Tuổi nó khoảng hăm ba hăm lăm. Thân h́nh nó chẳng c̣n dáng dấp
lực sĩ thiếu niên Hy Lạp bao nhiêu nữa. Nó đă bỏ công tránh ra
nắng để giữ một nước da trắng như sữa, nhưng đến nay sắc đẹp của
nó đă bắt đầu phôi pha rồi.
Nhưng ở trại khổ sai nó có được nhiều bồ hơn ở ngoài. Ngoài
thằng bồ một là thằng A-rập ra, nó c̣n kiếm được khách trả hăm
lăm quan một lần chơi, hệt như một con điếm ở phố Rochechouart
khu Montmartre. Ngoài cái khoái cảm mà khách chơi đem lại cho
nó, nó c̣n thu được món tiền đủ cho nó và “chồng” nó sống phong
lưu. Cả lũ chúng nó cố t́nh ngập ngụa trong dâm ô, và kể từ ngày
chúng đặt chân lên mảnh đất tù tội, đầu óc chúng chỉ biết có một
lư tưởng là thỏa măn được t́nh dục.
Viên biện lư đă làm rùm beng lên để khép tội chúng, đẩy chúng
vào con đường thối rữa. Nhưng trong cảnh thối rữa đó, chúng lại
t́m thấy hạnh phúc. Sau khi tấm ván đă được đóng lại sau đôi
mông tṛn của thằng pê-đê, chỉ c̣n lại ba đứa chúng tôi: Chang,
Sylvain và tôi.
- Đi thôi. Chúng tôi nhanh chóng tiến về phía Bắc đảo
Chúng tôi đi vào hang lấy hai chiếc bè ra. Cả ba chúng tôi bị
ướt như chuột ngay tức th́. Gió ào ào thổi, tiếng rít của nó là
tiếng rít đặc biệt của gió lộng, của biển khơi giận dữ. Sylvain
và Chang giúp tôi đưa bè lên đỉnh mỏm đá. Phút cuối cùng, tôi
quyết định buộc chặt cổ tay trái của tôi vào sợi thừng buộc bao
tải. Bỗng nhiên tôi sợ bị tách ra khỏi bao tải và bị cuốn ra xa
nó. Chang cũng giúp Sylvain lên được tảng đá trước mặt tôi.
Trăng đă lên cao, nên trông sáng như ban ngày. Tôi quấn một cái
khăn mặt lên đầu. Chúng tôi phải đợi sáu con sóng. Hơn nửa giờ.
Chang đă đến gần tôi. Anh ôm cổ tôi. Anh nằm trên tảng đá và tựa
vào một hốc đá thật chắc, anh nắm chân tôi để giúp tôi chịu được
cú dập của Lisette.
- Chỉ c̣n con sóng này nữa là đến nó đấy, - Sylvain hét to.
Anh đứng trước bè của anh, đưa cả thân ḿnh chống đỡ khối nước
ập xuống anh. Tôi cũng ở trong tư thế như vậy, c̣n được tay
không giữ thật chắc, nhưng anh quá căng thẳng, móng tay anh bấm
ngập vào bắp vế tôi.
Con sóng Lisette đưa chúng tôi đi đă tới. Nó thẳng đứng như một
cái tháp chuông nhà thờ. Với tiếng gầm váng óc quen thuộc, nó
đập mạnh vào hai tảng đá và luồn mạnh về phía vách đá.
Tôi lao xuống trước bạn tôi một tích tắc. Sylvain cũng lao xuống
gọn gàng không kém, và cả hai cái bè của chúng tôi cũng được
Lisette hút ra khơi nhanh đến chóng mặt. Chưa đến năm phút sau,
chúng tôi đă ở cách xa bờ hơn ba trăm mét. Sylvain chưa leo lên
bè của anh. Hai phút sau, tôi đă ngồi trên bè của tôi. Chang
chạy vội lên chiếc ghế của Dreyfus đứng dơ một chiếc khăn tay
trắng để chào từ biệt. Chúng qua khỏi được điểm nguy hiểm, chỗ
sóng tập trung lại để xô thẳng vào Đảo Quỷ. Những cơn sóng đẩy
chúng tôi ra khơi dài hơn, gần như không có bọt, êm đến nỗi
chúng tôi ḥa với chúng làm một, tôi mà không bị xóc, không sợ
bè bị lật.
Chúng tôi từ từ ra khơi một cách êm ái, lên xuống theo những lớp
sóng cao thấp, v́ thủy triều đang lấp xuống. Trên đỉnh cao một
ngọn sóng, quay hẳn mặt lại tôi c̣n được trông thấy một lần nữa
tấm khăn trắng của Chang. Sylvain cách tôi không xa, chừng năm
mươi mét về phía trước. Anh dơ tay lên vẫy nhiều lần, tỏ ư vui
mừng v́ thắng lợi.
Đêm cũng dễ chịu, và chúng tôi cảm thấy sức hút của biển rất
mạnh. Nước thủy triều vừa năy cuốn chúng tôi ra khơi bây giờ lại
đẩy chúng tôi về phía đất liền. Mặt trời đang mọc ở chân trời,
như vậy là đă sáu giờ. Chúng tôi đang ở thấp dưới mặt nước nên
không trông thấy bờ. Nhưng tôi cũng nhận ra là chúng tôi ở rất
xa các đảo v́, tuy mặt trời chiếu sáng các mỏm cao của đảo,
chúng tôi chỉ thấy một khối lù lù, có thế thôi. Không thấy rơ
nét các đảo, tôi cho là chúng ở cách đấy ít ra đến ba mươi
ki-lô-mét. Tôi mỉm cười với thành công, với thắng lợi. Hay tôi
thử ngồi lên chiếc bè xem sao nhỉ? Gió thổi vào lưng tôi, có thể
đẩy tôi đi.
Và tôi đă ngồi lên. Tôi gỡ sợi xích ra và cuốn một ṿng quanh
thắt lưng. Chiếc ốc bù-loong đă bôi mỡ làm trơn, dễ vặn chặt ốc
ê-cu. Tôi hong tay trước gió cho chóng khô. Tôi t́m cách châm
một điếu thuốc. Được rồi. Tôi hít những hơi đầu, thật dài, thật
sâu và thở khói ra, từ từ. Tôi không c̣n sợ ǵ nữa. Và không cần
phải mô tả những cơn đau quặn trong bụng tôi từ trước và trong
thời gian bắt đầu hành động. Không, tôi không sợ ǵ cả, đến nỗi
hút xong điếu thuốc, tôi quyết định ăn vài miếng cùi dừa. Tôi
ngón một nắm lớn và lại hút một điếu thuốc nữa. Sylvain vẫn c̣n
xa tôi. Thỉnh thoảng khi cả hai cùng ở trên đỉnh một ngọn sóng,
chúng tôi có thể thoáng trông thấy nhau. Nắng gắt chiếu thẳng
vào đầu làm cái sọ của tôi như sôi lên. Tôi ngâm khăn mặt xuống
nước rồi quấn lên đầu. Tôi cởi áo va-rơi len ra. Tuy có gió
nhưng tôi cũng thấy chết ngột trong chiếc áo này.
Trời đất ơi! bè của tôi vừa bị lật và tôi suưt chết đuối. Tôi
uống phải hai hớp nước biển. Tuy cố hết sức tôi cũng không lật
nổi cái bao tải và leo lên trên được. Sau cùng tôi xoay nghiêng
cái bao tải và tôi bơi đứng ở bên cạnh. Tôi đă thở được dễ dàng
hơn. Tôi cố tháo hẳn sợi xích ra khỏi thắt lưng, nhưng mấy ngón
tay của tôi không vặn nổi ốc ê-cu. Tôi phát cáu, có lẽ v́ ngón
tay tôi bị co quắp lại không c̣n đủ sức để vặn ốc nữa. Hú vía!
Sau cùng, rồi cũng xong! Tôi vừa trải qua một giai đoạn ngặt
nghèo. Tôi thật sự hoảng hồn tương không thể gỡ ra khỏi sợi xích
được.
Tôi không buồn lật bè lại nữa. Mệt lả, tôi tự thấy không c̣n đủ
sức làm việc ấy. Tôi leo lên bè. Th́ ngồi trên đáy bây giờ đă
lật lên thành phía trên, cũng có sao đâu! Tôi sẽ không trói ḿnh
vào bè với sợi xích hay với bất cứ cái ǵ nữa. Bây giờ tôi đă
thấy rơ tôi buộc cổ tay tôi vào bè lúc bắt đầu khởi hành là ngu
ngốc đến nhường nào. Việc ấy phải là một kinh nghiệm đối với
tôi.
Nắng chiếu gay gắt làm cháy da tay và đùi tôi.
Mặt tôi nóng bừng bừng. Dấp nước vào c̣n tệ hại hơn, tôi nghĩ
vậy, v́ nước bốc hơi ngay tức khắc và tôi lại càng bị bỏng nặng
hơn.
Gió đă dịu đi rất nhiều, và v́ bây giờ sóng không cao nữa nên đi
dễ chịu hơn nhưng chậm hơn. Cho nên gió to và biển động thế mà
c̣n hơn là đẹp trời. Tôi bị chuột rút ở chân phải, đau đến nỗi
tôi kêu toáng lên làm như thể có người nào ở quanh đấy có thể
nghe thấy. Tôi lấy ngón tay làm dấu chữ thập lên chỗ đau, v́ tôi
nhớ bà tôi bảo làm như vậy sẽ qua được cơn đau. Cách chữa bệnh
lang vườn này thất bại thảm hại. Mặt trời đă ngả về Tây. Bây giờ
chừng bốn giờ chiều, từ lúc bắt đầu đi, đây là cơn thủy triều
thứ tư. Lần nước lên này như đẩy tôi vào bờ mạnh hơn.
Lúc này tôi trông thấy Sylvain thường xuyên và anh ta cũng trông
thấy rơ tôi. Anh rất ít khi bị khuất v́ sóng không xuống thấp
lắm. Anh đă cởi áo sơ-mi và ở trần. Anh ta ra hiệu cho tôi. Anh
ở trước tôi ba trăm mét về phía ngoài khơi. H́nh như anh đang
dùng tay chèo, v́ xung quanh anh tôi thấy nước hơi sủi bọt. Có
lẽ anh muốn hăm bè của anh cho đi chậm lại để tôi đến gần anh
được. Tôi nằm dài trên bao tải và xúc tay xuống nước để chèo.
Nếu anh ta hăm bè, c̣n tôi th́ dấn lên, có lẽ khoảng cách giữa
hai chúng tôi sẽ thu hẹp lại chăng?
Tôi đă chọn đúng bạn đường cho chuyến vượt ngục này, anh đă trăm
phần trăm xứng đáng.
Tôi thôi không chèo bằng tay nữa. Tôi thấy mỏi. Tôi cần phải giữ
sức. Tôi lại ăn và cố lật bè lại. Bọc thức ăn ở phía dưới, chai
nước ngọt cũng vậy. Tôi đói và khát. Môi tôi đă nét nẻ và bỏng
rộp lên: Cách tốt nhất để lật các bao tải là đeo lấy nó, đối
diện với sóng rồi lấy chân đạp lúc nó lên đến đỉnh sóng.
Sau năm lần làm thử, tôi đă lật được bè lại. Tôi mệt lả v́ đă cố
gắng quá sức, và khó khăn lắm tôi mới leo nổi lên bè.
Mặt trời đă xuống sát chân trời, chẳng bao lâu nó sẽ lặn. Vậy là
gần sáu giờ rồi. Cầu cho đêm đừng bị xáo động quá, v́ tôi hiểu
rằng ngâm ḿnh lâu dưới nước sẽ làm tôi mất sức. Sau khi ăn hai
tảng cùi dừa, tôi tu một ngụm to nước đựng trong quả bầu của
Santori. Thỏa thuê rồi, tôi hong tay trước gió cho tay khô, rồi
lấy thuốc lá ra hút, rất khoan khoái. Trước khi trời sập tối,
Sylvain vẫy khăn tay, tôi cũng vẫy lại, để chúc nhau ngủ ngon.
Anh ta vẫn ở xa tôi như cũ. Tôi ngồi trên bè, hai chân duỗi dài.
Tôi vừa vắt áo va rơi len của tôi cho kiệt nước, và mặc áo vào.
áo dù ướt cũng giữ được ấm, mà mặt trời vừa lặn là tôi cảm thấy
lạnhngay tức khắc. Gió đă trở mạnh. Chỉ c̣n những đám mây ở phía
Tây c̣n được ánh sáng hồng ở chân trời chiếu sáng. C̣n th́ mọi
vật đều ch́m trong bóng tối đang mỗi lúc một xẩm đen hơn. ở phía
đông, nơi gió thổi về, trời không có mây. Vậy là lúc này không
sợ trời đổ mưa.
Tôi chẳng nghĩ đến ǵ ngoài việc ngồi cho chắc, đừng để bị đẫm
nước một cách vô ích, và tôi tự hỏi, không biết khi đă mệt, nên
buộc ḿnh vào các bao tải hay là làm như vậy dễ nguy hiểm, do
kinh nghiệm vừa qua của tôi. Rồi tôi nhận thấy tôi lúng túng là
do sợi xích ngắn quá, một đầu để thừa vô ích, nó quấn vào dây
thừng và dây thép của bao tải. Thu hồi đoạn đó cũng dễ. Tôi sẽ
cử động thoải mái hơn. Tôi sửa lại sợi xích, và lại cuốn nó vào
thắt lưng. Như vậy tôi thấy yên tâm hơn v́ tôi rất sợ ngủ quên
và để mất các bao tải.
Đúng, gió đă nổi lên cùng với sóng. Tṛ trượt lên trượt xuống
với sóng biển tiếp diễn, mỗi lúc khoảng cách giữa điểm cao nhất
và điểm thấp nhất lại một tăng lên.
Đêm đă xuống hẳn. Bầu trời chi chít hàng triệu ngôi sao, và cḥm
sao Chữ thập phương Nam sáng hơn tất cả các sao khác.
Tôi không trông thấy anh bạn của tôi. Đêm đầu tiên này rất quan
trọng v́ nếu vận may xui khiến cho gió thổi mạnh và đều suốt
đêm, đến sáng mai, tôi đă đi được một đoạn đường khá dài. Càng
về khuya, gió thổi càng mạnh. Trăng từ dưới biển từ từ mọc lên,
một màu đỏ nâu, và khi lên cao rỏi, nó lộ hắn ra, to tướng, tṛn
vành vạnh, và tôi thấy rất rơ những đốm đen làm cho nó giống mặt
người. Vậy là đă hơn mười giờ đêm. Trời mỗi lúc một sáng hơn.
Trăng càng lên cao, ánh trăng càng sáng tỏ.
Đỉnh sóng nhuộm một màu bàng bạc và ánh phản xạ kỳ lạ của nó làm
tôi chói mắt. Không thể không nh́n ánh phản chiếu bàng bạc này
được nhưng quả thật nó làm cho mắt ta đă bị nắng và nước mặn
kích thích lại càng khó chịu và nhức nhối thêm.
Dù tôi tự cho như vậy là quá nhiều, tôi vẫn không cưỡng lại được
và tôi đă hút liền ba điếu thuốc.
Không có ǵ bất b́nh thường đối với chiếc bè trên biển sâu, nó
cứ lên xuống đều đều không có vấn đề ǵ phải lo lắng. Tôi không
thể duỗi măi chân trên các bao tải v́ tư thế ngồi đă mau chóng
làm chân tôi bị chuột rút rất đau.
Dĩ nhiên, tôi luôn luôn bị ướt từ hông trở xuống. Ngực tôi gần
như khô ráo, gió đă làm khô áo va rơi của tôi và sau đó không có
đợt sóng nào làm tôi bị ướt quá khoảng thắt lưng. Mắt tôi mỗi
lúc một nhức hơn. Tôi nhắm mắt lại. Thỉnh thoảng tôi lại thiếp
đi “Không được ngủ”. Nói th́ dễ, nhưng tôi không sao chống lại
cơn buồn ngủ được. Mẹ kiếp? Tôi phải chống lại cái trạng thái đờ
đẫn này. Và cứ mỗi lần trở lại với thực tại, tôi lại thấy đau
nhói trong óc. Tôi lấy máy lửa ra. Thỉnh thoảng tôi lại để ngọn
lửa sát cánh tay phải hay sát cổ cho bỏng da.
Một nỗi lo âu khủng khiếp tràn vào ḷng tôi, tôi lấy hết nghị
lực xua đuổi nó đi. Tôi sẽ ngủ thiếp đi chăng? Nhỡ ngă xuống
nước, cái lạnh có làm tôi tỉnh dậy không? Tôi buộc người vào sợi
xích là đúng. Tôi không thể để mất hai bao tải này, chúng là
cuộc sống của tôi. Nếu bị lăn xuống nước mà tôi không tỉnh dậy
th́ quả là tai hại.
Vài phút qua, tôi lại bị ướt đẫm cả người. Một cơn sóng quái ác,
chắc hẳn không chịu đi theo con đường đều đặn của các lớp sóng
khác, đă dội vào tôi từ bên phải.
Con sóng đó không phải chỉ dội cho tôi ướt mà c̣n làm cho tôi
quay ngang ra thành thử hai lớp sóng khác đi đúng hướng lại dội
một mẻ nữa ướt từ đầu đến chân.
Đêm thứ hai đă khuya lắm rồi. Không biết mấy giờ? Theo vị trí
mặt trăng bắt đầu ngả về tây, chắc phải hai ba giờ sáng. Chúng
tôi ngâm ḿnh trong nước đă năm lần thủy triều lên xuống, cả
thảy ba mươi giờ đồng hồ. Bị ướt thấu xương cũng có lợi cho tôi:
cái lạnh làm tôi tỉnh hẳn. Tôi run bần bật, nhưng tôi lại mở
được mắt mà không phải cố gắng lắm. Chân tôi bị tê cứng, và tôi
quyết định thu chân vào sát dưới mông. Tôi dùng hai tay kéo từng
chân một, cuối cùng tôi cũng ngồi lên được chân ḿnh. Các ngón
chân của tôi đă bị lạnh cóng, chúng có nóng lên được dưới thân
tôi không?. Tôi ngồi xếp bằng tṛn, giữ tư thế ấy thật lâu.
Thay đổi cách ngồi cũng làm tôi dễ chịu. Tôi cố t́m Sylvain v́
trăng chiếu mặt biển rất rơ. Chỉ có điều nó đă xuống thấp, lại
chiếu thắng vào mặt làm tôi khó nhận ra mọi vật. Tôi chẳng trông
thấy ǵ. Sylvain không có ǵ để buộc người vào các bao tải,
không biết anh c̣n ở trên đó không?
Tôi dơi t́m anh một cách tuyệt vọng. Vô ích. Gió thổi mạnh,
nhưng thổi đều đều, không giật từng cơn, và điều ấy rất quan
trọng. Tôi quen với nhịp độ của gió và cả người tôi ḥa vào làm
một với các bao tải của tôi. Cứ rơi mắt nh́n quanh măi, dần dần
tôi chỉ c̣n một ư nghĩ cố định trong đầu: trông thấy được bạn
tôi. Tôi hong ngón tay cho gió thổi khô rồi tôi cho vào mồm thổi
hết sức mạnh. Tôi lắng nghe. Không có tiếng đáp lại Sylvain có
biết huưt sáo bằng ngón tay không? Tôi cũng không rơ nữa. Đáng
lẽ tôi phải hỏi anh ta điều đó trước khi đi, cũng có thể làm hai
cái c̣i tu huưt một cách dễ dàng! Tôi tự trách ḿnh đă không
nghĩ đến điều đó. Rồi tôi để hai tay trước mồm làm loa cất tiếng
hú rơ to: “Hú-ù! Hú-ù!”. Chỉ có tiếng gió và tiếng sóng đáp lại
Không chờ thêm nữa, tôi đứng thẳng lên các bao tải, tay trái đỡ
sợi xích, tôi giữ thăng bằng trong khi năm con sóng đưa tôi lên
tận đỉnh cao. Khi lên đến tột đỉnh, tôi đứng thẳng, c̣n khi sóng
đang hạ hay đang lên th́ tôi ngồi xổm. Bên phải, bên trái, phía
trước đều chẳng thấy ǵ. Sylvain có ở phía sau không? Tôi không
dám đứng lên nh́n về phía sau. Tôi chỉ nhận ra một điều không
nghi ngờ ǵ được là ở phía trái tôi có một đường dài đen sẫm
dưới ánh sáng trăng. Chắc chắn đây là rừng.
Ban ngày hẳn là tôi sẽ trông thấy cây cối, điều đó sẽ làm tôi
thấy dễ chịu. “Papi, ban ngày, mi sẽ trông thấy rừng. Lạy Chúa
hăy làm cho tôi trông thấy cả bạn tôi nữa”.
Sau khi xoa bóp các ngón chân, tôi duỗi dài hai cẳng chân ra.
Rồi tôi quyết định hong tay cho khô và hút thuốc. Tôi đă hút hai
điếu. Không biết lúc này là mấy giờ? Trăng đă xuống thấp. Tôi
không nhớ được đêm qua, nó lặn được bao lâu th́ mặt trời mọc.
Tôi nhắm mắt cố nhớ lại những h́nh ảnh của đêm đầu tiên. Nhưng
vô ích. à, tôi đă nhớ ra rồi, Tôi chợt thấy rơ mặt trời mọc ở
phía đông và cùng lúc đó, c̣n thấy được một mảnh trăng trên
đường chân trời về phía tây. Như vậy là chắc độ năm giờ. Chùm
sao chữ Thập phương Nam đă lặn từ lâu, Đại hùng tinh và Tiểu
hùng tinh cũng vậy. Chỉ c̣n sao Bắc cực sáng hơn các v́ sao
khác. Từ lúc chùm sao Chừ Thập lặn, sao Bắc cực là chúa tể ở
trên trời.
Gió như bốc lên. Có thể nói nó thổi mạnh hơn lúc ban đêm. V́
sóng cũng mạnh và sâu hơn, và trên các ngọn sóng, những đám bọt
trắng nhiều hơn lúc đầu hôm. Tôi ở trên biển đă được ba mươi
giờ. Cho đến bây giờ, phải thừa nhận là mọi việc tốt nhiều hơn
xấu, và ngày hôm nay mới là ngày gay go nhất.
Hôm qua, tôi đă bị phơi nắng chang chang ở ngoài trời từ sáu giờ
sáng đến sáu giờ chiều, và da bị nướng đi nướng lại nhiều lần.
Hôm nay, mặt trời lại rọi vào tôi nữa, thật không phải chuyện
đùa. Môi tôi đă nứt nẻ, thế mà giờ này vẫn c̣n là đêm, trời vẫn
c̣n mát. Hai môi tôi nhức nhối không kém ǵ hai con mắt tôi. Cả
cánh tay và bàn tay cũng thế. Nếu có thể, tôi sẽ không để hở tay
cho nắng chiếu vào nữa. Một chỗ khác cũng làm tôi đau nhức là
giữa hai bến bẹn và hậu môn. ở đấy không phải do ánh nắng trời
mà do da ngấm nước biển, lại bị cọ xát với các bao tải.
Nhưng dù bị bỏng, anh bạn ơi, anh cũng là đang vượt ngục, và ở
chỗ này c̣n hơn là chịu đựng đủ điều tệ hại ở trai khổ sai. Viễn
cảnh tới được đất liền mà vẫn sống có đến chín mươi phần trăm,
và thế là đă hay lắm rồi, chứ c̣n ǵ nữa? Dù cho tôi tới nơi, da
có bị lột hết và nửa thân người có trơ cả thịt, cũng không phải
là trả giá quá đắt cho một chuyến đi như thế này, với một kết
quả như thế này. Anh bạn thấy không, chẳng thấy bóng một con cá
mập nào: chúng đi nghỉ phép ở đâu cả rồi không biết? Anh bạn
đúng là gặp vận đỏ, không thể chối căi được. Lần này rồi anh sẽ
thấy là lần thành công thật sự. Trong tất cả các chuyên vượt
ngục được tính giờ quá chính xác, được chuẩn bị quá kỹ càng, th́
rốt cục, chuyến vượt ngục thành công lại là chuyến đi ngớ ngẩn
nhất. Chỉ có hai bao tải đựng trái dừa, rồi phó mặc cho sóng và
gió muốn đẩy đi đâu th́ đẩy. Nó lại đẩy vào Đất Liền mới hay
chứ. Chẳng cần phải tốt nghiệp ở trường vơ bị Saint-Cyr ra mới
biết được rằng tất cả các vật trôi giạt trên biển đều bị đẩy vào
bờ. Nếu siốt ngày hôm nay gió và sóng cứ mạnh đều như đêm qua,
chắc chắn chiều nay chúng tôi sẽ đến đất liền.
Con quái vật vùng nhiệt đới đa hiện lên sau lưng tôi. Hôm nay,
nó có vẻ kiên quyết muốn thiêu cháy tất cả, v́ trông nó rừng rực
những lứa. Nó đuổi ánh trăng đi trong nháy mắt. Chưa ra khỏi chỗ
nằm, nó đă chễm chệ chiếm ngôi bá chủ, làm vua cả vùng nhiệt đới
mà không ai dám ho he. Mới thoáng một chút, gió đă gần như ấm
hẳn lại. Chỉ một giờ nữa là sẽ nóng. Một cảm giác khoan khoái
đầu tiên xâm chiếm lấy tôi. Những ánh nắng sớm vừa chạm vào da
thịt tôi là tôi thấy dễ chịu hẳn, từ đầu đến thắt lưng. Tôi bỏ
chiếc khăn mặt che đầu, để ánh mặt trời chiếu vào má tôi như
sưởi lửa. Con quái vật đó, trước khi nung tôi lên, muốn tôi phải
cảm thấy nó là sự sống trước khi là cái chết.
Máu tôi chảy đều trong các huyết mạch, và ngay cả hai bộ bắp đùi
ướt nhễ nhại của tôi cũng cảm biết được ḍng máu đầy sinh khí
bên trong.
Tôi thấy rất rơ cánh rừng rậm, dĩ nhiên là chỉ thấy được các
ngọn cây. Tôi có cảm giác nó không c̣n xa. Tôi chờ cho mặt trời
lên cao hơn chút nữa để đứng trên các bao tải xem có thấy
Sylvain đâu không.
Chưa đến một giờ sau, mặt trời đă lên cao. Trời ơi đúng là nó
rồi. Tôi không mở hẳn được mắt trái. Tôi lấy tay vốc nước xoa
vào mắt. Cay quá. Tôi cởi áo va-rơi ra. Tôi sẽ ở trần chốc lát
trước khi ánh nắng chiếu gay gắt quá.
Một lớp sóng cao hơn hẳn các lớp khác từ dưới sâu nâng bổng tôi
lên. Sóng nhồi một nửa giây trước khi hạ xuống thấp, và tôi
thoáng thấy anh bạn tôi. Anh ngồi trên bè của anh, ḿnh trần.
Anh không trông thấy tôi. Anh ở hơi chếch về phía trước, bên
trái tôi, cách tôi chưa tới hai trăm mét. Gió vẫn thổi mạnh, cho
nên tôi quyết định tiến lại gần anh, v́ anh ở phía trước tôi
cùng trên một đường thắng, tôi xỏ tay vào áo va-rơi và giơ lên
cao, mồm tôi cắn vạt áo phía dưới. Cái thứ buồm này chắc đẩy tôi
đi nhanh hơn anh. Tôi căng buồm như vậy độ nửa giờ. Nhưng chiếc
áo va-rơi làm tôi nhức răng, và sức lực bỏ ra để chống lại với
gió làm tôi chóng mặt. Thế mà khi bỏ “buồm” xuống tôi vẫn c̣n
cảm giác đă đi được nhanh hơn là để cho sóng đẩy.
Hoan hô? tôi vừa thấy được “anh bạn lớn” của tôi. Cách tôi chưa
đầy một trăm mét. Nhưng anh ta làm ǵ thế kia? Anh không có vẻ
quan tâm xem tôi đang ở đâu. Khi một đợt sóng đưa bổng tôi lên
khá cao, tôi trông thấy anh một, hai, ba lần. Tôi để ư thấy rơ
ràng anh đưa tay phải lên mắt, đúng là anh đang quan sát mặt
biển. Nh́n về phía sau đi, đồ ngốc! Chắc anh có nh́n, đúng là
thế, nhưng anh không thấy ǵ cả.
Tôi đứng lên và huưt sáo. Khi sóng nhồi tôi lên cao, tôi thấy
Sylvain ở trước tôi. Anh giơ áo va-rơi lên trời. Chúng tôi chào
nhau đến hai mươi lần trước khi ngồi xuống. Cứ mỗi lần sóng nhồi
lên là chúng tôi lại chào nhau, được cái may là anh ta cũng được
sóng đưa lên cùng một lúc với tôi. Hai đợt sóng sau cùng, anh ta
chỉ tay về phía cánh rừng già, mà bây giờ chúng tôi đă trông rơ
các chi tiết. Rừng chỉ c̣n cách chúng tôi chưa đến mười
ki-lô-mét. Tôi vừa mất thăng bằng ngă ngồi xuống mảng. Được
trông thấy bạn và rừng gần như vậy, một niềm vui lớn lao tràn
ngập ḷng tôi. Tôi cảm động khóc ̣a lên như một dứa con nít.
Nước mắt đă rửa sạch đôi mắt đầy ghèn của tôi, và qua những giọt
nước mắt ấy, tôi thấy hàng ngàn những tinh thể đủ màu, tôi nghĩ
vớ vẩn trông chúng giống như những tấm kính màu ở các cửa sổ nhà
thờ. Hôm nay, Chúa lại đến với mi rồi, Papi ơi. Trước những hiện
tượng quái gở của thiên nhiên, trước gió, biển rộng mênh mông,
sông sâu thăm thẳm, rừng xanh oai nghiêm, con người cám thấy
ḿnh vô cùng nhỏ bé so với mọi vật xung quanh, và có lẽ không
cần t́m ở đâu, người ta cũng gặp và sờ tay được tới Thượng đế.
Cũng như đêm đêm tôi đă từng sờ mó thấy được Thượng đế đế trong
số hàng ngàn giờ tại các pḥng giam khủng khiếp mà tôi đă bị
nhốt vào, không có lấy một tia sáng, giờ đây tôi cũng nh́n thấy
Thượng đế trong ánh nắng thiêu đốt những ǵ không đủ mạnh để
chống lại nó, tôi đă sờ được vào Thượng đế, tôi cảm biết được
Thượng đế ở quanh tôi, ở trong tôi. Chúa c̣n thủ thỉ nói bên tai
tôi: “Con đang đau khổ và con sẽ c̣n phải đau khổ nữa, nhưng giờ
đây ta quyết định sẽ đến cùng con. Con sẽ được tự do và sẽ là
người thắng cuộc, ta hứa với con như vậy”. Không được dạy dỗ ǵ
về tôn giáo, không biết ất giáp ǵ về giáo lư Cơ đốc, dốt nát
đến nỗi không biết cha đức Chúa Jesus là ai, mẹ Chúa có đúng là
đức thánh bà đồng trinh Maria không, cha của ngài là thợ mộc hay
người chăn lạc đà, dù dốt hoặc cán mai như vậy nhưng nếu thật sự
t́m đến Chúa, th́ người ta vẫn có thể nhận ra Người trong gió,
trong biển, trong ánh mặt trời, trong chốn rừng sâu, trong các
v́ sao trong những con cá mà người đă tạo ra hằng hà sa số để
nuôi sống con người.
Mặt trời đă nhanh chóng lên cao, gần mười giờ sáng. Người tôi từ
thắt lưng trở lên đến đầu đă khô ráo, tôi thấm nước vào khăn mặt
và cuốn lên đầu. Tôi lấy áo va-rơi để che thêm v́ da ở vai, lưng
và cánh tay bị bắt nắng làm tôi thấy rát bỏng. Cả đùi tôi, tuy
vẫn ngâm dưới nước, cũng đỏ ối lên như con tôm luộc. V́ đă gần
đất liền, sức hút mạnh hơn gấp bội, nên sóng xô thẳng đứng vào
bờ. Tôi nhận rơ các chi tiết của cánh rừng và tôi cảm thấy rằng
chỉ trong buổi sáng nay, chỉ độ năm sáu giờ nữa chúng tôi sẽ vào
sát bờ. Qua lần vượt ngục đầu tiên, tôi đă biết ước lượng khoảng
cách. Khi nh́n rơ từng chi tiết được vật ǵ, th́ chỉ c̣n cách xa
vật đó chưa tới năm ki-lô-mét, thế mà ở đây tôi phân biệt được
cả các thân cây lớn nhỏ khác nhau. Và trên đỉnh một con sóng cao
hơn hết tôi nhận ra rất rơ một thân cây lớn nằm ngang, cành cây
sà xuống cả mặt biển.
Ḱa, lại có cá heo và chim! Cầu cho cá heo nô rỡn đẩy bè của tôi
vào bờ. Tôi được nghe kể rằng cá heo có thói quen đẩy những mảnh
thuyền vỡ và những người trôi giạt trên biển vào bờ, chúng c̣n
thúc mơm vào người ta làm cho người ta chết đuối, mặc dầu chúng
chỉ có một ư định tốt đẹp là giúp đỡ người bị nạn. Nhưng không,
lũ cá đó, có đến ba bốn con lượn đi lượn lại đến ngửi xem đấy là
cái ǵ rồi bỏ đi mà không đụng đến mảng của tôi. Thế là hết!
Đúng ngọ, mặt trời thẳng đứng trên đầu tôi. Cái thằng cha ấy
muốn đun tôi làm nón xúp thịt nhừ chắc? Mắt tôi bị mưng mủ, trào
nước mắt sống dàn dụa, mũi và môi tôi đă tróc hết da. Các lớp
sóng đă ngắn dần và hung hăn xô vào bờ, tiếng đổ ầm ầm vang lên
ỡ dội.
Tôi liên tục trông thấy Sylvain. Sóng không trũng xuống thấp,
nên anh ta không lúc nào bị che lấp đi. Thỉnh thoảng anh quay
lại và đưa tay lên cao. Anh vẫn ở trần, khăn mặt cuốn trên đầu.
Không phải những đợt sóng mà là những cuộn sóng đẩy chúng tôi
vào bờ. Có một doi đất bị sóng xô vào ầm ầm nghe phát sợ, nhưng
sau khi vượt qua doi đất tràn trề bọt sóng, chúng lao về phía
cánh rừng.
Chúng tôi chỉ cách bờ chừng một ki-lô-mét nữa và tôi sẽ thấy rơ
những con chim sắc trắng và hồng, có những cái mào trông rất quư
phái, vừa đi vừa mổ xuống bùn. Có đến hàng ngàn con. Không con
nào bay cao quá được hai mét. Chúng bay từng chặng ngắn là để
khỏi bị bọt nước bắn phải. Nước biển đầy bọt, một màu vàng như
bùn, nhớp nhúa. Chúng tôi đă vào gần bờ, và tôi nhận thấy rơ cả
những đường vạch bẩn do nước để lại trên các thân cây khi thủy
triều lên tới mức cao nhất.
Tiếng sóng không át nổi tiếng hàng ngàn con chim cao cẳng đủ màu
sắc này kêu the thé. Păng? Păng, c̣n cách bờ hai ba mét nữa
thôi. Plou! Thế là đă đến nơi rồi, tôi đă ở trên bùn, người khô
ráo. Nước không đủ sâu để tôi có thể đứng được. Căn cứ vào vị
trí mặt trời, bây giờ là hai giờ chiều. Tôi đă lênh đênh trên
biển được bốn mươi giờ. Bắt đầu từ ngày hôm kia, vào lúc mười
giờ đêm, sau khi nước rút được hai giờ. Vậy, đây là con nước
thuỷ triều thứ bày, và tôi đến vào lúc khô ráo là phải, lúc này
nước đang xuống. Nước bắt đầu lên vào lúc ba giờ. Đêm nay tôi sẽ
vào tới rừng. Phải giữ sợi xích để không bị văng ra khỏi các bao
tải, v́ nguy hiểm nhất là lúc sóng trào qua người tôi nhưng lại
không cuốn tôi đi theo v́ tôi đă nằm sát bùn. ít ra phải ba giờ
nước dâng tôi mới nổi lên được.
