ đợi anh cho đến ba giờ
sáng, rồi đi vào giường một ḿnh.
Khi Jamie trở về nhà vào tối hôm sau, anh gật đầu lịch sự chào
Margaret, rồi bước thẳng đến pḥng con trai. Margaret đứng nh́n
theo anh, sững sờ, choáng váng, rồi chậm răi quay lại nh́n ḿnh
trong tấm gương soi. Tấm gương soi ấy bảo với nàng rằng chưa bao
giờ nàng trông xinh đẹp như thế, nhưng khi nh́n gần hơn nữa,
nàng không thể nào nhận ra được đôi mắt. Đó là những con mắt của
một kẻ xa lạ.
-----------------
Chú thích:
(1) uitlander: Bọn người nước ngoài.
(2) Canopus: ngôi sao sáng nhất trên bầu trời phương Nam, trong
cḥm sao Argo.
(3) Maggie là tên gọi tắt thân mật của Margaret, trong tiếng
Anh.
(4) Scot: người dân xứ Tô cách lan (Scotland). Scotchmand: cũng
là người dân Tô cách lan, nhưng thường khi được dùng với ư lăng
nhục.
Chương 10
“Tôi có tin mừng cần báo
cho bà biết, bà McGregor ạ”, Bác sĩ Teeger nói, nét mặt rạng rỡ.
“Bà sắp có con”.
Margaret sửng sốt khi nghe câu nói ấy của ông bác sĩ, không biết
ḿnh nên cười hay nên khóc. “Tin mừng à?”. Đưa một đứa trẻ khác
nữa vào trong một cuộc hôn nhân không có t́nh yêu là một điều
không thể được. Margaret không c̣n có thể chịu đựng một sự nhục
nhă như vậy. Nàng phải t́m ra một phương cách nào giải quyết.
Trong khi suy nghĩ điều này, nàng bỗng cảm thấy cơn buồn nôn
dâng lên rạo rực, mồ hôi toát ra như tắm.
Bác sĩ Teeger nói, “Buồn nôn hả?”
“Vâng, hơi một chút”.
Ông đưa cho nàng ít viên thuốc. “Uống mấy viên này, sẽ đỡ nhiều.
Sức khoẻ của bà tốt lắm, bà McGregor ạ. Không có ǵ phải lo cả.
Bà chạy đi báo tin mừng này cho ông nhà biết đi”.
“Vâng”, nàng nói với vẻ chán nản. “Tôi sẽ làm việc ấy”.
Jamie và nàng đang ngồi ở bàn ăn, bỗng nàng nói, “Em đi khám bác
sĩ sáng nay. Ông ấy nói em sắp có con”.
Không một lời nào, Jamie quăng chiếc khăn ăn xuống bàn, đứng dậy
khỏi chiếc ghế, rồi đùng đùng đi ra khỏi pḥng. Đó là lúc
Margaret nhận ra được rằng nàng có thể thù ghét Jamie cũng sâu
đậm như nàng yêu chàng.
Thời kỳ mang thai thật là khó khăn, cực nhọc. Margaret thường
nằm trên giường, mệt mỏi và yếu ớt. Nàng nằm ở đó giờ này qua
giờ khác, tưởng tượng, h́nh dung Jamie đứng ở chân nàng, đang
xin nàng tha thứ, rồi ân ái cuồng nhiệt với nàng lần nữa. Nhưng
đó chỉ là tưởng tượng mà thôi. Sự thực nàng đă bị sa vào một cái
bẫy. Nàng không có nơi nào để đi tới cả, và dù cho nàng có thể
rời nơi này được, Jamie cũng sẽ không bao giờ cho phép nàng mang
theo đứa con trai.
Bé Jamie bây giờ lên bảy rồi. Nó là một bé trai khoẻ mạnh, xinh
đẹp, trí óc lanh lẹn và vui tính. Nó gần gũi với mẹ nó nhiều
hơn, như thể nó đă ư thức được, bằng một cách nào đó, nỗi khổ sở
của nàng. Nó làm những món quà tặng nhỏ ở trường học rồi đem về
cho mẹ nó. Mỗi lần như vậy, Margaret tủm tỉm cười và cảm ơn nó,
cố gắng làm ra bộ mặt vui vẻ. Khi bé Jamie hỏi tại sao bố thường
vắng nhà vào buổi tối và không bao giờ đưa mẹ nó đi chơi th́
Margaret trả lời, “Bố là một người quan trọng, Jamie ạ. Bố làm
những việc quan trọng nên rất bận.”
Những ǵ xảy ra giữa bố nó và ḿnh là vấn đề riêng của ḿnh.
Margaret nghĩ thầm, “cho nên ḿnh không nên để bé Jamie ghét bố
nó v́ chuyện ấy.”
Việc Margaret mang bầu càng lúc càng trở nên dễ thấy. Khi nàng
ra ngoài phố, những người quen biết vẫn hay chặn nàng lại và
nói, “Chắc không lâu nữa đâu, phải không bà McGregor? Tôi đoán
lần này phải là một đứa con trai xinh đẹp giống như bé Jamie.
Ông nhà chắc là sung sướng lắm.”
Nhưng sau lưng nàng, họ nói “Thật là tội nghiệp. Bà ấy trông
xanh xao, tiều tuỵ quá. Chắc là bà ấy đă biết về con đĩ mà ông
ấy xem như là nhân t́nh…”.
Margaret cố gắng chuẩn bị cho bé Jamie tiếp nhận sư ra đời của
đứa em nó. “Con sắp có một em trai hoặc một em gái, con ạ. Lúc
ấy con sẽ có em bé để chơi với con suốt ngày. Như thế thật là
thích, con nhỉ?”
Jamie ôm mẹ hôn và nói: “Có nó bên cạnh, mẹ lại càng vui hơn, mẹ
a”.
Nghe vậy, Margaret cố ngăn chặn những giọt nước mắt đang muốn ứa
lên.
Cơn đau đẻ bắt đầu lúc 4 giờ sáng. Bà Talley cho người gọi bà
Hannah đến. Đứa bé ra đời vào đúng giữa trưa. Nó là một đứa bé
gái khoẻ mạnh, có cái miệng giống mẹ và cái cằm giống cha, tóc
quăn và đen xung quanh khuôn mặt bé nhỏ. Margaret đặt tên cho nó
là Kate. Đó là một cái tên hay, nghe có vẻ khoẻ mạnh, Margaret
nghĩ thầm. Nó sẽ cần có sức mạnh. “Chúng ta đều cần như vậy cả.
Ḿnh phải đưa các con đi xa khỏi nơi này. Ḿnh chưa biết bằng
cách nào, nhưng bắt buộc phải t́m ra”.
David Blackwell nhảy xổ vào văn pḥng của Jamie McGregor mà
không gơ cửa. Ngạc nhiên, Jamie ngước mắt nh́n lên. “Lại chuyện
quái quỷ ǵ nữa?”.
“Họ đang nổi loạn ở Namib”.
Jamie đứng phắt dậy. “Sao? Có chuyện ǵ xảy ra vậy?”
“Một đứa bé da đen bị bắt quả tang đang ăn cắp một viên kiêm
cương. Nó xẻ một cái lỗ ở dưới nách, rồi giấu viên kiêm cương
trong đó. Để cho nó một bài học, Hans Zimmerman đánh nó bằng roi
trước mặt những công nhân khác. Đứa bé ấy chết. Nó chỉ mới mười
hai tuổi”.
Mặt Jamie lộ vẻ tức giận. “Lạy chúa Jesus! Tôi đă ra lệnh ngưng
việc đánh đập ở tất cả các khu mỏ rồi mà”.
“Tôi đă cảnh cáo Zimmerman về chuyện ấy”.
“Đuổi thằng chó đẻ ấy đi”.
“Chúng tôi không t́m ra hắn”.
“Tại sao?”
“Những người da đen đă giữ hắn lại. Hoàn cảnh bây giờ không c̣n
kiểm soát được nữa”.
Jamie chụp lấy chiếc mũ, “Anh ở lại đây, trông nom mọi việc cho
đến lúc tôi trở về”.
“Tôi nghĩ ông đến đó không được an toàn đâu, ông McGregor ạ.
Người dân bản xứ bị Zimmerman giết thuộc bộ tộc Barolong. Họ
không tha thứ và không bao giờ quên. Tôi có thể…”
Nhưng Jamie đă bỏ đi rồi.
Khi Jamie c̣n cách xa mỏ kim cương mười dặm, anh có thể trông
thấy khói bốc lên. Tất cả những căn cḥi ở Namib đă biến thành
những ngọn đuốc. Lũ điên khốn kiếp! Chúng nó đốt cả nhà của
chúng. Khi chiếc xe ngựa của anh tiến lại gần hơn, anh nghe
những tiếng súng nổ và tiếng người la hét. Giữa đám đông lộn
xộn, bọn cảnh sát mặc đồng phục bắn vào các người da đen và da
màu đang cố gắng một cách tuyệt vọng để trốn thoát. Người da
trắng ít hơn, một chống chọi với mười, nhưng họ có vũ khí.
Vừa trông thấy Jamie McGregor, viên cảnh sát trưởng, Bernard
Sothey, hối hả chạy lại nói, “Thưa ông McGregor, ông đừng lo.
Chúng tôi sẽ giết sạch lũ chó đẻ ấy”.
“Giết cái con khỉ!” Jamie hét lên. “Ra lệnh cho người của ông
ngừng bắn ngay đi!”
“Sao? Nếu chúng tôi…”.
“Hăy làm như tôi bảo!” Jamie đứng nh́nh, trong ḷng giận sôi lên
khi trông thấy một người đàn bà da đen ngă gục xuống dưới tràng
đạn như mưa rào. “Bảo các người của ông dừng lại ngay”.
“Xin tuân lệnh”, viên cảnh sát ra lệnh cho một viên phụ tá, rồi
ba phút sau, tiếng súng ngưng hẳn.
Xác chết nằm la liệt ở khắp nơi. “Nếu ông muốn nghe lời khuyên
của tôi”, Sothey nói, “tôi sẽ…”
“Tôi không cần lời khuyên của ông. Đem người cầm đầu của họ lại
đây cho tôi”.
Hai người cảnh sát đem một người da đen c̣n trẻ đến nơi Jamie
đang đứng. Anh ta bị c̣ng tay, người đầy máu me nhưng không lộ
vẻ ǵ là sợ hăi cả. Anh đứng cao và thẳng, mắt như nảy lửa.
Jamie nhớ lại lời nói của Banda về ḷng kiêu hănh của người
Bantu: Isiko.
“Tôi là Jamie McGregor”.
Người ấy nhổ phẹt xuống đất.
“Những ǵ vừa xảy ra không phải do tôi gây ra. Tôi sẽ đền bù cho
các anh”.
“Ông hăy nói như vậy với các người vợ goá của họ”.
Jamie quay về phía Sothey. “Hans Zimmerman đâu rồi?”
“Chúng tôi c̣n đang t́m hắn, thưa ông”.
Jamie thấy đôi mắt của người da đen loé lên. Anh biết rằng người
ta sẽ không c̣n có thể t́m thấy Hans Zimmerman đâu nữa.
Anh nói với người da đen, “Tôi sẽ đóng cửa mỏ kim cương trong 3
ngày. Tôi muốn anh nói chuyện với các bạn của anh. Hăy lập một
danh sách những điều than phiền của các anh để tôi xem xét. Tôi
hứa sẽ hết sức công bằng. Tôi sẽ sửa đổi tất cả những ǵ sai
trái ở đây.”
Người da đen ấy nh́n anh, một vẻ nghi ngờ thoáng hiện trên nét
mặt.
“Sẽ có một viên đốc công mới phụ trách ở đây, và điều kiện làm
việc sẽ được cải thiện tử tế. Nhưng tôi mong đợi các anh sẽ trở
lại làm việc trong 3 ngày nữa”.
Viên cảnh sát trưởng nói, vẻ chưa tin. “Ông muốn nói rằng ông sẽ
thả hắn ra sao? Hắn giết một số người của tôi”.
“Sẽ có một cuộc điều tra đầy đủ và…”.
Có tiếng vó ngựa phi về phía họ. Jamie quay lại nh́n. Đó là
David Blackwell. Sự xuất hiện bất ngờ của anh ta tại nơi này
gieo một mối lo sợ trong đầu óc Jamie.
David nhảy xuống ngựa. “Thưa ông McGregor, con trai ông bị mất
tích rồi”.
Cả thế giới đột nhiên lạnh hẳn lại.
Nửa dân số Klipdrift đều rời khỏi nhà, tham gia vào cuộc lùng
kiếm. Họ đi khắp vùng thôn quê, sục sạo cống rănh, mương, khe
núi, nhưng không t́m thấy vết tích nào của thằng bé.
Jamie giống như một người bị ma làm. Thằng bé đi lang thang ở
một nơi nào đó. Chỉ thế thôi. Rồi nói sẽ trở về nhà.
Jamie đi vào buồng Margaret. Nàng đang nằm trên giường, cho đứa
con nhỏ bú.
“Có tin tức ǵ chưa?” nàng hỏi.
“Chưa, nhưng mà tôi sẽ t́m ra nó”. Anh nh́n đứa con gái nhỏ một
lát, rồi quay lưng lại, bước ra ngoài, không nói thêm một lời
nào.
Bà Talley bước vào trong pḥng, hai bàn tay xoắn lại trên chiếc
tạp dề. “Đừng có lo, bà Margaret ạ, Jamie lớn rồi. Cậu ấy biết
tự lo cho ḿnh”.
Mắt Margaret nhoà đi v́ nước mắt, “Không ai nỡ làm hại bé Jamie,
phải thế không? Điều ấy là dĩ nhiên rồi”.
Bà Talley với tay xuống, đỡ Kate từ tay Margaret.
“Bà hăy ngủ đi một lát”.
Bà bồng đứa bé vào pḥng nuôi trẻ, đặt nó vào trong chiếc giường
cũi. Kate nh́n lên bà, chúm chím cười.
“Cháu cũng nên ngủ đi một lát, cháu nhỏ ạ. Rồi đây cuộc đời cháu
cũng sẽ nhộn nhịp lắm đấy”.
Bà Talley bước ra khỏi pḥng, đóng cánh của phía sau lưng.
Đến nửa đêm, cửa sổ pḥng ngủ được mở ra khe khẽ, rồi một người
trèo vào trong pḥng. Người ấy bước đến bên chiếc giường cũi,
ném một chiếc mền lên đầu đứa bé, rồi nhắc bổng nó lên trong
cánh tay.
Banda bỏ đi cũng nhanh chóng như khi anh vừa đến.
Chính bà Talley là người đầu tiên phát hiện ra rằng bé Kate đă
mất tích. Thoạt nhiên bà tưởng rằng bà McGregor đă đến đây vào
lúc nửa đêm và bồng nó đi. Bà đến pḥng Margaret và hỏi, “Đứa bé
đâu rồi?”
Nh́n thấy nét mặt Margaret lúc ấy, bà biết ngay lập tức chuyện
ǵ đă xảy ra.
Một ngày nữa đă qua, nhưng vẫn chưa t́m thấy vết tích của bé
Jamie. Jamie gần như ngă quỵ. Anh đến gần Blackwell và hỏi, “Anh
có nghĩ rằng có chuyện ǵ không hay đă xảy ra với bé Jamie
không?”. Giọng anh hầu như không kiềm chế nổi sự xúc động.
David cố thuyết phục, “Chắc chắn không có ǵ xảy ra, ông
McGregor ạ”.
Nhưng anh không chắc điều ấy. Anh đă cảnh báo McGregor rằng
người Bantu không dễ tha thứ, cũng không dể quên, và chính một
người Bantu đă bị giết một cách tàn nhẫn. David chắc chắn một
điều: nếu người Bantu đă bắt cóc bé Jamie th́ chắc chắn rằng
thằng bé sẽ phải chịu một cái chết khủng khiếp, v́ họ muốn mạng
phải đền mạng.
Jamie trở về nhà vào lúc b́nh minh trong t́nh trạng kiệt quệ.
Anh đă hướng dẫn một toán người t́m kiếm, gồm có dân thị trấn,
người đi đào mỏ, cảnh sát viên và lục soát tất cả mọi nơi để t́m
thằng bé, nhưng không có kết quả.
David đang chờ đợi th́ Jamie bước vào pḥng đọc sách. David liền
đứng dậy nói, “Ông McGregor ạ, con gái ông vừa bị bắt cóc”.
Jamie nh́n anh ta chằm chằm trong sự im lặng, nét mặt tái nhợt.
Anh quay người lại, bước vào pḥng ngủ.
Đă bốn mươi tám giờ đồng hồ rồi, anh không hề chợp mắt. Anh ngă
xuống giường, hoàn toàn kiệt sức, rồi lăn ra ngủ. Anh đang ở
dưới một cây baobab (1) to lớn, và ở xa xa, ngang thảo nguyên
không có vết chân người, một con sư tử đang tiến gần về phía
anh. Bé Jamie vẫy tay gọi anh. “Dậy đi, bố, một con sư tử đang
đến ḱa!”. Con vật bây giờ tiến lại phía họ nhanh hơn. Con trai
anh lay người anh mạnh hơn nữa. “Dậy đi!” Jamie mở choàng mắt
ra. Banda đang đứng nh́n xuống người anh. Jamie định mở lời,
nhưng Banda đă đặt tay lên miệng anh.
“Im!” Anh để cho Jamie ngồi dậy.
“Con trai tôi đâu rồi?” Jamie hỏi.
“Nó chết rồi”.
Căn pḥng bắt đầu quay cuồng.
“Tôi rất ân hận. Tôi đến trễ quá không kịp ngăn họ lại. Người
của anh đă làm đổ máu người Bantu. Đồng bào tôi đ̣i hỏi phải trả
thù”.
Jamie vùi mặt vào hai bàn tay. “Ôi lạy chúa, bọn chúng đă làm ǵ
thằng bé ấy?”
Giọng Banda đượm vẻ buồn sâu sắc. “Họ để nó lại trong sa mạc.
Tôi… tôi t́m ra xác của nó, rồi đem đi chôn”.
“Ồ không thể thế được! Không thể như thế được!”
“Tôi cũng đă cố cứu nó, Jamie ạ”.
Jamie chậm răi gật đầu chấp nhận điều ấy. Rồi anh buồn bă hỏi,
“Thế con gái tôi th́ sao?”
“Tôi đă đem nó đi xa trước khi bọn chúng đến đây để bắt nó. Rồi
đây, nó sẽ trở lại pḥng ngủ của nó, vẫn c̣n đang ngủ. Nó sẽ
không bị hề hấn ǵ, nếu anh làm như anh đă hứa”.
Jamie ngước mắt nh́n lên. Mặt anh giống như một chiếc mặt nạ thù
hận. “Tôi sẽ giữ lời hứa. Nhưng tôi muốn những kẻ nào đă giết sẽ
phải trả giá”.
Banda lặng lẽ nói: “Như vậy anh sẽ phải giết toàn thể bộ tộc của
tôi, Jamie ạ”.
Nói xong, Banda bỏ đi.
Đó chỉ là một cơn ác mộng, nhưng nàng cố khép mắt lại thật chặt,
bởi v́ nàng biết rằng nếu nàng mở ra, cơn ác mộng sẽ trở thành
hiện thực, và hai đứa con của nàng sẽ chết. V́ vậy, nàng tự bày
ra một tṛ chơi. Nàng sẽ giữ cho mắt nàng khép thật chặt, cho
đến khi nàng cảm thấy bàn tay bé nhỏ của Jamie đặt lên tay nàng
nói: “Không hề ǵ đâu, mẹ ạ. Chúng con đang ở đây. Chúng con đều
an toàn”.
Nàng đă nằm trên giường suốt ba ngày, không nói chuyện với ai,
không nh́n ai. Bác sĩ Teeger đến, rồi lại đi, nhưng Margaret
không hề biết. Đến nửa đêm, Margaret đang nằm trên giường, khép
mắt lại, bỗng nàng nghe một tiếng rơi đánh sầm phát ra từ pḥng
của con trai. Nàng mở mắt ra, lắng nghe. Lại thêm một tiếng nữa.
Bé Jamie đă trở về!
Margaret vội vă rời khỏi giường, chạy dọc hành lang đến cánh cửa
khép lại của pḥng con nàng. Qua cánh cửa nàng nghe những âm
thanh lạ lùng như tiếng thú vật. Tim nàng đập cuồng loạn, nàng
đẩy cho cánh cửa mở ra.
Chồng nàng đang nằm trên sàn nhà, mặt và thân h́nh méo mó co
quắp. Một mắt khép lại, c̣n mắt kia th́ mở ra nh́n lên nàng với
vẻ quái dị. Anh như đang cố gắng nói điều ǵ, nhưng những lời lẽ
phát ra nghe như tiếng ùng ục của một con vật.
Margaret th́ thào, “Ôi, Jamie, Jamie”.
Bác sĩ Teeger nói, “Tôi e rằng tin này không hay lắm cho bà, bà
McGregor ạ. Chồng bà bị một cơn đau tim nặng. Chỉ có năm mươi
phần trăm sống sót thôi. Nhưng nếu ông ấy sống được th́ cũng
giống như một thực vật thôi. Tôi sẽ thu xếp để đưa ông ấy vào
một dưỡng đường tư để người ta chăm sóc ông cho tử tế”.
“Không”.
Ông bác sĩ nh́n Margaret với vẻ ngạc nhiên. “Không cái ǵ?”
“Không có bệnh viện nào cả. Tôi muốn ông ấy ở đây với tôi”.
Ông bác sĩ suy nghĩ một lát. “Thôi cũng được. Bà sẽ cần một nữ y
tá. Tôi sẽ thu xếp…”.
“Tôi không cần điều dưỡng viên, tôi sẽ tự tay chăm sóc cho
Jamie”.
Bác sĩ Teeger lắc đầu. “Không thể như thế được, bà McGregor ạ.
Bà không hiểu những ǵ liên hệ đến chuyện này. Ông nhà không c̣n
hoạt động như một con người nữa. Ông ấy hoàn toàn bị tê liệt, và
sẽ măi măi như vậy cho đến lúc chết”.
“Tôi sẽ săn sóc cho ông ấy”.
Lúc này, Jamie mới thực sự, và cuối cùng đă thuộc về nàng.
-----------------
Chú thích:
(1) baobab: một loại cây cao và to ở Ấn Độ và Phi Châu, có vỏ
rất dày và sợi của nó được dùng để làm dây thừng.
Chương 11
Jamie Mc Gregor sống được
đúng một năm kể từ ngày anh bắt đầu lâm bệnh, nhưng đó là thời
gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Margaret. Jamie hoàn toàn
bất lực. Anh không nói chuyện được, cũng không cử động. Margaret
săn sóc cho chồng, chăm chút từng nhu cầu của anh, ngày cũng như
đêm. Ban ngày, nàng đỡ anh ngồi dậy trong chiếc xe đẩy trong
pḥng may vá, và trong khi nàng đan những chiếc áo len, may
những chiếc áo choàng cho anh, nàng nói chuyện với anh. Nàng bàn
luận về những vấn đề nhỏ nhặt trong nhà trong cửa, mà anh chưa
hề bao giờ được nghe nói trước đó, rồi nàng kể cho anh nghe về
bé Kate đă tiến bộ ra sao. Đến đêm, nàng bồng thân h́nh gầy như
bộ xương của Jamie đến pḥng ngủ của nàng, nhẹ nhàng đặt anh lên
giường bên cạnh nàng. Nàng đắp chăn cho anh, rồi hai người mở
đầu cuộc nói chuyện lảm nhảm một chiều cho đến khi Margaret bắt
đầu thấy buồn ngủ.
David Blackwell điều hành mọi công việc của công ty
Kruger-Brent. Thỉnh thoảng, David đem giấy tờ đến nhà để
Margaret kư, và cảm thấy đau nhói trong ḷng mỗi khi trông thấy
t́nh trạng bất lực của Jamie. Ta chịu ơn người này về tất cả mọi
phương diện, David thầm nghĩ.
“Anh đă chọn người rất khéo, Jamie ạ.” Margaret nói với chồng.
“David là một người rất tốt” Nàng đặt đồ thêu xuống, tủm tỉm
cười. “Anh ta làm cho em nhớ lại anh xưa kia. Tất nhiên, chưa
bao giờ có ngựi nào thông minh, tài giỏi như anh, anh yêu quư
ạ, và sẽ không bao giờ có một người như vậy nữa đâu. Anh trước
kia là một người rất đẹp đẽ, mạnh khoẻ và tốt bụng. Anh không e
ngại mơ tưởng những việc cao xa, thế nhưng bây giờ, tất cả những
giấc mơ của anh đều trở thành sự thật. công ty của ta mỗi ngày
mơi lớn mạnh. Nàng nhặt đồ thêu lên, tiếp tục làm việc. “Bé Kate
đă bắt đầu nói chuyện được rồi. Em chắc chắn rằng sáng nay nó đă
biết kêu: “Mẹ!” được rồi…”
Jamie được chống đỡ để ngồi dậy trong chiếc xe đẩy, một mắt nh́n
chằm chằm về phía trước.
“Bé Kate có cặp mắt và cái miệng của anh. Lớn lên nó sẽ rất xinh
đẹp.”
Sáng hôm sau, khi Margaret thức dậy, Jamie McGregor đă chết.
Nàng ôm anh trong ṿng tay, áp sát vào người ḿnh.
“Anh hăy yên nghỉ, anh yêu quư. Hăy yên nghỉ. Em lúc nào cũng
yêu anh rất nhiều, Jamie ạ. Em hi vọng anh hiểu cho điều ấy.
Vĩnh biệt anh, người yêu thân thiết của riêng em.”
Bây giờ nàng sống cô đơn. Chồng và con trai nàng đă rời bỏ nàng
ṛi. Chỉ c̣n có nàng và đứa con gái. Margaret đi vào pḥng đứa
bé, nh́n xuống Kate đang nằm ngủ trong chiếc giường cũi.
Katherine, Kate. Tên đấy là do chữ Hi Lạp có nghĩa là trong
sáng, tinh khiết. Đó là một cái tên dành cho các vị thánh, các
nữ tu và các bà hoàng.
Margaret nói thật to: “Con sẽ trở thành người nào trong các vị
ấy, hở Kate?”
Lúc ấy là vào thời ḱ bành trướng mạnh mẽ ở Nam Phi, nhưng cũng
là một thời ḱ đấu tranh kịch liệt. Cuộc tranh giành vùng
Transvaal vẫn dai dẳng giữa người Boer và người Anh, và cuối
cùng nổ bùng ra. Ngày thứ năm, 12 tháng 10 năm 1899, vào ngày
sinh nhật thứ bảy của Kate, người Anh tuyên chiến với người
Boer, và ba ngày sau Tiểu bang Tự do Orange bị tấn công. David
cố gắng thuyết phục Margaret rời Nam Phi, cùng với Kate, nhưng
Margaret từ chối.
“Chồng tôi ở đây”, nàng nói.
David không c̣n có cách nào thuyết phục được nàng. Anh nói với
Margaret: “Tôi sẽ gia nhập nhóm người Boer. Bà có thể lo toan
mọi việc được không?”
“Cố nhiên là được”, Margaret nói. “Tôi sẽ giữ cho công ty vẫn
tiếp tục hoạt động.”
Sáng hôm sau, David lên đường.
Người Anh nghĩ rằng họ sẽ chiến thắng dễ dàng và nhanh chóng. Đó
chỉ là một cuộc hành quân áp đảo mà thôi, v́ vậy, họ đi vào cuộc
chiến với tinh thần tin tưởng, vô tư và vui vẻ như một ngày nghỉ
lễ. Trong các trại lính Hyde Park ở London, người ta tổ chức một
bữa ăn tiễn chân binh sĩ, với một thực đơn đặc biệt trên đó có
vẽ một người lính Anh giơ tay cao một cái khay đựng thủ cấp của
một con lợn rừng. Các món ăn trên thực đơn toàn những món được
đặt tên bằng các vùng đất, thị trấn, thành phố Nam Phi: chẳng
hạn, ṣ huyết Blue Points, thịt cừu Mafeking, củ cải Transvaal,
nước sốt Cape Town, phó mát Hà Lan, rượu Orange v.v…
Nhưng đến Nam Phi, người Anh đă vấp phải một ngạc nhiên lớn.
Người Boer ở trên lănh thổ của họ nên họ rất cứng rắn và cương
quyết. Cuộc chiến đấu đầu tiên diễn ra ở Mafeking, chỉ lớn hơn
một ngôi làng một chút, và đây cũng là lần đầu tiên họ nhận thức
được kẻ thù của họ như thế nào. Nhiều đạo quân nữa được nhanh
chóng chở từ nước Anh đến. Họ bao vây Kimberley, và chỉ sau một
cuộc chiến đấu hung dữ, đẫm máu, họ mới tiến chiếm được
Ladysmith. Các đại pháo của người Boer có tầm xa hơn các đại
pháo của người Anh, v́ vậy người ta phải gỡ các súng tầm xa trên
các chiến hạm Anh, chuyển vào đất liền, và dùng các thuỷ thủ
điều khiển các khẩu súng lớn ấy ở cách xa các chiến thuyền của
họ đến hàng trăm dặm.
Ở Klipdrift, Margaret hăm hở theo dơi tin tức của mỗi trận đánh.
Nàng và những người xung quanh nàng sống bằng các tin đồn; tâm
trạng của họ thay đổi từ vui mừng đến thất vọng, tuy theo mỗi
tin tức nhận được. Rồi một buổi sáng nọ, một nhân viên của
Margaret chạy xộc vào văn pḥng nàng và nói, “Tôi vừa nghe tin
quân Anh đang tiến về phía Klipdrift. Họ sẽ giết tất cả chúng
ta”
“Vô lư! Họ không dám đụng đến chúng ta đâu.”
