được vào
nhà và phải bỏ tại trận mấy người chết và mấy người bị thương.
Thế rồi quân Italia cứ trong cửa sổ bắn
ra, bên ngoài quân Áo tiến theo hình
vòng cung và bắn trả rất dữ.
Cầm đầu đội quân Italia, có hai hạ sĩ
quan và một viên đại uý là một vị đã có
tuổi, người cao lớn khô khao, râu tóc
bạc phơ. Trong đội có một chú lính đánh
trống, người đảo Xarđenha là một đứa
trẻ, da vàng tóc đen, trạc 14 tuổi,
nhưng người bé nhỏ chỉ bằng đứa 12. Đại
uý đứng chỉ huy việc phòng ngự một căn
buồng trên gác, hạ lệnh như tiếng sét.
Chú lính đánh trống, mặt hơi xám nhưng
chân vẫn vững trên bàn, nhìn qua cửa sổ
thấy khói mù và một dải trăng trắng đang
tiến dần vào trong bãi.
Quân địch bắn vào như mưa : tường thủng,
ngói tan, đồ đạc, trần, cửa đổ vỡ, mảnh
gỗ, mảnh bát, mảnh kính bắn tung toé.
Chốc chốc lại có người lính đứng bắn ở
cửa sổ gục xuống ván, người ta phải lôi
vào buồng. Mấy người lính nữa, tay bóp
vết thương, chân bước lảo đảo ở phòng nọ
sang phòng kia. Trong bếp, có một người
chết, vỡ óc, coi rất thê thảm.
Vòng cung bao vây của quân địch càng
thắt chặt thêm.
Đại uý trong buồng chạy ra nói chuyện
với viên đội. Ba phút sau, viên đội chạy
tìm chú lính đánh trống. Khi chú lên
thấy đại uý đang tì giấy vào cửa kính
viết bằng bút chì. Dưới chân đại uý có
một cuộn dây thừng xách nước.
Đại uý gấp giấy, nhìn thẳng cậu bé bằng
đôi mắt lạnh lùng, đôi mắt mà xưa nay
quân lính vẫn từng sợ hãi, đại uý gọi :
− Thằng đánh trống !
Chú lính con liền giơ tay lên rìa mũ.
− Mày có can đảm không ?
Hai mắt nổi một luồng chớp sáng, cậu đáp
:
− Bẩm, có .
Đại uý đẩy cậu lại cạnh cửa sổ trên mái,
trỏ ra và nói :
− Mày trông đằng xa kia, trong cánh đồng
gần toà biệt thự Phrunca, chỗ lưỡi lê
lấp lánh kia là quân của ta. Mày cầm
giấy này, lấy dây leo xuống rồi theo
sườn núi lẩn qua cánh đồng, chạy về liên
đội ta và giao thư cho sĩ quan nào mày
gặp trước nhất. Giờ mày hãy vứt dây lưng
và túi đạn đi.
Viên đội liền giữ một đầu dây, còn đại
uý đỡ cậu bé trèo qua cửa sổ và dặn thêm
:
− Mày phải thận trọng. Sự thoát nguy của
chi đội ta đều trông cậy vào tấm lòng
can đảm và đôi chân mạnh mẽ của mày.
Cậu bé vừa bám dây vừa đáp :
− Bẩm đại uý, xin ngài hãy tin vào con.
Một lát sau, chú lính nhỏ đã tới mặt
đất. Viên đội kéo dây lên. Đại uý nhìn
thấy cậu bé xuống núi và chạy.
Đại uý đang mong sao cho cậu bé đi
thoát, bỗng có năm, sáu đám bụi mù nổi
lên trước mặt và sau lưng chú, ông biết
rằng địch quân đã nhìn rõ. Họ bắn từ
trên đồi xuống. Cậu bé đang thoăn thoắt
chạy như con thỏ, bỗng ngã rạp xuống
đất. Đại uý đã thất vọng, nhưng rồi lại
thấy cậu trở dậy chạy, chân hơi khập
khiễng. Cậu chạy mỗi lúc một khó nhọc
thêm. Thỉnh thoảng lại lảo đảo hoặc đứng
hẳn lại.
− Có lẽ hắn bị đạn.
Đại uý đoán thế, nhưng lại thấy cậu bé
chạy tiếp.
Một viên sĩ quan lo sợ, vào trình đại uý
rằng quân địch bắn luôn tay lại dựng "cờ
trắng" truyền lệnh cho ta hàng.
Đại uý vừa nhìn theo cậu bé vừa đáp :
− Không ai được trả lời chúng.
Lúc ấy, người ta trông thấy đầu cậu bé
nhấp nhô trong ruộng lúa rồi lại chẳng
thấy nữa, có lẽ cậu ngã, sau lại thấy
đầu cậu hiện ra ; cuối cùng cậu biến
trong hàng giậu, đại uý không trông thấy
nữa.
Quân Áo đã ập đến. Ngừơi ta thấy tiếng
hò reo và tiếng súng bắn ầm ầm. Ngoài có
tiếng hô :
− Hàng đi ! Hàng đi !
Đại uý thét lớn :
− Không đời nào !
Lửa cháy đùng đùng tứ phía. Nhiều quân
ngã lăn. Mấy cửa sổ đã bỏ không, không
người chiến đấu. Cái phút nguy cấp dã
bày ra trước mắt. Đại uý nghẹn ngào kêu
:
− Quân ta không đến rồi ! Thôi quân ta
không đến rồi !
Đại uý nói xong, chạy đi chạy lại, điên
khùng rút kiếm toan tự vẫn, bỗng một
viên đội ở trên mái trèo xuống reo ầm :
− Quân ta đã đến !
− Quân ta đã đến !
Đại uý nhắc lại câu ấy bằng giọng vui
mừng.
Thế rồi, quan quân, kẻ bị thương, kẻ còn
mạnh, thẩy đều ra cửa sổ chiến đấu kịch
liệt.
Một lát sau, người ta thấy có sự hỗn
loạn trong hàng quân địch.
Viện binh đến kịp thời, phá tan quân
địch và giải vây cho đội bộ binh.
Hôm sau, đại uý vào nhà thương thăm một
viên trung uý bị gẫy tay. Đại uý đang
ngơ ngác tìm giường, bỗng nghe có tiếng
gọi se sẻ :
− Đại uý !
Đại uý quay lại thì ra chú lính chạy
giấy hôm trước, đại uý hỏi :
− Con ở đây à ? Giỏi lắm ! Con đã làm
tròn nghĩa vụ của con. Con có bị thương
không ?
Cậu bé đáp :
− Tránh sao được ! Quân Áo nhìn thấy con
chạy liền bắn theo. Nếu con không bị
thương thì đã đến sớm hơn được 20 phút
nữa. May con gặp ngay được viên sĩ quan
ở bộ tham mưu và trao giấy.
Đại uý nhìn kỹ cậu bé và hỏi :
− Trông con xanh quá ! Chắc con mất
nhiều máu lắm ?
Cậu bé mỉm cười đáp :
− Vâng nhiều máu, nhưng còn có điều hơn
máu nữa. Ngài thử nhìn xem.
Nói xong cậu mở chăn ra.
Đại uý kinh ngạc, lùi lại một bước. Chú
lính đánh trống chỉ còn một chân. Chân
trái đã bị cưa ở trên đầu gối.
Lúc ấy, quan thầy thuốc nhà binh đi qua,
trỏ cậu bé và nói vội vàng :
− Thực là một trường hợp đáng tiếc. Chân
nó bị thường xoàng thôi, nhưng vì gượng
đi một cách quá đáng nên vết thương sưng
lên đến nỗi phải cưa. Nhưng nó là một
đứa trẻ can đảm, đáng khen ! Nó không hề
khóc và cũng không hề kêu đau. Khi tôi
chữa cho nó, tôi rất tự hào rằng nó là
một đứa con nước Italia !
Nói xong quan thầy thuốc lại chạy đi chỗ
khác.
Đại uý cau mày, nhìn kỹ cậu bé rồi kéo
chăn lại. Xong lẳng lặng trông vào cậu
bé, đại uý đứng thẳng người, tay giơ lên
mũ.
Cậu bé ngạc nhiên hỏi :
− Bẩm đại uý ! Ngài làm gì thế ? Cái
chào ấy để cho con sao?
Vị quân nhân đầu bạc kia, không quen nói
ngọt với kẻ dưới bao giờ liền đáp bằng
một giọng rất thân thuộc và nhẹ nhàng :
− Phải. Ta chỉ là một viên đại uý. Chứ
con, con mới là một vị anh hùng !
28.- Lòng ái quốc
Thứ tư, ngày 25
Đầu bài thi của con sáng nay là : "Tại
sao anh yêu xứ sở của anh?" Con đã cảm
động về chuyện "Chú lính đánh trống" hôm
trước, tất con đã làm bài một cách dễ
dàng.
Tại sao anh yêu xứ sở của anh? Câu hỏi
ấy chẳng làm nẩy nở trong óc con biết
bao nhiêu là câu trả lời hay sao? Tôi
yêu xứ sở của tôi vì mẹ tôi sinh trưởng
ở đấy ; vì nguồn máu trong mạch của tôi
đều là của người ; vì trong khu đất
thánh kia đã chôn vùi tất cả những người
quá cố mà mẹ tôi thương, mà cha tôi
trọng ; vì cái đất mà tôi sinh, thứ
tiếng tôi nói, quyển sách tôi học, các
em tôi, chúng bạn tôi và một dân tộc lớn
sống chung với tôi, cảnh đẹp của tạo hoá
bao bọc chung quanh tôi, tóm lại tất cả
những sự vật mà tôi trông thấy, tất cả
những cái gì mà tôi yêu, tất cả những
cái gì mà tôi quí, nhất nhất đều thuộc
về xứ sở của tôi cả.
Bây giờ tôi còn bé, con chưa thể hiểu
thấu được thế nào là lòng yêu nước. Rồi
ra con sẽ biết. Khi con du lịch ở xa về,
một buổi sáng, đứng dựa bao lơn tàu con
thấy ở chân trời một dãy núi xanh của xứ
con hiện ra, bấy giờ con sẽ thấy trào lệ
cảm ở lòng con dâng lên và miệng con
vuột ra những tiếng kêu mừng rỡ.
Con sẽ cảm thấy tình yêu nước khi con ở
nước ngoài chợt nghe thấy một người
trong đám thợ thuyền nói tiếng nước con,
theo lòng con xui giục tự nhiên con đến
hỏi chuyện người thợ không quen ấy.
Con sẽ cảm thấy tình yêu nước, khi con
nghe thấy người ngoại quốc lăng mạ xứ sở
con, lòng tức giận sẽ làm cho con nóng
mặt.
Con sẽ cảm thấy tình yêu nước mạnh mẽ và
tôn đại hơn nữa, nếu một ngày kia, nước
địch vô cớ giày xéo vào đất ta ; lúc ấy
con sẽ thấy nào cha hôn con khuyên câu
"dũng cảm" , nào mẹ tiễn con hẹn lúc
"khải hoàn".
Con sẽ cảm thấy tình yêu nước khi con
trông thấy những đội quân vất vả trở về
với những khúc ca chiến thắng.
Con sẽ cảm thấy tình yêu nước khi con
trông thấy lá cờ ba sắc bị bắn tả tơi đi
đầu một toán người nghĩa dũng, ai nấy
đều phô cao trán buộc băng hay cái tay
bị bó, trong đám đông dân chúng hoan hỉ,
người ta ném hoa mừng và hô những lời
chúc tùng.
Enricô ơi ! Bây giờ con đã hiểu thế nào
là lòng ái quốc. Đó là một điều rất to
tát, rất thiêng liêng. Vì một ngày kia,
ta trông thấy con về trận được an toàn,
nhưng được tin con lẩn lút để tránh cái
chết, thì cha đây thay vì đón con lúc đi
học về bằng những tiếng cười vui vẻ, bấy
giờ cha sẽ đón con bằng những tiếng khóc
xót xa. Cha sẽ không thể thương con được
nữa và sẽ đâm tím mà thác cho rồi !
Cha con.
29. - Bà mẹ anh Phơranti
Thứ bảy , ngày 23
Sáng nay, mẹ anh Phơranti thốt nhiên vào
lớp, đầu tóc rối bù, tuyết rơi ướt cả .
Bà kéo anh Phơranti vào , anh vắng mặt
đã tám hôm nay .
Chúng tôi được xem một tấn bi kịch đã
diễn ra. Người mẹ khốn khổ kia khúm núm
đứng bên ông hiệu trưởng , chắp hai tay
kêu xin :
− Thưa ngài, ngài hãy gia ơn cho con tôi
vào học như cũ. Đã ba hôm nay, tôi phải
giấu nó trong buồng vì cha nó biết
chuyện sẽ giết chết nó . Xin ngài rủ
lòng thương tôi, tôi không biết làm thế
nào , tôi van ngài.
Ông hiệu trưởng tìm cách bảo bà ta ra,
nhưng bà ta cứ vật nài, vừa khóc vừa xin
:
Nếu ngài hiểu thấu những nổi ưu phiền mà
con tôi đã gieo cho tôi thì ngài không
nỡ chối từ ... Xin ngài làm phúc cho !