Sylvain ở bên phải tôi, về phía trước chừng hơn một trăm mét.
Anh trông về phía tôi và ra hiệu cho tôi. Tôi có cảm giác anh
muốn nói lên điều ǵ nhưng cổ họng anh h́nh như không phát ra
được tiếng nào, v́ nếu có th́ tôi đă nghe thấy rồi. Sóng cũng
không cuộn vào nữa v́ chúng tôi ở trên băi bùn, chỉ có tiếng
chim kêu đến tai chúng tôi. Chỗ tôi ở cách rừng chừng năm trăm
mét mà Sylvain lại ở phía trước tôi chừng một trăm hay một trăm
năm mươi mét. Nhưng cái thằng đại ngốc, nó đang làm ǵ thế kia?
Nó đă đứng lên và rời khỏi cái mảng của nó. Nó điên hay sao vậy?
Không thể đi trên bùn được, v́ đi mỗi bước sẽ lại bị lún sâu hơn
một chút, có thể không trở về mảng được. Tôi muốn huưt lên nhưng
không huưt được. B́nh đựng nước của tôi c̣n một ít nước, tôi đă
uống hết rồi. Tôi cố kêu to để ngăn Sylvain lại, nhưng không
thốt lên được một tiếng nào. Bọt khí từ dưới bùn sủi lên, đấy
chỉ là một lớp móng, dưới nữa là bùn loăng và kẻ nào bị sa lầy
xuống đây chắc chắn là không thể nào ngoi lên được nữa.
Sylvain quay về phía tôi, nh́n tôi và ra hiệu ǵ tôi không hiểu.
Tôi cũng quơ tay làm hiệu, tôi muốn nói với anh ta “Đừng ra khỏi
bè, cậu không thể tới được rừng đâu. V́ anh ta đứng phía bên kia
cái bao tải đựng trái dừa nên tôi không biết anh đứng cách nó xa
hay gần. Thoạt tiên, tôi nghĩ anh đứng rất gần bè, và nếu có bị
sa lầy, anh cũng bám được vào đấy. Rồi tôi chợt nhận thấy cái
khoảng cách ấy hơi xa, và Sylvain đang lún xuống bùn, không rút
chân lên được để trở về bè. Tôi nghe được một tiếng kêu, tôi vội
nằm sấp xuống bao tải của tôi và xúc tay xuống bùn, lấy hết sức
trườn lên phía trước. Các bao tải trượt đi dưới thân tôi, và tôi
trườn lên được hơn hai mươi mét. Lúc bấy giờ tôi đứng dậy, nh́n
hơi xiên về phía trái, không bị các bao tải của Sylvain che
khuất, tôi thấy bạn tôi đă bị lún xuống bùn đến ngang bụng. Anh
ta ở cách bè của anh tới hơn mười mét. Do khiếp sợ, tôi mới kêu
lên được: “Sylvain, Sylvain, đừng nhúc nhích nữa, nằm dài xuống
bùn đi, cố rút chân lên”. Gió đưa tiếng nói của tôi đi, và anh
đă nghe được. Anh gật đầu ra hiệu là đă hiểu ư tôi. Tôi lại nằm
sấp và cào vào bùn để cái bao tải của tôi trườn lên trước. Cơn
giận dữ điên cuồng làm tôi có một sức mạnh phi thường, và tôi đă
mau chóng tiến đến gần anh được ba mươi mét nữa. Chắc phải mất
hơn một giờ, nhưng tôi đă đến rất gần Sylvain, có lẽ chỉ c̣n năm
sáu trăm mét nữa. Tôi không nh́n rơ anh. Bàn tay, cánh tay và
mặt tôi lấm lem đầy bùn, tôi ngồi lên cố chùi con mắt trái bị
chất bùn lẫn muối mặn lọt vào, làm tôi không trông thấy ǵ cá,
trong khi con mắt phải cũng bắt đầu là nước mắt làm tôi càng khó
chịu thêm. Sau cùng tôi cũng nh́n thấy anh, anh đứng thẳng, chỉ
có thân trên nhô ra khỏi bùn. Cuộn sóng đầu tiên vừa ào qua, nó
tràn qua người tôi mà không nhấc tôi lên, và c̣n lao đi một
quăng nữa, bọt sóng lấp cả lớp bùn. Nó tràn tới chỗ Sylvain.
Thân người anh vẫn nhô trên băi bùn. Tôi nghĩ thật nhanh: “Các
cuộn sóng càng tới nhiều, bùn càng loăng. Ḿnh phải tới chỗ cậu
ta bằng bất kỳ giá nào!”. Một nghị lực như của loài dă thú sắp
bị mất đàn con tràn vào tôi, và giống như một người mẹ đang cố
giằng giật đứa con ra khỏi một tai họa sắp giáng lên đầu nó, tôi
lấy hết sức b́nh sinh vục hai tay vào bùn để trườn tới chỗ
Sylvain. Anh nh́n tôi không nói một lời, không cử động, mắt anh
mở to trông vào tôi, trong khi tôi cũng nh́n anh chằm chằm. Tôi
nh́n anh không chớp mắt, và tôi cũng chẳng quan tâm để ư xem tôi
vục tay vào chỗ nào. Tôi lết đi được một chút nữa nhưng do hai
đợt sóng vừa tràn qua người tôi, bùn lại loăng hơn và tôi tiến
lên chậm hơn so với giờ trước nhiều. Một đợt sóng lớn lại ào qua
làm tôi sặc nước và gần như bị nhấc bổng lên. Tôi ngồi dậy để
trông cho rơ. Bùn đă lên đến nách Sylvain, tôi c̣n cách chỗ anh
độ bốn mươi mét. Anh nh́n tôi hết sức chăm chú. Tôi thấy là anh
biết ḿnh đă bị sa lầy ở đấy và sắp chết một cách thảm hại, cách
nơi đất hứa ba trăm mét.
Tôi lại nằm xuống, cố bám vào lớp bùn bây giờ đă gần loăng như
nước. Mắt tôi và mắt anh như xoáy sâu vào nhau. Anh ra hiệu bảo
tôi thôi, đừng ráng nữa. Tôi vẫn cứ cố, và tôi chỉ c̣n cách anh
chưa tới ba mươi mét th́ một con sóng lớn tràn qua người tôi làm
tôi suưt bị tách ra khỏi các bao tải, và nhấc bổng cái bao tải
lên đẩy nó về phía trước được năm sáu mét. Khi con sóng đă qua
đi tôi lại nh́n: Sylvain đă biến hẳn. Lớp bùn phủ dưới một váng
nước mỏng nổi bọt đă phẳng ĺ. Không thấy cả bàn tay của anh bạn
tội nghiệp của tôi đưa lên chào vĩnh biệt tôi. Phản ứng của tôi
lúc bấy giờ là cái phản ứng khủng khiếp, ghê tởm của một con
thú, bản năng tự bảo tồn đă át tất cả các t́nh cảm khác. Mi vẫn
sống. Chỉ c̣n một ḿnh mi, và khi đến được rừng, không có bạn,
không dễ dàng hoàn thành chuyến vượt ngục đâu. Một đợt sóng bổ
vào lưng tôi v́ lúc này tôi đă ngồi dậy - nhắc nhở tôi trở về
với thực tại. Nó đẩy tôi sấp mặt xuống mạnh đến nỗi tôi nghẹt
thở mất vài phút.
Cái mảng trượt lên phía trước thêm vài mét, và bây giờ, nh́n lớp
sóng tàn dần dưới gốc cây, tôi mới khóc Sylvain. “Giá cậu đừng
động đậy có phải đă đến nơi rồi không, chỉ c̣n cách đám cây chưa
đến ba trăm mét? Tại sao vậy! Hăy nói cho tôi biết tại sao cậu
lại làm cái việc ngu ngốc ấy? Tại sao cậu lại tưởng lớp bùn khô
dủ chắc để cậu có thể đi bộ đến tận bờ? Tại ánh nắng chăng? Tại
cậu chói mắt? Tôi làm sao biết được? Cậu không thể chống lại
được cảnh địa ngục ấy sao? Hăy nói lên cho tôi biết tại sao một
con người như cậu lại không thể chịu khó dạn nắng thêm vài giờ
nữa?”.
Những đợt sóng nối tiếp nhau liên tục, ầm ầm như tiếng sấm.
Chúng ào tới, lớp sau tiếp lớn trước mỗi lúc một mau hơn, lớn
hơn. Mỗi lần chúng xô đến, là tôi lại bị nước tràn qua người và
mỗi lần như thế, tôi lại trôi thêm được vài mét, người vẫn áp
sát vào bùn. Khoảng năm giờ chiều, bỗng nhiên những lớp sóng lăn
tăn ấy biến thành sóng lớn, tôi bị nhấc bổng lên và nổi lềnh
bềnh. Những lớp sóng ngầm hầu như không réo lên thành tiếng.
Tiếng sấm của những đợt sóng đă ngừng. Bao tải của Sylvain đă
được nước biển đẩy đến tận khu rừng.
Tôi đến nơi khá nhẹ nhàng, cách xa khu rừng nguyên thủy chưa đến
hai mươi mét. Khi sóng rút ra tôi lại mắc cạn trên bùn, tôi
quyết định không rời khỏi bao tải của tôi chừng nào tôi chưa nắm
được một cành cây hay một sợi dây leo trong tay. C̣n gần hai
mươi mét nữa thôi. Phải gần một giờ, mới có được đợt sóng đủ
mạnh để nhấc tôi lên và đẩy tôi vào rừng. Con sóng ầm ầm đến
thẳng dưới gốc cây. Tôi vặn ốc bù loong sợi xích ra khỏi người.
Tôi không vất nó đi, tôi c̣n cần đến nó.
Trong
rừng
Trước khi mặt trời lặn, tôi vội vă tiến sâu vào rừng, vừa bơi,
vừa đi v́ ở đây vẫn c̣n lớp bùn cứ muốn hút lấy người ta. Nước
vào rất sâu trong rừng, và đêm đă xuống, mà người tôi vẫn chưa
khô. Một mùi thối úng sộc vào mũi tôi và thán khí bốc lên làm
tôi bị cay mắt. Chân tôi ngập đầy cỏ và lá cây. Tôi vẫn đẩy cái
bao tải của tôi. Mỗi lần tiến một bước, tôi lại lấy bàn chân ḍ
khoảng đất ở dưới nước, chỉ khi nào không thấy đất lún, tôi mới
bước lên.
Tôi qua đêm đầu tiên trên một cây to. Rất nhiều con thú đi phía
dưới tôi. Cả người tôi nóng hừng hực và như bị chín khắp nơi.
Sau khi kéo bao tải lên thân cây và buộc chắc hai đầu vào cây,
tôi lấy áo va-rơi ra mặc. Trong bao tải là nguồn sống, v́ chỉ bổ
dừa là tôi có cái ăn để lấy sức chịu đựng. Tôi buộc con dao phát
vào cổ tay phải của tôi. Tôi nằm dài trên cây, người mệt lả,
giữa hai cành cây tạo thành cái hốc, và tôi ngủ thiếp đi không
kịp nghĩ đến bất cứ việc ǵ. Không, có lẽ tôi c̣n lẩm bẩm hai ba
lần: “Tội nghiệp cho Sylvain” trước khi ngủ như chết.
Tiếng chim đă đánh thức tôi dậy. Nắng chiếu xiên ngang rất sâu
vào rừng: Vậy th́ bây giờ phải là bảy tám giờ sáng. Xung quanh
tôi toàn là nước; vậy là nước thủy triều đang lên. Có thể là đợt
nước lên lần thứ mười đang chấm dứt.
Tôi rời đảo Quỷ đă được sáu mươi giờ. Tôi không nhận ra chỗ tôi
có ở xa biển không. Dù sao tôi cũng phải chờ cho nước rút để ra
bờ biển hong cho khô người và tắm nắng. Tôi không c̣n nước ngọt.
Tôi ăn nốt ba miếng cùi dừa c̣n lại rất ngon lành, tôi lấy dừa
xoa lên các chỗ đau. Cùi dừa có chất dầu, làm dịu các vết bỏng
của tôi. Rồi tôi hút hai điếu thuốc. Tôi lại nghĩ đến Sylvain
lần này c̣n xót xa hơn. Trước hết, đáng lẽ tôi không nên rủ bạn
cùng vượt ngục th́ hơn? V́ tôi vẫn có tham vọng tự ḿnh xoay xở
lấy. Nếu vậy, sẽ không có ǵ thay đổi, chỉ có điều là một nỗi
buồn mênh mông làm tim tôi thắt lại và tôi nhắm nghiền hai mắt,
tưởng chừng làm như thế tôi sẽ không c̣n trông thấy cảnh bạn tôi
sa lầy nữa. Đối với anh, thế là hết.
Tôi đă nhét chắc bao tải vào chạc cây, bắt đầu lấy trái dừa ra.
Tôi lột vỏ được hai trái bằng lấy hết sức đập mạnh dừa vào thân
cây giữa hai chân tôi. Phải đập ở khoảng đầu trái dừa mới bửa nó
ra được. Dùng dao phạt càng tốt. Tôi ăn cả một trái dừa tươi và
uống chút nước dừa ngọt lịm. Nước rút rất nhanh, và chỉ lát sau
tôi đă có thể dễ dàng đi trên bùn để ra băi biển.
ánh nắng thật rạng rỡ, và hôm nay biển đẹp không lấy ǵ so sánh
nổi. Tôi nh́n măi về nơi mà tôi cho là Sylvain đă ch́m xuống.
Quần áo tôi đă khô, người tôi sau khi được kỳ cọ ở một hố nước
mặn cũng đă khô. Hút xong một điếu thuốc, tôi nh́n lần cuối nơi
đă chôn vùi bạn tôi, rồi đi vào rừng, bước không khó khăn lắm.
Bao tải trên vai, tôi từ từ đi sâu vào lùm cây. Sau hai giờ, tôi
thấy một khoảng đất mà nước không bao giờ tới. Dưới gốc cây,
không có một vết tích ǵ chứng tỏ nước thủy triều tràn vào tận
đây. Tôi sẽ cắm lại đây để nghỉ hẳn hai mươi bốn giờ. Tôi bổ dần
các trái dừa, nạo cùi và cho tất cả vào xắc đề khi muốn là ăn
được ngay. Tôi có thể châm lửa, nhưng tôi nghĩ làm như vậy là
không thận trọng.
Phần c̣n lại của ngày và đêm hôm đó đă trôi qua vô sự Tiếng chim
ồn ào đă đánh thức tôi dậy. Tôi nạo nốt cùi dừa rồi đi về hướng
đông, vai mang xắc.
Khoảng ba giờ chiều, tôi thấy một con đường ṃn. Đây là một con
đường nhỏ của những người đi kiếm balata (một thứ nhựa cây thiên
nhiên) hoặc đi khai thác gỗ, hoặc đi tiếp tế cho những người đi
t́m vàng. Con đường hẹp nhưng quang đăng, không có những cành
cây chắn ngang, nghĩa là thường có người đi lại. Thỉnh thoảng
lại có vết chân lừa hay la không đóng móng. Những chỗ bùn đă
khô, tôi để ư thấy có vết chân người, ngón cái hằn rất rơ nét
trong đất sét. Tôi đi cho đến khi trời tối, miệng nhai cùi dừa
vừa để nuôi dưỡng cơ thể vừa để khỏi khát. Thinh thoảng tôi nhai
thật kỹ chất bă có dầu lẫn nước miếng và lấy chất bă đó xoa lên
mũi, môi và má. Mắt tôi đầy mủ, hai mí cứ dán vào nhau. Mỗi lần
có dịp là tôi rửa bằng nước ngọt. Trong bao tải của tôi, cùng
các trái dừa, c̣n có cả một cái hộp, kín nước không thấm được, ở
trong có một miếng xà pḥng Marseille, một con dao cạo hiệu
Gillette mười hai lưỡi dao lam và một cái chổi cạo râu, tôi đă
thu hồi được cái hộp đó nguyên vẹn.
Tôi bước đi, tay cầm con dao phạt nhưng không có chướng ngại.
Tôi để ư thấy ven đường có những cành cây mang những vết chặt
c̣n mới. Trên con đường ṃn này, có người đi lại, tôi phải thận
trọng hơn. Rừng ở đây không giống như rừng mà tôi được biết
trong chuyến vượt ngục đầu tiên ở Saint-Laurent-du- Maroni. Rừng
này có hai tầng cây và không rậm rạp như ở Maroni. Tầng cây thứ
nhất cao độ năm, sáu mét, và cao hơn nữa là tầng trên cùng, cao
đến hai mươi mét. Chỉ phía bên phải con đường ṃn là c̣n sáng.
Bên trái tối âm u như thể ban đêm.
Tôi đi nhanh, thỉnh thoảng lại qua một khoảng trống do người làm
cháy rừng hoặc sét đánh gây ra. Tôi nhận thấy có những tia nắng.
Độ nghiêng của ánh nắng chứng tỏ là mặt trời sắp lặn. Tôi quay
lưng lại phía mặt trời và đi về hướng đông, nghĩa là phía làng
của người da đen ở Kourou hay trại giam tù cũng mang tên ấy.
Đêm đến đột ngột. Tôi không thể đi đêm được, bèn vào rừng để t́m
chỗ ngủ.
Cách lối ṃn hơn ba mươi mét. dưới một đùm lá phẳng như là
chuối, tôi dùng dao phạt chặt những tàu lá ấy để trải chỗ nằm.
Chỗ tôi nằm rất khô ráo. Cũng may mà trời không mưa. Tôi hút hai
điếu thuốc.
Chiều nay tôi không mệt lắm. Cùi dừa giữ sức cho tôi và tôi
không thấy đói. Tôi chỉ khát đến khô cổ, toi cố làm cho nước bọt
là ra nhưng cũng khó khăn. Giai đoạn hai của chuyến vượt ngục đă
bắt đầu, đây là đêm thứ ba tôi ở trên đất liền mà không gặp phải
sự kiện ǵ khó chịu đến với tôi.
Chà! Nếu có Sylvain bên cạnh tôi! Nhưng anh không c̣n nữa, biết
làm sao bây giờ? Trên đời này mi không bao giờ cần có người
khuyên bảo hay nâng đỡ mi cơ mà? Mi là chỉ huy hay là lính trơn?
Dừng có nghĩ vớ vản Papillon, nếu không phải v́ nỗi buồn thường
t́nh v́ mất bạn, dù một ḿnh ở trong rừng, mi cũng vẫn mạnh
không kém ai. Bọn ở đảo Royale, Saint-Joseph và đảo Quỷ đă xa
rồi, mi chia tay với chúng đă được sáu ngày. Bọn ở Kourou chắc
đă được báo tin rồi. Trước hết bọn gác Lâm trường, rồi đến bọn
da đen ở lán đều biết. Chắc phải có một đồn cảnh binh ở đó. Liệu
đi về hướng làng có ǵ nguy hiểm không? Tôi không biết ǵ về
vùng lân cận làng này. Trại giam nằm dính giữa làng và sông. Tôi
chỉ biết có thế và Kourou.
ở Royale, tôi đă tính bắt người đầu tiên tôi gặp phải dẫn tôi
đến gần trại Inini, nơi của các phạm nhân người tàu, và là nơi ở
của Quưch-Quưch, anh của Chang. Tại sao tôi lại thay đổi kế
hoạch nhỉ? Nếu ở đảo Quỷ, bọn chúng cho là chúng tôi bị chết
đuối th́ không có chuyện rùm beng. Nếu chúng xác nhận là có cuộc
vượt ngục th́ ở Kourou lại nguy hiểm. V́ đây là lâm trường nên
chắc phải lắm dân A-rập và sẽ có rất nhiều kẻ đi săn người.
Papi, cẩn thận kẻo bị chúng tóm được đấy. Không được phạm sai
lầm. Đừng đề bị kẹp chả đấy. Mi phải trông thấy người ta trước,
bất kể người đó là ai, trước khi người ta trông thấy mi. Kết
luận là không được phép đi trên đường ṃn mà phải đi trong rừng,
song song với con đường nọ. Hôm nay, mi đă phạm sai lầm khá lớn
là cứ nhông nhông đi trên con đường ấy, mà chỉ có một vũ khí duy
hất là con dao phạt. Như thế không phải là vô ư thức mà là điên
rồ. Vậy là ngày mai tôi phải đi trong rừng.
Tiếng thú và tiếng chim hót chào mừng ngày mới đă đánh thức tôi
dậy rất sớm, tôi bừng tỉnh cùng một lúc với rừng cây. Một ngày
mới cũng đắt đầu đối với tôi. Tôi bỏ một nắm cùi dừa vào miệng
và nhai thật kỹ. Tôi lấy bă ra để xoa lên mặt, rồi xuất phát.
Dưới lùm cây sát bên đường, tôi đi hơi khó, v́ tuy dây leo và
cành cây không nhiều và rậm lắm, cũng phải gạt sang một bên mới
tiến lên được. Dù sao tôi không di trên đường là phải v́ tôi
chợt nghe có tiếng huưt sáo. Con đường có một đoạn thẳng dài năm
mươi mét. Tôi không trông thấy người huưt sáo. á! y đến đây rồi.
Đó là một người da đen Tombouctou. Y vác một bọc trên vai và tay
phải y cầm một khẩu súng trường. Ḿnh y mặc áo sơ mi ka ki, quần
cụt, đùi để trần và chân đi đất. Y cúi đầu xuống đất, lưng trĩu
dưới sức nặng của bọc đồ to kềnh càng.
Tôi nấp sau một cây to ngay bên cạnh đường, tay cầm con dao, chờ
y đến ngang chỗ tôi. Y vừa bước tới cây đó th́ tôi lao vào y.
Tay phải tôi chộp lấy tay cầm súng của y và tôi vặn tréo tay y
làm y phải buông súng “Đừng giết tôi! V́ Chúa, xin hăy thương
tôi!” Y vẫn đứng thẳng, mũi dao của tôi kề sát cổ y. Tôi cùi
xuống nhặt cây súng lên, đấy là một khẩu súng cổ lỗ sĩ một ṇng,
chắc đă tọng thuốc nổ và ch́ đầy ắp.
Tôi lên c̣ và lùi lại hai mét, ra lệnh:
- Hạ cái dao xuống, để dưới đất. Mày mà chạy là tao bắn chết
ngay!
Thằng da đen khiếp đảm, làm theo lời tôi. Rồi hắn nh́n tôi. Ông
vượt ngục phải không?
- Phải.
- Ông muốn ǵ? Tôi có ǵ, ông lấy hết đi. Nhưng xin ông đừng
giết tôi. Tôi có năm con. Ông làm phúc cho tôi được sống.
- Im mồm! Tên mày là ǵ?
- Jean.
- Mày đi đâu?
- Tôi mang thức ăn và thuốc men cho hai anh tôi đang chặt củi
trong rừng.
- Mày từ đâu đến?
- Từ Kourou.
- Mày có phải ở làng này không?
- Tôi đẻ ở đây.
- Mày có biết trại Inini không?
- Có tôi thỉnh thoảng vẫn buôn bán với người Tàu ở trại giam.
- Mày có thấy cái này không?
- Cái ǵ đấy?
- Một tờ giấy bạc năm trăm francs. Mày hăy chọn đi: hoặc tao bảo
ǵ mày làm thế, th́ tao sẽ cho mày năm trăm francs và trả súng
cho mày, c̣n nếu mày từ chối hay t́m cách đánh lừa tao, tao sẽ
giết mày. Hăy chọn đi.
- Tôi phải làm ǵ nào? Ông cứ bảo đi, tôi sẽ làm hết, dù không
được ǵ.
- Mày hăy dẫn tao cho an toàn đến gần trại Inini. Sau khi tao
gặp được một người Tàu, mày có thể đi. Bằng ḷng không?
- Tôi đồng ư.
- Đừng có đánh lừa tao, không th́ chết đấy.
- Không đâu, tôi thề sẽ giúp ông một cách trung thực.
Gă đa đen có mang một thùng sữa hộp. Y lấy ra sáu hộp đưa cho
tôi cùng một mẩu bánh ḿ và một miếng mỡ lá đă hun khói.
- Đem bao tải của mày dấu vào rừng đi mày sẽ trở lại lấy sau.
Tao lấy dao đánh dấu để mày nhớ chỗ nhé.
Tôi uống một hộp sữa. Y c̣n cho tôi một cái quần dài và một cái
áo thợ màu xanh. Tôi mặc cả hai vào người tay vẫn không rời khẩu
súng.
- Đi trước đi. Jean. Chú ư, cẩn thận đừng để ai trông thấy chúng
ta v́ nếu ta bị ai bắt gặp, đấy là lỗi tại mày và lúc ấy tao
phải cho mày chết.
Jean biết cách đi trong rừng hay hơn tôi, v́ y tránh cành cây và
dây leo rất khéo nên tôi khó nhọc mới theo kịp y.
- Ông phải biết rằng ở Kourou, người ta được báo tin là có hai
tên ở đảo đă vượt ngục. V́ vậy tôi thành thật nói với ông, nếu
chúng ta đi gần trại giam Kourou th́ nguy hiểm lắm.
- Mày có vẻ tốt và thật thà. Tao hy vọng không lầm. Mày hăy cho
tao biết đến Inini bằng cách nào là tốt nhất? Mày phải nghĩ rằng
tao được an toàn th́ mày được sống v́ nếu tao bị bọn cai tù hay
bọn đi săn người bắt gặp là tao buộc ḷng phải giết mày đấy.
- Tôi phải gọi ông là ǵ?
- Tao là Papillon.
- Được rồi, thưa ông Papillon. Phải đi hẳn vào rừng và tránh xa
đường ṃn. Tôi bảo đảm sẽ đưa ông đến Kourou bằng cách băng qua
rừng. Tao tin vào mày đấy. Đi đường nào mày thấy chắc chắn nhất.
Đi trong rừng chậm hơn, nhưng từ khi rời con đường ṃn, tôi cảm
thấy gă da đen bớt căng thẳng. Y không ra nhiều mồ hôi nữa, nét
mặt y cũng không co rúm lại, y như yên tâm hơn.
- Jean này, tao thấy h́nh như bây giờ mày bớt sợ rồi phải không?
- Đúng thế, ông Papillon ạ. Đi gần đường ṃn nguy hiểm cho ông
lắm, nghĩa là nguy hiểm cả cho tôi. Chúng tôi đi nhanh. Gă da
đen này thông minh, không bao giờ y đi cách tôi xa quá ba bốn
mét.
- Dừng lại đă, để tao cuốn điếu thuốc.
- Có bao Gauloises đây.
- Cảm ơn Jean, mày tốt lắm.
- Đúng là tôi rất tốt. Tôi theo đạo, và khi thấy các giám thị da
trắng đối xử với các tù nhân ra sao tôi cũng khổ tâm lắm.
- Mày được thấy nhiều cảnh ấy lắm à? ở đâu? ở lâm trường Kourou.
Thấy họ chết dần chết ṃn v́ phải chặt củi, v́ sốt rét và kiết
lỵ, thật là thương tâm. Các ông ở đảo khá hơn. Đây là lần đầu
tiên tôi trông thấy một tù nhân được khỏe mạnh như ông đấy.
- Đúng, ở đảo khá hơn.
Chúng tôi ngồi một lát trên một cành cây to, tôi đưa cho y một
hộp sữa. Y từ chối, y thích nhai cùi dừa hơn.
- Vợ mày c̣n trẻ không?
- C̣n trẻ, mới ba mươi tuổi. Tôi bốn mươi. Chúng tôi được năm
con, ba gái, hai trai.
- Mày kiếm đủ ăn không?
- Tôi làm gỗ hồng tâm, cũng kiếm được; vợ tôi giặt và ủi đồ cho
các giám thị. Cũng đỡ được chút đỉnh. Chúng nó cũng có giầy đi.
Tội nghiệp cho anh chàng da đen đă nghĩ rằng khi các con y có
giày đi là mọi việc đều tốt đẹp. Y to gần bằng tôi, bộ mặt da
đen của y trông cũng dễ có cảm t́nh. Trái lại, mắt y dễ lộ rơ
ràng y có những t́nh cảm tốt đẹp. Đó là một con người lành mạnh,
một người cha tốt, một người chồng tốt, một tín đồ của đạo cơ
đốc.
- C̣n ông thế nào, ông Papillon?
- Tôi đang t́m cách sống lại. Tôi bị chôn sống đă mười năm nay,
tôi đă mấy lần vượt ngục để có ngày được tự do như anh, để được
sống bên cạnh vợ con và tôi sẽ không làm hại cho ai, ngay cả
trong ư nghĩ. Anh đă nói ra rồi đấy, chốn lao tù này thối nát
lắm, và người biết tự trọng phải t́m cách trốn khỏi vũng bùn ấy.
- Tôi sẽ hết ḷng giúp ông thành công. Ta lên đường thôi.
Với giác quan định hướng rất tài t́nh, không do dự chút nào trên
đường đi Jean dẫn thẳng tôi về phía khu trại của người Tàu.
Trời tối được hai giờ th́ chúng tôi đến nơi. Từ xa đă nghe thấy
tiếng đập, không thấy có ánh đèn. Jean giải thích cho tôi hiểu
là muốn đến thật gần trại, phải tránh một hay hai tiền đồn nữa.
Chúng tôi quyết định dừng lại để qua đêm. Tôi mệt nhoài, tưởng
chết được chỉ sợ ngủ quên mất. Nếu tôi nhận định làm anh chàng
da đen này th́ sao? Nếu y đóng kịch chờ tôi ngủ, rồi cướp lại
khẩu súng và giết tôi chết th́ sao? Giết được tôi y có hai cái
lợi: trừ bỏ được tôi là một nguy cơ đối với y, và c̣n được
thưởng v́ đă giết được một tên tù vượt ngục. Phải, y rất thông
minh. Y không nói ǵ, cũng không chờ đợi lâu la mà nằm ngủ say.
Tôi vẫn giữ sợi xích và cái bù-loong. Tôi định trói y lại, rồi
tôi lại nghĩ, y có thể tháo ốc bù-loong ra cũng như tôi vậy, và
nếu y làm cấn thận, nếu tôi ngu quá say, tôi sẽ không biết ǵ.
Trước hết tôi cố thức. Tôi có nguyên cả một bao thuốc Gauloises.
Tôi biết cách làm để không ngủ gục. Tôi không thể phó thác ḿnh
cho một người dù sao cũng thuộc loại lương thiện và do đó phải
xếp tôi vào loại gian phi.
Đêm đen nghịt, y nằm cách tôi hai mét, tôi chỉ nhận ra được đôi
gan bàn chân trắng của y. Ban đêm, rừng có những tiếng động
riêng biệt của nó, tiếng hú liên tục của loài khỉ có bướu to,
tiếng hú khàn khàn và rất mạnh, vang xa đến hàng cây số. Tiếng
đó rất quan trọng, v́ nó đều đều th́ có nghĩa là bầy của chúng
có thể yên tâm ăn hay ngủ. Nếu nó biểu hiện nỗi lo sợ hay mối
nguy cơ, như vậy, là quanh đấy có thú dữ hay người.
Toàn thân căng thẳng, tôi không phải cố gắng lắm cũng giữ để
ḿnh không ngủ thiếp đi, nhờ vài lần dí thuốc lá đang cháy vào
da và nhất là nhờ đàn muỗi chừng muốn hút hết máu của tôi. Nếu
tôi dùng nước bọt trộn với ni-cô-tin xoa lên vai, tôi cũng có
thể tránh không bị chúng đốt. Nhưng nếu xoa thứ nhựa ni-cô-tin
này mà tránh được muỗi đốt th́ tôi lại ngủ mất. Chỉ cầu sao cho
đàn muỗi này không mang vi trùng sốt rết hay bệnh sốt vàng.
Thế là tôi thoát ra được con đường thối rữa có lẽ mới chỉ tạm
thời. Khi tôi bước vào đấy là năm 1931, tôi mới hai mươi lăm
tuổi. Bây giờ là năm 1941, đă mười năm qua. Vào năm 1932,
Pradel, lăo biện lư không tim với một bản buộc tội tàn nhân và
vô nhân đạo đă ném tôi vào cái giếng khơi là nơi ao tù này.
Nó là cái hố đầy thứ nước lầy nhầy sẽ làm tôi phải tan rữa dần
dần và hiến thành hư không. Cuối cùng, tôi cũng thực hiện thành
công được phần đầu của cuộc vượt ngục. Tôi đă từ đấy giếng ngoi
lên và đang ở trên bờ giếng. Tôi phải tập trung hết nghị lực và
trí thông minh của ḿnh để giành phần thắng ở hiệp hai.
Đêm trôi đi từ từ nhưng cũng đă qua, và tôi cũng không ngủ. Tay
không rời khẩu súng, tôi tỉnh táo được là do bị muỗi đốt, và
không một lần nào đánh rơi súng. Tôi hài ḷng về ḿnh v́ đă
không v́ mệt mỏi mà bất cẩn để có thể bị mất tự do, tinh thần
của tôi đă mạnh hơn vật chất. Tôi vui mừng khi nghe tiếng chim
hót báo hiệu ngày sắp rạng. Mấy con chim dậy sớm hơn những con
khác ấy là khúc dạo đầu báo hiệu ngày tới liền sau đó.
Gă da đen vươn vai ngồi dậy và xoa chân.
- Chào ông, ông có ngủ được không?
- Tôi không ngủ.
- Ông ngốc quá, v́ tôi đă bảo đảm là ông không phải lo ǵ về
tôi. Tôi đă quyết định giúp ông để ông đạt được dự tính của ông
mà
- Cám ơn anh, Jean. ánh nắng sắp chiếu đến đây chưa?
- Độ một giờ nữa. Chỉ có thú vật mới thấy được nó trước khi trời
sáng, trước cả người.
- Độ một giờ nữa là sáng rơ ông Papillon ạ. Ông đưa tôi mượn con
dao của ông.
Tôi đưa ngay dao cho y không do dự, y đi vài ba bước chặt một
cành cây có nước, đưa cho tôi một đoạn dài và giữ lại khúc kia.
- Ông uống nước trong cành cây đi, rồi lấy nước ấy mà rửa mặt.
Với cái b́nh đựng nước kỳ lạ ấy, tôi uống và rửa mặt. Trời đă
sáng rơ. Jean trả lại tôi con dao. Tôi châm một điếu thuốc và
Jean cũng hút. Chúng tôi lại lên đường. Sau mấy lần lội b́ bơm
trong những vũng bùn rộng rất khó vượt qua, gần giữa trưa, chúng
tôi đă đến vùng lân cận trại giam Inini mà không gặp chuyện ǵ,
dù lành hay dữ.
Chúng tôi đến gần một con đường lớn dẫn tới trại. Một con đường
sắt hẹp chạy dọc bên khoảng đất rộng đă được phát quang. Jean
cho tôi biết con đường sắt này chỉ có những chuyên xe gọng do
người Tàu đẩy đi qua. Những chuyến xe gọng đó lăn bánh ầm ầm,
nghe được từ xa. Chúng tôi đă thấy một toa xe gọng đi ngang,
trên đặt một chiếc ghế băng, có hai tên lính ngồi. Đằng sau là
hai người Tàu cầm hai cây gỗ dài dùng để hăm xe. Bánh xe lăn làm
tóe ra những tia lửa. Jean nói cho tôi rơ là gậy có một đầu bịt
sắt, để đẩy gọng đi hay hăm lại.
Con đường sắt rất đông người đi lại. Những người Tàu, người th́
vác những cuộn dây rừng, người th́ vác heo rừng, người th́ lại
vác hàng bó lá dừa. Tất cả đều như đi về hướng trại giam. Jean
nói với tôi là có nhiều lư do để đi vào rừng: đi săn, đi kiếm
mây làm bàn ghế, kiếm lá dừa để đan những tấm phên che cho vườn
rau khỏi bị nắng, rồi đi bắt bướm, bắt muỗi, bắt rắn v v
Có một số người Tàu được phép vào rừng mỗi lần vài giờ sau khi
đă làm xong công việc chính quyền. Họ đều phải về trước năm giờ
chiều.