Năm giờ đồng hồ sau đó, Margaret McGregor đă trở thành một tù
nhân chiến tranh.
Margaret ôm Kate được đến Paardeberg, một trong hàng trăm trại
tù binh đă mọc lên khắp Nam Phi. Tù nhân được nhốt trong những
vùng đất rộng lớn có dây kẽm gai bao bọc xung quanh và do lính
Anh vơ trang canh giữ. Điều kiện ăn ở tại đó thật tệ hại.
Margaret ôm Kate vào ḷng và nói, “Đừng có lo, con ạ. Sẽ không
có chuyện ǵ xảy ra với chúng ta đâu.”
Nhưng không một ai tin điều đó. Mỗi ngày lại ghi nhận thêm nhiều
chuyện kinh khủng. Họ trông thấy những người xung quanh chết,
đông hàng chục, hàng trăm, rồi đến hàng ngh́n người. Không có
bác sĩ, thuốc men cho những người bị thương, lương thực th́ hiếm
hoi. Cơn ác mộng ấy vẫn cứ tiếp diễn thường trực trong hầu hết
ba năm đau khổ ấy. Tệ hại nhất là cảm giác hoàn toàn bất lực.
Margaret và Kate hoàn toàn phó mặc số phận cho những bữa cơm,
nơi trú ẩn và cả đới sống của họ nữa. Kate sống trong sự kinh
hăi. Cô nh́n thấy trẻ xung quanh bị chết, và lo sợ rằng cô sẽ là
kẻ kế tiếp. Cô bất lực, không giúp đỡ ǵ được cho mẹ và cho bản
thân, đó là một bài học mà cô sẽ không bao giờ quên được. Quyền
lực. Giá như ta có sức mạnh, ta sẽ có thức ăn. Ta sẽ có thuốc.
Ta có tự do. Cô nh́n thấy những kẻ xung quanh ốm rồi chết, rồi
cô cân nhắc giữa quyền lực và sự sống. Kate tự nhủ, “Một ngày
kia, ta sẽ có quyền lực. Không một ai có thể làm như thế này đối
với ta nữa đâu.”
Những trận chiến dữ dội vẫn tiếp diễn – ở Belmont, Graspan,
Stormberg và Spiocnkop – nhưng cuối cùng, những người Boer anh
dũng đă chứng tỏ họ không phải là những địch thủ cân xứng của đế
quốc Anh mạnh mẽ. Vào năm 1902, sau gần ba năm chiến tranh, đẫm
máu, người Boer đầu hàng. Năm mươi lăm ngàn người Boer chiến
đấu, và ba mươi bốn ngàn binh lính, đàn bà, trẻ con của họ đă
chết. Nhưng điều đă khiến cho những kẻ sống sót cảm thấy cay
đắng sâu sắc, ấy là khi họ biết rằng hai mười tám ngàn người
trong số đó đă chết trong các trại tập trung của người Anh.
Vào ngày các cánh cổng của trại giam được mở tung ra, Margaret
và Kate trở lại Klipdrift. Ít tuần lễ sau, vào một ngày chủ nhật
yên tĩnh, David Blackwell đến thăm họ. Chiến tranh khiến cho anh
trở nên già dặn hơn, nhưng anh vẫn là anh chàng David nghiêm
trang, biết suy nghĩ chín chắn, mà Margaret trước kia đă tin
cậy. David đă trải qua ba năm kinh khủng ấy trong chiến đấu, và
luôn luôn lo lắng không biết Margaret và Kate c̣n sống hay đă
chết. Khi trông thấy họ được an toàn, anh cảm thấy một nỗi vui
mừng tràn ngập.
“Tôi ước ao làm sao có thể che chở được cho bà và cô Kate.”
David nói với Margaret.
“Tất cả chuyện ấy thuộc về quá khứ rồi, David ạ. Chúng ta chỉ
nên nghĩ đến tương lai mà thôi.”
Và tương lai ấy là công ty Kruger-Brent.
Đối với thế giới, năm 1900 là một bảng đá c̣n trinh bạch trên đó
lịch sử sẽ được viết ra, một thời đại mới hứa hẹn thanh b́nh và
hi vọng không bờ bến cho mọi người. Một thế kỷ mới bắt đầu, đem
lại những phát minh ḱ diệu làm thay đổi đời sống trên toàn cầu.
Máy hơi nước, xe tự động chạy bằng điện được thay thế bởi máy
nổ. Có tàu ngầm và máy bay. Dân số thế giới bùng nổ đạt đến con
số một tỉ rưỡi người. Đó là thời ḱ tăng trưởng và bành trướng,
và trong sáu năm kế tiếp đó, Margaret và David đă tận dụng được
tất cả mọi cơ hội làm ăn tốt đẹp.
Trong những năm ấy, Kate lớn lên, hầu như không có ai trông nom.
Mẹ nàng quá bận bịu với công việc điều hành công ty cùng với
David nên không chú ư được nhiều đến Kate. Cô là một đứa trẻ
ngang tàng, cứng cổ, ngoan cố, khó bảo. Một bữa trưa nọ, khi
Margaret trở về nhà sau một buổi họp công việc, nàng thấy cô con
gái mười bốn tuổi đang lăn lộn trong sân đầy bùn, đấm đá với hai
đứa con trai. Margaret trố mắt nh́n con, kinh hăi, khó tin.
“Chết thật!”, nàng nói th́ thầm trong miệng, “Đó là đứa con gái
một ngày kia sẽ điều khiển cả Công ty Hữu hạn Kruger-Brent. Cầu
chúa phù hộ cho tất cả chúng tôi!”
Chương 12
Một đêm mùa hè nóng nực vào
năm 1914, Kate McGregor đang ngồi làm việc một ḿnh trong văn
pḥng tại toà nhà trụ sở chính của Công ty Hữu hạn Kruger-Brent,
bỗng nghe có tiếng xe hơi tiến lại gần. Nàng đặt tập hồ sơ đang
xem giở xuống, bước đến cửa sổ, nh́n ra ngoài. Hai chiếc xe cảnh
sát và một chiếc xe tuần tra đă dừng lại trước toà nhà. Kate
đứng nh́n, nhăn mặt lại, trong khi sáu người cảnh sát mặc đồng
phục nhảy ra khỏi xe, vội vă chặn các cổng ra vào toà nhà. Lúc
ấy đă khuya, đường phố vắng tanh. Kate bắt gặp h́nh ảnh của ḿnh
phản chiếu lờ mờ trên kính cửa. Nàng là một phụ nữ xinh đẹp với
cặp mắt xám nhạt của cha và h́nh dáng đầy đặn của mẹ.
Có tiếng gơ trên cánh cửa văn pḥng. Kate gọi to: “Cứ vào.”
Cánh cửa mở ra, hai người mặc đồng phục bước vào. Một người đeo
huy hiệu chức vụ thanh tra cảnh sát.
“Chuyện ǵ xảy ra thế?”. Kate hỏi.
“ Tôi xin lỗi đă quấy rầy cô vào giờ này, cô McGregor. Tôi là
Thanh tra Cominsky.”
“Có vấn đề ǵ vậy, ông Thanh tra?”
“Chúng tôi nhận được báo cáo cho biết có một tên giết người vượt
ngục vừa mới đi vào toà nhà này.”
Vẻ kinh ngạc hiện rơ trên nét mặt Kate. “Vào toà nhà này?”
“Thưa cô, vâng ạ. Hắn có vũ khí và rất nguy hiểm.”
Kate nói với vẻ lo sợ: “Vậy tôi rất cảm ơn, ông Thanh tra ạ, nếu
ông t́m ra được hắn và đưa hắn ra khỏi nơi này.”
“Đó chính là điều chúng tôi dự định làm đó. Cô McGregor ạ. Vậy
cô có thấy hay nghe cái ǵ khả nghi không?”
“Không. Nhưng tôi ở đây một ḿnh, và có rất nhiều nơi người ta
có thể ẩn nấp được. Tôi muốn ông cho người các ông lục soát nơi
này thật kĩ.”
“Chúng tôi sẽ khởi sự ngay bây giờ.”
Viên thanh tra quay lại, gọi những người đang đứng trong hành
lang, “Toả ra khắp nơi. Bắt đầu bằng hầm nhà, rồi soát đến tận
mái nhà.” Ông ta quay lại Kate, “Có pḥng nào khoá kín không?”
“Chắc là không”, Kate nói, “Nhưng nếu có, tôi sẽ mở ra cho ông.”
Thanh tra Cominsky trông thấy vẻ lo sợ rơ rệt ở nàng, nhưng ông
không thể trách ǵ được. Nàng chắc hẳn c̣n cuống lên nữa nếu
biết được rằng kẻ mà họ đang t́m kiếm nguy hiểm đến như thế nào.
“Chúng tôi sẽ t́m ra hắn,” ông ta cố trấn an Kate.
Kate nhặt tờ báo cáo nàng đang đọc giở, nhưng không thể nào tập
trung được. Nàng nghe tiếng cảnh sát sục sạo khắp toà nhà, từ
pḥng này đến pḥng kia. Không biết họ có t́m ra hắn không nhỉ?
Nàng rùng ḿnh.
Các cảnh sát viên di chuyển chậm chạp, lục lọi một cách có
phương pháp từng ngơ ngách từ hầm nhà lên đến mái nhà. Bốn mươi
lăm phút sau, viên thanh tra Cominsky trở lại pḥng giấy của
Kate.
Nàng nh́n vào mặt ông ta. “Ông không t́m ra hắn?”
“Chưa, nhưng xin cô đừng lo…”
“Tôi lo lắm, ông thanh tra ạ. Nếu có một tên giết người vượt
ngục lẻn vào trong toà nhà này, tôi rất mong ông t́m ra hắn.”
“Chắc chắn sẽ t́m được, thưa cô McGregor. Chúng tôi có chó săn.”
Từ nơi hành lang, nàng nghe có tiếng chó sủa, và một lát sau,
một người huấn luyện chó săn đi vào với hai con chó săn giống
Đức to lớn buộc ở đầu sợi dây.
“Những con chó này đă lục lọi khắp toà nhà, thưa ông. Chỉ c̣n
văn pḥng này là chưa lục soát thôi.”
Viên thanh tra quay về phía Kate. “Cô có lúc nào rời khỏi văn
pḥng này trong chừng một giờ qua không?”
“Có, tôi đi t́m ít giấy tờ trong pḥng chứa hồ sơ. Ông nghĩ rằng
hắn có thể…” Nàng rùng ḿnh. “Tôi muốn ông lục soát văn pḥng
này hộ tôi.”
Viên thanh tra ra hiệu lệnh. Người huấn luyện thả chó ra khỏi
sợi dây, ra lệnh, “T́m đi!”
Hai con chó như điên cuồng. Chúng chạy đến một cánh cửa đóng kín
sủa ầm ĩ.
“Ôi, Lạy Chúa!” Kate kêu lên. “Hắn ở trong đó!”
Viên thanh tra rút súng ra. “Mở cánh cửa ấy ra!” Ông ra lệnh.
Hai viên cảnh sát tiến đến cánh cửa tủ ăn sâu vào tường, tay lăm
lăm khẩu súng, rồi kéo cánh cửa mở ra. Chiếc tủ trống rỗng. Một
con chó lại chạy đến một cánh cửa khác, cào lên đó dữ dội.
“Cửa này dẫn đến đâu vậy?”
“Đến một pḥng rửa ráy.”
Hai viên cảnh sát đứng thủ thế ở hai bên cánh cửa, rồi giật mạnh
nó ra. Không ai bên trong đó cả.
Viên huấn luyện chó có vẻ bối rối: “Những con chó này không bao
giờ hành động như vậy trước đây.” Hai con chó chạy cuồng loạn
quay căn pḥng. “Chúng đă đánh hơi được rồi. Nhưng hắn ta ở đâu
kia chứ?”
Cả hai con chó chạy đến một ngăn kéo ở bàn viết của Kate và tiếp
tục sủa.
“À, tôi hiểu ra rồi,” Kate cố cười lên thật to. “Hắn ta ở trong
ngăn kéo của tôi đấy.”
Viên thanh tra Cominsky tỏ vẻ bối rối, “Tôi xin lỗi đă quấy rầy
cô, thưa cô McGregor.” Rồi quay về phía viên huấn luyện, ông ta
gắt lên, “Đem mấy con chó ra khỏi đây!”
“Ông không bỏ đi chứ?” Giọng Kate đượm vẻ lo ngại.
“Thưa cô McGregor, tôi có thể cam đoan với cô rằng cô hoàn toàn
không gặp nguy hiểm ǵ cả. Người của tôi đă lục lọi từng ngơ
ngách trong toà nhà này rồi. Tôi có thể đưa ra lời bảo đảm rằng
tên ấy không có ở đây. Tôi e rằng đây chỉ là một vụ báo động hăo
thôi. Tôi xin lỗi cô.”
Kate nuốt nước bọt đánh ực một cái. “Chắc ông cũng biết ông đă
làm một người đàn bà phải lo sợ đến thế nào vào buổi tối như thế
này.”
Kate đứng ở cửa sổ nh́n ra, theo dơi cho đến khi chiếc xe hơi
cuối cùng của cảnh sát đă đi ra. Khi họ đă biến mất hút, nàng mở
ngăn kéo bàn viết, rút ra một đôi giày vải đẫm máu. Nàng mang nó
xuống hành lang, đến một cánh cửa có ghi ḍng chữ “Pḥng riêng,
chỉ dành cho nhân viên có thẩm quyền”, rồi nàng đi vào. Căn
pḥng này trống trơn, chỉ có một tủ sắt lớn, xây hẳn vào trong
tường. Đó là hầm chứa kim cương của Công ty Kruger-Brent trước
khi được chở xuống tàu. Kate quay các con số trên tủ sắt, rồi
kéo cánh cửa đồ sộ ra. Hàng chục hộp sắt bằng kim khí được gắn
hẳn vào các cạnh của hầm, tất cả đều chứa đầy kim cương. Ở ngay
giữa hầm này, có một người gần như bất tỉnh nằm ngay trên sàn.
Đó là Banda.
Kate quỳ xuống bên cạnh anh. “Bọn họ đi rồi”
Banda chậm răi mở mắt ra, cố mở một nụ cười yếu ớt. “Nếu tôi có
cách nào ra khỏi cái hầm này, cô có biết tôi sẽ giàu có đến như
thế nào không, cô Kate?”
Kate đỡ Banda đứng dậy. Anh nhăn mặt lại đau đớn khi nàng sờ vào
cánh tay anh. Nàng đă băng bó cho anh, nhưng máu vẫn rỉ ra qua
lớp vải.
“Bác có đi giày lấy được không?” Chính nàng đă cởi đôi giày ấy
ra cho anh trước đó, và để đánh lạc hướng các chó săn mà nàng
biết thế nào cũng được đưa đến đây, nàng xỏ chân vào đôi giày ấy
và đi ḷng ṿng trong văn pḥng, rồi đem giấu chúng trong ngăn
kéo.
Bây giờ, Kate nói, “Nào, chúng ta phải rời ngay đây.”
Banda lắc đầu nói, “Tôi sẽ đi một ḿnh. Nếu họ bắt gặp cô giúp
đỡ cho tôi th́ chắc chắn sẽ có lôi thôi to.”
”Cứ để một ḿnh tôi lo chuyện ấy.”
Banda đưa mắt nh́n một ṿng xung quanh hầm.
“Bác có cần đem theo một it kim cương không? Xin bác cứ lấy tự
nhiên.”
Banda nh́n vào mặt Kate, và nhận ra rằng cô đă nói nghiêm chỉnh.
“Bố cô đă từng nói với tôi như vậy xưa kia.”
Kate cười ngượng nghịu, “Tôi biết”
“Tôi không cần tiền. Tôi chỉ cần phải rời khỏi thị trấn này một
thời gian.”
“Bác nghĩ làm thế nào ra khỏi Johannesburg được?”
“Tôi sẽ t́m cách.”
“Nghe đây này. Cảnh sát đă chặn tất cả các ngả đường. Mọi nơi ra
vào thành phố đều bị canh gác. Một ḿnh bác không có cơ may nào
đi lọt đâu.
Banda nói một cách bướng bỉnh, “Cô đă giúp tôi quá nhiều rồi.”
Anh đă xỏ được đôi giày vào chân. H́nh dáng anh trông thật là
tiều tuỵ. Anh đứng ở đấy, mặc chiếc áo sơ mi và áo vét rách rưới
đẫm máu. Mặt anh đầy sẹo, tóc bạc, nhưng khi Kate nh́n anh, nàng
thấy anh vẫn là con người cao lớn, đẹp đẽ giống như nàng trông
thấy anh lần đầu tiên, khi nàng c̣n là một đứa trẻ nhỏ.
“ Bác Banda ạ, nếu người ta bắt được bác, họ sẽ giết bác đấy,”
Kate lặng lẽ nói, “Bác sẽ đi với tôi.”
Nàng biết nàng đă nói đúng về các nút chặn của cảnh sát. Mọi ngơ
ra vào Johannesburg đều được canh gác kĩ bởi các toán tuần tra
cảnh sát. Việc tóm bắt Banda được coi là ưu tiên hàng đầu và các
nhà chức trách đă được lệnh đem anh ta về, dù là sống hay chết.
Các nhà ga xe hoả và đường xá cũng đều được canh chừng.
“Tôi hi vọng rằng cô có một kế hoạch hay hơn là kế hoạch của bố
cô xưa kia,” Banda nói. Giọng anh yếu hẳn. Kate tự hỏi không
biết anh đă mất bao nhiêu máu.
“Bác đừng nói chuyện nữa. Hăy dành sức khoẻ lại. Để mọi thứ cho
tôi lo liệu.” Giọng Kate có vẻ chắc chắn hơn sự tin tưởng của
chính nàng. Mạng sống của Banda nằm trong tay nàng, và nàng
không thể nào chịu đựng được, nếu có chuyện ǵ xảy ra với Banda.
Một lần nữa, có lẽ đây là lần thứ một trăm, nàng ao ước rằng
David đừng phải đi xa. Lúc này, nàng sẽ phải giải quyết mọi thứ
mà không có sự giúp đỡ của David.
“Tôi sẽ đánh xe ṿng đến lối đi.” Kate nói. “Bác chờ tôi độ mười
phút rồi bác hăy đi ra ngoài. Tôi sẽ để mở cánh cửa sau của
chiếc xe. Bác hăy lẻn vào xe, nằm ở dưới sàn. Sẽ có một tấm mền
ở đó để bác phủ lên người.”
“Kate ạ, chúng nó lục lọi mọi chiếc xe hơi rời thành phố.”
“Chúng ta sẽ không đi bằng xe hơi, bác ạ. Sẽ có một chuyến tàu
hoả đi Cape Town vào lúc tám giờ sáng. Tôi sẽ ra lệnh cho nối
toa xe riêng của tôi vào đó.”
“Thế cô định đưa tôi ra khỏi nơi này bằng toa riêng của cô à?”
“Đúng vậy.”
Banda cố nở một nụ cười. “Những người trong họ McGregor của cô
quả thực chỉ thích những chuyện hồi hộp, gay cấn!”
Ba mươi phút sau, Kate lái xe đến băi xe hoả. Banda nằm trên sàn
xe ở ghế sau, nấp dưới một tấm mền. Họ không gặp rắc rối ǵ khi
đi qua các nút chặn trong thành phố, nhưng khi chiếc xe hơi của
Kate đi vào trong băi đậu xe hoả, bỗng có ánh đèn loé lên, Kate
thấy rằng con đường đă bị ngăn chặn bởi nhiều cảnh sát viên. Một
dáng người quen thuộc tiến đến gần chiếc xe hơi.
“Thanh tra Cominsky!”
Ông ta có vẻ ngạc nhiên. “Cô McGregor, cô định làm ǵ ở đây?”
Nàng nh́n ông ta, nở một nụ cười rất nhanh, có vẻ lo sợ, “Chắc
ông sẽ cho tôi là một người đàn bà ngớ ngẩn, yếu đuối, ông thanh
tra ạ, nhưng thú thật với ông, chuyện xảy ra vừa rồi ở văn pḥng
làm cho tôi sợ mất hồn vía. Tôi đă quyết định rời khỏi thành phố
này cho đến khi nào các ông bắt được tên giết người các ông đang
lùng kiếm ấy. Thế các ông đă bắt được hắn chưa?”
“Thưa cô, chưa ạ. Nhưng thế nào rồi cũng bắt được. Tôi có linh
cảm rằng hắn sẽ đến băi xe hoả này. Hắn có chạy đằng trời cũng
không thoát được.”
“Tôi cũng hi vọng là như vậy.”
“Cô định đi đâu?”
“Toa xe riêng của tôi đang đậu ở đằng kia. Tôi sẽ dùng toa ấy để
đi Cape Town.”
“Cô có cần một số người của tôi đi theo hộ tống không?”
“Ồ, cảm ơn ông thanh tra, nhưng điều đó không cần thiết lắm. Bây
giờ tôi cảm thấy nhẹ nhơm hơn nhiều v́ biết có ông và các nhân
viên của ông ở đây.”
Năm phút sau, Kate và Banda đi vào chiếc toa xe an toàn. Nơi ấy
tối đen như mực.
“Xin lỗi. Tôi không muốn đốt đèn lên.” Kate nói.
Nàng đỡ Banda lên giường nằm. “Bác sẽ ở đây an toàn cho đến sáng
mai. Khi chúng ta bắt đầu khởi hành, bác sẽ nấp trong pḥng tắm
rửa.”
Banda gật đầu, “Cám ơn cô.”
Kate kéo các tấm che ở cửa sổ. “Bác có bác sĩ nào săn sóc bác
khi chúng ta đến Cape Town hay không?”
Banda ngước mặt lên hỏi: “Chúng ta?”
“Bác nghĩ rằng tôi có thể để cho bác đi một ḿnh hay sao? Như
vậy th́ c̣n ǵ là vui thú nữa?”
Banda ngả đầu về phía sau, cười lớn, “Thật đúng là cha nào con
nấy!”
Vào lúc b́nh minh vừa rạng, một đầu xe hoả đến kéo toa xe riêng
của Kate đến con đường ray chính, ráp vào phía sau đoàn tàu sắp
đi Cape Town. Toa xe lắc lư một lát khi được ráp nối với đoàn
tàu.
Đúng tám giờ, chiếc tàu rời khỏi ga. Kate đă nhắn nhủ mọi người
rằng nàng không muốn bị ai quấy rầy. Vết thương của Banda đang
chảy máu. Kate lo chăm sóc cho anh. Nàng chưa có dịp hỏi han
Banda từ đêm hôm trước, khi Banda loạng choạng bước vào văn
pḥng nàng trong t́nh trạng gần như chết. Bây giờ nàng mới nói.
“Bác Banda, bác hăy kể lại cho tôi nghe chuyện ǵ đă xảy ra.”
Banda ngước mắt lên nh́n Kate và suy nghĩ. Bắt đầu bằng chỗ nào
bây giờ? Làm sao mà giải thích cho Kate nghe về chuyện những
người Boer đă đẩy lui người dân Bantu ra khỏi đất đai tổ tiên
của họ? Phải chăng mọi sự khởi đầu từ đấy? Hay là anh bắt đầu kể
từ câu chuyện tên khổng lồ Oom Paul Kruger, Tổng thống
Transvaal, đă từng nói trong bài diễn văn đọc tại Quốc Hội:
“Chúng ta phải là chúa tể của bọn da đen, và bắt ḍng giống
chúng nó phải thần phục chúng ta…” Hay là bắt đầu với câu chuyện
về Cecil Rhodes, người xây dựng đế quốc vĩ đại, đă từng đưa ra
phương châm, “Phi châu là của người da trắng?” Anh làm thế nào
tóm lược lịch sử của dân tộc anh chỉ trong một câu nói? Nhưng
anh đă nghĩ ra được một cách. Banda nói, “Bọn cảnh sát đă giết
con trai tôi.”
Câu chuyện lúc này bắt đầu tuôn ra. Người con trai đầu của
Banda, tên là Ntombenthle, đang tham dự một cuộc mít tinh chính
trị th́ cảnh sát đến giải tán. Nhiều phát súng bắn ra, rồi cuộc
nổi loạn bắt đầu. Ntombenthle bị bắt, rồi sáng hôm sau người ta
thấy anh bị treo cổ trong xà lim. “Chúng nó bảo rằng đó là một
vụ tự vẫn.” Banda kể. “Nhưng tôi biết rơ thằng con trai tôi. Đó
là một vụ ám sát.”
“Lạy Chúa, anh ấy c̣n ít tuổi quá,” Kate th́ thào. Nàng nhớ lại
những lúc chơi đùa, cười cợt với nhau, Ntombenthle là một đứa
con trai xinh đẹp. “Tôi rất lấy làm tiếc, bác Banda, ạ. Rất lấy
làm tiếc. Nhưng tại sao họ lại săn đuổi bác?”
“Sau khi cúng nó giết thằng bé, tôi bắt đầu tập hợp những ngời
da đen lại. Tôi phải chống trả lại chúng nó, Kate ạ. Tôi không
thể khoanh tay ngồi đó mà không làm ǵ cả. Bọn cảnh sát gọi tôi
là kẻ thù quốc gia. Chúng bắt tôi về tội ăn cướp mà tôi không hề
có nhúng tay, rồi xử tôi hai mười năm tù. Bốn người trong số
chúng tôi vượt ngục. Một tên lính gác bị bắn chết, thế là chúng
trút cả tội lỗi lên đầu tôi. Tôi chẳng bao giơ cầm khẩu súng
trong đời tôi.”
“Tôi tin bác,” Kate nói. “Việc đầu tiên tôi cần phải làm là đưa
bác đến một nơi an toàn.”
“Tôi rất tiếc đă khiến cho cô dính líu đến việc này.”
“Bác không khiến cho tôi phải dính líu việc ǵ cả. Bác là bạn
của tôi mà.”
Banda mỉm cười. “Cô có biết người da trắng đầu tiên đă gọi tôi
là bạn, đó là ai không? Bố cô đó.” Anh thở dài. “Làm thế nào mà
cô lén đưa tôi ra khỏi tàu hoả ở Cape Town được?”
“Chúng ta sẽ không đi Cape Town.”
“Nhưng chính cô đă nói là…”
“Tôi là một phụ nữ. Tôi có quyền thay đổi ư kiến.”
Vào giữa đêm hôm ấy, khi chiếc tàu dừng lại ở ga Wercester, Kate
thu xếp cho chiếc toa riêng của nàng được tháo rời khỏi đoàn tàu
và kéo đến một đường ray bên cạnh. Khi thức dậy vào buổi sáng,
nàng đă đi đến chiếc giường vải của Banda. Chiếc giường trống
trơn. Banda đă bỏ đi rồi. Anh đă từ chối không muốn cho nàng
phải liên luỵ. Kate lấy làm buồn v́ chuyện này, nhưng nàng tin
chắc rằng Banda sẽ được an toàn. Bác ấy sẽ có nhiều bạn bè chăm
nom cho bác. David sẽ lấy làm hănh diện về ḿnh, Kate nghĩ thầm.
“Tôi không thể tin nổi v́ sao cô có thể ngu xuẩn đến như vậy.”
David gầm lên, khi Kate trở về nhà từ Johannesburg, và kể cho
anh nghe mọi chuyện. “Không những cô gây nguy hại cho sự an toàn
của bản thân cô, mà c̣n đặt công ty trong một t́nh trạng nguy
hiểm. Nếu cảnh sát bắt được Banda ở đây, cô có biết họ làm ǵ
không?”
Kate trả lời với vẻ thách thức: “Có chứ. Chúng nó sẽ giết bác
ấy.”
David ṿ đầu bứt tai. “Cô chẳng hiểu chút ǵ cả hay sao?”
“Anh nói đúng đấy, tôi hiểu lắm chứ. Tôi hiểu rằng anh là con
người lạnh lùng, vô cảm xúc.” Mắt nàng bừng lên giận dữ.
“Cô vẫn là một đứa bé con thôi.”
Nàng giơ bàn tay lên định đánh anh, nhưng David đă kịp giữ lấy
tay nàng lại. “Kate, cô phải biết dằn cơn giận dữ của ḿnh.”
Những tiếng nói ấy dội lại trong đầu óc Kate. “Kate, cô phải
biết dằn cơn giận dữ của ḿnh.”
Đă khá lâu rồi, khi nàng mới bốn tuổi, giữa lúc nàng đang đấm đá
với một đứa bé trai dám trêu chọc nàng, th́ David xuất hiện, làm
cho thằng bé ấy bỏ chạy. Kate sắp sửa đuổi theo hắn th́ David
chụp lấy nàng. “Ngưng lại, Kate. Cô phải biết dằn lại cơn giận
dữ của ḿnh. Con gái không đấm đá như thế bao giờ.”
“Tôi không phải là con gái nhỏ,” Kate gắt lên. “Thả tôi ra.”
David đành phải thả nàng ra.
Chiếc áo màu hồng của nàng dính đầy bùn và rách rưới, một bên má
bị bầm.
“Để tôi lau sạch cho cô trước khi mẹ cô bắt gặp,” David nói.
Kate nh́n theo thằng bé đang chạy trốn với vẻ luyến tiếc. “Nếu
như anh để mặc tôi th́ tôi đă nện cho hắn một trận nên thân
rồi.”
David nh́n xuống khuôn mặt bé nhỏ hầm hầm, rồi cười to lên. “Cô
có thể làm như thế thật đấy.”
Kate dịu đi, để mặc cho David bồng nàng lên, đưa về nhà. Nàng
thích được bồng trong tay David.Anh là người lớn duy nhất có thể
cảm thông với nàng. Mỗi khi anh trở lại thị trấn, anh thường
chơi với nàng. Vào những lúc rảnh rỗi, Jamie McGregor đă từng kể
cho David nghe về những cuộc phiêu lưu của anh với Banda, và bây
giờ đây, David kể lại những câu chuyện ấy cho Kate. Nàng nghe mà
không biết chán.
