Những trang
sách - những bài học này - không chỉ hữu ích cho những công dân
tốt tương lai mà c̣n hết sức quí báu đối với đông đảo bạn đọc
các giới , các ngành. "TÂM HỒN CAO THƯỢNG" là cuốn sách của các
bạn trẻ, của mọi gia đ́nh. Là món quà tặng ư nghĩa và hữu ích
của các bậc cha mẹ và các bạn trẻ.
o0o
THÁNG MƯỜI
1.- Ngày khai trường
Tại thành Torino (1), thứ hai, ngày 17
Hôm nay là ngày khai trường. Mấy tháng
hè đă thoáng qua như giấc mộng. Sáng
nay, mẹ tôi đưa tôi vào trường Baretti
để ghi tên lên lớp ba. Đi đường, óc tôi
cứ vơ vẩn đến chốn thôn quê, lấy sự đi
học làm ngại. Phố nào cũng thấy nhan
nhản học tṛ. Hai hiệu sách lớn chật
ních những phụ huynh vào mua sách vở,
giấy, bút cặp da. Cửa trường đông nghịt
những người, cảnh binh và người gác cổng
phải khó nhọc mới mở được một lối vào.
Vừa bước qua cổng trường thấy một bàn
tay vỗ vào vai, tôi giật ḿnh ngoảnh lại
th́ ra thầy giáo lớp hai tôi học năm
ngoái, mái tóc đỏ hoe vẫn để rối, nét
mặt vẫn tươi, thầy bảo tôi :
− Enricô ơi! Thầy tṛ ta từ nay chia tay
nhau nhỉ?
Điều ấy, tôi đă nghĩ đến, nay thầy tôi
lại nhắc, khiến tôi thêm chạnh ḷng. Mẹ
tôi và tôi phải chen chúc măi mới vào
được trong trường. Các ông, các bà sang
trọng, các bà thường dân, thợ thuyền, sĩ
quan, các cụ già, những đầy tớ, ai nấy
đều một tay dắt trẻ, một tay cắp gói,
đứng chặt pḥng trú chân và ở trên thang
gác. Cảnh tượng rất là náo nhiệt.
Hôm nay, lại được trông thấy 7 pḥng học
ở từng dưới là nơi ṛng ră ba năm
trường, ngày nào tôi cũng lui tới, ḷng
tôi sung sướng vô cùng!
Trên thềm, các cô giáo đi lại tới tấp.
Cô giáo lớp một đứng ở cửa lớp, thầy tôi
liền bảo :
− Enricô ơi! Năm nay em học trên gác. Ít
ra ta lại được nh́n em qua lại !
Mẹ tôi đỡ lời:
− Thưa cô, cháu sẽ đến thăm cô luôn.
Chúng tôi chào cô rồi đi.
Ông Hiệu trưởng, râu tóc bạc hơn năm
ngoái, có vẻ bận rộn vội vàng, đang bị
vây trong đám các bà, một số người thất
vọng v́ không c̣n chỗ cho con. Bạn tôi
đi học đông đủ. Nhiều người coi lớn vọt
lên. Ở từng dưới, việc chia lớp đă xong.
Mấy tṛ em mới đến trường là lần thứ
nhất, không chịu vào lớp, giật lùi như
những con ngựa bất kham ; người ta phải
dùng sức lôi vào. Có em đă ngồi vào ghế
rồi lại trốn ra, có em thấy cha mẹ th́
tru lên khóc.
Em trai tôi vào lớp cô Đencatri, c̣n tôi
th́ học thầy Perbôni ở trên gác.
Đúng 10 giờ th́ học tṛ lớp tôi đều vào
cả ; 54 người trong bọn, tôi nhận măi
mới thấy 15 hay 16 bạn lớp cũ. Trông
thấy tôi, anh Đêrôtxi, người học tṛ bao
giờ cũng chiếm phần thưởng thứ nhất,
liền ra hiệu mừng rỡ.
So với rừng rậm và non xanh là những nơi
tôi đă qua chơi mấy tuần lễ trước th́
trường học coi bé nhỏ và buồn tênh !
Hết nhớ cảnh lại nhớ người. Tôi nhớ thầy
cũ tôi ở lớp hai, một ông thầy khoan từ
và vui vẻ, bao giờ trông thấy tôi cũng
mỉm cười. Tôi rất tiếc không được thấy
thầy ở đây với bộ tóc hoe đỏ rối bù.
Thầy giáo chúng tôi bây giờ, người to
lớn, không có râu, tiếng nói sang sảng.
Đứng trên bục cao, thầy nh́n xuống cḥng
chọc hết người này đến người khác h́nh
như muốn coi thấu tâm t́nh chúng tôi.
Thầy nghiêm quá, ít khi thấy nở một nụ
cười.
Tôi nghĩ bụng : "Hôm nay mới là ngày
đầu, c̣n mười tháng nữa mới đến nghỉ hè.
Trong mười tháng ấy sẽ có biết bao nhiêu
là việc làm, bao nhiêu là bài làm và bao
nhiêu là sự khó nhọc đang chờ ta !" ,
nên lúc ra về tôi có vẻ chán nản. Mẹ tôi
khuyên rằng :
− Enricô ơi ! Hăy can đảm lên, con ạ !
Mẹ sẽ cùng học bài với con ...
Tôi yên tâm theo mẹ tôi về nhà, nhưng
ḷng vẫn nhớ tiếc một ông thầy vui tính
và hiền từ, vẫn thấy trường học kém vui,
không bằng năm ngoái.
2.- Thầy giáo mới
Thứ ba, ngày 18
Tưởng thế, chứ thầy giáo mới chúng tôi
dă khéo làm xứng ư mọi người ngay sáng
hôm nay.
Giờ vào học, sau khi thầy đă ngồi vào
bàn, chốc chốc lại thấy một người học
tṛ cũ qua cửa cúi chào. Cũng có người
vào bắt tay thầy và thăm hỏi một cách
rất cung kính. Đủ biết học tṛ cũ cũng
quyến luyến thầy biết dường nào và như
muốn c̣n được ở gần thầy. Nhưng chào th́
chào, bắt tay th́ bắt, thầy không nh́n
thẳng mắt ai, cứ lảng trông ra cửa sổ.
Những dấu thân ái và biết ơn ấy tưởng đă
làm cho thầy thoả ư nhưng trái lại đă
khiến thầy mủi ḷng.
Đến bài chính tả, thầy xuống bục, đi lại
trong các hàng ghế đọc cho chúng tôi
viết. Thấy một học tṛ mắt lấm tấm mụn
đỏ, thầy ngừng đọc, lại gần tay sờ trán
và hỏi : "Con làm sao?" Thừa lúc thầy
quay lưng lại, một anh học tṛ bàn dưới
leo lên ghế dun dẩy như người trượt
băng. Bất đồ, thầy ngoảnh lại bắt gặp,
anh chàng vội ngồi ngay xuống cúi đầu
đợi phạt. Nhưng ông Perbôni sẽ đập vào
vai anh học tṛ dại dột kia, bảo rằng :
"Không được làm thế nữa". Có thế thôi.
Rồi thầy b́nh tĩnh về chỗ đọc nốt bài
chính tả.
Khi viết xong, thầy yên lặng nh́n chúng
tôi một lúc rồi ôn tồn nói :
− Các con ơi ! Hăy nghe ta ! Chúng ta
cùng nhau phải qua một năm học. Chúng ta
nên hết sức làm việc để qua năm ấy cho
được tốt đẹp. Phải chăm chỉ. Phải ngoan
ngoăn. Ta không có gia đ́nh. Các con là
gia đ́nh của ta. Năm ngoái, mẹ ta c̣n,
bây giờ người đă khuất. Ta chỉ c̣n có
một ḿnh ta. Ngoài các con ra ở trên đời
này, ta không c̣n có ai nữa ; ngoài sự
thương yêu các con, ta không c̣n thương
yêu ai hơn nữa. Các con ví như con ta.
Ta sẽ yêu dấu các con. Đáp lại, các con
phải yêu dấu ta. Ta không muốn phạt một
người nào cả. Các con phải tỏ ra là
những trẻ có tâm hồn. Trường ta sẽ là
một gia đ́nh, các con sẽ là mối an ủi và
mối tự hào của ta. Ta không cần phải hỏi
lại các con v́ ta tin rằng trong ḷng
các con, ai ai như cũng "vâng lời", nên
ta có lời cảm ơn các con.
Thầy nói dứt lời th́ người coi trường
vào báo hết giờ học (1). Chúng tôi yên
lặng xuống sân. Anh học tṛ vô lễ ban
năy rón rén lại gần thầy giáo, nói run
run :
− Thưa thầy, xin thầy tha lỗi cho con.
Thầy gật đầu, hôn trán anh và bảo :
− Tốt lắm ! Cho con về.
3.- Một tai nạn
Thứ sáu, ngày 21
Niên học này đă mở đầu bằng một tai hoạ.
Sáng nay, cha tôi đưa tôi đi học. Tôi
mải nhắc lại những lời tâm huyết của ông
Perbôni đă nói với học tṛ hôm trước cho
cha tôi nghe, nên tới trường lúc nào
không biết. Tôi giật ḿnh thấy một đám
túm đông túm đỏ ở trước cửa.
Cha tôi bảo : "Chắc lại có sự chẳng lành
ǵ đây." Chúng tôi khó nhọc mới len vào
được. Pḥng khách đầy những phụ huynh và
những học tṛ mà lúc ấy các thầy giáo
không tài nào xua vào lớp được. Mọi con
mắt đều nh́n vào cửa buồng ông hiệu
trưởng. Một ông đội mũ cao vừa đến,
người ta th́ thào : "Bác sĩ đấy".
Cha tôi hỏi một giáo sư th́ ông trả lời
:
− Bánh xe đè phải chân nó.
Ông khác nói tiếp :
− Và nghiền nát bàn chân.
Nạn nhân là một tṛ em lớp hai, đi học
qua phố Đôra Grôtxa, thấy một em bé tuột
tay mẹ dắt, ngă lăn trước một cái ôtô
hàng đang vùn vụt chạy tới. Lập tức, cậu
chạy ra lôi đứa bé kia dậy và ôm được nó
lên rồi, nhưng không may, bánh xe lướt
phải chân cậu. Cậu là con một viên Quan
Ba pháo binh.
Trong khi chúng tôi đang nghe người ta
kể lại như thế, th́ ở ngoài có một người
đàn bà xô đẩy mọi người và hốt hoảng
chạy vào như một người điên. Đó là mẹ
cậu Rôbetti, người học tṛ bị nạn. Một
người đàn bà khác là mẹ cậu bé được cứu
chạy ra ôm lấy bà, thổn thức khóc và đưa
bà vào pḥng ông hiệu trưởng. Ở ngoài,
người ta nghe tiếng kêu đau đớn của bà
Rôbetti.
− Ôi Guiliô con ơi !...
Lát sau, một chiếc xe ngựa đỗ trước
giậu, ông hiệu trưởng bế cậu Rôbetti ra.
Cậu bé, sắc da nhợt nhạt, hai mắt nhắm
nghiền, gục đầu vào vai ông hiệu trưởng.
Phút ấy, trong pḥng im lặng như tờ,
người ta chỉ nghe thấy tiếng nức nở của
bà mẹ thôi. Ông hiệu trưởng dừng bước
giữa pḥng, nâng cao cậu bé lên như để
mọi người trông rơ. Tức th́ các thầy
giáo, các cô giáo, các phụ huynh và học
tṛ, ai nấy đều phàn nàn thương cho cậu
và khen cậu là người can đảm ít có. Mấy
cô giáo đứng gần đấy liền hôn hai bàn
tay xanh rớt của cậu. Cậu Rôbetti bỗng
bừng mắt và hỏi sẽ :
− Cặp sách tôi đâu ?
Mẹ em bé sống sót giơ cặp, vừa nói vừa
khóc :
− Em ơi! Cặp đây rồi, ta sẽ đem lại nhà
cho em.
Thấy con nói được, bà Rôbetti mới lại
hồn. Mọi người đều giải tán. Cậu bé bị
thương được đưa lên xe rất cẩn thận. Xe
bắt đầu chuyển bánh, chúng tôi vào lớp
ai nấy đều cảm động và lặng thinh.
4.- Cậu bé miền Nam
Thứ bảy, ngày 22
Chiều qua, trong khi thầy giáo đang cho
chúng tôi biết tin tức anh Rôbetti và
nói anh sẽ phải chống nạng trong ít lâu
th́ ông hiệu trưởng đưa một người học
tṛ mới vào lớp. Cậu bé, da nâu, tóc
đen, mắt to, mày giao, mặc quần áo màu
sẫm, ngoài nịt dây. Sau khi nói nhỏ với
thầy Perbôni mấy câu, ông hiệu trưởng để
cậu bé ở lại rồi ra. Anh học tṛ mới trố
mắt nh́n chúng tôi, có vẻ sợ sệt. Thầy
giáo liền dắt anh lại trước mặt chúng
tôi và bảo rằng :
− Các con ơi ! Các con hẳn được vui ḷng
v́ hôm nay mới vào trường ta một người
học tṛ quê ở xứ Calabria cách đây xa
lắm, ở măi tận miền cực nam nước ta. Các
con hăy niềm nở tiếp người bạn mới này.
Anh là dân một địa phương có tiếng, địa
phương ấy đă sinh ra những bậc danh
nhân, những tay thợ khéo và những quân
nhân dũng cảm. Xứ của anh lại là một xứ
đẹp vào bậc nhất nước, có bao nhiêu là
núi lớn rừng xanh, dân cư rất thông minh
và can đảm. Các con ơi ! Các con hăy yêu
quư bạn con cho bạn con khuây nổi nhớ
quê. Các con hăy tỏ cho bạn con biết
rằng một đứa trẻ nước Ư đi đến trường
nào trong nước là cũng gặp được bè bạn,
gặp được anh em ở trường ấy.