- Jean ơi, đây, năm năm francs và cây súng (trước đó tôi đă đổ
hết thuốc súng ra). Tôi đă có con dao và cây dao phạt rồi. Anh
đi đi. Cảm ơn anh. Cầu Chúa ban thưởng cho anh khá hơn tôi, v́
anh đă giúp đỡ một người đau khổ đang t́m cách sống lại. Anh
trung thực lắm, cảm ơn anh lần nữa. Tôi mong rằng khi anh kể lại
chuyện này cho cái con anh, anh sẽ nói với chúng: Người tù khổ
sai này có vẻ là người tử tế, bố không hối hận v́ đă giúp người
ấy.
- Ông Papillon ơi, đă muộn rồi, tôi không đi được xa trước khi
trời tối. Ông cứ giữ lấy khẩu súng, tôi sẽ ở lại với ông cho đến
sáng mai. Nếu ông muốn, tự tôi sẽ kêu người Tàu nào ông ưng để
đi báo tin cho Quưch-Quưch. Người ấy sẽ không sợ mấy nếu gặp một
người tù da trắng vượt ngục. Ông cứ để tôi ra đường lớn. Nếu có
ai xuất hiện, dù là lính họ cũng không cho việc tôi có mặt ở đây
là bất thường. Tôi nói là tôi đến đây để xem có gỗ hồng tâm cho
xí nghiệp gỗ “Synphorien” ở Cayenne không, ông cứ tin tôi đi.
Nếu thế th́ anh cầm lấy chúng, v́ đi rừng mà không mang súng
cũng kỳ.
- Phải rồi.
Jean đứng ngay giữa đường. Khi thấy người Tàu nào ưng ư, tôi sẽ
khẽ huưt sáo.
- Chào Me-xừ - một người tàu già bé nhỏ, vai vác một thân cây
chuối, chắc là một cây cái dừa, ăn rất ngon, chào bằng thổ ngừ.
Ông già bé nhỏ này lại chào Jean trước. Tôi ưng ư nên đă huưt
sáo * (*ở đoạn này nhân vật nói tiếng Tây bồi - ND.).
- Chào bác. Dừng lại một chút tôi có chuyện muốn nói.
- Me-xừ muốn ǵ? - ông già đứng lại.
Họ nói với nhau gần năm phút. Tôi không nghe được chuyện họ nói
với nhau. Lại hai người Tàu khác đi qua, họ khiêng một con nai
cái to buộc vào một cây đ̣n dài, thân treo ngược, đầu thơng
xuống đất. Họ đi qua mà không chào anh da đen nhưng nói vài câu
với đồng hương bằng tiếng Tàu, ông già đáp lại vài ba câu. Jean
dẫn ông già vào rừng, đến chỗ tôi. Đến gần tôi, ông đưa tay ra.
- Anh vượt ngục hả?
- Phải.
- Từ đâu đi?
- Đảo Quỷ
Tốt! - ông ta cười và mở to cặp mắt xếch nh́n tôi - Tốt lắm, anh
tên ǵ?
- Papillon
- Tôi không biết.
- Tôi bạn của Chang. Chang Vô Kiện, anh em với Quưch-Quưch.
- A, tốt lắm - Rồi ông lại bắt tay tôi lần nữa - Anh muốn ǵ?
Báo cho Quưch biết là tôi chờ anh ấy ở đây.
Không thể được.
Tại sao?
- Quưch-Quưch ăn cắp sáu cục vịt của xếp trại.
Xếp trại muốn giết Quưch-Quưch, Quưch-Quưch trốn rồi.
- Trốn được bao lâu?
- Hai tháng.
- Đi đường biển?
- Tôi không biết, tôi bây giờ về trại nói chuyện với người Tàu
khác cũng là bạn thân của Quưch-Quưch. Anh đừng đi, cứ ở đây.
Đêm nay, tôi đến.
- Mấy giờ?
- Tôi không biết nhưng tôi c̣n đem thức ăn, thuốc lá lại đây cho
anh nữa, anh đừng đốt lửa nhé. Tôi sẽ thổi sáo b́a “Ma-đơ-lông”.
Khi anh nghe thấy bài đó, anh hăy ra đường lớn, hiểu không?
Biết!
Rồi ông quay đi.
- Anh thấy thế nào, Jean?
- Chưa mất ǵ đâu, v́ nếu ông muốn, chúng ta có thể quay về
Kourou, tôi sẽ kiếm cho ông một chiếc thuyền độc mộc, thức ăn và
buồm để đi ra biển.
- Jean ơi, tôi đi rất xa, không thể đi một ḿnh được. Cảm ơn đề
nghị của anh. Cùng lắm, tôi mới nhận. Ban năy người Tàu có cho
chúng tôi một súc bắp cải dừa lớn, chúng tôi ăn ngay. Nó mát
ngon có hương vị hạt phỉ rất đậm. Jean thức để canh, tôi đă tin
anh ta. Tôi xoa bă thuốc lá vào mặt và hai bàn tay v́ muỗi đă
bắt đầu đốt. Jean đă đánh thức tôi dậy.
- Papillon, có tiếng huưt sáo bài “Ma-đờ-lông”.
- Mấy giờ rồi?
- Chưa khuya, có lẽ chín giờ.
Chúng tôi đi ra đường. Trời tối đen. Người huưt sáo đă tới gần,
tôi đáp lại, ông ta đến gần hơn, chúng tôi đứng gần sát nhau mà
tôi chẳng trông thấy ǵ. Cứ huưt măi, chúng tôi đă gặp được
nhau. Họ có ba người. Từng người một đến gần nắm lấy tay tôi.
Chẳng bao lâu nữa trăng sẽ lên.
- Chúng ta ngồi xuống bên đường này đi, một người trong bọn họ
nói tiếng Pháp rất thạo. - Ngồi trong bóng tối, không sợ ai nh́n
thấy đâu. Jean đă ra ngồi với chúng tôi.
- Ăn trước đi, xong rồi sẽ nói, - người có vẻ học thức trong bọn
họ nói. Jean và tôi ăn một tô xúp rau rất nóng. Chúng tôi thấy
ấm người và quyết định đề lại một phần thức ăn để ăn sau. Chúng
tôi uống trà đường có vị bạc hà ngon tuyệt.
- Anh là bạn thân của Cha.ng à?
- Phải, anh ấy báo tôi đến kiếm Quưch-Quưch để cùng vượt ngục
với nhau. Tôi đă có lần vượt ngục di rất xa, đến tận Colombia.
Tôi đi biển giỏi lắm, v́ vậy Chang muốn tôi đưa anh của anh ấy
đi. Anh ấy tin tôi.
- Tốt lắm. Chang xăm những ǵ trên người?
- ở ngực, một con rồng, bàn tay trái, ba dấu chấm. Anh nói ba
cái dấu đó chỉ rơ anh ấy là một trong các thủ lĩnh cầm đầu cuộc
nổi loạn ở Côn Đảo. Người bạn thân nhất của anh ấy cũng là một
người chủ huy cuộc nổi loạn, anh này tên là Văn Huê, anh này bị
cụt một tay.
- Tôi đây, - người trí thức nói. - Chắc chắn anh là bạn của
Chang rồi, do đó cũng là bạn của chúng tôi. Quưch-Quưch chưa đi
biển được v́ không biết lái tàu. Sau nữa, v́ anh ấy có một ḿnh,
anh ấy ở trong rừng cách đây chừng mười kilômét. Anh ấy làm than
củi, các bạn giúp anh bán than rồi đưa tiền cho anh ấy. Khi dành
dụm đủ tiền, anh ấy sẽ mua một cái ghe và kiếm người để cùng
vượt ngục. Anh đang ở chỗ không có ǵ nguy hiểm cả. Không ai có
thể đến được cái vũng cù lao mà anh ấy đang ở, v́ xung quanh
toàn là bùn loăng. Người nào không biết đường mà đi liều thế nào
cũng bị sa xuống bùn. Hừng đông là tôi đến t́m anh để dẫn anh
tới chỗ Quưch-Quưch. Bây giờ anh đi với chúng tôi. Chúng tôi đi
bên ven đường, v́ trăng đă lên và trời đủ sáng để có thể trông
xa tới năm mươi mét về phía trước. Đến một cái cầu gỗ, anh nói
với tôi:
- Anh xuống dưới cầu mà ngủ. Sớm mai, tôi sẽ đến t́m anh.
Chúng tôi bắt tay nhau và họ ra về. Họ đi công khai, trường hợp
có bị ai trông thấy, họ nói là họ vào thăm các bẫy đặt trong
rừng lúc ban ngày, Jean nói với tôi
- Papillon, anh đừng ngủ ở đây, tôi sẽ gọi anh.
- Phải rồi. - Tôi đi vào rừng và sau khi hút vài điếu thuốc, tôi
ngủ ngay, sung sướng v́ được ăn đẫy món xúp ngon.
Trước khi trời sáng, Văn Huê đă đến chỗ hẹn. Để đỡ mất th́ giờ,
chúng tôi đi trên đường cho đến lúc trời sáng bạch. Chúng tôi
rảo bước hơn bốn mươi phút. Trời đột ngột bừng sáng và từ xa đă
nghe được tiếng xe gọng lăn trên đường sắt. Chúng tôi vào rừng
để đi.
Từ biệt Jean nhé, cảm ơn anh, chúc anh may mắn. Cầu Chúa ban
phước lành cho anh và cả gia đ́nh anh. Tôi cố ép anh nhận năm
trăm francs. Anh chỉ cho tôi cách nếu không thành công với
Quưch-Quưch th́ trở về làng anh ta như thế nào, đi ṿng ra sao
để lại đến được con đường ṃn mà tôi đă gặp anh. Anh phải đi qua
đấy, mỗi tuần hai lần. Tôi nắm tay anh da đen cao thượng, và anh
nhảy lên mặt đường.
“Đi thôi” - Văn Huê vừa đi vào rừng vừa nói. - Anh t́m ra hướng
đi ngay. không chần chừ, và chúng tôi đi khá nhanh v́ rừng không
rậm lắm. Anh tránh dùng dao chặt cành cây hay các dây leo làm
vướng lối đi Anh chỉ gạt chúng sang bên.
Quưch-quưch
Chưa đến ba giờ sau, chúng tôi đă đến trước một cái ao đầy bùn.
Trên mặt lớp bùn là những cây hoa sen và những tàu lá xanh và
to. Chúng tôi đi theo mép bùn.
- Cẩn thận đừng có trượt chân đấy, nếu bị ngă xuống là không
mong lên được đâu, - Văn Huê vừa thấy tôi đi loạng choạng đă
cảnh cáo tôi.
- Anh cứ đi đi, tôi theo anh, và tôi sẽ cẩn thận hơn.
Trước mặt tôi là một ḥn đảo nhỏ, cách xa chừng một trăm năm
mươi mét. Từ giữa cái đảo tí hon ấy, khói hốc lên. Chắc đấy là
chỗ đốt than. Tôi nhận thấy có một con cá sấu nằm trong bùn, chỉ
có cặp mắt ló ra. Không biết con cá sấu này ăn ǵ để sống trong
đống bùn này.
Sau khi đi bộ hơn một kilômét dọc bờ ao có bùn này. Văn Huê dừng
lại và cất tiếng hát một bài hát Tàu. Một bóng người hiện ra bên
kia đảo. Đó là một người nhỏ nhắn, chỉ vận một cái quần cụt. Hai
người nói chuyện với nhau rất lâu, tôi bắt đầu thấy sốt ruột th́
vừa may họ cũng ngừng nói.
- Đi lối này - Văn Huê bảo tôi.
Tôi đi theo anh, chúng tôi lại lộn ra.
- Mọi việc tốt cả. Đây là bạn Quưch-Quưch, Quưch-Quưch đi săn
cũng sắp về rồi, ta phải đợi ở đây.
Chúng tôi ngồi xuống. Chưa đầy một giờ sau, Quưch-Quưch về. Đó
là một người nhỏ và gầy, da vàng, răng nhuộm gần như đen bóng,
có cặp mắt thông minh và thẳng thắn.
- Anh là bạn của Chang em tôi?
- Phải.
- Tốt lắm. Anh về được rồi đấy, Văn Huê ạ.
- Cảm ơn anh, - Văn Huê nói.
- Anh cầm con gà gô này về đi.
- Tôi không lấy đâu, cảm ơn anh. - Anh bắt tay tôi rồi quay đi.
Quưch-Quưch kéo tôi đi theo con heo cứ chạy trước anh. Anh theo
sát nó từng bước.
- Anh hăy chú ư đấy Papillon. Xảy chân, bước lỡ một bước là anh
bị sa lầy ngay. Trường hợp bị nạn, không ai có thể cứu được v́
không phải một mà cả hai cũng tiêu luôn. Đường đi lại thay đổi
luôn v́ bùn cứ xê dịch hoài, nhưng con heo vẫn t́m được lối đi.
Có một lần, tôi phải chờ hai ngày mới đi qua được.
Quả vậy, con heo đánh hơi và nhanh chóng vượt qua quăng bùn. Anh
người Tàu nói với nó bằng tiếng mẹ đẻ. Tôi di theo ngỡ ngàng v́
thấy con vật nhô bé này nghe lời anh như một con chó. Con heo đă
đi qua được bên kia mà không lần nào lún sâu quá vài phân. Anh
bạn mới của tôi cũng mau chân theo nó và nói: Anh bước theo bước
chân tôi nhé. Phải đi rất nhanh v́ những vết chân heo bị lấp rất
chóng. Chúng tôi qua ao bùn không khó lắm. Không lúc nào bùn
ngập quá bắp chân tôi, mà có ngập đến bắp chân th́ cũng chí ở
đoạn cuối thôi.
Con heo đi hai khúc quành dài, làm chúng tôi buộc ḷng phải đi
trên lớp đất chắc ấy một quăng dài hơn hai trăm mét. Mồ hôi tôi
chảy ḍng ḍng khắp người. Nói là tôi sợ thật chưa đủ. Phải nói
là kinh hoàng mới đúng.
Đi quăng đường đầu tiên, tôi tự hỏi không biết số mạng tôi có
phải chết như Sylvain không. Tôi như lại trông thấy anh bạn khốn
khổ ấy trong giai đoạn cuối cùng, và tuy rất tỉnh táo tôi nhận
rơ người anh nhưng mặt lại hao hao giống tôi. Cảm giác của tôi
khi tôi đi qua đoạn đường đó thật là ghê sợ. Tôi không dễ quên
ngay.
- Đưa tay cho tôi - Và Quưch-Quưch, anh chàng bé nhỏ chỉ có
xương và da, đă giúp tôi leo lên bờ.
- Anh bạn ơi, bọn đi săn người không tới đây lùng chúng ta đâu
nhỉ.
- ồ anh yên tâm về chuyện này.
Chúng tôi đi sâu vào đáo: Một mùi thán khí xộc vào họng tôi. Tôi
ho. Đấy là mùi khói của hai cái ḷ đốt than đang bốc cháy ở đây
tôi không c̣n sợ muỗi. Một cái lán nhỏ, lợp lá, vách cũng bằng
lá kết lại với nhau, đứng trước gió, chung quanh mù mịt khói. Có
một cửa vào, và đứng trước cứa là cái ông già người Đông-dương
bé nhỏ mà tôi đă trông thấy trước khi gặp Quưch-Quưch.
- Chào me-xừ.
- Nói tiếng Pháp với anh ấy, đừng dùng tiếng địa phương, anh ta
là bạn của em tôi đấy.
Ông già người Tàu, bé quắt một mẩu, nh́n tôi từ đầu đến chân.
Hài ḷng về cuộc quan sát của ḿnh, ông ch́a tay ra cho tôi,
miệng mỉm cười móm mém. Vào đi ngồi xuống đây.
Cái bếp duy nhất này trông rất sạch sẽ. Trên bếp là một cái nồi
to không biết đun nấu ǵ. Chỉ có một cái giường bằng cành cây
đan với nhau, cao cách mặt đất ít nhất là một mét.
- Ông giúp tôi làm thế nào cho anh ấy có chỗ ngủ đêm nay đi.
- Được rồi,.
Chưa đầy nữa giờ sau, chỗ nằm của tôi đă xong. Hai người Tàu dọn
thức ăn ra và chúng tôi ăn một món xúp tuyệt ngon, rồi cơm trắng
với thịt nấu hành. Ông bạn Quưch-Quưch là người đi bán than củi.
Ông ta không ở lại đảo, v́ vậy tối đến, chỉ c̣n lại Quưch-Quưch
và tôi.
- Phải, tôi đă lấy trộm cả bầy vịt của trại trưởng, v́ vậy tôi
phải vượt ngục.
Chúng tôi ngồi đối diện với nhau ngọn lửa nhỏ chốc chốc lại bốc
lên soi sáng mặt chúng tôi. Mặt Quưch-Quưch không vàng hắn. Do
phơi nắng, màu vàng tự nhiên đă chuyến thành màu đồng đỏ. Mắt
anh xếch, đen nhánh, khi anh nói với ai là mắt anh nh́n thẳng
vào mắt người ấy. Anh hút những điếu x́- gà dài mà anh dùng lá
thuốc đen cuốn lấy. Tôi vẫn cuốn thuốc lá bằng tấm giấy bản mà
anh cắt cho tôi.
- Tôi phải trốn v́ trại trưởng, chủ đàn vịt, muốn giết chết tôi,
chuyện ấy cách đây đă ba tháng. Khổ một cái là tôi thua bạc,
không chỉ mất hết tiền bán vịt mà mất cả tiền bán than của hai
ḷ than này.
- Anh chơi ở đâu?
- Chơi trong rừng. Đêm nào cũng đánh với mấy anh Tàu ở trại
Inini và mấy anh tù măn hạn từ bên Thác sang.
- Anh đă quyết định vượt biển chưa?
- Tôi chỉ mong có thế. Khi tôi bán được than củi, tôi tính mua
một chiếc ghe, t́m một người biết lái chịu đi với tôi. Nhưng
trong ba tuần nữa, ta bán than rồi là có thể mua một chiếc ghe
và đi đường biển, v́ anh biết lái mà.
- Tôi có tiền đây, anh Quưch-Quưch ạ, không cần phải chờ bán
được than mới mua thuyền.
- Thế th́ hay. Có một chiến thuyền tốt lắm, một ngàn năm trăm
francs, của một người da đen làm nghề bổ củi bán.
- Anh đă coi chưa?
- Rồi.
- Nhưng tôi cũng muốn xem.
- Mai, tôi sẽ đi gặp Sô-cô-la, tôi vẫn gọi hắn như vậy Papillon
ạ, anh kể cho tôi nghe chuyện vượt ngục của anh đi. Tôi tưởng
không thể nào vượt ngục từ đảo Quỷ đi được. Sao Chang không đi
cùng anh?
Tôi kể với anh chuyện vượt ngục, con sóng Lisette, cái chết của
Silvain.
- Tôi hiểu tại sao Chang không muốn đi với anh. Thật là quá mạo
hiểm. Số anh đỏ lắm đấy, cho nên anh mới sống sót mà tới đây
được. Tôi mừng cho anh lắm.
Quưch-Quưch và tôi tṛ chuyện với nhau đă ba giờ.
Chúng tôi ngủ sớm v́ anh muốn đi t́m Sô-cô-la ngay lúc hừng
đông. Sau khi đặt vào bếp một cành cây to để nó cháy suốt đêm,
chúng tôi ngủ. Khói làm tôi ho và tắc cả mũi, nhưng có điều lợi
là không có lấy một con muỗi.
Nằm trên giường, đắp chăn ấm, tôi nhắm nghiền mắt. Tôi không sao
ngủ được. Tôi bị căng thẳng quá. Đúng là chuyến vượt ngục diễn
ra thật tốt đẹp. Nếu tàu tốt chỉ tám ngày nưa là tôi sẽ ra khơi.
Quưch-Quưch nhỏ và gầy, nhưng anh có sức mạnh phi thường, và sức
chịu đựng của anh có thể vượt qua được mọi thứ thách. Chắc chắn
là anh trung thực và đàng hoàng đối với bạn, nhưng có thể anh
cũng rất tàn nhẫn với kẻ thù. Khó mà nhận xét được điều ǵ trên
mặt một người á đông, nó chẳng bộc lộ chút ǵ hết. Tuy vậy, mắt
anh đă nói thay anh.
Tôi ngủ thiếp đi và mơ thấy biển khơi tràn đầy ánh nắng, tàu của
tôi tưng bừng vượt sóng trên đường đi tới tự do.
Anh uổng cà-phê hay trà?
- Thế anh uống ǵ?
- Tôi uống trà.
- Vậy cho tôi trà.
Trời vừa ló sáng, lửa vẫn cháy từ đêm qua, nước reo trong xoong.
Một con gà vui mừng cất tiếng gáy. Chung quanh chúng tôi không
có tiếng chim kêu, chắc chắn khói đă làm chúng bạt đi mất. Con
heo đen nằm trên giường với Quưch-Quưch. Con heo chắc làm biếng
lắm, v́ đến giờ nó vẫn c̣n ngủ. Những miếng bánh tráng làm bằng
bột gạo đang được nướng trên than hồng. Sau khi pha trà đường,
anh bạn tôi cắt bánh làm đôi, phết mỡ rồi đưa cho tôi. Chúng tôi
ăn một bữa thịnh soạn. Tôi ăn ba chiếc bánh tráng đă được nướng
kỹ.
- Tôi đi đây, anh theo tôi ra nhé. Nếu có ai kêu hay huưt sáo,
đừng trả lời. Anh không phải lo, không ai đến đây được. Nhưng
nếu anh ra chỗ mép bùn, anh có thể bị chết đấy.
Con heo đă dậy theo tiếng gọi của chủ. Nó ăn, uống rồi ra ngoài,
chủ nó đi theo nó. Nó đến thẳng nơi có bùn. Nó đi xuống cách
đoạn đường chúng tôi tới đây hôm qua hơi xa hơn một chút. Đi
được vài chục mét, nó quay lại: nó không ưng lối này. Sau khi ḍ
thứ ba lần, nó mới vượt qua chỗ bùn. Quưch-Quưch theo ngay nó,
không e ngại, và đă tới được chỗ đất rắn. Măi tận chiều,
Quưch-Quưch mới về. Tôi ăn một ḿnh món súp anh đă đặt trên đống
lửa. Sau khi nhặt được tám quả trứng trong chuồng gà, tôi lấy mỡ
làm một đĩa ba quả trứng ốp-lết. Gió đă đổi chiều và khói ở hai
ḷ bên lán đă bay về hướng khác. Buổi chiều trời mưa, tôi nằm
trên giường gỗ của tôi, tôi không bị thán khí làm cho khó chịu.
Buổi sớm, tôi dạo một ṿng quanh đảo. Khoảng giữa đảo có một khu
đất trống khá rộng, cây đổ và củi bổ tại đó chứng tỏ là
Quưch-Quưch lấy gỗ ở đấy để đốt thành than. Tôi c̣n thấy một cái
hố có đất sét trắng, chắc anh moi lên để phết vào gỗ làm cho nó
cháy không thành ngọn. Lũ gà kiếm ăn ở khu đất trống. Một con
chuột kếch xù chạy vụt dưới chân tôi, và cách đấy vài thước, tôi
thấy một con rắn dài gần hai mét đă chết.
Chắc hẳn con chuột đă cắn chết con rắn.
Suốt ngày hôm ấy, ở một ḿnh trên đảo, tôi khám phá hết cái nọ
đến cái kia. Ví dụ, tôi gặp một gia đ́nh những con ăn kiến. Một
mẹ và ba con. Một tổ kiến to đang sôi sục quanh chỗ chúng. Hơn
một tá khỉ rất nhỏ nhảy từ cành nọ sang cành kia trên khoảng đất
trống.
- Tôi không gặp Sô-cô-la, cũng không thấy chiếc thuyền. Chắc anh
về làng ở vùng Thác mua thực phẩm. Anh ăn đủ chưa?
- Rồi.
- Anh c̣n muốn ăn nữa không?
- Không.
Tôi mang về cho anh hai gói thuốc đen, loại sợi to của lính: v́
chỉ có thứ này.
- Cảm ơn anh, thứ này được rồi. Khi Sôcôla đi vắng, thường anh
ta ở lại làng mấy ngày?
- Hai ba ngày, nhưng mai tôi lại đi, ngày nào tôi cũng đi, v́
tôi không biết anh ta đi lúc nào.
Hôm sau trời mưa tầm tă. Nhưng Quưch-Quưch vẫn trần truồng đội
mưa ra đi. Anh bọc quần áo trong một tấm vải sơn cắp dưới nách.
Tôi không tiễn chân anh. “Anh đừng đi làm ǵ cho ướt”. Anh nói
với tôi thế. Mưa đă tạnh. Nh́n mặt trời, tôi biết là đă mười một
giờ. Ḷ than thứ hai bị nước mưa làm sập. Tôi tới gần để ước
lượng tai họa này. Mưa xối xà cũng không làm tắt hết củi. Vẫn
c̣n khói từ trong cái đống dị h́nh đó bốc lên. Bỗng tôi dụi mắt
rồi nh́n lần nữa v́ những thứ tôi trông thấy thật bất ngờ: trong
ḷ than có năm chiếc giày. Trông rơ ngay là mỗi chiếc giày đều
đặt thắng đứng trên gót, đều được sỏ vào một cái chân c̣n nguyên
từ bàn chân lên đến bắp. Như vậy là có ba người bị thiêu trong
ḷ. Không cần phải mô tả phản ứng đầu tiên của tôi: khám phá ra
chuyện này tôi thấy lành lạnh ờ sống lưng. Tôi cúi xuống lấy
chân bới chút tàn than cháy dở, th́ thấy bàn chân thứ sáu.
Quưch-Quưch cũng ghê thật, anh đă biến những người anh giết hàng
loạt thành tro bụi. Tôi bị xúc động đến nỗi phải rời khỏi ḷ
than ngay ra tận khu băi trống đế có chút ánh nắng. Tôi cần phải
được sưởi nóng. Đúng, trong không khí ngột ngạt này, tôi bỗng
thấy lạnh và cần phải có một chút mặt trời nhiệt đới. Đọc đến
đây, chắc độc giả cho là chuyện vô lư: đáng lẽ sau khi khám phá
ra việc này, tôi phải toát mồ hôi mới phải. Thế mà không, tôi
thấy lạnh cóng người, về tinh thần và thể chất. Rất lâu, đến một
tiếng đồng hồ sau, mồ hôi mới bắt đầu chảy trên trán tôi v́ càng
nghĩ, tôi càng thấy rằng, tôi đă nói với anh ta là tôi có rất
nhiều tiền dấu ở trong plan thế mà đến bây giờ tôi vẫn c̣n sống
th́ thật là một điều kỳ diệu. Phải chăng anh ta để dành tôi cho
một cái ḷ đốt than thứ ba?
Tôi nhớ là Chang em của anh đă nói với tôi là anh bị kết án về
tội ăn cướp và giết người trên một chiếc thuyền buồm. Khi họ tấn
công một chiếc tàu để cướp của, họ giết cả gia đ́nh, tất nhiên
là vin vào những lư do chính trị. Vậy th́ đây là những người đă
quen giết người hàng loạt. Thế mà tôi lại bị cầm giữ ở đây. Tôi
ở trong một hoàn cảnh thật gay go. Thứ điểm lại t́nh h́nh xem
sao. Nếu tôi giết Quưch-Quưch trên đảo này rồi cho xác anh vào
ḷ than, không ai hay biết được. Nhưng con heo lại không chịu
nghe tôi con heo được rèn luyện này cũng không hiểu tiếng Pháp.
Vậy là không có cách nào ra khỏi đảo. Nếu tôi ép buộc được anh
Tàu này nghe theo tôi, th́ sau khi bắt anh đưa tôi ra khỏi đảo,
tôi sẽ giết anh trên đất liền. Nếu tôi ném anh xuống bùn, anh sẽ
biến mất, nhưng chắc anh phải có lư do ǵ đế thiêu những người
này mà không ném xác họ xuống bùn, làm thế dễ hơn nhiều. Bọn cai
tù, tôi đếch sợ, nhưng nếu các bạn Tàu của anh khám phá ra là
tôi đă giết anh, họ sẽ thành kẻ đi săn người. Họ lại thông thạo
địa thế ở đây. Như vậy, bị họ đuổi theo chẳng phải là chuyện hay
hớm ǵ.
Quưch-Quưch chỉ có khẩu súng trường một ṇng, nạp đạn từ phía
đầu ṇng. Anh không chịu rời nó, kể cá lúc nấu ăn, lúc ngủ và
ngay cả khi đi ngoài anh cũng mang súng theo. Tôi có con dao lúc
nào cũng mở sẵn nhưng tôi c̣n phải ngủ. Thế mà anh lại là người
tôi chọn để cùng vượt ngục đấy, thật oái oăm. Cả ngày hôm ấy tôi
không ăn. Và khi tôi nghe tiếng anh hát, tôi cũng chưa quyết
định làm ǵ. Quưch-Quưch đă trở về. Nấp sau các cành cây tôi
thấy anh đi tới. Anh mang một cái bọc đặt thăng bằng trên đầu và
khi anh đến bên tôi, tôi mới ló ra. Anh tươi cười đưa tôi gói đồ
bọc trong cái bao bột ḿ, leo lên rồi đi vội vào nhà. Tôi đi
theo anh.
- Tin mừng, Papillon ạ, Sô-cô- la đă về rồi, thuyền vẫn c̣n. Anh
ta nói là tàu có thể chở được hơn năm trăm kí-lô mà vẫn nổi. Thứ
anh đang cần là những bao bột ḿ để ghép lại thành buồm chính và
một buồm mui. Đây là bọc hàng đầu tiên. Nhưng thứ c̣n lại mai ta
sẽ lấy về nốt, v́ anh sẽ đi xem thuyền với tôi.
Quưch-Quưch vừa đi vừa nói, không quay mặt lại.
Chúng tôi nối gót nhau đi. Trước tiên là con heo, rồi đến anh
ta, c̣n tôi đi sau cùng. Tôi khoáng nghĩ rất nhanh là anh không
có vẻ ǵ có ư định cho tôi vào ḷ than, v́ ngày mai anh sẽ đưa
tôi đi xem thuyền, và anh đă bắt đầu tiêu pha để chuẩn bị cho
cuộc vượt ngục: anh c̣n mua cả những bao bột ḿ.
- Một cái ḷ bị sập đổ ḱa. Chắc tại trời mưa.
- Mưa nhiều quá nên cũng chẳng có ǵ là lạ.
Anh cũng không ra thăm ḷ, cứ đi thẳng về lán. Tôi không biết
nói ǵ, cũng không biết nên làm ǵ. Coi như không trông thấy ǵ
cũng không xong. chẳng lẽ suốt ngày tôi lại không ṃ đến gần ḷ
ở cách lán có hai mươi lăm mét, nghĩ cũng kỳ.
- Anh để tắt lửa đấy à?
- Phải, tôi chẳng đề ư đến nữa.
- Anh đă ăn chưa?
- Chưa, tôi không đói.
- Anh bệnh à?
- Không.
- Thế tại sao anh không ăn súp đi?
- Quưch-Quưch, anh ngồi xuống dây, tôi có chuyện muốn nói với
anh.
- Để tôi châm lửa đă.
- Đừng. Tôi muốn nói chuyện với anh ngay, trong lúc trời c̣n
sáng.
- Có điều ǵ vậy?
- Có điều ]à ḷ sập đă để lộ ba cái xác người bị anh thiêu trong
đó. Anh bày giải thích cho tôi nghe việc này.
- à! Thảo nào tôi thấy mặt anh là lạ.
Không lộ vẻ xúc động chút nào, anh nh́n thẳng tôi nói:
- Sau khi nh́n thấy như vậy, anh không yên tâm phải không? Tôi
hiểu, chuyện dĩ nhiên thôi. Cũng may cho tôi là anh chưa đâm vào
lưng tôi. Anh Pappillon, ba thằng cha ấy là ba thằng đi săn
người. Và tuần qua, mười hôm th́ đúng hơn, tôi bán một mớ củi
cho Sô-cô-la. Ông người Tàu mà anh đă thấy, giúp tôi đưa các bao
than ra khỏi đảo. Chuyện này rắc rối lắm: chúng tôi dùng thừng
dài hơn hai trăm mét kéo những bao than cho trượt trên bùn. Đại
khái là như vậy. Từ đây đến một con lạch nhỏ, thuyền của
Sô-cô-la đậu ở đấy. Chúng tôi đă để lại rất nhiều dấu vết, mấy
cái bao rách đă để rơi vài cục than. Thế là bắt đầu xuất hiện kẻ
săn người đầu tiên. Nghe thú kêu, tôi biết là trong rừng có
người. Tôi thấy được thằng cha nọ, nó lại không trông thấy tôi.
Tôi lén đi qua phía bên kia đáo, ṿng sau lưng nó đánh bất ngờ,
chẳng có ǵ khó. Nó bị giết chết mà không hề biết ai giết ḿnh.
Tôi để ư nhận thấy các xác chết nắm xuống bùn sau vài ngày lại
nổi lên, cho nên tôi mang nó về đây, cho vào ḷ.
- C̣n hai người kia là thế nào?
Chuyện xáy ra ba ngày trước khi anh đến đây. Đêm ấy tối đen như
mực và hoàn toàn im ắng, điều này ít khi thấy ở rừng lắm. Hai
thằng này ở bờ ao từ chập tối. Một đứa hễ bị khói bay tới là lên
cơn ho. Do có những tiếng ho mà tôi biết là có chúng ở đấy.
Trước khi trời sáng, tôi đánh liều đi qua phía trước mặt, chỗ
bùn mà tôi đă nhớ là có tiếng ho. Muốn cho nhanh, như tôi đă nói
với anh, tôi đă cắt cổ tên săn người đầu tiên. Nó không kêu được
một tiếng. C̣n thằng sau nó, có một khẩu súng săn, nó chỉ lo
nh́n về phía trên đảo xem có chuyện ǵ xảy ra, nên đă để tôi
trông thấy. Tôi cho nó một phát súng, và thấy nó chưa chết hẳn,
tôi lại bồi thêm cho nó một nhát dao vào tim. Đấy là ba thằng mà
anh đă trông thấy trong ḷ than đấy Papillon ạ Một thằng A-rập
và hai thằng Pháp. Vác chúng lên vai mà đi qua đống bùn không
phải dễ. Chúng nặng lắm, cho nên tôi phải đi làm hai chuyến. Rồi
tôi cũng cho nó vào ḷ được.
- Chuyện xảy ra đúng như vậy chứ?
- Đúng thế, Papillon, tôi thề với anh ấy.
- Tại sao anh không cho chúng xuống bùn?
- Tôi đă nói rồi, bùn đẩy xác chết lên. Thỉnh thoảng có con nai
bị rớt xuống đấy, chỉ một tuần sau, nó lại nổi lên. Hôi thối
lắm, măi đến khi kền kền đến ăn mới hết mùi. Phải lâu lắm, tiếng
kền kền kêu và bay lượn làm cho người ta ṭ ṃ t́m đến. Papillon
ơi, tôi thề với anh là đi với tôi anh không phải sợ ǵ. Đây để
anh yên tâm, anh cầm lấy khẩu súng này, nếu anh muốn. Tôi muốn
nhận khẩu súng đến chết, nhưng tôi đă nén được và tôi cố hết sức
nói thật tự nhiên:
- Tôi không cầm đâu anh Quưch-Quưch, tôi đến đây v́ tôi cảm thấy
được bảo đảm, như đến với một người bạn. Ngày mai anh phải thiêu
tiếp mấy tên săn người ấy cho hết dấu vết đi. Dù tôi không có
mặt ở đây tôi cũng không muốn bị buộc tội là đă giết ba người.
- Được, mai tôi sẽ thiêu nữa. Nhưng anh yên trí. không ai đặt
chân được lên đảo này. Không thể có ai dám qua đây nếu không
muốn bị sa lầy. Thế với một chiếc xuồng bằng cao su có qua được
không?
- Tôi không nghĩ đến việc đó.
Nếu ai dẫn bọn hiến binh đến đây, và chúng muốn vào vào, anh cứ
tin là với một cái bè, chúng có thể vào được. V́ vậy nên phải đi
càng sớm càng tốt.
- Đồng ư. Ngày mai, sẽ nhóm ḷ lại, nó cũng chưa tắt hẳn, chỉ
cần làm hai ống thông hơi nữa.