“Anh hăy kể cho tôi nghe về chiếc bè mà bố tôi và Banda đă đóng
đi.”
Rồi David kể cho nàng nghe.
“Anh kể cho tôi nghe về chuyện những con cá mập đi. Kể cho tôi
về sương mù ở bể, gọi là “mis” ấy. Kể cho tôi nghe về cái ngày
mà…”
Kate ít khi gặp được mẹ. Margaret qua bận rộn về việc điều hành
các công việc của Công ty Kruger-Brent. Nàng làm những việc ấy
thay cho Jamie.
Margaret vẫn nói chuyện với Jamie mỗi đêm, y hệt như những năm
trước khi chàng qua đời. “David giúp đỡ cho ḿnh rất đắc lực,
Jamie ạ. Rồi khi nào Kate đứng ra điều khiển Công ty, nó sẽ có
David ở bên cạnh. Em không muốn làm anh phải lo lắng, nhưng thực
sự em không biết xử trí như thế nào với con bé ấy…”
Kate là một cô gái bướng bỉnh, ngoan cố, và quá quắt. Nàng không
chịu tuân theo lời mẹ dạy hay bà Talley. Nếu họ chọn cho nàng
một chiếc áo dài nào đó để mặc. Kate thường gạt nó sang một bên,
mặc chiếc áo khác. Nàng cũng không chịu ăn uống đàng hoàng. Nàng
ăn những ǵ nàng thích, bất cứ khi nào nàng muốn, mà không ai có
thể hăm doạ hay dụ dỗ nàng thay đổi ư kiến được. Khi nào bắt
buộc phải đi dự một tiệc sinh nhật nào đó, nàng t́m mọi cách để
phá hỏng mọi dự tính. Nàng không có bạn gái, từ chối không chịu
theo lớp học khiêu vũ. Thay vào đó, nàng dùng th́ giờ chơi bóng
bầu dục với bọn con trai. Khi Kate bắt đầu đi đến trường, nàng
đă nổi tiếng là tinh nghịch, đến nỗi Margaret phải đến gặp bà
hiệu trưởng mỗi tháng một lần để xin lỗi cho Kate và để nàng
khỏi bị đuổi ra khỏi trường.
“Tôi không hiểu được cô ấy, bà McGregor ạ,” bà Hiệu trưởng thở
dài nói, “Cô ấy thông minh tuyệt vời, nhưng chống đối tất cả mọi
thứ. Tôi không biết xử trí với cô ấy như thế nào.”
Cả Margaret cũng chịu không biết xử trí ra sao.
Người duy nhất có thể xử trí được với Kate là David. “Tôi biết
rằng cô được mời dữ lễ sinh nhật trưa hôm nay.” David nói.
“Tôi ghét các buổi sinh nhật.”
David cúi xuống ngang tầm mặt Kate rồi nói: “Tôi biết cô không
thích, Kate ạ. Nhưng cha cô bé có buổi tiệc sinh nhật ngày hôm
nay là một người bạn thân của tôi. Nếu cô không đi dự và cư xử
như là cô gái đàng hoàng th́ tôi bẽ mặt với người ta quá.”
Kate nh́n thẳng vào mặt David, “Ông ấy là một người bạn tốt của
anh à?”
“Phải.”
“Vậy th́ tôi sẽ đi dự.”
Thái độ, cử chỉ của nàng trưa hôm ấy thật là không chê vào đâu
được.
“Tôi không hiểu bằng cách nào anh làm như vậy được.” Margaret
nói với David. “Thật giống như là phép lạ.”
“Cô ấy chỉ có tính kiêu ḱ.” David cười và nói. “Lớn lên rồi sẽ
hết thôi. Điều quan trọng là ḿnh nên cẩn thận, không t́m cách
phá vỡ nó đi.”
“Tôi muốn nói với anh một điều bí mật này,” Margaret nói với vẻ
tức giận, “Nhiều lúc tôi chỉ muốn bẻ găy cổ nó ra thôi.”
Lúc Kate lên mười, nàng nói với David, “Tôi muốn gặp Banda.”
David nh́n nàng ngạc nhiên. “Tôi e rằng chuyện ấy không thể thực
hiện được, Kate ạ. Nông trại của Banda cách đây xa lắm.”
“Anh bằng ḷng đi với tôi đến đó, hay là anh muốn tôi đi một
ḿnh?”
Tuần lễ kế tiếp đó, David đưa Kate đến nông trại của Banda. Đó
là một mảnh đất khá lớn, chừng hai mẫu, ở đó Banda trồng lúa
mạch, nuôi cừu và đà điểu. Khu ăn ở là những túp lều h́nh tṛn
với tường trát bùn khô. Nhiều chiếc cột chống đỡ một mái nhà
h́nh chóp, lợp bằng rơm. Banda đứng ở trước cửa nh́n chiếc xe
của David và Kate đi đến, rồi cả hai rời khỏi xe. Banda nh́n cô
gái mặt mũi nghiêm trang đang ngượng ngùng đứng bên cạnh David,
rồi nói, “Tôi có thể đoán ra được ngay rằng đây là con gái của
Jamie McGregor.”
“ Và tôi cũng có thể đoán chắc bác là Banda,” Kate nói một cách
nghiêm nghị. “Tôi đến để cảm ơn bác đă cứu sống cha tôi.”
Banda cười. “Chắc có người nào đó đă kể lại cho cô nghe rồi chứ
ǵ. Vào trong này đi, để tôi giới thiệu với mọi người trong gia
đ́nh tôi.”
Bà vợ của Banda là một người đàn bà Bantu xinh đẹp, cô tên là
Ntame. Banda có hai con trai, Ntombenthle, lớn hơn Kate bảy
tuổi, và Magena, hơn Kate sáu tuổi. Ntombenthle là h́nh ảnh thu
nhỏ lại của cha anh. Nó cũng có những nét đẹp trai, dáng diêu
hănh và vẻ chững chạc giống như bố.
Suốt cả trưa hôm ấy, Kate nô đùa với hai đứa con trai của Banda.
Chúng ăn cơm trong một căn bếp của ngôi nhà nhỏ, ngăn nắp trong
nông trại. David cảm thấy hơi cấn cái khi ăn cơm với một gia
đ́nh da đen. Anh kính trọng Banda, nhưng theo truyền thống,
không có những cuộc giao tiếp thân mật giữa hai sắc tộc. Thêm
vào đó nữa, David lo ngại về các hoạt động chính trị của Banda.
Có nhiều báo cáo cho biết rằng Banda là một môn đệ của John
Tengo Javabu, mà ông này đang tranh đấu cho những thay đổi quyết
liệt trong xă hội. V́ các chủ mỏ không t́m ra đủ số người dân
bản xứ để làm việc cho họ nên chính phủ đă đặt một thứ thuế mười
shiling đánh vào những người dân bản xứ nào không làm phu mỏ, v́
vậy có nhiều cuộc nổi loạn nổ ra ở khắp nơi tại Nam Phi.
Lúc trời đă gần về chiều, David nói với Kate, “Ta nên bắt đầu
lên đường trở về nhà đi, Kate. Đường xa lắm.”
“Chưa đâu.” Kate quay về phía Banda. “Bác kể cho cháu nghe về
chuyện những con cá mập đi.”
Từ đó trở đi, mỗi khi David có mặt trong thị trấn, Kate thường
bắt anh đưa nàng đến thăm Banda và gia đ́nh.
Lời bảo đảm của David rằng Kate lớn lên sẽ mất tính kiêu ḱ đi
vẫn chưa thấy có dấu hiệu nào được thực hiện. Nếu có sự thay đổi
ǵ chăng th́ người ta chỉ thấy nàng mỗi ngày mỗi thêm ngang
bướng. Nàng từ chối thẳng thừng không chịu tham gia vào các hoạt
động của các cô gái khác cùng lứa tuổi với nàng. Nàng cứ khăng
khăng đ̣i đi vào trong các mỏ cùng với David, và anh cũng phải
tham dự cùng với nàng vào các cuộc săn bắn, câu cá và cắm trại.
Kate rất thích các hoạt động như vậy. Một hôm, khi Kate và David
đi câu cá ở sông Vaal, và Kate kéo lên được một con cá hồi lớn
hơn bất cứ con cá nào David đă câu được, anh nói: “Lẽ ra cô là
một đứa con trai mới phải.”
Nàng quay lại về phía David, tỏ vẻ bực bội, “ Đừng có nói bậy,
David. Nếu thế th́ làm sao tôi lấy được anh.”
David cười.
“Chúng ḿnh sẽ cưới nhau, anh biết không?”
“Tôi e rằng không được Kate ạ. Tôi lớn hơn cô đến hai mươi tuổi.
Cũng khá lớn tuổi để có thể đóng vai một ông bố của cô được. Một
ngày kia, cô sẽ gặp một chàng trai, một chàng trai trẻ rất dễ
thương…”
“ Tôi không thích một chàng trai trẻ dễ thương” nàng nói một
cách ranh mănh. “Tôi chỉ thích anh thôi.”
“Nếu cô nói thật sự nghiêm chỉnh, vậy th́ tôi sẽ bảo chô cô biết
điều bí mật đối với trái tim của một người đàn ông nhé,” David
nói.
“Anh nói cho tôi biết đi!” Kate hăm hở giục.
“Qua cái dạ dày của chàng trai ấy. Hăy rửa sạch con cá hồi ấy để
chúng ta cùng ăn trưa.”
Trong đầu óc của Kate, nàng không có một chút nghi ngờ nào rằng
nàng sẽ lấy David Blackwell. Chàng là ngựi đàn ông duy nhất
trên thế giới này đối với nàng.
Mỗi tuần lễ một lần, Margaret mới David đến ăn cơm tối tại ngôi
nhà lớn. Như thường lệ, Kate thích ăn cơm tối trong bếp cùng các
gia nhân, v́ ở đấy nàng không cần phải để ư đến thái độ, cử chỉ.
Nhưng vào những tối thứ sáu, khi David đến, Kate ngồi trong
pḥng ăn lớn. David thường đến một ḿnh, nhưng đôi khi anh cũng
đem đến một khách mời phụ nữ, thế là Kate đâm ra ghét những
người ấy ngay lập tức.
Kate thường gọi David ra một chỗ riêng và nói với một vẻ dịu
dàng, ngây thơ, “Tôi chưa hề bao giờ thấy tóc ai có sắc thái tóc
vàng như thế cả”, hay, “Chắc hẳn cô ấy có cái “gu” đặc biệt về
quần áo, phải thế không?” hay “Cô ấy có phải là một trong các cô
gái điếm ở nhà bà Agnès không?”
Khi Kate được mười bốn tuổi, bà hiệu trưởng mời Margaret đến.
“Trường học do tôi điều khiển vẫn nổi tiếng là một trường học
đàng hoàng, có uy tín, bà McGregor ạ. Tôi sợ rằng cô Kate, con
bà, có thể tạo ảnh hưởng xấu.”
Marganet thở dài, “Lần này th́ nó đă làm những tṛ ǵ?”
“Cô ấy dạy bọn trẻ con khác thứ ngôn ngữ chúng không hề bao giờ
nghe trước đó”. Mặt bà tỏ vẻ tức giận. “Tôi có thể nói thêm,
thưa bà McGregor ạ, rằng chính tôi cũng chưa hề nghe một số từ
ấy bao giờ. Tôi không hiểu cô bé đă nhặt được những tiếng ấy ở
đâu”
Nhưng Margaret hiểu Kate đă nhặt được lối nói ấy từ các bạn bè
của nó trên đường phố, “Thôi được”, Margaret quyết định, “Bây
giờ là lúc cần phải chấm dứt tất cả những chuyện như thế”.
Bà hiệu trưởng nói, “Tôi ước mong rằng bà sẽ chỉ bảo cô ấy.
Chúng tôi cho cô ấy thêm một cơ hội nữa để sửa chữa, nhưng…”
“Không. Tôi có ư kiến tốt hơn thế. Tôi sẽ cho Kate đi học xa
nhà”
Khi Margaret nói với David về ư định này, th́ David cười và nói,
“Cô ấy sẽ không thích như vậy đâu”
“Tôi không thể làm khác thế được. Lần này, bà hiệu trưởng phàn
nàn về thứ ngôn ngữ mà Kate vẫn dùng. Nó đă học thứ ngôn ngữ ấy
từ những người đi t́m kim cương mà nó lúc nào cũng quấn lấy xung
quanh. Con gái tôi bắt đầu giống hệt như họ qua giọng nói, dáng
điệu và cả cái mùi hôi hám của họ nữa. Nói thật với anh, David
ạ, tôi không hiểu nó chút nào. Tôi không biết v́ sao nó có tư
cách như vậy. Nó xinh đẹp, nó thông minh, nó…”
“Có lẽ cô ấy quá thông minh”
“Thôi được, quá thông minh hay không, tôi cũng sẽ cho nó đi học
xa nhà”
Khi Kate trở về nhà hôm ấy, Margaret tiết lộ cho nàng biết tin
này. Kate đùng đùng nổi giận, “Mẹ cố t́m cách dứt bỏ con”.
“Dĩ nhiên là không rồi, con yêu quư ạ. Mẹ chỉ nghĩ rằng con sẽ
được sống thoải mái hơn…”
“Con sống ở đây thoải mái hơn. Tất cả các bạn bè của con đều ở
đây. Mẹ cố tách rời con ra xa bạn bè”
“Nếu con muốn nói về hạng người hạ lưu ấy th́ con…”
“Họ không phải là hạng người hạ lưu. Họ cũng tốt như bất cứ ai”
“Kate ạ, mẹ không muốn căi với con. Con sẽ đến ở trong một kí
túc xá dành cho các cô gái con nhà tử tế. Mẹ đă quyết định như
thế rồi, không thể thay đổi ǵ nữa”
“Con sẽ tự tử” Kate doạ.
“ Được rồi, con ạ. Ở trên gác có sẵn con dao cạo đấy, và nếu
chịu khó t́m xung quanh, con chắc chắn cũng sẽ t́m thấy nhiều
loại thuốc độc khác nhau trong nhà này”
Kate bật khóc “Xin mẹ đừng làm như vậy với con, mẹ ơi!”
Margaret ôm con gái vào ḷng. “Như vậy là để cho con nên người,
Kate ạ. Chẳng bao lâu nữa con sẽ là một thiếu nữ rồi. Con sẽ đến
tuổi lấy chồng. Không một người đàn ông nào chịu lấy một đứa con
gái nói năng ăn mặc và có thái độ, cử chỉ như con đâu”
“Mẹ nói thế là không đúng” Kate sụt sịt nói “David đâu có để ư
đến những thứ ấy”
“David th́ có liên quan ǵ đến chuyện này?”
“Chúng con sẽ lấy nhau mà”
Margaret thở dài “Để mẹ bảo bà Talley gói ghém các đồ đạc của
con lại”
Có chừng năm sáu trường học nội trú cho con gái. Margaret cho
rằng trường Cheltenham, ở Gloucester, là thích hợp nhất cho
Kate. Đó là một trường nổi tiếng về kỉ luật chặt chẽ, dựng trên
nhiều mẫu đất cỏ tường cao với lỗ châu mai, mà, theo tài liệu,
đă được thiết lập xưa kia cho con gái của các nhà quư tộc theo
học. David có liên hệ kinh doanh với ông chồng của bà hiệu
trưởng, nên việc xin cho Kate theo học trường này không gặp khó
khăn ǵ.
Khi Kate nghe nói đến nơi nàng sẽ phải đi tới, nàng lại nổi giận
lên đùng đùng, “Con đă nghe nói về cái trường ấy! Rồi đây con sẽ
trở về nhà, giống như những con búp bê nhồi bông của nước Anh
chứ ǵ? Có phải mẹ muốn như vậy không?”
“Điều mà mẹ muốn là con học thói lịch sự trong thái độ, cử chỉ”
Margaret nói
“Con không cần những thứ ấy. Con có đầu óc”
“Đó không phải là thứ quan trọng nhất mà một người đàn ông
thường t́m kiếm ở người đàn bà” Margaret nói một cách tỉnh khô.
“Rồi đây con sẽ trở thành một người đàn bà”
“Con không cần trở thành một người đàn bà ǵ hết. Tại sao mẹ
không “mặc kệ chó” con tự lo liệu lấy?”
“Mẹ không muốn con dùng thứ ngôn ngữ như vậy”
Thế rồi vụ căi vă ấy vẫn tiếp tục cho măi đến sáng hôm sau, khi
Kate bắt buộc phải lên đường. V́ lúc ấy David cũng đi London có
công việc, Margaret hỏi anh, “Anh có thể đưa Kate đến trường học
một cách êm thấm được không? Chỉ có Chúa mới biết nó sẽ giở
những tṛ ǵ, nếu nó đi một ḿnh”
“Tôi rất vui ḷng làm chuyện ấy”
“Anh à? Anh cũng xấu xa chẳng khác ǵ mẹ tôi. Anh không có đủ
kiên nhẫn chờ đợi dứt bỏ tôi hay sao?”
David cười “Cô lầm rồi. Tôi có đủ kiên nhẫn.”
Hai người đi bằng toa tàu riêng từ Klipdrift đến Cape Town, từ
đó họ xuống tàu thuỷ đi Southampton. Cuộc hành tŕnh kéo dài bốn
tuần. Kate cảm thấy rộn ràng vui sướng được đi du lịch với
David, nhưng ḷng kiêu hănh không cho phép nàng thừa nhận điều
ấy. Nó giống như một tuần trăng mật, Kate nghĩ thầm. Chỉ có khác
là anh ấy và ḿnh chưa cưới nhau thôi. Chưa đến lúc.
David dùng phần lớn thời gian để làm việc trong pḥng ngủ của
anh trên tàu thuỷ. Kate cuộn ḿnh trên chiếc đi văng, yên lặng
nh́n David làm việc, và cảm thấy sung sướng được gần gũi anh.
Một hôm, nàng hỏi David, “Anh làm việc với các con số như thế mà
không thấy chán hay sao?”
Anh đặt bút xuống, nh́n nàng, “Đó không phải là những con số. Mà
là những câu chuyện.”
“Chuyện ǵ vậy?”
“Nếu ḿnh biết đọc các con số ấy th́ đố là chuyện về các công ty
ḿnh mua hay bán, chuyện về những ngựi làm việc cho ḿnh. Hàng
ngh́n người trên thế giới sinh sống nhờ công ty mà cha cô đă
thiết lập.”
“Thế tôi có giống cha tôi chút nào không?”
“Có, về nhiều phương diện. Ông ấy là một người độc lập, cứng
đầu, cứng cổ.”
“Tôi có phải là một người đàn bà độc lập, cứng đầu cứng cổ hay
không?”
“Cô là một nhóc con được quá nuông chiều nên đâm ra hư. Người
đàn ông nào lấy cô sau này sẽ có một cuộc sống giống như ở địa
nguc.”
Kate tủm tỉm cười, mơ mộng. Tội nghiệp cho anh chàng David!
Trong pḥng ăn, vào đêm cuối cùng trên tàu thuỷ, David hỏi, “Tại
sao cô khó khăn thể, hở cô Kate?”
“Tôi mà khó khăn à?”
“Chính cô cũng biết đấy, Cô làm cho mẹ cô phải điên đầu lên.”
Kate đặt tay lên bàn tay của David. Thế tôi có làm anh phát điên
lên không?”
Mặt David đỏ bừng. “Ngưng cái tṛ ấy lại. Tôi không hiểu được
cô.”
“Có chứ, anh hiểu tôi lắm.”
“Tại sao cô không thể giống như những cô gái cùng tuổi cô?”
“Tôi thà chết c̣n hơn. Tôi không muốn giống ai hết.”
“Chúa cũng biết cô chẳng giống ai cả.”
“Anh sẽ không lấy ai cả, chờ cho đến khi tôi lớn lên, xứng đôi
vừa lứa với anh chứ, chịu không? Tôi sẽ lớn lên càng nhanh càng
tốt. Tôi hứa với anh như vậy đó. Chỉ có điều là anh đừng có gặp
bất cứ người yêu nào của anh, nhớ đấy nhé.”
David cảm động v́ lời lẽ tha thiết của Kate. Anh cầm lấy bàn tay
nàng và nói. “Kate ạ, khi nào tôi lấy vợ, tội muốn có được một
đứa con gái giống hệt như cô.”
Kate đứng phắt dậy, nói bằng một giọng oang oang vang lên suốt
pḥng ăn. “Quỷ tha ma bắt anh đi, David Blackwell!” Nói xong,
nàng đùng đùng đi ra khỏi pḥng, trong khi mọi người trố mắt
nh́n ngạc nhiên.
Kate tận hưởng từng giây phút một, trong suốt ba ngày hai người
cùng sống chung ở London.
“Tôi có một cuộc vui này dành cho cô”, David nói.
“Tôi đă mua hai vé xem vở kịch “Bà Wiggs và Mảnh đất trồng bắp
cải”.
“Cảm ơn anh. Tôi muốn đi đến rạp Galety.”
“Không được đâu. Đó là nơi ca vũ nhạc. Nó không thích hợp với
cô.”
“Tôi có xem tận mắt th́ mới biết được chứ. Phải thế không?” nàng
nói một cách bướng bỉnh.
Hai người cùng đi đến rạp Galety.
Kate rất thích quang cảnh ở London. Xe hơi và xe ngựa chen chúc
lẫn lộn; các bà, các cô ăn mặc rất đẹp đẽ với những chiếc áo
viên đăng ten, bằng vải tuyn và xa tanh, với các đồ nữ trang
lóng lánh; đàn ông mặc quần áo chỉnh trề với gi-lê bằng vải sọc
và vạt trước sơ mi trắng tinh.Hai người ăn trưa ở Ritz và cơm
tối ở Savoy. Rồi khi đến giờ ra về, Kate nghĩ thầm, “Chúng ta sẽ
trở lại nơi này. David và ḿnh sẽ trở lại nơi này.”
Khi hai người đến trường học Cheltenham, họ được dẫn đến văn
pḥng bà Keaton.
“Tôi xin cám ơn bà đă cho Kate vào học”, David nói.
“Dĩ nhiên, chúng tôi rất sung sướng nhận cô bé ấy ở đây. Hơn
nữa, cũng là một điều hân hạnh được giúp đỡ một người bạn của
nhà tôi.”
Đến lúc ấy Kate mới biết rằng ḿnh đă bị lừa. Chính David đă
muốn nàng phải đi học xa và đă thu xếp cho nàng đến đây.
Nàng cảm thấy bị xúc phạm và giận dữ, cho nên nàng không thèm
nói với David một lời từ biệt.
Chương 13
Cuộc sống ở tại trường
Cheltenham thật không thể nào chịu đựng nổi. Có quy tắc và điều
lệ cho tất cả mọi việc. Con gái phải mặc những đồng phục y hệt
như nhau, cho đến những cái quần lót. Ngày học kéo dài đến mười
giờ đồng hồ, trong đó mỗi phút đều được sắp xếp thật là chặt
chẽ. Bà Keaton điều khiển các học sinh và nhân viên bằng chiếc
roi sắt. Các nữ sinh phải học tập về tác phong và kỷ luật, nghi
thức và phép lịch sự, để sau này họ thu hút được những ngựi
chồng mong ước. Kate viết thư cho mẹ: “Thật là một nhà tù “chết
tiệt”. Con gái ở đây thật là kinh khủng. Họ chỉ biết nói chuyện
với nhau về những thứ quần áo “chết tiệt” và những bọn con trai
“chết tiệt”. Các thầy giáo “chết tiệt” là bọn quỷ dữ. Họ sẽ
không bao giờ giữ con lại ở đây. Con sẽ trốn thoát.”
Kate đă t́m cách trốn khỏi nơi này, và lần nào nàng cũng bị bắt
lại, rồi đưa trở về trường, mà không hề hối cải.
Trong một cuộc họp hàng tuần của ban giảng huấn khi tên của Kate
được đưa ra, một thầy giáo nói, “Đứa trẻ này thật là bất trị.
Tôi nghĩ cần gửi trả nó về Nam Phi”.
Bà Keaton nói, “Tôi cũng muốn đồng ư với thầy, nhưng chúng ta
nên xem đó là một cuộc thử thách. Nếu chúng ta thành công trong
việc đưa Kate McGregor vào khuôn phép th́ tôi nghĩ rằng chúng ta
cũng sẽ thành công tương tự với bất ḱ đứa trẻ nào”
Kate vẫn được ở lại trường.
Điều khiển cho các thầy cô giáo ngạc nhiên hết sức là Kate tỏ ra
rất ham thích nông trại do nhà trường quản lư. Nông trại ấy có
những vườn rau, gà, ḅ, lợn và ngựa. Kate thường ở lại nơi ấy
rất lâu, và khi bà Keaton biết được điều này, bà rất lấy làm hài
ḷng.
Bà nói với các nhân viên nhà trường, “Quư vị thấy không? Đó chỉ
là vấn đề kiên nhẫn thôi. Kate cuối cùng đă ham thích tham gia
vào cuộc sống. Một ngày kia nó sẽ lấy một điền chủ và sẽ có thể
giúp đỡ cho chồng rất nhiều”.
Sáng hôm sau, Oscar Denker, người phụ trách trông coi nông trại,
đến gặp bà Hiệu trưởng. Ông nói, “Một trong các học sinh của bà
– cái cô Kate McGregor đó – tôi chỉ mong bà cấm nó bén mảng đến
mông trại của tôi”.
“Ông nói cái ǵ lạ vậy?” bà Keaton hỏi. “Tôi được biết rằng nó
rất ham thích nông trại.”
“Chắc chắn là cô ấy ham thích rồi, thế nhưng và có biết cô ấy
ham thích cái ǵ không? Cô ấy chỉ thích xem súc vật giao cấu với
nhau mà thôi, tôi xin lỗi bà v́ phải dùng thứ ngôn ngữ như vậy.”
”Cái ǵ?”
“Thưa, đúng như vậy ạ. Cô ấy đứng đó suốt ngày chỉ để xem các
súc vật làm chuyện ấy với nhau thôi.”
“Đồ chết tiệt!” Bà Keaton buột miệng thốt lên.
Kate vẫn chưa tha thứ cho David v́ đă đưa nàng đi đày, nhưng
nàng nhớ chàng kinh khủng. Nàng nghĩ thầm, “Số phận của ḿnh là
phải yêu một người mà ḿnh ghét”. Nàng đếm những ngày phải sống
xa chàng, như một tù nhân ghi dấu thời gian cho đến ngày được
thả ra. Kate lo sợ anh ấy sẽ làm một chuyện ǵ đó kinh khủng,
chẳng hạn như cưới một người đàn bà nào khác trong khi nàng c̣n
đang bị mắc bẫy trong cái trường “chết tiệt” này. Kate nghĩ,
“Nếu anh ấy làm như vậy, ḿnh sẽ giết cả hai người. Không ḿnh
chỉ giết một ḿnh cô ấy thôi. Người ta sẽ đến bắt ḿnh, sẽ treo
cổ ḿnh lên, và khi ḿnh đứng trên đoạn đầu đài rồi, anh ấy sẽ
nhận ra rằng anh ấy yêu ḿnh. Nhưng lúc ấy th́ trễ qua rồi. Anh
ấy sẽ van xin ḿnh tha thứ cho anh. “Được, anh David yêu quư của
em ạ, em tha thứ cho anh. Anh đă quá ngu xuẩn nên không biết
được rằng anh đang nắm một mối t́nh lớn trong bàn tay. Anh để
cho nó bay đi giống như một con chim nhỏ. Bây giờ con chim bé
nhỏ ấy sắp bị treo cổ rồi. Vĩnh biệt, David”. Nhưng rồi đến phút
cuối cùng, người con gái ấy được ân xá, rồi David đưa nàng đến
một xứ xa lạ nào đó, nơi mà thức ăn ngon lành hơn thứ đồ ăn
“chết tiệt” người ta thường dọn tại cái trường Cheltenham “chết
tiệt” này”.
Kate nhận được một lá thư của David cho biết rằng anh sắp sửa đi
London, và sẽ đến thăm viếng nàng. Trí tưởng tượng của Kate bừng
dậy. Nàng t́m thấy hàng trăm ẩn ư trong lá thư ấy. Tại sao anh
ấy sắp sang Anh? Tất nhiên là để được gần nàng. Tại sao anh ấy
sẽ đến thăm nàng? Ấy là bởi v́ anh ấy biết anh yêu nàng và không
c̣n có thể chịu nổi sự xa cách nữa. Anh ấy sẽ nhấc bổng nàng
lên, đưa nàng ra khỏi cái nơi ghê gớm này. Nàng không thể ngăn
được nỗi vui sướng tràn ngập trong ḷng. Ư nghĩ ḱ quặc ấy của
Kate đối với nàng có vẻ thực đến nỗi, khi David vừa đến nơi,
Kate đi khắp nơi chào từ biệt bạn bè. Nàng nói với họ, “Người
yêu của tôi sắp đến đây để đưa tôi ra khỏi nơi này.”
Các cô bạn nh́n nàng im lặng, có vẻ không tin. Chỉ có Georgina
Christy nói với nàng với vẻ chế giễu, “Chị lai nói dối nữa rồi,
chị McGregor ạ.”
“Rồi các chị sẽ thấy. Anh ấy cao, đẹp trai, và si mê em điên
cuồng”.
Khi David đến trường, anh ngạc nhiên v́ thấy tất cả các nữ sinh
có vẻ như đang nh́n anh chằm chằm. Họ nh́n anh, rồi th́ thầm,
rúc rích cười với nhau. Ngay khi anh bắt gặp cái nh́n của họ th́
họ đỏ mặt, quay đi chỗ khác.
“Họ làm như thể họ chưa hề thấy một người đàn ông bao giờ”,
David nói với Kate. Anh nh́n nàng, nghi ngờ. “Cô có nói ǵ với
họ về tôi không?”