Nói xong, ông Perbôni lại chỗ treo bản
đồ Italia, trỏ vị trí xứ Calabria cho
chúng tôi coi. Xong thầy dơng dạc gọi.
− Đêrôtxi !
Đêrôtxi anh học tṛ bao giờ cũng chiếm
phần thưởng thứ nhất này đứng dậy.
− Con lên đây.
Đêrôtxi ra ghế, lên bàn giấy, đứng cách
anh học tṛ mới, độ hai bước.
− Con là người đầu lớp, lấy tư cách ấy,
thay mặt anh em, con hăy đem dấu thân ái
của một người dân xứ Bắc tỏ cùng một
người dân xứ Nam.
Đêrôtxi lại gần anh học tṛ miền Nam nói
rất êm ái và rơ ràng :
− Chúng tôi mừng anh !...
Rồi Đêrôtxi hôn hai má người bạn mới một
cách rất nồng nàn. Chúng tôi vỗ tay rầm
rập.
Thầy quát : "Im ! Không được reo cười
trong lớp!!!" Tuy nhiên, thầy tỏ ư rất
bằng ḷng về mối nhiệt t́nh của chúng
tôi. Cậu bé miền Nam cũng ra dáng vui
sướng. Ông Perbôni đưa cậu bé đến chỗ
ngồi và nói thêm :
− Cho được cái kết quả nói trên, nghĩa
là làm cho một đứa trẻ xứ Nam ở xứ Bắc
cũng như ở nhà ḿnh và đứa trẻ xứ Bắc
vào xứ Nam cũng tựa như về quê ḿnh,
nước ta đă phải chiến đấu trong 50 năm
trời và đă được quyền tự do ấy. Vậy các
con phải coi nhau như con một nhà, yêu
nhau như anh em ruột thịt. Kẻ nào thấy
người bạn mới không phải người xứ ḿnh
mà đem ḷng khinh rẻ, kẻ ấy sẽ không
đáng ngẩng mặt nh́n ngọn cờ ba sắc (1)
đi qua.
Cậu học tṛ miền Nam vừa ngồi vào chỗ
th́ các bạn chung quanh tíu tít, kẻ đưa
ng̣i bút, người cho bút ch́ và tranh
ảnh, một bạn ngồi ghế sau gửi lên cho
cậu một cái tem Thuỵ Sĩ để tỏ t́nh thân
ái.
5.- Bạn tôi
Thứ năm, ngày 28
Người đă cho cậu bé miền Nam cái tem thơ
hôm trước là người bạn mà tôi thích hơn
hết. Anh lớn nhất lớp, đầu to vai rộng,
năm nay gần 14 tuổi, tên gọi Garônê. Anh
rất tử tế, coi miệng cười th́ biết.
Ngoài anh Garônê tôi c̣n quen nhiều bạn
nữa.
Anh Côretti là một bạn mau mắn và vui
vẻ, tôi rất ưa mến. Anh thường mặc cái
áo nịt bằng da rái cá và đội cái mũ nồi
bằng da mèo. Anh là con một người hàng
củi. Cha anh đă từng đầu quân trong cuộc
chiến tranh năm 1866 và nhập vào đội
quân của Hoàng thân Umbertô. Người ta
nói cha anh đă được ba tấm huy chương.
Cạnh anh Côretti là anh Nenli, lưng gù,
người coi yếu đuối mảnh dẻ và anh Vôtini
một người học tṛ phục sức rất sang và
có tính hay làm dáng.
Đầu bàn nh́, có một cậu bé mặt tṛn, mũi
dẹp mà anh em thường gọi đùa là "chú phó
nề" v́ cha cậu làm nghề ấy. Cậu có cái
biệt tài là "nhăn mơm thỏ" làm cho ai
nấy phải bật cười, v́ thế anh em hay bắt
cậu làm tṛ để đùa nghịch với nhau. Cậu
lại có cái mũ rất mềm thường vo viên bỏ
túi như chiếc mùi xoa.
Cạnh "chú phó nề" là anh Garôphi, người
gầy g̣ mũi khoằm, mắt bé. Lúc nào anh
cũng bán chác nào bút, diêm, nào tranh,
ảnh cho bạn. Anh lại hay chép bài học
vào móng tay để đọc, anh khôn khéo đến
nỗi không bao giờ thầy bắt gặp.
Gần đấy lại c̣n một cậu bé coi bộ khinh
khỉnh là cậu Carlô Nobitxi. Cậu ngồi
giữa hai người bạn đối với tôi rất tử tế
: một người là con người thợ khoá, ăn
mặc vụng về, xanh xao như người ốm, coi
bộ nhút nhát và buồn thiu ; người kia,
tóc vàng da xanh, một cánh tay bị liệt
phải đeo trước ngực. Cha cậu sang Mỹ, mẹ
cậu ở nhà bán hoa quả rong.
Người ngồi bên trái tôi lại đáng chú ư
hơn nữa, tức là anh Xtarđi, thân lùn cổ
rụt, ít nói và hay cáu. Anh không thông
minh mấy nhưng rất chú ư đến lời thầy
giảng, anh nghe không dám cựa, mắt
thẳng, trán cau, miệng mím. Ai hỏi anh
trong lúc thầy đang cắt nghĩa, nhất định
anh không trả lời, vô phúc hỏi đến lần
thứ hai là bị anh đạp luôn cho mấy cái
...Và anh vẫn không hé răng.
Cạnh anh là Phranti, một tên rắn mặt và
gớm guốc, h́nh như đă bị đuổi ở trường
làng.
Lại c̣n hai em nhà nọ, ăn mặc như nhau
và cùng đội mũ gài lông trĩ, trông giống
nhau như đúc.
Người tử tế hơn hết, thông minh hơn hết,
người chắc chắn sẽ được phần thưởng thứ
nhất, ai cũng biết được là anh Đêrôtxi.
Anh Prêcôtxi con người thợ khoá nói
trên, thực là một người học tṛ đáng
thương hại. Theo lời người ta nói th́
anh thường bị cha đánh đập luôn, đến nỗi
anh thành ra người dút dát, mỗi khi hỏi
ai hay lỡ chạm phải ai là anh "xin lỗi"
luôn miệng và nh́n người ta bằng đôi mắt
hiền lành và buồn bă.
Trong ngần ấy người bạn, theo ư tôi, th́
anh Garônê là người tốt hơn cả.
6.- Ḷng hào hiệp
Thứ tư, ngày 26
Sáng nay, chúng tôi vừa vặn có dịp xét
đoán anh Garônê.
Giờ vào lớp, ông Perbôni chưa có đấy, ba
bốn cậu đang thi nhau chế giễu anh
Crôtxi khốn nạn - tức là cậu bé tóc
vàng, tay liệt, con bà bán hoa quả. - Họ
lấy thước đánh cậu, lấy vỏ hạt dẻ ném
cậu, họ gọi cậu là con quỉ què và mếu
máo giả cách làm người liệt tay. Ngồi
trơ một ḿnh ở đầu ghế, cậu thẹn thùng
và đưa mắt nh́n người nọ, người kia như
để van lơn họ khỏi hành hạ ḿnh. Được
thể, bọn học tṛ càng làm già. Cậu phẫn
uất quá, máu đưa lên cổ và phát run
người. Th́nh ĺnh, Phranti, một đứa học
tṛ mặt xấu như khỉ, đứng lên ghế,
khuỳnh hai cánh tay như người khoác hai
cái giỏ, bắt chước bộ tịch mẹ cậu Crôtxi
những khi đứng đợi con ở cửa trường. (Đă
mấy hôm nay, bà không đến đón con v́ bị
ốm). Coi tấn tuồng câm ấy học tṛ cười
ầm cả lên. Crôtxi điên tiết, vồ ngay lọ
mực trước mặt ném Phranti, Phranti né
ḿnh, lọ mực trúng giữa ngực ông Perbôni
ở ngoài bước vào.
Mọi người hết vía, chạy trốn về chỗ và
ngồi im thin thít.
Thầy giáo lên bục cau mày hỏi :
− Ai ném lọ mực ?
Chẳng ai hé răng.
Thầy gắt :
− Ai ? Ai ném ?
Lúc ấy bị kích thích v́ ḷng thương bạn,
anh Garônê đứng dậy nói quả quyết :
− Thưa thầy, con.
Thấy mọi người sửng sốt về câu trả lời
ấy, thầy hiểu ngay và ôn tồn nói :
− Không. Không phải con.
Xong thầy lại nói :
− Ai trót dại đứng lên thú nhận, ta sẽ
tha.
Crôtxi đứng lên nói :
− Thưa thầy, các anh ấy chọc con, đánh
và chửi con... Con mất trí... Con trót
ném...
− Thầy nói tiếp :
− Cho ngồi xuống. Bây giờ đến lượt những
kẻ sinh sự đứng lên.
Bốn anh trong bọn khiêu khích đứng dậy,
cúi đầu.
− Thầy mắng :
− Các anh đă vô cớ lăng mạ một người bạn
không trêu chọc các anh. Các anh đă chế
giễu một người tàn tật. Các anh đă xúc
phạm một đứa trẻ yếu đuối không tự vệ
được. Các anh đă làm một điều hèn hạ
đáng xấu hổ, một điều có thể làm nhơ
nhuốc đến phẩm giá của con người, các
anh là những đồ đê tiện !
Nói xong thầy xuống giữa lớp, lại chỗ
anh Garônê ngồi. Thấy thầy đến, anh cúi
đầu. Ông Perbôni để tay xuống dưới cằm
nâng mặt anh lên, nh́n thẳng vào hai mắt
anh và nói :
− Con có một trái tim cao thượng đáng
khen !
Anh Garônê nhân dịp ấy cúi vào tai thầy
nói nhỏ mấy câu. Lập tức thầy quay lại
chỗ 4 kẻ tội nhân và đột nhiên bảo :
− Thôi ! Tha cho các anh.
7.- Trên rầm thượng. (1)
Thứ sáu, ngày 28
Chiều hôm tôi và em Xinvya cùng đi với
mẹ tôi đem quần áo cho một người đàn bà
nghèo mà người ta đă mách trong một tờ
báo. Tôi mang gói, em tôi đă ghi sẵn tên
tắt và địa chỉ người đàn bà ấy ra mảnh
giấy cầm tay. Chúng tôi leo lên gác
thượng một toà nhà cao lắm. Tới nơi,
chúng tôi thấy một hành lang dài, hai
bên có những căn pḥng liên tiếp nhau.
Mẹ tôi gơ cửa buồng cuối cùng. Một người
đàn bà c̣n trẻ mặt bủn vóc vầy ra mở
cửa. Trông cái khăn vuông trùm trên đầu,
tôi nhớ h́nh như đă gặp bà này ở đâu th́
phải.
Mẹ tôi hỏi :
− Có phải bà là người mà người ta đă
mách trên báo?
− Thưa bà vâng, chính chúng tôi.
− Đây, tôi mang lại cho bà ít quần áo.
Người đàn bà nghèo khó kia cám ơn chúng
tôi măi không thôi.
Lúc ấy, tôi trông thấy trong một góc nhà
không đồ đạc và tối ṃ, có một cậu bé
quay lưng ra phía chúng tôi. Cậu qú
trước một cái ghế h́nh như đang măi
viết. Giấy để trên mặt ghế mà lọ mực th́
dưới sàn. Không biết cậu ta làm thế nào
mà viết được trong xó tối như vậy.
Tôi đang tự hỏi thế, chợt trông thấy mớ
tóc vàng hoe và cái áo dài lụng thụng,
tôi nhận ra ngay anh Crôtxi, con bà bán
hoa quả, tức là cậu bé liệt tay. Tôi bảo
sẻ mẹ tôi, trong lúc mẹ anh đang gỡ gói
quần áo.
Mẹ tôi bấm :
− Im, đừng gọi, cậu ấy sẽ ngượng chăng.
Nhưng, ngay lúc ấy Crôtxi quay ra ; tôi
bối rối, anh mỉm cười với tôi. Mẹ tôi
liền đẩy tôi lại. Anh giơ hai tay chạy
ra. Tôi liền ôm lấy anh hôn.
Mẹ anh nói :
− Thưa bà, bà đă rơ, nhà chỉ có ḿnh
cháu với tôi. Cha cháu đi sang Mỹ đă sáu
năm nay, không may vừa rồi tôi lại bị ốm
không đi hàng được, phải bán dần đồ đạc
để ăn. Cả đến cái bàn viết của cháu cũng
không c̣n. Đèn đuốc cũng thiếu, cháu
phải học ṃ trong bóng tối rất hại mắt.
Nhưng cũng may là tôi c̣n có thể cho
cháu ra trường và cháu được sách vở phát
không. Thương hại cho cháu! Cháu chịu
khó lắm! Có khi nhịn đói đi học. Thưa
bà, t́nh cảnh chúng tôi thật là khổ sở
quá !...
Mẹ tôi lấy tất cả tiền trong ví bỏ vào
tay người đàn bà khốn khổ, hôn anh
Crôtxi rồi dân dấn nước mắt trở ra.
Về nhà, mẹ tôi khuyên tôi rằng :
Con ơi! Con hăy trông gương đứa trẻ
nghèo khổ ấy đă phải học hành trong cảnh
thiếu thốn và khó khăn. Về phần con, con
có đủ mọi thứ cần dùng mà đôi khi con
c̣n kêu sự học vất vả. Này ! Enricô ơi !