- Thôi chào anh Quưch-Quưch.
- Chúc anh ngủ ngon, Papillon. Tôi nhắc lại là anh cứ ngủ cho
kỹ, anh có thể tin tôi.
Nằm kéo chăn lên tận cằm, tôi thấy ấm áp khoan khoái Tôi châm
thuốc hút. Mười phút sau, Quưch-Quưch đă ngáy, con heo nằm cạnh
anh cũng thở ph́ pḥ. Lửa không bốc lên nhưng than ở thân cây
c̣n hồng và khi có cơn gió lùa vào lán, nó tạo ta một cảm giác
thanh b́nh, êm ả. Tôi tận hưởng tiện nghi này và tôi đă ngủ với
những ư nghĩ sau đây trong đầu? Ngày mai, tôi sẽ thức dậy và
giữa Quưch-Quưch với tôi mọi việc đều êm đẹp; nếu không chú ba
tàu này quá là một nghệ sĩ đă che dấu những ư định của ḿnh và
kể chuyện tào lao c̣n giỏi hơn ca Sacha Guitry* (*Sacha Guitry:
diễn viên kịch nói và điện ảnh rất nổi tiếng của Pháp c̣n là tác
giả của nhiều kịch bản sân khấu và phim (1885 –1957) - ND) và
nếu thế tôi sẽ không thấy ánh mặt trời, v́ tôi đă biết quá nhiều
về anh, anh sẽ ngại.
Chuyên viên giết người hàng loạt đánh thức tôi dậy, tay cầm một
ca cà-phê, và như không có chuyện ǵ xảy ra, anh chào tôi với
một nụ cười vô cùng cởi mở. Ngày đă rạng.
- Này, anh uống cà phê, ăn bánh tráng đi, đă cho mỡ rồi đấy.
Ăn uống xong, tôi ra ngoài, rửa ráy ở một thùng ton-nô lúc nào
cũng đầy nước.
- Anh giúp tôi nhé, Papillon?
- ừ! - tôi nói mà không hỏi xem anh ta cần giúp việc ǵ
Chúng tôi kéo chân mấy cái xác chết đă bị thiêu dở dang. Tôi để
ư thấy mà không nói ra, là cả ba cái xác đều bị mổ bụng, anh
chàng tàu dễ thương này chắc đă t́m xem họ có dấu tiền trong
ruột không. Có đúng họ là những kẻ săn người không. Biết đâu lại
chỉ là những người săn bướm và săn thú? Anh ta giết họ để tự vệ
hay để lấy của? Thôi, không nghĩ thêm về chuyện này nữa! Mấy cái
xác chết đă được đưa vào trong hố ḷ có củi và đất sét đắp lên
trên. Hai ống thông hơi đă được mở ra và ḷ đă bốc cháy với hai
nhiệm vụ: làm ra than củi và thiêu cho ba cái xác thành tro.
- Đi nào, Papillon.
Con heo con t́m ra lối đi trong nháy mắt. Chúng tôi nối đuôi
nhau đi qua quăng bùn. Lúc sắp dấn bước đưa chân, tôi lo đến
chết khiếp. Chuyện Sylvain bị sa lầy rồi chết đă để lại trong
tôi một ấn tượng sâu sắc đến nỗi tôi không thề nào đi trên bùn
một cách thanh thản được. Cuối cùng, toát mồ hôi hột, tôi cũng
phải lao theo Quưch-Quưch. Chân tôi đặt từng bước lên vết chân
anh, không có cách ǵ khác: anh qua được th́ tôi cũng phải qua
được chứ.
Sau hai giờ đi bộ, chúng tôi đi đến được nơi Sô-cô-la lấy gỗ.
Trên đường đi chúng tôi không gặp ai và cũng không phải lẩn trốn
lần nào.
- Chào me-xừ.
- Chào ông Quưch-Quưch.
- Anh có khỏe không?
- Khỏe lắm.
- Anh cho bạn tôi xem thuyền.
Cái thuyền rất khỏe, đó là một loại sà lúp chở hàng, nặng nề
nhưng bền chắc. Tôi lấy dao sỉa vào mọi chỗ, dao không bao giờ
ngập sâu quá nửa phân. Sàn tàu cũng c̣n nguyên. Tàu này được
đóng bằng một thứ gỗ đă được chọn kỹ lưỡng.
- Anh bân bao nhiêu?
- Hai ngàn năm trăm francs.
- Tôi trả anh hai ngàn.
Ngă giá thế là xong.
Tàu này không có ky. Tôi trả thêm cho anh năm trăm francs nữa,
anh phải làm thêm cho tôi một cái ky, một bánh lái và một cột
buồm. Cái ky và bánh lái phải bằng gỗ tốt, cột buồm, cao ba mét,
bằng gỗ nhẹ và dẻo. Bao giờ xong?
- Tám ngày nữa. Đây là hai tờ giấy bạc một ngàn và một tờ năm
trăm. Tôi xé đôi, đưa anh một nửa, nửa kia sẽ đưa anh khi tôi
nhận tàu. Anh giữ một nữa nhé. Bằng ḷng không?
- Đồng ư. - Tôi cần một ít thuốc tím, một ton-nô nước ngọt, ít
thuốc lá và diêm, thức ăn đủ cho bốn người trong một tháng: bột
ḿ dầu, cà-phê và đường, những thứ này tôi trả tiền riêng. Anh
giao tất cả trên sông ở Kourou nhé.
- Me xừ ơi, tôi không thể theo ông ra đến cửa sông được
- Tôi có bảo anh theo đâu. Tôi bảo là anh giao tàu cho tôi trên
sông chứ không phải ở cái vũng này.
- Các túi bột ḿ, một cuộn dây thừng, kim khâu và chỉ buồm đấy.
Quưch-Quưch và tôi lại quay về nơi ẩn náu. Chúng tôi về trước
khi trời tối, không gặp chuyện phiền phức ǵ. Trên đường về, con
heo mệt nên anh vác nó lên vai. Hôm nay, tôi đang khâu buồm một
ḿnh, bỗng nghe có tiếng kêu. Tôi nấp vào rừng gần quăng có bùn
và trông sang bờ bên kia. Quưch-Quưch tranh căi khoa chân múa
tay với người trí thức Tàu. Tôi đoán là anh ta muốn sang đảo mà
Quưch-Quưch không cho sang. Tay người nào cũng cầm một con dao
phạt. Người cụt tay có vẻ nóng hơn. Mong sao anh ta đừng giết
Quưch-Quưch. Tôi quyết đỉnh lộ diện. Tôi huưt sáo. Hai người
quay về phía tôi.
- Có việc ǵ thế, anh Quưch-Quưch?.
- Tôi muốn nói chuyện với anh, anh Papillon ạ! - Người kia nói.
- Anh Quưch-Quưch không cho tôi sang bên ấy.
Sau mười phút tranh căi bằng tiếng của họ, cả hai đă theo con
heo sang bên này đảo. Ngồi trong lán, khỉ mỗi người tay đă cầm
một ca nước trà, tôi chờ nghe họ nói.
- Chuyện như thế này - Quưch-Quưch nói. - Anh ta muốn vượt ngục
bằng được với chúng ta. Tôi nói cho anh ấy hiểu là tôi không có
quyền ǵ trong chuyện này, anh là người trả tiền và chỉ huy tất
cả. Anh ấy không tin tôi.
- Anh Papillon ơi, - anh kia nói, - Quưch-Quưch phải để cho tôi
cùng di mới được.
- Tại sao?
- Hai năm trước, chính anh ấy đă chặt cụt tay tôi trong khi đánh
bạc. Anh ấy bắt tôi thề là sẽ không giết anh ấy. Tôi đă thề,
nhận lời với điều kiện là anh ta phải nuôi tôi suốt đời. ít ra
cũng phải nuôi tôi khi tôi đ̣i hỏi. Nếu anh bỏ đi suốt đời, tôi
sẽ không c̣n nh́n thấy anh ấy cho nên một là anh ấy để anh đi
một ḿnh, hai là anh ấy phải để tôi đi theo.
- Lại c̣n chuyện thế nữa, cả đời bây giờ tôi mới gặp chuyện này
là một dấy, được, tôi bằng ḷng để anh đi theo. Tàu cũng tốt và
rộng, có thể đi thêm nữa nếu ta muốn. Anh Quưch-Quưch bằng ḷng,
th́ tôi để anh đi theo.
- Cảm ơn anh, - anh cụt tay nói.
- Anh thấy thế nào, anh Quưch-Quưch?
- Đồng ư, nếu anh muốn.
- Có một điều quan trọng. Anh có thể ra khỏi trại mà không bị
coi là mất tích và bị truy nă về tội vượt ngục, và anh có thể có
mặt ở ngoài sông trước khi trời tối không?
- Không có ǵ nhiều đâu. Tôi có thể ra khỏi trại từ ba giờ và
chưa tới hai giờ sau, tôi đă đến bờ sông rồi.
- Anh Quưch-Quưch ơi, ban đêm anh có thể t́m chỗ để chúng ta cho
bạn anh lên tàu mà không mất th́ giờ không?
- Có chứ, chắc chắn là có.
- Một tuần nữa, anh đến đây để biết ngày khởi hành nhé.
Anh cụt tay sau khi bắt tay tôi, vui vẻ quay đi. Tôi trông thấy
cả hai người chia tay nhau ở bờ bên kia. Trước khi từ giă, họ đă
bắt tay nhau. Mọi việc êm đẹp cả.
Khi Quưch-Quưch trở về lán tôi nói luôn:
Anh ta giao kéo với đối thủ của anh lạ nhỉ, nhận nuôi anh ta
suốt đời, chuyện lạ thường lắm đấy. Tại sao anh lại chặt tay anh
ta?
- Chơi bạc rồi đánh nhau:
- Thà anh giết chết anh ta c̣n hơn.
- Không được, v́ anh ấy là người bạn rất tốt. Khi ra ṭa án
binh, anh ta đă tận t́nh bênh vực tôi; nói là chính anh ta đánh
tôi trước, c̣n tôi chỉ tự vệ thôi. Tôi đă tự nguyện cam kết, tôi
phải giữ đúng lời hứa. Chỉ có một điều tôi không dám cho anh
biết v́ anh chi tiền cho cả chuyến vượt ngục.
- Thôi xong rồi, anh Quưch-Quưch ơi, chúng ta không cần nói đến
chuyện này nữa. Nhờ trời, khi nào được tự do anh muốn làm ǵ tùy
anh.
Tôi sẽ giữ lời hứa. Nếu có ngày anh được tự do, anh tính sẽ làm
ǵ? Mở tiệm ăn. Tôi là bếp giỏi, c̣n anh ấy chuyên về “hủ tiếu”.
Việc này làm tôi vui hẳn. Câu chuyện buồn cười làm tôi cứ chọc
Quưch-Quưch hoài.
Sô-cô-la đă giữ lời hứa: năm ngày sau, tất cả đă sẵn sàng. Chúng
tôi đi xem tàu vào một ngày mưa tầm tă. Không có ǵ có thể chê
trách cả. Cột buồm, bánh lái và ky đều hoàn hảo. ở một khúc
quanh trên sông, chiếc tàu cùng thùng ton-nô nước và thức ăn đă
đợi chúng tôi. Chỉ c̣n báo tin cho anh cụt thôi: Sô-cô-la nhận
đi đến trại để gọi anh kia, và sẽ đưa thẳng anh kia đến nơi giấu
tàu để chúng tôi khỏi phải tới bờ sông đón anh.
Cửa sông Kourou có hai cây đèn pha để xác định vị trí. Trời mưa
tàu có thể vượt qua được chỗ đó nếu di ở giữa sông và dĩ nhiên
là không kéo buồm lên. Sô-cô-la đă cho chúng tôi một hộp sơn đen
và một cây bút vẽ. Chúng tôi sẽ sơn lên buồm một chữ K lớn và số
21, K.21 là số đăng kư một tàu đánh cá thỉnh thoảng có đi đánh
cá đêm. Trường hợp ra đến biển, chúng tôi kéo buồm lên mà bị
phát hiện, người ta sẽ tưởng đấy là chiếc tàu đánh cá kia.
Chúng tôi quyết định tối mai, hồi mười chín giờ, một giờ sau khi
trời sập tối, sẽ khởi hành. Quưch-Quưch tin chắc sẽ t́m được
đường đi và bảo đảm đưa tôi đến thẳng nơi giấu tàu. Chúng tôi
rời đảo hồi năm giờ để tranh thủ đi một tiếng trong lúc trời c̣n
sáng. Tôi trở về lán rất vui vẻ. Quưch-Quưch vai vác con heo nói
chuyện huyên thiên với tôi mà không quay lại, v́ tôi đi sau lưng
anh ta.
- Cuối cùng, tôi cũng ra khỏi trại giam. Nhờ có anh và chú Chang
của tôi mà tôi được tự do. Sẽ có ngày, khi người Pháp cút khỏi
Đông Dương, tôi được trở về nước.
Tóm lại, anh tin tôi, và thấy tôi ưng cái tàu, anh vui khư khướu
Tôi ngủ đêm cuối cùng ở đảo, tôi hy vọng cũng là đêm cuối cùng
trên đất Guyane. Nếu tôi ra tới sông và tới biển, chắc chắn là
tự do rồi. Nguy cơ lớn nhất là bị đắm tàu, v́ từ khi có chiến
tranh, không có nước nào trả tù vượt ngục. Về điểm này, chiến
tranh đă có lợi cho chúng tôi. Nếu chúng tôi thất bại, chúng tôi
sẽ bị tử h́nh, đúng là thế, nhưng c̣n phải bắt được chúng tôi
đă. Tôi nghĩ đến Sylvain. Đáng lẽ anh phải ở đây, ngay cạnh tôi,
cùng với tôi, nếu anh không phạm phải điều khinh xuất kia. Tôi
đă thảo bức điện trong khi ngủ: “Gửi ông tổng biện lư Pradel -
Cuối cùng tôi đă dứt khoát thắng được con đường của sự thối rữa
mà ông ném tôi vào. Tôi đă mất chín năm”.
Mặt trời đă lên cao khi Quưch-Quưch đánh thức tôi dậy. Lại uống
trà, ăn bánh trắng. Chung quanh đầy những hộp là hộp, tôi c̣n
thấy hai cái lồng bằng mây.
- Lồng để làm ǵ vậy?
- Tôi nhốt gà để ăn dọc đường.
- Anh có điên không anh Quưch-Quưch? Ai lại đem gà đi theo.
Trong một hành tŕnh như thế này?
- Tôi muốn đem đi.
Anh có bệnh không đấy? Nếu nước xuống, tận sáng chúng ta mới ra
khỏi cửa sông, lỡ lúc ấy, gà sống gà mái gáy ầm lên trên sông,
anh thấy có nguy hiểm không?
- Tôi không vất gà lại đâu.
- Anh luộc gà đi rồi bỏ vào mỡ hay dầu. Thế mới để được lâu và
chúng ta sẽ ăn trong ba ngày đầu. Cuối cùng Quưch-Quưch cũng
phải chịu, anh đi bắt gà, những tiếng kêu của bốn con gà đầu
tiên anh tóm được đă làm những con khác bỏ chạy hết, anh không
bắt thêm được con nào, chúng trốn cả vào rừng. Đấy cũng là điều
bí mật của loài vật, không biết tại sao cũng cảm thấy trước mối
nguy cơ. Theo sau con heo, chúng tôi vượt qua đống bùn, vai vác
nặng như lừa. Anh van nài tôi để anh mang con heo đi theo.
- Trời đất ơi? Liệu nó có kêu không?
- Tôi bảo đảm với anh là không. Tôi bắt nó im là nó phải im.
Chúng tôi hai ba lần bị một con hổ cứ lượn quanh ŕnh chúng tôi.
Lúc đó nó cũng không kêu, mà nó sợ chết khiếp, lông cứ dựng đứng
lên.
Tin vào thiện ư của Quưch-Quưch, tôi bằng ḷng để anh đem c̣n
heo thân yêu của anh theo, chúng tôi đến chỗ dấu tàu th́ trời đă
tối mịt. Sô-cô-la và anh cụt đă có mặt ở đấy rồi. Có hai cây đèn
pin để tôi kiểm tra tất cả mọi vật dụng. Không thiếu thứ ǵ:
ṿng lồng dây buồm, buồm mũi đă được có mặt ở đấy rồi. Có hai
cây đèn pin để tôi kiểm tra tất cả mọi vật dụng. Không thiếu thứ
ǵ: ṿng lồng dây buồm, buồm mũi đă được buộc sẵn sàng, có thể
kéo lên ngay được. Quưch-Quưch kéo thử hai ba lần như tôi đă chỉ
cho anh làm. Anh hiểu ngay công việc tôi nhờ anh. Tôi trả tiền
anh da đen đă tỏ ra rất đứng đắn. Anh thật thà mang cả keo dán
và nửa mảnh giấy bạc để nhờ tôi dán lại giúp. Anh không lúc nào
sợ tôi lấy mất những tờ giấy bạc nọ. Ai không có những ư nghĩ
xấu về người khác, bản chất họ thường là tất và thắng thắn.
Sô-cô-la là một người trung thực và lương thiện. Sau khi đă thấy
tù khổ sai bị đối xử ra sao, anh không hề hối hận là đă giúp ba
người tù thoát khỏi cái địa ngục kia.
- Từ biệt Sô-cô-la nhé. Chúc anh cùng gia đ́nh gặp nhiều may
mắn.
- Cảm ơn ông nhiều.
11.
Từ giă nơi ngục tù
Chuyến vượt ngục của “dân tầu”
Tôi xuống tàu sau cùng và nhờ Sô-cô-la đẩy, chiếc tàu tiến về
phía sông. Không có giầm, chỉ có hai mái chèo tốt, một do Quưch
chèo phía trước, một tôi chèo phía sau. Chưa tới hai giờ sau,
chúng tôi ra đến sông.
Mưa đă hơn một giờ. Tôi lấy một bao bột ḿ để che mưa.
Quưch-Quưch và anh cụt cũng làm như vậy, nước sông chảy siết và
xoáy nhiều. Nhờ nước rút, ba giờ sau, chúng tôi đă đi ngang hai
cây đèn pha. Tôi biết là đă gần ra đến biển v́ hai cây đèn pha
này ở mỏm ngoài cửa sông. Chúng tôi kéo buồm chính và buồm mũi,
chúng tôi đă đi qua Kourou mà không gặp trở ngại ǵ Gió thổi
phía bên trái mạnh đến nỗi tôi buộc phải buông buồm cho gió
trượt đi. Tàu chúng tôi lao mạnh ra biển như một mũi tên, chúng
tôi lọt qua cửa lạch và rời khỏi bờ rất nhanh. Trước mặt chúng
tôi, cây đèn pha của đảo Royale đă chỉ đường cho chúng tôi. Mười
ba ngày trước tôi c̣n ở phía sau cây đèn ấy, ở Đảo Quỷ. Chuyến
ra khơi vào lúc ban đêm, việc mau chóng rời khỏi Đất liền không
được hai bạn Tàu của tôi ăn mừng nổ trời. Những tay con trời này
không quen lối bộc lộ t́nh cảm như chúng ta.
Ra đến biển rồi, Quưch-Quưch chỉ b́nh thản nói:
- Chúng ta đă đi ra được, rất tốt.
Anh cụt nói thêm:
- Phải, chúng ta đă ra đến biển mà không gặp một khó khăn nào.
- Tôi khát quá, anh Quưch-Quưch, cho tôi xin một ít rượu.
Sau khi đưa tôi uống, cả hai cũng uống một chầu rượu rhum. Tôi
đi không có la bàn, nhưng trong chuyến vượt ngục đầu tiên, tôi
đă học cách định hướng căn cứ vào mặt trời, trăng, sao và gió.
Và tôi không ngần ngại lao ra biển khơi, cột buồm hướng về sao
Hôm. Tàu rất tốt nó vượt sóng một cách dịu dàng và hầu như không
bị tṛng trành. Gió thổi rất dừ, buổi sớm chúng tôi đă ở rất xa
bờ và các đảo Salut. Nếu không phải là làm liều, tôi đă hướng
cho tàu chạy xích gần đảo Quỷ để từ ngoài khơi, vừa thoải mái
ngắm vừa vượt qua nó.
Ṛng ră sáu ngày, biển luôn có sóng lừng nhưng không mưa và
không có giông băo. Gió rất mạnh đă đẩy chúng tôi đi rất nhanh
về hướng tây. Quưch-Quưch và Vân Huê là những bạn đường tuyệt
vời. Cả hai không lúc nào phàn nàn về trời xấu, về nắng, về đêm
lạnh. Chỉ có điều là không anh nào muốn cầm lái và coi tàu lấy
vài giờ để tôi được ngủ. Hàng ngày họ nấu bếp đến ba bốn lần. Có
bao nhiêu gà chúng tôi đă ăn hết trơn. Hôm qua, tôi nói đùa với
Quưch-Quưch.
- Bây giờ chúng ta ăn con heo chứ?
Anh ta đau khổ thực sự.
- Con vật này là bạn tôi và trước khi ăn thịt nó phải giết tôi
đă.
Các bạn tôi cũng săn sóc đến tôi. Họ không hút thuốc để tôi muốn
hút bao nhiêu th́ hút. Lúc nào cũng có trà nóng. Họ làm tất cả
mà không cần phải bảo. Chúng tôi ra đi đă được bảy ngày. Tôi
không chịu đựng nổi nữa. Nắng gay gắt đến nỗi cả hai anh bạn Tàu
của tôi cũng bị luộc chín như tôm. Tôi phải ngủ. Tôi buộc lái
lại và chỉ căng một chút buồm. Tàu cứ đi theo hướng gió thổi.
Tôi ngủ say như chết gần ba giờ. Tôi giật ḿnh tỉnh dậy do bị xô
mạnh. Khi rửa mặt tôi ngạc nhiên và vui vẻ thấy là trong lúc tôi
ngủ anh bạn Quưch đă cạo râu cho tôi mà tôi không biết. Mặt tôi
cũng được anh bôi dầu.
Từ chiều qua tôi lái qua hướng Tây Nam v́ tôi cảm thấy đi quá xa
về hướng Bắc. Tàu nặng nên có cái lợi là nó không dễ bị trệch
hướng. Do đó, tôi thấy nó đi quá về hướng Bắe thật ra có lẽ là
không đúng. Ḱa, có chiếc khinh khí cầu! Đây là lần đầu tiên
trên đời, tôi được trông thấy nó. Nó không có vẻ đang bay về
phía chúng tôi, và nó ở quá xa, khó ước lượng được kích thước
của nó.
ánh nắng phản chiếu trên lớp nhôm làm nó ánh lên màu bạch kim và
chói đến nỗi mắt không nh́n thẳng vào đấy được. Nó bỗng đổi
hướng, h́nh như bay về phía chúng tôi. Quả vậy, nó to dần rất
mau, và chỉ hai mươi phút sau, nó đă ở trên dầu chúng tôi. Quưch
và anh cụt vô cùng ngạc nhiên khi thấy chiếc khinh khí cầu, cứ
nói huyên thuyên với nhau bằng tiếng Tàu.
- Các anh nói bằng tiếng Pháp để tôi nghe mấy chứ.
- Khí cầu của Anh - Quưch nói.
- Không, đấy không phải là khí cầu tṛn mà là một chiếc
dirigeable: loại khí cầu này có thể điều khiển như máy bay.
Chiếc khí cầu rất to, bây giờ chúng tôi đă thấy được rát rơ v́
nó hạ thấp và lượn trên đầu chúng tôi thành những ṿng nhỏ. Có
những lá cờ nhỏ được đưa ra phát tín hiệu. Chúng tôi không hiểu
ǵ nên không trả lời. Khí cầu vẫn ra hiệu và đến gần chúng tôi
hơn, chúng tôi thấy được cả người trong khoang tàu. Rồi nó bay
về phía đất liền. Một giờ sau một chiếc phi cơ bay tới và lượn
nhiều lần trên đầu chúng tôi. Bỗng nhiên biển nổi sóng dữ hơn,
gió cũng mạnh hơn. Chân trời bóng phía đều quang và không thể có
mưa.
Trông kia, anh cụt nói.
- ở đâu?
- Đằng kia, hướng này, có thể là đất liền ở phía ấy. Điểm đen
kia, là một chiếc tàu.
- Sao anh biết?
- Tôi đoán vậy, tôi c̣n cho đấy là một tàu khu trục.
- V́ sao?
- V́ nó không có khói.
Đúng vậy, một giờ sau chúng tôi thấy rơ một chiếc tàu chiến màu
xám, có vẻ đến thẳng tàu chúng tôi. Nó lớn dần: chắc nó phải đi
nhanh ghê gớm, mũi tàu hướng về chúng tôi, tôi sợ nó đi sát
chúng tôi quá, sẽ rất nguy hiểm v́ biển động và vệt sóng của nó
ngược với sóng biển có thể làm tàu chúng tôi bị đắm.
Đó là một tàu phóng ngư lôi loại nhỏ, khi nó lượn quanh nửa ṿng
phơi cả về ngang thân tàu chúng tôi đọc được tên tàu là Tarpon.
Chiếc tàu nặng, treo cờ Anh phấp phới ở mũi tàu, đă lượn ṿng và
từ phía sau chầm chậm đến gần chúng tôi. Nó thận trọng đi sóng
đôi, cùng tốc độ với tàu chúng tôi. Một phần lớn thủy thủ đoàn ở
trên boong mặc quần áo màu xanh của Hải quân Anh. Từ đài chỉ
huy, một sĩ quan mặc đồ trắng nói qua chiếc loa.
- Stop You - Stop.
- Quưch, hạ buồm xuống ngay.
Hai phút sau buồm chính, buồm foc và buồm mũi đă được hạ xuống.
Không có buồm, tàu gần như dừng hẳn lại, chỉ có sóng xô tàu quay
ngang. Tôi thấy không thể để lâu như vậy, v́ sẽ nguy hiểm lắm.
Một chiếc tàu mà không có xung lượng riêng của ḿnh do động cơ
hay do gió, không thể giữ được đúng hướng. Đưa hai tay lên miệng
làm loa, tôi kêu to:
- Các ông có người nói được tiếng Pháp không hả thuyền trưởng
Một sĩ quan khác cầm lấy chiếc loa trên tay viên sĩ quan trước.
- Có tôi nói được tiếng Pháp.
- Các ông muốn ǵ?
- Lên tàu của các anh.
- Không được, nguy hiểm lắm, tôi không muốn các ông đâm hỏng tàu
của tôi.
- Chúng tôi là tàu chiến đi kiểm tra biển, các anh phải tuân
lệnh.
- Tôi không cần biết, v́ chúng tôi không đi đánh nhau.
- Các anh không phải là những người sống sót của cái tàu bị bắn
ch́m?
- Không chúng tôi là những tù vượt ngục từ một trại giam tù khổ
sai của Pháp.
Trại giam tù khổ sai là cái ǵ, trại khổ sai nghĩa là ǵ?
- Nhà tù, tù nhân, tiếng Anh là Convict Hard labour.
- à, tôi hiểu rồi. ở Cayenne hả?
- Phải, ở Cayenne.
- Các anh đi đâu?
- Sang Honduras thuộc Anh.
Không được, các anh phải theo hướng Tây Nam và đi về thành phố
George. Đây là lệnh, các anh phải theo.
- Được? Tôi bảo Quưch kéo buồm lên và chúng tôi đi về hướng mà
chiếc tàu phóng ngư lôi đă chỉ cho chúng tôi
Chúng tôi nghe có tiếng động cơ ở phía sau. Đấy là một chiếc
xuồng máy được tách khỏi tàu chiến. Nó đuổi kịp chúng tôi ngay.
Một thủy thủ, súng đeo chéo qua vai, đứng ở mũi xuồng. Nó đến từ
phía bên phải và đi sát kề bên chúng tôi mà không dừng lại, cũng
không bắt chúng tôi dừng lại. Người thủy thủ nhảy phóc sang tàu
chúng tôi. Chiếc xuồng tiếp tục đi trở về với chiếc tàu chiến.
- Good afternoon! - người thủy thủ nói.
Anh ta đi về phía tôi, ngồi xuống cạnh tôi rồi đặt tay lên cần
lái và hướng tàu về phía Nam, chếch nhiều hơn so với hướng tôi
đi. Tôi để cho anh ta lái, và quan sát cách làm của anh. Anh lái
rất giỏi, không có ǵ phải nghi ngờ. Tuy thế, tôi vẫn ngồi tại
chỗ của tôi. Biết thế nào được.
- Thuốc lá?
Anh lấy ra ba bao thuốc lá Anh và đưa cho chúng tôi mỗi người
một bao.
- Trời ơi! - Quưch nói, họ vừa đưa thuốc lá cho anh này đúng lúc
anh xuống xuồng, v́ chắc anh ta không phải lúc nào cũng mang ba
bao thuốc lá trong người.
Tôi cười về lời nhận xét của Quưch, rồi tôi lại chú ư đến người
thủy thủ Anh: anh ta biết lái tàu giỏi hơn tôi. Tôi có đủ th́
giờ để suy nghĩ. Lần này, việc vượt ngục đă thành công hoàn
toàn, tôi đă là một người tự do, thật sự tự do. Cổ tôi nóng ran,
tôi cảm thấy nước mắt trào ra. Thật vậy, tôi đă dứt khoát được
tự do v́ từ khi có chiến tranh, không nước nào trả tù vượt ngục
về nơi cũ.
Trước khi chiến tranh chấm dứt, tôi có đủ th́ giờ để được đánh
giá tốt và bất cứ nước nào mà tôi định cư cũng sẽ hiểu rơ tôi.
Điều bất lợi duy nhất là, do chiến tranh, có lẽ tôi không được
lựa chọn nước tôi muốn ở lại. Cũng không sao, ở bất cứ nơi nào
tôi sống, tôi cũng sẽ mau chóng làm sao để được dân và các nhà
cầm quyền ở đấy quư mến và tin cậy, cách sống của tôi sẽ không
ai chê trách vào đâu được. Hơn thế, cách sống ấy phải là gương
mẫu nữa.
Cảm giác an toàn là cuối cùng tôi đă chiến thắng được con đường
thối rữa làm tôi không c̣n nghĩ đến việc ǵ khác Papillon, thế
là cuối cùng, mày đă được cuộc Sau chín năm, mày đă toàn thắng.
Cảm ơn Chúa ḷng lành, có thể người đă làm như vậy trừ trước,
nhưng con đường người vạch ra rất bí ẩn, con không oán trách
người v́ nhờ người giúp đỡ, con vẫn c̣n trẻ, c̣n lành mạnh và tự
do.
Chính lúc đang nghĩ tới con đường mà tôi đă vượt qua trong chín
năm bị tù đày khổ sai cộng với hai năm tù ở Pháp tổng cộng là
mười một năm là lúc tôi đă trông theo tay người thủy thủ đang
chỉ và nói với tôi:
- Đất liền kia ḱa.
Hồi mười sáu giờ, sau khi đi ngang một ngọn đèn biển đă tắt,
chúng tôi vào một con sông lớn. Sông Demerara. Chiếc xuồng lại
xuất hiện, người lính thủy tảa tay lái cho tôi và ra phía trước.
Anh ta bắt một cuộn thừng to được ném tới và buộc vào ghế băng
phía trước. Chính tay anh đă hạ buồm và chèo xuồng nhẹ nhàng kéo
chúng tôi khoảng hai mươi kilômét ngược gịng con sông nước vàng
vàng này, theo sau độ hai trăm mét là chiếc tàu phóng ngư lôi.
Sau một khúc quanh, một thành phố lớn hiện ra, người lính thủy
Anh reo to: “Đến thành phố George rồi”.
Đúng là chúng tôi đă đến thủ đô của nước Guyane thuộc Anh, do
chiếc xuồng kéo. Có rất nhiều tàu chở hàng, thuyền máy và tàu
chiến. Có nhiều đại bác đặt trong các tàu chiến cũng như trên
đất liền.
Chiến tranh là như thế. Chiến tranh nổ ra đă hai năm rồi mà tôi
không hay biết ǵ. Thành phố George, thủ đô của Guyane thuộc
Anh, cảng quan trọng trên sông Demerara, ở trong t́nh trạng có
chiến tranh một trăm phần trăm. Cái cảnh một thành phố được vũ
trang làm tôi thấy buồn cười. Chúng tôi vừa ghé sát một cầu tàu
quân sự th́ chiếc tàu phóng ngư lôi đi theo chúng tôi cũng từ từ
ghé tới và cặp bến. Quưch với con heo, Huê với cái bọc nhỏ trong
tay và tôi tay không, chúng tôi lên bến. Không có một người dân
nào trên cầu tàu dành cho Hải quân này. Chỉ có lính thủy và quân
nhân. Một viên sĩ quan đi tới. Tôi nhận ra ông ta. Ông là người
nói tiếng Pháp với tôi từ trên tàu phóng ngư lôi ông ta tử tế
ch́a tay cho tôi và nói với tôi:
- Anh có khỏe không?
- Thưa thuyền trưởng khỏe
- Tốt. Dù sao anh cũng phải qua y tế để chích ngừa vài mũi. Cả
hai bạn của anh nữa.
12.
Georgetown
Buổi chiều, sau khi được chích nhiều thứ thuốc vắc- xin khác
nhau, chúng tôi được chuyển sang đồn cảnh sát của thành phố, một
thứ trụ sở lớn có hàng trăm cảnh binh tấp nập ra vào không ngớt.
Giám đốc cảnh sát của thành phố George, người cầm quyền tối cao,
chịu trách nhiệm về sự an toàn của hải cảng quan trọng này, tiếp
ngay chúng tôi tại pḥng làm việc của ông. Quanh ông là các sĩ
quan Anh mặc đồ ka-ki, quần cộc, bít tất trắng, trông chừng chạc
không chê vào đâu được. Ông đại tá ra hiệu cho chúng tôi ngồi
xuống trước mặt ông. Bằng tiếng Pháp chính cống, ông hỏi chúng
tôi:
- Lúc người ta bắt gặp các anh trên biển, các anh từ đâu tới?
- Từ trại tù khổ sai ở Guyane thuộc Pháp.
- Các anh cho tôi biết những điểm chính xác mà từ đó các anh
vượt ngục đi.
Tôi ở đảo Quỷ. Các anh này ở một trại giam ở đất liền, một nửa
là tù chính trị, tại Inini, gần Kourou trên đất Guyane thuộc
Pháp.
- Anh bị kết án thế nào?
- Tù chung thân. Lư do: giết người.
- C̣n bác người Tàu?
- Cũng giết người.
- án ra sao?
- Chung thân.
Nghề nghiệp?
- Thợ điện.
- C̣n các anh kia?
- Nấu bếp.
- Các anh theo Degaulle hay Pétain?
- Chúng tôi không biết ǵ. Chúng tôi chỉ là những tù nhân muốn
t́m cách sống lương thiện trong tự do.
- Chúng tôi sẽ để các anh ở một xà-lim dược mở cửa suốt ngày
đêm. Chúng tôi sẽ trả tự do cho các anh sau khi xét lời các anh
đă khai. Nếu các anh nói thật, các anh không phải sợ. Các anh
phải hiểu là chúng tôi đang có chiến tranh, nên chúng tôi buộc
ḷng phải thận trọng hơn thời b́nh nhiều.
Tám ngày sau, chúng tôi đă mau chóng được trả tự do. Chúng tôi
lợi dụng tám ngày ở lại Đồn cảnh sát ấy để trang bị quần áo tươm
tất. Chín giờ sáng mai anh Tàu và tôi đă ăn mặc chỉnh tề ra
đường với giấy văn cước có dán ảnh.
Các nhà trong cái thành phố 250.000 dân này hầu hết là bằng gỗ,
kiến trúc kiểu Anh: tầng trệt bằng xi- măng, phần c̣n lại bằng
gỗ. Đường xá và đại lộ chật ních những người thuộc đủ các chúng
tộc: da trắng, da đen, ấn Độ, có các phu phen, thủy thủ Anh, Mỹ,
hoặc người phương Bắc. Chúng tôi hơi say sưa thấy ḿnh được ở
giữa đám đông sặc sỡ này. Một niềm vui mănh liệt tràn ngập ḷng
chúng tôi, mạnh mẽ đến nỗi nó lộ rơ trên mặt chúng tôi, kể cả
hai anh người Tàu, làm nhiều khách bộ hành nh́n chúng tôi và mỉm
cười vui vẻ.