“Dĩ nhiên là không rồi”. Kate trả lời với vẻ kiêu ḱ. “Việc ǵ
mà tôi phải làm như vậy.”
Hai người ăn cơm trong pḥng ăn cơm của nhà trường. David kể lại
cho Kate nghe về những ǵ đă xảy ra ở nhà. “Mẹ cô gửi lời thăm
hỏi cô. Bà ấy mong cô trở về nhà vào dịp nghỉ hè”.
“Mẹ tôi thế nào?”
“Bà vẫn khoẻ. Bà làm việc nhiều lắm.”
“ Công việc Công ty tiến hành tốt không, anh David?”
David ngạc nhiên v́ Kate đôt nhiên tỏ vẻ chú ư đến công việc của
Công ty. “Rất tốt. Tại sao cô hỏi như vậy?”
Bởi v́, Kate thầm nghĩ, một ngày kia Công ty ấy sẽ thuộc về
ḿnh. Anh và tôi sẽ chia sẻ gánh vác. Nhưng nàng chỉ nói, “Tôi
chỉ ṭ ṃ muốn biết thôi.”
Anh nh́n vào đĩa thức ăn c̣n nguyên cả Kate. “Cô không ăn sao?”
Kate không quan tâm đến thức ăn. Nằng đang chờ đợi giây phút
thần diệu, khi David sẽ nói với nàng, “Hăy đi theo anh, Kate. Em
bây giờ là một thiếu nữ rồi, và anh muốn gần em. Chúng ta sẽ
cưới nhau.”
Món tráng miệng được đem đến, rồi được dọn đi. Cà phê cũng được
đem lại, rồi bưng đi nơi khác. Thế nhưng những lời nói thần diệu
của David vẫn chưa đến.
Cuối cùng David nh́n vào chiếc đồng hồ, và nói, “Thôi, tôi phải
đi bây giờ, kẻo lỡ mất chuyến tàu”. Đến lúc ấy, Kate mới nhận
thức, với một cảm giác kinh hăi, rằng anh ấy không đến đây để
đưa nàng đi xa. Cái anh chàng khốn kiếp ấy sẽ để nàng lại ở đây
cho mục xương ra.
David cảm thấy vui thích về cuộc viếng thăm Kate. Nàng là một cô
bé thông minh, vui tính, và tính bướng bỉnh trước đây của nàng
bây giờ cũng đă được kiềm chế. David đập nhẹ lên bàn tay Kate
một cách thân mật và hỏi, “Cô có cần tôi làm giúp cô điều ǵ
trước khi tôi ra về không, cô Kate?”
Nàng nh́n thẳng vào mắt anh, và nói một cách dịu dàng, “Có, anh
David ạ. Anh có thể ban cho tôi một đặc ân rất lớn lao. Hăy cút
ra khỏi cuộc sống chết tiệt này của tôi”. Nói xong, nàng trang
nghiêm bước ra khỏi pḥng, đầu ngẩng cao lên, để lại David ngồi
ngơ ngác tại chỗ, miệng há hốc ra.
Margaret cảm thấy nhớ Kate. Đứa con gái ấy có tính ngỗ ngươc và
hay làm trái ư, nhưng Margaret nhận ra rằng nó là con người duy
nhất sống trên đời này mà nàng yêu mến. Nó sẽ trở thành một
người đàn bà vĩ đại, Margaret nghĩ thầm và cảm thấy hănh diện.
Nhưng ḿnh muốn nó có tác phong của một người đàn bà sang trọng.
Kate về nhà trong dịp nghỉ hè. “Con học hành ở trường thế nào?”
Margaret hỏi.
“Con ghét cái trường ấy lắm. Nó giống như là ḿnh bị bao vây bởi
một trăm bà vú nuôi vậy.”
Margaret nh́n con gái như để ḍ xét. “Thế các nữ sinh khác có
nghĩ giống như con không, hở Kate?”
“Chúng nó th́ biết cái ǵ?” Nàng nói với vẻ khinh bỉ. “Mẹ có gặp
bọn con gái ở trường ấy th́ mới rơ được. Chúng nó được che chở
suốt từ nhỏ đến lớn, cho nên chúng chẳng biết khỉ ǵ về chuyện
đời cả.”
“Trời, như thế chắc là kinh khủng đối với con quá nhỉ.”
“Mẹ đừng có chế giễu con. Chúng nó chưa hề bao giờ sống ở Nam
Phi. Những thứ thú dữ duy nhất chúng được thấy là ở các sở thú
thôi. Không một đứa nào trong bọn chúng được thấy một mỏ kim
cương hay mỏ vàng.”
“Thiệt tḥi quá nhỉ”
Kate nói, “Thôi được. Nhưng khi nào con trở thành giống như họ
th́ mẹ sẽ thấy hối tiếc đến nát ruột gan ra.”
“Thế con nghĩ con sẽ trở thành giống như họ sao?”
Kate nhe răng cười tinh quái. “Dĩ nhiên là không rồi. Bộ mẹ điên
rồi à?”
Một giờ sau khi trở về nhà, Kate đă ra ngoài chơi bóng bầu dục
với bọn trẻ con của các gia nhân. Margaret đứng nh́n Kate qua
khung cửa sổ và nghĩ thầm, “Ḿnh đă phí tiền vô ích. Nó sẽ chẳng
bao giờ thay đổi cả.”
Tối hôm ấy, vào bữa cơm, Kate t́nh cờ hỏi, “David có ở trong thị
trấn không?”
“Anh ấy đi sang Úc, có lẽ sẽ trở về vào ngày mai.”
“Thế anh ấy có lại ăn cơm vào tối thứ sáu tới không?”
“Có lẽ”. Nàng nh́n Kate và nói, “Con thích David phải không?”
Kate nhún vai, “Anh ấy cũng không đến nỗi nào.”
“À ra thế.” Margaret nói. Nàng tủm tỉm cười một ḿnh v́ bà nhớ
đến lời nói của Kate rằng nó sẽ quyết lấy David cho ḱ được.
“Con muốn nói là con không ghét anh ấy. Con thích anh ta như là
một con người thôi. Con không thể chịu được anh ấy với tư cách
là một người đàn ông.”
Khi David đến ăn cơm vào tối thứ sáu, Kate chạy như bay ra đến
cửa để chào đón anh. Nàng ôm lấy David và th́ thầm vào tai anh.
“Tôi tha thứ cho anh. Nhớ anh quá, David ạ. Anh có nhớ tôi
không?”
David buột miệng đáp, “Có”. Ngay lúc ấy anh ngạc nhiên, nghĩ
thầm, “Lạy Chúa, ḿnh có nhớ cô ấy thật”.
Anh chưa hề quen ai giống như cô bé này. Anh đă thấy nàng lớn
lên, va cứ mỗi lần anh đối diện với nàng, anh lại thấy phát hiện
ra ở nàng một cái ǵ mới mẻ. Nàng đă gần mười sáu tuổi và đă bắt
đầu nảy nở. Nàng để cho làn tóc đen mọc dài ra, xoă xuống mềm
mại trên hai vai. Nàng đă có những nét trưởng thành, và một vẻ
hấp dẫn mà anh không để ư thấy trước đây. Nàng xinh đẹp, lanh
lợi, thông minh và có ư chí mạnh mẽ. Nàng sẽ khó điều khiển đối
với một người đàn ông nào đó về sau này. David nghĩ thầm.
Đến bữa ăn, David hỏi, “Cô học hành ở trường như thế nào?”
“Ồ, tôi thích lắm”, nàng nói chuyện huyên thuyên. “Học được
nhiều thứ lắm. Các cô giáo thật là tuyệt vời, và tôi cũng có rất
nhiều bạn bè thân thiết.”
Margaret ngồi im lặng, sửng sốt.
“David, anh có thể đưa tôi đi xem mỏ được không?”
“Cô muốn bỏ phí mấy ngày nghỉ của cô bằng cách ấy hay sao?”
“Vâng. Anh cứ cho tôi đi theo.”
Một cuộc đi thăm vùng mỏi sẽ chiếm trọn một ngày,và như vậy có
nghĩa là nàng sẽ ở bên cạnh David trong suốt thời gian ấy.
“Nếu mẹ cô cho phép th́…”
“Mẹ, mẹ cho phép đi…”
“Thôi được con ạ. Chừng nào con ở bên cạnh David, mẹ mới yên tâm
rằng con sẽ được an toàn”. Margaret hi vọng rằng David cũng sẽ
được an toàn.
Mỏ kim cương Kruger-Brent là một công tŕnh đồ sộ với hàng trăm
công nhân tham gia vào công việc đào đất, xây dưng, đăi và rửa
sỏi đá.
“Đây là một trong những mỏ đem đến nhiều lợi lộc nhất cho công
ty”, David nói với Kate. Họ đang ở trên mặt đất, trong văn pḥng
của viên quản đốc, chờ đợi một nhóm hộ tống đưa họ xuống mỏ. Sát
vào tường là một tủ trưng bày những viên kim cương đủ cỡ và đủ
màu sắc.
“Mỗi viên kim cương có một đặc tính riêng”, David giải thích.
“Những viên kim cương nguyên thủy lấy từ các bờ sông Vaal chứa
chất phú sa, và các cạnh của chúng đă bị mài ṃn qua bao nhiêu
thế kỷ”.
Anh ấy trông đẹp trai hơn bao giờ hết, Kate ngẫm nghĩ. Ḿnh yêu
cặp lông mày của anh ấy quá!
“Những viên đá này lấy từ nhiều mỏ khác nhau, nhưng người ta vẫn
có thể nhận ra chúng dễ dàng nhờ ở bề ngoài của chúng. Cô có
thấy viên này không? Nh́n vào cỡ của viên đá và màu vàng của nó,
ta biết ngay rằng người ta t́m thấy nó ở Paardspan. Các viên kim
cương của hăng De Beer có bề mặt trơn tru như dính dầu, và h́nh
thể của nó là một khối mười hai mặt”
Anh ấy thật là xuất sắc, biết đủ tất cả mọi thứ!
“Cô có thể biết ngay viên này là lấy ở mỏ Kimberley, v́ nó là
một khối tám mặt. Các viên kim cương có nhiều loại, từ loại thuỷ
tinh đục đến loại trắng tinh khiết”.
Ḿnh thắc mắc không biết viên quản đốc có nghĩ rằng David là
người yêu của ḿnh không nhỉ. Ḿnh hi vọng như vậy.
“Màu sắc của một viên kim cương xác định giá trị của nó. Các màu
sắc được phân ra theo một thang bậc từ một đến mười. Cao nhất là
loại kim cương có màu trắng xanh, thấp nhất là loại màu nâu.”
Anh ấy có một mùi rất thơm tho. Một mùi rất là… rất là đàn ông.
Ḿnh thích cái vai và cánh tay anh ấy. Ḿnh ao ước…
“Kate!”
Nàng đáp, như cảm thấy ḿnh phạm tội, “Vâng, cái ǵ hả anh
David?”
“Cô có nghe tôi nói không?”
“Cố nhiên là có”. Giọng nàng có vẻ không bằng ḷng. “Tôi có nghe
từng lời nói của anh”
Họ ở suốt hai giờ đồng hồ trong ḷng mỏ, rồi hai người cùng ăn
cơm trưa. Đối với Kate, đó là một ngày thần tiên.
Khi Kate trở về nhà vào xế trưa hôm ấy, Margaret hỏi, “Con có
thích không, Kate?”
“Thật là tuyệt vời. Công việc làm mỏ rất là thú vị.”
Nửa giờ sau, Margaret t́nh cờ nh́n qua cửa sổ. Kate đang vật lộn
với đứa con trai của một bác làm vườn.
Năm sau, các lá thư của Kate từ trường gửi về có vẻ lạc quan một
cách thận trọng. Kate được cử làm thủ quân của các đội khúc côn
cầu và đánh vợt, và đứng đầu lớp về việc học. Trường học không
đến nỗi tệ lắm, nàng viết trong thư, và trong các lớp học của
nàng cũng có một số bạn tử tế một cách vừa phải. Nàng xin phép
mẹ đưa hai người bạn về nhà trong dịp nghỉ hè. Margaret cũng rất
vui ḷng. Ngôi nhà sẽ trở nên ồn ào, náo nhiệt với tiếng cười
đùa của mấy cô gái trẻ. Margaret nóng ḷng chờ đợi con gái về
thăm nhà. Tất cả những mơ ước của nàng bây giờ đều đặt vào Kate.
Nàng thầm nghĩ, “Jamie và ḿnh thuộc về qua khứ rồi. Kate là
tương lai. Tương lai ấy sẽ sáng sủa, tuyệt vời biết bao nhiêu!”
Khi Kate trở về nhà vào dịp nghỉ hè, tất cả mọi chàng trai xứng
đôi vừa lứa cứ bám lấy xung quanh nàng, bao vây nàng, để có
những cuộc hẹn ḥ, đi chơi, nhưng nàng không thích người nào cả.
David đang ở Mỹ, và Kate nóng ḷng chờ chàng về. Khi David về
đến nhà, Kate đến tận cửa đón chàng, mừng rỡ. Nàng mặc một chiếc
áo dài màu trắng, quấn một cái thắt lưng nhung màu đen làm nổi
bật lên bộ ngực duyên dáng của nàng. Khi David ôm lấy nàng, anh
ngạc nhiên cảm thấy vẻ nồng thắm trong lối đáp ứng của nàng. Anh
lùi lại nh́n ngắm nàng. Ở nàng có một vẻ ǵ đó khác biệt, một vẻ
hiểu biết. Trong đôi mắt nàng anh thấy một lối biểu lộ mà anh
không thể xác định được, khiến cho anh cảm thấy bứt rứt, không
yên.
Một đôi lần, trong vụ hè ấy, David thấy Kate dang đứng với mấy
người bạn trai bao vây xung quanh, anh tự hỏi không biết người
nào trong số ấy sẽ có diễm phúc được nàng chọn lựa. David được
gọi trở lại Úc v́ công việc, và khi anh trở về Klipdrift th́
Kate đă lên đường sang Anh.
Trong năm cuối cùng của Kate ở trường học, David bất ngờ xuất
hiện vào một tối nọ. Thường thường anh đều có thư hay gọi điện
thoại báo trước. Lần này anh không báo cho biết ǵ cả.
“David! Thật là bất ngờ qua!” Kate ôm choàng lấy anh, “Lẽ ra anh
phải báo cho tôi biết anh sẽ đến chứ”.
“Kate ạ, tôi đến để đưa cô về nhà”.
Nàng lùi lại, nh́n lên mặt anh. “Có chuyện ǵ không hay chăng?”
“Tôi lo rằng mẹ cô đang ốm rất nặng”.
Kate đứng đờ người trong một lúc. “Tôi sẵn sáng đi ngay bây
giờ.”
Kate sửng sốt khi trông thấy vẻ ngoài của mẹ. Chỉ mới ít tháng
trước, Margaret có vẻ rất khoẻ mạnh. Bây giờ mặt bà nhợt nhạt,
hốc hác, đôi mắt hầu như mất vẻ tinh anh. Có vẻ như là căn bệnh
ung thư đang tàn phá da thịt bà, cũng đă tàn phá cả linh hồn của
bà nữa.
Kate ngồi bên cạnh giường, cầm tay mẹ trong bàn tay nàng, và
nói, “Mẹ ơi, con hối hận quá”.
Margaret bóp chặt tay con gái. “Mẹ đă sẵn sàng, con yêu quư ạ.
Có lẽ mẹ đă đă sẵn sàng như vậy từ khi cha con qua đời”. Bà
ngước mắt lên nh́n Kate. “Con có muốn nghe một chuyện vớ vẩn
khổng? Mẹ chưa hề nói với ai điều này cả trước kia”. Bà do dự
một lúc, rồi tiếp tục nói, “Mẹ lúc nào cũng lo lắng không có ai
chăm nom cha con được tử tế cả. Bây giờ th́ mẹ có thể làm như
vậy được rồi.”
Margaret được an táng ba ngày sau đó. Cái chết của mẹ nàng đă
khiến cho nàng bị xúc động sâu sắc. Kate đă mất cha và anh,
nhưng nàng không hề bao giờ được biết mặt họ. Họ chỉ là những
điều tưởng tượng thuộc quá khứ, nhưng cái chết của mẹ nàng là
hiện thực và đau đớn. Kate đă mười tám tuổi, và đột nhiên nàng
trở nên cô đơn trên cơi đời. Ư nghĩ này khiến nàng khiếp hăi.
David nh́n Kate đứng bên cạnh mộ của mẹ nàng, cố lấy can đảm để
khỏi khóc. Nhưng khi hai người trở về đến nhà, Kate khóc oà lên,
không sao ngưng nổi. “Mẹ lúc nào cũng rất tốt với tôi, David ạ,
c̣n tôi thật là một đứa con gái hư hỏng”.
David cố an ủi nàng, “Cô lúc nào cũng làmột cô con gái ngoan của
mẹ cô, Kate”.
“Tôi chỉ gây rắc rối cho mẹ tôi thôi. Tôi sẵn sàng đánh đổi bất
cứ thứ ǵ nếu tôi có thể chuộc tội lỗi ấy đối với mẹ tôi. Tôi
không muốn mẹ tôi chết. David! Tại sao Chúa lại làm như vậy đối
với mẹ tôi?”
Anh im lặng một lúc, chờ cho đến khi nàng khóc hết nước mắt. khi
nàng đă dịu lại, David mới nói, “Tôi biết rằng cô khó mà tin
được vào lúc này, nhưng một ngày kia nỗi đau đớn này sẽ tan đi.
Rồi cô biết sẽ có ǵ c̣n lại không, Kate. Những kỉ niệm êm đẹp.
Cô sẽ nhớ lại tất cả những ǵ đẹp đẽ mà cô và mẹ cô đă từng có”.
“Tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng ngay lúc này, tôi cảm thấy đau đớn
quá”.
Sáng hôm sau hai người bàn với nhau về tương lai của Kate.
“Cô có gia đ́nh ở Tô cách lan”, David nhắc nhở.
“Không!” Kate đáp lại một cách gay gắt. “Đó không phải là gia
đ́nh. Họ là những người bà con, họ hàng”. Giọng nàng trở nên
chua cay. “Khi bố muốn đi đến xứ này, họ chế giễu bố tôi. Không
ai giúp đỡ cho bố tôi, ngoài bà nội tôi, nhưng bà mất rồi.
Không, tôi không có liên hệ ǵ với họ cả”.
David ngồi suy nghĩ. “Cô có dự định học cho nốt học ḱ này
không?” Kate chưa kịp trả lời, David đă nói tiếp, “Tôi nghĩ rằng
có lẽ mẹ cô cũng muốn cô làm như vậy.”
“Thế th́ tôi sẽ làm đúng như mẹ tôi muốn”. Nàng nh́n xuống sàn
nhà, mắt không nh́n vào đâu hết. “Địa ngục khốn kiếp!” Kate nói.
“Tôi hiểu”, David dịu dàng nói. “Tôi hiểu”.
Kate học hết học ḱ và được cử đọc diễn văn tốt nghiệp. David
cũng có mặt trong buổi lễ trao bằng.
Trong lúc đi từ Johannesburg đến Klipdrift trong toa xe riêng,
David nói, “Cô biết không, tất cả những thứ này sẽ thuộc về cô
trong ít năm nữa. Chiếc toa xe này, các mỏ và công ty này, tất
cả là của cô. Cô là một cô gái rất giàu có. Cô có thể bán công
ty này đi để lấy nhiều triệu bảng Anh”. Anh nh́n nàng, rồi nói
tiếp, “Hoặc cô có thể giữ lại công ty này. Cô sẽ phải nghĩ về
điều đó.”
“Tôi đă suy nghĩ rồi”, Kate nói. Nàng nh́n vào mặt David, tủm
tỉm cười. “Cha tôi xưa kia là một đạo tặc, David ạ. Một đạo tặc
gia tuyệt vời. Tôi ao ước giá như tôi được biết cha tôi.Tôi sẽ
không bán công ty này đi.Anh có biết tại sao không? Bởi v́ ông
đạo tặc ấy đă đặt tên cho nó theo tên của hai tên bảo vệ đă từng
t́m cách giết ông. Anh nghĩ xem đó có phải là một hành động
tuyệt vời hay không? Có nhiều đêm tôi không thể ngủ đươc, v́ tôi
nghĩ đến cha tôi và bác Banda ḅ xuyên qua sương mù, gọi là
“mis” ấy, rồi tôi mường tượng nghe như có tiếng gọi của những
tên bảo vệ: Kruger… Brent…” Nàng ngước mắt lên nh́n David.
“Không, tôi sẽ không bao giờ bán đi công ty của cha tôi, chừng
nào anh c̣n tiếp tục ở lại để điều khiển nó”.
David trầm tĩnh nói, “Tôi sẽ ở lại chừng nào cô c̣n cần đến
tôi.”
“Tôi đă quyết định sẽ theo học một trường doanh thương”.
“Một trường doanh thương?” Giọng nói David tỏ vẻ ngạc nhiên.
“Bây giờ là vào năm 1910”, Kate nhắc nhở. “Đă có nhiều trường
doanh trương ở Johannesburg mà phụ nữ được phép theo học”.
“Nhưng…”
“Anh có lần hỏi tôi muốn làm ǵ với tiền bạc của tôi”. Nàng nh́n
thẳng vào mắt David, và nói, “Tôi muốn làm ra tiền.”
Chương 14
Theo học trường kinh doanh
là một cuộc phiêu lưu mới rất thú vị đối với Kate. Khi đi đến
trường Cheltenham, nàng cho đó là một việc làm lặt vặt, một điều
xấu xa, nhưng cần thiết. Lần này th́ khác hẳn. Mỗi buổi học đều
dạy cho nàng một điều ǵ đó thiết thực, có thể giúp cho nàng
điều khiển công ty. Chương tŕnh học gồm có các môn: Kế toán,
Quản lư, Giao thương quốc tế, Hành chánh kinh doanh. Mỗi tuần lễ
một lần, David điện thoại cho nàng, hỏi về sự tiến bộ của nàng
trong việc học.
“Tôi rất thích” Kate nói với David “Thật là thú vị, David ạ.”
Một ngày kia, David sẽ cùng với nàng ngồi làm việc sát cánh nhau
vào lúc đêm khuya, và lúc đó, chỉ có hai người mà thôi. Rồi một
đêm nào đó, David sẽ quay về phía nàng và nói: “Em Kate yêu quư,
anh có mắt mà cũng như mù, em có bằng ḷng lấy anh không?” Thế
rồi, chỉ một lát sau, nàng đă nằm trong hai cánh tay của
chàng...
Nhưng chuyện ấy chưa đến đâu. Trong khi chờ đợi, nàng phải học
tập. Với một vẻ cương quyết, nàng quay lại các bài tập ở trường.
Lớp kinh doanh kéo dài hai năm. Kate trở lại Klipdrift vào đúng
dịp nàng ăn mừng sinh nhật thứ hai mươi của nàng. David đón nàng
ở nhà ga.
Trông thấy David, đột nhiên nàng giang hai cánh tay ra ôm choàng
lấy anh và nói: “Trời! Anh David, gặp anh tôi mừng quá!”
Anh lùi lại, nói một cách vụng về: “Rất mừng được gặp cô, Kate
ạ.” Trong cử chỉ của anh có một vẻ lóng ngóng, không được thoải
mái lắm.
“Có chuyện ǵ vậy?”
“Không... Chỉ có điều là... là... các thiếu nữ không ôm hôn đàn
ông ở nơi công cộng”.
Nàng nh́n David một lát rồi nói: “À ra thế. Tôi hứa lần sau sẽ
không làm anh bối rối nữa”.
Trong khi đi xe về nhà, David kín đáo quan sát Kate. Nàng là một
cô gái xinh đẹp mê hồn, ngây thơ và có vẻ dễ bị xúc phạm nên
David quyết tâm sẽ không bao giờ lợi dụng điều ấy.
Sáng hôm thứ hai, Kate di chuyển đến văn pḥng mới của nàng ở
công ty Hữu hạn Kruger - Brent. Thật là, giống như nàng bị ch́m
vào trong một thế giới xa lạ, ḱ dị với những phong tục và ngôn
ngữ riêng của nó. Đó là một tổ chức rối rắm gồm các ngành, các
cơ sở phụ, các phân cục địa phương, các công ty đặc quyền và chi
nhánh nước ngoài. Các sản phẩm mà công ty nàng chế tạo hay làm
chủ dường như là vô tận. Có những nhà máy cán thép, những trại
nuôi gia súc, một đường xe hoả, một công ty chuyên chở đường bể,
và cố nhiên, cơ sở của tài sản gia đ́nh: kim cương, vàng, kẽm,
bạch kim, magnesium được đào lên suốt ngày đêm, rồi tuôn vào các
két sắt của công ty.
Quyền lực.
Hầu như có quá nhiều thứ cần phải nắm vững. Kate ngồi trong văn
pḥng của David, lắng nghe anh đưa ra những quyết định có thể
ảnh hưởng đến hàng ngh́n người trên khắp thế giới. Các tổng giám
đốc các phân cục đưa ra nhiều đề nghi, nhưng nhiều khi David bác
bỏ các đề nghị ấy.
“Tại sao anh làm như vậy? Họ không biết việc làm của họ hay
sao?” Kate hỏi.
“Dĩ nhiên là họ biết. Nhưng vấn đề không phải là ở chỗ ấy” David
giải thích “Mỗi giám đốc chỉ nh́n thấy phân cục của ḿnh và xem
nó như là trung tâm điểm của thế giới. Điều ấy cũng là phải
thôi. Thế nhưng cần phải có một người nào đó có cái nh́n tổng
quát và quyết định cái ǵ tốt nhất cho toàn thể công ty. Thôi
nào, chúng ta c̣n phải ăn cơm trưa với một người mà tôi muốn
giới thiệu với cô”
David đưa Kate đến một pḥng ăn riêng rộng rải, kế cận văn pḥng
của Kate. Một người đàn ông trẻ tuổi, gầy giơ xương, với một
khuôn mặt ốm và đôi mắt nâu ṭ ṃ, đang chờ đợi hai người.
“Đây là Brad Rogers” David nói “Brad, tôi giới thiệu với anh đây
là nữ chủ nhân mới của anh, cô Kate McGregor”
Brad Rogers đưa tay ra bắt “Tôi rất hân hạnh được gặp cô, thưa
cô McGregor”
“Brad là một vũ khí bí mật của chúng ta” David nói “Anh ấy hiểu
biết về công ty Kruger-Brent chẳng kém ǵ tôi. Ví thử như tôi có
rời công ty này, cô cũng chẳng có ǵ phải lo cả. Brad sẽ có mặt
ở đây”
“Ví thử như tôi có rời công ty” Riêng ư nghĩ này cũng làm cho
nỗi hoảng sợ tuôn ra như một làn sóng truyền qua khắp thân thể
của Kate. Cố nhiên, David sẽ không bao giờ rời công ty. Kate
không nghĩ đến chuyện ǵ khác nữa trong suốt bữa ăn trưa ấy. Và
khi bữa ăn chấm dứt, nàng cũng chẳng biết nàng đă ăn những thứ
ǵ.
Sau bữa ăn, họ bàn với nhau về Nam Phi.
“Chúng ta sắp sửa gặp rắc rối” David nói “Chính phủ vừa đặt ra
thuế thân”
“Thế là nghĩa làm sao?” Kate hỏi.
“Nó có nghĩa là những người da đen, da màu và người Ấn Độ phải
trả hai bảng Anh cho mỗi người trong gia đ́nh. Như vậy là lớn
hơn số lương của họ trong một tháng”.
Kate nghĩ đến Banda và cảm thấy nỗi lo sợ tràn ngập trong ḷng.
Cuộc thảo luận chuyển sang các vấn đề khác.
Kate yêu thích cuộc sống mới vô cùng. Mỗi quyết định lôi kéo
theo tṛ chơi hàng triệu đô la. Việc kinh doanh lớn là một cuộc
đọ sức trí tuệ, là ḷng can đảm dám đương đầu với may rủi và bản
năng biết được khi nào nên dấn tới, khi nào cần rút lui.
“Kinh doanh là một cuộc đánh bạc” David nói với Kate “Với tiền
cược lớn kinh khủng và ḿnh phải cạnh tranh với các chuyên gia.
Nếu muốn thắng, ḿnh phải học để làm chủ cuộc chơi”
Đó chính là điều mà Kate quyết định sẽ làm. Nàng phải học.
Kate sống một ḿnh trong ngôi nhà lớn, ngoài các gia nhân, nàng
và David vẫn tiếp tục có những buổi ăn chung theo nghi thức vào
tối thứ sáu. Nhưng khi Kate mời anh đến ăn vào những buổi khác,
David lúc nào cũng kiếm cớ từ chối. Trong những giờ làm việc,
hai người vẫn họp chung với nhau thường xuyên. Nhưng ngay cả lúc
ấy, David dường như đă dựng lên một bức tường giữa hai người,
một bức tường mà Kate không thể nào vượt qua được.
Vào ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt của Kate, tất cả các cổ phần
trong công ty Kruger-Brent đă chuyển sang cho Kate. Bây giờ nàng
đă chính thức kiểm soát công ty “Chúng ta hăy ăn cơm tối hôm nay
để ăn mừng” Kate đề nghị với David.
“Xin lỗi cô Kate, tôi có nhiều công việc phải làm cho kịp”
Kate ăn cơm một ḿnh tối hôm ấy, trong ḷng băn khoăn không hiểu
tại sao. V́ nàng hay v́ David. Phải chăng David đă bị điếc, câm,
mù nên không hiểu được t́nh cảm của nàng đối với anh? Nàng sẽ
phải ra tay hành động bằng cách nào đó.
Công ty lúc đó đang điều đ́nh về việc mở một đường hàng hải ở
Mỹ.