Một ngày làm việc của Crôtxi c̣n đáng
công hơn cả một năm học của con. Chính
những hạng học tṛ ấy phải cho phần
thưởng danh dự mới phải.
Cha tôi đă nghe được những lời mẹ tôi
khuyên bảo tôi, v́ thế ngay chiều hôm
ấy, tôi thấy để trên bàn viết của tôi lá
thư sau này :
8.- Học đường
Thứ sáu, ngày 28
" Enricô con ơi! Việc học đối với con
h́nh như khó nhọc, mẹ con nói phải đấy.
Cha chưa bao giờ trông thấy con đi học
với cái dáng quả quyết và nét mặt hớn hở
như cha mong muốn ! Con thử tưởng tượng
nếu con ngồi không ở nhà th́ ngày giờ
của con sẽ trống trải biết là dường nào
! Cha chắc chỉ trong ṿng một tuần lễ là
con lại muốn trở lại nhà trường. Con ơi
! Hiện thời, không một đứa trẻ nào là
không đi học. Con hăy nghĩ đến những
người thợ làm lụng cặm cụi cả ngày, tối
đến c̣n phải cắp sách đi học, những cô
thiếu nữ suốt tuần lễ bị giam giữ trong
xưởng, chủ nhật đến cũng rủ nhau đi học,
những binh lính hết giờ luyện tập cũng
đem ra học, viết. Cho đến những trẻ mù,
trẻ câm, chúng cũng đều học cả.
Mỗi buổi sáng, lúc con ra trường, con
hăy nghĩ cùng giờ ấy, trong thành phố ta
có tới 3 vạn đứa trẻ cũng như con đi
"chầu" lớp học trong ba tiếng đồng hồ để
được mở mang trí tuệ. Con lại nghĩ : xấp
xỉ giờ này, con trẻ trong các nước trên
hoàn cầu đều đi học cả. Con hăy tưởng
tượng những trẻ lếch thếch trên những
đường hẽm nhà quê, rảo bước trong các
phố phường huyên náo, dưới bầu trời oi ả
hay trong cơn mưa tuyết lạnh lùng :
chúng đi thuyền ở những xứ lắm sông
ng̣i, cưỡi ngựa qua những cánh đồng mông
quạnh, hoặc ngồi "xe trượt" trên những
băi băng giá lanh. Chúng xuống lũng, lên
đồi, chúng xuyên rừng lội suối, chúng
vượt qua những ngọn đồi hẻo lánh hoang
vu. Ăn mặc hàng ngh́n lối khác nhau, nói
bằng trăm thứ tiếng khác nhau, chúng đi
một ḿnh hay lũ năm lũ ba, sách cắp
trong tay hay cặp đeo dưới nách.
Từ ngôi trường cùng tột lấp trong ánh
tuyết nước Nga cho tới nóc trường hẻo
lánh lẩn trong khóm gồi xứ Ả rập, có tới
hàng triệu triệu đứa trẻ cùng học một
điều bằng những thể thức khác nhau.
Con lại tưởng tượng cái tổ kiến học sinh
ấy gồm có hàng trăm dân tộc khác nhau và
cái trường hoạt động ấy, con có cái hân
hạnh dự phần rồi con tự nhủ : ví phỏng
một mai sự hoạt động ấy ngừng hẳn th́
nhân loại sẽ trở lại đời mọi rợ, sẽ sa
vào cơi tối tăm, sự hoạt động ấy là sự
tiến bộ, là mối hy vọng, là ánh sáng
vinh quang của thế giới vậy.
Cố lên ! Tên lính nhỏ trong đạo quân lớn
lao kia ! Cố lên ! Con ơi ! Lấy sách vở
làm khí giới, lấy lớp học làm quân đội,
lấy thế giới làm băi chiến trường, coi
sự ngu dốt là cứu địch và lấy sự văn
minh của nhân loại làm cuộc khải hoàn,
con phải phấn đấu luôn luôn và chớ hề
làm tên lính hèn nhát. "
9.- Ḷng yêu nước của cậu bé thành
Pađôva (1)
(Truyện đọc hàng tháng)
Thứ bảy, ngày 29.
Không, không bao giờ tôi chịu làm tên
lính hèn nhát. Nếu ngày nào thầy giáo
cũng kể cho tôi nghe như câu chuyện sáng
nay th́ có lẽ không bao giờ tôi muốn
nghỉ học. Theo lời thầy th́ mỗi tháng sẽ
có một truyện mà truyện nào cũng nói về
những thủ đoạn phi thường của một đứa
trẻ con.
"L̉NG YÊU NƯỚC CỦA CẬU BÉ THÀNH PAĐÔVA"
đó là đầu đề câu chuyện sáng nay.
Năm trước, một chiếc tàu Tây Ban Nha dời
bến Bardêlôna (2) để đi Giênôva (3).
Trên tàu, trừ người Tây Ban Nha, c̣n có
một ố người Pháp, người Italia, người
Thuỵ Sĩ, và nhiều người khác nữa. Trong
bọn hành khách người ta nhậnthấy một đứa
trẻ độ 11 tuổi, ăn mặc nhơm nhếch, đứng
riêng một chỗ và nh́n những người kia
bằng đôi mắt hầm hầm. Nó nh́n như thế
cũng không phải hẳn là không có cớ. Cha
mẹ nó là nông dân ở gần Pađôva, cố nhiên
là nghèo túng, hai năm trước v́ tham
tiền đă cho nó đi ở với một người chủ
xiếc rong. Người này dạy nó một vài món
nhảy, lộn rồi bắt nó theo sang Pháp và
Tây Ban Nha. Nó bị hành hạ luôn tay và
ăn uống không đủ.
Đến thành Bardêlôna, không thể chịu được
cái đời sống khổ ải ấy nữa, đứa trẻ khốn
nạn liền trốn chủ đến cầu cứu viên lănh
sự Italia. Động mối thương tâm, viên
lănh sự xin cho nó một chỗ trong tàu nói
trên và cho nó một lá thư giới thiệu
cùng ông thị trưởng thành Giênôva nhờ
ông trả về cho cha mẹ nó, là người đă
bán nó như một con vật. Thằng bé c̣m gầy
yếu đuối và mặc bộ quần áo rách. Người
ta cho nó ngồi pḥng hạng nh́. Hành
khách ai cũng nh́n nó, có người hỏi nó
song nó không trả lời. Nó có vẻ căm ghét
mọi người v́ những sự khắc khổ và hành
phạt đă làm cho nó oán hận và không có
cảm t́nh. Tuy nhiên, có ba người hành
khách đă khéo làm cho nó hé răng. Nó kể
chuyện nó bằng tiếng Italia pha giọng
Tây Ban Nha. Ba người khách kia không
phải là dân Italia nhưng cũng thương nó,
cho tiền để nó nói chuyện, nghe cho đỡ
buồn. Đồng thời, có mấy thiếu phụ đi
qua, ba ông quí khách hănh diện ném thêm
tiền xuống bàn loảng xoảng và nói : "Cầm
lấy ! Cầm lấy nữa này !"
Đứa bé sung sướng, vơ tiền bỏ túi, cảm
ơn rồi vào pḥng. Nó buông màn cửa xuống
ngồi yên lặng và nghĩ đến những việc nó
sẽ phải làm.
Nó nghĩ : với số tiền ấy, nó sẽ được ăn
no, không phải thèm nhạt như trước. Khi
tới Giênôva, nó sẽ sắm một bộ cánh mới
để thay bộ quần áo nó đeo hai năm trời
nay, rách như tổ đỉa. Nó lại định để ra
một ít tiền đem về cho cha mẹ, chắc là
được săn đón và quí hoá hơn là về tay
không. Số tiền ấy đối với nó là một món
tiền to. Ngồi sau rèm cửa, nó trừ đi
tính lại và trong ḷng thấy khoan khái
nhẹ nhàng.
Lúc ấy, ba người khách nói trên đang
ngồi ở buồng ăn, quây quần uống rượu và
nói chuyện về những cuộc du lịch của
ḿnh cùng phong tục những nước đă đi
qua. T́nh cờ, câu chuyện nhằm vào nước
Italia. Một người bắt đầu phàn nàn về
khách sạn, người chê về xe lửa. Cuối
cùng, rượu say, họ thi nhau nói xấu tất
cả những ǵ thuộc về nước Italia. Người
thứ nhất nói biết thế, họ sẽ di du lịch
xứ Lappôn (4) (ở cực bắc châu Âu) c̣n
hơn sang nước Italia. Người thứ nh́ nói
quả quyết rằng ở Italia hắn gặp toàn thị
những phường quỷ quyệt và những quân
cường đạo. Người thứ ba nói thêm rằng :
− Những người tùng sự nước Italia không
biết chữ.
Người thứ nhất nói :
− Đó là một dân tộc ngu dốt !
Người thứ nh́ tiếp :
− Bẩn thỉu !
− Và ăn ...
Người thứ ba định nói câu "ăn cắp" nhưng
chưa dứt lời th́ một trận mưa toàn tiền
vàng và bạc hắt vào mặt những người ấy
rơi tung toé xuống bàn và trên sân. Ba
người hầm hầm đứng dậy xem trận mưa dữ
ấy ở đâu ra th́ lại bị ném thêm.
Cậu bé thành Pađôva vén rèm tḥ đầu ra
thét bằng giọng khinh bỉ :
− Cầm lại tiền của các người. Ta không
thèm nhận của bố thí của những người kẻ
đă lăng mạ nước ta.
10.- Em bé quét mồ hóng
Ngày mồng một tháng mười một
Chiều qua tôi sang trường Nữ Học để đưa
cho cô giáo em Xynvya bản tiểu truyện
"Cậu bé thành Pađôva" mà cô muốn xem.
Trong trường có tới 700 nữ sinh. Khi tôi
đến học tṛ đang ra về, ai nấy đều hớn
hở v́ được nghỉ mấy ngày nhân dịp lễ
"Chư Thánh".
Đối cửa trường, bên kia đường cái, có
một đứa bé quét mồ hóng, chân tay quần
áo đen thủi, đứng quay vào tường, gục
đầu vào cánh tay khóc nức nở.
Hai ba cô học tṛ lớp hai lại gần hỏi
tại sao, nhưng nó cứ khóc và không trả
lời.
Bọn học tṛ lại hỏi :
− Anh có việc ǵ? Sao lại đứng đây mà
khóc?
Nó bèn nhấc cánh tay để lộ một gương mặt
hiền lành và nói đi quét mồ hóng từ sáng
đến lúc ấy được 3 hào, vô ư bỏ vào túi
thủng, tiền rơi mất cả. Nó không dám về
sợ chủ đánh.
Nói xong lại tru lên khóc và gục mặt vào
cánh tay như một kẻ chán đời.
Lũ học tṛ bé quay lại nh́n nhau, cho là
quan trọng lắm. Một bọn khác cũng xúm
lại : bé có ,lớn có, con nhà nghèo, con
nhà giàu có, thẩy đều cắp cặp trong tay.
Một cô trong bọn, người đă lớn và trên
mũ có gài chiếc lông xanh, móc trong túi
ra hai xu, bảo chị em :
− Tôi c̣n có hai xu. Chúng ta quyên vậy.
Cô áo đỏ nói :
− Tôi cũng có hai xu. Trong bọn ta, làm
ǵ lại chả thu được ba hào.
Nói xong, hai cô hô hào :
− Chị Amêlya, chị Lighya, chị Anna ơi !
Mỗi chị một xu! Chị nào có xu nữa không?
Mấy cô đem tiền định mua vở và mua hoa,
thấy thế cũng vui ḷng bới ra cho. Vài
em bé cho cả tiền kẽm. Cô mũ gài lông
xanh nhặt tiền và đếm to :
− Tám , mười, mười lăm ! C̣n thiếu nhiều
!
Một thiếu nữ nghiêm trang có lẽ là cô
trợ giáo đi qua thấy thế, cho một hào.
Cả bọn đều vỗ tay. C̣n thiếu năm xu nữa.
Một em bé reo :
− Ḱa các chị lớp bốn đă đến, các chị ấy
có nhiều xu !
Quả nhiên, bọn học tṛ lớp bốn đến và bỏ
nhiều tiền. Bấy giờ, có tới trăm cô nữ
sinh đứng xúm xít ṿng trong ṿng ngoài,
vây chặt đứa bé, bày ra một cảnh đẹp mắt
vô cùng : Một cậu bé lọ lem điểm giữa
các cô gái xinh tươi, làn tóc phất phơ ,
áo mầu rực rỡ.
Ba hào đă đủ, nhưng tiền vẫn ném vào.
Mấy em bé không tiền cũng cố len vào cho
vài chùm hoa v́ các em cũng muốn dự vào
việc phúc.
Chợt người gác trường kêu to :
− Bà Đốc !
Các cô chạy tán toạn như một đàn chim sẻ
bay vù.
C̣n trơ lại thằng bé quét mồ hóng đứng
lau nước mắt. Hai tay nó không những đầy
xu mà ở khuy áo, miệng túi và trên mũ
c̣n giắt bao nhiêu là hoa ! Tiền nhiều,
hoa đẹp, cậu bé bây giờ thấy ḿnh sung
sướng như một ông Hoàng, vừa đi vừa hát
!...
THÁNG MƯỜI MỘT
11. Người bán than và ông quư phái
Thứ hai, ngày mồng 7
Carlô Nôbix lúc nào cũng kiêu hănh v́
sinh ra ở nơi quyền quư và giàu có. Cha
anh vẻ người phong nhă, đứng đắn, trán
rộng, râu đen, thường đưa anh đến
trường.