Tôi mong sau này cháu sẽ đổi tâm tính.
Thưa ngài, tôi cũng không còn sống được
mấy hồi nữa, lòng tôi đã khô héo rồi !
Tôi muốn được trông thấy con tôi sửa đổi
tính nết trước khi tôi nhắm mắt , vì -
nói đến đây bà nức nở khóc - tôi thương
con tôi lắm . Thưa ngài, xin ngài rộng
thường cho cháu vào học, để tránh một
mối khổ tâm cho người mẹ đau khổ lắm rồi
!
Nói xong, bà bưng mặt sụt sùi khóc .
Phơranti cúi đầu, nét mặt thản nhiên .
Ông hiệu trưởng nhìn anh, ngẫm nghĩ một
lúc rồi bảo :
− Phơranti, cho về chỗ ngồi !
Bà liền lau nước mắt, chạy lại cảm ơn
ông hiệu trưởng và nói :
− Thưa ngài, ngài đã làm một việc nhân
đức...Tôi không bao giờ dám quên ơn .
Bà quay lại bảo con :
− Con ơi, từ nay con phải ăn ở cho ngoan
ngoãn để khỏi phiền lòng thầy và phụ
lòng mẹ .
Rồi nói với học trò cùng ông hiệu trưởng
:
− Tôi đã làm mất thì giờ, xin các cậu
bằng lòng vậy . Chào các cậu ! ...Và một
lần nữa xin ngài tha lỗi cho một người
mẹ khốn khổ !
Nói xong, bà đi ra, người rớt xuống ,
sắc nhợt nhạt. Khi bà xuống thềm chúng
tôi còn nghe thấy tiếng bà ho rũ .
Cả lớp im lặng. Ông hiệu trưởng trông
thẳng mặt Phơranti và bảo một câu chúng
tôi nghe rất xúc động :
− Phơranti ! Mày giết mẹ mày đấy !
THÁNG HAI
30.- Chiếc xe hoả máy
Thứ hai, ngày mồng 6
Hôm qua anh Prêcôtxi và anh Garônê lại
nhà tôi chơi. Các anh đã được tiếp đãi
rất ân cần. Anh Garônê đến nhà tôi là
lần thứ nhất vì anh hơi gàn, không muốn
để cho ai biết rằng mình đã lớn mà còn
học lớp ba. Nghe chuông báo, chúng tôi
chạy ngay ra cổng đón các anh. Mẹ tôi
xoa đầu anh Prêcôtxi ; cha tôi giới
thiệu anh Garônê với mẹ tôi rằng :
− Em này học khá, tâm địa lại tốt lắm.
Anh Garônê cúi cái đầu to húi trọc và
mỉm cười với tôi.
Prêcôtxi mới được thưởng bội tinh . Anh
sung sướng quá chừng .Cha anh đã đi làm
và dăm hôm nay không thấy say rượu nữa.
Ông đổi hẳn tính nết và lúc nào cũng
muốn con ở trong xưởng với mình.
Chúng tôi bắt đầu chơi. Khi tôi giở
những đồ chơi của tôi ra, thấy có cái xe
hoả con bằng sắt chạy được anh Prêcôtxi
thích quá. Có lẽ chưa được trông thấy
thứ đồ chơi ấy bao giờ, nên anh ngắm
nghía cái đầu máy và các toa sơn đỏ, sơn
vàng. Tôi đưa chìa khoá cho anh vặn, anh
quỳ xuống thềm chơi và không ngẩng đầu
lên nữa. Tôi chưa hề thấy anh được tươi
tỉnh như thế bao giờ ! Anh nói luôn
miệng :
− Nhờ anh tí ! Tôi nhờ anh tí !
Và lấy tay gạt chúng tôi ra để lối cho
xe chạy. Anh nương nhẹ cái xe như là một
vật bằng thuỷ tinh, và không dám thở
mạnh sợ làm mờ nước sơn. Rồi anh lau
chùi, anh ngắm nghía lòng xe, đáy xe và
cười một mình. Trông thân hình anh gầy
gò và quần áo anh lượt thượt, tôi động
lòng thương anh quá.
− Ta cho quách anh ấy cái xe.
Tôi nghĩ thế và định xin phép cha tôi.
Bỗng tôi thấy một mẫu giấy nhét vào tay
tôi. Tôi nhìn thấy chữ cha tôi viết bằng
bút chì :
"Xem y' Prêcôtxi thích cái xe của con
lắm. Nó không có đồ chơi. Vậy lòng con
có nghĩ gì không?" Tức thì tôi nắm lấy
cái xe hoả , cầm đưa cho Prêcôtxi và nói
:
− Anh cầm lấy. Của anh đấy.
Anh không hiểu, nhìn tôi. Tôi nhắc lại :
− Của anh đấy. Tôi biếu anh đấy !
Anh sửng sốt nhìn cha mẹ tôi và hỏi tôi
:
− Nhưng , sao anh lại cho ?
Cha tôi đỡ lời :
− Enricô cho em vì em là bạn thân , vì
Enricô yêu em... và để mừng tấm bội tinh
của em !
Prêcôtxi hỏi một cách thật thà :
− Thưa ông, con có thể mang về nhà được
?
− Được lắm, em ạ !
Anh Garônê liền gói chiếc xe vào mùi soa
giúp anh.
Mẹ tôi cho mỗi anh một gói kẹo và gài
khuy áo cho anh Garônê một túm hoa nhỏ
để đem về tặng mẹ anh.
THÁNG HAI
31.- Một kẻ tù phạm
Thứ hai, ngày 13
Sáng qua, tôi theo cha tôi ra ngoài châu
thành, thăm một khu biệt trang cha tôi
định thê để nghỉ mát trong vụ hè tới.
Người giữ chìa khoá nhà này trước làm
giáo dục. Ông đưa chúng tôi đi xem khắp
nơi rồi mời chúng tôi vào phòng giải
khát.
Trên bàn, gần cốc chúng tôi có một cái
lọ mực bằng gỗ hình chóp nón, chạm trổ
rất kỳ quái. Thấy cha tôi ngắm mãi lọ
mực, ông giáo bảo cha tôi :
− Đấy là một kỷ niệm rất quí báu của
tôi. Nếu ngài biết rõ gốc tích ,ngài
cũng phải cho là hiếm có.
Cha tôi bảo :
− Ông làm ơn kể lại cho tôi nghe.
Ông liền thuật lại như sau :
Cách đây mấy năm, khi ông còn làm việc ở
Torinô ông phải cử vào đề lao dạy tù
suốt một mùa đông. Ở đấy có một phòng
cao hình tròn, chung quanh tường trổ
nhiều cửa sổ vuông rào sắt. Sau mỗi cửa
sổ là một buồng giam. Giáo sư đi đi lại
lại trong phòng để giảng bài ; các tù
phạm ngồi sau cửa sổ tì vở vào song sắt
biên chép, để lộ trong bóng tối những
khuôn mặt gầy gò thiểu não những chòm
râu phờ rối và lốm đốm hoa râm, những
con mắt tráo trưng của những quân ăn cắp
và giết người.
Trong bọn, có một người đeo số 78 là
chăm chú hơn cả. Hắn thích học và nhìn
thầy bằng đôi mắt đầy vẻ kính trọng và
biết ơn. Hắn còn trẻ, tóc rậm, râu đen,
trước kia làm thợ mộc, trong lúc cãi
nhau đã vớ chiếc bào ném vào đầu chủ
chết tươi. Vì thế hắn bị 6 năm tội đồ.
Trong vòng ba tháng, hắn đã biết đọc,
biết viết. Hắn chăm đọc sách lắm, hắn
càng học được bao nhiêu thì hình như hắn
càng sửa mình và tỏ ý hối hận về việc đã
làm.
Một hôm, lúc gần hết giờ, hắn ra hiệu
mời giáo sư lại gần cửa sổ và buồn rầu
báo cho giáo sư biết hôm sau hắn sẽ phải
đổi đi đề lao thành Vênêzua. Sau mấy lời
từ biệt cảm động, hắn xin giáo sư cho
phép hắn sờ tay...Giáo sư chìa tay, hắn
nâng lấy vừa hôn vừa nói "Cảm ơn thầy"
rồi chạy mất. Khi giáo sư rút tay ra thì
thấy bàn tay đẫm nước mắt.
Từ đó, giáo sư không nhìn thấy người học
trò ấy nữa.
Giáo sư nói tiếp :
− Sáu năm qua. Tôi mãi làm ăn và cũng
không rỗi công nghĩ đến người tù khốn
khổ ấy. Bỗng sáng nay, có một người lạ
mặt, quần áo rách rưới, chòm râu lốm
đốm, đến hỏi tôi :
− Chính ngài là thầy giáo...
Tôi hỏi lại :
− Bác là ai ?
Người lạ mặt đáp :
− Tôi là tên tù số 78, người mà thấy đã
dạy cách đây 6 năm và sau bài cuối cùng,
thầy đã vui lòng giơ tay cho tôi... Nay
hết hạn tù, tôi đến kính biếu thầy vật
mọn này chính tay tôi làm trong khi ở
nhà lao... Thưa thầy, gọi là một chút để
tỏ lòng nhớ ơn, xin thầy nhận cho !
Tôi đứng im, người khách khốn khổ kia
tưởng tôi từ chối, hắn liền nhìn tôi một
cách tha thiết, như ngụ ý hỏi :
− Sáu năm đau khổ chưa đủ chuộc được
danh dự sao ?
Thương tình người "học trò lao tù" cũ,
tôi nhận vật này.
Giáo sư cho chúng tôi xem lọ mực. Người
tù đã dùng đầu cây đinh để trổ và đã
dụng tâm lắm mới được thế ! Tôi nhìn
thấy hình "cái bút nằm chèo trên quyển
vở" và những chữ này :"Kính tặng giáo sư
của tôi. - Kỷ niệm của tên 78 - Sáu
năm."
Dưới cùng có hàng chữ nhỏ :"Học hành và
hy vọng." Kể xong, giáo sư cũng không
giữ chúng tôi nữa và để chúng tôi về.
Đi đường, óc tôi chỉ vẩn vơ nghĩ đến
người tù nấp sau phên sắt, đến lời hắn
từ biệt thầy giáo và đến cái lọ mực chạm
tỉ mỉ trong đề lao, cái công trình này
đã gợi ra cho tôi biết bao nhiêu là
truyện... Đêm nằm tôi cứ mơ đến và sáng
hôm sau tôi vẫn còn tưởng đến. Nào tôi
có ngờ đâu một câu chuyện ngẫu nhiên nó
đợi sẵn tôi ở ngoài trường ! Khi làm
xong bài Toán pháp, tôi kể chuyện người
tù và tả lại cái lọ mực gõ cùng những
câu ghi khắc vào đó cho anh Đêrôtxi
nghe. Anh giật nẩy mình rồi lần lượt
nhìn anh Crôtxi và tôi.
Anh Crôtxi, con bà bán hoa quả rong,
ngồi ghế trên, lúc ấy đang mải làm tính
.
Đêrôtxi nắm chặt cánh tay tôi và bảo nhỏ
:
− Suỵt ! Sáng nay Crôtxi khoe với tôi
rằng cha anh mới ở Mỹ Châu về, có cái lọ
mực gỗ, hình chóp nón, ngoài khắc vở và
bút... Đúng cái lọ mực anh vừa nói rồi
!... Sáu năm lại hợp với thời gian mà
cha anh đi vắng, đi sang Mỹ anh thường
nói thế. - Thì ra ông ta đã ngồi tù! -
Hồi Toà kết án, anh Crôtxi còn bé không
biết, nên mẹ anh cố ý giấu chuyện ấy.
Vậy ta không nên đả động việc ấy nữa và
phải trọng sự không biết của anh.
THÁNG HAI
32.- Làm khán hộ cho cha
( Truyện đọc hàng tháng )
Một buổi sáng về tháng Ba, giữa cơn mưa
gió, một cậu bé nhà quê, quần áo ướt át
và đầy bùn, tay xách gói đồ, đến bệnh
viện thành Napơli và đưa cho người gác
cổng phong thư.
Cha cậu làm thợ ở Pháp về, khi tàu tới
bến bỗng thụ bệnh phải vào nhà thương,
chỉ kịp viết mấy chữ về nhà. Được tin,
mẹ cậu buồn rầu khôn xiết ! Trong nhà,
mẹ già thì tàn tật, con trẻ thì thơ
ngây, bà không sao đi được, đành sai cậu
là con cả đi thăm và cho vài xu để uống
nước. Cậu phải đi bộ 10 cây số.
Nhìn qua lá thư, người gác cổng nhờ một
viên y tá đưa cậu đến phòng cha cậu.
Viên y tá hỏi :
− Cha em là ai ?
Cậu nói tên cha.
Viên y tá không nhớ tên ấy và hỏi :
− Có phải ông thợ già ở ngoại quốc mới
về không ?
Cậu đáp :
− "Thợ" thì phải, nhưng không "già". Cha
tôi mới ở Pháp về.
− Cha em vào đây được bao lâu ?
Cậu bé xem lại thư đáp :
− Độ năm hôm nay.
Viên y tá nghĩ một lát rồi sực nhớ ra :
− À phải rồi ! Tôi nhớ ra rồi ở buồng
thứ tư, giường trong cùng...