- Chúng tôi đi đâu bây giờ? - Quưch hỏi. Tôi biết sơ sơ địa chỉ
vài người. Một cảnh sát da đen đă cho tôi địa chỉ của hai người
Pháp ở đường Penitence Rivers.
Hỏi thăm kỹ th́ đấy là một khu đặc biệt chỉ có người ấn Độ cư
ngụ. Tôi đến gặp một cảnh sát viên ăn mặc đồ trắng, trông chừng
chạc, tôi đưa địa chỉ cho anh ta coi. Trước khi trả lời, anh hỏi
giấy tờ của chúng tôi Tôi hănh điện lấy ra đưa cho anh. “Rất
tốt, cám ơn”, và anh ta sốt sắng đưa chúng tôi đến một chiếc tàu
điện và nói ǵ với người lái. Chúng tôi đi ra ngoài thành phố và
hai mươi phút sau, người lái tàu bảo chúng tôi xuống. Chắc là
đến nơi rồi. Chúng tôi hỏi đường. “Anh là người Pháp hả?” Một
thanh niên ra hiệu cho chúng tôi đi theo anh ta. Anh ta đưa
chúng tôi đến thẳng một căn nhà thấp. Tôi vừa tới nơi th́ thấy
có ba người đi ra, điệu bộ niềm nở:
- Sao lại thế này, Papi, anh ở đây à?
- Vô lư, người già nhất, tóc bạc trắng nói. - Vào đi! Đây là nhà
tôi. Hai người Tàu này đi với anh đấy?
- Phải.
- Vào đi, mời các anh vào cả.
Người tù già này tên là Guitto Auguste, c̣n gọi là Le Guittou,
dân Marseille chính cống. Chín năm trước, năm 1933, anh lên tàu
La Martinière cùng một chuyến với tôi. Sau một chuyến vượt ngục
thất bại, anh được tha tội chính và đă bỏ trốn đi, cách đây ba
năm, theo như lời anh nói. Hai người kia, một là Louis Nhỏ,
người ở Ardes, một người dân Toulouse tên là Julot. Cả hai cùng
trốn đi sau khi măn hạn tù, đáng lẽ họ phải ở lại Guyane thuộc
Pháp một thời gian tương đương với thời gian họ bị giam, mười
năm và mười lăm năm (gọi là thời gian quản thúc).
Căn nhà có bốn gian: hai pḥng, một căn bếp, kiêm pḥng ăn và
một xưởng nhỏ. Họ đóng giày bằng balata, một thứ cao-su thiên
nhiên kiếm ở trong rừng, cứ bỏ vào nước nóng là có thể nhào nặn
thành đồ dùng rất dễ dàng. Nhược điểm của nó là đề lâu ngoài
nắng th́ bị chảy, v́ đó là thứ cao su chưa được lưu hóa. Người
ta khắc phục khuyết điểm đó bằng cách cho những lớp vải xen kẽ
với các lớp balata.
Chúng tôi được tiếp đón nồng hậu, với tấm ḷng cao thượng của
một người đă từng đau khổ, Guittou đă thu xếp cho ba chúng tôi
một văn pḥng và để chúng tôi ở nhà anh không hề do dự chút nào.
Chỉ có một vấn đề là con heo của Quưch-Quưch, nhưng Quưch bảo
đảm là nó không làm dơ nhà và chắc chắn là nó biết ra ngoài một
ḿnh để đi đái.
Guittou nói: “Được, rồi sẽ tính sau, bây giờ anh em cho nó ở với
anh”.
Tạm thời chứng tôi lấy ba tấm chăn cũ của lính trải ra đất làm
giường nằm.
Sáu người chúng tôi ngồi trước cửa, hút vài điếu thuốc, tôi kể
cho Guittou nghe những chuyện gian truân của tôi trong chín năm
qua. Hai người bạn của anh và anh hết sức chăm chú lắng nghe và
như cùng sống lại những biến cố đó và họ cũng qua những kinh
nghiệm thực tế của bản thân để cảm thông được. Có hai người biết
Sylvain, đă than văn về cái chết của anh ta. Trước mặt chúng
tôi, rất nhiều người thuộc đủ các chủng loại đi qua đi lại.
Thỉnh thoảng có người vào mua một đôi dép hay một cây chổi, v́
Guittou và các bạn anh c̣n làm cả chổi để kiếm sống. Qua họ tôi
biết là trong số tù khổ sai và đi đày có chừng ba chục người
vượt ngục đă đến ở thành phố George. Ban đêm, họ gặp nhau tại
một quán rượu ở trung tâm thành phố để uống rượu rhum hay bia.
Julot nói với tôi là tất cả đều làm việc để sinh sống và đa số
có thái dộ tốt.
Trong khi chúng tôi ngồi hóng mát ở cửa có một người Tàu đi qua,
Quưch liền gọi anh ta lại. Rồi không nói ǵ với tôi, anh và anh
cụt đi theo người nọ. Chắc họ không đi xa v́ con heo cũng theo
sau. Hai giờ sau, ba gác nhỏ. Anh vênh vang như Artaban, gh́m
con lừa dừng lại và nói với nó bằng tiếng Tàu. Con lừa có vẻ
hiểu được thứ tiếng này. Trong xe, có ba cái giường sắt, ba tấm
nệm, gối và ba chiếc va-li. Anh đưa cho tôi một chiếc va li đầy
trong có áo sơ-mi, quần đùi, áo lót cùng hai đôi giày, v.v.:..
- Anh kiếm ra những thứ này ở đâu vậy, Quưch?
Các bạn đồng hương của tôi cho tôi đấy. Ngày mai chúng ta đến
thăm họ nhé?
- Đồng ư. Chúng tôi tưởng Quưch lại dắt con lừa và chiếc ba gác
đi, nhưng không. Anh tháo lừa ra, buộc nó ở trong sân.
- Họ tặng tôi cả con lừa và chiếc xe này. Họ nói, với những thứ
ấy, tôi có thể kiếm sống dễ dàng. Sáng mai, một người cùng quê
với tôi sẽ đến đây chỉ cho tôi.
Dân tàu, làm ǵ cũng mau thật.
Guittou bằng ḷng cho chiếc xe và con lừa được ở tạm trong sân.
Ngày tự do đầu tiên của chúng tôi trôi qua tốt đẹp. Buổi tối,sáu
chúng tôi ngồi quanh bàn làm việc, ăn ngon lành món xúp rau, do
Julot nấu, và một đĩa ḿ ống.
- Lần lượt, mỗi người thay phiên nhau dọn nhà và rửa bát chén-
Guittou nói:
Bữa ăn chung này tượng trưng cho một tập thể nhỏ đầy nhiệt t́nh.
Cảm giác biết ḿnh được giúp đỡ trong bước đầu của cuộc đời tự
do làm chúng tôi vững ḷng. Quưch, anh cụt và tôi thấy sung
sướng thật sự và hoàn toàn. Chúng tôi có một mái nhà, một cái
giường, những người bạn hào phóng, tuy nghèo nhưng cũng có tinh
thần cao thượng đă giúp đỡ chúng tôi. C̣n cần đ̣i hỏi ǵ hơn
nữa?
- Đêm nay, cậu có muốn làm ǵ không. Papillon?
- Guittou hỏi tôi. - Cậu muốn đến quán rượu ở trung tâm, nơi các
tay tù vượt ngục đều tới không?
- Tôi thích ở nhà đêm nay hơn. Anh muốn đi th́ cứ đi Mặc tôi.
- Được tôi sẽ đi v́ tôi cần gặp một người.
Tôi sẽ ở lại với Quưch và anh cụt.
Louis nhỏ và Guittou ăn mặc chỉnh tề, thắt và vạt và đi về phía
trung tâm. Chỉ có Julot ở lại để làm nốt vài đôi giày cho xong.
Các bạn tôi và tôi đi một ṿng quanh các đường phố lân cận cho
biết. Tất cả dân ở đây đều là người ấn Độ. Rất ít người da đen,
hầu như không có dân da trắng, rải rác có vài tiệm ăn Tàu.
Penitence Rivers, tên khu phố này, là một góc nước ấn Độ hay xứ
Nam Dương. Các thiếu phụ và thiếu nữ đều rất đẹp, và các ông cụ
đều mặc áo dài trắng. Nhiều người đi chân đất. Khu phố nghèo
nhưng mọi người đều ăn mặc sạch sẽ. Đường phố thiếu đèn, những
quán ăn, uống, đều đông nghẹt người, đâu đâu cũng nghe thấy âm
nhạc ấn Độ.
Một người da đen bồ hóng mặc đồ trắng, thắt và vạt chặn tôi lại:
- Ông là người Pháp phải không, thưa ông?
- Phải.
- Được gặp người đồng hương, tôi mừng lắm. Mời ông muốn một ly
với tôi.
- Cũng được, nhưng tôi c̣n hai người bạn.
- Không sao, họ có nói được tiếng Pháp không?
- Được
Cả bốn chúng tôi vào ngồi một bàn kê bên lề đường, trước một
quán rượu. Anh chàng Martinique này nói một thứ tiếng Pháp c̣n
chọn lọc hơn chúng tôi. Anh bảo chúng tôi phải đề pḥng bọn da
đen Anh, v́ theo anh, họ đều nói dối. “Chúng nó không như người
Pháp chúng ta đâu, chúng ta chỉ nói một lời, bọn chúng không như
vậy”.
Tôi cười thầm v́ thấy anh chàng đa đen Tombouctou này tự xưng là
người Pháp chúng ta, song tôi lại thực sự lúng túng. Đúng me xừ
này là một người Pháp, chính cống hơn tôi, tôi nghĩ vậy, v́ anh
ta nhận quốc tịch ḿnh một cách đầy nhiệt t́nh và tin tưởng. Anh
ta có thể chết v́ nước Pháp, c̣n tôi th́ không. Do đó anh ta
Pháp hơn tôi. Cho nên tôi cũng phụ họa theo anh.
- Được gặp đồng hương và nói tiếng mẹ đẻ tôi rất thích v́ tôi
nói tiếng Anh tồi lắm.
- C̣n tôi, tôi nói được, tôi nói tiếng Anh thạo và đúng văn phạm
nữa. Anh cần ǵ, tôi sẵn sàng giúp anh. Anh ở thành phố George
này đă lâu chưa?
Mới được tám ngày, không hơn.
- Anh ở đâu đến?
- ở Guyane thuộc Pháp.
Không thể thế được, anh là dân vượt ngục hay là người coi tù
chạy theo De Gaulle?
- Tôi vượt ngục
- C̣n các bạn anh?
- Cũng vậy.
- Henri ơi, tôi không muốn biết quá khứ của anh, bây giờ là lúc
phải giúp đỡ nước Pháp để chuộc tội. Tôi theo De Gaulle và tôi
đang chờ tàu để sang Anh đây.
Ngày mai anh lại t́m tôi ở Câu lạc bộ Martiner nhé. Địa chỉ đây.
Tôi rất sung sướng nếu anh cùng tham gia với chúng tôi. Anh tên
là ǵ?
- Homère.
- Me-xừ Homère ơi, tôi không thể quyết định ngay được. Tôi phải
t́m hiểu t́nh h́nh gia đ́nh tôi và suy xét kỹ trước khi quyết
định một việc quan trọng như vậy ông Homère ơi, nước Pháp đă làm
tôi đau khổ và đối xử với tôi vô nhân đạo lắm.
Anh chàng Martinique đă cố thuyết phục tôi với tất cả nhiệt t́nh
sôi nổi vô hạn độ của trái tim anh. Nghe những lư lẽ của con
người này đi bảo vệ nước Pháp đă bị tàn phá của chúng tơi, thật
vô cùng cảm động.
Chúng tôi về nhà rất muộn và khi đi nằm, tôi nghĩ lại rất cả
những ǵ người dân Pháp lớn đó đă nó với tôi tôi phải suy nghĩ
đứng đắn về đề nghị của anh ta. Nói cho cùng th́ bọn cảnh sát,
bọn quan ṭa, chính quyền nhà tù đâu phải là nước Pháp. Tôi cảm
thấy ḿnh vẫn c̣n rất yêu nước Pháp. Thế mà lại có bọn Đức trên
đất Pháp. Trời ơi, những người thân của tôi đau khổ biết bao
nhiêu, và đối với tất cả những người dân Pháp, thật là nhục nhă
biết chừng nào.
Khi tôi tỉnh dậy, con lừa, chiếc xe ba gác, con heo, Quưch và
anh cụt đă biến đâu mất.
- Cậu ngủ ngon chứ? - Guittou và các bạn anh hỏi.
- Ngủ say lắm, cảm ơn.
- Cậu muốn uống cà phê sữa hay trà? Cà phê với bánh ḿ phết bơ.
- Cảm ơn!
Tôi vừa ăn vừa xem họ làm việc.
Julot chuẩn bị balata dần dần theo nhu cầu cần thiết, anh ta bỏ
thêm những tảng balata rắn chắn vào nước nóng và nhào lẫn với
cái khối đă mềm.
Louls nhỏ chuẩn bị sẵn những mảnh vải, c̣n Guittou hoàn tất
chiếc giày..
- Các anh làm được nhiều không?
- Không. Bọn ḿnh làm đủ kiếm hai mươi đô-la một ngày. Trả tiền
nhà và ăn năm đô-la. C̣n lại cho mỗi đứa năm đô-la làm tiền túi,
may mặc và tiền hớt tóc
- Các cậu bán hết à?
- Không, thỉnh thoảng, một đứa trong bọn ḿnh phải đi bán giày
và chổi ở các đường phố: Đi bán dạo như vậy, dưới nắng, gay lắm.
Nếu cần, tớ cũng muốn cùng làm với các cậu ở đây tớ không thích
là kẻ ăn bám. Tớ cũng phải góp phần vào bữa ăn chứ.
- Tốt thôi, Papi.
Suốt ngày, tôi đi dạo ở khu phố người ấn của thành phố George.
Tôi trông thấy một bảng quảng cáo chiếu bóng và thấy thèm xem
một phim màu, có tiếng nói, lần đầu tiên trong đời. Chiều nay
tôi sẽ bảo Guittou dẫn tôi đi coi. Tôi đi trên đường Penitence
Rivers suốt cả ngày. Thái độ lịch thiệp của những người dân ở đó
làm tôi mến họ vô cùng. Họ có hai đức tính: họ rất sạch và rất
lễ độ. Cái ngày thơ thẩn một ḿnh tại đường phố ở khu này của
thành phố George đối với tôi c̣n lớn lao hơn nhiều so với ngày
tôi đến Trinidad chín năm trước.
ở Trinidad, giữa những cảm giác kỳ diệu do được đi lẫn trong đám
đông, tôi luôn luôn tự nhủ: một ngày nào, trong hai tuần lễ nữa
là nhiều nhất, tôi lại phải ra đi trên biển. Nước nào sẽ vui
ḷng nhận tôi? Có quốc gia nào cho tôi cư trú không? Tương lai
sẽ ra sao? ở đây khác hẳn. Tôi được hoàn toàn tự do, và nếu tôi
muốn, tôi có thể sang Anh, tham gia các lực lượng tự do nước
Pháp. Tôi phải làm ǵ? Nếu tôi quyết định đi theo De Gaulle,
người ta có thể nói là tôi chẳng biết đi đâu nên phải đâm đầu
vào đấy? Giữa những người lành mạnh, biết đâu họ sẽ chỉ coi tôi
như một tên tù khổ sai chẳng ẩn náu được vào đâu, nên phải đến
với họ? Người ta đồn là nước Pháp bị chia ra làm hăi, một bên
theo Pétain và bên kia theo De Gaullê. Sao một thống chế pháp
lại không biết đâu là danh dự và quyền lợi của nước Pháp nhỉ?
Nếu tôi tham gia các lực lượng tự do sau này, tôi có phải bắn
vào những người Pháp không? ở đây thật là khó, rất khó tạo cho
ḿnh một chỗ đứng tạm chấp nhận được. Guittou, Julot và Louis
nhỏ không phải là những thằng đần, mà họ vẫn làm việc để kiếm
năm đô-la một ngày. Trước hết, tôi phải tập sống tự do đă. Từ
năm 1931 - bây giờ là 1942 - tôi là tù nhân. Tôi không thể giải
quyết được những ẩn số trong ngày tự do đầu tiên. Tôi không c̣n
biết có những vấn đề ǵ được đặt ra cho một người muốn tạo cho
ḿnh một chỗ đứng trong cuộc sống. Tôi chưa bao giờ làm việc
bằng tay của ḿnh. Tôi chỉ là một anh thợ điện quèn. Tôi chỉ tự
hứa với ḿnh một điều duy nhất: sống sao cho sạch sẽ, ít ra cũng
sạch sẽ nhất trong khuôn khổ đạo đức của riêng ḿnh.
Tôi về đến nhà th́ đă mười bốn giờ.
- Thế nào Papi, lần đầu tiên hít không khí tự do khoái chứ? Cậu
đi chơi vui hả?
Hay lắm, Guittou ơi, tôi cứ quanh di quẩn lại măi trên các đường
phố ở vùng ngoại ô lớn này.
- Anh có gặp bọn Tàu không?
Không.
Họ ở ngoài sân. Các bạn anh rất tháo vát. Họ đă kiếm bốn mươi
đô-la và họ nhất định bắt tôi phải nhận hai mươi đô. Tất nhiên,
tôi không chịu. Anh ra mà xem.
Quưch đang thái một cây bắp cải cho con heo của anh ăn. Anh cụt
đang kỳ cọ con lừa. Nó cứ đứng yên, có vẻ thích cho lắm.
- Thế nào Papillon?
- Tốt, c̣n các anh ra sao?
- Chúng tôi thích lắm, chúng tôi đă kiếm được bốn mươi đô-la.
- Các anh làm ǵ?
- Chúng tôi đi từ ba giờ sáng về vùng quê với một người đồng
hương để anh ta chỉ dẫn cho. Anh ta mang theo hai trăm đô-la.
Với số tiền ấy, chúng tôi mua cà chua, rau sà-lách, cà tím,
nghĩa là các loại lau tươi và xanh. Vài con gà, trứng và sữa dê.
Chúng tôi mang ra chợ ở gần bến tàu và thoạt tiên chúng tôi bán
cho người ở đây bán lẻ ít một, sau bán cho thủy thủ Mỹ. Họ bầng
ḷng về giá cả và họ bảo tôi là ngày mai, tôi không phải vào chợ
nữa, tôi cứ đợi ở cổng trước bến. Họ sẽ mua tất cả cho. Tiền
đây. Anh là người chỉ huy, anh cầm lấy tiền.
- Quưch, anh biết là tôi cũng có tiền, tôikhông cần đến món tiền
này.
- Anh cứ giữ lấy. Nếu không, chúng tôi không làm việc nữa.
- Các anh hăy nghe tôi. Người Pháp có năm đô-la là sống được
rồi. Chúng ta mỗi người cũng lấy năm đô-la để riêng cho ḿnh,
năm đô-la góp tiền ăn. C̣n lại ta cất đi để trả nợ cho đồng
hương các anh số hai trăm đô-la mà họ cho anh mượn.
- Đồng ư.
- Ngày mai, tôi muốn đi với các anh.
Không, anh cứ ngủ. Nếu anh muốn, bảy giờ sáng anh t́m chúng tôi
trước cổng bến tàu.
- Được
Mọi người đều vui vẻ. Trước tiên, chúng tôi thấy đă kiếm sống
được, không c̣n là gánh nặng cho các bạn. Sau Guittou và hai anh
kia, họ tuy tốt thật, nhưng họ cũng phải lo không biết bao nhiêu
lâu nữa chúng tôi mới có thể tự đi kiếm sống được.
Để ăn mừng việc làm phi thường này của bạn anh, Papillon ơi,
chúng ta phải uống hai lít rượu. Julot đi một lát th́ về, mang
theo rượu mía trắng và đồ nhắm: Một giờ sau, chúng tôi uống rượu
như ở Marsille. Rượu vào lời ra, và những tiếng cười vui đời
vang lên ṛn ră hơn thường lệ. Những người ân hàng xóm nghe nói
ở bên nhà người Pháp có tiệc cũng sang chơi tự nhiên, có ba
người đàn ông và hai cô gái. Họ mang những xiên thịt gà và thịt
dê được tẩm rất nhiều tiêu ớt. Hai cô gái đẹp lạ thường, cả hai
mặc toàn trắng, đi chân đất, cổ chân trắng đeo ṿng bạc. Guittou
nói với tôi:
- Cẩn thận, con gái trinh nguyên cả đấy. Anh đừng v́ thấy họ để
ngực trần dưới tấm voan mỏng trong mà ăn nói sàm sỡ với họ. Đối
với họ thế là tự nhiên. Tôi th́ không sao, tôi già rồi. Hồi mới
tới đây, Julot và Louis nhỏ đă thử bờm sơm chút đỉnh, cả hai đă
lănh đủ. Các cô này không chịu sang đây từ lâu rồi. Hai cô gái
ấn Độ này đẹp tuyệt trần. Vết xăm giữa trán làm cho cả hai có
một vẻ ǵ kỳ ảo. Hai cô nói chuyện tử tế với tôi, và với vốn
liếng tiếng Anh ít ỏi của ḿnh, tôi cũng hiểu rằng hai cô hoan
nghênh việc tôi đến thành phố George này.
Đêm nay, Guittou và tôi đă đi vào trung tâm thành phố. Đến đấy
tưởng như đi vào một nền văn minh khác, hoàn toàn xa lạ với nơi
chúng tôi sống. Thành phố đông nghẹt người. Da trắng, da đen,
người ấn Độ, Trung Hoa, quân nhân và lính thuỷ mặc quân phục
cùng một số thủy thủ các thương thuyền. Rất nhiều quán rượu,
tiệm ăn, tiệm giải khát và hộp đêm với ánh đèn gay gắt làm đường
phố sáng như ban ngày.
Sau buổi xem phim (lần đầu tiên trên đời tôi được biết phim màu,
loại có cả tiếng nói nữa), c̣n đang ngây ngất với cái mùi đời
mới được hường đó, tôi đi theo Guittou vào một quán rượu rất
lớn. Hơn hai mươi người pháp chiếm một góc pḥng. Họ uống “Cu ba
tự do” (rượu cồn pha Coca cola).
Tất cả những người này đều là tù vượt ngục, dân anh chị cả. Có
người đă măn hạn, được thả rồi nhưng c̣n bị “quản thúc” tại chỗ.
Đói khổ không có việc làm; lại bị dân chính quốc và cả dân địa
phương Guyan khinh rẻ, họ đă t́m đến một xứ sở mà họ cho là sẽ
sống khá hơn. Nhưng ở đây họ vẫn rất cực, họ kể lại vậy.
- Tôi vào rừng chặt củi cho John Fernandaz lấy hai đô la rưỡi
một ngày - Tháng nào tôi cũng về thành phố George chơi tám ngày.
Tôi tuyệt vọng rồi.
- C̣n anh?
- Tôi sưu tầm bướm. Tôi vào rừng săn bướm và khi có được một lô
kha khá những con bướm các loại, tôi xếp chúng vào một cái hộp
kính tồi đem bán cả bộ sưu tập
Có người đi bốc dỡ hàng ở bến cảng. Ai cũng làm việc không chỉ
vừa đủ ăn. “Cực đấy nhưng được tự do, họ nói thế. Tự do quư
lắm”.
Tối nay, có một người tù biệt xứ tên là Faussarđ đến thăm chúng
tôi. Anh mời tất cả cùng uống. Anh làm trên một chiếc tàu Canađa
chở bốc-xít (bị trúng ngư lôi ở cửa sông Demerara). Anh sống sót
và được trợ cấp đắm tàu. Thủy thủ đoàn chết gần hết. Anh may mắn
lên được xuồng cấp cứu. Anh kể lại rằng chiếc tàu ngầm Đức đă
nổi lên mặt nước và nói chuyện với những người c̣n sống sót sau
khi tàu đắm. Chúng hỏi có bao nhiêu tâu c̣n đậu ở bến chờ được
xếp bốc-xít và sắp rời cảng. Tất cả đều trả lời là không biết,
thằng cha hỏi họ liền cười và nói: “Hôm qua, tôi c̣n xem chiếu
bóng ở rạp nây rạp nọ trong thành phố George. Các anh coi đây
tôi c̣n giữ được nửa tám vé vào cửa đây này”: Rồi chỉ vào áo vét
ngoài, hắn lại nói: “Bộ quần áo này cũng mua ở thành phố George
đấy”. Có những người hoài nghi kêu là chuyện bịa nhưng Faussard
nhất định bảo là đúng như vậy thật. Chiếc tàu ngầm c̣n báo trước
cho những người đắm tàu biết là tàu nào sẽ đến vớt họ. Về sau
đúng chiếc tàu ấy đă đến đón họ thật. Ai cũng nói chuyện
ḿnh.Tôi và Guittou ngồi cạnh một ông già dân Pa ri, ở Khu Chợ.
Ông ta nói tên ông là Louis Nhỏ ở đường Lombards.
- Anh bạn Papillon ơi, tôi nghĩ ra một mẹo để chẳng làm ǵ mà
vẫn sống được. Hễ trên báo ở mục “hy sinh v́ vua” hay “v́ nữ
hoàng” (tôi cũng chẳng rơ nữa), có tên một người Pháp, là tôi
t́m đến một cửa hàng bán mộ chí bằng đá, thuê chụp một tấm h́nh
có tôi đứng bên một tấm bia có sơn tên tàu, ngày tàu đắm và tên
người Pháp nọ. Sau đó tôi đến các biệt tự sang trọng của người
Anh, tôi nói là họ phải góp tiền xây mộ cho người Pháp kia đă hy
sinh cho nước Anh để lưu lại làm kỷ niệm tại nghĩa trang. Cho
đến tuần vừa qua, có một thằng ngốc người Bretagne được đăng là
chết trong một vụ đắm tàu v́ trúng ngư lôi, lại sống nhăn răn ra
mà trở về. Thằng cha ấy đi thăm mấy bà, đúng là những người tôi
đă quyên năm đô-la để xây mộ cho hắn. Thằng cha đi đâu cũng réo
lên là nó c̣n sống sờ sờ ra đấy, c̣n tôi th́ chẳng làm tấm bia
nào cả. Phải kiếm cách khác để sống thôi, v́ với tuổi tôi tôi
không làm ǵ nổi rồi.
Rượu vào ai cũng lớn tiếng kể đủ các chuyện bất ngờ nhất, tưởng
ở đây chỉ có chúng tôi biết tiếng Pháp. Một người kể :
- Tôi làm búp bê và tay ghi-đông xe đạp bằng balata. Chẳng may
mấy con bé để quên búp bê ở ngoài vườn dưới nắng, thế là búp bê
chảy ra, hay rúm ró lại. Anh tưởng tượng khi tôi quên khuấy là
ḿnh đă bán ở đường phố nào, th́ chuyện rùm beng đến đâu không.
Đă một tháng nay, ban ngày tôi không dám đi đâu đến nửa cái
thành phố George này. Xe đạp cũng vậy, thằng nào đi xe ngoài
nắng, khi lấy xe là tay bị dính chặt vào tay lái làm bằng balata
mua của tôi.
Một người khác kể:
- C̣n tôi, tôi làm roi ngựa, có gắn đầu đàn bà da đen, cũng bằng
balata. Với thủy thủ Anh, tôi nói tôi đă thoát chết ở trận
Mers-el-Kebir*(*Mers-el-Kebir là một thành phố cảng của Algérie
c̣n là thuộc địa Pháp hồi đại chiến thế giới lần thứ hai. Lúc
Pétan đầu hàng Đức, có một hạm đội Pháp bỏ neo ở quân cảng
Mers-el-Kebir đă không chấp nhận cả hai đề nghị của hạm cuội Anh
ở Địạ Trung Hải: hoặc chiến đấu chống phát xít Đức, hoặc phải để
hải quân Anh tước khí giới để khỏi rơi vào tay bọn Đức. Các tàu
Pháp không chịu, hải quân Anh đă nổ súng ngày 3.7.1940 đánh ch́m
các tàu Pháp ở đó làm chết 1297 thủy thủ Pháp - ND) nên họ phải
mua cho tôi v́ nếu tôi sống sót được, điều ấy không phải là lỗi
của họ. Mười người thi có đến tám người đă mua.
Tôi khoái những kẻ đầu trộm đuôi cướp hiện đại, nhưng đồng thời
cũng thấy rằng kiếm được miếng ăn quả là gian nan.
Có người mở máy thu thanh ở quầy rượu: De Gaulle đang đọc lời
kêu gọi. Tất cả đều nghe tiếng nói của Pháp đang từ London hiệu
triệu người Pháp sống tại các thuộc địa và đất hải ngoại. Lời
kêu gọi của De Gaulle thống thiết làm mọi người im phăng phắc
lắng nghe.
Bỗng, một tay anh chị đă quá chén đứng phắt dậy nói:
- Mẹ kiếp. Nói nghe được lắm, các bạn ơi. Thế là tự nhiên, tớ
học được tiếng Anh, tớ hiểu hết tất cả những ǵ cái lăo
Churchill đó nói.
Mọi người cười phá lên, chẳng ai thiết vạch ra cho tay ấy biết
hắn lầm cả.
Đúng là trước tiên tôi phải t́m cách kiếm sống, và qua những
người khác, tôi thấy việc đó không dễ chút nào. Tôi không lo
mấy. Từ năm 1930 đến 1940, tôi đă hoàn toàn không c̣n trách
nhiệm với ḿnh và cũng không phải cho lấy ḷng ai. Một con người
bị giam cầm lâu như vậy, không phải lo việc ăn uống, lo chỗ ở,
lo chuyện may mặc, một con người đă bị kẻ khác điều khiển, xoay
tới xoay lui, không được tự ư làm bất cứ việc ǵ phải tuân theo
như máy đủ các mệnh lệnh linh tinh nhất mà không được suy nghĩ
ǵ. Con người như vậy chỉ trong vài tuần bỗng rơi tơm vào một
thành phố lớn, rồi phải tập lại cách đi trên hè phố mà không xô
đẩy ai, qua đường mà không bị xe cán, thấy người khác hầu hạ
việc ăn uống của ḿnh, nghe theo lệnh của ḿnh, con người ấy
phải tập lại cách sống. Chẳng hạn, người ấy có những phản ứng
bất ngờ. Giữa những dân anh chị này, người th́ được phóng thích,
kẻ bị đi đày đă vượt ngục, nói tiếng Pháp thỉnh thoảng lại pha
vài tiếng Anh hay tiếng Bây Ban Nha, tôi dỏng tai nghe chuyện họ
kể. Bỗng nhiên, trong cái quán rượu Anh này tôi muốn đi tiểu.
Vậy mà, thật không sao tưởng tượng nổi, chỉ thoáng qua thôi, tôi
định t́m giám thị để xin phép đi. Chỉ thoáng qua rất nhanh,
nhưng nhận ra điều đó, tôi thấy nực cười, Papillon ơi, bây giờ
mi không phải xin phép ai khi muốn đi tiểu hay làm bất cứ việc
ǵ.
ở rạp chiếu bóng cũng vậy, khi cô nhân viên t́m chỗ cho chúng
tôi ngồi, tôi thoáng có ư muốn nói với cô ta: “Xin cô cứ để mặc
tôi, tôi chỉ là một tên tù không đáng phải bận tâm đâu”, đi
ngoài đường, từ rạp chiếu bống đến quán rượu, tôi cứ ngoái nh́n
phía sau: Guittou vốn biết thói quen đó đă bảo tôi
- Sao cao cậu cứ quay nh́n lại phía sau luôn thế? Cậu xem lính
có đi theo cậu không chứ ǵ? ở đây không có lính đi theo cậu
đâu, Papi. Cậu đă để chúng ở lại trại giam rồi.
Theo lối nói h́nh tượng của dân tù, th́ phải trút bỏ bộ cánh của
dân tù đi. C̣n hơn thế nữa, v́ quần áo tù khổ sai chỉ mới là một
vật tượng trưng. Không phải chỉ lột bộ cánh là xong, phải rứt ra
khỏi tâm hồn và trí óc cái dấu tù được khắc bằng lửa ô nhục.
Một đội tuần tra Anh toàn lính da đen, ăn mặc chừng chạc vào
quán rượu. Họ đi từng bàn, hỏi thẻ căn cước. Đến góc chúng tôi
ngồi, đội trưởng nh́n kỹ mặt mọi người. Có một khuôn mặt người
đó chưa biết, đấy là tôi.
- Xin ông cho xem căn cước.
Tôi đưa giấy cho anh ta. Anh liếc nh́n qua rồi đưa trả tôi ngay,
và nói:
- Xin lỗi, tôi chưa được biết ông, thành phố George rất vui mừng
được đón tiếp ông.
Rồi anh đi ra.
Khi anh ta đă ra hẳn, Paul Savoie nói:
- Bọn cảnh sát ở đây hay tuyệt, những người nước ngoài được họ
tin cậy là tù vượt ngục trăm phần trăm. Làm sao chứng minh cho
nhà cầm quyền Anh biết được cậu là tù vượt ngục, thế là cậu được
tự do ngay tức khắc đấy.
Măi khuya mới trở về nhà. Mới bảy giờ sáng, tôi đă có mặt ở cổng
cảng. Nửa giờ sau Quưch và anh cụt đă chở đến một xe ba gác đầy
rau tươi vừa hái lúc sáng sớm, lại có cả trứng và vài con gà.
Chỉ có hai người thôi. Tôi hỏi người đồng hương đă chỉ dẫn họ
cách làm ăn đâu rồi. Quưch đáp:
- Hôm qua, anh ta đă chỉ cho tôi, thế là đủ. Bây giờ chẳng cần
ai dạy bảo nữa.
- Anh đi kiếm những thứ này ở xa lắm hả?
- Phải đi mắt hơn hai tiếng rưỡi. Bọn tôi đi từ ba giờ sáng, bây
giờ mới tới đây.
Quưch kiếm ngay được trà nóng và bánh tráng, anh như người đă ở
đây hai mươi năm rồi. Chúng tôi ngồi bên lề đường, cạnh xe ba
gác, ăn uống và chờ khách tới mua.
- Bọn Mỹ hôm qua đă mua, liệu hôm nay có đến không?
- Tôi hy vọng họ sẽ tới, nếu họ không tới, ta bán cho người
khác.
- C̣n giá cả th́ sao? Anh tính thế nào?
- Tôi không nói với họ: Cái này giá bây nhiêu. Tôi hỏi họ: anh
trả bao nhiêu?
- Nhưng anh có biết tiếng Anh đâu?
- Đúng, nhưng tôi biết dùng tay chỉ trỏ, dễ lắm. Anh nói được
tiếng Anh đủ để mua bán, anh làm trước đi, - Quưch nói với tôi.
- Được nhưng tôi muốn xem anh làm một ḿnh đă.
Không bao lâu, một chiếc xe jeep lớn được gọi là com-măng-ca
tới. Một lái xe, một hạ sĩ quan và hai lính thủy ở trên xe đi
xuống, viên hạ sĩ leo lên xe ba gác, xem tất cả các thứ hàng
hóa, rau xà lách, cà tím, v.v. sau khi kiểm tra kỹ các món kia,
y nắn mấy con gà.
- Tất cả bao nhiêtu?
Thế là hai bên bắt đấu mà cả:
Tên lính thấy nói giọng mũi. Tôi chẳng hiểu y nói ǵ. Quưch búng
búng nói nửa tiếng Tàu nữa tiếng Tây..
Thấy hai bên không ai hiểu được ai, tôi kéo Quưch ra một bên.
- Anh mua tất cả hết bao nhiêu?
Anh ta móc túi thấy c̣n mười bảy đô la
- Một trăm tám mươi ba đô-la, - Quưch nói với tôi
- Họ trả bao nhiêu?
- H́nh như là hai trăm mười đô-la, tôi thấy chưa đủ
Tôi tiến vê phía viên hạ sĩ, y hỏi tôi có nói được tiếng Anh
không. Tôi nói là được chút ít.