Sáng qua, Carlô căi nhau với Betty là
con một người bán than. Cũng lư, anh
chẳng t́m được lời ǵ, phát cáu nói :
− Bố mày là đồ bần tiện !
Betty đỏ mặt, không nói được nữa, nước
mắt chạy quanh.
Trưa về, Betty kể lại cho cha hay. Buổi
chiều, ông bố lập tức ra trường phàn nàn
với thầy giáo. Ông ta đang phân trần th́
theo lệ thường, ông Nôbix cũng vừa đến
cổng và cởi áo khoác cho con. Nghe thấy
có người nói đến tên ḿnh, ông tiến vào
xem có việc ǵ.
Ông Perbôni nói :
− Ḱa ông Nôbix đă đến ! Vừa khéo ! Ông
này đang đến phàn nàn v́ Carlô đă mắng
con ông ấy bằng câu "Bố mày là đồ bần
tiện!"
Ông Carlô cau mày và hơi đổi sắc mặt,
quay lại hỏi con :
− Có thực con đă nói thế ?
Carlô đứng ngây như gỗ, cúi đầu im lặng.
Ông Carlô xin phép dắt con đến chỗ Betty
và bảo :
− Con xin lỗi anh Betty đi !
− Thưa ngài xin thôi !
Người hàng than nói thế và toan chạy vào
ngăn lại, nhưng ông quư phái không nghe,
cứ bắt con xin lỗi :
− Con nhắc lại câu này : Anh Betty ơi !
Tôi xin lỗi anh về lời bất nhă và vô ư
thức mà tôi đă chót nói phạm đến cha
anh, người mà cha tôi rất lấy làm hân
hạnh được bắt tay.
Không dám ngẩng mặt, Carlô cứ nguyên văn
nhắc lại những câu cha vừa dạy bằng
giọng thấp.
Rồi ông Nôbix đưa tay cho người bán than
bắt một cách rất nồng nàn.
Bắt tay xong "Bá tước" quay lại nói với
thầy giáo.
− Thưa ngài, xin ngài làm ơn cho hai đứa
trẻ này ngồi liền nhau.
Ông Perbôni đặt luôn Betty ngồi cạnh
Carlô. Khi chúng đă yên chỗ, ông Carlô
chào và trở ra.
Ông hàng than đứng lại một lúc, bâng
khuâng, do dự. Ông ngắm hai trẻ ngồi
sánh vai nhau, rồi chẳng nói chẳng rằng,
ông chạy lại toan ôm lấy Carlô, song đến
nơi ông bỗng dừng lại, đành lấy bàn tay
chuối hột sẻ vuốt tóc anh Carlô rồi ra
thẳng.
Thầy giáo bảo chúng tôi :
− Các con hăy nhớ lấy tấn kịch mà các
con vừa xem. Đó là một bài học hay nhất
trong năm.
12. Mẹ tôi
Thứ năm, ngày mồng 10
Sáng nay cô giáo Đencati lại chơi, cha
tôi nhận thấy tôi đă nói một câu vô lễ
với mẹ tôi. V́ thế cha tôi răn tôi bằng
lá thơ sau này, đọc rất cảm động.
" Trước mặt cô giáo của em con, con đă
tỏ ra vô lễ với mẹ con. Enricô ơi ! Lần
sau không được thế nữa ! Thái độ hỗn hào
của con đă xuyên thấu trái tim cha như
một mũi dao. Cha c̣n nhớ mấy năm trước
đây, mẹ con đă thức suốt đêm ở cạnh
giường con, nghe hơi con thở, mẹ con đă
lo lắng vơ người và mỗi khi nghĩ đến nỗi
phải "bỏ" con th́ lại sụt sùi. Con ơi !
Con nên nghĩ đến những lúc ấy và không
nên tệ với mẹ con, một người mẹ sẽ sẵn
ḷng đem một năm hạnh phúc của ḿnh để
chuộc một giờ đau đớn cho con, một người
mẹ sẽ vui ḷng đi ăn xin để nuôi con và
sẵn ḷng hy sinh tính mệnh để cứu con
sống ! Con ơi ! Trong đời con, con sẽ có
những ngày buồn rầu, thảm đạm, nhưng cái
ngày buồn thảm nhất, chính là ngày con
mất mẹ con.
Rồi đây, con sẽ trưởng thành, những cuộc
phấn đấu sẽ rèn con nên người mạnh mẽ.
Con sẽ không bao giờ quên được h́nh ảnh
mẹ con và con sẽ ước ǵ lại được nghe
thấy tiếng êm ái và trông thấy nét mặt
hiền từ của mẹ con, ví dù lớn đến mực
nào, khoẻ đến mực nào, con vẫn thấy là
một đứa trẻ chơ vơ và yếu đuối. Con sẽ
hồi tưởng lại những lúc đă làm cho mẹ
con phải mếch ḷng mà con buồn. Ḷng hối
hận sẽ cắn rứt con. H́nh ảnh dịu dàng và
từ ái của mẹ con sẽ làm cho con thêm rầu
rĩ. Con nên nhớ rằng ḷng hiếu thảo là
một bổn phận thiêng liêng của con người.
Kẻ nào giày xéo lên chữ hiếu là kẻ khốn
nạn. Quân giết người nếu biết tôn kính
cha mẹ, cũng c̣n một điểm thành thực
trong tâm ; con người dù sang trọng
tuyệt vời, nếu làm rầu ḷng mẹ, xúc phạm
đến mẹ, cũng là kẻ không có nhân cách.
Enricô ơi ! Con van mẹ con đi, để mẹ con
hôn con cho cái hôn ấy xoá sách vết vô
ơn ở trên trán con. Con ơi ! Ḷng cha
vẫn yêu con, v́ con là mối hy vọng quư
báu nhất đời của cha, nhưng cha thà
không con c̣n hơn là có đứa con ở bạc
với mẹ !"
Cha con.
13.- Học tṛ nghèo
Chủ nhật, ngày 13
Cha tôi đă thứ lỗi cho tôi rồi, nhưng
ḷng tôi vẫn buồn nên chiều nay mẹ tôi
cho tôi đi chơi với người gác cổng.
Khi chúng tôi đi qua một cái xe ḅ đỗ
trước một cửa hàng kia, tôi thấy có
tiếng người gọi tôi. Quay lại th́ ra anh
Côretti bạn học tôi. Anh mặc cái áo dài
da rái cá và đội cái mũ nồi da mèo. Mồ
hôi ướt đầm nhưng nét vui tươi vẫn lộ
trên khuôn mặt, anh đang vác trên vai
một bó củi nặng. Một người đàn ông đứng
trên xe chuyển củi cho anh mang vào
hàng. Anh xếp đống rồi lại ra xe. Tôi
hỏi :
− Anh làm ǵ thế ?
Anh vỗ vào bó củi trên vai, đáp :
− Anh coi đây th́ rơ. Tôi vừa làm vừa
học bài anh ạ.
Rồi anh vai vừa vác củi, miệng vừa lẩm
bẩm :
− Người ta gọi sự biến hoá của tiếng
động từ là những sự thay đổi của tiếng
ấy về số, và về các ngôi...
Anh vừa ném cùi vào đống vừa đọc :
− Tuỳ theo th́ của việc làm...
Rồi lộn ra xe lấy củi, anh đọc tiếp :
− Và tuỳ theo cách của việc làm ...
Đó, anh học bài văn phạm để đọc hôm sau.
Anh hỏi tôi :
− Anh xem tôi lợi dụng thời giờ như thế
có được không? Cha tôi và người ở th́ đi
giao hàng, mẹ tôi th́ ốm, tất đến việc
tôi phải dở xe củi. Tuy nhiên, việc làm
vẫn không ngăn trở việc học bài. Hôm nay
chúng ta phải bài khó quá ! Tôi nhai măi
không thuộc.
Anh quay lại nói với người kéo xe ḅ :
− 7 giờ cha tôi về bác sẽ đến lấy tiền.
Người đánh xe đi. Anh rủ tôi :
− Anh vào chơi với tôi một tí.
Tôi vào trong một gian rộng xếp đầy củi
thanh và củi bó, cạnh cửa có một cái
cân.
Anh nói tiếp :
− Hôm nay nhà tôi bận rộn quá. Tôi phải
làm bài từng câu vụn, từng đoạn con. Lúc
năy, đang viết th́ có người gọi mua
hàng... Bán xong, vào vừa cầm bút th́
người xe củi đến. Từ sáng đến giờ tôi đă
ra chợ củi ở băi Vênêzya hai lần rồi.
Chân mỏi quá mà tay th́ phồng lên. Bây
giờ mà phải vẽ th́ đến chịu.
Anh vừa nói vừa quét những lá khô rải
rác trên thềm.
Tôi hỏi :
− Anh làm bài ở chỗ nào ?
− Ở trong này. Anh vào coi.
Anh đưa tôi vào gian sau cửa hàng là chỗ
vừa làm buồng ăn vừa làm bếp. Trong một
góc có cái bàn trên bày mấy quyển sách
và vở bài đang làm dở. Anh nói :
− Câu hỏi thứ hai hiện c̣n bỏ trống :
Người ta dùng da thuộc để làm giày dép,
cương ngựa...
Bây giờ tôi viết thêm : làm vali.
Rồi anh cầm bút viết chữ rất tốt.
Chợt có tiếng hỏi ở ngoài hàng :
− Có ai bán hàng không ?
Đó là một người đàn bà đến mua củi.
− Có ! Tôi đây.
Anh vội thưa, chạy ra cân củi, nhận
tiền, biên sổ rồi vừa trở vào vừa nói
một ḿnh :
− Không biết họ có để yên cho ḿnh làm
hết bài không ?
Xong anh ngồi viết nối : làm ḥm, làm
túi đạn.
Viết đến đây anh hốt hoảng kêu :
− Chết ! Hỏng cả ấm cà phê !
Rồi anh chạy lại ḷ, nhắc ấm ra, nói :
− Đây là cà phê của mẹ tôi, anh ạ. Hai
ta cùng mang vào đi ! Thấy anh chắc mẹ
tôi sẽ vui ḷng... A ! Tôi c̣n phải biên
thêm ǵ nữa ở dưới chữ : túi đạn không ?
Kể th́ c̣n nhiều thứ nữa, nhưng tôi chưa
kịp nghĩ ra... Mời anh vào đây...
Bạn tôi mở cửa, chúng tôi vào chỗ mẹ anh
nằm. Bà nằm trên một cái giường rộng đầu
bịt khăn vuông trắng.
− Thưa mẹ, cà phê đây ạ.
Nói xong, anh đưa mắt chỉ tôi và nói :
− Đây là bạn học của con.
Bà nói :
− Quí hoá quá ! Đến thăm kẻ ốm là một
điều hay cậu ạ.
Anh Côretti nắn lại gối, kéo lại chăn
cho mẹ, thêm lửa trong ḷ và đuổi con
mèo ngồi chồm hổm trên mặt tủ. Mẹ uống
xong, anh đỡ chén và hỏi :
− Mẹ không cần ǵ nữa chứ ? Mẹ đă uống
hai th́a thuốc ho chưa ? Dùng hết, con
sẽ ra hiệu lấy. Củi đă xếp đầu vào đấy
cả rồi. Đến bốn giờ con sẽ nướng thịt
như lời mẹ dặn và khi nào người hàng mỡ
đi qua, con sẽ trả 8 xu. Thưa mẹ, mẹ cứ
yên tâm. Mọi việc con sẽ làm chu đáo cả.
Bà hàng than nói :
− Ngoan lắm ! Con tôi chẳng sót việc ǵ.
Tội nghiệp !...
Nhân tiện anh Côretti lại chỉ cho tôi
xem bức ảnh cha anh treo ở tường, ông
vận nhung phục, ngực dính Quận công bội
tinh, khuôn mặt giống anh như đúc, mắt
sáng, miệng tươi.
Chúng tôi lộn ra pḥng ăn. Côretti bỗng
reo to :
− Tôi t́m thấy rồi !
Rồi anh chạy lại biên thêm vào vở bài :
người ta cũng làm yên ngựa bằng da nữa.
Anh nói tiếp :
− Thôi, c̣n mấy câu hỏi nữa để đến khuya
sẽ làm... Anh Enricô ơi ! Anh sung sướng
quá, anh có đủ thời giờ học, viết và
thời giờ đi chơi.
Luôn luôn vui vẻ và lanh lẹ, anh đưa tôi
ra ngoài hàng. Anh lấy những thanh củi
đặt lên bàn, cưa mỗi thanh hai nhát đứt
đôi. Rồi anh bảo tôi :
− Đây là ngón vơ khoẻ gấp vạn món thể
thao "co và duỗi cánh tay" ! Tôi muốn
cắt hết đống củi này trước khi cha tôi
về, tất cha tôi sẽ hài ḷng lắm ; nhưng
khốn thay sau buổi kéo cưa như thế những
chữ t và l tôi sẽ viết ra h́nh rắn cả,
đúng như lời thầy giáo thường kêu. Nhưng
tôi biết làm thế nào? Tôi sẽ thú thực
với thầy : "Con vận động cánh tay nhiều
quá, ngón tay thành ra tê cả!" Điều đó
không ngại. Bây giờ tôi chỉ mong sao cho
mẹ tôi chóng khỏi. Nhờ giời ! Hôm nay mẹ
tôi đă khá nhiều ! C̣n bài văn phạm, đến
mai tôi sẽ dậy sớm học cũng kịp. A ! Ḱa
xe than đă về, tôi phải ra.
Một xe ḅ chất đầy bao đen đỗ trước cửa
hàng. Anh chạy ra nói chuyện với người
đánh xe xong, lộn vào bảo tôi :
− Bây giờ tôi không thể giữ anh được
nữa. Đến mai nhá ! Cảm ơn anh đă tạt vào
thăm tôi. Tôi chúc anh đi chơi được vui
vẻ, anh Enricô sung sướng của tôi !