Cậu theo lên tầng gác thứ nhì, qua hành
lang vào phòng ngủ thấy hai dãy giường
dài. Đến cuối phòng, viên y tá đứng lại
vén màn trỏ vào giường bảo :
− Cha em đây.
Cậu vứt gói quần áo, tru lên khóc. Cậu
gục đầu vào vai bệnh nhân và nắm chặt
lấy cánh tay, song bệnh nhân không nhúc
nhích.
Cậu đứng dậy nhìn cha rồi lại khóc. Bệnh
nhân hé mắt nhìn cậu hình như hơi nhân
ra - nhưng không nói được. Cha cậu chóng
già quá. Cậu khó thể nhận ra. Tóc bạc,
râu xồm xoàm. Mặt sưng húp, da căng
bóng, mắt bé, môi to, thân hình coi rất
thiễu não ! Cậu chỉ nhận được cái trán
cao và đôi lông mày đen đen của cha
thôi. Bệnh nhân thở ì ạch. Cậu gọi :
− Cha ơi ! Con đây ! Con là Phransexcô
đây ! Cha không nhận ra con sao ? Con ở
quê ra, mẹ sai lên thăm, cha không nói
gì à ?
Bệnh nhân nhìn kỹ cậu, rồi mắt lại nhắm
nghiền.
Đến giờ bác sĩ đi khám, cậu hỏi :
− Thưa bác sĩ, cha con mắc bệnh gì ?
Bác sĩ vỗ vai cậu, đáp :
− Con cứ yên tâm, cha con bị chứng đan
độc. Bệnh tuy nặng song ta không thất
vọng. Con cố trông nom cho cha con. Nhìn
thấy con ở đây, cha con sẽ đỡ được đôi
phần.
Cậu thất vọng nói :
− Nhưng cha con không biết gì .
− Rồi cha con sẽ biết. Con hãy vững
lòng.
Thế rồi, cậu bắt đầu làm người khán hộ
cho cha. Cậu luôn tay làm những việc lặt
vặt, lúc kéo chăn, khi đuổi ruồi, lúc sờ
trán, khi cầm tay cha. Mỗi khi bà phước
đưa thuốc đến thì cậu đỡ lấy và cho bệnh
nhân uống.
Đêm đến, cậu ngủ trên hai cái ghế ghép
liền nhau ; ban ngày cậu lại làm việc
bổn phận.
Bốn ngày qua. Bệnh cha cậu khi thăng khi
giảm, không nhất định.
Sáng ngày thứ năm, bệnh tình bỗng sinh
nguy kịch. Lúc ấy, độ 4 giờ chiều, cậu
đang lo lắng âu sầu, chợt nghe bên ngoài
có tiếng giày đi và tiếng người đàn ông
nói :
− Kính chào bà, chúng tôi xin về.
Nghe tiếng người ấy, cậu rùng mình từ
đầu đến chân và đứng thẳng dậy như bị
máy giật.
Người ấy đi trước bà phước, qua buồng
cậu, tay xách túi đồ. Khi trông thấy
người ấy, bỗng cậu bé rú lên một tiếng
và đứng ngay như tượng .
Người ấy quay lại nhìn cậu rồi cũng kêu
to : - Kìa ! Phransexcô !
Cậu bé chạy lại ôm choàng lấy cha. Mọi
người thấy thế đều lấy làm lạ.
Cậu xúc động quá không nói nên lời. Sau
khi nhìn bệnh nhân, cha cậu hôn cậu và
hỏi :
− Không hiểu sao người ta lại dẫn con
đến giường người khác ! Mà cha thì đỏ
mắt mong con vì mẹ con viết thư nói đã
sai con ra đây. Thương hại cho con quá !
Con ở đây được mấy hôm rồi ? Sao lại
nhầm được đến như thế nhỉ ? Thôi, nhờ
giời cha đã lành mạnh, nay cha xin ra.
Vậy con sắp sửa để cùng về...
Cậu bé đáp :
− Cha khỏi rồi ! Con sung sướng quá !
Nhưng con không thể bỏ ông già mà con đã
săn sóc từ mấy hôm nay. Kìa ! Cha coi
ông ta đang nhìn con hình như muốn gọi
con. Con không đành lòng bỏ ông ấy. Hôm
nay, ông ấy trở bệnh. Con xin phép cha
cho con về sau...
Viên y sinh đứng đó khen :
− Cậu em thật giàu lòng từ thiện !
Cha tôi hỏi viên y sinh :
− Thưa ngài, bệnh nhân là ai thế ?
Viên y sinh đáp :
− Ông ta cũng làm thợ như ồng và ở ngoại
quốc về, ông ta vào đây cùng ngày với
ông. Người ta chở vào đây thì ông ta đã
mệt và cấm khẩu rồi. Ông ta chắc cũng có
gia đình ở xa và có con... Ông ta tưởng
cậu em là người nhà ông ta chăng ?
Lúc ấy, bệnh nhân cứ nhìn theo cậu
Phransexcô. Người cha bảo :
− Vậy, con cứ ở đây.
Viên y sinh nói :
− Cậu sẽ chẳng phải ở đây lâu đâu !
Người cha nhắc lại :
− Con cứ ở đây. Cha rất vui lòng thấy
con là một đứa trẻ có lòng nhân ái. Cha
về báo tin cho nhà biết, kẻo lại nóng
lòng mong đợi.
Cha cậu hôn cậu rồi ra.
Chiều hôm sau, bác sĩ vào thăm và tuyên
bố bệnh nhân khó lòng qua được đến mai.
Cậu thức suốt đêm ấy để nâng giấc bệnh
nhân. 5 giờ sáng, bà phước vào coi qua
bệnh nhân rồi chạy ra. Lát sau, bác sĩ
đến, xem mạch rồi nói :
− Ông già gần chết !
Cậu Phransexcô dân dấn nước mắt, cầm tay
ông già. Ông già bừng mắt nhìn cậu rồi
lại nhắm nghiền. Cậu cảm thấy trong phút
lâm chung, ông già đã cố đem hết sức tàn
nắm tay cậu, bắt tay cậu...
Lát sau, bác sĩ lại vào, cúi nghe bệnh
nhân lần nữa rồi ngẩng lên. Cậu hỏi :
− Thưa ngài, ông ấy đã "đi" chưa ?
Bác sĩ đáp :
− Thôi, con về ! Việc phúc của con đến
đây là trọn. Con hãy sung sướng đi vì
con đáng được sung sướng !
Bà phước rút nắm hoa tươi trong bình bên
cửa sổ, đưa cho cậu và bảo :
− Ta chả có gì cho em cả. Em cầm lấy bó
hoa này gọi là chút kỷ niệm của nhà
thương.
Cậu, một tay đỡ lấy bó hoa, một tay lau
nước mắt, nói :
− Cảm ơn bà, nhà con xa quá, đem về đến
nơi thì héo cả. Con xin mượn bó hoa này
để viếng ông già khốn khổ !...
Nói xong, cậu ngắt những bông hoa rắc
lên thi hài người bất hạnh.
Đoạn, cậu chào bà phước và bác sĩ, xách
gói quần áo trở ra.
Lúc ấy, vầng động đã rạng.
33.- Chú hề con
Thứ hai, ngày 20
Hội giả trang gần mãn, thành phố rất
tưng bừng rộn rịp. Trên những khu đất
công, chỗ nào cũng thấy dựng những rạp
xiếc rong và những vòng đua ngựa gỗ.
Ngay cửa sổ nhà tôi trông ra, có một rạp
xiếc của người Vêneua. Họ có 6 con ngựa.
Rạp dựng giữa bãi, một góc để ba xe ngựa
lớn là nơi các tài tử ngủ hay đóng bộ để
ra trò và ba cái nhà lăn, hai bên có cửa
sổ, trên nóc có ống hơi lúc nào cũng nhả
khói xanh. Nhìn qua cửa sổ thấy phơi la
liệt những quần áo của trẻ con vắt trên
dây. Một người đàn bà vừa nuôi con thơ,
vừa làm bếp, vừa nhảy dây. Thực là một
khổ cảnh đáng thương ! "Trò rong" !
Người ta thường nói hai tiếng ấy bằng
giọng khinh bỉ. Nhưng thực ra họ đã kiếm
ăn một cách thật thà, họ đã chịu mọi sự
lao khổ để làm vui cho kẻ khác. Trời rét
thế, suốt ngày họ chạy từ rạp về xe và
chỉ vận phong phanh một chiếc áo đan màu
hồng . Họ ăn đứng trong những giờ nghỉ,
ít khi được ngồi và ăn uống thung dung.
Đôi khi rạp đã đầy người, bão nổi, lều
bay, đèn tắt, thế là buổi diễn đi đời.
Phường xiếc này có hai đứa trẻ giúp
việc. Đứa bé nhất là con của chủ rạp, độ
8 tuổi, coi rất đẹp trai , mặt tròn, da
xạm, mớ tóc đen toả xuống dưới vành mũ
nhọn.
Lúc ra trò, hắn vận một thứ bao màu
xanh, hai tay viền đen, chân đi giày vải
coi rất ngộ. Hắn có biệt tài đi ngựa !
Hôm nào cũng thế, sáng sớm chúng tôi đã
thấy nó đầu trùm khăn vuông đi mua sữa
về và dát ngựa ở chuồng ra. Xong, nó bế
em đi chơi, hoặc xếp dọn vòng, dây, ghế,
bức chắn, hoặc rửa xe, dóm bếp ; trừ một
vài phút nghỉ ngơi, còn bao giờ nó cũng
ngồi bên cạnh mẹ.
Một tối kia, chúng tôi sang xem xiếc.
Trời rét quá ! Rạp vắng tanh. Chú hề bé
con vẫn hết sức trổ tài để cho dúm khán
giả kia khỏi chán nản. Chú nhảy lộn trên
lưng ngựa, bám đuôi ngựa chạy, đứng bằng
hai tay, chân ngược lên trời. Rồi chú
hát, chú cười. Bộ mặt xạm nâu của chú đã
đoạt được lòng yêu của công chúng.
Cha chú thì mặc áo đỏ, quần cụt trắng,
đi giày ống, tay cầm roi ra lệnh, nét
mặt buồn thiu.
Thấy tình cảnh ấy, cha tôi động mối
thương tâm. Hôm sau, có hoạ sĩ Đêlix
lạichơi, cha tôi nói chuyện :
− Những người ấy làm được lấy chết mà
kiếm chẳng được mấy đồng tiền ! Thương
hại thay thằng bé con kháu và ngoan quá
! Ta có thể giúp đỡ họ được việc gì
không ?
Hoạ sĩ ngỏ một ý kiến rất hay :
− Bác là nhà báo, viết cho họ một câu
trong tờ "Tân văn". Bác kể lại những đức
tính tốt và tài nghệ của đứa bé. Còn
tôi, tôi sẽ vẽ hình nó ở đây, ai ai cũng
đọc báo "Tân văn" , chắc sẽ được đông
người đến xem.
Nói xong, thi hành ngay. Cha tôi đăng
một bài rất hứng thú, nhắc lại những
điều chúng tôi đã thấy qua cửa sổ, khiến
ai nghe cũng muốn vuốt ve cậu tài tử bé
xon. Ông Đêlix phác hoạ hình cậu bé rất
giống và có duyên. Báo lên khuôn ngay
chiều thử bảy. Thế rồi, buổi biểu diễn
tối chủ nhật, công chúng kéo nhau đi xem
đông như nước chảy. Người ta nêu trong
báo là "Cuộc diễn làm phúc cho chú hề tí
hon!".
Cha tôi đưa tôi vào ngồi hạng nhất. Tờ
"Tân văn" in hình cậu bé dán ngay ở cửa
vào. Rạp đầy người, nhiều khán giả tay
cầm tờ báo, chỉ cho nhau đâu là cậu tài
tử ; còn cậu bé thì hết chạy đến chỗ
người này, lại chạy sang ghế người khác,
hớn hở vô cùng ! Ông chủ rạp hôm nay
trông cũng "tươi" lắm, vì ông không ngờ
được có cái vinh hạnh ấy và từ ngày đi
diễn trò đến giờ, chưa từng có báo nào
nhắc đến phường ông cả.
Cha tôi ngồi cạnh tôi. Trong hàng khán
giả tôi nhận thấy nhiều người quen.
Cuộc diễn bắt đầu. Chú hề đi ngựa, lộn
đu và leo dây, tuyệt hay ! Hết mỗi trò
lại một tràng pháo tay nổ khắp rạp .
Còn nhiều trò khác như leo dây, múa rối,
đi cầu, đánh vòng, nhưng trò nào không
có cậu bé là công chúng buồn.
Lúc gần tan tôi thấy ở cửa vào có người
nói thầm với chủ rạp. Chủ rạp trông vào
cử toạ như muốn tìm ai. Bỗng ông ta để ý
đến chúng tôi. Cha tôi hiểu ngay là họ
đã tìm ra ký giả bài báo hôm trước. Muốn
miễn mọi sự cảm ơn, cha tôi khẽ bảo tôi
:
− Enricô ơi ! Con ngồi xem cho hết. Ta
đợi con ở cổng.