- Ông nói chấm chậm nhé, - tôi nói với y.
- Được.
- Các ông trả báo nhiều? Hai trăm mười đô la không được đâu.
Phải hai trăm bốn mươi.
Y không chịu.
Y giả bộ bỏ đi, quay lại, rồi lại bỏ đi rồi ngồi lên xe jeep,
nhưng tôi cảm thấy y đang đóng kịch. Đứng lúc y xuống xe lần nữa
th́ hai cô bạn ấn hàng xóm với tôi, vẫn che nửa mặt, đi tới.
Chắc các cô đă quan sát cảnh buôn bán của chúng tôi, v́ các cô
làm như không biết chúng tôi. Một cô leo lên xe ba gác, xem xét
số hàng rồi hỏi chúng tôi.
- Tất cả bao nhiêu?
- Tất cả hai trăm bốn mươi đô la, tôi đáp.
Cô ta nói: “Được rồi”.
Nhưng tên lính Mỹ đă lấy hai trăm bốn mươi đô-la ra đưa cho
Quưch và nói với các cô gái ấn rằng y đă mua những thứ đó rồi.
Các cô bạn láng giềng của tôi cũng không chịu đi mà đứng xem bọn
Mỹ bốc hàng trên xe ba gác chất lên com-măng ca. Phút cuối cùng,
một tên lính thủy vớ luôn cả con heo, tưởng nó cũng thuộc mớ
hàng đă được thỏa thuận bán. Tất nhiên, Quưch không chịu để họ
bắt heo đi. Thế là bắt đầu một cuộc căi cọ trong đó chúng tôi
không làm sao giải thích nổi cho họ hiểu rằng con heo không ở
trong lô hàng đem bán.
Tôi cố làm cho các cô gái ấn hiểu như vậy, nhưng khó quá Chính
các cô cũng không hiểu ǵ. Bọn lính thủy Mỹ th́ không chịu rời
heo ra, Quưch không chịu trả lại tiền, có lẽ xảy ra đánh lộn
mất. Anh cụt đă rút một thanh gỗ xe ba gác ra, th́ một xe jeep
quân sự đi ngang. Viên hạ sĩ thổi c̣i. Bọn Quân cảnh đến gần.
Tôi bảo Quưch hăy trả lại tiền nhưng anh nhất định không chịu.
Bọn lính thủy đă giữ con heo cũng nhất định không trả heo. Quưch
đứng chắn trước xe díp, không để cho xe đi. Một nhóm khá đông
những người hiếu kỳ vây quanh cái cảnh huyên náo này. Bọn quân
cảnh Mỹ bênh bọn lính thủy, vả lại, họ cũng chẳng hiểu chúng tôi
nói ǵ. Họ tưởng là chúng tôi định đánh lừa các thủy thủ.
Tôi chưa biết xoay xở ra sao th́ sực nhớ có ghi số điện thoại
Câu lạc bộ Thủy thủ cùng tên anh chàng người Martinique. Tôi đưa
cho viên sĩ quan quân cảnh và nói: “Gọi phiên dịch”. Y đưa tôi
đến một cái máy điện thoại. Tôi gọi mà may làm sao, tóm được anh
bạn theo phái De Gaulle của tôi. Tôi nhờ anh giải thích cho viên
sĩ quan quân cảnh hiểu rằng đấy là con heo đă được thuần hóa, nó
như con chó của Quưch, rằng chúng tôi đă quên không nói trước
với các thủy thủ là nó không thuộc vào lô hàng đem bán. Sau tôi
đưa ống nghe cho viên sĩ quan quân cảnh. Chỉ ba phút sau là y
hiểu cả. Tự tay y cầm con heo đưa trả Quưch, làm anh ta sung
sướng quá, ôm nó vào ḷng và vội đưa nó lên xe ba gác ngay. Sự
việc đă chấm dứt vui vẻ, và tốp lính Mỹ cười như nắc nẻ. Ai đi
đường người nấy, và thế là xong.
Buổi tối ở nhà, chúng tôi cảm ơn các cô bạn ấn Độ. Mấy cô cũng
cười rất dữ về chuyện này.
Chúng tôi ở Georgetown đă được ba tháng. Hôm nay, chúng tôi về ở
phần nhà của các bạn ấn Độ nhượng cho chúng tôi. Hai pḥng sáng
sủa rộng răi, một pḥng ăn, một bếp nấu ăn nhỏ đun than và một
cái sân rộng mênh mông, trong góc có mái tôn để gia súc trú.
Chiếc xe ba gác và con lừa cũng có chỗ chu đáo. Tôi được ngủ một
ḿnh một giường to có nệm ấm. Hai anh bạn Tàu ở pḥng bên, mỗi
người một giường riêng. Chúng tôi c̣n một cái bàn và sáu ghế tựa
cùng bốn ghế đẩu. Trong bếp có đủ dụng cụ nấu nướng. Sau khi cám
ơn Guittou và các bạn về nhà chúng tôi, như lời Quưch nói. Trước
cửa sổ pḥng ăn nh́n ra đường chễm chệ chiếc ghế phô-tơi quà
tặng của các cô bạn ấn.Trên bàn ăn, trong b́nh thủy tinh, có cắm
hoa tươi do Quưch mang về.
Cảm giác có căn nhà riêng đầu tiên của ḿnh, xoàng xĩnh nhưng
sạch sẽ căn nhà sáng sủa tinh tươm, kết quả đầu tiên của ba
thằng cùng kiến ăn chung, làm tôi tin tưởng vào bán thân và vào
tương lai.
Mai là chủ nhật, không có chợ, vậy là chúng tôi được tự do cả
ngày. Ba chúng tôi quyết định nấu một bữa mời Guittou và các bạn
anh, mời cả các cô bạn ấn Độ với mấy người anh, em của họ. Khách
danh dự là bác ba Tàu đă giúp Quưch và anh cụt, đă tặng hai
người chiếc xe ba gác với con lừa, lại c̣n cho chúng tôi mượn
hai trăm đô-la để khởi đầu chuyện buôn bán của chúng tôi. Bác ta
sẽ thấy trên đĩa đặt trước mặt bác, một cái phong b́ trong có
hai trăm đô la, và một tấm giấy của cả ba chúng tôi cảm ơn bác,
viết bằng chữ Hán.
Sau con heo mà anh yêu dấu, Quưch dành tất cả t́nh bạn của anh
cho tôi. Anh luôn luôn chăm chút tôi từng ly từng tí. Trong ba
người chúng tôi, tôi là người ăn mặc tươm tất nhất, và đi đâu
anh cũng thường mang về cho tôi một cái áo sơ mi, một chiếc cà
vạt hay một cái quần dài. Anh mua những thứ dó bằng tiền riêng
của anh. Mỗi ngày cả ba chúng tôi kiếm được từ hai mươi lăm đến
ba mươi đô la cũng chẳng là bao, nhưng chúng tôi hài ḷng v́
thấy đă mau chóng tự kiếm sống được. Không phải lúc nào tôi cũng
đi mua hàng với hai anh, tuy tôi đi th́ mua được rẻ hơn. Bây giờ
tôi chuyên bán hàng, nhiều lính thủy Mỹ và Anh được cử lên bờ để
mua hàng cho tàu của ḿnh, đă quen biết tôi. Chúng tôi nói
chuyện giá cả với nhau rất tử tế, không nóng nẩy. Có một gă cao
lớn phụ trách bếp ăn của sĩ quan Mỹ, một thằng Mỹ gốc ư, chỉ nói
với tôi bằng tiếng ư. Nó sung sướng ra mặt khi thấy tôi trả lời
bằng tiếng mẹ đẻ của nó và chỉ mặc cả cho vui. Cuối cùng, nó mua
với giá tôi đ̣i từ khi bắt đầu gặp nhau.
Chừng tám giờ rưỡi đến chín giờ sáng, chúng tôi đă về nhà. Cả ba
chúng tôi ăn một bữa nhẹ rồi anh cụt và Quưch đi nằm, c̣n tôi
sang t́m Guttou, hay các cô láng giềng sang chơi bên tôi. Việc
nhà chẳng có mấy, chỉ quét nhà, giặt đồ, làm giường, dọn dẹp nhà
cho sạch sẽ, hai chị em hàng ngày làm việc đó cho chúng tôi rất
chu đáo mà chẳng lấy bao nhiêu, có hai đô la mỗi ngày. Tôi đă
biết đầy dủ thế nào là tự đo, không c̣n phải kinh hoàng lo nghĩ
đến tương lai nữa.
Gia đ́nh Ấn Độ của tôi
Phương tiện đi lại được dùng nhiều nhất trong thành phố này là
xe đạp. Tôi cũng mua một chiếc để đi đây đi đó cho thuận tiện.
V́ thành phố và vùng lân cận ở nơi đất bằng phẳng, nên có thể đi
những đoạn đường dài mà không cần mất nhiều sức. Xe đạp có hai
cái đèo hàng rất khỏe, một ở đằng trước, một ở đằng sau. Cho
nên, cũng như nhiều người địa phương, tôi có thể chở hai người
một cách dễ dàng.
ít nhất hai lần một tuần, chúng tôi thường dạo chơi một hai
tiếng đồng hồ với các cô bạn ấn Độ. Các cô sướng mê tơi và tôi
bắt đầu nhận thấy một trong hai cô, cô trẻ, đang yêu tôi.
Tôi chưa gặp ông bố cô bao giờ, hôm qua ông đă sang tôi. Ông ở
không xa nhà tôi mấy, nhưng ông không bao giờ đến thăm chúng
tôi, và tôi chỉ biết các anh em trai của cô. Ông ta là một cụ
già cao lớn có bộ râu rất dài, trắng như cước. Tóc ông cụ cũng
bạc trắng để lộ một vầng trán thông minh và cao quư. Ông chỉ nói
tiếng ấn, con gái ông dịch lại. Ông mời tôi đến nhà ông, ông bảo
con gái ông, mà tôi gọi là nàng công chúa nhỏ, nói với tôi rằng
đi xe đạp không xa lắm. Tôi hứa sẽ đến thăm ông một ngày gần
đây.
Sau khi ăn vài chiếc bánh ga tô và uống trà, ông ra về, nhưng
tôi đă kịp nhận xét là ông để ư đến từng chi tiết nhỏ trong nhà.
Nàng công chúa nhỏ sung sướng thấy ông bố hài ḷng về cuộc viếng
thăm nàng và về chúng tôi.-
Tôi ba mươi sáu tuổi, và sức khỏe tôi rất tốt, tôi cảm thấy ḿnh
c̣n trẻ, và cũng được cái may là tất cả mọi người đều coi tôi là
c̣n trẻ, tất cả các bạn tôi đều nói là trông tôi chưa tới ba
mươi.
Thế mà cô này mới mười chín, cô lại có cái vẻ đẹp thanh thản của
ṇi giống cô cùng cách suy nghĩ cực đoan tin vào số mệnh. Đối
với tôi, được cô gái lộng lẫy này yêu là món quà quư báu của
trời cho.
Khi chúng tôi đi chơi cả ba, bao giờ cô cũng leo lên giá đèo
hàng phía trước, cô biết rất rơ là cô cứ ngồi rất thẳng người
trên xe, tôi cố dấn lên bàn đạp, hơi cúi đầu về trước là mặt tôi
kề sát mặt cô. Nếu cô ngă đầu về phía sau, tôi sẽ được hưởng
trọn vẹn quang cảnh đôi vú xinh đẹp để trần dưới tấm voan mỏng
mà nếu vén lên chắc c̣n đẹp gấp bội. Đôi mắt đen của cô rực cháy
mỗi lần xảy ra những sự va chạm nhỏ này và đôi môi đỏ thăm trên
nền da màu lá trà, hé mở vẻ thèm khát muốn được hôn. Hàm răng
trắng bóng rất đẹp tô điểm thêm cho cái miệng tuyệt vời..
Tối nay, chỉ có hai đứa chúng tôi đi xem chiếu bóng, h́nh như cô
chị nhức đầu, một cơn nhức đầu mà tôi cho là giả tạo, cốt để hai
đứa tôi được đi riêng với nhau. Cô ta mặc áo ngoài bằng
mousseline trắng, dài đến tận gót chân trần, mỗi khi bước lại để
lộ ba chiếc ṿng bạc. Cô đi dép có quai vàng lồng vào ngón chân
cái làm chân cô duyên dáng thêm. ở lỗ mũi phải, cô gắn một hạt
kim cương màu vàng rất nhỏ. Tấm voan mousseline che đầu ngắn và
nhẹ nhàng rủ xuống quá bờ vai một chút, một dải ru băng vàng giữ
tấm voan đính trên đầu. Từ giữa trán, trên dải băng đó, rủ xuống
ba sợi chỉ gắn những viên đá đủ màu. Kiểu trang điểm làm nổi bật
cái chấm xanh thẫm trên trán những khi cô lúc lắc cái đầu. Cả
gia đ́nh ấn lẫn gia đ́nh tôi, trong đó có cả Quưch và anh cụt,
đều mặt mày tươi tỉnh nh́n hai chúng tôi đi ra, sung sướng thấy
gương mặt chúng tôi tràn trề hạnh phúc. H́nh như ai nấy đều biết
chắc chúng tôi xem chiếu bóng về là đă đính hôn với nhau rồi.
Nàng ngồi yên vị trên nệm ghế đèo hàng rồi, tôi mới cho xe lăn
bánh về phía trung tâm thành phố.
Trong khi tôi thả chiếc xe chạy một quăng dài, trên con đường
rộng dưới ánh đèn lờ mờ, cô gái đẹp lộng lẫy này đă đặt lên môi
tôi một cái hôn nhẹ nhàng. Cử chỉ chủ động này bất ngờ đến nỗi
tôi suưt ngă xe.
Ngồi tít phía sau trong pḥng chiếu bóng, tay nắm tay, tôi nói
với nàng bằng mấy ngón tay và nàng cũng đáp lời tôi bằng ngôn
ngữ của ngón tay. Cuộc tâm t́nh đầu tiên của chúng tôi trong khi
xem phim - mà chúng tôi cũng chẳng biết là phim ǵ nữa - là một
cuộc nói chuyện thầm lặng. Mấy ngón tay móng dài được chải chuốt
và tô son hát lên một khúc t́nh ca say đấm, nói cho tôi ṛ mối
t́nh đằm thắm của nàng c̣n minh xác hơn cả ngôn ngữ. Nàng ngả
đầu vào vai tôi để tôi có thể hôn khuôn mặt thanh khiết của
nàng.
Mối t́nh e ấp, qua nhiều thời gian mới nảy nở, nhanh chóng biến
thành một niềm say đắm trọn vẹn. Trước khi nàng thuộc về tôi,
tôi đă nói cho nàng biết là tôi không thể cưới nàng được, v́ tôi
đă có vợ ở Pháp. Điều đó cũng chẳng làm nàng phiền ḷng mấy. Một
đêm, nàng đă ở lại với tôi. Nàng nói với tôi rằng nàng muốn tôi
về sống với nàng tại nhà bố nàng, như vậy tiện cho các anh em
trai của nàng, và cho vài gia đ́nh nhà người ấn láng giềng. Tôi
nhận lời và dọn về nhà bố nàng. Ông cụ vẫn sống một ḿnh, có một
cô cháu họ xa hầu hạ ông và dọn dẹp nhà cửa. Nơi này cách nhà
Quưch không xa bao nhiêu, chỉ chừng năm trăm mét. Cho nên hai
bạn tôi tối nào cũng sang chơi với chúng tôi hơn một giờ. Họ
cũng thường sang chơi với chúng tôi.
Chúng tôi vẫn tiếp tục buôn bán rau cỏ ở bến tàu. Tôi ra đi từ
sáu giờ rưỡi và gần như lúc nào nàng cũng đeo theo tôi. Một b́nh
thủy lớn đựng trà, một b́nh mứt và một ổ bánh ḿ nướng, tất cả ở
trong một túi xách to đă đợi sẵn Quưch và anh cụt để chúng tôi
cùng uống trà với nhau. Nàng tự tay làm các thức ăn sáng và tuân
thủ tuyệt đối nghi thức: bốn người phải cùng ăn bữa đầu tiên
trong ngày. Trong túi xách của nàng, có đủ mọi thứ cần thiết:
một tấm chiếu nhỏ viền đăng ten, mà nàng trịnh trọng đặt xuống
vỉa hè sau khi đă dùng chổi quét sạch chỗ đó, bốn bộ tách nhỏ có
cả đĩa. Ngồi ở lề đường, chúng tôi ăn điểm tâm, rất nghiêm túc.
Ngồi lề đường mà uống trà như ở nhà kể cũng buồn cười, nhưng cả
nàng và Quưch đều coi thế là tự nhiên. Họ chẳng cần để ư đến
những người đi qua và thấy làm như vậy là b́nh thường. Tôi không
muốn cản nàng. Nàng thích hầu hạ chúng tôi luôn tay phết mứt lên
bánh tôi mà không ưng là nàng rất buồn.
Thứ bảy vừa qua, có một việc xảy ra đă cho tôi biết được một
điều bí mật. Chúng tôi ăn ở với nhau đă được hai tháng, và nàng
thỉnh thoảng lại cho tôi một ít vàng. Cũng chỉ là những mảnh tư
trang găy, vỡ, một nửa cái nhẫn vàng, một chiếc bông tai, một
đoạn dây chuyền, một phần tư hay một nửa chiếc huân chương hoặc
một đồng tiền. Tuy nàng bảo tôi cứ bán đi, nhưng tôi không cần
đến, cứ cho tất cả vào một cái hộp. Tôi có gần bốn trăm gam
vàng. Khi tôi hỏi nàng vàng ở đâu ra, th́ nàng kéo tay tôi, hôn
tôi rồi cười nhưng không chịu nói ǵ.
Hôm thứ bảy ấy, vào lúc mười giờ sáng, nàng bảo tôi lấy xe chở
bố đi, tôi cũng không biết đi đâu. Nàng nói :
- Ba em sẽ chỉ đường cho anh. Em phải ở nhà để ủi đồ.
Tôi ṭ ṃ nghĩ là ông già chắc đi thăm ai ở xa, và vui vẻ nhận
lời.
Ông lăo ngồi lên giá đèo hàng phía trước và không nói ǵ, v́ ông
ta chỉ nói được tiếng ấn. Tôi đi theo hướng ông ta chỉ. Đường
xa, tôi đạp đă gần một giờ. Chúng tôi đến một khu phố giàu có
bên bờ biển. Nhà toàn là biệt thự đẹp. Ông “bố vợ” vừa ra hiệu,
tôi dừng lại ngay và tôi để ư quan sát. Ông lăo lấy trong túi áo
ngoài ra một viên đá tṛn và trắng rồi quỳ trên bậc thềm thứ
nhất của nhà đầu tiên. Ông lăo vừa lăn ḥn đá trên bậc thềm vừa
hát. Vài phút trôi qua. Một phụ nữ mặc quần áo ấn từ trong biệt
thự đi ra, lại gần ông già và lẳng lặng đưa cho ông một vật ǵ
đấy. Ông cứ đi từ nhà nọ sang nhà kia, diễn lại cảnh ấy cho đến
mười sáu giờ. Cứ thế kéo dài mà tôi vẫn không hiểu ǵ. Đến biệt
thự cuối cùng một người đàn ông vận toàn đồ trắng ra gặp ông.
Người này bảo ông đứng dậy, quàng lấy tay ông rồi dẫn ông vào
nhà. Ông cụ ở đó hơn mười lăm phút rồi mới ra, vẫn có ông kia đi
kèm. Trước khi chia tay nhau, ông này c̣n hôn trán ông già, đúng
hơn là hôn mái tóc bạc của ông.
Chúng tôi đi về, tôi cố sức đạp để về cho mau v́ đă hơn bốn rưỡi
chiều.
Cũng may, chúng tôi về đến nhà trước khi trời tối. Indara cô gái
ấn xinh đẹp của tôi, dẫn bố vào trước rồi nhảy lên ôm cổ tôi hôn
hít và kéo tôi vào với gương sen để tôi tắm. Quần áo sạch sẽ chờ
sẵn, sau khi tắm rửa, cạo mặt, thay quần áo, tôi mới ngồi vào
bàn ăn. Nàng tự tay dọn cho tôi ăn như thường lệ. Tôi muốn hỏi
nàng nhưng nàng cứ xăng xở đi lại làm ra vẻ bận rộn để lẩn
tránh, kéo dài thật lâu lúc phải trả lời các câu hỏi của tôi.
Tôi nóng ḷng muốn biết sự việc. Nhưng tôi cũng biết là không
bao giờ nên ép người ân hay người Tàu nói. Cần phải tôn trọng
một thời gian nhất định. Lúc đó tự họ sẽ nói v́ họ đoán biết
rằng anh đang chờ nghe một điều tâm sự của họ: nếu anh xứng
đáng, th́ họ sẽ nói. Đối với Indara cũng đúng như vậy. Sau khi
cùng ngủ chung với nhau, nàng mới áp cái má c̣n nóng hổi vào hơm
vai tôi và nói mà không nh́n tôi:
- Ḿnh đi, ḿnh có biết rằng khi ba di kiếm vàng, ba không làm
ǵ xấu không, trái lại kia đấy. Ba gọi các thần linh đến phù hộ
căn nhà mà ba đă lăn ḥn đá. Đó là một phong tục rất cổ xưa của
nước Nam Dương chúng em.
Nàng công chúa của tôi kể cho tôi nghe như vậy. Nhưng một hôm
một cô bạn của nàng nói chuyện với tôi ở chợ. Buổi sớm ấy, cả
nàng lẫn các chú Tàu chưa ai tới. Và câu chuyện cô gái xinh đẹp
Nam Dương nói cho tôi nghe lại khác:
- Sao anh lại phải đi làm, một khi anh đă sống với con gái ông
phù thủy? Chị ấy bắt anh dậy sớm, cả khi trời mưa, mà không thấy
xấu hổ à? Với số vàng mà ba chị ấy kiếm ra, anh chẳng cần làm ǵ
cũng sống được. Chị ấy không yêu anh, đáng lẽ chị không nên để
anh dậy sớm như thế mới phải.
- Thế bố cô ấy làm ǵ? Cô nói cho tôi biết đi, v́ tôi chẳng hiểu
ǵ cả.
- Ông bố chị ấy là phù thủy Nam Dương. Ông có thể gọi thần làm
cho anh hay gia đ́nh anh chết nếu ông muốn. Chỉ một cách thoát
khỏi bùa phép mà ông yểm cho anh bằng ḥn đá ma là đưa cho ông
kha khá vàng, ông sẽ lăn ḥn đá ngược với chiều ông đă lăn để
gọi thần chết đến. Bấy giờ, ông sẽ gỡ hết các bùa yểm ngược lại
c̣n làm anh và những người trong nhà được khỏe mạnh, sống lâu.
- Indara để cho tôi không phải như vậy.
Tôi tự nhủ sẽ đối chiếu xem trong hai người, người nào nói đúng.
Vài ngày sau, tôi đứng cùng với ông “bố vợ” có bộ râu bạc dài
bên bờ một con suối chảy ngang qua đường Penitence Rivers rồi đổ
vào sông Demerara. Nét mặt các ngư dân ấn làm tôi hiểu rơ hết.
Mỗi người biếu ông một con cá rồi vội vă tránh cho xa bờ. Tôi đă
hiểu. Chẳng cần phải hỏi ai nữa.
Ông bố vợ phù thủy chẳng dính dáng ǵ đến tôi. Ông chỉ nói tiếng
ấn Độ với tôi và cho tôi hiểu. Tôi không bao giờ biết ông định
nói ǵ. Thế cũng có mặt hay. Cứ coi như là đă đồng ư với nhau.
Dù sao ông cũng kiếm được một việc cho tôi làm, tôi xăm trán tất
cả các cô bé gái từ mười ba đến mười lăm tuổi. Thỉnh thoảng, ông
lại vạch ngực các cô bé gái đó ra cho tôi xăm lá hay hoa màu lá
xanh ve, hồng, lơ để đầu nhũ hoa nhô lên như nhụy một bông hoa.
V́ xăm rất đau, cho nên chỉ có những cô gái can đảm mới bảo tôi
xăm đầu nhũ hoa bằng màu hoàng yến. Có một vài cô (số này ít
lắm) lại xăm đầu vú màu vàng.
Trước cửa nhà, ông già treo một tấm biển quảng cáo bằng chữ ấn,
viết những ǵ đại loại là: “Nghệ sĩ - xăm người – giá phải chăng
- công việc bảo đảm”. Làm việc này được trả hậu, và tôi hai có
hai cái khoái: ngắm bộ ngực đẹp của gái Nam Dương và kiếm ra
tiền. Quưch biết ở gần bến tàu có một quán ăn đang muốn bán anh
hănh diện báo tin đó cho tôi và đề nghị chúng tôi cùng mua. Giá
phải chăng, có tám trăm đô-la. Bán vàng của ông phù thủy cộng
với tiền tiết kiệm được của chúng tôi, đủ mua được cái quán ăn
đó. Tôi đă đến xem. Nó ở một con đường nhỏ nhưng rất gần bến lúc
nào cũng lúc nhúc những người là người. Một gian pḥng vuông vức
khá to, lát gạch đen trắng, mỗi bên để được tám bàn, ở giữa có
thể kê một cái bàn tṛn to bày những món ăn khai vị và trái cây.
Căn bếp rộng răi khang trang. Có hai ḷ đun và hai ḷ nấu rất
to.
Quán
ăn và bướm
Chúng tôi đă thu xếp xong việc này, Indara bán hết chỗ vàng
chúng tôi có được. Ông bố già ngạc nhiên thấy tôi không đụng đến
những mẩu vàng vụn mà ông cho con gái để hai chúng tôi cùng
dùng. Ông nói:
- Tôi cho anh chị để anh chị xài. Của hai anh chị đấy, anh chị
sử dụng thế nào tùy ư, không phải hỏi tôi, anh chị cứ việc làm.
Kể ra ông “bố vợ phù thủy” của tôi cũng không đến nỗi nào. Cô
nàng của tôi là loại đặc biệt rồi, vừa là nhân t́nh, vừa là vợ,
vừa là bạn. Không có chuyện căi cọ v́ tôi nói ǵ nàng cũng
“vâng”. Nàng chỉ hơi khó chịu chút xíu khi tôi xăm vú cho các
bạn đồng hương của nàng.
Thế là tôi đă trở thành chủ tiệm ăn “Thắng Lợi”, nằm trên đường
Water Street đúng ngay giữa bến cảng Georgetown. Quưch nấu bếp,
anh thích vậy đó, đó là nghề của anh. Anh cụt đi chợ và nấu “ḿ
hoành thánh” một thứ ḿ Tàu. Món đó làm như sau: lấy tinh bột
ḿ, trộn với ḷng trắng trứng rồi nhào cho nhuyễn. Đống bột được
nhào khô rất lâu, rất kỹ, nhào bột rất nặng, đến nỗi anh cụt
phải nhảy lên trên đống bột, đùi tựa vào một cây gậy nhẵn bóng
gắn chặt ở giữa bàn. Một đùi gác lên trên cái gậy, cánh tay độc
nhất nắm chắc lấy cái gậy đó, anh nhảy một chân quanh bàn để
nhào bột. Làm như vậy có được một thứ bột hồ nhẹ rất ngon. Sau
cùng, cho thêm chút bơ vào, vị của nó tuyệt vời.
Quán này, chủ trước bị vỡ nợ, đă nhanh chóng nổi tiếng. Indara
có một cô gái ấn trẻ và rất xinh tên là Daya phụ giúp, đă phục
vụ đông đảo khách hàng cứ xô đến tiệm chúng tôi để nếm món ăn
Tàu. Tất cả dân tù vượt ngục đều t́m đến. Ai có tiền th́ trả, ai
không có th́ mời ăn không. Quưch nói “Cho người đói ăn sẽ gặp
vận may”.
Chỉ có một điều phiền phức: hai cô phục vụ (trong đó có Indara)
lại quá hấp dẫn. Cả hai đều phô bày đôi vú trần dưới làn áo voan
mỏng. áo của hai cô lại xẻ bên hông từ đùi đến gót chân. Những
khi cử động, hai cô để lộ hết chiều dài của đôi chân, lên đến
tận đùi.
Lính thủy Mỹ, Anh, Thụy Điển, Canada và Na Uy có ngày đến ăn hai
lần để được ngắm cảnh ấy. Các bạn tôi gọi tiệm ăn của tôi là
tiệm ăn của những kẻ nḥm gái. Tôi là đại diện chủ. Đối với tất
cả mọi người tôi là “ông chủ”. Không có quầy thu tiền, người
chạy bàn đưa tiền cho tôi, nhận tiền xong tôi bỏ túi, khi cần
tôi lấy tiền lẻ ra thối lại.
Tiệm ăn mở cửa từ tám giờ tối đến năm sáu giờ sáng hôm sau.
Không cần phải kể ai cũng biết rằng vào khoảng ba giờ đêm, tất
cả bọn đĩ điếm trong khu đă kiếm khá tiền trong đêm đầu kéo kép
hay khách của chúng đến tiệm chúng tôi ăn món gà cà-ry hay rau
xà lách với mầm đậu. Khách có uống bia nữa, nhất là bia Anh,
rượu rhum mía của địa phương rất ngon, soda hay cô-ca cô-la. V́
quán là điểm hẹn của dân Pháp vượt ngục, tôi đă trở thành người
giúp nơi ẩn náu, là cố vấn, là người phân xử, là bạn tâm sự của
tất cả dân tù đày ở đây
Nhưng t́nh trạng đó cũng làm tôi nhiều lần gặp chuyện rắc rối.
Một người chuyên sưu tập bướm đă cắt nghĩa cho tôi nghe cách săn
bướm trong rừng. Trước hết anh ta cắt h́nh một con bướm trong
một miếng b́a cứng rồi dán vào đấy đôi cánh một con bướm thuộc
cái giống mà anh định săn. Tấm b́a được gắn vào đầu một cây gậy
dài một mét. Khi săn bướm tay anh cầm gậy và cử động làm sao cho
bướm giả có vẻ như đang bay lượn. Anh phải săn ở những khoảng
trống, có ánh nắng trong rừng. Anh phải biết giờ nở trứng của
từng loại bướm. Có những loài chỉ sống được bốn mươi tám giờ. Và
mỗi khi ánh nắng chiếu vào chỗ quang đăng, những con bướm mới nở
lao vào vùng ánh sáng đó, để t́m bướm cái cho thật nhanh. Khi
chúng thấy con bướm mồi, từ rất xa, chúng ập đến. Nếu con bướm
mồi là bướm đực, th́ bướm đực sẽ lao đến để đánh. Thế là anh cứ
việc dùng cái vợt nhỏ cầm ở tay trái để bắt bướm.
Cái lưới vợt có một chỗ thắt có làm người săn bướm có thể cứ
tiếp tục bắt thêm bướm mà không sợ những con đă lọt lưới bay đi
mất.
Nếu con mồi làm bằng cánh của bướm cái, th́ cái con đực cũng t́m
đến để ấp con cái và kết quả vẫn là một.
Bướm đẹp nhất là loại bướm hay bay đêm nhưng v́ chúng thường va
phải các vật chướng ngại cho nên rất khó bắt được con nào c̣n
đôi cánh nguyên vẹn. Hầu hết cánh của loại bướm này đều bị sứt
nham nhở. Đối với loại bướm đêm, phải lên tận gần ngọn một cây
cao, rồi giăng một tấm vải trắng to lồng trong khung, đằng sau
để một cây đèn đất thật sáng. Những con bướm đêm to, sải cánh,
dài từ mười lăm đến hai mươi centimét, bay dính vào tấm vải
trắng. Thế là chỉ cần đè lên ngực nó thật nhanh cho nó chết
ngạt. Phải làm sao nó không dấy dụa, nếu không cánh của nó sẽ bị
hư hại và kém giá trị.
Tôi có một cái tủ kính nhỏ trong đó có những bộ sưu tập bướm,
ruồi, rắn nhỏ và dơi hút máu. Hàng tôi có không đủ bán cho khách
cho nên giá rất cao. Một người Mỹ chỉ cho tôi thấy một con bướm
phía sau cánh màu xanh biếc có ánh thép, phía trên th́ màu lơ
nhạt. Người đó bằng ḷng trả tôi năm trăm đô-la nếu tôi có được
một con bướm thuộc loại này mà lại là lưỡng tính. Tôi kể lại với
người săn bướm, anh ta nói có một lần, anh đă có trong tay một
con này, rất đẹp, được người ta trả năm mươi đô-la, sau nhờ một
người sưu tập đứng đắn khác anh ta mới biết là một mẫu bướm như
vậy trị giá đến hai ngàn đô-la.
- Thằng Mẽo ấy muốn xỏ anh đấy, anh Papillon ạ. Nó coi anh là đồ
ngốc. Cứ cho là món hàng hiếm đó chỉ đáng giá một ngàn năm trăm
đô-la, th́ có cũng lợi dụng được sự ngớ ngẩn của anh mà lăi to.
- Cậu nói đúng, đấy là một thằng xỏ lá. Hay ta chơi lại nó một
vố!
- Làm thế nào?
- Chẳng hạn như gắn vào thân một con bướm cái đôi cánh một con
bướm đực hoặc ngược lại. Cái khó là làm sao gắn mà không ai nh́n
ra được.
Sau nhiều lần làm thử thất bại, chúng tôi đă gắn được rất khéo,
hai cánh một con đực vào thân một con cái đẹp tuyệt trần, chúng
tôi đút những đầu cánh nhọn vào một đường rạch nhỏ xíu rồi gắn
lại bằng nhựa balata. Nó dính rất chặt, có thể cầm đôi cánh dán
nhựa mà nhấc cả con bướm lên. Dù có tinh mấy cũng không sao nhận
ra được: Chúng tôi lồng kính con bướm này cùng nhiều bướm khác
trong một bộ sưu tập thông thường giá hai mươi đô la, làm như
tôi không quan tâm đến nó. Chúng tôi tính không trật chút nào.
Chàng Mỹ vừa để ư thấy đă trơ tráo cầm hai mươi đô la trong tay
để mua bộ sưu tập đó của tôi. Tôi trả lời y là tôi đă nhận bán
rồi, một người Thụy Điển đă mua cả hộp, và món này là của người
ấy.
Trong hai ngày, gă người Mỹ cầm cái hộp lên tay đến mười lần.
Sau không chịu nổi, y nói với tôi:
- Tôi mua con bướm ở giữa hai mươi đô la, c̣n anh giữ lại tất
cả.
- Con bướm ấy có ǵ khác thường vậy? - Và tôi chăm chú xem xét
rất kỹ. Rồi tôi reo lên - Nhưng mà này, đây là bướm lưỡng tính
mà.
- Ông nói ǵ vậy? ừ, đúng thật, trước tôi chưa dám chắc, người
Mỹ nói. Trông qua kính, không rơ lắm. Ông cho phép nhé? Y xem
xét kỹ cơn bướm, rất tỉ mỉ, rồi nói: “Ông bán bao nhiêu?”
- Có lần chẳng phải ông đă nói với tôi rằng thứ mẫu hiếm này
đáng giá năm trăm đô la sao?
- Tôi đă nhắc đi nhắc lại với nhiều người săn bướm rằng tôi
không muốn lợi dụng sự không hiểu biết của người đă bắt được con
bướm này.
- Nếu vậy th́ giá là năm trăm đô hay là thôi.
- Tôi mua, ông cứ giữ nó cho tôi. Đây, tôi mang theo có sáu mươi
đô la, tôi đặt trước coi như việc mua bán thế là xong. Ông cho
tôi một tấm giấy biên nhận, mai tôi sẽ đem nốt tiền lại, ông nhớ
lấy con bướm này ra khỏi hộp nhé.
- Được rồi, tôi sẽ để riêng nó ra chỗ khác. Biên nhận của ông
đây.
Đúng giờ mở cửa tiệm, chàng trai gịng giống Lincoln* (*Lincoln
Abraham là tên tổng thống thứ 16 của Mỹ) đă có mặt. Y lại xem
xét con bướm lần này với một cái kính lúp, tôi sợ hết hồn khi y
xem mặt sau con bướm. Thỏa măn rồi, y trả tiền, đặt con bướm vào
một cái hộp y mang theo, đ̣i tôi làm cho y một giấy biên nhận
khác rồi ra đi.