Bắt tay tôi xong, anh chạy ra cơng từng
b́ than một, từ xe vào hàng, rồi lại từ
hàng đi ra, nét mặt tươi tỉnh dưới chiếc
mũ da mèo, ai trông thấy cũng phải chú
ư.
" Enricô sung sướng"! - Lời bạn đă tặng
tôi. - Nhưng không, anh Côretti bạn quí
của tôi ơi ! Không ! Chính anh mới là
người sung sướng v́ anh vừa làm vừa hoc,
và anh có ích cho cha mẹ hơn tôi, v́ anh
đảm đang và giỏi gấp trăm tôi !
14.- Ân nhân của bạn Nelli
Thứ tư, ngày 22
Hôm qua, Neli đi xem diễu binh. Cậu bé
gù lưng này nh́n lính diễu qua bằng cặp
mắt buồn rầu và than rằng :
− Như thân tôi, th́ không bao giờ được
ra lính.
Cậu bé khốn nạn ấy chăm học lắm ; người
c̣m và xanh, động học là hơi thở tai. Mẹ
cậu là một bà tóc đỏ, áo thâm, cứ tan
học là đến đón cậu để khỏi bị anh em xô
đẩy. Ta hăy trông mẹ cậu vuốt ve và yêu
dấu cậu biết là dường nào ! Mấy ngày
đầu, học tṛ cứ chế giễu cậu và lấy cặp
thích vào lưng cậu nhưng không bao giờ
cậu kháng cự và mách mẹ cả, v́ cậu giấu
không cho mẹ biết ḿnh hay bị bắt nạt để
mẹ lo buồn. Họ chọc ghẹo quá, lắm lúc
cậu phải gục đầu xuống bàn khóc thầm.
Một hôm, thấy thế, anh Garônê can thiệp
và bảo bọn học tṛ :
− Ai c̣n động đến Nelli nữa sẽ biết tay
ta. Ta sẽ đá cho một trận để nhớ đời !
Phơranti chẳng coi lời doạ ấy vào đâu,
cứ chế giễu hoài, liền bị Garônê đá cho
một cái lộn ba ṿng. Từ đó không ai dám
động đến Nelli nữa. Thầy giáo cho Garônê
ngồi cạnh Nelli, hai cậu thành đôi bạn
thân.
Việc này, chắc anh Nelli về thuật lại
với mẹ, nên mới có câu chuyện sáng nay .
C̣n độ nửa giờ nữa th́ tan học, thầy
giáo sai tôi mang bản khoá tŕnh lên bàn
giấy ông hiệu trưởng. Tôi vừa vào pḥng
th́ gặp mẹ anh Nelli đến hỏi ông hiệu
trưởng :
− Thưa ngài, ở đây có cậu nào tên gọi là
Garônê không ?
− Thưa bà có.
− Xin ngài làm ơn cho gọi cậu ấy lên đây
để tôi hỏi chút việc, có được không ?
Ông hiệu trưởng bấm chuông gọi người gác
cổng bảo đi gọi cậu Garônê. Một phút sau
th́ cậu tới, có vẻ ngạc nhiên v́ không
hiểu bị gọi về việc ǵ.
Vừa trông thấy cậu, bà Nelli chạy luôn
lại cầm tay và xoa đầu cậu một cách rất
quí hoá.
− Cậu Garônê đây à ? Cậu là bạn của
Nelli và vẫn bênh vực cho em phải không
?
Nói xong, bà tháo chuỗi dây "Thánh giá"
bằng vàng đeo vào cổ anh Garônê và nói :
− Cậu em yêu quí của ta ! Em hăy nhận
chút kỷ niệm này, kỷ niệm của một người
mẹ vẫn cầu nguyện cho em và hết ḷng cảm
ơn em.
15.- Em bé trinh sát
( Truyện đọc hàng tháng )
Thứ bảy, ngày 28
Năm 1859, trong cuộc chiến tranh để giải
phóng cho xứ Lômbacđi, quân Pháp và quân
Italia đă đại thắng quân Áo ở trận
Xolphêrinô và trận Xan Mactinô. Sau
những trận này được mấy hôm, vào khoảng
cuối tháng sáu, một đội kỵ mă nhỏ đi
nhẩn nha trong con đường hẻm về phía
địch để ḍ xét hai bên cánh đồng. Đội kỵ
mă này có một sĩ quan và một viên đội
chỉ huy ; hai người đều yên lặng, cố
nh́n những tên lính xung phong bên địch
vận đồ trắng thấp thoáng ở đằng xa.
Đội kỵ mă cứ thế đi tới một cái nhà
tranh, chung quanh giồng những cây tần
b́ cao lớn. Trước nhà có một đứa con
trai độ 12 tuổi đang cầm dao róc vỏ một
cành tần b́ để làm gậy. Trên cửa sổ nhà
này có treo một lá cờ tam tài lớn, bên
trong chẳng có ai cả. Khi thấy quân kỵ
mă đến, đứa bé vứt que và cất mũ chào.
Đó là một cậu bé tóc đỏ, mắt xanh, vẻ
mặt quả quyết. Cậu vận áo sơ mi, hở
ngực.
Sĩ quan dừng ngựa hỏi :
− Em làm ǵ ở đây ? Sao không đi lánh
nạn với gia quyến ?
Cậu bé trả lời :
− Cháu không có gia quyến. Cháu là một
đứa trẻ bơ vơ. Cháu chỉ làm việc cho
những người muốn t́m cách sinh sống cho
cháu. Cháu ở đây để xem đánh trận.
− Em có thấy quân Áo qua đây không ?
− Không, đă ba hôm nay cháu không nom
thấy.
Sĩ quan suy nghĩ một lúc rồi xuống ngựa,
trèo lên mái nhà tranh nh́n xét nhưng
chỉ trông thấy một khu đồng hẹp v́ nhà
này thấp quá.
Sĩ quan vừa tụt xuống vừa nói :
− Phải leo lên cậy mới nh́n được.
Ngay trước nhà có một cây tần b́ cao
lắm, ngọn mềm phe phẩy trong đám mây
xanh. Sĩ quan đứng ngẫm nghĩ, nh́n cây
rồi lại nh́n lính rồi lại nh́n cây, sau
đột nhiên hỏi cậu bé :
− Em trông co tinh không ?
− Cháu à ? Mắt cháu có thể nh́n rơ một
con chim cách xa ngh́n thước.
− Em có thể trèo lên cây này không ?
− Lên ngọn cây này ? Chỉ là công việc
trong nháy mắt.
− Em thử nh́n xem ở đằng xa, về phía
địch có quân lính, cát bụi bay, ngựa hay
súng ống ǵ không ?
− Vâng.
− Em cố giúp ta và em có muốn ǵ không ?
Cậu bé cười nhạt đáp :
− Không, cháu chả muốn ǵ cả. Nếu làm
việc cho quân Áo th́ các vàng cháu cũng
không giúp. Nhưng cho quân ta... cháu là
người Lômbacđi...
− Thế th́ tốt lắm. Trèo đi !
− Khoan để cháu cởi giày đă.
Cậu tháo giày, thắt chặt lại dây lưng,
vứt mũ xuống cỏ rồi bám cây, leo thoăn
thoắt như một con mèo.
Một lát sau, cậu bé đă lên tít ngọn cay,
lá che kín chân, chỉ trông thấy ngực.
Ánh nắng chiếu vào tóc cậu lóng lánh như
nhuộm vàng để nh́n cho rơ :
− Nh́n thẳng đằng trước mặt và đằng xa
em !
Cậu víu một tay, c̣n một tay giơ lên
ngang trán để nh́n cho rơ.
Sĩ quan nói :
− Có thấy ǵ không ?
Cậu cúi xuống lấy tay làm loa và trả lời
:
− Có hai người cưỡi ngựa trên đường.
− Gần hay xa ?
− Độ ngh́n hay hơn ngh́n thước.
− Họ tiến về phía này ?
− Không, họ đứng.
Im lặng một lúc, sĩ quan lại hỏi :
Em c̣n trông thấy ǵ nữa không ? Thử
quay sang bên phải xem.
Cậu bé nh́n về bên phải rồi đáp :
− Có trông thấy người không ?
− Không. Họ nấp cả trong ruộng lúa.
Ngay lúc ấy, một viên đạn bay vút trong
không và rơi xuống sau nhà.
Sĩ quan kêu :
− Em ơi xuống đi ! Họ nh́n thấy em rồi.
Ta không muốn ḍ thêm ǵ nữa. Xuống ngay
đi !
Cậu đáp :
− Cháu không sợ.
− Xuống ! Ta bảo xuống kia mà !
− Thong thă đă... Đằng kia, ở bên trái
cháu trông thấy... Một viên đạn nữa vụt
qua tai làm ngắt lời cậu. Cậu rùng ḿnh
kêu :
− Lũ quái định "truy" ḿnh đây.
Sĩ quan phát tức, thét :
− Xuống lập tức !
Cậu đáp :
− Vâng, cháu xuống. Xin chú yên tâm, đă
có cây che cho cháu. Nhưng chú có muốn
biết bên trái có ǵ nữa không ?
− Không. Không. Xuống đi!
Cậu nghiêng ḿnh về bên trái vừa nh́n
vừa nói to :
− Bên trái, gần nhà thờ, h́nh như có ...
Viên đạn thứ ba trúng ngọn cây, người ta
thấy cậu lộn nhào, trước c̣n bám vào
cây, vào cành, sau buông tay và rơi lộn
đầu xuống đất.
Sĩ quan vừa nguyền rủa quân thù vừa chạy
lại .
Cậu bé nằm sơng sượt trên đất, hai tay
dang ra. Một ḍng máu đỏ ở ngực chảy ra.
Người đội và hai người lính xuống ngựa
chạy lại. Sĩ quan mở áo sơ mi cậu xem
th́ viên đạn thấu phổi bên trái. Sĩ quan
kêu :
− Tội nghiệp ! Thằng bé chết rồi !
Viên đội nói tiếp :
− Không, nó c̣n sống.
Sĩ quan gọi cậu bé :
− Em ơi ! Đứa em khốn khổ và can đảm của
ta ơi ! Tỉnh lên ! Tỉnh lên !
Sĩ quan vừa nói vừa cầm khăn mùi soa lau
vết thương cho cậu, cậu mở bừng mắt rồi
ngả đầu ra chết.
Sĩ quan tái lợt, nh́n cậu bé hồi lâu,
đứng dậy rồi lại nh́n h́nh như không nỡ
dứt...
Sĩ quan buồn rầu nhắc lại :
− Thương thay ! Đứa trẻ can đảm !
Nói xong, sĩ quan với lá cờ treo ở trước
cửa nhà kia phủ lên ḿnh cậu bé như một
tấm vải liệm chỉ để hở đầu. Viên đội
nhặt giày , mũ, dao và gậy gọt dở để bên
ḿnh cậu.
Sĩ quan đứng im lặng một lát rồi quay
lại bảo viên đội :
− Ta sẽ cho xe hồng thập tự lại rước em.
Cái chết này có ư nghĩa quân nhân. Nhà
binh sẽ phải chôn cất cho tử tế.
Nói xong, sĩ quan giơ tay chào cậu bé
lần cuối cùng.
Rồi, mọi người lên ngựa thẳng tiến.
Vài giờ sau, thi hài cậu bé được táng
theo tang lễ nhà binh.
Khi đạo quân kỵ đi khỏi một lúc th́ có
một đại đội pháo binh đi đến. Chính đội
này, mấy hôm trước đây đă đổ máu một
cách rất dũng cảm trong trận Xan
Mactinô.
Tin cậu bé can đảm kia đă bay tới các
hàng quân một cách rất nhanh chóng. V́
thế, khi qua chỗ thi hài cậu bé nằm dưới
gốc cây tần b́, các sĩ quan đều giơ gươm
chào, một viên cúi xuống bờ suối gần đó
rứt nắm hoa, ném trên ḿnh cậu bé. Thế
rồi theo gương ấy, tất cả đội pháo binh
ai cũng nhặt hoa ném vào. Trong vài phút
đồng hồ, hoa phủ đầy thi thể cậu bé.
Quan, lính lúc diễn qua, ai cũng nói :
− Can đảm thay cậu bé xứ Lômbacđi !
− Vĩnh biệt em !
− Em thực là người dũng cảm !
− Vinh dự thay cho em !
− Chúc em yên giấc ngh́n năm !
Một sĩ quan tháo tấm Quận công bội tinh
của ḿnh đặt nơi ngực cậu. Tức th́, lại
một trận mưa hoa phơi phới rơi xuống
ngực máu đào, đầu tóc đỏ của cậu bé yên
nghỉ dưới lá cờ tam tài đắp ngang. Nét
mặt cậu bé như tươi cười ! Phải chăng
ḷng cậu sung sướng và tự hào v́ đă bỏ
ḿnh cho quê hương của cậu ?
16.- Kẻ khó
Thứ ba, ngày 29
" Hy sinh cho tổ quốc như cậu bé
Lômbacđi, là một đức tính siêu việt đă
đành, nhưng cũng c̣n nhiều nết hay khác
mà con không nên sao nhăng con ơi ! "
Như sáng nay, lúc đi học về, con đi
trước mẹ, con đă gặp một người đàn bà
nghèo bế một đứa con nhỏ xanh xao yếu
đuối và ch́a tay xin con. Con nh́n người
ta bằng cặp mắt lạnh lùng, con chẳng cho
ǵ cả mà chính lúc ấy túi con có tiền.
Nghe mẹ, con ơi !