Rồi lén ra trước.
Chú hề sau khi nói chuyện với cha lại
chạy vào làm trò.
Đứng trên mình ngựa đang phi, cậu thay
đổi quần áo bốn bận và lần lượt hiện ra
: người du lịch, lính thuỷ, lính tập,
người múa võ ! Mỗi vòng đi qua cậu lại
liếc mắt nhìn tôi.
Khi diễn xong, cậu xuống ngựa, ngửa mũ
đi quanh vòng diễn. Ai nấy đều ném xu
,ném kẹo cho cậu. Tôi cầm sẵn hai xu
đợi, song khi đến chỗ tôi, cậu bỏ qua và
giơ mũ cho người khác. Tôi bực quá ! Sao
hắn lại có cái cử chỉ vô lễ thế !
Mãn trò, chủ rạp thiết tha cám ơn khán
giả. Công chúng kéo ra. Tôi bịép trong
bọn, đang tìm lối ra, bỗng thấy có người
kéo tay tôi. Tôi quay lại thì ra cậu hề,
nét mặt tươi cười, tay cầm nắm kẹo. Tôi
hiểu ý ngay .
Cậu bé nói :
− Cậu cầm lấy nắm kẹo của thằng hề ăn
cho vui.
Tôi không từ chối và cầm ba, bốn chiếc.
Cậu bé nói tiếp :
− Cậu nhận cả cáihôn này nữa !
Tôi giơ má đáp :
− Cho tôi hai cái !
Cậu liền quệt tay trái lên mặt đầy phấn
xong ôm cổ tôi hôn hai cái thật kêu và
nói :
− Em gửi cậu một cái về cho ông !
34.- Ngày cuối cùng hội Giả trang
Thứ ba, ngày 22
Hôm nay lúc xe "trá hình" đi qua chúng
tôi đã mục kích một tấn kịch buồn, nhưng
kết cục được vô sự. Nếu không, đã xảy ra
một tai hoạ.
Nơi công trường "Thánh Thượng Tư" hôm
nay trang hoàng rất rực rỡ , hai bên
chật ních những người đợi xem đám rước
đi qua.
Nửa giờ sau, bỗng tiếng hò reo vang động
một góc trời, người ta thấy một đoàn mặt
nạ kéo đến, vừa đi vừa làm trò, coi rất
ngộ nghĩnh, và không thể nhịn cười được.
Kế đến những xe trá hình : xe nào cũng
cắm cờ kết hoa và mỗi cái kết một hình :
nào cối xay, tàu thuỷ, nào rạp hát, nhà
lầu v.v.. Trên xe chứa nào hề, nào đầu
bếp, nào lính thuỷ, nào kẻ chăn cừu.
Thực là một cảnh tượng hỗn tạp làm rối
mắt mọi người ! Rồi thì kèn thổi, tù va
rúc, thanh la khua , như xé màng tai.
Các ông tài tử trên xe uống rượu, bát
nghêu. Lắm lúc hết trò, các ông quay ra
thét mắng những người xem và những kẻ tò
mò ở trong cửa sổ ló đầu ra. Bị chọc tức
họ nhao nhao cãi lại. Đồng thời một trận
mưa hoa và kẹo do người ta ném lẫn nhau,
bay phơi phới, đám rước còn dài, xa
trông chỉ thấy cờ bay phất phới, lông mũ
lung lay và những đầu người lắc lư dưới
những cái mũ nhọn khổng lồ.
Người ta có thể nói rằng : Đó là một đội
người điên !
Đoàn xe đang diễu, tôi nhận thấy chiếc
xe tứ mã rất tráng lễ, lưng ngựa phủ vải
thêu kim tuyến và chưng những trànghoa
rất rực rỡ. Trên xe có 14, 15 người trá
hình ngày xưa : đầu đội mũ tam giác, tóc
giả chấm vai, mình mặc áo thêu, chỉ vàng
lóng lánh, vai dính băng thuỷ ba, sườn
đeo gươm sáng nhoáng. Họ đồng thanh hát
một bài tiếng Pháp vàném kẹo cho công
chúng ; ai nấy đều vỗ tay hoan nghênh.
Chợt thấy bên tay trái chúng tôi có một
người đàn ông giơ một đứa con gái 4,5
tuổi lên trời và chạy theo xe của các vị
công hầu của vua Lui thứ 15. Con bé gào
khóc giẫy giụa. Một vị quý phái quay lại
nhìn. Ngừơi đàn ông nói :
− Xin ngài làm phúc giữ lấy đứa bé này,
nó lạc, không tìm thấy mẹ. Ngài ẵm nó
trong tay, mẹ nó ở xa sẽ nhìn thấy.
Không còn kế gì hơn nữa.
Vị quý phái liền bế lấy đứa bé ,các ông
bạn đồng hành thôi không gào hát nữa.
Đứa bé khiếp quá, giãy đành đạch. Vị quý
phái liền rứt bỏ mặt nạ ra và cho xe đi
thong thả.
Trong lúc ấy cómột người đàn bà ở đầu
phố chạy điên cuồng, rối rít, miệng kêu
:
− Con ơi ! Con ơi ! Con tôi lạc rồi !
Người ta bắt con tôi rồi ! Người ta xéo
chết con tôi rồi !
Bà kêu gào như thế đã hơn một khắc đồng
hồ mà vẫn không tìm thấy con.
Bỗng trên xe có tiếng nói to :
− Các ông, các bà tìm hộ xem mẹ nó ở đâu
?
Nghe tiếng, bà ta chạy sầm lại, kêu lên
một tiếng vừa mừng, vừa bực và giơ hai
tay run lẩy bẩy chực vồ lấy con.
Xe dừng. Vị quí phái nói :
− Con bà đây !
Nói xong, vị quý phái hôn đứa bé và trao
cho mẹ nó. Bà ta ôm chặt con vào lòng,
mừng mừng tủi tủi... Vị quí phái kéo tay
cô bé lại, rút chiếc nhẫn kim cương của
mình đeo vào ngón tay tí hon cô bé và
nói :
− Của hồi môn em bé đây !
Bà mẹ sững người trong khi công chúng vỗ
tay khen.
Vị quí phái lại đeo mặt nạ vào, các bạn
trên xe lại hát một bài bằng tiếng Pháp
, chiếc xe tứ mã lại chuyển bánh trong
đám công chúng hoan hô liên tục.
35.- Những trẻ em mù
Thứ năm, ngày 24
Thầy giáo chúng tôi mệt, nên cụ giáo lớp
bốn xuống dạy thay. Cụ đã dạy qua trường
trẻ con mù. Cụ là bậc kỳ cựu nhất trong
giáo giới ở đây, tóc trắng như bông. Cụ
nói giỏi và biết nhiều. Thoạt vào lớp,
cụ trông thấy một cậu học trò một mắt
phải đắp bông. Cụ liền lại gần hỏi thăm
và khuyên rằng :
− Con phải cẩn thận về đôi mắt lắm mới
được !
Nhân dịp , Đêrôtxi hỏi cụ :
− Thưa cụ, có phải trước cụ đã dạy ở
trường trẻ con mù không?
Cụ đáp :
− Phải, ta dạy đấy đến 5,6 năm.
Đêrôtxi nói khẽ :
− Thưa cụ, cụ cho chúng con nghe qua
chuyện trường ấy.
Cụ vào bàn giấy ngồi. Côretti mau miệng
nói :
− Thưa cụ, "trẻ mù", con biết rồi!
Trường "trẻ mù" ở phố Nixơ ạ!
Cụ nói :
− Các con nói tiếng "mù" bằng giọng rẻ
rúng cũng như các con nói đến những
tiếng "ốm đau" hay "nghèo khó". Các con
có hiểu rõ "mù" là thế nào không ? "Mù"
nghĩa là suốt đời không nhìn thấy gì !
Suốt đời không phân biệt ngày đêm không
nhìn thấy vũ trụ, thấy mặt trời, thấy
cha mẹ, thấy cảnh vật ở chung quanh mình
và những đồ vật mình cầm đến ! Suốt đời
phải chìm đắm trong cõi tối tăm vô tận,
khác nào như bị vùi sâu trong ruột quả
đất !
Các con thử nhắm mắt lại và tưởng tượng
nếu các con bị như thế trọn đời thì nỗi
đau khổ của các con sẽ đến mực nào ? Ta
quả quyết rằng các con sẽ cảm thấy một
sự áp bức đau đớn, một sự khủng bố không
chịu đựng được. Các con sẽ phải phát ra
những tiếng kêu tuyệt vọng...
Thế nhưng...khi người ta bước chân vào
trường "kẻ mù" lần thứ nhất, trong lúc
giờ chơi, khi người ta nghe tiếng cười
câu nói ồn ào, trông thấy kẻ lên gác,
người xuống thang, kẻ qua hành lang,
người vào phòng ngủ một cách tự nhiên và
vững vàng thì không ai bảo đó là những
kẻ không nhìn thấy ánh nắng mặt trời !
Muốn hiểu họ một cách tường tận hơn, ta
phải để tâm xét họ về mọi phương diện.
Đây là những kẻ thanh niên chừng 16, 18
tuổi khoẻ mạnh và mau mắn, họ đã cam
chịu mệnh trời và tỏ vẻ dửng dưng, nhưng
coi nét buồn trên mặt họ ; ta có thể
đoán trước khi ngậm dau, họ đã phải vật
lộn với sự khổ thống thiết là dường nào?
Đây là những người hiền lành, sắc mặt
xanh xao lộ vẻ nhẫn nhục âu sầu, khiến
ta có thể tưởng tượng rằng đôi phen họ
đã âm thầm rỏ lệ. Các con ơi ! Các con
nên biết rằng một phần đông trong những
người xấu số ấy đã hỏng mắt trong một
thời gian rất ngắn, cũng có người phải
đeo bệnh lâu năm và chịu những giờ mổ
cắt rất đau đớn rồi mới mù.
Đây là những người lọt lòng ra đã phải
sa vào một cái đêm không bao giờ có buổi
bình minh. Họ ra đời như là bước vào một
cõi âm ti thăm thẳm mà ở đó họ không
phân biệt được một hình, một sắc gì.
Các con thử tưởng tượng nếu họ so sánh
đời tối đen của họ với đời của những
người sáng thì họ khổ tâm đến thế nào !
Chắc họ phải nghĩ rằng :
− Tại sao lại có sự chênh lệch ấy? Chúng
ta có làm gì nên tội ?
Cụ giáo nói tiếp :
− Ta, ta đã ở lâu bên trẻ mù. Ta nghĩ
đến một lớp toàn những con mắt nhắm và
con người chết, rồi ta lại nhìn các con,
ai nấy đều có đôi mắt long lanh như
ngọc, lòng ta không thể im lặng, không
bảo các con rằng : "Các con toàn là
những người sung sướng!" "Các con hãy
nghĩ đến : riêng một nước italia ta có
tới hai vạn sau nghìn người mù. Hai vạn
sáu nghìn! Các con đã nghe rõ chưa ?"
Cụ giáo nói dứt lời. Đêrôtxi đứng lên
hỏi :
− Thưa cụ, có phải người mù có cái xúc
giác linh lợi hơn người sáng không?
Cụ đáp :
− Phải đấy, tất cả những giác quan khác
của người mù đều linh mẫn cả vì những
giác quan ấy đã được rèn luyện hơn người
thường để thay cho thị giác. Sáng dậy,
một học sinh trong buồng ngủ hỏi bạn :
− Hôm nay trời có nắng không ?
Một người hoạt bát nhất trong bọn họ vận
áo, ra giữa sân giơ tay khua khí trời
xem có ấm không, xong chạy vào báo tin :
− Trời nắng.
Nghe tiếng nói của một người, họ có thể
đoán được tầm vóc của người ấy. Ta xét
đoán những người chung quanh bằng luồng
mắt của họ, những người mù lại xét đoàn
theo tiếng nói. Họ nhớ giọng nói của
người quen hàng bao nhiều năm không
quên. Trong phòng nếu có đông người, họ
biết ngay, dù chỉ có một người nói còn
những người khác ngồi im. Họ chỉ lấy tay
sờ mà biết một chiếc thìa có sạch hay
không ?
Những trẻ gái lại có tài phân biệt thứ
len nhuộm với thứ len không. Khi xếp
hàng đôi đi trong phố, những trẻ mù chỉ
ngửi mà biết gần khắp các cửa hàng.
Chúng cũng chơi đánh quay, nhờ tiếng vù
vù, chúng biết của ai hơn kém và nhặt
con quay của mình không sai.
Chúng cũng nhảy dây và nhảy cũng khéo
như những trẻ sáng. Chúng hái hoa đồng
thảo như người trông thấy.
Chúng may áo, dệt chiếu, đan thúng rất
nhanh. Xúc giác là thị giác thứ hai của
chúng, vì thế khi chúng được sờ, được
nắn và đoán hình thể của các đồ vật thì
chúng lấy làm thích lắm.
Anh Garôphi giơ tay lên xin phép hỏi :
− Thưa cụ, có phải người mù học tính
nhanh hơn người sáng không ?