Hai tháng sau tôi bị cảnh sát bắt. Đến Sở cảnh sát cảnh sát
trưởng giải thích bằng tiếng Pháp cho tôi hay là tôi bị bắt v́
có một người Mỹ tố cáo tôi đă lường gạt ông ta.
- Về chuyện một con bướm mà ông gắn cánh, - cảnh sát trưởng nói.
- Do việc làm gian trá đó nên ông mới bán được năm trăm đô-la.
Hai giờ sau, Quưch và Indara đă đến sở với một luật sư nói tiếng
Pháp rất thạo. Tôi nói với luật sư là tôi không biết ǵ về bướm
cả, tôi không phải là người chuyên săn bướm, cũng không sưu tập
bướm. Tôi bán những hộp sưu tập bướm là bán giúp những người săn
bướm vốn là khách hàng của cái tiệm ăn của tôi, rồi chính người
Mỹ kia đ̣i mua và đặt giá trước là năm trăm đô-la, chứ không
phải tôi nài bán cho ông ta, và nếu đấy đích thực là một con
bướm thuộc loại như ông ta nói th́ chính ông ta mới là người đi
lừa, v́ ông đă có được một vật trị giá hai ngàn đô-la.
Hai ngày sau, tôi ra trước ṭa. Luật sư của tôi kiêm cả việc
phiên dịch cho tôi. Tôi nhắc lại luận cứ của tôi.
Một điều lợi cho luật sư của tôi là ông có một cuốn Catalogue có
kê giá bướm các loại. Một con bướm như thế được định giá trong
sách là trên một ngàn năm trăm đô-la. Gă người Mỹ kia phải chịu
tiền phí tổn của phiên ṭa. Thêm vào đó y phải trả tiền thù lao
cho luật sư của tôi cộng hai trăm đô-la nữa.
Dân anh chị và dân ấn tập trung lại để ăn mừng tôi được thả về,
bằng một chầu rượu cất lấy. Toàn bộ gia đ́nh Indara đều đến ṭa
án xem xử. Mọi người đều tự hào v́ trong gia đ́nh - sau khi tôi
được xử trắng án - có một siêu nhân. Bởi họ không bị bịp, họ
biết thừa là chính tôi đă gắn cánh con bướm.
Cuối cùng chúng tôi phải bán tiệm ăn đi, việc ấy tất nhiên sẽ
phải tới. Indara và Daya quá đẹp, và cái kiểu thoát y đó, lúc
nào cũng chỉ bắt đầu hé ra rồi không đi xa hơn, lại càng làm cho
các thủy thủ đầy máu nóng phát điên lên, c̣n hơn cả khi được
thấy một cảnh trần truồng thật sự. Các cô nhận thấy là càng để
nửa kín nữa hở gần mũi các thủy thủ bao nhiêu, th́ càng được
tiền puốc-boa nhiều bấy nhiêu, cứ nhoài người trên bàn ăn là các
cô không bao giờ tính đúng được tổng số tiền, hay thối đủ được
tiền lẻ. Sau thời gian trưng bày bộ ngực làm chàng lính thủy mê
mẩn hoa cả mắt, các cô mới đứng thẳng lên hỏi: “C̣n tiền
puốc-boa nữa?”: “à, chết suưt quên”, tội nghiệp cho mấy anh
chàng ấy. Họ rất hào phóng, những gă dại gái ấy, lửa t́nh được
nhen lên nhưng không bao giờ được thỏa măn, không c̣n biết trời
đất ǵ nữa.
Một hôm xảy ra một việc mà tôi đă lường từ trước. Một thằng cha
cao to tóc hung, mặt đầy tàn nhang nh́n bộ đùi hở hang chưa
thỏa, vừa thoáng thấy bóng chiếc quần lót hắn đă đưa tay ra và
những ngón tay thô bạo của hắn kẹp chặt cô bé Nam Dương của tôi
như trong cái ê-tô. Tay đang cầm một b́nh nước bằng thủy tinh,
cô bé phang cả b́nh vào đầu nó. Bị đánh như vậy nó giật mạnh cái
quần lót rồi gục xuống, tôi vội chạy đến để nâng nó dậy trong
khi các bạn nó lại tưởng tôi đến đánh nó, nên chưa kịp làm ǵ,
tôi đă bị một quả đấm trời giáng đúng giữa mắt. Không biết thằng
cha lính thủy kiêm bốc-xơ ấy thật sự bênh bạn hay chỉ muốn chơi
một vố thật đă đời cho chồng người đẹp ấn phải chịu trách nhiệm
này! Có trời biết được! Dù sao tôi cũng nhận được một cú đấm
thẳng vào mắt. Quá tin vào thắng lợi, nó đă đứng thủ thế trước
mặt tôi và quá:
“Đánh nào, đánh đi, mày”. Tôi đá phốc vào hạ bộ nó, tiếp theo là
một cái húc nhăn hiệu Papillon, nó đă nằm thẳng cẳng.
Trận đánh nhau trở thành một cuộc loạn đả. Anh cụt từ trong bếp
xông ra cứu tôi, anh cầm cái gậy làm ḿ hoành thánh vụt tứ tung.
Quưch cầm một cái phuốc- sét dài có hai chạc đâm lia lịa vào đám
đông. Một tên lưu manh dân Paris chuyên dự các buổi khiêu vũ
theo nhạc trường Lappe đă về hưu dùng một ghế tựa làm vũ khí.
Indara có lẽ bị bó tay v́ mất xi-líp nên chẳng tham gia vào cuộc
chiến.
Kết cục là năm gă người Mỹ bị thương nặng ở đầu, hai gă khách bị
những vết đâm có hai lỗ do phuốc-sét của Quưch gây ra ở nhiều
chỗ trên thân thể, máu đổ tùm lum. Một viên cảnh sát da đen
người Brazzaville chặn ở cửa không cho ai ra. Thật là may, v́
vừa lúc ấy một chiếc xe jeep của Quân cảnh tới. Chân đi ghệt
trắng dùi cui giơ cao, họ định dùng vơ lực ào vào tiệm ăn, và
trông thấy các thủy thủ của họ máu me bê bết như vậy chắc chắn
là họ sẽ trả thù. Nhưng người cảnh sát da đen đă đẩy toán quân
cảnh lui, tay cầm gậy chắn cửa và nói : “Đă có cảnh sát Hoàng
Gia đây”.
Và khi cảnh sát Anh tới, chúng tôi mới phải lên xe chở tội phạm
để về sở cảnh sát, chỉ một ḿnh tôi mắt bị đánh sưng húp híp,
c̣n không ai trong bọn tôi bị thương, nên không ai tin được là
chúng tôi đánh nhau để tự vệ một cách chính đáng.
Sáu ngày sau, trong phiên xử quan ṭa chấp nhận luận điểm của
chúng tôi, và cho chúng tôi được tự do trừ Quưch bị ba tháng tù
v́ đánh người có thương tích. Cũng khó bào chữa nổi vô số những
vết thương hai lỗ mà Quưch đă ban phát rất rộng răi cho các đối
thủ của anh ta.
Sau đó, trong nửa tháng trời có đến sáu vụ ẩu đả, chúng tôi cảm
thấy không thể nào kéo dài được nữa. Bọn lính thuỷ nhất định
không chịu coi chuyện này như đă kết thúc, những khách mới lại
cứ tiếp tục đến, làm sao phân biệt được ai là bạn của kẻ thù của
chúng tôi, ai không phải?
Vậy là chúng tôi đă bán tiệm ăn, với giá rẻ hơn lúc mua. Quả
t́nh tai tiếng đến như vừa rồi th́ khách mua cũng chẳng được bao
nhiêu.
- Anh cụt ơi, ta làm ǵ bây giờ?
- Trong khi chờ Quưch được thả, ta cứ nghỉ ngơi đă. Cũng không
thể lấy lại chiếc xe ba gác với con lừa được v́ ta đă bán các
thứ đó cùng các mối mua hàng rồi. Tốt nhất là không làm ǵ, cứ
nghỉ, sau sẽ hay.
Quưch đă được về. Anh kể lại rằng họ đối xử với anh cũng tử tế.
Có một điều phiền là anh ta phải ở cạnh hai tù nhân bị án tử
h́nh. Và người Anh lại có cái thói dở là: họ báo cho tôi nhân
biết bốn mươi lăm ngày trước khi thi hành án là họ sẽ bị treo cổ
ngày nào, giờ nào và Nữ Hoàng đă bác đơn xin ân xá của họ. Thế
là cứ mỗi sáng, Quưch kể hai người tử từ cứ réo lên với nhau:
“Lại qua đi một ngày nữa rồi, Johnny ơi, chỉ c̣n từng này ngày
nữa thôi”. Và người tứ tù kia không ngớt chửi ṭng phạm của y
suốt cả buổi sáng. Ngoài chuyện đó ra, Quưch được yên ổn và được
trọng nể.
Quán
tre
Pascal Fosco từ khu mỏ bốc-xít xuống. Y là một trong những kẻ đă
âm mưu dùng vơ khí cướp bưu điện Marseille. Ṭng phạm với y đă
bị chém đầu. Pascal là người tốt nhất trong bọn chúng tôi. Tuy
là thợ máy giỏi, anh chỉ kiếm được bốn đô-la một ngày, nhưng vẫn
t́m cách nuôi một hay hai tù nhân gặp khó khăn.
Khu mỏ đất nhôm này ở rất sâu trong rừng. Xung quanh mỏ, h́nh
thành một làng của công nhân và kỹ sư. Trên bến, chất quặng được
đổ suốt ngày xuống nhiều tàu để chở đi. Tôi chợt nảy ra ư nghĩ
tại sao ta không mở quán ở cái nơi khỉ ho c̣ gáy này nhỉ? Tối
đến, những người sống ở đấy chắc buồn đến chết.
- Đúng đấy. - Fosco nói với tôi, - quả là chẳng có quái ǵ để
giải trí.
Và vài hôm sau, một cái thuyền nhỏ, sau hai ngày ngược sông, đă
đưa Indara, Quưch-Quưch, anh Cụt và tôi đến mỏ Mackenzie.
Nơi các kỹ sư, quản đốc, và thợ chuyên môn ở th́ gọn gàng sạch
sẽ, có những căn nhà nhỏ đủ tiện nghi, nhà nào cũng chăng lưới
thép để muỗi không vào được. Trong làng th́ lại tồi tàn quá.
Không có nhà nào bằng gạch, đá hay xi-măng, chỉ có những túp lều
vách đất và tre, mái bằng lá cọ rừng, hoặc lợp tôn kẽm là cùng.
Bốn quán nước có bán cả thức ăn, đều dơ bẩn khủng khiếp mà vẫn
đông nghịt khách. Các thủy thủ đánh lộn với nhau để mua một ly
bia không ướp lạnh. Không quán nào có tủ lạnh.
Pascal nói có lư, có rất nhiều việc làm được ở chốn hẻo lánh
này. Nói cho cùng th́ tôi đang ở trên đường vượt ngục; đây vẫn
là một chuyến phiêu lưu, nên tôi không thể sống b́nh thường như
các bạn khác được. Làm việc là để kiếm sao vừa đủ sống, chứ tôi
chẳng mấy để tâm. V́ ở đây hễ trời mưa là đường xá lầy lội, nên
tôi chọn một địa điểm tương đối cao ở phía sau khu trung tâm.
Tôi tin là dù trời mưa nơi tôi ở cũng không bị nước vào trong
nhà hay xung quanh nhà.
Trong mười ngày, được thợ mộc da đen ở mỏ giúp, tôi đă dựng lên
một pḥng h́nh chữ nhật dài hai mươi mét, rộng tám mét. Ba mươi
bàn mỗi bàn có bốn ghế có thể chứa được một trăm hai mươi người
ngồi thoải mái. Một cái bục cao để các nghệ sĩ lấy chỗ biểu
diễn, một quầy rượu, rộng đúng bề ngang quán và có hơn một chục
ghế cao. Bên cạnh quán rượu là một căn nhà khác có tám pḥng,
vừa đủ cho mười sáu người ở rộng săi.
Khi tôi về Georgetown để mua các dụng cụ, ghế, bàn v.v..... tôi
mướn luôn bốn cô gái da đen đẹp người để phục vụ khách hàng.
Daya đă làm ở tiệm ăn, cũng quyết định theo chúng tôi. Một người
phu sẽ gơ trên cây đàn piano mà tôi mới thuê được. Chỉ c̣n lo
việc tiết mục tŕnh diễn.
Sau nhiều khó khăn vất vả và ba hoa hươu vượn, tôi cũng thuyết
phục được hai cô gái Nam Dương, một cô Bồ Đào Nha, một cô Tàu và
hai cô tóc nâu bỏ nghề làm điếm để trở thành nghệ sĩ thoát y.
Một tấm rèm đỏ cũ mèm mua lại ở một tiệm lạc-son được dùng làm
màu sân khấu.
Tôi tổ chức đưa tất cả những người này lên khu mỏ bằng một
chuyến đi đặc biệt trên một chiếc thuyền của ngư dân Tàu. Một
tiệm rượu nhận bán chịu cho tôi đủ các thứ đồ uống có thể có
được. Tiệm đó tin tôi, tôi sẽ trả tiền hàng tháng những ǵ tôi
đă bán được, sau khi kiểm hàng. Và tiệm đó sẽ gửi dần cho tôi
những thứ rượu tôi cần. Một cái máy hát cổ lỗ sĩ và những đĩa
hát đă ṃn sẽ phát nhạc khi anh nhạc sĩ đàn pianô của tôi ngưng
hành hạ cây đàn. Đủ loại áo ngoài, váy lót bít tất đen và màu,
nịt treo tất, c̣n rất tốt, tôi chọn mua v́ màu sắc sặc sỡ của
chúng tại nhà một người ấn đă gom từ đóng đồ bỏ đi của một gánh
hát rong, sẽ là “trang phục” của các “nghệ sĩ” tương lai của
tôi.
Quưch đă mua gỗ cây và giường. Indara th́ mua ly tách và những
ǵ cần cho một tiệm rượu, tôi lo rượu và vấn đề nghệ thuật. Gói
gắm xong những việc đó trong một tuần, phải cố gắng cật lực.
Cuối cùng rồi cũng xong, dụng cụ và người chiếm cả một thuyền.
Hai hôm sau, chúng tôi đến nơi. Sự có mặt của mười cô gái ở giữa
rừng thẳm này là một cuộc cách mạng thật sự. Mỗi người xách theo
một gói đồ đă leo lên “Quán tre”, tên tôi đặt cho hộp đêm của
tôi. Những cuộc tập dượt bắt đầu. Dạy các “nghệ sĩ” của tôi cởi
áo quần không phải là dễ. Trước hết tôi nói tiếng Anh và những
lời chỉ dẫn của tôi không được hiểu kỹ, sau nữa là v́ các cô chỉ
quen thay quần áo thật mau cho xong rồi tống khách đi cho nhanh.
C̣n bây giờ th́ trái hẳn, các cô càng làm từ từ bao nhiêu, lại
càng hấp dẫn bấy nhiêu. Đối với mỗi cô, lại phải có một chiến
thuật khác. Cách làm cũng phải phù hợp với quần áo. Cô nàng “Hầu
tước phu nhân” mặc coóc-xê hồng và váy phồng, trong là quần rộng
viền đăng-ten trắng, thoát y chầm chậm, sau tấm b́nh phong có
cái gương to phản chiếu để khán giả có thể ngắm lần lượt từng
mảng da của nàng.
Rồi cô “Mau lên” một cô gái có cái bụng phẳng nhẵn, tóc nâu, da
màu cà-phê nhạt, một bản mẫu tuyệt đẹp của một cuộc lai máu,
chắc hẳn là giữa một gă da trắng với một cô da đen màu sáng.
Nước da cô này như hạt cà-phê mới bắt đầu rang hơi vàng chút xíu
càng làm nổi bật thân h́nh cân đối của cô. Mớ tóc dài xoăn tự
nhiên rủ xuống đôi vai tṛn trĩnh tuyệt vời của cô bộ ngực cao
đầy đặn, tuy hơi nặng mà vẫn không kém phần hống hách, chĩa ra
hai đầu vú màu chỉ hơi xẫm hơn màu da một chút, giương cao lên
ngạo nghễ, đẹp vô cùng. Đấy là cô “Mau lên”. Tất cả quần áo của
cô này đều mở bằng khóa kéo “féc-mơ-tuy”. Cô mặc quần cao bồi để
tŕnh diễn, đầu đội một cái mũ rộng vành và một cái áo ngắn, tay
áo có tua bằng da. Theo tiếng nhạc quân hành, cô xuất hiện trên
sân khấu và tháo giày bằng cách đá tung từng chiếc lên. Quần dài
cô mặc xẻ hai bên. áo chẽn được mở ra thành hai mảnh bằng khóa
kéo ở mỗi bên tay.
Với khán giả, cách làm này tác động thật dữ dội v́ bộ ngực trần
bật lên, như cái ḷ xo bị nén quá lâu. Đùi và thân trần trụi, cô
dang hai chân, tay chống nạnh, vẻ thách thức, cô nh́n thẳng vào
đám khán giả, rồi lột mũ, ném lên một chiếc bàn gần sân khấu
nhất. Hôm khai trương, Quán Tre đông tưởng muốn vỡ. Ban tham mưu
của mỏ đến đủ mặt. Đêm vui kết thúc bằng khiêu vũ và khi các
khách cuối cùng ra về th́ trời đă sáng. Thắng lợi hoàn toàn,
không thể nào ước mong được hơn thế. Cũng phải chi phí tốn kém
nhưng giá cao nên bù lại được, và quán ở giữa rừng, cho nên tôi
hoàn toàn tin chắc là có nhiều đêm không có đủ chỗ cho khách.
Bốn cô gái chạy bàn của tôi phục vụ không xuể. Các cô này mặc
váy rất ngắn, cổ áo khoét sâu, đầu buộc khăn ma-đra đỏ, cũng làm
khách mê mẩn. Indara và Daya mỗi người giám sát một phía, khách
trong quán gọi ǵ, th́ đă có anh cụt tay và Quưch ở quầy rượu
cho đưa tới ngay. C̣n tôi phải có mặt ở khắp nơi, chỗ nào trục
trặc th́ chỉnh đốn ngay, chỗ nào có ǵ lúng túng th́ chỉ dẫn kịp
thời.
- Ăn chắc rồi - Quưch nói khi chỉ c̣n lại các cô gái phục vụ,
các nữ nghệ sĩ và chủ quán trong gian pḥng rộng. Chủ và người
làm ai cũng mệt lả nhưng vui mừng v́ thấy kết quả. Tất cả mọi
người sửa soạn đi ngủ.
- Papillon, dậy đi chứ?
- Mấy giờ rồi?
- Sáu giờ chiều rồi. - Quưch nói với tôi. - Cô công chúa của anh
đă giúp chúng ta đấy. Nàng dậy từ hai giờ dọn dẹp xong xuôi sẵn
sàng để đêm nay lại bắt đầu nữa.
Indara mang một b́nh nước nóng đến. Sau khi tắm rửa, cạo râu
tươi tỉnh và khoan khoái, tôi ôm ngang lưng Indara rồi cùng bước
vào Quán Tre, mọi người xúm lại hỏi han rối rít.
- Ông chủ ơi, t́nh h́nh khá chứ?
- Em thoát y có được không? Theo ông chủ th́ chỗ nào không được
nào?
- Em hát gần đúng, phải không ông? Cũng may là khán giả dễ tính
cả.
Cái nhóm mới thành lập này rất dễ mến. Lũ điếm biến thành nghệ
sĩ này rất coi trọng công việc của ḿnh và tỏ ra sung sướng từ
bỏ được nghề cũ. Việc buôn bán không thể nào khấm khá hơn thế
này được. Chỉ có điều khó khăn duy nhất là quá nhiều khách đàn
ông lẻ loi mà quá ít đàn bà. Tất cả các khách hàng đều muốn được
ngồi kèm một cô gái, nhất là một nghệ sĩ nếu không được cả đêm
th́ cũng phải lâu hơn bây giờ. Thế là họ ganh ty nhau. Thỉnh
thoảng, lỡ ra có hai phụ nữ ngồi cùng một bàn, là khách hàng
phản đối ngay. Các cô gái da đen cũng được quư chuộng, trước hết
các cô cũng đẹp, nhưng chủ yếu là v́ ở trong rừng này không có
đàn bà. Tuy bận ở quầy, thỉnh thoảng Daya cũng chạy ra bàn và
tṛ chuyện với tất cả mọi người.
Khoảng hơn hai mươi khách được thường thức sự hiện diện của cô
gái ấn này v́ sắc đẹp của cô quả là hiếm có. Để tránh sự ganh tỵ
và đáp ứng yêu cầu của khách đ̣i phải có một nghệ sĩ ngồi tại
bàn ḿnh, tôi bày đặt tṛ sổ số. Sau mỗi tiết mục thoát y hay ca
hát, một bánh xe to có ghi số từ 1 đến 32, - mỗi bàn một số,
riêng quầy rượu là hai số - sẽ quyết định cô gái vừa biểu diễn
sẽ phải đến bàn nào. Muốn chơi xổ số, phải mua một vé, giá tương
đương với tiền một chai whisky hay sâm banh.
Tôi cho là làm như vậy có hai điều lợi. Thứ nhất là tránh được
những sự khiếu nại. Ai trúng số sẽ được nghệ sĩ ngồi cả giờ tại
bàn ḿnh mà chỉ phải trả tiền một chai rượu, được phục vụ theo
cách sau đây: trong khi nữ nghệ sĩ chỉ c̣n cái quạt lông che
thân th́ tôi cho bánh xe quay. Nó chỉ vào số nào th́ cô gái đứng
lên một cái mâm gỗ sơn bạc và bốn chàng trai khỏe mạnh nhấc bổng
mâm lên, đưa tới cái bàn may mắn trúng số. Cô nàng mở chai sâm
banh và, vẫn cứ trần truồng như vậy chạm cốc một lượt rồi xin
lỗi và đi vào để năm phút sau trở lại ngồi vào chỗ, lần này ăn
mặc đàng hoàng.
Trong sáu tháng công việc chạy đều, nhưng mùa mưa đă qua, một
loạt khách mới đến. Đó là những người đi t́m vàng và kim cương
được tự do đi thăm ḍ trong rừng ở cái đất phù sa màu mỡ này. Đi
t́m vàng và đá quư bằng những phương tiện cổ hủ cực nhọc vô
cùng. Họ thường chém giết hay lấy cắp của nhau. Cho nên tất cả
có vũ khí và khi đă có một túi vàng nhỏ hay một nắm kim cương là
họ không cưỡng được sự cám dỗ, lao vào ăn tiêu như điên. Bán
được một chai sâm-banh, mỗi cô gái cũng được hưởng một tỷ lệ khá
lớn. Từ đó, vừa hôn khách, vừa đổ sâm banh hay whisky vào xô
đựng đá cho chai mau hết, làm chỉ trong nháy mắt. Có vài người
tuy đă uống rồi, nhưng vẫn thấy được cái mánh này và phản ứng dữ
dội đến nỗi tôi phải cho gắn chặt bàn và ghế xuống sàn nhà.
Với loại khách mới này, điều phải xảy ra đă xảy ra. Cô gái ấy
được người ta gọi là “Hoa Quế” Da cô cũng giống màu cây quế
thật. Cô gái mới tới này, được tôi vớt từ khu nghèo khổ của
thành phố George, có lối thoát y làm cho khách phát cuồng lên.
Khi đến lượt cô ta biểu diễn, phải đem một cái ghế tràng kỷ lên
sân khấu, cô ta không chỉ cởi quần áo và những kỷ xảo đặc biệt
tinh vi, mà sau khi đă trần như nhộng, lại c̣n nằm dài ra ghế và
tự vuốt ve mơn trớn ḿnh. Những ngón tay thon dài của cô lướt
trên da thịt trần tụi của ḿnh, mân mê thân thể ḿnh từ tóc đến
ngón chân. Không một chỗ nào trên thân thể mà cô lại không mó
máy đến. Khỏi phải nói rơ cách phản ứng của những con người thô
lỗ của miền rừng rú này, nhất là khi họ đă sặc sụa hơi men.
Tính vốn vụ lợi. Hoa Quế bắt khách mua vé xổ số cho tiết mục của
cô ta với giá hai chai sâm banh chứ không phải một như những cô
khác. Sau khi mua vé nhiều lần ḥng dành được Hoa Quế mà không
được lần nào, một gă thợ mỏ vạm vỡ, có bộ râu đen rất rậm, khi
cô gái ấn của tôi đi mời mọi người mua vé số cho lần thoát y
cuối cùng của Hoa Quế, chỉ c̣n cách mua cả ba mươi vé xổ số (tức
chỉ trừ hai vé của quầy rượu). Sau khi trả tiền sáu mươi chai
rượu sâm~banh, tin chắc là ḿnh sẽ trúng, chàng rậm râu tin
tưởng chờ Hoa Quế thoát y rồi đợi quay số. Hoa Quế cũng bị kích
thích rất mạnh v́ từ tối đă uống quá nhiều. Khi cô ta biểu diễn
lần cuối th́ đă bốn giờ sáng. Ngấm rượu, cô lại càng tỏ ra dâm
đăng và có những cử chỉ trắng trợn hơn bao giờ hết. Vù vù? Bàn
c̣ quay đă bắt đầu chạy và con c̣ bằng sừng sẽ chỉ số trúng.
Chàng rậm râu, sau khi xem cô bé Hoa Quế biểu diễn, đă bị kích
thích đến tột độ. Anh chàng ngồi đợi, tin chắc là người ta sắp
đưa cô ta trần truồng, trên cái khay bạc, đến cho y, chỉ che có
cái quạt lông che thân, hai chai sâm banh được kẹp giữa hai cái
đùi tuyệt đẹp. Nhưng tai hại thay, anh chàng mua ba mươi vé lại
thua. Số 31 trúng, nghĩa là quầy rượu được. Thoạt tiên y chưa
hiểu ra, măi đến khi cô nghệ sĩ được nhấc lên đặt ở quầy rượu y
mới vỡ lẽ. Thế là cái gă ngốc ấy phát điên lên, xô bàn nhảy ba
bước tới quầy rượu. Y rút súng lục bắn ba phát vào cô gái, tất
cả sự việc này diễn ra trong khoảng chưa đầy ba giây.
Hoa Quế đă chết trong tay tôi. Tôi đến đỡ cô ta lên sau khi đánh
gục thằng thú vật ấy bằng một cây dùi cui của quân đội Mỹ mà lúc
nào tôi cũng mang trong người. Do tôi bị vấp phải một cô chạy
bàn đang cầm khay nên tôi can thiệp chậm, làm thằng súc sinh có
đủ th́ giờ gây ra chuyện rồ dại này. Kết quả là cảnh sát bắt
Quán Tre phải dẹp tiệm và chúng tôi phải trở về Georgetown.
Chúng tôi ai trở về nhà người ấy. Indara cô gái ấn chính cống
định mệnh chủ nghĩa, chẳng thay đổi tính nết chút nào. Với cô,
sự sụp đổ này chẳng có ǵ quan trọng. T́m việc khác mà làm, có
vậy thôi. Các chú Tàu cũng thế. Chẳng có ǵ thay đổi trong nhóm,
chúng tôi vẫn ăn ư với nhau. Chẳng ai trách một lời về cái sáng
kiến kỳ cục của tôi lấy gái ra để mở số, cái sáng kiến đă là
nguyên nhân của sự tai tiếng. Chúng tôi gom góp tiền nong dành
dụm được, để trả tất cả các món nợ và đưa đỡ một món tiền cho bà
mẹ Hoa Quế. Chúng tôi chẳng băn khoăn lo lắng ǵ. Tối nào chúng
tôi cũng đến quán rượu, nơi các cựu tù nhân vẫn tụ tập. Các buổi
tối vẫn vui, nhưng thành phố George trong hoàn cảnh chiến tranh
bị hạn chế nhiều đă làm tôi mệt mỏi. Thêm vào đó nàng công chúa
của tôi không bao giờ ghen nên tôi lúc nào cũng được tự do. Bây
giờ cô nàng đeo tôi từng bước và ngồi hàng giờ cạnh tôi bất cứ
tôi ở đâu
Những khả năng buôn bán ở thành phố George trở thành phức tạp.
Và có một ngày, tôi bỗng nảy ra ư muốn rời đất Guyane thuộc Anh
này sang một nước khác. Chẳng có ǵ phải sợ, lúc này đang có
chiến tranh, không nước nào trả chúng tôi về chỗ cũ, ít ra đấy
cũng là điều tôi ước đoán.
Trốn
khỏi Georgetown
Le Guittou cũng tán thành. Anh ta cũng nghĩ rằng chắc phải có
những nước tốt hơn và sống dễ chịu hơn ở Guyane thuộc Anh. Chúng
tôi bắt đầu chuẩn bị một cuộc trốn chạy khỏi thành phố George.
Đúng là đi khỏi đất Guyane thuộc Anh là phạm một tội nặng. Chúng
tôi đang ở trong thời chiến mà không đứa nào trong bọn tôi có hộ
chiếu.
Chapar, sau khi được thả, đă từ Cayenne trốn đi và đă ở đây đă
ba tháng. Y làm kem cho một hiệu bánh của người Tàu và được trả
công một đô-la rưỡi một ngày. Y cũng muốn đi khỏi thành phố
Georege. Một anh tù người Dijon, tên là Deplanque, và một dân
Bordeaux cũng muốn tham dự cuộc vượt ngục. Quưch và anh cụt th́
thích ở lại. Cả hai thấy ở đây tốt hơn.
V́ cửa sông Demerara bị kiểm soát rất ngặt nghèo và nằm trong
tầm các ổ súng máy, phóng ngư lôi và đại bác, chúng tôi sẽ làm
một tàu đánh cá y hệt một chiếc tàu đăng kư ở thành phố George
và chúng tôi sẽ giả làm chiếc tàu đó để ra đi. Tôi tự trách ḿnh
đă không biết ơn Indara, và đă không đáp ứng lại cho xứng đáng
với t́nh yêu tuyệt đối của nàng đối với tôi.
Nhưng tôi không thể làm khác được, nàng cứ đeo dính lấy tôi, làm
tôi khó chịu, tôi đâm bực bội. Những con người giản dị, rơ ràng
là không kiềm chế nổi ham muốn của ḿnh, không chờ người ḿnh
yêu phải đ̣i hỏi mới hiến thân: Cô gái ấn Độ này xử sự đúng như
hai chị em Anh-điêng ở Guagira đă từng xử sự với tôi. Khi t́nh
dục các cô nảy nở, các cô tự hiến ḿnh. Và nếu ta không chiếm
đoạt các cô th́ đó là điều rất nghiêm trọng.
Một nỗi đau thật sự, dai dẳng nảy nở trong bản ngă thầm kín nhất
của họ và việc ấy làm tôi phát bẳn v́ tôi không muốn làm khổ
Indara cũng như hai chị em Anh-điêng kia, và tôi phải ép ḿnh để
trong ṿng tay tôi, Indara được thỏa măn đến mức tối đa. Cuộc
đào tẩu của chúng tôi được chuẩn bị rất kỹ. Một chiếc thuyền
rộng và dài có một lá buồm tốt, có cả buồm mũi và bánh lái loại
tốt nhất được sửa soạn rất thận trọng để cảnh sát không để ư
thấy được. ở Penitence Rivers, nhánh sông nhỏ đổ vào sông
Demerara, chúng tôi dấu thuyền của chúng tôi về phía xuôi so với
khu chúng tôi ở. Nó được sơn và mang số như một thuyền đánh cá
đă đăng kư tại thành phố George. Nếu đèn pha chiếu vào th́ chỉ
thấy có thủy thủ là khác. Để gạt mọi người, chúng tôi không đứng
lên, v́ những người Tàu trên thuyền mà chúng tôi đội lốt đều nhỏ
và gầy, c̣n chúng tôi th́ cao lớn và khỏe mạnh.
Mọi việc diễn ra êm ru, và chúng tôi ra khỏi sông Demerara êm
thấm. Tuy vui mừng v́ đă ra đến biển mà không bị lộ, điểm duy
nhất làm tôi không tận hưởng trọn vẹn thành tựu này, là cái tội
đă đi trốn như một thằng ăn trộm không báo trước được cho nàng
công chúa ấn của tôi. Tôi không vừa ḷng về ḿnh. Cô em, bố cô
và cả gịng giống cô chỉ làm điều tốt với tôi, c̣n tôi tôi đă
bội bạc. Tôi không t́m những lư lẽ để biện minh cho thái độ của
ḿnh. Tôi chỉ thấy những ǵ tôi làm là không lịch sự và tôi
không hài ḷng về tôi chút nào. Tôi cố t́nh để lại trên bàn sáu
trăm đô-la, nhưng những thứ tôi đă nhận được không thể trả bằng
tiền bạc.
Chúng tôi phải đi hướng Bắc - Bắc bốn mươi tám giờ. Tôi lại trở
về với ư nghĩ trước đây của tôi là đến Honduras thuộc Anh. Muốn
vậy, phải vượt biển hai ngày. Cuộc đào tẩu gồm năm người: Le
Guittoun, Chapar, Barrière, một gă người Bordeaux, Deplanque,
một gă người Dijon, và tôi Papillon, thuyền trưởng.
Chúng tôi đi được độ ba mươi giờ th́ gặp một trận băo kinh khủng
tiếp theo là một trận gió xoáy. Sấm, chớp, mưa, sóng lớn hỗn
độn, gió trên biển quăng quật điên cuồng, kéo chúng tôi đi một
cách thảm hại, chúng tôi không sao chống đỡ nổi. Tôi chưa từng
thấy, hay tưởng tượng thấy cảnh nào tương tự như thế. Theo kinh
nghiệm bản thân, đây là lần đầu tiên, gió vừa thổi vừa xoay
chiều đến độ các luồng gió alizé bị xóa sạch hoàn toàn và trận
gió điên cuồng làm chúng tôi xoay tít như chong chóng. Cứ thế
này độ tám ngày khéo chúng tôi lại trở về trại giam mất. Sau
này, đến Trinidad, tôi mới được ông Agostini lănh sự Pháp cho
biết là cơn băo này rất đặc biệt. Nó đă cưa găy hơn sáu ngàn cây
dừa ở đồn điền ông. Cơn băo h́nh mũi khoan này đă tiện cả vườn
dừa của ông ở ngang thân. Có những căn nhà bị bốc lên cao, đưa
đi xa, rồi rơi xuống đất hoặc xuống biển. Chúng tôi mất hết:
thực phẩm đồ đạc cùng những thùng nước ngọt. Cột buồm bị găy ở
độ cao hai mét và nghiêm trọng hơn cả là bánh lái cũng bị vỡ.
Phúc làm sao, Chapar vớt được một cái chèo nhỏ trông như một thứ
xẻng, và tôi đă dùng cái xẻng đó để lái thuyền. Ngoài ra chúng
tôi phải ở truồng lột hết quần áo để ghép lại thành buồm. Tất cả
áo vét, sơ mi, quần dài đều được đem ra dùng. Cả năm chúng tôi
đều mặc xi-líp. Cái buồm làm bằng quần áo và víu lại với nhau
bằng một cuộn dây thép nhỏ c̣n sót trên thuyền, được đem gắn vào
mẩu cột buồm cụt, đă đẩy cho thuyền chúng tôi tạm đi được.