“Tại sao cô và Brad không đi New York để kết thúc cuộc điều đ́nh
này?” David gợi ư với Kate “Đó sẽ là một kinh nghiệm rất hay cho
cô”
Kate muốn rằng David sẽ đi với nàng, nhưng v́ tự ái, nàng không
nói ra. Nàng sẽ giải quyết vụ này mà không cần đến David. Ngoài
ra, nàng chưa hề bao giờ sang Mỹ nên nàng mong đợi có được thêm
kinh nghiệm này.
Việc kết thúc cuộc điều đ́nh về đường hàng hải tiến hành một
cách trôi chảy. David đă nói với nàng trước khi nàng lên đường
“Trong thời gian ở Mỹ, cô nên thăm viếng một vài nơi cho biết”
Kate và Brad đi thăm các chi nhánh công ty ở Detroit, Chicago,
Pittsburg và New York. Nàng rất ngạc nhiên về sự lớn lao và năng
lực của nước Mỹ. Điểm nổi bật nhất trong cuộc hành tŕnh này là
cuộc viếng thăm Dark Harbor ở Maine, trên một ḥn đảo nhỏ có tên
là Isleboro, trong vịnh Penobscot. Nàng được mời dự tiệc tại nhà
Charles Dana Gibson, một nghệ sĩ. Có mười hai người đến dự tiệc
hôm ấy, và ngoại trừ Kate, tất cả đều có nhà trên ḥn đảo ấy.
“Nơi này có một lịch sử rất thú vị” Gibson nói với Kate “Cách
đây nhiều năm, những người sống ở đây thường đi đến đây bằng tàu
thuỷ từ Boston. Khi tàu cập bến, có xe độc mă đến đón họ và đưa
về nhà”
“Có bao nhiêu người sống trên ḥn đảo này?” Kate hỏi.
“Chừng năm mươi gia đ́nh. Khi chiếc tàu cập bến, cô có thấy ngọn
hải đăng ở đấy không?”
“Có”
“Ngọn hải đăng ấy do một người gác và một con chó điều khiển.
Khi một chiếc tàu đi ngang qua, con chó chạy ra rung chuông”
Kate cười “Ông nói đùa ấy chứ”.
“Không đâu, thưa cô. Điều buồn cười là con chó ấy bị điếc đặc.
Nó đặt tai vào cái chuông để xem nó có rung lên không”.
“Nghe ông nói có vẻ như ḥn đảo này hấp dẫn lắm nhỉ?”
“Nếu cô ở lại đây chơi và thăm viếng ḥn đảo này vào sáng mai
th́ chắc cô sẽ không thấy là vô ích đâu”.
Kate bật miệng: “Tại sao lại không?”
Nàng ở lại đêm trong khách sạn duy nhất trên đảo, tên nó là Quán
trọ Islesboro. Đến buổi sáng, nàng thuê một chiếc xe ngựa, do
một người dân trên đảo điều khiển, rời trung tâm của Dark
Harbor, nơi có một cửa hàng bách hóa, một cửa hàng bán đồ sắt,
một hiệu ăn và ít phút sau, nàng đi ngang một khu rừng cây rất
đẹp. Kate nhận ra rằng các đường nhỏ quanh co đều không có tên.
Cả trên các hộp thư cũng không có tên người.
“Không có các dấu hiệu như thế mà người dân ở đây không bị lạc
sao?”
“Không. Người dân trên đảo này đều biết nơi nào, có cái ǵ”.
Kate liếc mắt nh́n ông ta một cái rồi nói: “À ra thế”
Ở phía dưới ḥn đảo, họ đi ngang qua một nghĩa địa.
“Bác cho dừng xe lại được không?”, Kate yêu cầu.
Nàng bước ra khỏi chiếc xe ngựa, đi bộ đến khu nghĩa địa cổ,
loanh quanh, nh́n vào các bia mộ.
Bob Pendleton, mất ngày 25 tháng giêng năm 1794, 47 tuổi.
Trên văn bia ghi mấy ḍng chữ: “Dưới viên đá này, tôi nằm yên
nghỉ trong giấc ngủ êm đềm. Chúa ban phước lành cho chiếc giường
nằm của tôi”
Jan, vợ của Thomas Pendleton, mất ngày 25 tháng hai năm 1802, 47
tuổi.
Ở đó c̣n những linh hồn từ một thế kỷ khác, thuộc về thời đại đă
qua lâu rồi. Đại úy William Hatch, chết ch́m ở đáy biển Long
Island, tháng 10 năm 1866, 30 tuổi. Văn bia ghi: “Đă từng trải
qua nhiều băo tố, và vượt qua nhiều sóng cả của cuộc đời”
Kate đứng ở đó một hồi lâu, yêu thích trước cảnh yên lặng, thanh
b́nh.
“Mùa đông ở đây như thế nào?” Kate hỏi.
“Lạnh. Vịnh này thường bị đóng băng nên người ta vẫn đi từ đất
liền đến đây bắng xe trượt tuyết. Bây giờ, tất nhiên, chúng tôi
đă có phà rồi”.
Họ đi ṿng một khúc quanh. Ở nơi kia, bên cạnh bờ nước, là một
ngôi nhà hai tầng lợp bằng ván trắng. Xung quanh có trồng các
loại cây phi yến, hồng dại và cây thuốc phiện. Các cánh cửa trên
tám chiếc cửa sổ đều sơn màu xanh. Bên cạnh các cánh cửa đôi là
những chiếc ghế dài và sáu chậu hoa phong lữ. Nó giống như một
ngôi nhà trong câu chuyện thần tiên.
“Ai là chủ ngôi nhà ấy?”
“Đó là ngôi nhà xưa kia của gia đ́nh Dreben. Bà Dreben mất cách
đây ít tháng”
“Bây giờ ai sống ở đó?”
“Theo tôi biết th́ ở đó không có ai cả”
“Ngôi nhà ấy có bán không?”
Người hướng dẫn nh́n Kate và nói: “Nếu có bán th́ có lẽ người
con trai của một trong các gia đ́nh ở đây sẽ mua nó. Người dân
đảo này không dễ dàng bán cho những người lạ mặt”
Nói như vậy với Kate thật là một điều sai lầm.
Một giờ sau, nàng nói chuyện với một luật sư về bất động sản
này: “Tôi muốn bàn về ngôi nhà của họ Dreben. Không biết người
ta có bán không?” Kate nói.
Viên luật sư bĩu môi: “Có thể có, mà cũng có thể không”.
“Như thế nghĩa là thế nào?”
“Người ta sẵn sàng bán. Nhưng cũng có một số người cũng muốn mua
ngôi nhà ấy”.
Lại những gia đ́nh xưa cổ trên ḥn đảo này, Kate thầm nghĩ. “Họ
đă trả giá chưa?”
“Chưa, nhưng...”
“Tôi sẵn ḷng trả giá”. Kate nói.
Viên luật sư nói một cách nhă nhặn “Nhưng ngôi nhà ấy đắt tiền
lắm”
“Ông cứ cho giá đi”
“Năm mươi ngh́n đô la”.
“Chúng ta lại xem ngôi nhà ấy đi”
Bên trong ngôi nhà c̣n hấp dẫn hơn là Kate đă tiên đoán. Gian
pḥng phía trước rộng và rất đẹp, nh́n ra bể qua một bức tường
bằng gương. Ở một bên đại sảnh ấy là pḥng khiêu vũ lớn, và phía
bên kia là một pḥng khách lót ván gỗ đă hoen ố v́ thời gian. Và
kia là một chiếc ḷ sưởi đồ sộ. Có một cái thư viện, một nhà bếp
lớn với một cái ḷ sắt, một chiếc bàn bằng gỗ thông lớn. Xa hơn
chút nữa là pḥng để thức ăn của quản gia và một pḥng giặt. Ở
dưới nhà, có sáu pḥng ngủ cho gia nhân và một pḥng tắm. Ở tầng
trên có một dăy pḥng ngủ lớn và bốn pḥng ngủ nhỏ. Ngôi nhà ấy
lớn hơn là Kate đă mong đợi. Nhưng khi David và ḿnh đă có con,
nàng nghĩ thầm, chúng ḿnh sẽ cần tất cả những pḥng này. Đất
thuộc ngôi nhà chạy dài xuống vịnh, ở đó, có một bến tàu riêng.
Kate quay về phía ông luật sư: “Tôi mua ngôi nhà này”
Nàng quyết định đặt tên nó là Cedar Hill (Ngôi nhà trên đồi
thông).
Nàng nóng ḷng muốn về Klipdrift cho sớm để báo tin này cho
David hay.
Trên đường trở về Nam Phi, Kate cảm thấy một nỗi hân hoan cuồng
nhiệt. Ngôi nhà ở Dark Harbor là một dấu hiệu, một biểu tượng
cho biết rằng nàng và David sẽ cưới nhau. Nàng biết rằng David
sẽ yêu thích ngôi nhà ấy, cũng giống như nàng.
Vào lúc xế trưa, Kate và Brad về đến Klipdrift. Kate vội vả đến
văn pḥng David. Anh đang ngồi làm việc ở bàn giấy. Vừa trông
thấy David, tim nàng đập lên th́nh th́nh. Nàng chưa nhận thức
được là nàng đă mong nhớ anh đến thế nào.
David đứng dậy: “Kate, mừng cô đă về nhà!”
Rồi trước khi nàng kịp mở lời, anh nói: “Tôi muốn cô là người
đầu tiên được biết tin này. Tôi sắp sửa lấy vợ”.
Chương 15
Câu chuyện bắt đầu một cách
t́nh cờ sáu tuần lễ trước đó. Giữa một ngày làm việc sôi nổi.
David nhận được một thông điệp cho biết rằng Tim O’Neil, bạn của
một khách hàng kim cương người Mỹ, đang ở Klipdrift và hỏi David
có thể nào đến đón ông ta và ăn cơm với ông được không. Daviđ
không có th́ giờ để tiếp đón các du khách, nhưng anh không muốn
làm mất ḷng ông khách hàng. Anh có thể đă nhờ Kate tiếp đón ông
khách hộ, nhưng lúc ấy nàng đang đi thăm viếng các nhà máy của
công ty ở Bắc Mỹ cùng với Brad Reoger. Thật là khó xử. Anh liền
điện thoại đến khách sạn của O’Neil và mời ông ta đến dùng cơm
vào tối hôm ấy.
O’Neil nói với David trên điện thoại, “Con gái tôi cùng đi với
tôi. Tôi hi vọng ông sẽ không thấy phiền hà ǵ nếu tôi đem nó đi
theo”.
David không có tâm trạng nào ngồi suốt buổi tối với một đứa con
nít, nhưng anh vẫn nói một cách lịch sự, “Không có phiền ǵ cả.”
Anh dự định sẽ làm cho buổi tiếp khách ấy càng ngắn càng tốt.
Họ gặp nhau ở khách sạn Grand Hotel, trong pḥng ăn. Khi David
đến nơi, O’Neil và cô con gái đă ngồi sẵn ở bàn ăn. O’Neil là
một người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan, lịch sự, tóc bạc, vào khoảng ngũ
tuần. Con gái ông, Josephine là một phụ nữ xinh đẹp chưa từng
thấy. Nàng vào khoảng trên ba mươi tuổi, có dáng người rất đẹp,
tóc hoe mềm mại và đôi mắt trong xanh. Vừa trông thấy nàng,
David cảm thấy như bị nghẹt thở.
“Tôi... tôi xin lỗi v́ đă đến trễ.” Anh nói. “Tôi bận chút công
việc vào phút chót.”
Josephine nh́n phản ứng của David trước mặt nàng với một vẻ vui
vui, “Đôi khi những công việc vào phút chót ấy rất là thú vị,”
nàng nói mà không ngụ ư ǵ châm chọc. “Cha tôi nói ông là một
người quan trọng, ông Blackwell ạ”
“Không hẳn là như vậy... Xin cô cứ gọi tôi là David.”
Nàng gật đầu. “Đó cũng là một tên rất hay. Nó nói lên sức mạnh.”
Trước khi bữa cơm tối chấm dứt, David nhận ra rằng Josephine
không chỉ là một phụ nữ xinh đẹp, nàng là một người thông minh,
vui tính, và có tài làm cho anh cảm thấy thoải mái khi tiếp xúc.
David cảm thấy nàng thành thực có cảm t́nh với anh. Nàng hỏi
những câu hỏi về anh, mà trước kia chưa có ai đă từng hỏi anh.
Vào lúc buổi ăn tối hôm ấy kết thúc, anh cảm thấy ḿnh gần như
đă bắt đầu yêu nàng.
“Quê hương của ông ở đâu?” David hỏi Tim O’Neil.
“Ở San Francisco.”
“Vậy chắc ông sắp về rồi?”
Anh cố làm cho câu nói có vẻ như t́nh cờ.
“Tuần sau.”
Josephine mỉm cười với David, “Nếu Klipdrift cũng thích thú như
hứa hẹn, th́ có lẽ tôi sẽ thuyết phục được cha tôi ở lại lâu hơn
chút nữa.”
“Tôi có ư định sẽ làm cho nó trở nên thích thú tối đa.” David
nói. “Cô có muốn đi xuống một mỏ kim cương không?”
“Thế th́ thích quá. Cảm ơn ông.”
Đă có một thời anh vẫn thường đích thân hộ tống những vị khách
quan trọng xuống thăm các mỏ, nhưng đă khá lâu rồi, anh uỷ thác
công việc này cho các nhân viên dưới quyền. Bây giờ, không hiểu
sao, anh buột miệng nói, “Vậy ngày mai có tiện cho cô không?”
Anh có năm sáu phiên họp đă được xếp đặt vào sáng hôm ấy, nhưng
đột nhiên tất cả trở nên kém quan trọng.
Anh dẫn ông O’Neil và cô con gái đi xuống một giếng đá, sâu đến
ba mưới sáu thước, chia thành bốn ngăn, một ngăn để bơm nước,
hai ngăn để kéo đất chứa kim cương lên, và một ngăn có lồng hai
tầng dùng để chuyên chở công nhân lên xuống.
“Tôi hay có tính ṭ ṃ muốn biết điều này, điều kia.” Josephine
nói. “Tại sao người ta lại đo kim cương bằng cà rá?”
“Cà rá là gọi theo tên của một loại hạt cây đậu gọi là “carob”,”
David giải thích. “Ấy là v́ hạt carob có trọng lượng ít thay
đổi. Một cà rá bằng hai trăm mi li gam, hay một phần một trăm
bốn mươi của một “ounce” (1 ounce bằng 28,35g)
Josephine nói. “Tôi hoàn toàn như bị thôi miên, anh David ạ.”
David tự hỏi không biết Josephine muốn nói đến kim cương hay
chuyên ǵ khác. Anh cảm thấy ngây ngất được gần gũi nàng. Mỗi
khi anh dưa mắt nh́n Josephine, David cảm thấy một sự rung động
tươi mát.
“Ông và cô cũng cần phải biết qua miền đồng quê ở đây,” David
nói, “Nếu ông và cô Josephine không bận bịu ǵ vào sáng mai, tôi
sẽ vui ḷng đưa quư vị đi chơi một ṿng.”
Cha Josephine chưa kịp trả lời th́ nàng đă nói, “Như thế th́
tuyệt quá!”
David ở bên cạnh Josephine và cha cô suốt mọi ngày sau đó, và cứ
mỗi ngày qua đi, anh lại càng đi sâu vào t́nh yêu. Anh chưa hề
bao giờ gặp được ai làm cho anh say đắm đến như vậy.
Khi David đến để đón cha con Josephine đi ăn cơm, vào một tối
nọ, ông Tim O’Neil nói, “Tối nay tôi hơi mệt, anh David ạ. Anh
miễn cho tôi hôm nay, có được không?” David cố giấu vẻ vui
sướng.
“Thưa ông, không hề ǵ ạ. Tôi hiểu.”
Josephine tủm tỉm cười ranh mănh. “Tôi sẽ đi ăn với anh cho anh
vui ḷng.”
David đưa nàng đến tiệm ăn trong một khách sạn vừa mới khai
trương. Căn pḥng đông khách, nhưng người ta nhận ra David và
dọn ngay một chiếc bàn cho anh. Một ban nhạc ba người đang chơi
âm nhạc Mỹ.
David hỏi. “Cô có thích nhảy không?”
“Tôi cũng thích.”
Một lát sau, Josephine ở trong ṿng tay của David trên sàn nhảy.
Thật như một phép lạ, David ôm chặt thân h́nh tuyệt vời của
Josephine sát với người chàng, và cảm thấy được phản ứng của
nàng.
“Josephine, anh yêu em.”
Nàng đặt ngón tay lên môi David. “David, xin anh… đừng…”
“Tại sao?”
“Bởi v́ em không thể lấy anh được.”
“Em có yêu anh không?”
Nàng tủm tỉm cười, đôi mắt xanh lóng lánh. “Em say mê anh, anh
yêu quư ạ. Anh không nhận ra sao?”
“Vậy th́ tại sao?”
“Bởi v́ em không bao giờ sống ở Klipdrift.”
“Em có thể thử sống ở đây xem sao.”
“David, em cũng muốn lắm, thế nhưng em biết chuyện ǵ sẽ xảy ra.
Nếu em lấy anh và phải sống ở đây, em sẽ trở thành một mụ đàn bà
đanh đá, la hét om ṣm, rồi cuối cùng chúng ḿnh sẽ ghét bỏ
nhau. Em muốn rằng chúng ta chia tay nhau như thế này th́ tốt
hơn.”
“Anh không muốn chia tay.”
Nàng ngước mặt lên nh́n vào mặt David. Anh cảm thấy thân h́nh
nàng như tan ra, hoà lẫn với anh. “David ạ, có thể nào anh sống
ở San Francisco được không?”
Thật là một ư tưởng không thể nào thực hiện được. “Anh làm ǵ ở
đó được?”
“Chúng ta hăy ăn sáng với nhau vào ngày mai. Em muốn anh nói
chuyện với bố em.”
Tim O’Neil nói, “Josephine đă kể lại cho tôi nghe về cuộc nói
chuyện giữa anh với nó đêm qua. H́nh như cả hai người đang có
vấn đề khó khăn. Nhưng tôi có thể có một giải pháp, nếu anh quan
tâm đến việc này.”
“Thưa ông, tôi rất quan tâm đến việc này.”
O’Neil nhặt chiếc cặp da nâu lên, lấy ra một số bản thiết kế.
“Anh có hiểu biết ǵ về thực phẩm đông lạnh không?”
“Tôi e rằng không.”
“Người ta bắt đầu làm thực phẩm đông lạnh ở Mỹ vào năm 1865. Vấn
đề là làm sao chuyên chở đường xa mà thực phẩm không bị tan giá.
Chúng tôi đă có những toa xe hoả ướp lạnh, nhưng chưa có ai nghĩ
cách làm những chiếc xe hơi chở hàng ướp lạnh.” O’Neil đập nhẹ
trên bản vẽ. “Cho măi đến bây giờ. Tôi vừa nhận được một bằng
sáng chế về lối ướp lạnh mới ấy. Nó làm đảo lộn toàn thể công
nghệ thực phẩm, David ạ.”
David nh́n vào các bản vẽ. “Tôi sợ không hiểu lắm về những cái
này.”
“Điều đó không quan trọng. Tôi không cố t́m một chuyên gia kĩ
thuật. Tôi đă có rất nhiều hạng người này rồi. Cái mà tôi cần là
vấn đề tài trợ và một người nào đó có thể điều hành công việc.
Đây không phải là một điều mơ tưởng hăo huyền đâu. Tôi đă bàn
với những nhà chế biến thực phẩm hàng đầu về vấn đề này. Nó sẽ
là một cơ hội làm ăn lớn, lớn hơn là anh có thể tưởng tượng
được. Tôi cần có một người như anh.”
“Trụ sở chính của công ty ấy sẽ đặt tại San Francisco.”
Josephine nói thêm.
David ngồi im lặng, cố nghiền ngẫm về những ǵ anh vừa nghe
được. “Ông nói rằng ông đă được cấp bằng sáng chế, phải không?”
“Đúng vậy. Tôi đă sẵn sàng bắt tay vào việc.”
“Ông có thể cho tôi mượn các bản thiết kế này để đưa cho một
người nữa xem hay không?”
“Tôi không có ǵ phản đối.”
Việc đầu tiên David phải làm là điều tra về Tim O’Neil. Anh được
cho biết rằng O’Neil có danh tiếng thật sự ở San Francisco. Ông
đứng đầu ban khoa học tại Đại học Berkerley, và rất được kính
trọng. David không hiểu ǵ về thực phẩm đông lạnh, nhưng anh dự
định t́m hiểu vấn đề này cho kĩ.
“Anh sẽ trở về trong ṿng năm ngày, em yêu quư ạ. Anh muốn em và
ba em chờ đợi anh trở về.”
“Bao lâu cũng được. Em sẽ nhớ anh lắm,” Josephine nói.
“Anh cũng sẽ nhớ em,” Anh nói câu ấy với nhiều ngụ ư hơn là nàng
nghĩ.
David đi tàu hoả đến Johannesburg, và xếp đặt một cuộc gặp mặt
với Edward Broderick, chủ nhân một xí nghiệp thịt hộp lớn nhất
Nam Phi.
“Tôi muốn nghe ư kiến của ông về vấn đề này.”
David đưa cho ông xem các bản vẽ. “Tôi cần biết cái này có thể
thực hiện được không.”
“Tôi không biết chút ǵ về thực phẩm đông lạnh hay về xe đông
lạnh cả, nhưng tôi biết có người rành vấn đề này. Nếu ông trở
lại đây trưa hôm nay, tôi sẽ cho mời vài chuyên gia đến đây gặp
ông.’
Đến bốn giờ trưa hôm ấy, David trở lại xưởng đóng thịt hộp. Anh
cảm thấy ḿnh bồn chồn, lo lắng, bởi v́ anh không biết chắc chắn
anh muốn cuộc họp này sẽ tiến hành như thế nào. Hai tuần lễ
trước đó, có lẽ anh đă cười lên ha hả, nếu có ai đề nghị với anh
nên bỏ công ty Kruger-Brent. Nó là một phần của bản thân anh
rồi. Anh sẽ cười to hơn thế nữa, nếu người ta bảo anh nên xét
đến việc điều khiển một công ty thực phẩm nhỏ ở San Francisco.
Đó là một ư kiến điên rồ, ngoại trừ một điều duy nhất: Josephine
O’Neil.
Có hai người ngồi trong pḥng với Edward Broderick “Đây là Tiến
sĩ Crawford và ông Kaufman. David Blackwell.”
Họ trao đổi nhau lời chào hỏi. David hỏi, “Quư ông đă có cơ hội
xem các bản vẽ chưa?”
Tiến sĩ Crawford đáp. “Chúng tôi dĩ nhiên đă xem rồi, ông
Blackwell ạ, và xem xét rất kĩ.”
David thở một cái thật sâu. “Vậy th́ sao?”
“H́nh như Sở cấp bằng sáng chế của Mỹ đă cấp bằng sáng chế cho
cái này rồi, phải không?”
“Đúng vậy.”
Vậy th́, ông Blackwell ạ, kẻ nào được cấp bằng sáng chế này sẽ
là người giàu có vô cùng.”
David chậm răi gật đầu, ḷng tràn ngập những cảm xúc đối chọi
nhau.
“Giống như tất cả những phát minh lớn – nó đơn giản đến nỗi ḿnh
phải ngạc nhiên tại sao không có người nào nghĩ ra nó sớm hơn.
Cái này không thể thất bại được.”
David không biết nên phản ứng thế nào. Trước đó anh nửa hi vọng,
nửa không, rằng quyết định ấy sẽ được lấy đi khỏi bàn tay anh.
Nếu phát minh của Tim O’Neil là vô dụng, anh c̣n có cơ may
thuyết phục Josephine ở lại Nam Phi. Nhưng điều O’Neil đă nói
với anh là đúng. Phát minh ấy có thể thực hiện được. Bây giờ anh
phải tự ḿnh đưa ra quyết định.
Anh không nghĩ ǵ khác ngoài vấn đề ấy trong suốt cuộc hành
tŕnh trở về Klipdrift. Nếu anh nhận lời, như vậy có nghĩa là
anh sẽ rời công ty này, để khởi sự một việc kinh doanh mới, chưa
hề được thử nghiệm. Anh đang giữ một chức vụ quan trọng trong
một công ty có thế lực hàng đầu trên thế giới. Anh yêu công việc
làm của anh. Jamie và Margaret McGregor đều rất tốt đối với anh.
Sau đó là Kate. Anh đă săn sóc cho nàng từ khi nàng mới sinh.
Anh đă được trông thấy nàng lớn lên, từ một cô gái tinh nghịch,
bướng bỉnh, đến một thiếu nữ xinh đẹp, đáng yêu. Cuộc đời của
nàng là một cuốn album tranh ảnh trong trí óc anh. Anh lật từng
trang, và thấy Kate lúc bốn, tám, mười, mười bốn, rồi hai mươi
mốt tuổi – dễ bị xúc phạm, khó đoán trước được.
Chuyến tàu vừa đến Klipdrift, David đă quyết định xong. Anh sẽ
rời Công ty Hữu hạn Kruger-Brent.
Anh đi xe đến thẳng khách sạn Grad Hotel, rồi đi lên dăy buồng
của gia đ́nh Josephine. Josephine ra mở cửa cho anh.
“David!”
Anh ôm nàng trong ṿng tay, hôn tíu tít, cảm thấy thân h́nh ấm
áp của nàng áp sát vào người anh.
“Ồ, David, em nhớ anh quá. Em không muốn phải xa anh nữa.”
“Em sẽ không phải xa anh đâu,” David chậm răi nói. Anh sẽ đi San
Francisco.”
David nóng ḷng chờ đợi Kate trở về từ Mỹ. Bây giờ anh đă có
quyết định rồi, nên anh hăm hở khởi sự một cuộc đời mới, anh
nóng ḷng muốn cưới Josephine.
Lúc này, Kate đă trở về đến nhà, anh đứng trước mặt nàng và nói,
“Tôi sắp sửa lấy vợ...”
Kate nghe những lời ấy qua tiếng ù ù vang dội trong tai. Nàng
đột nhiên cảm thấy muốn ngất xỉu. Nàng nắm chặt lấy gờ bàn viết
cho khỏi ngă. Ḿnh muốn chết, nàng thầm nghĩ. Xin hăy để cho tôi
được chết.
Nhưng không hiểu sao, do một nguồn ư chí mạnh mẽ nào đó ở bên
trong, nàng cố nở một nụ cười và nói,
“Anh kể cho tôi nghe về cô ấy đi, David.” Nàng cảm thấy hănh
diện về sự b́nh tĩnh trong giọng nói của nàng. “Cô ấy là ai
vậy?”
“Tên cô ấy là Josephine O’Neil. Cô ấy đến thăm nơi này cùng với
ông bố. Tôi chắc rằng hai người sẽ là bạn thân thiết với nhau,
cô Kate ạ. Cô ấy rất tốt.”
“Cô ấy chắc chắn phải như vậy, nếu anh yêu cô ta, David ạ.”
Anh do dự một lúc. “C̣n có một chuyện nữa, cô Kate ạ. Tôi sẽ rời
công ty này.”
Cả thế giới như đổ ập xuống người nàng. “Anh sắp sửa lấy vợ, như
vậy đâu có nghĩa là anh bắt buộc phải...”
“Không phải thế. Cha của Josephine sắp khởi sự một công việc
kinh doanh mới ở San Francisco. Ông ấy đang cần có tôi.”
“Vậy th́, vậy th́ anh sẽ sống ở San Francisco.”
“Phải. Brad Rogers sẽ đảm trách công việc của tôi một cách dễ
dàng. Rồi đây chúng ta sẽ chọn một toán nhân viên quản lư tài
giỏi nhất để giúp đỡ anh ta. Cô Kate ạ, tôi… tôi không thể nói
cho cô biết tôi đă đi đến quyết định ấy một cách khó khăn như
thế nào.”
“Tất nhiên là khó khăn rồi, anh David ạ. Chắc hẳn anh phải yêu
cô ta lắm nên mới phải làm thế. Khi nào th́ tôi có thể gặp mặt
cô dâu?”
David mỉm cười, trong ḷng cảm thấy sung sướng v́ Kate đă tiếp
nhận tin này một cách vui vẻ. “Đêm nay, nếu cô có th́ giờ ăn cơm
với chúng tôi.”
“Có, tôi rảnh th́ giờ.”
Nàng cố ngăn những giọt nước mắt cho đến khi nàng ngồi lại một
ḿnh.
Cả bốn người ăn cơm tối tại toà nhà McGregor. Ngay lúc Kate
trông thấy Josephine, mặt nàng tái nhợt đi. Lạy Chúa! Không
trách ǵ David phải ḷng cô gái ấy! Nàng đẹp một cách lộng lẫy.
Chỉ cần đứng trước mặt Josephine, Kate cũng đủ cảm thấy ḿnh sao
mà vụng về, xấu xí thế. Lại c̣n tệ hơn thế nữa. Josephine là một
phụ nữ duyên dáng, hấp dẫn. Rơ ràng là cô ấy rất say mê David
“Mẹ kiếp!”
Trong lúc ăn cơm, Tim O’Neil nói với Kate về công ty mới.
“Nghe có vẻ rất hấp dẫn,” Kate nói.
“Tôi nghĩ rằng nó không thể nào so sánh được với Kruger-Brent
đâu, cô McGregor ạ. Chúng tôi sẽ khởi sự bằng một công ty nhỏ,
nhưng dưới sự điều khiển của David, chúng tôi sẽ làm ăn khá.”
“Với sự điều khiển của David, ông không thể nào thất bại được
đâu,” Kate nói.