Con đừng tập thói làm ngơ trước cái
nghèo khó nó ngửa tay xin con ; hơn nữa
con lại càng không nên bước qua một
người mẹ xin ăn cho con. Con hăy nghĩ
đến bụng đói của đứa trẻ thơ, nghĩ đến
sự đau khổ của người mẹ.
Mỗi khi mẹ bố thí cho kẻ nghèo th́ bao
giờ họ cũng cảm ơn và chúc cho mẹ, cho
cả nhà ta được mọi sự lành. Những lời
chúc tụng ấy nghe êm ái biết là dường
nào ! Và ḷng tạ ơn họ không biết bao
nhiêu.
Những lời cầu nguyện ấy sẽ thấu đến đấng
Thượng đế để ngài phù hộ cho tất cả
những người thân yêu của ta. V́ thế, mẹ
trở về rất hài ḷng và tự nhủ :
− Người ấy đă cho ta nhiều hơn là ta đăi
họ !
Enricô ơi ! Con hăy nghe mẹ : thỉnh
thoảng nên bớt một vài xu trong túi tiền
của con để cho người già không chốn
nương thân, người mẹ không gạo, đứa trẻ
không mẹ không cha. Những kẻ khó thích
xin trẻ con v́ như thế họ không nhục, v́
trẻ con cũng như họ phải cần đến mọi
người. Con có nhận thấy ở quanh trường
thường có nhiều kẻ ăn xin không ? Sự bố
thí của người lớn là một việc làm phúc,
nhưng sự bố thí của trẻ con không những
là một việc làm phú mà c̣n là một sự vỗ
về nữa, v́ mỗi lần đứa trẻ đem cho th́
h́nh như đồng tiền kèm với bông hoa ở
trong tay nó rơi ra.
Con ơi ! Con phải biết con có đủ cả, chứ
kẻ khó th́ thiếu hết. Khi con mong được
sung sướng th́ người nghèo chỉ cầu sao
cho khỏi chết. Trong một đám có bao
nhiêu là nhà giàu, trong một phố có bao
nhiêu người sang trọng qua lại, có bao
nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà vẫn
c̣n thấy nhiều đàn bà và trẻ con đói
khát, rách rưới ! Thực đáng buồn thay !
Muốn cho người ta khỏi chê con là một kẻ
vô t́nh th́ từ sau, con đừng bước qua
một kẻ khó mà không cho ǵ".
Mẹ con
17.- Tính khoe khoang
Thứ hai, ngày mồng 5
Hôm qua, tôi đi chơi với anh Vôtini và
cha anh. Khi qua phố Đôra, chúng tôi
thấy anh Xtađia đang quay lại đá vung
mấy người bạn đă vô ư dẫm phải chân anh
trong khi anh mải nh́n một bản địa đồ
treo trong hiệu sách ( v́ anh học cả ở
ngoài trường ). Chúng tôi gọi, anh chỉ
hơi chào trả, thực là thiếu lịch sự !
Chúng tôi mặc anh và thẳng đường đi. Tôi
để ư nh́n anh Vôtini th́ bao giờ anh
cũng ăn mặc xa hoa quá thể, đối với một
đứa trẻ con như anh. Giày da dê, áo nẹp
thêu, mũ phớt trắng, đồng hồ vàng. Anh
ra bộ giương giương tự đắc lắm, nhưng
lần này th́ bị nhụt !
Cha anh thủng thỉnh đi sau, c̣n anh và
tôi th́ chạy trước. Chúng tôi đến một
cái ghế đá, đă thấy có một cậu bé cúi
đầu ngồi nghỉ, vẻ mệt nhọc. Một người
đàn ông nữa, có lẽ là cha cậu, đi tản bộ
dưới bóng cây, xem báo. Hai chúng tôi
cùng ngồi ghế. Anh Vôtini len ngồi giữa
tôi và cậu bé và t́m cách làm cho cậu
chú ư đến ḿnh.
Anh giơ một chân lên hỏi tôi :
− Anh đă xem đôi giày bốt tin kiểu "sĩ
quan" của tôi rồi chứ ?
Anh nói thế cốt để cậu bé kia nh́n đôi
giày mới của anh nhưng cậu bé không hề
liếc mắt.
Thấy vô hiệu, anh bỏ chân xuống rồi vừa
trỏ vào những cái "lon" kim tuyến ở tay
áo, vừa liếc sang cậu bé mà bảo tôi rằng
:
− Này anh ! Lối viền này coi rợn quá !
Tôi định thay bằng bộ cúc bạc !
Nhưng cũng phí lời, v́ cậu bé ngồi yên
như thường.
Anh Vôtini liền đặt mũ lên ngón tay trỏ
quay tít. Cậu bé nhất định không nh́n.
Tức ḿnh, anh rút luôn đồng hồ , mở nắp
cho tôi xem các bánh xe. Nhưng cậu hàng
xóm vẫn không nhúc nhích.
Tôi hỏi :
− Đồng hồ anh mạ vàng ?
Anh đáp :
− Không. Bằng vàng cả.
− Nhưng bao giờ người ta cũng pha ít bạc
vào.
− Không. Tôi cam đoan với anh rằng đồng
hồ tôi toàn vàng.
Rồi cố ư bắt cậu bé kia phải trả lời,
anh giơ đồng hồ ngang mặt cậu và nói :
− Này anh coi, có phải bằng vàng cả
không ?
Cậu kia trả lời cụt ngủn.
− Tôi không biết.
Như bị trêu chọc, Vôtini kêu :
− A ! A ! Làm bộ nhỉ !
Anh vừa kêu th́ cha anh lại. Ông nh́n
cậu bé rồi vội bảo anh :
− Im !
Xong ông ghé vào tai anh nói nhỏ :
− Đứa bé khốn nạn này mù, con ạ !
Vôtini nh́n kỹ cậu bé th́ thấy hai con
ngươi trơ như cùi nhăn.
Anh kinh ngạc, cứng người, mắt nh́n
xuống đất, lẩm bẩm :
− Chết chửa ! Ḿnh không biết...
Cậu bé mù, hiểu cả, nở một nụ cười tử tế
thoảng qua nét buồn nói :
− Không hề ǵ...
Xét ra, Vôtini là một kẻ hợm ḿnh thực,
nhưng ḷng anh không độc v́ từ lúc ấy,
anh kém vui và có vẻ nghĩ ngợi.
17.- Tính khoe khoang
Thứ hai, ngày mồng 5
Hôm qua, tôi đi chơi với anh Vôtini và
cha anh. Khi qua phố Đôra, chúng tôi
thấy anh Xtađia đang quay lại đá vung
mấy người bạn đă vô ư dẫm phải chân anh
trong khi anh mải nh́n một bản địa đồ
treo trong hiệu sách ( v́ anh học cả ở
ngoài trường ). Chúng tôi gọi, anh chỉ
hơi chào trả, thực là thiếu lịch sự !
Chúng tôi mặc anh và thẳng đường đi. Tôi
để ư nh́n anh Vôtini th́ bao giờ anh
cũng ăn mặc xa hoa quá thể, đối với một
đứa trẻ con như anh. Giày da dê, áo nẹp
thêu, mũ phớt trắng, đồng hồ vàng. Anh
ra bộ giương giương tự đắc lắm, nhưng
lần này th́ bị nhụt !
Cha anh thủng thỉnh đi sau, c̣n anh và
tôi th́ chạy trước. Chúng tôi đến một
cái ghế đá, đă thấy có một cậu bé cúi
đầu ngồi nghỉ, vẻ mệt nhọc. Một người
đàn ông nữa, có lẽ là cha cậu, đi tản bộ
dưới bóng cây, xem báo. Hai chúng tôi
cùng ngồi ghế. Anh Vôtini len ngồi giữa
tôi và cậu bé và t́m cách làm cho cậu
chú ư đến ḿnh.
Anh giơ một chân lên hỏi tôi :
− Anh đă xem đôi giày bốt tin kiểu "sĩ
quan" của tôi rồi chứ ?
Anh nói thế cốt để cậu bé kia nh́n đôi
giày mới của anh nhưng cậu bé không hề
liếc mắt.
Thấy vô hiệu, anh bỏ chân xuống rồi vừa
trỏ vào những cái "lon" kim tuyến ở tay
áo, vừa liếc sang cậu bé mà bảo tôi rằng
:
− Này anh ! Lối viền này coi rợn quá !
Tôi định thay bằng bộ cúc bạc !
Nhưng cũng phí lời, v́ cậu bé ngồi yên
như thường.
Anh Vôtini liền đặt mũ lên ngón tay trỏ
quay tít. Cậu bé nhất định không nh́n.
Tức ḿnh, anh rút luôn đồng hồ , mở nắp
cho tôi xem các bánh xe. Nhưng cậu hàng
xóm vẫn không nhúc nhích.
Tôi hỏi :
− Đồng hồ anh mạ vàng ?
Anh đáp :
− Không. Bằng vàng cả.
− Nhưng bao giờ người ta cũng pha ít bạc
vào.
− Không. Tôi cam đoan với anh rằng đồng
hồ tôi toàn vàng.
Rồi cố ư bắt cậu bé kia phải trả lời,
anh giơ đồng hồ ngang mặt cậu và nói :
− Này anh coi, có phải bằng vàng cả
không ?
Cậu kia trả lời cụt ngủn.
− Tôi không biết.
Như bị trêu chọc, Vôtini kêu :
− A ! A ! Làm bộ nhỉ !
Anh vừa kêu th́ cha anh lại. Ông nh́n
cậu bé rồi vội bảo anh :
− Im !
Xong ông ghé vào tai anh nói nhỏ :
− Đứa bé khốn nạn này mù, con ạ !
Vôtini nh́n kỹ cậu bé th́ thấy hai con
ngươi trơ như cùi nhăn.
Anh kinh ngạc, cứng người, mắt nh́n
xuống đất, lẩm bẩm :
− Chết chửa ! Ḿnh không biết...
Cậu bé mù, hiểu cả, nở một nụ cười tử tế
thoảng qua nét buồn nói :
− Không hề ǵ...
Xét ra, Vôtini là một kẻ hợm ḿnh thực,
nhưng ḷng anh không độc v́ từ lúc ấy,
anh kém vui và có vẻ nghĩ ngợi.
19.- Quả cầu tuyết
Thứ sáu, ngày 16
Tuyết xuống măi !
V́ tuyết mà sau buổi học sáng nay đă xảy
ra một chuyện đáng tiếc. Một lũ học tṛ
ra khỏi cửa trường được một quăng, liền
viên tuyết ném nhau, những ḥn nặng và
rắn như đá. Lúc ấy trên hè đông người đi
lại. Một người khách qua đường kêu :
− Đừng ném nữa ! Những thằng ranh kia !
Th́ ngay lúc ấy, bên kia đường có tiếng
rú lên, một ông già, hai tay bưng mắt,
đang bước lảo đảo, cạnh có đứa bé con
kêu cứu ầm ĩ.
Mọi người đổ đến. Ông già khốn khổ đă bị
một quả cầu tuyết trúng mắt. Lũ học tṛ
chạy trốn. Tôi đang đứng ở cửa một hiệu
sách đợi cha tôi vào mua, thấy mấy anh
bạn chạy lại đứng ngoài tủ kính giả vờ
xem : nào anh Garônê, nào anh Côretti,
nào "chú phó nề", nào anh Garôpphi.
Lúc ấy, mọi người đều xúm xít chung
quanh ông già bị nạn : một viên cảnh
binh dậm doạ hỏi :
− Đứa nào ? Đứa nào ném ? Bắt nó ra đây
!
Người ta t́m những đứa trẻ con khám xem
tay ai ướt. Garôpphi đứng cạnh tôi mặt
xám như gà cắt tiết.
Công chúng vẫn gào :
− Đứa nào ? Đứa nào ném ?
Tôi thấy anh Garônê bảo anh Garôpphi :
− Ra đi ! Anh cứ ra nhận đi ! Đừng để
người khác bị bắt oan. Garôpphi run như
cầy sấy, đáp : - Nhưng tôi có định ném
ông ta đâu !
− Dù sao anh cũng phải làm bổn phận của
anh.
− Tôi sợ lắm.
− Không việc ǵ, anh cứ theo tôi.
Viên cảnh binh và công chúng càng gào to
:
− Đứa nào ? Bắt bằng được ! Nó ném vỡ
kính đâm mù mắt ông già rồi !
Nghe thấy thế Garôpphi rủn người như sắp
ngă xuống đất.
Garônê quả quyết giục :
− Cứ ra, tôi sẽ bênh vực cho anh.
Nói xong, Garônê đưa Garôpphi ra và ôm
đỡ anh như một bệnh nhân.
Trông thấy, công chúng hiểu ngay đó là
tội nhân, họ hung hăng kéo đến.
Garônê đứng che cho bạn và nói :
− Có phải mười người lớn định đánh một
đứa trẻ con không ?
Họ đều thôi. Viên cảnh sát đến lôi
Garôpphi qua đám đông người điệu vào một
cửa hàng là chỗ người ta đă đưa ông già
vào ngồi tạm.
Trông ông già, tôi nhận ngay ra là một
người làm công trọ ở tầng gác thứ tư,
nhà tôi ở. Ông ngồi tựa lưng vào ghế,
tay cầm mùi soa ấp mắt người cháu đứng
cạnh ông.
Garôpphi mặt tái mét vừa khóc vừa nói :
− Tôi có định ném cụ ấy đâu. Tôi lỡ
tay...
Hai ba người đẩy mạnh anh vào hàng và
thét :
− Phải quỳ xuống xin lỗi !