Cụ đáp :
− Phải đấy. Không những học tính, những
trẻ mù còn học đọc nữa. Sách của chúng
có những chữ nổi, chỉ đưa qua mấy ngón
tay lên mặt chữ là chúng nhận được và
đọc rất nhanh. Chúng cũng tập viết nữa.
Chúng dùng những cái dùi thép nhấn trên
những tờ giấy dầy thành những nét chấm
trũng. Những điểm ấy học theo bản tự mẫu
riêng. Nhưng chấm trũng ấy nổi sang mặt
giấy bên kia thanh chữ. Học trò viết
xong chỉ phải lật trang giấy lấy tay sờ
lên là đọc được nhưng chữ đã viết.
Chúng có thể sờ chữ mà nhận được tự dạng
của nhau. Chúng cũng làm bài thi và viết
thư cho nhau. Chúng viết chữ số và làm
tính theo lối nói trên, nhưng về khoa
tính nhẩm thì chúng mẫn tiệp một cách lạ
thường, ta không thể tưởng tượng được,
đó cũng là vì chúng không đãng trí bởi
những sự vật quanh mình như ta.
Không những thế, chúng lại còn thính tai
nữa. Bốn năm người ngồi một ghế, không
cần phải quay sang nhau, người thứ nhất
có thể nói chuyện với người thứ ba,
người thứ nhì nói với người thứ tư, bốn
người đều nói cùng lúc và nói to cả, thế
mà chúng nghe được không sót một câu
nào.
Chúng chăm lo về các bài thi hơn các con
và chúng yêu quí thầy giáo hơn các con
nhiều. Chỉ nghe tiếng giày hay ngửi hơi
là chúng nhận được các thầy giáo. Chỉ
nghe giọng nói là chúng đoán được thầy
vui hay buồn, khoẻ hay ốm. Được thầy
vuốt ve hoặc vỗ về thì chúng sung sướng
lắm : nhiều khi chúng nắm chặt lấy tay
và cánh tay thầy để tỏ dấu biết ơn.
Những học trò mù thường yêu nhau lắm và
ở với nhau rất trung thành vì tình hữu
ái đã đem lại cho chúng bao nhiều mối an
ủi và xẻ bớt cho chúng bao nhiêu nỗi
buồn.
Anh Vôtini hỏi :
− Thưa cụ, những học trò mù chơi âm nhạc
có khá không ?
Cụ đáp :
− Chúng mê âm nhạc lắm. Âm nhạc có thế
ví như bản mệnh và hạnh phúc của chúng.
Những trẻ mù mới vào trường không bao
giờ chán nghe người khác đánh đàn hay
thổi sáo. Chúng học chóng lắm và đem hết
tâm hồn vào nhạc nghệ. A ! Giá mà các
con nghe thấy tiếng đàn của trẻ mù, giá
mà các con được trông thấy chúng mặt
ngẩng, miệng cười đầy vẻ cảm đồng và
khát khao, lắng nghe bạn đang rọi một
tia sáng trong cõi tối tăm vô tận mà
chúng phải đầy đoạ vào, lúc ấy con sẽ
hiểu âm nhạc đối với chúng là một mối an
ủi rất nhiệm mầu.
Cấm chúng đọc sách hay cấm chúng chơi âm
nhạc là một sự phạt rất nặng. Chúng sẽ
đau đớn vô cùng, vì thế không ai có cái
can đảm phạt chúng như thế. Tóm lại âm
nhạc đối với con tim chúng cũng như ánh
sáng đối với con mắt ta.
Đêrôtxi nói tiếp :
− Thưa cụ, người ngoài có thể vào xem
trường trẻ mù được không ?
Cụ đáp :
− Sao lại không ? Hiện giờ các con còn
bé, ta không muốn cho các con đi. Nhưng
một mai, các con đến tuổi hiểu được nỗi
thống khổ của kẻ mù, đến tuổi biết động
lòng trắc ẩn vì mối thương tâm chính
đáng, lúc đó các con sẽ nên đi.
Các con ơi ! Thực là một cảnh tưởng bi
ai ! Các con hãy trông kia là những trẻ
ngồi trong cửa sổ nửa khép, nét mặt an
tĩnh, thở hít khí lành, hình nhưchúng
đang nhìn ra khoảng đồng ruộng non xanh
mà ta ai nấy đều non rõ... Nhưng khi ta
nghĩ đến chúng không trông thấy và không
bao giờ được trông thấy những phong cảnh
ngoạn mục kia thì lòng te se lại, khi ấy
tựa hồ như ta là một kẻ đui mù !
Kẻ nào sinh ra mù sẵn thì nỗi khổ cũng
giảm được đôi chút vì nó không biết
những thứ nó thiếu thốn. Nhưng về phần
những trẻ mới mù vài tháng nay, chúng
còn ghi gói và hiểu nhớ những thứ mà
chúng đã mất. Những trẻ này còn đau đớn
gấp trăm lần hơn những trẻ nói trên, là
vì mỗi ngày chúng thấy hình ảnh của
những người thân yêu mờ dần trong trí
óc. Một trẻ em, một lần đã thốt ra một
câu ai nghe thấy cũng phải cảm động .
− Lạy trời cho tôi được mở mắt một phút
thôi, để tôi nhận lại mặt mẹ tôi mà tôi
quên mất rồi !
Đã bao nhiêu người vào thăm trường này,
lúc ra phải lau nước mắt. Khi từ biệt
chúng, ta tưởng tạo hoá đã biệt đãi ta
vì ta được hưởng cái đặc ân là được nhìn
thấy mọi người, nhìn thấy nhà cửa, nhìn
thấy trời đất ! Hãy thương những trẻ mù.
Các con ơi ! Hãy thương chúng là kẻ có
mặt trời mà không được nhìn ánh sáng, có
mẹ mà không rõ nét mặt mẹ mình !
THÁNG BA
36.- Lớp học tối
Thứ năm, ngày mồng 2
Hôm qua, cha tôi dẫn tôi ra trường để
xem lớp học tối. Khi chúng tôi đến thì
đèn các lớp đều thắp sáng trưng và học
trò đang lục tục kéo đến.
Ông hiệu trưởng đang bực tức vì có người
vừa ném đã vào vỡ mất miếng kính.
Người gác cổng chạy xổ ra và bắt được
một đứa trẻ, nó kêu khóc và cãi không
phải mình.
Anh Xtanđi, nhà ở trước cửa trường, thấy
thế liền chạy sang và bảo người gác cổng
:
− Không phải thằng bé này đâu. Chính
thằng Phơranti nó ném, mắt tôi trông
thấy. Nó doạ nếu mách nó sẽ đánh tôi,
song tôi không sợ.
Người gác cổng buông ngay đứa bé kia và
ông hiệu trưởng bảo cha tôi rằng mai ông
sẽ thẳng tay đuổi Phơranti ra, không thể
dung thứ được nữa.
Tôi chưa được xem lớp học tối bao giờ.
Thực là một cảnh tượng rất hứng thú.
Trong trường có tới 200 người thợ đủ các
hạng tuổi, từ trẻ con 12,13 tuổi cho đến
những người lớn đã có râu, đi làm về,
đến để học thêm, nào thợ mộc, nào thợ
nề, nào thợ máy, nào thợ sơn, v.v...
Trong bọncó cả mấy người lính pháo thủ
do viên cai dẫn đến.
Cửa các lớp để ngỏ. Giờ học bắt đầu.
Nhìn vẻ chăm chú của các "ông học trò"
ngồi nghe giáo viên dẫn giảng, tôi rất
lấy làm thán phục ! Tôi thấy chỗ thì mấy
người cầm vở lên bàn giấy hỏi nghĩa lại,
chỗ thì 4,5 người thợ quây quần một giáo
viên đang chấm bài. Thầy giáo trẻ nhất
trường tôi mà, chúng tôi đặt tên là
"Tiểu luật sư" cũng có mặt ở đấy. Tôi
thấy thầy chìa quyển vở loang lỗ những
vết đỏ, vết xanh cho cậu học trò thợ
nhuộm xem và cười...!
Trong bọn thợ học tối nay, cũng có nhiều
người chưa kịp về ăn cơm nên trông có vẻ
mệt nhọc.
Mấy cậu bán bánh vào học được nửa giờ
thì gục xuống bàn ngủ. Giáo viên lại gần
lấy đuôi bút lông ngỗng khẽ quệt vào má
để đánh thức các cậu. Còn những người
lớn thì chú ý lắm,mắt đăm đăm nhìn giáo
viên cắt nghĩa : người ta có thể nghe
được tiếng ruồi bay.
Tôi rất lấy làm đắc ý trông thấy những
người lớn ngồi vào chỗ cúng tôi. Nếu
chúng tôi bắt chước được như những người
thợ ấy, ngồi im lặng học chăm chú thì
thích biết dường nào !
Chỗ tôi ngồi là một người trẻ tuổi có
râu ria, có lẽ là người thợ máy vì người
ấy bị thương ở một ngón tay bên phải còn
quấn bông ; tuy nhiên, người ấy cũng cố
viết nắn nót như các người khác !
Thực là một tấm gương nhẫn nại cho tôi.
Còn chỗ "chú phó nề" thì buồn cười quá !
Tôi thấy cha chú ngồi. Ông phó người to
lớn ngồi vào chỗ con khí hẹp quá, nên có
vẻ "câu thúc" nhưng ông ta thích thế vì
ông ta đã xin phép ngồi vào chỗ thân yêu
ấy !
Cha tôi và tôi đứng ngoài xem cho đến
lúc mãn giờ. Đó cũng là một bài học thực
hành cho tôi, một bài học dạy về "ý tứ"
về "cử chỉ" rất có ích lợi.
Ở cửa trường có nhiều bà ẵm con đến đón
chồng. Thấy cha ra, đứa bé giơ tay theo,
người cha bế lấy và hôn một cách rất yêu
dấu. Còn bà vợ thì cầm đỡ sách vở cho
chồng và giục :
− Nhanh lên ! Cái ăn nguội cả !
Họ đi từng toán về nhà . Phố xá đông đúc
và rộn rịp một lúc rồi lại yên lặng,
vắng tanh. Tôi chỉ còn nhìn thấy bóng
ông hiệu trưởng trường tôi đi lừ thừ ra
vẻ mệt nhọc.
Ông là người đến sớm nhất và cũng là
người về sau nốt. Ông hiệu trưởng đáng
tôn quí ấy, thực là một người cúc cung
tận tuỵ với nghề !
Trông gương học trò tối trước, sáng nay
tôi cố ngồi im và hết sức chăm chú khiến
ông Perbôni phải lấy làm lạ và để ý đến
tôi.
37.- Đám đánh nhau
Chủ nhật, ngày mồng 5
Phơranti bị đuổi rắp tâm trả tù Xtanđi.
Nó đứng đợi ở đầu phố, là lối Xtanđi
thường đón em học ở trường Nữ học Đôra
Crôtxa về, để gây chuyện. Xilvya, em
tôi, thấy đám đánh nhau sợ hãi chạy một
mạch về nhà không đợi tôi.
Việc xảy ra như sau này :
Phơranti đội mũ cát két lệch che cả tai,
rón rén theo sau Xtanđi, tới nơi, nó
liền cầm đuôi tóc em gái Xtanđi giật
thật mạnh để sinh sự. Cô bé bị kéo giật
một cách bất ngờ ngã lăn ra đất. Xtanđi
quay lại thấy Phơranti, giận quá sấn lại
đánh luôn, không sợ nó vừa to vừa khỏe
hơn. Vì thế, Xtanđi bị đánh trả rất đau.
Trong phố lúc bấy giờ chỉ có toàn học
trò con gái nhỏ không ai là người lớn để
gỡ chúng ra.
Hai đứa trẻ đánh nhau kịch liệt, Xtanđi
đổ cả máu mũi, nhiều lần bị ngã, lại cố
đứng dậy chống đỡ. Cuối cùng hai đứa vật
lộn nhau trên mặt đất, Xtanđi hết sức
bình sinh vật ngửa được Phơranti ra và
lấy đầu gối đè lên ngực. Một tiếng bên
ngoài kêu :
− Chết chửa thằng ngốc khốn nạn nó rút
dao !
Xtanđi biết thế liền cắn mạnh vào cánh
tay Phơranti làm cho con dao rơi ra.
Mọi người chạy lại gỡ và lôi chúng dậy.
Bị công chúng xỉ vả, Phơranti chạy
thẳng. Đứng giữa bãi chiến trường,
Xtanđi tuy mặt đầy máu, mắt sưng húp,
nhưng thắng trận. Cô em đứng khóc bên
cạnh. Mấy cô học trò nhặt hộ sách vở rơi
tung toé trên hè. Xtanđi thu thập sách
vở bỏ cặp, lấy khăn chùi mặt rồi dắt em
về.
Mọi người đều tấm tắc :
− Không sợ kẻ mạnh hơn mình, bênh vực
cho em như thế, thực đáng khen thay!
38.- Người tù số 78
Thứ tư, ngày mồng 8
Hôm qua tôi đã được mục kích một tấn
kịch cảm động. Đã mấy hôm nay, mỗi khi
bà hàng bán hoa quả đi qua là bà nhìn
anh Đêrôtxi một cách rất yêu quí, vì tự
khi anh Đêrôtxi khám phá ra câu chuyện
"người tù số 78 với cái lọ mực gỗ", anh
liền đem lòng thân yêu Crôtxi là con
người tù nói trên và là một trẻ mắc bệnh
bại tay. Anh giúp Crôtxi trong khi làm
bài hoặc trả lời, anh cho Crôtxi giấy,
bút và bút chì, tóm lại, anh coi Crôtxi
như em để đền bù lại những nỗi đau khổ
của người cha lao tù mà Crôtxi không
biết.