Tối hôm ấy là cả một nỗi đau khổ khủng khiếp. Đồng thời với mối
tai hoạ ấy, nàng đă mất một người mà nàng yêu và người duy nhất
không thể thiếu được của công ty Kruger-Brent. Nàng cố gắng tiếp
tục cuộc nói chuyện cho qua buổi tối hôm ấy, nhưng sau đó nàng
không c̣n nhớ ḿnh đă nói những ǵ. Nàng chỉ biết rằng mỗi lúc
David và Josephine đưa mắt nh́n nhau, hay đụng chạm vào người
nhau, nàng chỉ muốn ḿnh chết đi cho rồi.
Trên đường trở về khách sạn, Josephine nói, “Cô ấy yêu anh đấy,
David ạ.”
David mỉm cười. “Kate à? Không đâu. Chúng tôi là bạn thân của
nhau, từ khi cô ấy c̣n được ẵm trên tay. Cô ấy mến cô lắm.”
Josephine tủm tỉm cười. Đàn ông sao mà ngây thơ thế!
Trong văn pḥng của David, sáng hôm sau, Tim O’Neil và David
ngồi đối diện nhau. “Tôi cần hai tháng nữa để thu xếp cho xong
các công việc ở đây.” David nói, “Tôi đă nghĩ đến vấn đề tài trợ
cần phải có để khởi sự công cuộc kinh doanh này. Nếu chúng ta
nhờ một trong các công ty lớn tài trợ cho ta, họ sẽ nuốt chửng
chúng ta và chỉ dành cho ta một phần nhỏ thôi. Nó sẽ không c̣n
là của ta nữa. Như vậy, tôi nghĩ chúng ta nên tự ḿnh tài trợ
cho công cuộc làm ăn này. Tôi tính ra chúng ta cần tám mươi
ngh́n đô la để khởi sự. Tôi đă tiết kiệm được vào khoảng bốn
mươi ngh́n đô la. Chúng ta cần có thêm bốn mươi ngh́n nữa.”
“Tôi có mười ngh́n đô la.” O’Neil nói, “ngoài ra, tôi cũng có
một người anh ruột có thể cho tôi vay thêm năm ngh́n đô la nữa.”
“Như vậy chúng ta c̣n thiếu hai mươi lăm ngh́n đô la.” David
nói. “Chúng ta thử vay ngân hàng xem sao.”
“Chúng tôi sẽ đi San Francisco ngay bây giờ,” O’Neil nói, “rồi
sẽ dàn xếp mọi thứ cho anh.”
Hai ngày sau Josephine và cha nàng lên đường về Mỹ. “Anh hăy lấy
chiếc toa xe riêng của tôi để đưa họ đi Cape Town, David ạ.”
Kate nói.
“Như vậy thật tốt quá, cô Kate ạ.”
Sáng hôm Josephine lên đường, David cảm thấy như một phần đời
sống của anh đă bị lấy đi. Anh nóng ḷng muốn gặp lại nàng ở San
Francisco.
Hai tuần lễ kế tiếp được dành cho việc t́m kiếm một toán nhân
viên quản lư để giúp đỡ cho Brad Rogers. Kate, David và Brad có
một danh sách các ứng viên được liệt kê cẩn thận, và họ ngồi với
nhau hàng giờ để thảo luận về từng người một.
“…Taylor là một kĩ thuật viên giỏi, nhưng về quản lư th́ yếu…”
“Thế c̣n Simmons th́ sao?”
“Hắn cũng tốt, nhưng chưa sẵn sàng đảm nhận công việc,” Brad
nói. “Cho hắn thêm năm năm nữa.”
“Babcock th́ thế nào?”
“Chọn hắn cũng được. Chúng ta hăy bàn về hắn.”
“Thế c̣n Peterson?”
“Chưa đủ tư cách đề làm một người của công ty. Hắn quan tâm đến
bản thân hắn nhiều quá.” David nói. Cùng lúc ấy, anh cảm thấy
chính anh cũng có tội v́ sắp bỏ rơi Kate.
Họ tiếp tục bàn căi về danh sách các ứng viên. Vào cuối tháng
ấy, họ đă thu hẹp lại bản danh sách, chỉ c̣n lại bốn người để
sau này làm việc với Brad. Tất cả bốn người ấy đều đang làm việc
ở nước ngoài, và sẽ được gọi về để phỏng vấn. Hai cuộc phỏng vấn
đầu tiên đều thành công. “Tôi hài ḷng về cả hai người,” Kate
nói với David và Brad.
Vào buổi sáng, khi cuộc phỏng vấn thứ ba sắp được tiến hành,
David bước vào văn pḥng của Kate, mặt mũi nhợt nhạt, “Chỗ làm
của tôi vẫn chưa bị mất chứ?”
Kate nh́n nét mặt của anh, rồi đứng dậy, tỏ vẻ hoảng sợ, “Có
chuyện ǵ vậy, David?”
“Tôi… tôi...” Anh ngồi sụp xuống ghế, “Vừa có chuyện xảy ra.”
Kate đă ra khỏi bàn viết. Nàng đến bên cạnh David nói, “Anh nói
cho tôi biết đi!”
“Tôi vừa nhận được thư của Tim O’Neil. Ông ấy bán cả công việc
kinh doanh ấy rồi.”
“Như thế nghĩa là thế nào?”
“Đúng như tôi vừa nói đấy. Ông ta đă nhận hai trăm ngh́n đô la
và tiền bản quyền phát minh của ông ta, theo đề nghị của công ty
thịt hộp “Ba Ngôi Sao” ở Chicago.” David nói với giọng chua
chát. “Công ty ấy muốn thuê tôi làm quản lư cho họ. Ông ấy lấy
làm tiếc v́ đă gây bất tiện cho tôi, nhưng ông không thể từ chối
số tiền ấy được.”
Kate nh́n David chăm chú. “Thế c̣n Josephine? Cô ấy nói thế nào?
Chắc hẳn cô ấy giận ông bố lắm.”
“Tôi cũng có cả thư của cô ấy nữa. Chúng tôi chỉ sẽ cưới nhau
khi nào tôi đến San Francisco.”
“Thế anh sẽ không đi sao?”
“Cố nhiên là tôi sẽ không đi!” David nói với vẻ giận dữ. “Trước
kia, tôi đă đưa ra đề nghị. Tôi có thể xây dựng một công ty lớn.
Nhưng họ quá vội vă để có được số tiền khốn kiếp ấy.”
“David ạ, anh không được công bằng khi anh dùng chữ “họ” trong
câu nói ấy. Chỉ v́…”
“Cái ông O’Neil ấy không bao giờ thoả thuận như vậy nếu không
được sự tán thành của Josephine.”
“Tôi… tôi không hiểu anh muốn nói ǵ, David ạ.”
“Chẳng có ǵ để nói cả. Chỉ có điều là tôi đă phạm phải một sai
lầm lớn lao nhất trong đời tôi.”
Kate đi đến bàn viết, nhặt bản danh sách ứng viên lên. Chậm răi,
nàng bắt đầu xé toạc tờ giấy.
Sáu tháng đă trôi qua từ ngày David nhận được lá thư của Tim
O’Neil. Trong thời gian ấy, Kate và David tiếp tục làm việc sát
cánh nhau, cùng đi nơi này nơi kia với nhau, và có nhiều th́ giờ
ngồi riêng với nhau. Kate cố làm mọi cách để cho David được vui.
Nàng chưng diện v́ chàng, dự tính thực hiện những ǵ chàng vui
thích, và nhiều khi vượt ra ngoài thông lệ của nàng để làm cuộc
sống của chàng được hạnh phúc tối đa. Nhưng, theo như nàng nhận
xét, tất cả đều không có kết quả nào cả. Cuối cùng, nàng đâm ra
mất kiên nhẫn.
Nàng và David cùng đi Rio de Janeiro để kiểm tra một mỏ mới t́m
được. Hai người vừa ăn cơm xong ở khách sạn và đang ngồi trong
pḥng của Kate, xem xét các con số vào lúc đêm đă khuya. Kate đă
thay quần áo, mặc chiếc kimono và đi dép vải. Khi làm xong công
việc, David vươn vai và nói, “Làm như thế là đủ cho tối nay rồi.
Bây giờ chắc tôi phải đi ngủ.”
Kate điềm tĩnh nói, “Đă đến lúc anh thoát khỏi sự đau buồn rồi
đấy chứ, David?”
David nh́n nàng, ngạc nhiên. “Đau buồn ǵ?”
“Về chuyện Josephine ấy.”
“Cô ấy ra khỏi cuộc đời của tôi rồi.”
“Vậy anh phải hành động để chứng tỏ điều ấy chứ.”
“Thế cô bảo tôi làm thế nào, Kate?” David hỏi cộc lốc.
Kate cảm thấy giận. Nàng giận v́ David đă mù quáng không thấy ǵ
cả, và đă phí phạm biết bao th́ giờ. “Để tôi bảo anh phải làm
thế nào – hăy hôn tôi đi.”
“Sao?”
“Mẹ kiếp, David! Tôi là bà chủ của anh, đồ con khỉ!” Nàng tiến
lại, sát bên David. “Hôn tôi đi…” Rồi nàng áp sát môi nàng vào
môi David, choàng cánh tay quanh người chàng. Nàng cảm thấy
chàng hơi cưỡng lại, định lùi lại. Nhưng rồi, chậm răi hai cánh
tay chàng ôm chặt lấy thân h́nh nàng. Chàng vừa hôn nàng vừa kêu
lên, “Kate…”
Nàng th́ thầm sát vào môi chàng. “Em nghĩ rằng anh sẽ chẳng bao
giờ yêu cầu…”
Hai người cưới nhau sáu tuần lễ sau đó. Đó là một lễ cưới lớn
nhất mà thị trấn Klipdrift chưa từng bao giờ thấy và sẽ không
bao giờ được thấy. Buổi lễ được tổ chức tại nhà thờ lớn nhất và
sau đó là một buổi tiếp tân ở đại sảnh của thị trấn, mời tất cả
mọi người. Có hàng núi thức ăn, không biết bao nhiêu thùng bia,
uưtxki, và sâm banh. Các nhạc sĩ chơi nhạc và tiệc tùng linh
đ́nh kéo dài cho đến lúc b́nh minh. Khi mặt trời lên, Kate và
David lẻn ra về.
“Em phải về nhà, xếp đặt đồ đạc,” Kate nói. “Đến đón em trong
ṿng một giờ nữa.”
Vào lúc trời c̣n tờ mờ sáng. Kate đi vào ngôi nhà đồ sộ một
ḿnh, bước lên pḥng ngủ, nàng đi đến một bức tranh trên tường,
ấn mạnh trên chiếc khung. Bức tranh mở ra phía sau, để lộ ra một
tủ sắt gắn vào tường. Nàng mở tủ sắt, lấy ra một bản hợp đồng.
Đó là hợp đồng mua lại công ty thịt hộp “Ba Ngôi Sao” ở Chicago.
Bên cạnh đó là một hợp đồng khác của công ty “Ba Ngôi Sao” mua
lại quyền phát minh máy làm đông lạnh của O’Neil với giá hai
trăm ngh́n đô la. Kate do dự một lát, rồi bỏ các giấy tờ lại
trong tủ sắt, khoá lại. Bây giờ David đă thuộc về nàng rồi. Anh
vẫn luôn luôn thuộc về nàng. Và thuộc về Công ty Hữu hạn
Kruger-Brent. Cùng chung sức với nhau, hai người sẽ xây dựng nó
trở thành một công ty lớn nhất, có quyền lực nhất thế giới.
Đúng như Jamie và Margaret McGregor trước đây vẫn hằng mong
muốn.
Chương 16
Kate và David cùng đi với
nhau khắp nơi trên thế giới, đến Zurich, Paris và New York, lo
toan các công việc của công ty, nhưng dù đi đến đâu họ cũng đều
bỏ chút thời giờ dành cho riêng họ. Họ nói chuyện với nhau rất
khuya vào mỗi đêm, ân ái với nhau và thăm ḍ các suy nghĩ cùng
thân thể của nhau. Kate là một nguồn vui vô tận đối với David.
Nàng thường đánh thức anh dậy vào buổi sáng để hai người ân ái
cuồng nhiệt với nhau, rồi ít giờ sau đó, nàng ngồi bên cạnh anh
ở bàn hội nghị bàn về công việc và tỏ ra sáng suốt hơn bất ḱ
một ai có mặt tại đấy. Nàng nhạy cảm với công việc kinh doanh
một cách thật là hiếm có và không ngờ. Vào thời ấy, rất ít phụ
nữ ở vào các cấp bậc hàng đầu trong giới kinh doanh. Thoạt tiên,
Kate được mọi người đối xử với thái độ nhă nhặn, chịu đựng,
nhưng thái độ ấy thay đổi nhanh chóng, trở thành kính cẩn và
thận trọng. Kate tỏ ra vui thích trong việc vận dụng các thủ
đoạn và mưu lược của tṛ chơi. David đă từng thấy nàng qua mặt
được những người đàn ông có kinh nghiệm hơn nàng rất nhiều. Nàng
có bản năng của một kẻ chiến thắng. Nàng biết ḿnh muốn ǵ và
làm thế nào đạt được thứ mà nàng muốn. Đó là quyền lực.
Họ kết thức thời ḱ trăng mật bằng một tuần lễ huy hoàng ở Ngôi
nhà Trên Đồi Thông của nàng ở Dark Harbor.
Lúc ấy là vào tháng sáu năm 1914, người ta bắt đầu bàn tán về
chiến tranh. Kate và David là những vị khách mời tại một ngôi
nhà ở thôn quê trong vùng Sussex. Đó là vào thời ḱ người ta
sống tại những ngôi nhà ở thôn quê, và các khách mời trong những
dịp cuối tuần cũng phải tuân theo một nghi thức bắt buộc. Đàn
ông phải mặc quần áo chỉnh tề vào bữa ăn sáng, thay ăn trưa, rồi
lại thay đổi vào giờ uống trà – với chiếc áo nhung viền xa tanh
– cuối cùng đổi sang chiếc áo vét chỉnh tề đúng theo nghi thức
vào buổi ăn tối.
“Lạy Chúa!” David phàn nàn với Kate, “Anh thấy ḿnh giống như
một con công”.
“Anh là một con công xinh đẹp, anh yêu quư ạ”. Kate cố trấn an
David. “Khi nào về nhà rồi, anh cởi truồng đi lông nhông cũng
được”.
Anh ôm nàng trong ṿng tay. “Anh không c̣n đủ kiên nhẫn nữa”.
Đến buổi ăn tối, có tin cho biết rằng Frances Ferdinand, kẻ kế
vị ngai vàng Áo-Hung, và bà vợ ông ta, Sophie, đă bị giết bởi
một tên ám sát.
Ông chủ nhà, Lord Maney, nói, “Thật là một hành động xấu xa. Bắn
cả một người đàn bà! Phải thế không, quư vị?” Thế nhưng sẽ không
ai phải đi ra trận v́ một đất nước nhỏ bé ở tận vùng Balkan.
Rồi cuộc nói chuyện chuyện sang tṛ chơi cricket.
Sau đó, vào lúc đi ngủ, Kate hỏi David, “Anh có nghĩ rằng sẽ có
chiến tranh không?”
“V́ chuyện một vị hoàng tử bé nhỏ bị giết hay sao? Ồ, không
đâu”.
Nhưng điều phỏng đoán này sau đó đă được chứng tỏ là sai lầm.
Nước Áo-Hung, nghi ngờ rằng những láng giềng Serbia đă chủ mưu
ám sát Ferdinand, tuyên chiến với Serbia, và vào tháng mười năm
ấy, đa số các nước trên thế giới đều lâm vào cuộc chiến. Đó là
một cuộc chiến tranh theo kiểu mới. Lần đầu tiên, các loại xe cơ
giới hoá được sử dụng – máy bay, khí cầu và tàu ngầm.
Ngày nước Đức tuyên chiến, Kate nói, “Đây có thể là một cơ hội
tuyệt vời cho chúng ta, David ạ”.
David nhăn mặt, “Em nói ǵ lạ vậy?”
“Các nước cần súng ống, đạn dược và…”
“Chúng ta sẽ không bao giờ cung cấp cho họ những thứ ấy”, David
ngắt lời với vẻ cương quyết. “Chúng ta có khá nhiều công việc
rồi, không cần phải kiếm lợi nhuận bằng máu của bất cứ ai”.
“Sao anh lại bi đát hoá vấn đề như thế. Phải có người nào làm ra
súng ống chứ”.
“Chừng nào anh c̣n làm việc cho công ty này, chúng ta sẽ không
làm chuyện ấy. Thôi, không bàn căi chuyện này nữa, Kate ạ. Vấn
đề ấy chấm dứt rồi”.
Kate thầm nghĩ. Thật là đồ chết tiệt! Lần đầu tiên trong hôn
nhân của hai người, Kate và David ngủ riêng giường. Nàng nghĩ,
tại sao David lại có thể là một anh chàng lư tưởng một cách ngờ
nghệch đến thế nhỉ?
C̣n David nằm ngẫm nghĩ, làm sao nàng có thể lạnh lùng, tàn nhẫn
đến thế? Công việc kinh doanh đă làm cho nàng thay đổi rồi.
Những ngày kế tiếp đó thật là khổ sở đối với cả hai người. David
hối tiếc vực thẳm t́nh cảm giữa hai người, nhưng không biết cách
nào khoả lấp cho được. Kate quá kiêu hănh và cứng đầu nên không
chịu nhường, v́ nàng cho rằng nàng phải.
Tổng thống Woodrew Wilson đă hứa rằng nước Mỹ sẽ đứng ngoài cuộc
chiến, nhưng v́ các tàu ngầm Đức bắt đầu thả thuỷ lôi tấn công
các tàu chuyên chở khách không vơ trang, và những câu chuyện về
hành vi tàn nhẫn của người Đức lan rộng, áp lực bắt đầu đè nặng
lên nước Mỹ, thúc giục họ phải giúp đỡ các đồng minh. Khẩu hiệu
lúc ấy là, “Hăy làm cho thế giới được an toàn để phát huy nền
tảng dân chủ”.
David đă học lái máy bay trong vùng sa mạc Namib ở Nam Phi, nên
khi phi đoàn Lafeayette được thành lập ở Pháp với các phi công
Mỹ, anh đến gặp Kate và nói, “Anh phải đi ṭng quân”.
Nàng kinh hăi, “Không! Đó không phải là cuộc chiến của anh mà”.
“Nó sẽ là như vậy”. David điềm tĩnh nói. “Nước Mỹ không thể đứng
ngoài cuộc chiến được. Anh là người Mỹ, anh muốn giúp họ vào lúc
này”.
“Anh bốn mươi sáu tuổi rồi”.
“Anh vẫn c̣n có thể lái máy bay được, Kate ạ. Họ đang cần sự
giúp đỡ bằng đủ mọi cách”.
Kate không c̣n cách nào làm anh thay đổi ư định. Họ trải qua
những ngày cuối cùng bên nhau trong sự yên tĩnh, quên đi mọi
điều khác biệt. Họ yêu nhau, và chỉ có điều ấy là quan trọng.
Vào đêm trước khi David lên đường sang Pháp, anh nói, “Em và
Brad có thể điều khiển mọi công việc giống như anh, hay c̣n có
thể giỏi hơn nữa”.
“Nếu có chuyện ǵ xảy ra cho anh th́ sao? Em sẽ không thể nào
chịu đựng nổi đâu”.
Anh ôm nàng sát vào ḷng. “Không có ǵ xảy ra cho anh đâu. Kate
ạ. Anh sẽ trở về với em với tất cả mọi loại huy chương”.
Anh lên đường vào sáng ngày hôm sau.
Sự vắng mặt của David là cái chết đối với Kate. Nàng đă mất bao
thời gian mới chiếm được chàng, và bây giờ nỗi lo sợ ghê rợn sẽ
mất chàng cứ len lỏi trong tâm trí nàng trong từng giây phút của
cuộc đời. Anh lúc nào cũng như ở bên nàng. Nàng tưởng như nghe
tiếng anh qua giọng nói của một người lạ mặt, tiếng cười đột
ngột nổi lên trên đường phố, một câu nói, một hương thơm, một
điệu hát. Anh ở khắp mọi nơi. Mỗi ngày nàng viết cho anh một lá
thư rất dài. Mỗi khi nhận được thư anh, nàng đọc đi đọc lại cho
đến khi nó rách bươm ra. Anh vẫn mạnh khoẻ, anh viết thư cho
nàng. Quân Đức có ưu thế trên không, nhưng điều ấy sẽ thay đổi.
Có nhiều tin đồn cho biết rằng nước Mỹ sẽ giúp. Anh sẽ viết thư
cho nàng, khi nào có thể. Anh yêu nàng.
“Đừng để chuyện ǵ xảy ra cho anh, anh yêu quư ạ, Nếu có chuyện
ǵ, em sẽ ghét anh vô cùng.”
Nàng cố quên nỗi khổ sở cô đơn bằng cách vùi đầu vào công việc.
Lúc chiến tranh bắt đầu, Pháp và Đức có những lực lượng chiến
đấu được trang bị đầy đủ nhất Âu châu, nhưng quân đồng minh có
nhân lực, tài nguyên và vật liệu lớn lao hơn. Nước Nga, với quân
đội đông nhất, không được trang bị đầy đủ và cấp chỉ huy kém.
“Họ đều cần sự giúp đỡ”, Kate nói với Brad Rogers. “Họ cần xe
tăng, súng ống và đạn dược”.
Brad Rogers cảm thấy khó chịu. “Kate ạ, David không cho rằng…”
“David không có mặt ở đây, Brad ạ. Tất cả đều do anh và tôi
quyết định”.
Nhưng Brad đă hiểu ư của Kate. Tất cả đều do nàng quyết định.
Kate không thể nào hiểu được thái độ của David về việc chế tạo
vũ khí. Quân đồng minh cần có vũ khí, và Kate nghĩ rằng nhiệm vụ
yêu nước của nàng là cung cấp vũ khí cho họ. Nàng thảo luận vấn
đề này với lănh tụ của năm, sáu nước bạn, và trong ṿng một năm,
Công ty Hữu hạn Kruger-Brent chế tạo súng, xe tăng, bom và đạn
dược. Công ty cũng cung cấp xe hoả, xe tăng, quân phục và súng.
Kruger-Brent nhanh chóng trở thành một trong những tổ chức phát
triển nhanh chóng trên thế giới. Khi Kate trông thấy những con
số lợi tức gần đây nhất, nàng nói với Brad Rogers, “Anh có thấy
các con số này không? David sẽ phải thú nhận rằng anh ấy đă
nhầm”.
Trong thời gian ấy, Nam Phi đang ở trong t́nh trạng xáo trộn.
Các lănh tụ các đảng phái cam kết ủng hộ đồng minh, và nhận
trách nhiệm bảo vệ Nam Phi chống lại quân Đức, nhưng đa số người
Afrikaner chống lại sự ủng hộ của đất nước họ đối với nước Anh.
Họ không thể quên đi quá khứ một cách nhanh chóng.
Ở Âu châu, chiến tranh diễn ra không mấy tốt đẹp cho quân Đồng
minh. Cuộc chiến đấu ở mặt trận phía Tây đi đến chỗ ngưng trệ.
Cả hai phe đều đào hầm cố thủ, được bảo vệ trong các chiến hào
trải dài ngang qua Pháp và Bỉ. Binh lính rất khổ sở. Nước mưa và
bùn tràn ngập các hầm trú ẩn, chuột ḅ lúc nhúc trong các chiến
hào. Kate mừng rằng David lúc ấy chỉ phải chiến đấu trên không.
Ngày 6 tháng tư, 1917, Tổng thống Wilson tuyên chiến. Như vậy là
lời tiên đoán của David đă thành sự thực. Nước Mỹ bắt đầu động
viên quân sĩ.
Lực lượng viễn chinh đầu tiên của Mỹ, dưới quyền chỉ huy của
tướng John J. Pershing, bắt đầu đổ bộ vào Pháp vào ngày 26 tháng
sáu, 1917. Tên của nhiều địa điểm mới trở thành quen thuộc trong
ngôn ngữ của mọi người: Saint Mihiel… Château Thierry… Meuse
Argonne… Belleau Wood… Werdun… Quân Đồng minh trở thành một lực
lượng không ai chống cự nổi, và đến ngày 11 tháng mười một,
1918, cuộc chiến tranh kết thúc. Thế giới trở nên an toàn để xây
dựng nền dân chủ.
David đang trên đường trở về nhà.
Khi David rời chiếc tàu chở quân lên bờ ở New York, Kate đă chờ
đón anh ở đó. Hai người nh́n nhau tưởng chừng như vô tận, không
c̣n biết ǵ đến những tiếng ồn ào của mọi người xung quanh. Kate
nhảy xổ vào ṿng tay David. Trông anh gầy đi và mệt mỏi. Lạy
Chúa! Ḿnh nhớ anh ấy quá. Nàng có sẵn hàng ngh́n câu hỏi để hỏi
anh, nhưng họ có thể chờ đợi. Kate nói, “Em sẽ đưa anh đến Ngôi
nhà Trên Đồi Thông. Đó là một nơi tuyệt hảo để anh nghỉ ngơi”.
*
* *
Kate đă chuẩn
bị rất nhiều thứ trong ngôi nhà này để chở đón ngày trở về của
David. Căn pḥng khách rộng lớn, thoáng khí đă được bày biện sang
trọng với hai chiếc ghế sô pha giống hệt nhau, bọc vải hoa màu hồng
và xanh lục. Những chiếc ghế bành nhồi long tơ rất hợp với nhay được
xếp xung quanh ḷ sưởi. Trên ḷ sưởi là những bức tranh vẽ hoa của
Vlaminck, và ở mỗi bên có những cây đèn mạ vàng. Hai bộ cửa kiểu
Pháp mở ra hàng hiên chạy dài theo toà nhà ở ba phía, được che bằng
một tấm vải bạt có kẻ sọc. Các căn pḥng đều sáng sủa, thoáng khí,
và nh́n ra quang cảnh hải cảng thật là ngoạn mục.
Kate dẫn David đi suốt ngôi nhà, vừa đi vừa nói chuyện thật là vui
vẻ. Anh trông có vẻ trầm ngâm một cách lạ lùng. Sau khi đă xem xong
khắp nơi, Kate hỏi, “Anh có thích những ǵ em đă sắp đặt trong ngôi
nhà này không, anh yêu quư?”
“Đẹp lắm, Kate ạ. Bây giờ, em hăy ngồi xuống, anh muốn nói chuyện
với em”.
Nàng đột nhiên cảm thấy nôn nao. “Có chuyện ǵ vậy?”
“Có vẻ như chúng ta trở thành kẻ cung cấp súng ống, đạn dược cho một
nửa thế giới”.
“Chờ đến khi nào anh xem xét sổ sách đă”. Kate nói. “Lợi nhuận của
chúng ta đă…”
“Anh đang nói về một chuyện khác kia. Nếu anh nhớ không lầm, lợi
nhuận chúng ta cũng rất khá lúc anh ra đi. Anh tưởng rằng anh với em
đă đồng ư với nhau rằng chúng ta không dính dáng ǵ đến việc chế tạo
các đồ trang bị quân sự”.
Kate cảm thấy cơn giận của nàng dâng lên. “Anh đồng ư, chứ em có
đồng ư đâu”. Nàng cố dằn lại cơn giận của ḿnh. “Thời buổi thay đổi
rồi, David ạ. Chúng ta phải thay đổi cùng nó”.
Anh nh́n nàng, rồi lặng lẽ hỏi, “Thế em đă thay đổi hay sao?”
*
* *
Nằm trên giường
đêm hôm ấy, Kate tự hỏi không biết chính nàng đă thay đổi, hay là
David. Nàng đă trở nên mạnh mẽ hơn hay là David đă yếu đi nhỉ? Nàng
nghĩ đến luận cứ của chàng chống lại việc sản xuất vũ khí. Đó là một
luận cứ yếu ớt. Dẫu sao, phải có người nào đó cung cấp hàng hoá cho
quân đội, và lợi nhuận trong việc làm này rất là lớn. Đă có chuyện
ǵ xảy ra ảnh hưởng đến ư thức kinh doanh của David? Lâu nay nàng
vẫn coi chàng là một con người thông minh, tài giỏi nhất nàng từng
thấy. Nhưng bây giờ, nàng cảm thấy ḿnh có khả năng điều khiển công
việc kinh doanh giỏi hơn David. Nàng trải qua suốt một đêm không
ngủ.
Đến buổi sáng, Kate và David cùng ngồi ăn điểm tâm, rồi đi dạo quanh
vườn.
“Thật là đẹp”. David nói, “Anh rất sung sướng được ở đây”.
Kate nói, “Về câu chuyện giữa chúng ta tối hôm qua…”
“Chuyện ấy giải quyết rồi. Lúc ấy anh đi vắng, và em đă làm những ǵ
mà em cho là phải”.
Không biết ḿnh có làm như vậy không, nếu lúc ấy David có mặt ở đây?
Kate tự hỏi. Nhưng nàng không nói ư nghĩ ấy lên. Nàng đă làm những
công việc ấy v́ lợi ích của công ty. Phải chăng công ty c̣n quan
trọng hơn cuộc hôn nhân của ḿnh? Nàng sợ không dám đưa ra câu trả
lời.
Chương 17
Năm năm kế tiếp
đó chứng kiến một thời ḱ tăng trưởng khó tin nổi trên khắp thế
giới. Công ty Kruger-Brent đă được xây dựng trên cơ sở kim cương và
vàng, nhưng nó đă được đa dạng hoá và mở rộng ra khắp thế giới, đến
nỗi trung tâm hoạt động của nó không c̣n ở Nam Phi nữa. Gần đây công
ty đă thụ đắc được một cơ sở xuất bản lớn, một công ty bảo hiểm và
nửa triệu mẫu đất để trồng cây lấy gỗ.
Một buổi tối nọ, Kate lay David dậy và nói, “Anh yêu quư, chúng ta
hăy di chuyển trụ sở chính của công ty”.