Nhưng, ngay lúc ấy, có hai cánh tay mạnh
mẽ nâng anh dậy và một giọng quả quyết
buông ra :
− Thưa các ngài, không được !
Đó là ông hiệu trưởng trường tôi : ông
đă nh́n rơ tấn kịch ấy.
Garôpphi nức nở khóc, hôn tay ông già.
Ông lăo rờ đầu và xoa tóc anh, tỏ ư tha
thứ cho một đứa trẻ đă biết hối.
Lát sau, người ta cho Garôpphi về.
Cha tôi cũng kéo tôi về. Đi đường cha
tôi hỏi :
− Enricô ơi ! Gặp những trường hợp như
thế, con có can đảm ra thú lỗi không ?
Tôi đáp :
− Thưa cha, có.
− Con giữ lời chứ ?
− Vâng, con xin thề với cha như thế !
20.- Các cô giáo trường tôi
Thứ bảy, ngày 17
Hôm nay, Garôpphi ra trường có vẻ lo
lắng v́ chắc thế nào cũng bị thầy giáo
quở phạt. Nhưng ông Perbôni nghỉ mà thầy
giáo phụ cũng không đến, chỉ có bà Crôme
là bà giáo có tuổi nhất trường đến dạy
thay. Hôm nay bà có vẻ buồn v́ con bà
ốm. Bà bước chân vào lớp, học tṛ đă làm
rầm lên. Bà chậm răi nói : "Các con nên
trọng mái tóc bạc của ta một chút ! Ta
không những là một bà giáo, ta c̣n là
một người mẹ ! ".
Ai nấy đều nín thít. Ngỗ nghịch như anh
Phơranti cũng đành chịu nói thầm.
Cô Đelcati, dạy em tôi lên thay bà
Crôme, c̣n lớp cô th́ để cho cô "Mụ nhà
ḍng " coi giúp ; người ta hay gọi thế
v́ cô hay mặc đồ thâm. Cô da trắng, tóc
trơn, mắt sáng, giọng lại thanh tao h́nh
như trời sinh ra chỉ để đọc kinh cầu
nguyện. Tuy nhiên cái giọng êm ái ấy
cũng có oai quyền, khiến cho đám trẻ
phải kinh sợ ; những trẻ nghịch ngợm
nhất ở trước mặt cô cũng phải thúc thủ.
Trong trường c̣n một cô giáo nữa tôi rất
quí mến là cô giáo lớp sơ đẳng. Cô sắc
mặt hồng hào, má lúm đồng tiền, đầu đội
mũ gài lông đỏ. Cô tính t́nh hoà nhă,
trên môi lúc nào cũng nở một nụ cười,
dạy học rất vui. Cô luôn luôn gơ thước
xuống bàn hoặc vỗ tay cho học tṛ ngồi
im. Lúc học tṛ ra, cô thường theo sau
để giữa cho chúng đi thẳng hàng, xóc cổ
áo cho em này, gài khuy áo cho em khác,
theo ra tận đầu phố cho chúng khỏi đánh
nhau, ngọt ngào nói với cha mẹ chúng về
nhà đừng đánh phạt chúng. Em nào ho th́
phát kẹo thuốc, em nào rét th́ cho mượn
bao tay. Lúc nào, cô cũng bị học tṛ vây
đón tíu tít, kẻ kéo khăn quàng. Người
lôi cổ áo...
Cô chịu khó lắm, vưà dạy chữ vừa dạy vẽ.
Cô đi làm để nuôi mẹ và em.
21.- Thăm ông già bị nạn
Chủ nhật, ngày 18
Cháu ông già bị thương hôm nọ học lớp cô
giáo nhu hoà, vui vẻ mà tôi vừa kể
chuyện. Hôm nay tôi cũng trông thấy anh
v́ anh ở với ông nuôi nấng như con đẻ.
Tôi vừa chép xong câu chuyện hàng tháng
nhan đề là "Chàng viết mướn thành
Phirenzê" để đọc tuần sau th́ cha tôi
bảo :
− Ta lên tầng thứ tư xem tin tức ông già
hôm nay ra sao?
Chúng tôi lên gác, t́m vào một căn pḥng
tối ṃ. Ông già đang ngồi trong giường,
chống tay lên gối. Bà vợ đứng đầu
giường, người cháu đang chơi. Mắt ông
c̣n buộc băng. Thấy cha tôi đến, ông
mừng rỡ mời ngồi và nói hôm nay ông đă
khá nhiều. Mắt ông không việc ǵ, mai
kia sẽ khỏi hẳn. Ông nói tiếp : "Thật là
một cái hạn ! Tôi chỉ thương cho thằng
bé hôm ấy bị khiếp sợ quá !"
Chợt có tiếng gơ cửa, ông tưởng bác sĩ
đến thăm, nhưng cửa vừa hé tôi nh́n thấy
anh Garôpphi trùm áo măng tô lù lù đứng
ngoài, mắt nh́n xuống đất, không dám
bước vào.
Ông già hỏi :
− Ai đấy ?
Cha tôi đáp :
− Đứa trẻ ném tuyết hôm nọ đấy.
Ông già gọi :
− Con vào đây. Con đến hỏi thăm người bị
thương phải không ? Con hăy yên tâm. Hôm
nay ta đă bớt nhiều.
Garôpphi thẹn thùng lại cạnh giường và
cố nuốt nước mắt. Ông già xoa đầu anh,
anh cảm động quá không nói được lời nào
!
Ông già nói tiếp :
− Cảm ơn con đă đến thăm ta. Con về nói
với cha mẹ con rằng ta sắp khỏi hẳn và
không việc ǵ để người khỏi băn khoăn.
Garôpphi không nhúc nhích, coi bộ nghĩ
ngợi, h́nh như anh có điều ǵ trong ḷng
chưa dám nói ra .
Ông già hỏi :
− Con muốn ǵ ?
− Thưa cụ, không.
− Thôi ! Chào con ! Con cứ về đi, đừng
lo lắng ǵ nữa.
Garôpphi trở ra, song không hiểu sao anh
lại đứng lại nh́n người cháu ông già
cḥng chọc rồi bỗng dưng rút ở túi ra
một gói giấy nhét vào tay cậu bé và bảo
:
− Anh cho em.
Nói xong, anh chạy liền.
Cậu bé đem giấy lại cho ông già mở xem.
Tôi ngạc nhiên quá, v́ đó chính là quyển
sổ quư báu của anh : "Quyển tem các
nước" mà anh đă sưu tập từ lâu, quyển sổ
mà anh đă đặt bao nhiêu hy vọng và tốn
biết bao nhiêu công tŕnh ! Tóm lại, nó
là cái bảo tàng của anh, nó là huyết
mạch của anh xẻ ra, nay anh thành tâm
đem lại để chuộc tội.
22.- Chàng viết mướn thành Phirenzê
( Truyện đọc hàng tháng )
Cậu bé là học tṛ lớp bốn sơ đẳng, quê ở
thành Phirenzê mới 12 tuổi, người coi
khôi tráng, thông minh, tóc đen, da
trắng. Cậu là con đầu ḷng một viên kư
ga, lương ít, nhà lắm miệng ăn, v́ thế
sinh kế rất eo hẹp. Cha cậu quí cậu lắm,
nhưng đến việc học th́ rất nghiêm khắc
v́ cậu đă lớn, cần phải học gấp cho
chóng đủ sức đi làm, kiếm đỡ gia đ́nh.
Cha cậu đă có tuổi, lại lo nghĩ nhiều
nên trông già xọm. Thế mà ngoài việc sở
ra, cha cậu c̣n nhặt việc ngoài để kiếm
thêm và đêm nào cũng thức khuya làm
việc.
Ông vừa nhận được việc viết "băng" báo,
cứ 500 tờ th́ được 3 lira. Nhưng việc
này có phần khó nhọc, nên tối đến, lúc
cơm ông thường phàn nàn :
− Mắt ta độ này kém quá. Làm việc đêm
hại người thực !
Một hôm cậu con nói :
− Thưa cha, để con làm đỡ v́ con viết
được.
Cha đáp :
− Không. Con c̣n phải học. Công việc nhà
trường c̣n quan hệ hơn việc viết "băng"
nhiều. Cảm ơn con. Cha không muốn thế.
Biết không thể nào làm lay chuyển được
ḷng cha. Cậu thôi không nài nữa và nghĩ
cách khác.
Một đêm, đợi cho cha viết mỏi tay đi
ngủ, cậu khẽ dậy, lần ra pḥng giấy,
thắp đèn rồi ngồi vào bàn bắt chước lối
chữ của cha viết rất nhanh nhẹn. Tập
"băng" đă thành đống cao, cậu đếm được
160 tờ. Thế là làm thêm được 1 lira. Cậu
nghỉ tay rồi rón rén về buồng ngủ.
Hôm sau cha cậu vui vẻ bảo cậu :
− Giuliô ơi ! Cha c̣n có sức làm việc
hơn là con tưởng. Đêm qua, trong hai
tiếng đồng hồ, cha đă viết hơn mọi hôm
đến quá một phần ba. Tay ta c̣n lẹ mắt
ta c̣n tinh.
Giuliô sung sướng , tự nhủ ḷng :
− Không những kiếm được thêm tiền , ta
c̣n làm cho cha vui sướng tưởng ḿnh trẻ
ra. Ta hăy gắng lên !
Cậu làm như thế luôn một tháng. Thức
nhiều sinh mệt. Một tối kia, cậu ngủ gật
trong khi học bài.
Hôm sau cha cậu mắng :
− Độ này con đổi tính nhiều quá, trước
con có thế đâu ! Con nên nhớ rằng tất cả
hy vọng của nhà ta đều đặt vào tương lai
của con. Cha rất không bằng ḷng con.
Bị cha mắng, cậu định từ nay thôi không
viết nữa.
Nhưng đến chiều, cha cậu về, vui vẻ báo
cho nhà biết rằng tháng này cha cậu lĩnh
được 32 lira hơn tháng trước. Cha cậu
lại mua một gói kẹo lớn về phân phát cho
các con. Các em cậu vỗ tay reo mừng .
Thấy thế, cậu lại quả quyết làm như
trước và tự nghĩ :
− Ta phải gắng hơn chút nữa ! Ban ngày
ta học, ban đêm ta viết để cho cha và
các em ta được sung sướng.
Cậu viết như thế luôn bốn tháng. Bốn
tháng đêm thức ngày mệt ! Bốn tháng bị
cha giày ṿ hắt hủi.
Sang tháng thứ năm, cậu quyết ḷng nghỉ
viết để khôi phục lại t́nh yêu dấu của
cha, nhưng đêm đến, cậu lại nhớ giấc
dậy. Cậu muốn nh́n lại lần cuối cùng
trong bầu không khí b́nh tĩnh ban đêm,
cái pḥng con kia, nơi mà cậu đă làm
việc lén trong bấy nhiêu lâu. Đèn thắp,
cậu đứng trước bàn nh́n tập "băng" trắng
mà cậu sẽ không bao giờ được viết nữa,
những tính danh và địa chỉ cậu đă thuộc
làu, ḷng cậu bỗng thấy bồi hồi. Rồi bất
giác, cậu lại ngồi xuống làm việc. Tay
cậu đụng rơi quyển sách xuống đất. Cậu
rùng ḿnh sợ hăi. Chết ! Cha cậu dậy th́
sao ?
Cậu nín thở và lắng tai, nhưng không
nghe thấy ǵ. Im cả ! Cả nhà đang ngon
giấc. Cậu yên tâm cầm bút viết lia lịa.
Lúc ấy, cha cậu vẫn đứng sau cậu mà cậu
không biết, v́ nghe tiếng sách rơi, cha
cậu nghe ngóng một lúc lâu rồi rón rén
ra. Phải ! Cha cậu đứng đấy mái tóc bạc
cúi trên mái tóc xanh ! Phải ! Cha cậu
đứng đấy, mắt nh́n ngọn bút ḷng cảm
thương con !...
Bỗng cậu Giuliô thét lên một tiếng , có
hai bàn tay run run ôm lấy đầu cậu.
Nghe tiếng nức nở, cậu biết ngay là cha,
liền nói :
− Cha ơi ! Xin cha tha lỗi cho con !
Cha cậu, cúi hôn cậu, nước mắt rỏ cả lên
trán :
− Giuliô yêu quí của cha ! Con đừng giận
cha nhá ! Cha đă hiểu cả. Chính cha phải
xin lỗi con mới phải.
Nói xong, cha cậu ôm cậu vào giường mẹ
cậu và bảo :
− Hôn con đi! Đă bốn tháng nay nó không
ngủ để làm việc thay ta. Ta đă phụ bạc
nó trong khi nó kiếm gạo nuôi cả gia
đ́nh !
23.- Ḷng biết ơn
Thứ bảy, ngày 31
Enricô của cha,
Con ơi ! Con có ư oán thầy giáo con v́
người đă nóng quá. Con nghĩ lại xem đă
bao nhiêu lần con gắt gỏng, mà gắt gỏng
với ai ? Với cha con, với mẹ con là
những người đáng lẽ con phải kính nể.
Thầy giáo con đôi khi nóng nẩy, không
phải là không có cớ. Đă bao nhiêu năm,
người khó nhọc dạy trẻ. Trừ một vài đứa
có nghĩa và ở thuỷ chung với thầy, c̣n
phần đông là những kẻ vong ân, chúng đă
phụ ḷng tốt của người và không nghĩ đến
công lao của người. Hết thảy bọn chúng
con đều giê cho thầy những mối ưu phiền
hơn là những sự như ư. Một người hiền
lành nhất trên trái đất này, ở vào địa
vị thầy, cũng phải đâm ra tức giận. Lắm
phen, trong ḿnh khó xử, thầy cũng phải
gắng đi làm v́ không đến nỗi phải nghỉ,
con có biết đâu ! Thầy gắt v́ thầy đau,
nhất là những khi thầy thấy các con biết
rơ là thấy yếu lại thừa cơ nghịch ngợm
th́ thầy đau khổ biết dường nào !