Bà mẹ Crôtxi là một người rất thương
con, nay thấy có cậu bé học trò đầu lớp
để tâm dắt díu con mình thì lòng bà cảm
mộ vô cùng.
Bà cứ nhìn anh Đêrôtxi chòng chọc như
muốn thổ lộ điều gì song không dám nói
ra.
Mãi đến sáng qua, bà giữ anh Đêrôtxi ở
gần cổng trường à nói rằng :
− Xin lỗi cậu, cậu là một người rất tốt
đối với con tôi. Không lấy gì tạ lòng
cậu được, gọi là có chút quà này biếu
cậu, xin cậu nhận cho.
Nói xong, bà rút trong thúng ra một hộp
bọc giấy vàng.
Anh Đêrôtxi đỏ mặt, lắc đầu từ chối :
− Bà để dành cho anh Crôtxi, tôi không
dám nhận.
Bà hàng hoa quả có vẻ ngượng ngùng, xin
lỗi :
− Xin cậu đừng giận. Đây là gói kẹo nhỏ
biếu cậu thôi.
Nhưng Đêrôtxi ra vẻ khó chịu quay mặt
đi.
Bà kia rụt rè bó củ cải trong thúng ra
nói :
− Thôi, ít nhất cậu cũng nhận cho bó cải
này, còn tươi nguyên, để đem về biếu
bà...
Đêrôtxi cười đáp :
− Cảm ơn bà ! Tôi không muốn nhận gì cả.
Tôi sẽ hết lòng đỡ anh Crotxi mãi mãi và
không bao giờ tôi lại nhận một vật gì bà
cho, cảm ơn bà !
Bà kia có ý ân hận, hỏi :
− Tôi làm cậu mếch lòng sao?
Anh mỉm cười đáp :
− Thưa bà, không phải thế.
Rồi anh đi. Bà Crôtxi lẩm bẩm :
− Thực là một tấm lòng vàng ! Tôi chưa
từng thấy một trò em nàolại giỏi giang
và đứng đắn như cậu này !
Ai cũng tưởng thế là thôi ; nhưng đến
chiều, vào khoảng 4 giờ, đang lo gặp bà
hàng quả thì Đêrôtxi lại phải chạm trán
cha anh Crôtxi đã đợi sẵn ở cổng trường
nét mặt buồn rầu tư lự. Ông ta giữ
Đêrôtxi lại, thái độ luống cuống hình
như ông ta biết Đêrôtxi hiểu rõ chuyện
bí mật của mình. Ông nói bằng giọng âu
yếm :
− Cậu yêu em Crôtxi lắm. Tôi không rõ
tại sao cậu lại đem lòng thương em ?
Đêrôtxi mặt đỏ như gấc, lòng anh như
muốn bảo rằng :
− Tôi yêu anh Crôtxi vì anh ấy khổ sở,
vì chính ông, ông cũng là người khổ sở
hơn là kẻ tội nhận, vì ông đã chuộc tội
rồi, vì ông còn chút lương tâm...
Nhưng cổ anh nghẹn ngào vì anh không đủ
can đảm phát ra câu nói.
Thực ra, anh cảm thấy một sự hãi hùng,
một sự ghê tởm đối với một kẻ sát nhân,
một kẻ đã ngồi 6 năm tù !
Nhưng dù anh chẳng nói ra kẻ tội nhân
kia cũng đoán được cả. Hắn lại gần anh,
giọng run run, hắn nói nhỏ bên tai anh :
− Cậu yêu em, nhưng cậu không ghét,
không khinh cha em chứ ?
Đêrôtxi vội trả lời :
− Không. Không bao giờ có thế !
Kẻ tội nhân hai tay chực ôm lấy Đêrôtxi,
nhưng lại dụt lại, đành lấy tay vuốt ve
món tóc đỏ của anh rồi dân dấn nước mắt,
tự để hai ngón tay lên môi "hôn gửi" cho
anh. Rồi hai cha con dắt nhau về.
39.- Trước ngày 14 tháng Ba
Thứ hai, ngày 13
Hôm nay, ngày 13 tháng Ba, trường tôi có
vẻ rộn rịp, vì mai là ngày phát phần
thưởng cho các học trò tại nhà hát
Vittôriô, một ngày hội lớn nhất trong
năm học. Năm nay những trẻ em cử lên sân
khấu trình danh sách học sinh được phần
thưởng cho các quan chức phải lựa chọn
kỹ càng.
Sáng nay, ông hiệu trưởng vào lớp bảo
chúng tôi :
− Ta báo cho các con biết một tin mừng !
Rồi ông gọi :
− Côrasi đâu ?
Cậu bé xứ Calabrya đứng dậy .
− Mai con có muốn cầm sổ tên học sinh
được thưởng trình các nhà chức trách ở
nhà hát không ?
Cậu bé xứ Calabrya thưa "có".
Ông hiệu trưởng nói :
− Tốt lắm ! Thế là ta sẽ có một đại biểu
của xứ Calabrya, Thành phố năm nay muốn
rằng : 10 hay 12 trò em đệ danh sách và
phần thưởng cho các quan chức phải là
người thuộc các tỉnh khác nhau trong
nước Italia và chọn trong các trường
công ở thành phố Tôrinô. Ở đây, ta có 20
trường chính, 5 trường phụ với 7 nghìn
học sinh. Như thế, sự lựa chọn cũng
không khó gì.
Trường Torquatô Tatxô đã tìm được hai
đại biểu ở đảo : một là dân Xarđênha,
một là dân Xixilya. Trường Buôncompanhi
cho cậu La Mã, mấy trường nữa đã tìm
được những cậu ở Vênêzya ,ở Lôngbarđya,
ở Rômanha. Trường Mônvizô trình cậu
người Napôli là con một sĩ quan ; còn
trường ta cử một cậu thành Giênôva và
một cậu xứ Calabrya. Như thế kể cũng hay
đấy chứ ? Nghĩa là toàn thể anh em ở tất
cả các tỉnh trong nước Italia đến đưa
phần thưởng. Khi các cậu đại biểu lên
sân khấu trình diện, các con phải chú ý
và phải hoan hô. Tuy là trẻ con thực,
nhưng chúng thay mặt cho cả quê hương
chúng thì khác gì người lớn. Một cái
băng tam tài nhỏ kia có phải là biểu
hiệu của nước Italia cũng như lá cờ lớn
không? Các con hãy tiếp rước các bạn đại
biểu cho nồng nàn để tỏ rằng cái trái
tim mười tuổi, trái tim non nớt của các
con cũng biết phấn khởi trước hình ảnh
thiêng liêng của tổ quốc !
Nói xong, ông hiệu trưởng ra, thầy giáo
chúng tôi mỉm cười nói thêm :
− Côrasi nhớ chưa ? Con sẽ là ông nghị
viên của xứ Calabrya đấy !
Chúng tôi đều vỗ tay reo cười. Khi ra
phố, chúng tôi xúm lại kẻ ôm chân, người
kiệu Côrasi lên vai và hò reo khác nào
như người ta hoan nghênh một tướng quân
thắng trận. Có anh hô :
− Hoan nghênh ông nghị xứ Calabrya !
Đó là họ đùa chứ không phải là chế giễu
. Họ mừng cho anh Côrasi cũng đáng vì
anh là một người bạn ai cũng ưa, anh bị
kiệuvà lôi kéo ra đến đầu phố thì chạm
phải một ông mày rậm, râu đen, ông này
thấy thế đang đứng cười .
− Cha tôi đấy !
Thấy anh Côrasi nói vậy, chúng bạn liền
ôm anh trao cho cha anh đỡ lấy rồi giải
tán mỗi người một nơi.
40.- Lễ phát phần thưởng
Thứ ba, ngày 14 tháng Ba
Khoảng hai giờ chiều, nhà hát lớn chật
ních những người .Các ghế hạng nhất ,
hạng nhì , hạng ba , ghế hai bên và trên
diễn đàn đều có người ngồi cả .Trong rạp
có tới vài nghìn người : nào các cô ,
các cậu , các bà , các ông , nào giáo
sư, nào thợ thuyền . Nhìn xuống sân rạp
người ta trông thấy một lớp đầu và tay
chuyển động , một làn sóng lông mũ dập
dờn , một làn dải mũ, tóc tơ phất phới
và những tiếng rì rầm vui vẻ khiến lòng
ta hớn hở vô cùng .
Trong rạp treo những tràng hoa kết theo
sắc cờ rất rực rỡ . Ở chỗ dàn nhạc người
ta đã đặt thêm hai bậc lên xuống : bên
phải là lối học sinh được thưởng lên đàn
, bên trái là lối xuống . Trên sân khấu,
người ta đặt một dãy ghế bành nệm nhung,
trên lưng ghế giữa có treo một vòng hoa
nguyệt quế . Bên cạnh là một cái bàn phủ
thảm xanh , trên bày la liệt sách vở
buộc bằng những dải tam tài đẹp đẽ quá
khiến các cậu học trò nhìn bằng đôi mắt
thèm muốn .
Phường nhạc vẫn ở chỗ ngày thường, nghĩa
là đối diện với sân khấu . Các thầy
giáo, các cô giáo đứng chật chỗ đầu hành
lang là nơi đã dành sẵn . Sau phường
nhạc có hơn trăm cậu bé ngồi trên những
chiếc ghế dài giúp việc hát, mỗi cậu cầm
một bài hát trong tay. Các giám thị đi
đi lại quanh phòng để giữ trật tự và xếp
học trò .Ở đây cuối cùng, mấy bà đang
nắn nót mũ, áo cho con.
Đúng hai giờ, âm nhạc bắt đầu .Đồng
thời, người ta trông thấy ông thị
trưởng, ông quận trưởng, ông đốc học và
nhiều vị khác vận lễ phục mầu thâm lên
đàn , ngồi vào những ghế đỏ . Khi các
tân khách yên vị và phường nhạc dứt bài
thì một nhạc sư , tay cầm đũa nhịp đứng
dậy ra hiệu cho các cậu bé hát . Các cậu
đứng lên đồng thanh hát một bài rất là
hùng tráng .Cử toạ đều lắng nghe và ra
chiều cảm động .Hát hết bài, công chúng
vỗ tay nhiệt liệt .
Cuộc phát phần thưởng bắt đầu .Thầy giáo
cũ tôi, ở lớp hai, tóc đỏ mắt sáng, bước
lên sân khấu giữ việc đọc danh sách các
học sinh trúng giải .Người ta nóng lòng
đợi xem 12 cậu giữ việc dâng sách cho
các quan khách . Các báo đều đăng tin 12
người ấy sẽ là 12 cậu quê quán ở khắp
các tỉnh nước Italia.
Chợt người ta thấy đoàn đại biểu xếp
hàng đi đến và nhanh nhẹn bước lên sân
khấu, rồi 12 cậu đại biếu đứng quay mặt
ra, cậu nào cũng tươi tỉnh, nhưng hơi có
vẻ ngượng nghịu .Cử toạ, chừng 3 nghìn
người đều đứng cả dậy, tiếng vỗ tay và
tiếng hoan hô nổi lên như sấm .Các cậu
bé càng bối rối .
Tôi nhận ra ngay anh Côrasi, đại biểu xứ
Calabrya, mặc y phục đen như mọi ngày.
Một ông Hội viên thành phố ngồi cạnh
chúng tôi, quen mặt mấy cậu đại biểu
khác bèn chỉ dẫn cho mẹ tôi nghe :
− Cậu bé tóc đỏ kia là đại biểu thành
phố Venêzya, cậu lớn tóc quăn kia là đại
biểu thành La Mã. Còn cậu bé nhất quàng
cái băng xanh là đại biểu thành
Phirenzê.
Trong bọn 12 cậu, có hai, ba cậu ăn mặc
sang trọng, còn những cậu khác tuy là
con nhà thợ thuyền nhưng cũng ăn vận
sạch sẽ và chỉnh tề.
Các cậu xếp hàng một và diễu qua ông thị
trưởng, một giáo sư đứng cạnh xướng danh
; nghe mỗi tên thì ông thị trưởng lại
hôn một cậu :
− Phirenzê, Napoli, Bôlônha, Palermô...
Mỗi cậu đi qua trên đài, quan khách lại
vỗ tay một loạt. Các cậu đại biểu diễu
xong ra đứng cả lên bên cạnh bàn sách.
Thầy giáo bắt đầu xướng tên trường, tên
lớp và tên các cậu được thưởng. Các cậu
lần lượt lên sân khấu, coi rất đẹp mắt.
Một bài âm nhạc êm ái dịu dàng ở trong
buồng trò phát ra, nghe tựa như những
tiếng âu yếm của các bà mẹ, các thầy
giáo và các cô giáo đang rủ rỉ khuyên
lơn, khích lệ con em.