David lảo đảo ngồi dậy. “S… sao?”
“Trung tâm kinh doanh thế giới ngày nay là New York. Đó là nơi chúng
ta nên đặt trụ sở chính cho công ty. Nam Phi lại quá xa mọi nơi.
Ngoài ra, với điện thoại và điện tín như chúng ta có ngày nay, chúng
ta có thể liên lạc với bất cứ văn pḥng nào của chúng ta chỉ trong
mấy phút”.
“Tại sao anh lại không nghĩ đến điều ấy nhỉ”. David lẩm bẩm, rồi lại
lăn ra ngủ.
*
* *
New York là một
thế giới mới rất thú vị. Trong những lần viếng thăm đầu tiên nơi ấy,
Kate đă cảm thấy nhịp đập nhanh của thành phố, nhưng sống ở đây chả
khác nào như bị mắc kẹt vào giữa một ma trận. Trái đất có vẻ như
quay nhanh hơn, mọi vật đều cử động theo một tốc độ nhanh chóng hơn.
Kate và David lựa chọn một địa điểm cho trụ sở mới của công ty trên
đừơng Wall Strett, và các kiến trúc sư khởi sự công việc. Kate lựa
chọn một số kiến trúc sư khác để vẽ kiểu một toà nhà lớn theo kiểu
thời Phục hưng ở Pháp vào thế kỉ mười sáu.
“Thành phố này ồn ào kinh khủng”, David phàn nàn.
Đúng như vậy. Tiếng ầm ầm của máy tán đinh tràn ngập không khí ở
khắp nơi trong thành phố, trong khi các nhà chọc trời bắt đầu mọc
lên cao vút đến trời xanh. New York đă trở thành một thánh địa cho
thương mại từ khắp nơi trên thế giới, là trung tâm đóng tàu, bảo
hiểm, giao thông và chuyên chở. Đó là một thành phố đang nổ bùng lên
với một sức sống độc đáo. Kate yêu thích nó, nhưng nàng cũng ư thức
được nỗi khổ sở của David.
“David ạ, đây là tương lai. Nơi này sẽ tăng trưởng và chúng ta lớn
lên cùng với nó”.
“Lạy Chúa, Kate, em c̣n muốn có được thêm bao nhiêu nữa?”
Không cần phải suy nghĩ, nàng đáp, “Tất cả mọi thứ trên đời này”.
Nàng không hiểu tại sao David lại đặt một câu hỏi như thế. Đă dấn
thân vào tṛ chơi là phải thắng, và người ta thắng bằng cách đánh
gục người khác. Điều đó thật là rơ ràng đối với nàng. Nhưng sao
David lại không thể thấy được? David là một nhà kinh doanh giỏi,
nhưng anh vẫn thiếu một thứ. Đó là sự khao khát, một sự thôi thúc
mạnh mẽ là phải chinh phục, để trở thành kẻ lớn nhất, giỏi nhất. Cha
nàng đă có tinh thần ấy, và nàng cũng có. Kate không biết rơ tư
tưởng này đến với nàng từ bao giờ, nhưng ở vào một thời điểm nào đó
trong đời nàng, công ty này sẽ trở thành ông chủ, c̣n nàng là tên nô
lệ. Nó làm chủ nàng hơn là nàng làm chủ nó.
Khi nàng cố giải thích các cảm nghĩ của ḿnh cho David th́ anh cười
rộ lên và nói, “Em đă làm việc quá nhiều”. Nàng sao giống cha nàng
thế, David thầm nghĩ. Và chính anh h́nh như đă nhận ra một cách mơ
hồ rằng điều ấy thật đáng lo ngại.
Làm sao người ta lại có thể làm việc quá nhiều được? Kate tự hỏi.
Trong đời nàng không có ǵ vui thú hơn là công việc. Đó là lúc nàng
cảm thấy sống động nhất. Mỗi ngày đem đến cho nàng một loạt vấn đề
mới, và mỗi vấn đề là một thử thách, một câu đố cần phải t́m cách
giải, một tṛ chơi cần phải thắng. Và nàng đă thành công tuyệt vời
trong đó. Nàng bị mắc kẹt vào một thứ ǵ ngoài sự tưởng tượng. Nó
không có liên quan ǵ đến tiền bạc hay thành tích; nó có liên qua
đến quyền lực. Một thứ quyền lực kiểm soát đời sống của hàng ngh́n
con người trong mọi ngơ ngách của trái đất. Giống hệt như cuộc đời
nàng trước kia đă từng bị những người khác kiểm soát. Chừng nào mà
nàng có quyền lực, nàng sẽ không bao giờ cần bất cứ ai. Đó là một
thứ vũ khí ngoài sức tưởng tượng.
Kate được mời dùng cơm với các vị vua, nữ hoàng và tổng thống. Tất
cả đều mong đợi đặc ân, thiện chí của nàng. Một nhà máy Kruger-Brent
có nghĩa là sự khác biệt giữa giàu và nghèo. Quyền lực. Công ty là
một vật sống. Nó là một tên khổng lồ đang lớn, cần phải được cho ăn,
và đôi khi cần có những sự hi sinh, v́ tên không lồ ấy không thể bị
c̣ng chân lại được. Bây giờ Kate hiểu điều đó. Nó có một nhịp điệu,
một nhịp đập, và nó đă thuộc về nàng rồi.
Vào tháng ba, sau khi đă chuyển đến New York, Kate cảm thấy trong
người không được khoẻ. David khuyên nàng nên đi khám bác sĩ.
“Tên ông ấy là John Harley. Ông ta là một bác sĩ trẻ có tiếng tăm”.
Miễn cưỡng, Kate đến gặp ông bác sĩ. John Harley là dân Boston,
người gầy c̣m, vẻ nghiêm trang, trạc hai mươi sáu tuổi, tức nhỏ hơn
Kate năm tuổi.
“Tôi nói trước với ông nhé”, Kate nói với bác sĩ, “tôi không có th́
giờ đâu để mà ốm”.
“Vâng, tôi xin nhớ điều đó, bà Blackwell ạ. Trong khi chờ đợi, tôi
xin khám cho bà một chút”.
Bác sĩ Harley khám sức khoẻ nàng, làm một vài xét nghiệm, rồi nói,
“Tôi chắc chẳng có ǵ đáng ngại đâu. Tôi sẽ có kết quả trong ṿng
một vài ngày. Xin bà gọi dây nói đến cho tôi vào ngày thứ tư”.
*
* *
Sáng sớm ngày
thứ tư, Kate gọi điện thoại cho bác sĩ Harley. “Tôi có tin mừng báo
cho bà hay, bà Blackwell ạ”, ông nói một cách vui vẻ. “Bà sắp có
cháu bé rồi đấy”.
Thật là giây phút vui mừng tột độ trong cuộc đời của Kate. Nàng nóng
ḷng báo cho David biết ngay tin này.
Nàng chưa bao giờ thấy David vui sướng đến như thế. Anh nhấc bổng
nàng lên trong ṿng tay khoẻ mạnh và nói, “Nó sẽ là con gái, nó sẽ
giống hệt như em”. Anh thầm nghĩ, đây chính là điều mà Kate đang
cần. Bây giờ, nàng sẽ phải ở nhà nhiều hơn. Nàng sẽ là một người vợ
theo đúng nghĩa hơn.
Nhưng Kate lại có một ư nghĩ khác. Nó sẽ là một đứa con trai. Một
ngày kia, nó sẽ nắm lấy công ty Kruger-Brent.
*
* *
Khi ngày sinh
đứa bé gần kề, Kate làm việc trong những khoảng thời gian ngắn hơn,
nhưng nàng vẫn có mặt ở văn pḥng mỗi ngày.
“Em hăy quên công việc và nghỉ ngơi đi”, David khuyên Kate.
Anh không hiểu được là công việc mới chính là lối nghỉ ngơi, làm
nàng bớt căng thẳng.
Ngày sinh của đứa bé được dự trù vào tháng mười hai. “Em sẽ cố gắng
sinh nó ra vào ngày hai mươi nhăm”, Kate hứa với David. “Nó sẽ là
món quà Giáng sinh của chúng ta”.
Đó sẽ là một ngày Giáng sinh hoàn hảo, Kate thầm nghĩ. Nàng đứng đầu
một tổ hợp công ty, lấy được người đàn ông mà nàng yêu, và nàng sẽ
có một đứa con. Nếu có một sự mỉa mai trong thứ tự của các ưu tiên
ấy của nàng, Kate cũng không nhận thức được.
*
* *
Thân h́nh nàng
đă lớn ra và khó coi, và mỗi ngày Kate lại càng thấy khó đi đến văn
pḥng, thế nhưng mỗi khi David hay Brad Rogers đề nghị nàng nên ở
nhà th́ nàng lại nói, “Trí óc của tôi vẫn đang hoạt động”. Hai tuần
lễ trước khi đứa bé ra đời, David đang đi Phi châu, thanh tra vùng
mỏ ở Pniel. Anh dự tính sẽ trở về New York trong tuần sau.
Kate đang ngồi ở bàn giấy th́ Brad Rogers bước vào mà không báo
trước. Trông thất nét mặt cau có của Brad, Kate liền hỏi, “Vụ giao
dịch Shannon thất bại rồi, phải không?”
“Không, tôi… tôi vừa được tin xấu. Vừa xảy ra một tai nạn. Một vụ nổ
ở mỏ”.
Nàng cảm thấy đau nhói, “Ở đâu vậy? Có tệ lắm không? Có ai bị chết
không?”
Brad thở một cái thật sâu. “Sáu người. David cũng ở trong số đó,
Kate ạ”.
Những tiếng nói ấy như tràn khắp căn pḥng, rồi dội lại bức tường
lót ván gỗ, mỗi lúc mội to hơn, cho đến khi chúng trở thành một
tiếng kêu thét trong tai nàng, một ngọn thác Niagara bằng âm thanh
đang d́m nàng xuống, rồi nàng cảm thấy ḿnh như bị hút vào trung
tâm, sâu hơn nữa, hơn nữa, cho đến khi nàng không c̣n thở được nữa.
Tất cả mọi vật đều tối sầm lại và im lặng.
Đứa bé ra đời một giờ sau đó, sớm hơn hai tuần. Kate đặt tên cho bé
trai ấy là Anthony James Blackwell, theo tên cha của David. Mẹ sẽ
yêu con v́ mẹ; mẹ sẽ yêu con v́ bố.
Một tháng sau, toà lâu đài mới trên đại lộ Năm đă hoàn tất, Kate,
cùng với con trai và các gia nhân dọn đến đó ở. Hai toà lâu đài ở Ư
đă được gỡ ra để trang bị cho ngôi nhà này. Đó là một nơi trưng bày
các đồ gỗ chạm trổ công phu theo kiểu Ư thế kỉ mười sáu, những sàn
nhà bằng đá cẩm thạch hồng viền bằng cẩm thạch đỏ sẫm. Thư viện lót
ván gỗ phô trương những chiếc ḷ sưởi tuyệt đẹp kiểu thế kỷ mười
tám, trên đó có treo một bức tranh hiếm của Holbein. Lại c̣n có một
pḥng trưng bày chiến lợi phẩm với bộ sưu tập súng của David, và một
pḥng tranh đầy những bức hoạ của Rembrandt, Verneer, Valsqueze và
Bellini. Có một pḥng khiêu vũ, một pḥng khách có nhiều cửa lớn,
một pḥng ăn chính thức, và một pḥng nuôi trẻ cạnh ngay pḥng của
Kate, và không biết bao nhiêu pḥng ngủ. Trong các khu vườn có các
pho tượng của Rodin, Augustus Saint Gaudens va Maillol. Đó là toà
lâu đài thích hợp cho một vị vua. Và vị vua đang lớn lên ở đó, Kate
thầm nghĩ.
Năm 1928, khi Tony lên bốn tuổi, Kate gửi nó đến một trường mẫu
giáo. Nó là một đứa bé xinh đẹp, nghiêm trang, có cặp mắt xám và cái
cằm bướng bỉnh của mẹ. Nó được học âm nhạc, và khi lên năm, nó theo
học trường múa. Những thời gian vui sướng nhất của hai mẹ con là khi
họ sống bên nhau ở Ngôi nhà Trên Đồi Thông ở Dark Harbor. Kate mua
một chiếc thuyền buồm có gắn động cơ, dài chừng hai mươi sáu thước,
mà nàng đặt tên cho là “Cướp Biển”. Nàng và Tony thường đi trên
chiếc thuyền buồm ấy chạy dọc theo bờ biển Maine. Tony rất thích.
Nhưng chính công việc mới làm cho Kate cảm thấy vui sướng nhất.
Có một vẻ thần bí về công ty Kruger-Brent mà Jamie McGregor đă thiết
lập nên. Nó là vật sống, nó là người yêu, và sẽ không bao giờ chết
vào một ngày mùa đông để lại nàng cô đơn. Nó sẽ sống vĩnh viễn. Nàng
sẽ bảo đảm cho sự sống c̣n của nó. Rồi một ngày kia, nàng sẽ trao nó
lại cho con nàng.
Điều duy nhất khiến nàng băn khoăn, lo nghĩ là nơi quê hương của
nàng. Nàng rất lo lắng về Nam Phi. Những vấn đề chủng tộc ở đó mỗi
ngày mỗi thêm trầm trọng, khiến Kate cảm thấy băn khoăn. Ở đó hai
phe chính trị đối lập nhau: nhóm “Verkramtes”, là nhóm người có đầu
óc chật hẹp, chủ trương ḱ thị chủng tộc – và nhóm “Verligtes”, sáng
suốt hơn, vẫn mong muốn cải thiện vị thế của người da đen. Ông thủ
tướng James Hertzog cùng với Jan Smut đă thiết lập một liên minh và
phối hợp quyền lực với nhau để cho thông qua một đạo luật mới về đất
đai. Người da đen bị xoá tên khỏi các danh sách và không có quyền đi
bầu hay làm chủ đất đai. Hàng triệu người thuộc các nhóm thiểu số
khác nhau đều bị xáo trộn bởi đạo luật mới này. Các vùng không có
các mỏ kim loại, không có các trung tâm kĩ nghệ hay các cảng, th́
được dành cho những người da màu, da đen và Ấn Độ.
Kate xếp đặt một phiên họp với các viên chức cao cấp ở Nam Phi. “Đây
là một trái bom”, Kate nói với họ, “Điều mà các ông đang làm là cố
giữ tám triệu người trong ṿng nô lệ”.
“Đó không phải là nô lệ, bà Blackwell ạ. Chúng tôi làm như thế là v́
lợi ích của họ”.
“Thật vậy sao? Làm thế nào các ông giải thích được điều ấy?”
“Mỗi sắc tộc đều có cái ǵ đó để đóng góp. Nếu người da đen hoà lẫn
với người da trắng, họ sẽ mất đi cá tính của ḿnh. Chúng tôi cố bảo
vệ cho họ”.
“Thật là vô nghĩa lư”, Kate căi lại. “Nam Phi đă trở thành một địa
ngục ḱ thị chủng tộc”.
“Điều đó không đúng. Người da đen từ những nước khác đă từ ngh́n dặm
đến đây để được vào xứ này. Họ trả đến năm mươi bảng Anh để có một
giấy thông hành giả mạo. Người da đen được sống sung sướng ở đây hơn
các nơi khác”.
“Vậy th́ họ thật đáng thương hại”, Kate nói.
“Bọn chúng là những đứa trẻ con sơ khai thôi, bà Blackwell ạ. Đó
chính là v́ lợi ích cho họ”.
Kate rời khỏi phiên họp, trong ḷng thất vọng và rất lo sợ cho đất
nước của nàng.
Kate cũng lo lắng cho Banda. Mấy lâu nay, tên ông được nhắc nhiều
lần trên báo chí. Các nhật báo ở Nam Phi gọi ông là “Cây địa du đỏ”
và trong các câu chuyện họ kể vẫn có một vẻ thán phục miễn cưỡng.
Ông trốn thoát khỏi tay cảnh sát bằng cách hoá trang thành một người
cày ruộng, tài xế xe hơi hay gác cổng. Ông đă tổ chức một đạo quân
du kích và đứng hàng đầu trong danh sách những người bị truy lùng
gắt gao nhất. Một bài viết trên tờ báo Cape Times kể lại rằng ông
được những người biểu t́nh khiêng trên vai, đi diễu một cách đắc
thắng trên khắp các con đường của một làng da đen. Ông đi từ làng
này đến làng khác để nói chuyện với các học sinh, nhưng mỗi khi cảnh
sát được tin về sự xuất hiện của Banda th́ ông lại biến đi đâu mất.
Người ta bảo ông có một toán cận vệ đông đến hàng trăm người, gồm
toàn bạn bè và những người trung thành với ông. Mỗi đêm ông ngủ tại
một nhà khác. Kate biết rằng chỉ có cái chết mới làm ông ngưng hoạt
động mà thôi.
Nàng phải tiếp xúc được với ông. Nàng gọi một tên đốc công trước kia
của nàng, một người nàng có thể tin cậy, và hỏi anh ta, “William
này, anh có thể t́m ra được Banda cho tôi không?”
“Chỉ khi nào ông ấy muốn th́ mới được”.
“Vậy anh hăy thử đi. Tôi muốn gặp ông ấy”.
“Để tôi nghĩ xem có cách nào”.
Sáng hôm sau, viên đốc công ấy nói, “Nếu tối nay bà rảnh, sẽ có một
chiếc xe đưa bà về đồng quê”.
Kate được đưa đến một ngôi làng nhỏ cách Johannesburg bảy mươi dặm.
Người tài xế dừng xe trước một ngôi nhà nhỏ. Kate bước vào bên
trong. Banda đang ngồi ở đó chờ đợi nàng. Ông trông vẫn như hồi nàng
gặp ông trước kia. Chắc bác ấy nay đă sáu mươi tuổi rồi, Kate thầm
nghĩ. Ông đă đi trốn trong nhiều năm để thoát khỏi tay cảnh sát, thế
nhưng trông ông vẫn trầm tĩnh, thoải mái.
Ông ôm lấy Kate và nói, “Mỗi lúc cô trông lại càng đẹp hơn”.
Nàng cười, “Tôi đă già đi. Ít năm nữa thôi, tôi sẽ bốn mươi tuổi
rồi”.
“Tuổi tác không ảnh hưởng đến cô bao nhiêu cả”, Banda nói.
Hai người đi vào trong bếp, và trong khi Banda đang pha cà phê, Kate
nói, “Tôi không thích những chuyện đang xảy ra, bác Banda ạ. Như vậy
rồi sẽ đi đến đâu?”
“Rồi đây sẽ c̣n xấu hơn nữa”, Banda nói một cách đơn giản. “Chính
phủ không cho phép chúng tôi nói chuyện với họ. Người da trắng đă
phá hỏng những chiếc cầu thông cảm giữa chúng tôi và họ, rồi một
ngày kia họ sẽ thấy cần những chiếc cầu như thế để đến với chúng
tôi. Bây giờ chúng tôi đă có những vị anh hùng như Kate, Nehremish
Tile, Mokone, Richard Msimang. Người da trắng khiêu khích chúng tôi,
đẩy chúng tôi chạy loanh quanh giống như xua một bầy gia súc đi ăn
cỏ”.
“Không phải người da trắng nào cũng như vậy”, Kate nói. “Bác có
những người bạn đang chiến đấu để tạo nên những sự thay đổi. Điều
này sẽ xảy ra một ngày nào đó, bác Banda ạ, nhưng cần phải có thời
gian”.
“Thời gian giống như cát trong chiếc b́nh thuỷ tinh chỉ giờ. Nó sẽ
cạn đi”.
“Bác Banda ạ. Ntame và Magena bây giờ ra sao rồi?”
“Vợ và con trai tôi đang lẩn trốn”, Banda nói với vẻ buồn bă, “Cảnh
sát vẫn đang c̣n săn lùng tôi ráo riết”.
“Vậy th́ tôi có thể làm ǵ được để giúp bác? Tôi không thể nào ngồi
yên, chẳng làm ǵ cả. Tiền bạc có giúp được ǵ không?”
“Bao giờ tiền bạc cũng có ích lợi”.
“Tôi sẽ thu xếp chuyện đó cho bác. C̣n ǵ nữa không?”
“Cầu nguyện, Kate ạ. Hăy cầu nguyện cho chúng tôi”.
Sáng hôm sau, Kate lên đường trở về New York.
Khi Tony đă khá lớn, có thể đi du lịch được, Kate đem nó đi theo
trong những cuộc hành tŕnh công vụ, vào những dịp nghỉ của nó. Tony
rất thích các viện bảo tàng, và có thể đứng hàng giờ ngắm các bức
tranh và pho tượng của những nghệ sị bậc thầy. Ở nhà, Tony vẽ lại
các bức họa treo trên tường, nhưng nó quá e thẹn, không dám đưa cho
mẹ nó xem.
Nó rất dễ thương, thông minh và vui tính. Ngoài ra nó lại có tính
bẽn lẽn, nhút nhát khiến cho mọi người cảm thấy dễ mến hơn nữa. Kate
hănh diện về con ḿnh. Nó lúc nào cũng đứng đầu lớp. “Con đánh bại
tất cả bọn chúng, phải không, con yêu quư của mẹ?” Thế rồi nàng cười
to lên, ôm choàng lấy đứa con trong ṿng tay.
Bé Tony lại cố gắng hơn nữa để xứng đáng với các ḱ vọng của mẹ nó.
Năm 1936, vào lần sinh nhật thứ mười hai của Tony, Kate trở về nhà
sau một cuộc du hàng ở Trung Đông. Nàng rất nhớ Tony, và nóng ḷng
muốn gặp lại con. Tony đang ở nhà chờ mẹ. Nàng ôm nó vào ḷng, hôn
tíu tít và nói, “Mừng con nhân ngày sinh nhật! Ngày hôm nay con thấy
có vui không?”
“Th… thưa m… mẹ. Co… con vu… vui lắm ạ”.
Kate lùi lại một bước, nh́n con chằm chằm. Nàng chưa hề thấy nó nói
cà lăm như thế bao giờ. “Con có khoẻ không, Tony?”
“Kh… khoẻ. Cả… Cảm m… mơn m… mẹ”.
“Con không được nói cà lăm như thế. Nói thật chậm đi nào”.
“Vâng, th… thưa, M… mẹ”.
Trong năm tuần lễ kế tiếp đó, cái tật này của nó lại càng tệ hơn
nữa. Kate quyết định phải nói chuyện với bác sĩ Harley. Sau khi khám
xong, John Harley nói, “Về thể chất, chẳng có ǵ đáng ngại cả. Cậu
ấy có bị một thứ áp lực ǵ đó không?”
“Con trai tôi à? Dĩ nhiên là không. Tại sao ông lại hỏi như vậy?”
“Tony là một đứa bé nhạy cảm. Tật cà lăm thường là một sự biểu hiện
về mặt thể chất của một tâm trạng thất vọng, thấy ḿnh không có khả
năng đối phó”.
“Ông lầm rồi, bác sĩ ạ. Tony đứng hàng đầu về các trắc nghiệm học
tập ở trường. Học ḱ vừa rồi, nó chiếm ba phần thưởng. Nó là một vận
động viên hàng đầu, một học sinh giỏi nhất về mọi mặt, đứng đầu về
các môn học nghệ thuật, văn chương. Không thể nói rằng như vậy là
không có khả năng đối phó được”.
“À ra thế”, Ông nh́n thẳng vào mặt nàng. “Bà làm như thế nào mỗi khi
cậu ấy nói cà lăm?”
“Cố nhiên là tôi sửa chữa cho nó”.
“Tôi đề nghị rằng bà không nên làm như thế. Bà càng cố sửa chữa, cậu
ấy càng nói cà lăm nhiều hơn”.
Kate nổi giận, “Nếu Tony có vấn đề ǵ về mặt tâm lư, như ông nói,
th́ đó không phải là do mẹ nó. Tôi yêu quư nó. Nó cũng biết rơ điều
ấy. Nó cũng biết rằng tôi cho nó là một đứa trẻ đặc biệt nhất trên
thế gian này”.
Đó mới chính là cốt lơi của vấn đề. Không đứa trẻ nào có thể sống
cho thật xứng đáng với điều ḱ vọng lớn lao ấy. Bác sĩ Harley nh́n
xuống bản đồ biểu của ông. “Xem nào. Cậu bé lên mười hai rồi, phải
không?”
“Phải”.
“Có lẽ tốt hơn hết bà cho cậu ấy đi xa một thời gian. Có thể đến một
trường học tư ở một nơi nào đó”.
Kate nh́n ông bác sĩ chằm chằm.
“Để cho cậu ấy sống độc lập một thời gian. Cho đến khi cậu ấy học
xong bậc trung học, Có một ít trường học rất tốt ở Thuỵ Sĩ”.
Thuỵ Sĩ! Ư tưởng cho Tony đi học xa như vậy thật là khủng khiếp đối
với Kate. “Nó đang c̣n nhỏ, chưa được sẵn sang, nó…” Ông bác sĩ
Harley nh́n nàng, chờ đợi. “Tôi sẽ suy nghĩ thêm về vấn đề này”,
nàng nói.
Trưa hôm ấy, nàng huỷ bỏ một phiên họp của ban giám đốc, trở về nhà
sớm. Tony đang ở trong pḥng làm bài tập ở trường.
Tony nói, “Hô… hôm n… nay co… on đư… được toàn đi… ểm A, m… mẹ ạ”.
“Con có muốn đi học ở Thuỵ Sĩ không?”
Mặt Tony sáng lên. “Có đư… được khô… không, m… mẹ?”
Sáu tuần lễ sau, Kate cho Tony lên một chiếc tàu thuỷ. Nó lên đường
đến trường Le Rosey ở Rolle, một thị trấn nhỏ bên bờ hồ Geneva. Kate
đứng ở cầu tàu tại New York, nh́n cho đến khi chiếc tàu tách rời
khỏi các tàu kéo. Mẹ kiếp! Ḿnh lại phải vắng nó rồi. Rồi nàng quay
lại, trở về chiếc xe hơi đang đứng đợi để đưa nàng về văn pḥng.
Kate thích làm việc với Brad Rogers. Anh đă bốn mươi sáu tuổi, lớn
hơn Kate hai tuổi. Qua nhiều năm tháng làm việc chung, họ đă trở
thành những người bạn thân. Kate mến anh v́ anh rất trung thành với
Công ty Kruger-Brent. Brad chưa lập gia đ́nh và có khá nhiều cô bạn
gái xinh đẹp, nhưng dần dần Kate nhận ra rằng anh đă yêu nàng. Nhiều
lần anh đưa ra những nhận xét cố t́nh làm ra vẻ mập mờ, khó hiểu,
nhưng nàng muốn giữ mối liên hệ giữa hai người ở mức độ khách quan,
nặng nề tính công việc. Nhưng có một lần nàng đă phá thông lệ ấy.
Brad bắt đầu thăm viếng một người nào đó rất đều đặn. Anh thức khuya
và sáng hôm sau đi dự các phiên họp với dáng điệu mệt mỏi. Anh có vẻ
như đăng trí, đầu óc để ở đâu đâu. Thật là một dấu hiệu không tốt
cho việc làm của công ty. Một tháng trôi qua, thái độ ấy của anh lại
càng trắng trợn hơn nữa. Kate quyết định phải ra tay. Nàng nhớ lại
xưa kia David cũng suưt rời bỏ công ty v́ một người đàn bà. Nàng
không thể để cho một việc tương tự xảy ra với Brad.
Kate chuẩn bị đi sang Paris để thâu nhận một công ty xuất nhập khẩu,
nhưng vào phút cuối cùng, nàng yêu cầu Brad đi cùng với nàng. Ngày
đầu tiên, khi họ đến nơi, hai người tham dự các phiên họp, rồi đến
tối họ cùng ăn cơm ở Grand Véfour. Sau đó, Kate yêu cầu Brad đến gặp
nàng ở dăy pḥng nàng thuê tại khách sạn George V để cùng xem xét
các báo cáo của công ty mới. Khi Brad đến nơi, Kate đang chờ đợi anh
trong một chiếc áo choàng mặc ở nhà mỏng dính.
“Tôi đem đến cho chị bản đề nghị đă được sửa chữa”, Brad mở lời,
“như vậy chúng ta…”
“Cái ấy có thể để sau hẵng tính”, Kate nói nhẹ nhàng. Trong giọng
nàng có vẻ như mời mọc, khiến Brad phải nh́n vào mặt nàng lần nữa.
“Tôi muốn chỉ có hai chúng ta ở đây thôi, Brad ạ”.
“Kate…”
Nàng ngả vào hai cánh tay của Brad, ôm chàng sát vào người.
“Lạy Chúa!” anh nói. “Anh đă yêu em quá lâu rồi”.
“Em cũng vậy, Brad ạ”.
Rồi cả hai người đi vào pḥng ngủ.
Kate là một phụ nữ tràn đầy dục tính, nhưng tất cả năng lực của nàng
được dồn vào các lĩnh vực khác. Nàng được hoàn toàn thoả măn trong
công việc. Nàng cần Brad v́ những lí do khác…
Kate không bao giờ ân ái với Brad một lần thứ hai nữa. Khi anh tỏ ra
không thể nào hiểu được lư do v́ sao nàng từ chối anh, nàng nói,
“Anh không biết được em yêu thích anh như thế nào, Brad ạ, nhưng em
lo sợ rằng chúng ta sẽ không làm việc được với nhau lâu dài. Cả hai
chúng ta phải hi sinh”.
Brad Rogers cũng đành phải chấp nhận như vậy.
Trong khi công ty mỗi ngày một bành trướng thêm măi, Kate lập nên
những cơ sở từ thiện đóng góp cho các trường đại học, các nhà thờ và
trường học. Nàng tiếp tục bổ túc cho bộ sưu tập nghệ thuật của ḿnh.