Con ơi ! Phải kính yêu thầy giáo con.
Hăy yêu thầy v́ cha yêu thầy và trọng
thầy . Hăy yêu thầy, v́ thầy đă hy sinh
đời thầy để gây hạnh phúc cho biết bao
nhiêu đứa trẻ sẽ quên thầy. Hăy yêu thầy
v́ thầy mở mang trí tuệ và giáo hoá tâm
hồn cho con. Rồi đây, con sẽ trưởng
thành, thầy cùng cha sẽ không c̣n ở trên
đời này nữa, lúc ấy con sẽ thấy h́nh ảnh
thầy thường hiển hiện ở cạnh cha, lúc ấy
con sẽ thấy nét đau đớn và lao khổ trên
mặt thầy làm cho con phải cực ḷng mặc
dầu đă cách hàng 30 năm. Rồi con tự thẹn
và con ân hận đă không yêu người và trái
đạo với người.
Hăy yêu thầy v́ thầy là người của cái
gia đ́nh giáo thụ lớn lao kia ở rải rác
trên địa cầu, cái gia đ́nh ấy dạy dỗ
hàng triệu đứa trẻ cùng lớn với con. Nếu
con chỉ biết yêu cha mà không nghĩ đến
những vị đă làm ơn cho con mà ông thầy
đứng vào bậc nhất th́ cha chẳng được hài
ḷng.
Hăy yêu thầy như cha ; yêu thầy như
những khi thầy vuốt ve con, yêu thầy cả
những khi thấy mắng mỏ con, yêu thầy khi
thầy không công bằng và cả những khi con
tưởng thầy có ư thiên vị ! Yêu thầy khi
thầy tươi vui, nhưng càng yêu thầy khi
thầy buồn bă. Và bao giờ con cũng phải
đọc tiếng "thầy" một cách trân trọng v́
sau tiếng "cha" th́ tiếng "thầy" là
tiếng cao quí hơn cả, là tiếng đẹp đẽ
hơn cả mà một người có thể đem tặng
người khác."
Cha con.
24.- Thầy giáo phụ
Thứ tư, ngày mồng 4
Giờ tôi mới biết cha tôi nói phải. Ông
Perbôni sở dĩ hay gắt là v́ trong người
không được khoẻ. Thực vậy, đă ba hôm
nay, có thầy giáo phụ đến dạy thay.
(Thầy nhỏ người, không râu, c̣n trẻ
lắm). Sáng nay đă xảy ra câu chuyện
không hay cho thầy. Ngay hôm đầu và hôm
thứ nh́, học tṛ cũng đă làm rầm lớp v́
thầy hiền quá, chỉ bảo :
− Ngồi im ! Xin các em ngồi im !
Và chẳng phạt ai cả.
Đến hôm nay th́ quá lắm. Học tṛ làm rầm
đến nỗi nói không nghe thấy tiếng ǵ.
Thầy kêu, thầy xin, nhưng mất công vô
ích. Đă hai lần ông hiệu trưởng phải
xuống xem, nhưng khi ông đi khỏi rồi th́
đâu lại hoàn đấy, cứ ào ào như cái chợ
con. Garônê và Đêrôxi nhiều lần quay lại
ra hiệu cho anh em ngồi im và bảo họ như
thế là vô hạnh song cũng phí công. Chả
ai thèm để ư. Chỉ có anh Xtađi là ngồi
im, hai khuỷu tay chống xuống bàn, hai
bàn tay ôm lấy thái dương, có lẽ anh
đang tơ tưởng về cái tủ sách của anh ở
nhà và anh chàng "góp tem" là Garôphi
đang biên tên những bạn đă bỏ ra một xu
để "đánh số" lấy cái lọ mực con. C̣n các
học tṛ khác, người th́ cười, người th́
lấy bút gơ xuống bàn, người dùng nịt cao
su làm súng, vê giấy làm đạn bắn lẫn
nhau.
Thầy giáo phụ chạy xuống, lúc kéo người
này, lúc lôi người kia lên bắt đứng quay
mặt vào tường nhưng cũng không sao dẹp
nổi.
Phranti lao mũi tên giấy vào lưng thầy,
rồi kẻ huưt c̣i, người kêu meo meo, kẻ
hát người ném mũ làm cầu. Thực là một
cảnh hỗn loạn khôn tả. Chợt người gác
cổng vào gọi :
− Mời thầy lên, ông hiệu trưởng hỏi.
Thầy giáo phụ đổi sắc mặt, rảo bước ra.
Bấy giờ sự huyên náo lại càng tăng.
Không thể chịu được, Garônê liền đứng
dậy, nắm tay, trợn mắt quát :
− Thôi đi, các anh là những kẻ rồ dại !
Các anh đă lạm dụng ḷng tốt của thầy
giáo phụ ! Có đánh vào xác các anh th́
các anh mới sợ, c̣n thương các anh th́
các anh lại nhờn, như thế là hèn lắm !
Lát nữa thầy giáo phụ về nếu ai c̣n làm
ồn ào hoặc làm tṛ cười, lúc tan học sẽ
biết tay tôi ! Cha mẹ các anh dù có đấy,
tôi cũng không ngại, chắc chắn cha mẹ
các anh sẽ cho việc tôi làm là phải.
Ai nấy đều nín thít. Rồi, mắt sáng quắc
như con sư tử hằm hè, anh nh́n khắp lượt
những cậu bướng bỉnh và hay nghịch nhất
; các cậu đều cúi đầu.
Lát sau, thầy giáo phụ, mắt đỏ, trở về,
ngạc nhiên thấy lớp học yên lặng như tờ.
Sau khi nh́n Garônê thấy mặt hăy c̣n
bừng bừng phẫn khí, thầy hiểu ngay và
bằng giọng thân ái như đối với bạn, thầy
nói :
− Cảm ơn em Garônê .
Tức th́ cả lớp vỗ tay.
Thế mới gọi là một đứa trẻ có nghĩa khí
!
25.- Đứa con người thợ rèn
Thứ năm, ngày 12
Prêcotxi, con người thợ rèn, là một đứa
trẻ xanh xao, nét mặt lúc nào cung buồn
rầu, sợ sệt, một đứa trẻ nhút nhát đến
nỗi bất cứ phải trái đều nhận lỗi cả.
Prêcotxi ốm yếu luôn nhưng vẫn cố học.
Theo lời người ta nói th́ cha anh mỗi
khi uống rượu say về, v́ một cớ nhỏ mọn,
cung đánh đập anh và ném tung sách vở.
Cậu bé khốn khổ thường đến trường với
những vết thâm tím đầy mặt ; có khi khóc
nhiều, mắt cậu đỏ và sưng húp lên.
Nhưng không bao giờ, không đời nào người
ta lại bắt đuợc cậu thú nhận rằng :
chính cha cậu đă đánh cậu.
Có hôm thầy vừa chỉ vào chỗ vở cháy vừa
hỏi :
_... Nhưng mà có phải chính con đă đánh
cháy trang giấy này không ?
Giọng run run, cậu đáp :
− Vâng, con chót dại, xin thầy tha con !
Nhưng các bạn đều rơ chính cha cậu làm
cháy vở cậu, v́ trong khi chếch choáng,
cha cậu vấp ngă đổ đèn vào vở cậu.
Prêcotxi ở trên "rầm thượng" nhà tôi, v́
thế vợ người gác cổng hay đem chuyện nói
với mẹ tôi.
Một hôm em gái tôi nghe thấy Prêcotxi bị
cha đá ngă lộn nhào xuống thang gác, v́
anh đă lải nhải xin một hào để mua quyển
văn phạm. Cha anh cả ngày chỉ thích uống
rượu và chẳng làm ǵ cả. V́ thế, gia
đ́nh anh rất túng thiếu. Lắm hôm, anh
nhịn đói đi học : lúc ra chơi, bất đắc
di anh phải cầm lấy mẫu bánh của bạn
đứng góc sân ăn hay gặm một quả táo mà
bạn đă cho giấu trong lớp.
Tuy thế, không bao giờ anh hé miệng phàn
nàn :
− Tôi đói lắm ! Cha tôi không cho tôi
ăn.
Thỉnh thoảng nhân dịp qua trường, cha
anh đứng lại đón anh hai mắt đỏ ngầu,
chân đi thất thiểu, đầu bù, mu lệch !
Trông thấy bóng cha ngoài phố, cậu bé
luống cuống, nhưng cũng tươi cười chạy
lại. Song cha cậu nh́n đi đâu và nghi
việc ǵ. Thương hại thay cho anh
Prêcotxi ! Lắm khi anh phải đóng lại vở
rách và mượn bạn cùng ghế những sách anh
không có. Anh cài áo bằng những ghim
băng. Đến khi anh tập vơ coi mới thiểu
năo ! Giầy th́ to và rộng, quần th́ rách
tươm, áo th́ lụng thụng và cụt cả tay.
Thế mà anh vẫn ham học, vẫn cố học. Nếu
sự học của anh đuợc đầy đủ , đuợc săn
sóc nhu ở các gia đ́nh khác th́ anh đă
ngồi đầu lớp tự bao giờ. Đáng tiếc cho
anh !
Sáng nay, anh đến trường với một vết
thương ở má. Chúng bạn hỏi :
− Thôi ! Chính là cha anh lại đánh anh
rồi ! Lần này không giấu đuợc nữa nhé !
Vào thưa ông hiệu trưởng đi, để mời cha
anh lên Cẩm !
Anh đỏ mặt, nói giọng run run và đầy tức
giận :
− Nói bậy ! Cha tôi đánh tôi bao giờ ?
Nhưng trong giờ học, những giọt lệ ở mắt
anh đă lă chă rơi xuống bàn. Có kẻ nh́n
anh, anh lại gượng cười để che ḷng đau
khổ.
Tội nghiệp thay cho anh Prêcotxi !
26.- Phranti bị đuổi
Thứ bảy, ngày 21
Trong bọn học tṛ lớp tôi, có anh
Phranti là khó chịu hơn cả. Tôi ghét anh
quá v́ anh là một đứa trẻ quái ác. Hễ
thấy cha mẹ bạn nào đến mách con cùng
thầy là anh thích chí. Hễ thấy ai khóc
th́ anh cười. Anh sợ anh Grarônê một
vành nhưng lại bắt nạt "chú phó nề" hết
cách v́ chú không chống cự được. Anh
trêu chọc anh Crotxi, một người học tṛ
bị liệt tay, anh chế giễu anh Prêcotxi
là người ai cũng quí, anh chọc ghẹo cả
đến anh Robetti học tṛ lớp hai, phải
chống nạng v́ cứu một đứa trẻ con. Anh
hay sinh sự với những bạn yếu nhất, lúc
đánh nhau th́ anh hung tợn như con thú
dữ và nhè đánh những miếng đ̣n rất nguy
hiểm.
Người ta bảo : mẹ anh buồn v́ anh mà
thành bệnh và ba lần cha anh đă đuổi anh
ra khỏi nhà. Thỉnh thoảng mẹ anh lại ra
trường hỏi về hạnh kiểm của anh, nhưng
lần nào mẹ anh cũng phải rơi lệ trở về.
Phranti ghét thầy, ghét bạn, ghét cả nhà
trường. Thầy giáo thường làm ngơ không
thèm để tai những lời thô tục của anh,
tưởng hay, anh lại nói già. Thoạt tiên
thầy c̣n dùng lời ngọt để cảm hoá anh,
song lời khuyên đối với anh như nước đổ
đầu vịt, thầy phải đe doạ, anh lấy tay
che mặt, ai cũng tưởng anh khóc, trái
lại, anh cười. Cuối cùng thầy phải tạm
đuổi anh trong ba hôm. Lúc đi học anh
lại "mất dạy" hơn trước.
Sáng nay, lúc thầy đưa bản thảo câu
chuyện hàng tháng , nhan đề là "chú lính
đánh trống , người đảo Xarđenha" cho anh
Garônê chép, bỗng có một tiếng nổ như
tiếng súng làm chuyển cả trường, ai nấy
đều giật nẩy ḿnh, th́ ra Phranti đă
châm pháo ném vào góc lớp .
Thầy quát :
− Phranti ! Ra cửa ngay !
Phranti vừa cười vừa căi :
− Không phải con.
Thầy lại nói :
− Ra ngay !
− Con không đi đâu cả !
Nghe câu trả lời hỗn xược ấy, thầy mất
cả b́nh tĩnh, nhảy vào cầm tay Phranti
lôi ra. Thằng vô lại nó vùng vằng , giẫy
giụa và nghiến răng kêu. Thầy phải dùng
sức mới lôi nổi nó lên bàn giấy ông hiệu
trưởng. Một lát sau ông Perbôni về lớp,
ngồi vào bàn giấy, vẻ mệt nhọc, buồn rầu
buông một tiếng thở dài :
− Ta đi dạy học đă 30 năm, chưa từng có
chuyện lạ như hôm nay bao giờ !
Học tṛ ngồi im không nhúc nhích. Tay
thầy giáo c̣n run, vết nhăn trên trán
thầy lũng xuống như một vết thương .
Trông thấy, ai nấy đều mủi ḷng.
Bỗng anh Đôrôxi đứng dậy nói :
− Thưa thầy, xin thầy đừng buồn. Tất cả
chúng con ngồi đây đều kính mến thầy.
Thầy khẽ gật đầu và bảo :
− Chép bài đi ! Các con.
o0o
|