Những cậu được thưởng lần lượt lại chỗ
các quan trưởng và các vị thân hào để
lĩnh thưởng, mỗi lần trao sách, các ngài
đểu nói với các cậu một câu âu yếm hoặc
xoa đầu tỏ ý thân yêu. Mỗi khi thấy
những cậu còn bé mà được phần thưởng to
hay những cậu nghèo mà chiếm phần thường
danh dự hay những cậu bé quá lên đàn
cuống quít không biết đi đâu hoặc vướng
chân vào mép thảm bị ngã, thì công chúng
lại vỗ tay và cười reo rất vui vẻ !
Bây giờ đến lượt trường chúng tôi. Trước
tiên tôi thấy gọi tên anh Côrasi. Hôm
nay anh ăn mặc mới từ đầu đến chân, nét
mặt nở nang, nụ cười tươi thắm để lộ đôi
hàm răng trắng như ngà. Biết đâu sáng
nay anh lại không vác củi đỡ cha mẹ. Ông
thị trưởng vỗ vai anh hỏi tại sao trên
trán anh lại có vết đỏ. Tôi đưa mắt nhìn
cha và mẹ anh ngồi ở sân rạp thấy hai
người bưng miệng cười. Thứ nhì là anh
Đêrôtxi. Anh mặc bộ áo xanh thẫm, cúc
kền sáng nhoáng, người mảnh dẻ, bộ thanh
nhã trán cao, làn tóc đỏ toả xuống hai
vai ; coi anh xinh xắn quá chừng , ai
trông thấy cũng phải yêu. Các vị đều nắm
tay hỏi han. Kế thầy giáo gọi :
− Giulyoo Rôbetti !
Người ta thấy cậu con quan Ba pháo thủ
chống nạng lên đàn. Người ta hỏi nhau và
biết ngay nguyên nhân cái tai nạn đã xảy
ra cho cậu, tức thì một tràng pháo tay
nổ ran làm chuyển động cả rạp. Các ông
thì đứng cả dậy, các bà thi vẫy mùi soa,
nhao nhao cả rạp khiến cậu Rôbetti bối
rối và cảm động run cả người đứng ỳ giữa
sân khấu... Ông thị trưởng kéo cậu lại
gần, hôn cậu, xong lấy vòng hoa nguyệt
quế treo ở lưng ghế mắc vào đầu cái nạng
cậu cầm ở trước ngực. Xong quan thị
trưởng đưa cậu lại chỗ cha cậu ngồi ở
hàng ghế thứ nhì, cha cậu liền đỡ cậu
vào trong. Cử toạ đều vỗ tay khen ngợi.
Phường nhạc vẫn cử những bài êm ái du
dương. Các học sinh vẫn kế tiwps lên đàn
lĩnh thưởng. Đây là học trò trường
Lacônxôlât, phần nhiều là con nhà buôn
bán. Đây là học trò trường Vaukilya, con
cái thợ thuyền. Nọ là trường
Buôncompanhi, phần nhiều là con nhà làm
ruộng. Cuối cùng là trường Ranhêri.
Phần thưởng phát xong, một trăm cậu học
trò ở sân rạp lại đồng thanh hát nghe
rất hùng hồn. Đoạn ông thị trưởng đọc
một bài diễn văn ngắn. Ông đốc học nói
tiếp :
− Các con ơi ! Trước khi ở đây ra về,
các con không được quên không để lời
kính chào và lời cảm ơn những người đã
chịu bao nỗi khó nhọc vì các con, những
người đã hy sinh tất cả tâm trí cho các
con, những người đã sống vì các con và
sẽ chết vì các con, đó là những vị đang
đứng ở bên cạnh các con đấy !
Ông đốc vừa nói vừa chỉ sang chỗ các
thầy giáo và các cô giáo đứng. Cảm động
về lời hiệu triệu ấy, mấy nghìn đứa trẻ
đứng lên một loạt và giơ tay về chỗ các
giáo viên. Các thầy và các cô đều vẫy
mũ, vẫy tay để trả lời và có vẻ bùi ngùi
về sự biểu lộ chân tình của lũ con em.
41. Lòng cháu
( Truyện đọc hàng tháng )
Hôm ấy, nhà thằng Pherucsiô lặng ngắt
hơn ngày thường. Cha nó là chủ một hiểu
tạp hoá nhỏ, ra Phorli cất hàng, mẹ nó
cũng theo đi, nhân tiện để chữa mắt cho
một đứa cháu gái, đến hôm sau sau hai
người mới về được. Người vú già, cơm
chiều xong cũng xin phép về thăm con. Vì
thế ở nhà chỉ còn một bà cụ già liệt
chân với đứa bé 13 tuổi, tên gọi
Pherucsiô.
Nhà này nhỏ, thấp ở chơ vơ cạnh đường
cái ra Phorli ly sở tỉnh Rômânh. Sau nhà
có vườn trồng rau, xung quanh rào giậu.
Cạnh nhà là một toà khách sạn cháy đổ đã
hai tháng nay, bỏ không. Bốn mặt là
những cánh đồng dâu, xa xa thấp thoáng
mấy làng xóm cô tịch.
Đêm ấy, đồng hồ sắp điểm 12giờ, bên
ngoài trời tối như mực, mưa rơi tầm tã,
gió thổi ào ào. Bà lão vẫn còn thức,
ngồi tựa lưng trong cái ghế bành ở buồng
ăn, là một gian bày lủng củng những bàn
ghế cũ và chỉ cách vườn rau có một bức
vách mỏng. Bà cụ có vẻ lo buồn và nóng
ruột, mỗi tiếng động lại làm cho bà phải
lắng tai.
− Cạch ! cạch !
Có tiếng gõ cửa. Lần này đích thực là
thằng Pherucsiô đi chơi về. Người ướt
như chuột, đầu tóc rũ rượi vì mũ bị gió
đánh bay xuống hố ! Trán nó sưng vếu
bằng quả ổi vì nó đi đánh nhau bị ném đá
phải. Không những thế nó còn thua bạc
nữa, trong túi có đồng nào hết sạch !
Ánh sáng ngọn đèn dầu tuy lù mù leo lắt,
bà cụ cũng nhìn thấy vẻ tiều tuỵ của
cháu. Bà hỏi chặn mấy câu, hiểu ngay
"ông cháu" đã đi đánh nhau và bị thua
bạc. Biết không thể giấu được nữa,
Pherucsi ô liền thú mọi tội. Bà cụ vốn
thương cháu nhất nhà nên nức nở khóc.
− Cháu ơi ! Thực là cháu chẳng thương
bà, không thế sao cháu nhân lúc cha mẹ
vắng nhà đi chơi bời lêu lỏng như vậy ?
Để bà ro ró một mình ở nhà, cháu thực
nhẫn tâm ! Này Pherucsi ô ơi ! Ta bảo
cháu đã sa vào con đường đen tối nó sẽ
đưa cháu tới những chốn xấu xa nhơ nhớp
! Ta đã trông thấy nhiều đứa trẻ bắt đầu
lêu lỏng như cháu rồi sau thành ra những
kẻ bất lương. Trước hết trốn nhà đi
chơi, đánh nhau với bạn, ham mê cờ bạc
rồi dần dần từ cái đấm đi đến lưỡi dao,
từ cờ bạc đến việc làm xằng, từ việc làm
xằng đến việc ăn cướp !
Pherucsi ô tựa lưng vào tủ, cúi gằm mặt
đứng nghe.
Bà cụ vừa khóc vừa nói tiếp :
− Từ chỗ cờ bạc đến chỗ ăn trộm, ăn cướp
không xa đâu cháu ạ. Cháu không trông
gương thằng Môzini ở vùng này là một
thằng đầu trộm đuôi cướp, mới 24 tuổi đã
hai lần ngồi tù. Mẹ nó, ta cũng quen. Bà
ta buồn rầu về con rồi mất. Cha nó thất
vọng cũng bỏ sang Thuỵ Sĩ. Ta biết nó từ
khi nó hãy còn nhỏ. Thằng Môzini lúc đầu
cũng lêu lỏng như cháu, rồi mỗi ngày một
hư đốn thêm. Nếu cháu không nghe bà thì
sau này cha mẹ cháu cũng sẽ phải chịu
một số phận như cha mẹ thằng Môzini, chứ
chẳng không !
Pherucsiô đứng im. Thực ra nó cũng là
một đứa trẻ cũng có chút lương tâm, chỉ
phải cái tính bướng bỉnh và khó bảo.
Thấy Pherucsi ô đứng im bà cụ lại nói :
− Cháu ơi, cháu không có một câu gì để
hối hận à ? Cháu thử trông kỹ thân hình
bà xem có còn sống được bao lâu nữa ?
Cháu không nên nhẫn tâm làm cho người
sinh ra mẹ cháu đã quá già yếu,suy
nhược, đang nằm kề miệng lỗ, còn phải
đau lòng, còn phải rơi lệ ! Ngày còn bé
sao cháu yêu bà, quí bà thế ? Đến bây
giờ bà già yếu không đi lại được là lúc
cần có cháu để an ủi thì cháu lại...
Nghe đến đây Pherucsi ô cảm động quá
toan chạy lại với bà, bỗng có tiếng sột
soạt ở ngoài vườn, nó dừng lại lắng tai.
Trời mưa nặng hạt.
Cửa vườn lại có tiếng động, lần này bà
cụ nghe thấy, giật mình hỏi cháu :
Pherucsi ô nói khẽ :
− Thưa bà, mưa !
Bà cụ lau nước mắt nói tiếp :
− Cháu hãy hứa với bà : từ nay về sau,
cháu sẽ không làm cho bà phải đau lòng
nữa !
Bỗng cửa vườn lại có tiếng kẹt ! Bà cụ
xám ngắt kêu :
− Cháu ra xem. Không phải trời mưa...
Song bà lại bảo :
− Nhưng thôi, cháu cứ đứng đây.
Rồi bà cầm tay Pherucsi ô kéo lại cạnh
bà.
Cả hai bà cháu đều nín thở. Chỉ thấy
tiếng mưa ào ào.
Một lát sau, hai bà cháu đều phát run
lên vì có tiếng người đi ở gian bên
cạnh.
Pherucsi ô cất giọng run run hỏi :
− Ai đấy ?
Không tiếng trả lời.
Pherucsi ô mặt tái mét, hỏi dồn :
− Ai đấy ? Ai đấy ?
Vừa hỏi xong, thì hai bà cháu đều rú lên
một tiếng : Có hai người đàn ông nhảy
vào trong buồng !
Một người sấn lại, một tay nắm chặt lấy
Pherucsi ô , một tay bịt miệng nó ; còn
người kia thì chạy lại bóp cổ bà già.
Người thứ nhất nói :
− Muốn sống thì im mồm !
Người thứ hai giơ dao và kêu :
− Suỵt !
Cả hai người đều đeo mặt nạ đen, người
thứ nhất hỏi khẽ Pherucsi ô :
− Tiền bạc bố mày để đâu ?
Pherucsi ô , hai hàm răng lập cập thưa :
− Ở đằng kia....trong tủ.
Người kia bảo :
− Mày theo tao !
Rồi lôi nó lại trước tủ giúi nó xuống
đất,lấy hai chân kẹp lấy cổ , còn một
tay cầm đèn lồng, một tay cạy tủ.
Vơ vét xong, chúng dọa hai bà cháu nếu
kêu cứu, chúng sẽ lộn lại "sửa" cả hai.
Chợt có tiếng người đi và hát ở ngoài
đường cái. Tên trộm thứ hai vung mặt ra
ngoài mạnh quá làm rơi mặt nạ.
Bà lão kêu to :
− Môzini !
Tên trộm thét lớn :
− Đồ khốn nạn ! Không thể để mày được !
Nói xong, giơ dao thẳng cánh đâm bà lão
!
Đồng thời, Pherucsi ô chạy ôm choàng lấy
bà để chắn mũi dao.
Hai tên trộm đạp tắt đèn tẩu thoát,
Pherucsi ô bỏ bà ra và thụt xuống đất,
hai chân quỳ, đầu gục vào lòng bà.
Bà lão hoàn hồn gọi cháu :
− Pherucsiô ơi !
Cháu đáp :
− Bà ơi !
− Chúng đi cả rồi chứ !
− Vâng .
− Chúng không giết bà.
− Vâng.
− Chúng không giết bà.
− Không...bà thoát nạn. Chúng chỉ lấy
tiền thôi. Nhưng cha cháu đã mang gần
hết số tiền đi cất hàng, chả còn gì !
Bà cụ thở một hơi dài như trút một gánh
nặng.
Pherucsi ô vẫn quỳ và ôm lấy bà, thở hổn
hển nói :
− Bà ơi ! Bà yêu quý của cháu ơi ! Bà
vẫn yêu cháu chứ ? ...Thế mà, cháu cứ
làm phiền lòng bà...
− Không, cháu đừng nói thế, bà không
nghĩ đến chuyện ấy nữa, bà quên cả rồi,
bà yêu cháu bà vô cùng !
Bằng giọng run run, cậu bé gắng sức nói
tiếp :
− Cháu cứ làm phiền lòng bà, nhưng...bao
giờ cháu cũng yêu bà trên tất cả mọi
người. Bà có tha thứ cho cháu không? Tha
cho cháu, bà ạ !