Nàng mua tranh của các danh hoạ thời ḱ Phục hưng và hậu Phục hưng
như Raphael và Titian, Tintoretto và El Greco; và các hoạ sĩ thuộc
xu hướng nghệ thuật baroque (1) như Rubens, Carevaggio và Van Dyck.
Bộ sưu tập của Blackwell nổi tiếng là bộ sưu tập của tư nhân quư giá
nhất trên thế giới. Nổi tiếng, bởi v́ không ai, ngoài các khách quư
của gia đ́nh, được phép xem bộ sưu tập ấy. Kate không cho phép người
ta chụp ảnh các bức hoạ ấy, cũng không muốn thảo luận vấn đề với báo
chí. Nàng có những quy tắc chặt chẽ, cứng rắn về báo chí. Cuộc sống
riêng tư của gia đ́nh Blackwell là điều không được ai xâm phạm. Cả
gia nhân lẫn nhân viên công ty đều không được phép bàn luận về gia
đ́nh Blackwell. Dĩ nhiên, người ta không thể ngăn chặn được những
tin đồn, những lời dự đoán, v́ Kate Blackwell vốn là một nhân vật bí
hiểm gây nhiều suy nghĩ, ṭ ṃ – một trong các phụ nữ giàu nhất, có
quyền lực lớn lao nhất thế giới. Có hàng ngh́n câu hỏi về nàng,
nhưng rất ít lời giải đáp.
Kate điện thoại cho bà hiệu trưởng ở Le Rosey. “Tôi gọi điện thoại
đến bà để hỏi xem Tony bây giờ ra sao”.
“À, cậu ấy học rất giỏi, bà Blackwell ạ. Con trai bà là một học sinh
tuyệt vời…”
“Không, tôi không muốn hỏi về chuyện ấy”, nàng do dự một lát, như
thể không muốn chấp nhận có một yếu kém nào trong gia đ́nh
Blackwell. “Tôi muốn hỏi về cái tật nói lắp của nó”.
“Thưa bà, tôi không thấy cậu ấy có dấu hiệu nào nói lắp cả. Cậu ấy
hoàn toàn b́nh thường”.
Kate trút một tiếng thở dài khoan khoái. Nàng đă biết từ trước đến
nay rằng cái tật ấy ch́ tạm thời thôi, một giai đoạn nào đó rồi sẽ
phải qua đi. Mặc kệ các ông bác sĩ!
Tony trở về nhà bốn tuần lễ sau đó. Kate ra phi trường đón cậu. Tony
trông có vẻ đẹp đẽ, khoẻ mạnh. Kate cảm thấy một niềm hănh diện dâng
tràn. “Chào con yêu quư của mẹ. Con khoẻ mạnh chứ?”
“Thư… thưa m… mẹ. Co… on vẫn kho… khoẻ. Thế c̣… c̣n m… mẹ?”
Trong thời gian nghỉ ở nhà, Tony hăm hở muốn được xem những bức
tranh mới mà mẹ cậu đă mua trong thời gian cậu vắng nhà. Cậu cảm
thấy kinh hăi trước những bức hoạ của các bậc thầy, say mê với các
bức tranh của các danh hoạ theo trường phái ấn tượng Pháp như Monet,
Renoir, Manet và Morisot. Chúng gợi lên một thế giới thần bí đối với
Tony. Cậu mua một bộ đủ các loại sơn, một cái giá vẽ, rồi bắt đầu
làm việc. Cậu cho rằng những bức vẽ của cậu thật là kinh khủng nên
không muốn đưa cho ai xem. Làm sao mà những bức hoạ của cậu có thể
sánh được với những tác phẩm tuyệt tác ấy?
Kate nói với Tony, “Một ngày kia tất cả những bức hoạ này sẽ thuộc
về con”.
Ư tưởng ấy gieo trong đầu óc của cậu bé mười ba tuổi một cảm giác
khó chịu. Mẹ cậu không hiểu được cậu. Những bức hoạ ấy không bao giờ
thực sự thuộc về cậu cả, bởi v́ cậu đă không làm ǵ để có được
chúng. Cậu có những cảm nghĩ mâu thuẫn khi thấy ḿnh xa rời với mẹ
cậu, v́ tất cả mọi thứ xung quanh bà lúc nào cũng gây kích thích,
sôi nổi. Bà ở ngay trung tâm điểm của một trận cuồng phong; bà đưa
ra mệnh lệnh, thực hiện những vụ giao dịch lớn lao khó tưởng tượng
nổi; bà đưa cậu đến những nơi xa lạ, giới thiệu cậu với những nhân
vật nổi tiếng. Bà là một nhân vật đáng sợ, và cậu hănh diện về bà vô
cùng. Cậu cho rằng bà là một phụ nữ tuyệt vời, hấp dẫn nhất trên thế
giới. Cậu cảm thấy vô cùng tội lỗi bởi v́ chỉ khi trước mắt bà cậu
mới nói lắp.
Kate không bao giờ có ư nghĩ rằng con trai bà rất kinh sợ bà cho đến
một hôm, khi Tony về nhà trong dịp nghỉ, cậu hỏi, “Thư… thưa m…. mẹ,
có… có… phải m… mẹ điều khi… iển cả thế giới không?”
Bà cười to và nói, “Dĩ nhiên là không rồi. V́ sao con lại đưa ra câu
hỏi vớ vẩn như thế?”
“Tất cả… cả b… bạn bè con ở… ở trường đều nói về m… mẹ. Trời, mẹ
thực sự là… là một c… cái ǵ đó…”
“Mẹ là “cái ǵ đó” thật, con ạ. Mẹ là mẹ của con mà”, Kate nói.
Tony muốn làm vừa ḷng mẹ về tất cả mọi thứ. Cậu biết rằng đối với
bà, công ty có một ư nghĩa rất lớn lao, bà đă làm biết bao nhiêu
việc để chuẩn bị cho cậu sẽ đứng ra điều khiển nó một ngày nào đó,
thế nhưng cậu lấy làm hối tiếc v́ cậu biết cậu không thể làm như vậy
được. Đó không phải là loại công việc mà cậu dự định sẽ làm trong
cuộc đời ḿnh.
Khi Tony giải thích điều này với mẹ th́ bà cười to lên và nói, “Đừng
có nói bậy, Tony ạ. Con đang c̣n ít tuổi quá, làm sao mà biết được
việc ǵ con muốn làm trong tương lai?”.
Thế là cái tật cà lăm của Tony lại nổi lên.
Ư tưởng trở thành một hoạ sĩ khiến cho Tony cảm thấy thích thú. Bắt
được cái đẹp, rồi giữ nó đông lạnh cho hậu thế vĩnh cửu, đó là một
việc làm có ư nghĩa và thật là xứng đáng. Cậu muốn đi ra nước ngoài
và theo học ở Pari, nhưng cậu biết rằng cậu sẽ phải đề cập đến vấn
đề này với mẹ cậu một cách rất cẩn thận.
Hai mẹ con có những ngày vui tuyệt vời bên nhau. Kate là bà chủ của
những bất động sản lớn lao. Bà đă mua những ngôi nhà ở Palm Beach và
South Carolina, và một trại nuôi ngựa ở Kentucky. Bà và Tony vẫn
thường đến thăm những nơi ấy trong các ngày nghỉ của Tony. Họ đi xem
những cuộc đua tranh giải nước Mỹ ở Newport, và khi ở New York họ ăn
cơm trưa tại nhà hàng Delmonico, dùng trà ở Plazza và ăn tối chủ
nhật tại nhà hàng Luchow. Kate rất thích đua ngựa, và chuồng ngựa
của bà được coi là tốt nhất thế giới. Khi nào một trong các con ngựa
của bà tham gia cuộc đua và Tony có mặt ở nhà, bà thường đưa cậu đi
đến trường đua. Hai người ngồi trong một lô riêng, và Tony thường
ngạc nhiên nh́n thấy mẹ ḥ hét, hoan hô đến khản cả cổ. Cậu hiểu
rằng sự vui sướng của bà không có liên quan ǵ đến tiền bạc.
“Nó sẽ thắng, Tony ạ. Nhớ điều đó nhé. Chiến thắng mới là vấn đề
quan trọng nhất”.
Họ thường có những thời gian yên tĩnh, không làm ǵ cả, ở Dark
Harbor. Họ mua sắm ở Pendleton và Coffin, ăn kem với sô đa ở tiệm
Dark Harbor. Về mùa hè, họ đi thuyền, đi bộ, thăm viếng các bảo
tàng. Về mùa đông, họ trượt trên băng, đi xe trượt tuyết. Họ ngồi
trước ḷ sưởi trong thư viện, và Kate thường kể cho con trai nghe
những chuyện xưa về gia đ́nh, về ông nội của cậu, về Banda, và về
buổi tặng quà mừng đứa trẻ mới sinh do bà Agnès và các cô gái đă tổ
chức mừng bà nội của Tony. Thật là một gia đ́nh nhiều màu sắc, một
gia đ́nh đáng hănh diện và tràn đầy thương yếu.
“Kruger-Brent một ngày kia sẽ thuộc về con, Tony ạ. Con sẽ điều
khiển nó và…”
“Co… con không muốn điều kh… khiển, mẹ ạ. Con không thích k… kinh
doanh hay quyền lực”.
Kate đùng đùng nổi giận, “Con điên rồi à? Con biết ǵ về kinh doanh
lớn lao và quyền lực cơ chứ? Con nghĩ rằng mẹ đi khắp nơi trên thế
giới để gieo rắc xấu xa hay sao? Làm hại người ta hay sao? Con nghĩ
rằng Kruger-Brent là một bộ máy làm tiền tàn bạo đè bẹp tất cả những
ǵ cản trở bước tiến của nó hay sao? Thôi, để mẹ nói cho con biết,
con ạ. Nó là thứ tốt nhất nh́ sau Chúa Giêsu đấy, con ạ. Chúng ta là
sự phục sinh, chúng ta cứu sống hàng trăm ngh́n người. Khi chúng ta
mở một nhà máy trong một cộng đồng hay một xứ sở nghèo nàn, đ́nh
trệ, dân chúng ở đấy nhờ vậy mà có thể mở trường học, thư viện, nhà
thờ; họ có thể cho con cái họ ăn mặc tử tề và có những phương tiện
giải trí”. Bà thở thật mạnh, v́ bị lôi cuốn trong cơn giận dữ.
“Chúng ra xây dựng các nhà máy ở những nơi nào dân chúng đói khổ,
không có việc làm, và nhờ chúng ta, họ có cuộc sống tử tế và có thể
ngẩng đầu lên cao. Chúng ta trở thành những vị cứu thế. Từ nay, đừng
để cho mẹ phải nghe những lời nhạo báng của con về kinh doanh lớn và
quyền lực nữa”.
Tony chỉ cón biết thốt ra mấy lời, “Co… con xin lỗi m… mẹ”.
Nhưng trong thâm tâm, cậu vẫn nghĩ một cách bướng bỉnh, “Ḿnh sẽ trở
thành một nghệ sĩ”.
Khi Tony mười lăm tuổi, Kate đề nghị cậu nên nghỉ hè tại Nam Phi.
Cậu chưa hề đến nơi ấy bao giờ. “Mẹ chưa thể đi được vào lúc này,
Tony ạ, nhưng con sẽ thấy rằng nơi ấy hấp dẫn lắm. Mẹ sẽ thu xếp mọi
thứ cho con”.
“Con hi vọng được… được nghỉ hè ở Dark Harbor, m… mẹ ạ”.
“Nghỉ hè sang năm”, bà nói giọng cương quyết. “Hè này mẹ muốn con ở
Johannesburg”.
Kate bàn luận cẩn thận với viên tổng đốc của công ty Johannesburg,
và hai người cùng vạch ra lộ tŕnh cho Tony. Mỗi ngày đều được sắp
đặt cho một mục tiêu nhất định: tạo cho cuộc hành tŕnh này trở nên
thích thú tối đa đối với Tony, đồng thời giúp cậu nhận thức được
tương lai của cậu gắn liền với công ty.
Kate nhận được báo cáo hàng ngày về con trai. Cậu đă được đi thăm
một trong các mỏ vàng. Cậu đă trải qua hai ngày tại mỏ kim cương.
Cậu đă được hướng dẫn đi thăm các nhà máy của Kruger-Brent và cùng
tham dự một cuộc đi săn ở Kenya.
Một ít ngày trước khi ḱ nghỉ của Tony kết thúc, Kate điện thoại cho
viên quản đốc công ty ở Johannesburg. “Tony bây giờ tiến bộ ra sao?”
“Ồ, cậu ấy vui thích lắm, thưa bà Blackwell. Thật thế, sáng nay cậu
ấy hỏi thêm có thể ở lại lâu thêm chút nữa được không?”
Kate cảm thấy vui sướng tràn ngập. “Thật là tuyệt vời. Cảm ơn anh”.
Khi ḱ nghỉ hè chấm dứt, Tony đi Southampton, ở Anh; đến đó, cậu lên
máy bay của hăng Pan American sang Mỹ. Kate thường đi máy bay của
hăng Pan American khi nào có thể được. Nó làm cho bà không c̣n cảm
thấy thích thú với các hăng máy bay khác nữa.
Kate bỏ một phiên họp quan trọng để đi đón con khi cậu vừa về đến
tại trạm cuối cùng của hăng Pan Am ở phi trường mới xây La Guardia
của thành phố New York. Nét mặt xinh đẹp của Tony rạng vẻ hăm hở.
“Con có vui không, con yêu quư?”
“Nam Phi là một thứ t… tuyệt vời, m… mẹ ạ. Mẹ có… biết họ lái m… máy
bay cho con đi xem sa mạc Namib, nơi ông ngoại ăn cắp… cắp kim cương
của cụ… cụ Van der Merwe không?”
“Ông ngoại không ăn cắp kim cương, Tony ạ”. Kate sửa chữa lại câu
nói. “Ông ấy chỉ lấy lại cái thuộc về ông ấy mà thôi”.
“Cố nhiên rồi”, Tony nói. “Nhưng mà con đă đến nơi ấy. Không có
sương mù, gọi là “mis”, nhưng vẫn c̣n… c̣n có người gác, chó và đủ…
đủ mọi thứ”. Cậu nhe răng cười. “Họ không chịu cho con các mẫu kim
cương”.
Kate cười vui vẻ. “Họ không cần phải cho con mẫu kim cương nào cả.
Một ngày kia, tất cả sẽ thuộc về con”.
“Mẹ cứ nói với họ đi. Họ không… không chịu nghe… nghe lời con”.
Bà ôm hôn con trai. “Con vui thích thực sự, phải không?” Bà sung
sướng, v́ cuối cùng Tony đă tỏ ra thích thú với di sản của ḿnh.
“M… mẹ có… có biết con thích cái ǵ nhất không?”
Kate cười âu yếm. “Cái ǵ hả con?”
“Màu sắc. Con… con vẽ nhiều phong cảnh ở đấy lắm. Con không muốn bỏ
đi. Con muốn trở lại đó để… để vẽ”.
“Vẽ à?” Kate cố làm ra vẻ sốt sắng. “Có vẻ như đó là một tṛ giải
trí thú vị đấy”.
“Không. Không phải là giải… giải trí đâu, m… mẹ ạ. Con muốn trở
thành một hoạ… hoạ sĩ. Con đă suy nghĩ nhiều về vấn đề này. Con sẽ…
sẽ đi Paris để học. Con thực sự nghĩ con… con có năng khiếu”.
Kate cảm thấy căng thẳng. “Chắc con không muốn suốt đời làm nghề vẽ
ấy”.
“Có. Con muốn như vậy, m… mẹ ạ. Đó là thứ duy nhất con thích”.
Thế là Kate biết rằng ḿnh phải mất Tony rồi.
Nó có quyền được sống cuộc đời của nó. Kate thầm nghĩ. Nhưng làm thế
nào ḿnh có thể để nó phạm phải một sai lầm kinh khủng như vậy được?
Đến tháng chín năm ấy, quyết định ấy đă vọt ra khỏi tầm tay của cả
hai người. Âu châu lâm vào cuộc đại chiến.
“Mẹ muốn con ghi danh theo học trường tài chánh và thương mại
Wharton”, Kate nói với Tony. “Sau hai năm, nếu con vẫn c̣n thích làm
một nghệ sĩ, mẹ cũng sẽ không phản đối ǵ”. Kate chắc chắn rằng đến
lúc ấy Tony sẽ thay đổi ư kiến. Khó có thể tưởng tượng được rằng con
trai bà sẽ chịu sống cả cuộc đời tô những màu bôi bác lên những
miếng vải vẽ, trong khi nó có thể đứng đầu một tổ hợp công ty lớn
mạnh nhất thế giới. Dẫu sao chăng nữa, nó cũng là con trai bà.
Đối với Kate Blackwell, Đại chiến II lại là một cơ hội lớn lao khác
nữa. Khắp thế giới đều thiếu thốn các loại trang bị và vật liệu quân
sự, nhưng Kruger-Brent vẫn có khả năng cung cấp các thứ ấy cho họ.
Một phân cục sản xuất của công ty chuyên cung cấp trang bị cho các
lực lượng vơ trang, một phân cục khác phụ trách các nhu cầu dân sự.
Các nhà máy của công ty sẽ làm việc hai mươi bốn giờ trên hai mươi
bốn.
Kate chắc chắn rằng nước Mỹ sẽ không thể nào đóng vai tṛ trung lập
được. Tổng thống Franklin D. Roosevelt kêu gọi xứ sở ông phải là một
xưởng vũ khí đạn dược để phục vụ cho dân chủ, và dự thảo luật thuê
mướn vũ khí, Lend Lease Contract, được thúc đẩy thông qua Quốc hội.
Các tàu của Đồng minh vượt qua Đại Tây Dương bị đe doạ bởi cuộc
phong toả của nước Đức. Các loại tàu ngầm Đức tấn công và đánh ch́m
hàng chục tàu thuyền của Đồng minh, chiến đấu theo từng đội gồm tám
chiếc một.
Nước Đức trở thành một lực lượng khủng khiếp, có vẻ như không thể
nào ngăn cản nổi. Bất kể đến Hiệp ước Versailles, Adolf Hitler đă
xây dựng một trong các bộ máy chiến tranh lớn nhất trong lịch sử.
Theo một kĩ thuật mới gọi là Blitzkrieg, Đức tấn công Ba Lan, Bỉ và
Hà Lan, rồi lần lượt tiếp theo đó, bộ máy quân sự Đức nhanh chóng đè
bẹp Đan Mạch, Na Uy, Luxembourg và Pháp.
Kate ra tay hành động khi bà nhận được tin rằng những người Do Thái
làm việc trong các xưởng Kruger-Brent, đă bị quân Quốc xă tịch thu
tài sản, bắt bớ và đày tới tại các trại tập trung. Bà gọi điện thoại
hai lần, và trong tuần lễ kế tiếp, bà lên đường qua Thuỵ Sĩ. Khi đến
khách sạn Baur ở Zurich, bà nhận được thư của đại tá Brinkmann ngỏ ư
muốn gặp bà. Brinkmann là quản đốc chi nhánh của Kruger-Brent ở
Berlin. Khi xí nghiệp ở đấy bị chính phủ Đức trưng thu, ông ta được
trao cấp bậc đại tá và được giữ lại để trông coi.
Ông ta đến gặp bà Kate Blackwell ở khách sạn. Đó là một người gầy
c̣m, kĩ tính, với mái tóc hoe chải cẩn thận trên chiếc đầu gần như
hói sọi.
“Tôi rất hân hạnh được gặp bà, thưa bà Blackwell. Tôi có lời nhắn
của Chính phủ chúng tôi gửi đến cho bà. Tôi được phép đưa ra lời bảo
đảm rằng ngay khi cuộc chiến tranh này chấm dứt, các nhà máy của bà
sẽ được trả lại cho bà. Nước Đức sẽ là một cường quốc công nghệ lớn
nhất thế giới, và chúng tôi hoan nghênh những người cộng tác như
bà”.
“Nhưng nếu nước Đức thua trận th́ sao?”
Đại tá Brinkmanm cố nở một nụ cười trên môi, “Cả bà lẫn tôi đều biết
rằng một chuyện như vậy không thể nào xảy ra được, thưa bà
Blackwell. Nước Mỹ đă khôn ngoan đứng ra bên ngoài các công việc của
Âu châu. Tôi hi vọng rằng họ sẽ tiếp tục làm như vậy”.
“Chắc chắn là ông tin như vậy, đại tá ạ”. Bà vươn người ra phía
trước, nói tiếp, “Tôi đă nghe đồn rằng những người Do Thái đang bị
đưa đến các trại tập trung và bị tiêu diệt. Điều ấy có đúng không?”
“Tôi đoan chắc với bà rằng đó chỉ là tuyên truyền của người Anh
thôi. Đúng là người Do Thái được đưa đến các trại lao động, nhưng
với tư cách là một sĩ quan, tôi xin cam đoan với bà rằng họ được đối
xử một cách xứng đáng”.
Kate tự hỏi không biết ư nghĩa của câu nói ấy như thế nào. Bà dự
định sẽ t́m hiểu cho ra.
Ngày hôm sau, bà có một cuộc hẹn với một thương gia hành đầu người
Đức, tên là Otto Bueller, tuổi trạc ngũ tuần, là một người trông có
vẻ sang trọng với một vẻ mặt thương xót và cặp mắt đă từng nh́n thấy
nỗi đau khổ sâu sắc. Hai người gặp nhau trong một quán cà phê nhỏ.
Bueller chọn một chiếc bàn ở góc vắng vẻ.
Kate nói khe khẽ, “Tôi được nghe nói ông đă khởi sự một tổ chức bí
mật nhằm lén lút đưa người Do Thái tới các nước trung lập. Có đúng
như vậy không?”
“Không đúng đâu, bà Blackwell ạ. Một hành động như thế bị xem là
phản bội lại Đệ tam Cộng hoà Đức Quốc xă”.
“Tôi cũng có nghe nói ông đang cần ngân quỹ để hoạt động”.
Bueller nhún vai, “V́ không có tổ chức bí mật nào cả nên tôi cần ǵ
phải có ngân quỹ để điều hành nó, phải thế không?”
Mắt ông nh́n quanh ly cà phê với vẻ lo ngại. Đây là con người hít
thở và ngủ với sự nguy hiểm mỗi ngày trong cuộc sống.
“Tôi hi vọng có thể giúp đỡ phần nào”, Kate nói một cách thận trọng.
“Công ty Hữu hạn Kruger-Brent có nhà máy tại nhiều nước Đồng minh và
trung lập. Nếu ai đó có thể đưa những người tị nạn đến các nơi ấy,
tôi sẽ thu xếp cho họ có công ăn việc làm”.
Bueller vẫn tiếp tục ngồi nhấm nháp ly cà phê. Cuối cùng, ông nói,
“Tôi không biết ǵ về chuyện này. Nhưng nếu bà quan tâm giúp đỡ một
kẻ nào trong cơn hoạn nạn th́ tôi xin giới thiệu một ông chú của tôi
ở nước Anh. Ông ta đanh bị bệnh tê liệt kinh khủng lắm. Tiền thuốc
thang rất cao”.
“Bao nhiêu?”
“Năm mươi ngh́n đô la một tháng. Cần phải thu xếp làm sao để kư gửi
số tiền trả các chi phí thuốc thang ở London, rồi chuyển số tiền kư
gửi ấy cho một ngân hàng Thuỵ Sĩ”.
“Chuyện ấy có thể thu xếp được”.
“Ông chú tôi sẽ vui mừng lắm”.
Chừng tám tuần lễ sau, một làn sóng dân tị nạn, không lớn lắm nhưng
đều đặn, bắt đầu tuôn đến các nước Đồng minh để làm việc tại các nhà
máy Kruger-Brent.
Tony rời trường học sau hai năm học tập. Anh đi đến văn pḥng của
Kate để báo cho bà biết tin này. “Con… con đă cố… cố gắng, mẹ ạ,
thực sự cố gắng nhưng con đă… quyết định rồi. Con muốn học… học hội
hoạ khi nào chiến tranh chấm dứt, con sẽ đi… đi Paris”.
Mỗi lời nói như một nhát búa.
“Con… con biết m… mẹ thất vọng lắm, nhưng con phải sống cuộc sống
của riêng con. Con biết con có thể khá… rất khá”. Anh nhận ra được
vẻ mặt của Kate. “Con đă làm những ǵ mẹ yêu cầu con phải làm. Bây
giờ mẹ phải… phải cho con một cơ hội làm theo ư muốn của con. Trường
nghệ thuật Chicago đă chấp thuận cho con theo học”.
Đầu óc Kate quay cuồng. Những ǵ Tony muốn làm thật là sự phí phạm
kinh khủng. Bà chỉ c̣n có thể thốt ra một câu hỏi, “Khi nào con dự
định sẽ đi đến đó?”
“Ghi danh bắt đầu vào ngày mười lăm”.
“Hôm nay là ngày mấy?”
“Sáu, tháng mười hai”.
Ngày chủ nhật, mồng bảy tháng mười hai, năm 1941, các phi đội oanh
tạc Nakajiama và phi cơ chiến đấu Zero của hải quân Hoàng gia Nhật
tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), và ngày sau đó nước này lâm
vào cuộc chiến. Trưa ngày hôm ấy, Tony đăng kư ra nhập thuỷ quân lục
chiến Mỹ. Anh được đưa đến Quantico, Virginia, sau đó anh tốt nghiệp
trường huấn luyện sĩ quan, rồi từ đó anh được đưa đến Nam Thái B́nh
Dương.
Cuộc chiến tranh với Nhật Bản tiến hành không mấy tốt đẹp. Các máy
bay oanh tạc Nhật tấn công các căn cứ Mỹ ở Guam, Midway và đảo Wake.
Quân Nhật chiếm cứ Singapore vào tháng hai năm 1942, rồi nhanh chóng
tràn ngập New Britain, New Ireland, Admiralty và đảo Solomon. Tướng
Douglas Mac Arthur buộc phải rút lui khỏi Phi Luật Tân. Các lực
lượng dũng mănh của phe Trục chậm răi chinh phục toàn cầu, và bóng
đen bao trùm khắp nơi. Kate lo sợ Tony bị bắt làm tù binh và bị hành
hạ, tra tấn. Với tất cả quyền lực và ảnh hưởng của ḿnh, bà không
thể làm ǵ ngoài việc cầu nguyện. Mỗi lá thư của Tony là một tia hi
vọng, một dấu hiệu cho biết rằng, một ít tuần lễ trước đó, Tony vẫn
c̣n sống. “Họ không cho chúng con ở đây được biết chuyện ǵ cả”,
Tony viết trong thư, “Người Nga c̣n giữ vững được không? Người lính
Nhật tàn bạo, nhưng chúng ta phải kính phục họ. Họ không sợ chết…”
“Có chuyện ǵ xảy ra ở Mỹ? Các công nhân xí nghiệp có thực sự đ́nh
công để được lương cao hơn hay không?...”
“Loại tàu phóng ngư lôi “PT boat” hoạt động rất có hiệu quả ở đây.
Những người điều khiển loại tàu ấy đều là những vị anh hùng cả…”.
“Mẹ có những quen biết lớn, vậy mẹ hăy gửi cho chúng con ít trăm
chiếc tàu ngầm P4U, các chiến đấu cơ mới cho Hải quân. Rất nhớ mẹ…”
Ngày 7 tháng tám, 1942, quân Đồng minh bắt đầu các hoạt động tấn
công của họ ở Thái B́nh Dương. Thuỷ quân lục chiến của Mỹ đổ bộ ở
Guadalcanal trên đảo Solomon, rồi từ nơi đó, họ chiếm lại các ḥn
đảo mà quân Nhật đă chiếm.
Ở Âu châu, phe Đồng minh vui mừng với một loạt thắng lợi liên tiếp.
Ngày 6, tháng sáu, 1944, cuộc xâm lăng của phe đồng minh mở màn với
các cuộc đổ bộ của quân Mỹ, Anh, Canada lên băi biển Normandie, và
một năm sau đó, ngày 7 tháng năm, 1945, nước Đức đầu hàng vô điều
kiện.
Ở Nhật, ngày 6, tháng tám, 1945, một quả bom nguyên tử với sức tàn
phá mạnh hơn hai mươi ngàn tấn TNT được thả xuống Heroshima. Ba ngày
sau, một quả bom nguyên tử khác nữa được thả xuống thành phố
Nagasaki. Ngày 14, tháng tám, người Nhật đầu hàng. Cuộc chiến tranh
lâu dài và đẫm máu cuối cùng đă kết thúc.
Ba tháng sau đó, Tony trở về nhà. Anh và bà Kate đang ở Dark Harbor,
ngồi trên sân thượng nh́n xuống vịnh điểm lấm chấm những cánh buồm
trắng xoá.
Chiến tranh đă làm cho nó thay đổi, Kate thầm nghĩ. Tony biểu lộ
những nét trưởng thành mới mẻ. Anh đă để râu mép mỏng, nước da rám
nắng, trông đẹp trai, khoẻ mạnh. Quanh mắt anh có những vệt nhăn,
trước kia không thấy. Kate tin chắc rằng những năm sống ở nước ngoài
đă cho anh thời gian suy xét lại quyết định không làm việc cho công
ty.
“Bây giờ con dự tính làm ǵ, hở con?” Kate hỏi.
Tony mỉm cười. “Như con đă nói với mẹ trước đây, các dự tính của
ḿnh bị làm gián đoạn một cách thô bạo, mẹ ạ. Con sẽ đi Paris”.
-----------------
Chú thích:
(1) Nghệ thuật “baroque” là một loại nghệ thuật (tranh vẽ, kiến
trúc) mà đặc điểm là dùng rất nhiều h́nh trang trí hoa hoè, và các
đường cong, hơn là dùng các đường thẳng – Nghệ thuật này rất thịnh
vào các thế kỷ XVI, XVII và XVIII (1550 – 1750).
o0o
|