− Ừ, bà tha lỗi cho cháu. Bà hết lòng
tha lỗi cho cháu. Cháu chưa tin à ? Cháu
yêu dấu của bà ơi ! Cháu hãy đứng dậy.
Bà không mắng cháu nữa đâu ! Cháu giỏi
lắm ! Đi thắp đèn đi... Cố lên ! Đứng
dậy, Pherucsiô ơi !
Cậu bé đáp, giọng yếu dần :
− Cám ơn bà. Bây giờ cháu yên lòng lắm.
Bà ơi ! Bà có nhớ cháu bà không ? Bà
không bao giờ quên cháu Pherucsiô của bà
chứ ?
Thấy cháu nói vậy, bà cụ thất kinh vỗ
vai cháu gọi :
− Pherucsiô ơi !
Và cúi xuống nhìn mặt cháu.
Cậu bé nói thì thào trong hơi thở :
− Bà nhớ cháu nhá ! Cháu nhờ bà hôn mẹ
cháu...cha cháu...em Luygina...Lạy
bà...bà ơi !
Bà cụ kinh ngạc lay đầu cháu và kêu :
− Pherucsi ô ơi ! Cháu làm sao thế ?
Trời ơi ! Không biết làm sao cháu tôi
lại thế này ? Tội nghiệp cháu tôi ! Ai
cứu cháu tôi với... Tỉnh dậy, cháu ơi !
Nhưng Pherucsi ô không trả lời. Cậu bé
anh hùng ấy, bị lưỡi dao đâm suốt lưng,
máu ra lênh láng vừa thở hơi cuối cùng,
trong lòng rất sung sướng vì đã cứu bà
thoát chết !
42.- Chú phó nề trong phút hiểm nghèo
Thứ bảy , ngày 18
Bệnh tình "chú phó nề" mấy hôm nay có
phần trầm trọng. Thầy giáo bảo chúng tôi
lại thăm. Garônê, Đêrôtxi và tôi, ba
người rủ nhau đi. Chúng tôi có hỏi thử
cậu quý phái Nôbix, quả nhiên cậu chối
từ một cách lãnh đạm. Cả đến anh Vôtini
cũng thoái thác nữa, có lẽ anh sợ đến
đấy, vôi sẽ giây bẩn bộ quần áo mới của
anh chăng ?
Tan học chiều, chúng tôi ại thăm anh
Antôniô tức "chú phó nề" mà chúng tôi
thường gọi đùa. Trời mưa như trút !
Garônê đứng dừng ở giữa phố, lắc mấy
đồng xu trong túi bảo chúng tôi :
− Các anh định mua gì cho Antôniô ?
Đêrôtxi và tôi liền bỏ thêm tiền mua
được 3 quả cam lớn. Chúng tôi leo cầu
thang đến "rầm thượng". Đến cửa nhà anh
Antôniô, Đêrôtxi liền tháo bội tinh bỏ
túi. Tôi hỏi anh:
− Sao lại tháo ra?
Anh đáp :
− Cất mề đay, vào người không, có lẽ
tiện hơn.
Chúng tôi gõ cửa, cha anh Antôniô ra mở,
người cao lớn, nét mặt đầy vẻ lo lắng
buồn rầu.
Ông hỏi:
− Các cậu là ai?
Garônê đáp :
− Chúng tôi là bạn cùng lớp với anh
Antôniô, chúng tôi lại thăm và biếu anh
mấy quả cam.
Ông phó nề lắc đầu đáp :
− Tội nghiệp cho em! Không chắc em còn
ăn được quà của các cậu cho nữa không !
Nói xong, ông lấy tay áo gạt nước mắt
rồi dẫn chúng tôi vào chỗ anh Antôniô
nằm. Mẹ anh đang quỳ và gục đầu bên cạnh
giường không biết chúng tôi vào.
Trên tường treo mấy cái bàn chải , một
cái cuốc và một cái sàng để sàng vôi.. Ở
góc nhà có cái thùng sắt và mấy cái bay.
Anh Antôniô sao mà còm và xanh thế ? Anh
nằm đờ và thở khò khè. hai chân anh ủ
dưới cái áo ngoài của cha anh hãy còn
loang lỗ những vết vôi.
Ngày thường bạn tôi xinh thế, vui thế,
bây giờ nom khác hẳn đi, biết đến bao
giờ anh mới lại có trò "nhăn mõm thỏ"
với chúng tôi ?
Garônê đặt một quả cam bên gối, cạnh mặt
Antôniô . Ngửi thấy hơi, anh quay lại
cầm quả cam rồi lại bỏ rơi xuống và nhìn
Garônê không chớp mắt.
Garônê lên tiếng :
− Tôi là Garônê đây ! Anh có nhận ra
không ?
Một nụ cười nhợt nhạt thoáng qua trên
miệng, bệnh nhân cố đưa tay ra, Garônê
đỡ lấy và đưa lên miệng hôn rồi nói :
− Anh Antôniô ơi ! Cố lên ! Anh ạ. Mai
kia anh khỏi, anh lại đi học với chúng
tôi. Thầy giáo sẽ cho anh ngồi cạnh tôi.
Anh có bằng lòng không ?
Cậu "phó nề" không nói gì.
Mẹ cậu bỗng dưng nức nở khóc :
− Antôniô ơi !Nếu con có mệnh hệ nào thì
mẹ cũng không sống được !
Ông chồng gạt đi nói :
− Thôi, im đi ! Khóc mãi tôi đến phải
điên mất.
Rồi ông quay lại bảo chúng tôi :
− Cảm ơn các cậu. Xin các cậu hãy trở về
nhà, ở đây buồn lắm !
Antôniô lại nhắm nghiền đôi mắt lại như
người sắp chết .
Garônê nói :
− Thưa ông, có việc gì tôi xin làm giúp
.
Ông đáp :
− Cảm ơn các cậu có lòng quí hoá...
Chúng tôi không có việc gì cả.
Nói xong, ông đưa chúng tôi ra cửa.
Nhưng xuống đến lưng chừng cầu thang
chúng tôi nghe có tiếng gọi !
− Anh Garônê, anh Garônê ơi !
Chúng tôi vội lộn lên.
Ông phó hơi mừng, chạy ra bảo :
− Cậu Garônê ! Cháu vừa gọi cậu. Đã ba
hôm nay cháu không nói năng gì, thế mà
vừa rồi cháu gọi được cậu hai lần : Thực
là một triệu chứng hay !
Anh Garônê liền bảo chúng tôi :
− Các anh về trước. Tôi ở lại .
Nói xong, anh theo ông phó vào nhà.
Ra về, thấy mắt anh Đêrôtxi rỏ lệ, tôi
hỏi :
− Anh thương Antôniô lắm, phải không ?
...Anh ấy đã nói được , tất sẽ khỏi.
Đêrôtxi đáp :
− Tôi cũng tin thế, nên không nghĩ đến
Antôniô...Tôi đang nghĩ đến anh Garônê,
anh ăn ở với bầu với bạn như thế thực đã
chí tình, ai trông thấy cũng phải đem
lòng quí mến.
THÁNG TƯ
43.- Viện dục anh
Thứ ba, ngày mồng 4
Sáng qua cơm nước xong, tôi theo mẹ tôi
lại viện dục anh (1) để nhờ bà Giám đốc
trông nom giúp em gái anh Prêcôtxi. Tôi
chưa được vào viện dục anh lần nào hôm
nay đến đây, tôi lấy làm thích lắm.
Viện này có tới 200 trẻ em vừa con trai
con gái. Chúng tôi đến gặp giờ ăn của
các em bé. Hai cái bàn dài bày giữa
phòng, hai bên mép bàn đều đục những lỗ
tròn, mỗi lỗ đựng một chiếc bát gỗ màu
nâu đầy cơm và đậu, cạnh đặt cái thìa
thiếc con.
Lúc chúng tôi bước vào, thấy hai ba em
bé ngã và cứ nằm xoài ra đất cho đến lúc
cô giáo đến đỡ dậy. Nhiều em vừa vào bàn
ngoài thấy cơm tưởng phần của mình cầm
luôn thìa xúc ăn, nhưng cô giáo vội kêu
: "vào nữa đi!" chúng liền bỏ thìa, kéo
nhau vào bàn trong.
Chúng bắt đầu ăn. Cảnh tượng vui mắt làm
sao! Em này ăn bằng hai thìa em kia ăn
bốc ; nhiều em nhặt từng hột đậu bỏ túi,
trái lại cũng có em gói đậu vào đầu khăn
ăn, lấy tay nghiền nát vứt đi. Chỗ này
mất em mải nhìn ruồi bay quên cả ăn, chỗ
kia, mấy em vừa ăn vừa ho : cơm bắn ra
bàn như mưa.
Người ta sẽ bảo đó là một cái chuông gà!
nhưng dù sao, hai dãy dài gồm những trẻ
em dung mạo hồng hào với những mớ tóc đỏ
buộc dài màu sặc sỡ đã bày ra một bức
hoạ linh động và vui mắt vô cùng!
Một cô giáo hỏi :
− Đô các em biét : cây lúa mọc ở đâu ?
Chúng đồng thanh đáp như giọng đọc sách:
− Lúa - mọc - trong - ruộng
Tôi đoán câu này có lẽ ở trong một bài
tấp đọc.
Cô giáo lại bảo :
− Giơ tay lên !
Tức thì một loạt cánh tay xinh nhỏ với
những cánh tay hồng, trắng như những con
bươm bướm giơ lên.
Ăn xong đến giờ chơi. Các em đều chạy
lại lấy giành đồ ăn treo ở tường và xách
ra vườn. Chúng tản mác mỗi em một nơi để
lấy thức ăn trong giành như bánh tây,
kẹo, phó mát, trứng luộc, đỗ luộc, đùi
gà ra ăn tiệc nữa.
Trong nháy mắt, mặt vườn đã rắc đầy
những mảnh bánh chẳng khác chi người ta
vãi mồi để nhử chim. Chúng ăn bằng nhiều
kiểu lạ lùng gặm , nhấm, la liếm, mút
mát như những giống thỏ, chuột và mèo.
Ba bốn em lấy que chòi chiếc trúng luộc
như để tìm của bên trong, chúng làm rơi
đến nửa chiếc xuống đất xong lại cúi
xuống kiếm từng miếng một như tìm hạt
ngọc, chẳng để sót tí nào.
Em nào có món gì ngon hoặc là thì hàng
chục em khác đến quây quần chung quanh,
ra vẻ thèm thuồng. Một cậu bé có chiếc
bánh ngọt, bạn đến xin, cậu chỉ giơ tay
dính đường cho mút. Mẹ tôi ra giữa vườn,
xoa đầu em này rồi lại vuốt ve em kia.
Các em khác đua nhau chạy lại vây lấy mẹ
tôi, em nào cũng ngẩng mặt lên chực mẹ
tôi hôn. Một cậu cho mẹ túi múi cam cắn
giở, cậu thứ nhì cho cái vỏ bánh, cô thứ
ba biếu mẹ tôi một chiếc lá cây.
Trong sân, lúc ấy hết chỗ này đến chỗ
kia có chuyện, cô giào phải chạy đi chạy
lại để xử kiện. Một cô bé chu lên khóc
vì không tháo được nút khăn mùi xoa. Mấy
cô nữa tranh nhau hai hột táo, cào cấu
nhau rồi kêu khóc rầm rĩ. Một cô bé trèo
lên ghế ngã, bị ghế đè không sao đẩy ra
được, khóc hét lên !
Lúc sắp về, mẹ tôi ôm ba , bốn em bé vào
lòng, tức thì các em ở bốn phía, miệng
còn dính kẹo hoặc nhớt nhát nước cam,
kéo lại muốn được mẹ tôi bế như các em
kia ; rồi em này nắm lấy mẹ tôi để xem
nhẫn, em kia kéo dây để xem đồng hồ, em
khác nhảy lên với bím tóc mẹ tôi.
Các cô giáo bảo mẹ tôi :
− Bà phải để ý, kéo chúng làm hỏng áo
bà.
Nhưng mẹ tôi không lấy điều ấy làm quan
trọng, cứ đùa với chúng và vuốt ve chúng
nhue thường.
Lúc chúng tôi chào bà Giám đốc và các cô
giáo để ra về, cả bọn dều chạy lại,
tranh nhau đến trước, túm lấy mẹ tôi và
đồng thanh kêu :
− Lạy bà ạ ! (Cám ơn bà)
Sau cùng chúng tôi được ra thoát. Các em
nhỏ còn xát mũi vào hàng rào sắt để nhìn
theo. Chúng thò tay ra ngoài vẫy chào:
− Cám ơn bà ạ! Mai bà lại đên chơi nhé !
Qua bức giậu do những bàn tay đâm ra tua
tủa như những đoá hoa hồng, mẹ tôi bắt
tay suốt lượt . Ra ngoài phố, mẹ tôi rơm
rớm nước mắt, có ý nhớ bầy trẻ vừa thăm,
nhưng trong lòng thấy sung sướng như đi
xem một đám hội về và bên tai vẫn còn
vẳng nghe thấy tiếng riu ríu :
− Mai bà lại đến chơi nhá ! Cám ơn bà !
o0o
|