Gió alizé lại thổi đúng hướng, và tôi lợi dụng nó, lái thẳng về
phía Nam để tới bất cứ nơi nào, kể cả Guyane thuộc Anh. ở đây,
h́nh phạt ǵ đối với chúng tôi cũng được hoan nghênh. Thái độ
của tất cả các bạn chúng tôi trong và sau cái mà tôi không gọi
là băo, v́ gọi thế chưa hết ư, mà phải nói là cơn tai biến, cơn
hồng thủy, hay cơn cuồng nộ, đều chững chạc. Chỉ sáu ngày sau,
trong đó có hai ngày gió yên sóng lặng hoàn toàn, chúng tôi mới
thấy đất liền. Với mẩu buồm thủng lỗ chỗ, nhưng vẫn được gió đẩy
đi, chúng tôi không thể lái thuyền theo ư ḿnh được. Cái giầm
con cũng không giúp chúng tôi lái được vững vàng, chắc chắn. Lái
phải ở trần, toàn thân chúng tôi cháy xém làm sức đề kháng của
chúng tôi cũng giảm sút. Mũi đứa nào cũng tróc hết da, trơ cả
thịt. Cả môi, chân, da giữa hai đùi và bắp vế đều cũng tróc hết
da. Cơn khát nước hành chúng tôi đến nỗi Deplanque và Chapar
uống cả nước mặn. Sau khi uống, hai đứa lại càng khổ hơn. Mặc dù
khát và đói cùng cực, có một điều tốt là không ai, hoàn toàn
không một ai kêu ca. Cũng không đứa nào khuyên nhủ đứa khác điều
ǵ.
Đứa uống nước mặn cũng như đứa dội nước biển lên người nói là
cho mát rồi tự nhận thấy rằng làm như vậy các vết thương lại
càng loét sâu hơn và khi nước bay hơi thịt da lại càng đau nhức
hơn.
Chỉ một ḿnh tôi là c̣n một mắt mở được và lành lặn, mắt tất cả
các bạn đều mưng mủ, và phải nhắm nghiền v́ mi mắt cứ dính bết
vào nhau. Mắt tuy đau nhưng vẫn phải rửa v́ bắt buộc phải mở mắt
để nh́n cho rơ. ánh mặt trời chiếu thắng đứng càng làm cho các
vết thương của chúng tôi đau vô cùng, tưởng chừng không sao chịu
đựng nổi. Deplanque sắp phát rồ, đ̣i nhảy xuống nước.
Đă gần một giờ, tôi thấy lờ mờ đất liền ở phía chân trời. Tất
nhiên, tôi hướng ngay về phía đó mà không nói ǵ, v́ tôi chưa
chắc là đúng. Chim chóc lượn quanh chúng tôi, như vậy là tôi đă
không lầm. Tiếng chim đă báo cho các bạn tôi biết. Bị ánh nắng
và sự mệt mỏi làm cho u mê đi, họ nằm dài ở ḷng thuyền lấy tay
che mặt cho đỡ nắng.
Guittou sau khi súc miệng để cố nói cho được đă bảo tôi:
- Papi, cậu có thấy bờ không?
- Thấy rồi.
Theo cậu đoán th́ độ bao nhiêu lâu chúng tôi tới bờ được.
- Độ năm bảy giờ nữa. Các cậu ơi, tớ cũng chịu hết nổi rồi. Tớ
cùng bị phỏng da như các cậu, mông đít tớ c̣n trơ cả thịt và bị
cọ sát với ghế và nước biển. Gió không mạnh, thuyền không đi
nhanh được, cánh tay tớ luôn bị chuột rút, bàn tay tớ cũng tê
cứng, từ lâu không nắm nổi giầm lái nữa. Các cậu có bằng ḷng
làm thế này không? Ta hạ buồm xuống, che làm mái để tránh nắng
như thiêu như đốt này cho đến tối. Cứ mặc cho thuyền tự nó trôi
vào bờ. Phải làm như vậy, nếu không, một cậu nào hăy ra cầm lái
thay tớ.
- Thôi đi Papi, đừng làm vậy. Cứ làm như cậu nói và tất cả vào
ngủ trong bóng râm, chỉ để một người canh thôi.
Tôi lấy quyết định chung của anh em lúc trời đang nắng, vào hồi
mười ba giờ. Được thỏa thuận một cách tự nhiên như con vật, tôi
nằm dài ra ḷng thuyền, và thế là cũng được ở trong bóng râm.
Các bạn tôi dành cho tôi nơi tốt nhất ở đằng mùi để hứng được
gió. Người gác phải đều ch́m ngay vào cơi hư vô. Mệt nhoài, lại
có bóng râm che ánh nắng gay gắt, chúng tôi đă ngủ thiếp đi.
Một tiếng c̣i thét lên làm chúng tôi choàng dậy.
Tôi vén buồm lên, bên ngoài là đêm tối. Không biết mấy giờ? Khi
tôi về chỗ ngồi, bên bánh lái, một làn gió mát mơn trớn thân thể
bị tróc hết da của tôi, và tôi thấy lạnh. Nhưng khoan khoái biết
bao v́ không bị cháy da thịt nữa.
Chúng tôi dỡ buồm ra. Sau khi lấy nước biển rửa mắt - may cho
tôi là tôi chỉ bị một mắt đau và mưng mủ - tôi đă nhận thấy rất
rơ đất liền ở bên phải và bên trái tôi. Chúng tôi đang ở đâu
vậy? Tôi nên đi về phía nào bây giờ? Chúng tôi lại nghe tiếng
c̣i rúc một lần nữa. Tôi biết là tín hiệu từ phía phải tới.
Không biết người ta muốn nói cái quái v́ với chúng tôi?
- Cậu bảo chúng ta ở đâu nhỉ? - Chapar hỏi.
- Thật sự tớ cũng không biết ǵ. Nếu miền này không phải là nơi
trơ trọi và là một cái vịnh th́ có lẽ chúng ta ở mỏm đầu của
Guyane thuộc Anh, phần đất dài đến tận sông Orenoque là biên
giới tự nhiên với Venezuela. Nhưng nếu miền đất bên phải lại bị
cắt khỏi phía bên trái bởi một quăng hơi rộng, th́ cái bán đảo
này lại là một ḥn đảo và đấy là Trinidad. Bên trái sẽ
Venezuela, và chúng ta đang ở trong vịnh Ria. Trí nhớ của tôi về
cái bản hải đồ mà tôi đă có dịp nghiên cứu đă cho tôi thấy được
t́nh trạng nước đôi này. Nếu bên phải là Trinidad và bên trái là
Venezu ela, chúng tôi sẽ chọn phía nào đây? Quyết định này liên
quan đến vận mạng của chúng tôi. Với gió nhẹ như thế này, đi vào
bờ không khó lắm. Lúc này, chúng tôi chưa đi về hướng nào cả.
Đến Trinidad, là gặp “dân ăn thịt ḅ rán” cũng một chính quyền
như ở Guyane thuộc Anh.
- Chắc chắn sẽ được đối xử tử tế, - Guittou nói.
- Phải, nhưng họ sẽ quyết định thế nào khi ta rời khỏi lănh thổ
của họ trong thời chiến một cách lén lút và không có giấy phép
nữa?
- Thế Venezuela th́ sao?
- Cũng chưa biết sẽ ra sao - Deplanque nói - Dưới thời Gomez làm
tổng thống, tù nhân phải làm đường vô cùng cực khổ, rồi bị họ
trả cho nước Pháp, ở đấy họ gọi tôi là dân Cayenne.
- Nhưng bây giờ không như vậy nữa rồi, đang là thời chiến mà.
- Theo như tôi nghe được ở Georgetown th́ họ không tham chiến,
họ trung lập.
- Chắc không?
- Chắc chứ!
Nếu vậy th́ rất nguy hiểm cho chúng ta. Chúng tôi đă nhận ra ánh
sáng đèn trên bờ phải và cả bên bờ trái nữa. Lại tiếng c̣i, lần
này hú ba lần. Những ánh đèn tín hiệu từ bờ biển bên phải hướng
về chúng tôi. Đằng trước, hai mỏm đá nhọn rất to, đen ng̣m nổi
trên mặt biển. Chắc v́ vậy mà họ hú c̣i để báo cho chúng tôi
biết là có nguy hiểm.
- ồ phao nổi ḱa! Có cả một chuỗi dài. Sao ta không neo vào một
cái để chờ trời sáng nhỉ. Hạ buồm xuống đi Chapar.
Y hạ ngay những mẩu quần và áo sơ mi mà tôi gọi một cách hợm
hĩnh là buồm. Tôi dùng giầm hăm thuyền, cho mũi tiến sát gần một
cái “phao” đầu mũi thuyền, may c̣n một đoạn thừng buộc chắc vào
ṿng sắt nên băo không dứt dứt được. Chúng tôi đă neo xong
thuyền không neo vào cái phao kỳ cục này v́ nó nhẵn thín chẳng
có chỗ nào để buộc, mà neo vào sợi dây cáp nối nó với một phao
khác. Thuyền chúng tôi đă được buộc chắc vào sợi cáp hẳn là dùng
để phân ranh giới một luồng nước ǵ đó. Chẳng bận tâm đến những
tiếng c̣i từ bờ bên phải cứ tiếp tục réo lên, tất cả chúng tôi
nằm trong ḷng thuyền, dùng buồm đắp lên người để che gió. Người
tôi bị gió lạnh ban đêm làm tê cóng đă ấm dần lên, rất dễ chịu,
và chắc tôi là một trong những người đầu tiên đă ngáy lên như
sấm.
Khi tôi thức dậy, trời đă sáng rơ và rất quang đăng. Mặt trời
đang mọc, sóng hơi to, và nước biển trong vắt màu xanh ve chứng
tỏ đáy biển toàn san hô.
- Ta làm ǵ bây giờ nào? Phải lên bờ chứ? Tớ chết v́ đói và khát
mất thôi.
Đây là lần đầu tiên có người phàn nàn sau những ngày nhịn nhục,
đến hôm nay đúng là bảy hôm.
Chúng ta ở quá gần bờ, nên có lên bờ cũng chẳng có tội! - Chapar
nói vậy.
ở chỗ tôi ngồi, trông xa về phía trước, qua hai tảng đá to từ
dưới biển nhô lên, tôi thấy rất rơ chỗ bờ biển bị nứt đôi. Như
vậy bên phải đúng là Trinidad rồi, và bên trái là Venezuela. Hẳn
là chúng tôi đang ở trong khu vực vịnh Paria, và nếu nước màu
xanh chứ không phải vàng do đất phù sa của ḍng sông Orenoque,
th́ như thế tức là chúng tôi ở trong luồng nước của cái lạch
chảy giữa hai quốc gia rồi đổ ra biển.
- Ta làm ǵ bây giờ? Các cậu biểu quyết đi, việc này rất quan
trọng nên tôi không dám tự quyết một ḿnh. Bên phải là đảo
Trinidad của Anh, bên trái là Venezuela. Các cậu muốn đi phía
nào? Căn cứ vào t́nh trạng thuyền của bọn ta và t́nh h́nh sức
khỏe chung, chúng ta phải lên bờ càng sớm càng tốt, trong chúng
ta có hai người đă được tự do là Le Guittou và Corbière c̣n lại
ba người: Chapar, Deplanque và tớ có thể gặp nhiều nguy hiểm
nhất, cho nên chúng tớ phải quyết định. Các cậu thấy thế nào?
Đến Trinidad là khôn ngoan hơn, Venezuela là xứ lạ.
Chúng ta chẳng cần phải tự quyết định dâu: chiếc hải thuyền kia
sẽ quyết định cho chúng ta, - Deplanque nói.
Đúng là có chiếc hải thuyền đang tiến nhanh về phía chúng tôi.
Nó đă dừng lại cách chúng tôi ngoài năm mươi mét. Một người trên
thuyền đó cầm loa. Tôi trông thấy một lá cờ, không phải là cờ
Anh. Lá cờ có nhiều sao rất đẹp, cả đời tôi chưa thấy nó bao
giờ.
Chắc đấy là cờ Venezuela. Sau này là “cờ của tôi”, cờ của tổ
quốc mới của tôi, đối với tôi và đối với bất cứ người b́nh
thường nào khác đó là vật tượng trưng cảm động nhất, tập trung
trong một mánh vải những đức tính cao quư nhất của một dân tộc
lớn, dân tộc tôi.
- Quien son vosotros? (Các anh là ai?)
- Chúng tôi là người Pháp
- Es tan locos? - (Các anh có điên không?)
- Sao vậy?
- Porque son amarados a minas (V́ sao anh neo thuyền vào ḿn)
- V́ thế mà các ông không dám đến gần phải không?
- Phải, cởi dây ra ngay đi.
- Xong rồi đây.
Trong nháy mắt, Chapar đă cởi dây thừng ra. Chúng tôi đă neo
thuyền vào một chuỗi ḿn nổi, không hơn không kém.
- Phúc tổ các anh không bị nổ tung lên đấy, - thuyền trưởng
chiếc hải thuyền sang kéo thuyền của chúng tôi, giải thích với
tôi như vậy. Rồi từ hải thuyền, họ chuyển cho chúng tôi càphê,
sữa hộp và thuốc lá.
- Các anh đến Venezuela đi, các anh sẽ được đối xử tử tế tôi bảo
đảm với các anh như vậy. Chúng tôi không thể nào kéo các anh vào
tận bờ được, v́ chúng tôi phải cấp tốc đi đón một người bị
thương nặng ở hải đăng Barimas. Nhưng các anh nhất thiết đừng cố
đến Trinidad, v́ mười phần chắc chín là các anh sẽ va phải ḿn,
thế là...
Sau câu tạm biệt “Adios, buena suerte” (chúc các anh may mắn)
chiếc hải thuyền quay đi. Họ để lại cho chúng tôi hai lít sữa.
Chúng tôi sửa sang lại buồm. Đă mười giờ sáng rồi, dạ dày chúng
tôi đă phỏng phao lên, do có cà phê và sữa, rồi ph́ phèo điếu
thuốc trên môi, tôi cho thuyền xô ào vào băi cát mịn, ở đó độ
năm mươi người đă tựu tập để xem những ai đi trên chiếc thuyền
kỳ lạ: cột buồm th́ cụt, buồm là áo sơ mi, áo vét và quần ghép
lại với nhau.
13.
Nước Venezuela
Các ngư dân ở Irapa
Tôi đă khám phá ra một thế giới mới, những con người, một nền
văn minh hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Những phút đầu tiên trên
đất Venezuela vô cùng cảm động, và phải một tài năng hơn hẳn cái
vốn liếng chữ nghĩa ít ỏi của tôi mới giải thích, diễn đạt, vẽ
lên nổi cái không khí tiếp đón nồng nhiệt mà những người dân hào
hiệp ở đây đă giành cho chúng tôi. Đàn ông, da trắng hay da đen,
nhưng đa số là da màu sáng như màu da trắng bị rám nắng vài
ngày, hầu hết mặc quần xắn đến đầu gối.
- Tội nghiệp, sao trông các ông thảm hại đến vậy - cánh đàn ông
nói.
Làng dân chài nơi chúng tôi đến là làng Irapa, một công xă thuộc
một bang tên là Sucre. Các cô gái và các thiếu phụ, hơi nhỏ
người nhưng duyên dáng vô cùng, và cả các bà già nữa không trừ
một ai, đều biến thành nữ y tá, xơ từ thiện hay mẹ bảo trợ chúng
tôi
Họ tập họp ở một căn nhà đă mắc sẵn năm cái vơng len, kê sẵn bàn
cho chúng tôi, họ lấy dầu ca-cao xoa lên thân thể chúng tôi từ
đầu đến chân, không bỏ sót một centimét da bị tróc. Chúng tôi lả
đi v́ đói và mệt, v́ phải nhịn ăn quá lâu ngày nên bị mất nhiều
nước. Những người vùng ven biển này biết là chúng tôi cần ngủ
nhưng cũng phải cho ăn chút ít một.
Mỗi đứa chúng tôi nằm trên vơng, vừa ngủ, vừa được các nữ y tá
bất ngờ bón cho ăn từng miếng. Tôi quá mệt mỏi, khi được đặt lên
vơng, những chỗ da bị trơ thịt ra được xoa dầu ca-cao rồi, sức
lực của tôi đă hoàn toàn tan biến đâu mất và tôi cứ mơ mơ màng
màng ngủ, ăn và uống mà không biết ǵ hết.
Một món ǵ giống cháo bột sắn ở quê tôi không được dạ dày rỗng
tuếch của tôi tiếp thu. Mà không phải chỉ ḿnh tôi như vậy. Tất
cả chúng tôi đă nhiều lần nôn ra một phần hay tất cả những món
ăn mà các bà các chị đă đưa vào mồm chúng tôi từng muỗng một.
Dân trong làng này nghèo xác xơ. Nhưng tất cả mọi người, không
trừ một ai, đều giúp đỡ chúng tôi. Ba ngày sau, do được tập thể
này săn sóc và do tuổi c̣n trẻ, chúng tôi đă gần lại người.
Chúng tôi ngồi dậy hàng giờ dưới mái lán lợp bằng lá dừa râm
mát, các bạn tôi và tôi đă tṛ chuyện với người làng. Họ không
dư dả để lo chúng tôi có quần áo mặc ngay một lúc. Và những nhóm
nhỏ đă được h́nh thành. Nhóm này chuyên lo cho Guittou, nhóm nọ,
cho Deplanque. Độ gần mười lo cho tôi.
Những ngày đầu, họ cho chúng tôi mặc đủ thứ đồ hú họa, cũ kỹ
nhưng rất sạch. Bây giờ, mỗi khi có điều kiện, họ mua cho chúng
tôi chiếc áo sơ-mi mới, cái quần dài, sợi thắt lưng hay đôi giày
vải. Trong số phụ nữ săn sóc tôi có những cô gái trẻ, dân tộc
Anh-điêng pha trộn với máu Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha. Một cô
tên là Tibisay, cô kia là Nenita. Các cô đă mua cho tôi một cái
áo sơ mi, một cái quần dài, một đôi giày vải mà họ gọi là
“aspargate”, đế giày bằng da, không có gót, phần che chân là sợi
vải tết lại. Chỉ có cổ chân và gót chân được bao bọc c̣n ngón
chân th́ để hở.
- Không cần hỏi các anh từ đâu đến. Cứ trông các anh xăm ḿnh,
chúng tôi cũng biết là các anh đă vượt ngục từ trại giam của
Pháp.
Điều đó lại càng làm tôi cảm động hơn. Chao ôi! Biết chúng tôi
là tù v́ đă phạm tội nặng, lại vượt khỏi một trại tù mà sách báo
đă mô tả t́nh trạng khắc nghiệt của nó, những người dân b́nh
thường này cho việc cứu trợ, giúp đỡ chúng tôi là tự nhiên sao?
Khi người ta giàu có hay khá giả mà đi cho quần áo, khi gia đ́nh
và bản thân ḿnh không thiếu thốn ǵ mà cho một người lạ ăn
uống, thế cũng đă là tốt lắm rồi. Đằng này chia đôi một mẩu bánh
ngô hay bánh sắn nướng lấy ở ḷ nhà, trong lúc chính ḿnh và gia
đ́nh ḿnh cũng chưa đủ ăn, rồi chia sẻ bừa ăn đạm bạc không đủ
nuôi sống được gia đ́nh ḿnh, với những người xa lạ, hơn thế
nữa, với những kẻ trốn tránh. công lư như chúng tôi, lại càng
đáng khâm phục.
Sáng nay, tất cả mọi người, đàn ông lẫn đàn bà, đều nín lặng. Họ
có vẻ bực bội và lo âu. Có chuyện ǵ vậy? Tibisay và Nenita đang
ở cạnh tôi. Sau mười lăm ngày, lần đầu tiên tôi đă có thể cạo
râu. Chúng tôi ở cùng những con người hết sức tận t́nh này đă
được tám ngày. Các vết bỏng của tôi đă lên da non cho nên tôi
mới dám cạo. V́ bộ râu của tôi, các cô các bà chẳng biết tuổi
tác của tôi ra sao. Khi thấy tôi c̣n trẻ. Họ rất mừng và nói
thẳng điều đó ra một cách chất phác. Tôi đă ba mươi lăm tuổi
nhưng trông chỉ độ hăm tám, ba mươi. Phải, đúng là những người
đàn ông, đàn bà mến khách này có chuyện ǵ lo lắng cho chúng
tôi, tôi cảm thấy thế.
- Có chuyện ǵ vậy Tibisay, nói cho tôi nghe, có chuyện ǵ vậy?
Các quan chức ở bên Quiria sắp tới đây: ở đây không có ủy viên
dân sự. Chẳng hiểu tại sao, nhưng cảnh sát ở bên ấy đă được tin
các anh ở đây. Họ sắp tới.
Một người phụ nữ da đen, cao và đẹp, đi với một thanh niên ḿnh
trần, quần xắn tới đầu gối, đă đến gặp tôi. Anh thanh niên có
một thân h́nh lực sĩ cân đối, chị da đen, “La Negrita” (ở
Venezuela không hề có phân biệt chủng tộc hay tôn giáo và đấy là
một lối gọi âu yếm rất thông dụng đối với phụ nữ da màu) đă hỏi
tôi:
- Ông Henri ơi (Senor Enriquez) cảnh sát sắp đến đây. Tôi không
biết họ sẽ làm điều tốt hay xấu cho ông. Ông có muốn trốn một
thời gian vào núi không? Em tôi có thể dẫn ông đến một căn nhà
nhỏ mà không ai t́m được ông. Tibisay, Nenita và tôi có thể hàng
ngày đem thức ăn cho ông và tin cho ông biết t́nh h́nh.
Cảm động đến tột độ, tôi muốn hôn tay người con gái cao thượng
này nhưng chị đă rút tay lại, và chị nhẹ nhàng giản dị hôn má
tôi.
Lát sau, một tốp người ngựa phi nước đại đến. Tất cả đều mang
một con dao dài, loại dao đẵn mía, đeo bên trái như đeo kiếm,
một thắt lưng to bản đựng đầy đạn và một khẩu súng ngắn to đựng
trong bao đeo bên phải. Họ xuống ngựa. Một người mặt như Mông Cổ
mắt xếch kiểu người Anh-điêng, da màu đồng đỏ, cao và gầy, chừng
bốn mươi tuổi, đầu đôi mũ rơm to, tiến về phía chúng tôi.
- Chào các ông. Tôi là xếp dân sự, cảnh sát trưởng đây
- Chào ông.
C̣n các người kia, sao các người không báo cho chúng tôi biết là
có năm người dân Cayenne vượt ngục đến ở đây? Người ta nói là họ
ở đây đă được tám ngày. Trả lời đi!
- Chúng tôi chờ khi nào họ đi lại được và các vết bỏng của họ
lành đă.
- Chúng tôi đến để dẫn họ về Guiria đây. Sẽ có xe tải đến ngay.
- Ông uống cà phê nhé?
- Được, cám ơn ông.
Tất cả ngồi thành ṿng tṛn uống cà phê. Tôi nh́n cảnh sát
trường và các nhân viên của ông. Họ không có vẻ ác. Tôi có cảm
giác là họ phải làm theo lệnh của cấp trên mà không tán thành
lệnh đó.
- Các ông vượt ngục từ Đảo Quỷ phải không?
- Không, chúng tôi từ Georgetown ở Guyane thuộc Anh đến.
- Tại sao các ông không ở đấy?
- Chỗ ấy kiếm ăn cực lắm.
Ông ta mỉm cười nói:
- Các ông cho là ở đây dễ chịu hơn là ở với người Anh?
- Phải, v́ chúng tôi cũng gốc La-tinh như ông.
Một nhóm bảy, tám người tiến lại ṿng tṛn của chúng tôi. Đứng
đầu là một người trạc năm mươi tuổi, tóc bạc trắng, cao hơn một
mét bảy mươi lăm, da màu sô-cô-la rất sáng: Đôi mắt to đen biểu
lộ trí thông minh và một sức mạnh tinh thần khác thường. Tay
phải ông ta đặt trên cán con dao dài đeo bên đùi.
- Ông cảnh sát trưởng định làm ǵ đối với những người này?
- Tôi sẽ giải họ về nhà tù ở Guiria.
- Sao ông không để họ sống với gia đ́nh chúng tôi? Mỗi gia đ́nh
sẽ nhận một người.
- Không thể được, v́ đây là lệnh của tỉnh trưởng.
- Nhưng họ có phạm tội ǵ trên đất Venezuela đâu?
- Tôi công nhận điều đó. Dù sao đây cũng là những người rất nguy
hiểm v́ họ phạm tội rất nặng mới phải đi đày ở nhà tù khổ sai.
Ngoài ra họ c̣n vượt ngục không có giấy tờ căn cước, chắc chắn
cánh sát nước họ sẽ đ̣i họ khi biết họ ở Venezuela.
- Chúng tôi muốn giữ họ lại với chúng tôi.
- Không thể được, v́ đây là lệnh của tỉnh trưởng.
- Cái ǵ cũng có thể được. Ông tỉnh trưởng biết ǵ về những con
người khốn khổ này? Không có ai là đồ bỏ. Dù có phạm tội ǵ, đến
một lúc nào đó trong đời người ta, cũng có cơ hội phục hồi nhân
phẩm để trở thành người tốt, có ích cho xă hội, có phải thế
không các ông, các bà?
- Đúng vậy - đàn ông, đàn bà đều đồng thanh đáp - các ông cứ để
họ ở lại với chúng tôi, chúng tôi sẽ giúp họ làm lại cuộc đời.
Tám ngày qua, chúng tôi đă hiểu họ khá đủ : chắc chắn đây là
những người tốt.
- Có những người văn minh hơn chúng ta đă giam họ vào ngục để họ
không làm ǵ có hại, - viên cảnh sát trưởng nói.
- Theo ông th́ thế nào là văn minh, thưa ông cảnh sát trường? -
Tôi hỏi - ông tưởng có thang máy, máy bay, xe điện ngầm, là
người Pháp chúng tôi văn minh hơn những người đă tiếp đón và săn
sóc chúng tôi? Ông nên biết rằng theo ngụ ư của tôi, văn minh
của nhân loại là có được một tâm hồn cao thượng, sự thông cảm
với con người. ở làng này, sống giữa thiên nhiên, đúng là người
ta thiếu những lợi ích của nền văn minh máy móc, nhưng đối với
con người, người ta lại có tâm hồn cao thượng hơn, có sự thông
cảm hơn; tuy không được hưởng lợi ích của sự tiến bộ, họ lại có
ư thức về ḷng kính Chúa thương người cao hơn tất cả những kẻ tự
nhận là văn minh ở trên đời này. Tôi quư một người thất học ở
xóm này hơn là một cứ nhân văn học tại trường Sorbonne ở Paris,
nếu anh cử nhân kia một ngày nào đó đầu óc giống như viên biện
lư đă kết tội tôi. Một đằng là con người thật sự c̣n kẻ kia đă
quên mất ḿnh là người rồi.
- Tôi hiểu anh. Nhưng tôi chẳng qua cũng là cái phận chỉ đâu
đánh đấy. Xe đến rồi. Tôi xin tất cả hăy giúp tôi sao cho mọi
việc đều êm đẹp.
Mỗi nhóm phụ nữ ôm hôn người mà họ chăm sóc, Tibisay, Nenita La
và Negrita vừa hôn tôi vừa khóc như mưa như gió. Đàn ông đều bắt
tay chúng tôi, biểu lộ nỗi đau khổ của họ khi thấy chúng tôi
phải vào tù.
- Xin tạm biệt, dân làng Irapa, gịng giống cực kỳ cao thượng đă
can đảm đương đầu với chính quyền của nước ḿnh để bảo vệ những
kẻ khốn khổ hôm qua c̣n xa lạ với ḿnh. Miếng bánh mà tôi ăn ở
nhà các vị, miếng bánh mà các vị đă dám nhịn để dành cho chúng
tôi, miếng bánh tượng trưng cho t́nh nhân loại anh em, đối với
tôi là tấm gương cao cả của thời xưa: “Không được giết người,
hăy làm điều lành cho những người đang đau khổ dù có v́ vậy mà
phải thiếu thốn, hăy luôn luôn giúp người bất hạnh hơn ḿnh”.
Sau này nếu có ngày tôi được tự do, tôi sẽ cố sức giúp đỡ người
khác, như những người đầu tiên tôi gặp ở Venezuela đă dạy tôi.
Tôi c̣n gặp nhiều người như thế trong tương lai.
Nhà
lao El Dorado
Hai giờ sau, chúng tôi đến một khu làng lớn ở cửa biển, tự xưng
là thành phố và lấy tên là “Guiria”. Xă trưởng đích thân trao
chúng tôi cho cảnh sát địa phương. Tại Sở cảnh sát chúng tôi
được đối xử cũng tạm được, nhưng lại bị hỏi cung, và người hỏi
cung, chẳng hiểu biết ǵ, nhất định không công nhận là chúng tôi
từ Guyane thuộc Anh, nơi chúng tôi đă được tự do, đến đây. Ngoài
ra khi y bảo chúng tôi giải thích cho y biết tại sao chúng tôi
đến Venezuela trong t́nh trạng cùng quẩn và kiệt lực đến thế
này, sau chuyến đi ngắn ngủi từ phố George đến vịnh Paria, y cho
là chúng tôi đă giỡn mặt y khi chúng tôi kể chuyện gặp băo ở
biển.
- Hai tàu chở chuối đă bị đắm mất tiêu cả người lẫn hàng, trong
cơn gió lốc, một tàu hàng chở bốc-xít cùng bị đắm, tất cả thủy
thủ đều chết, thế mà các anh trên cái thuyền dài có năm mét, bị
mưa băo vùi dập, lại thoát được? Ai tin nổi chuyện này? Ngay
người điên đi ăn xin ở chợ cũng không nghe được. Các anh nói
dối.Có một cái ǵ ám muội trong những điều các anh vừa kể.
- Xin ông cứ hỏi tin tức ở thành phố George th́ biết.
- Tôi không muốn người Anh cười tôi.
Viên thư kư hỏi cung đần độn và ương bướng, đa nghi và kiêu
căng, không biết đă báo cáo thế nào, và gửi báo cáo đi cho ai.
Dù sao th́ một buổi sớm kia, chúng tôi cũng bị gọi dậy từ năm
giờ, bị xích tay và đưa lên xe đến một địa điểm xa lạ.
Làng Guiria nằm trong vịnh Paria, đối diện với Trinidad như tôi
đă nói. Nó c̣n có lợi thế là ở cửa sông Orenoque một con sông
rất lớn, gần bằng sông Amazon. Năm đứa chúng tôi bị xích trong
một chiếc xe tải trên đó c̣n có mười cảnh sát viên, đi về hướng
Ciudad Bolivar, thủ phủ quan trọng của bang Bolivar. Chuyến đi
trên những con đường đất hết sức nhọc nhằn cảnh sát cũng như tù,
bị xóc lên xóc xuống, xô đi xô lại như những bao tải đựng hồ đào
trên mái xe, c̣n lắc lư hơn ngồi trên cộ lết, cuộc hành tŕnh
kéo dài năm ngày. Đêm th́ mọi người ngủ trên xe, sáng hôm sau
lại tiếp tục phóng như điên đến một nơi nào chẳng biết. Cuộc
hành tŕnh đến sụn xương sống này, vượt qua hơn một ngàn
ki-lô-mét cách bờ biển đến một vùng rừng nguyên thủy, theo một
đường lộ bằng đất từ Guidad Bolivar đến El Dorado. Khi đến làng
El Dordo, th́ cả lính lẫn tù đều phờ phạc.
Nhưng El Dorado là ǵ? Trước hết đó là niềm hy vọng của dân Tây
Ban Nha đi chinh phục Châu Mỹ, thấy dân Anh-điêng ở vùng này có
vàng, đă chắc mẩm là ở đấy có một núi vàng, hay ít ra cũng là
núi nửa đất, nửa vàng. Cuối cùng, El Dorado chỉ là một làng nằm
trên con sông đầy những giống cá chuyên ăn thịt, chỉ trong vài
phút có thể ăn nghiến ngấu hết một con người hay một con thú,
những con cá điện, gọi là trembladores, cứ lượn quanh mồi, người
hay vật, truyền điện rất nhanh vào mồi để rồi hút máu của nạn
nhân mà thịt xương đă bị gịng điện phân hủy. ở giữa sông có một
ḥn cù lao, và trên cù lao có một trại giam. Đó là nhà tù khổ
sai El Dorado của xứ Venezuela. Khu giam tù khổ sai này là nơi
cực nhọc, man rợ và vô nhân dạo nhất mà tôi được thấy trong đời,
v́ ở đây tù nhân bị đánh đập tàn nhẫn. Đó là một khuôn đất vuông
vắn mỗi bề dài một trăm năm mười mét lộ thiên, có dây thép gai
bao quanh. Gần bốn trăm nhân mạng nằm giữa trời trong mưa nắng
v́ quanh khu đất này chỉ có vài tấm tôn kẽm.
Không nghe chúng tôi nói lấy một lời, không giải thích ǵ về
quyết định này, họ tống chúng tôi vào trại giam El Dorado, ba
giờ trưa, khi chúng tôi c̣n chết mệt v́ chuyến đi xa và bị xích
trong xe. Ba giờ rưỡi, chúng hỏi tên và ghi tên chúng tôi, họ
gọi chúng tôi lại giao cho hai đứa trong bọn tôi mỗi đứa một cái
xẻng, ba đứa kia mỗi đứa một cái cuốc. Năm tên lính, súng và roi
gân ḅ trong tay, có một hạ sĩ chỉ huy, đứng vây quanh chúng
tôi, buộc chúng tôi phải đến nơi làm việc, nếu không sẽ bị đánh.
Chúng tôi hiểu ngay rằng đây là do chỉ huy trại giam muốn ra oai
với chúng tôi. Lúc này mà kháng lệnh là rất nguy hiểm. Cứ làm
đă, rồi sau sẽ hay.
Đến chỗ làm việc của tù nhân, họ bắt chúng tôi đào một đường hào
ra phía đường giao thông mà họ đang mở ở giữa rừng. Chúng tôi
làm tùy theo sức từng người, không nói ǵ, cũng không ngẩng đầu
lên. Chúng tôi nghe thấy tiếng chửi rủa và những tiếng đánh đập
đă man mà tù nhân luôn luôn phải chịu đựng. Không một ai trong
bọn chúng tôi bị đánh một roi gân ḅ.
Buổi làm việc ngay khi vừa đến trại giam là để cho chúng tôi
thấy rơ các tù nhân bị đối xử ra sao. Hôm ấy là thứ bảy. Sau giờ
làm, c̣n đầy mồ hôi và bụi đất, chúng tôi bị đưa vào trại, vẫn
không qua một thủ tục nào.
- Năm thằng dân Cayenne lại đây. - Tên hạ sĩ giám thị gọi. Tên
này là người lai, cao một mét chín mươi, tay cầm một cây roi gân
ḅ. Nó là một tên đần độn thô lỗ chỉ chuyên giữ trật tự ở bên
trong trại giam. Họ chỉ cho chúng tôi chỗ mắc vơng ở nơi trống
trải gần cổng ra vào trại giam, nhưng tại đấy cũng có một cái
mái tôn, ít ra chúng tôi cũng được che nắng che mưa.
Đa số tù nhân là người Colombia, số c̣n lại là dân Venezuela.
Không một trại cải hối nào của tù khổ sai có thể ví với cái cảnh
ghê tởm của trại lao động khổ sai này. Một con lừa bị đối xử như
những người ở đây chắc phải chết mất. Nhưng gần như tất cả mọi
người đều khỏe mạnh, v́ thức ăn thức uống ở đây rất dồi dào và
ngon lành.
Bọn chúng tôi họp ngay một cuộc hội nghị quân sự nhỏ. Nếu có ai
trong bọn chúng tôi bị lính đánh, tốt nhất là chúng tôi ngưng
làm việc, nằm ra đất và dù bị đối xử ra sao cũng không đứng dậy.
Thế nào cũng phải có một người chỉ huy đến và chúng tôi sẽ hỏi
tại sao chúng tôi không phạm tội ǵ mà lại phải ở trong trại
giam khổ sai này? Hai người đă măn hạn tù là Guittou và Barrière
đă lên tiếng đ̣i phải rả họ về Pháp. Rồi chúng tôi quyết định
gọi hạ sĩ giám thị đến. Tôi sẽ nói chuyện với y. Y được mệnh
danh là Negro Blanco (Mọi Trắng). Guittou đi kiếm y. Tên đao phủ
tới, tay vẫn cầm roi gân ḅ. Cả năm chúng tôi vây quanh y.
- Các anh muốn ǵ?
Tôi nói:
- Chúng tôi chỉ nói với anh một lời thôi, chúng tôi sẽ không
phạm một lỗi ǵ trái với quy chế ở đây, do đó anh không có lư do
ǵ để đánh bất cứ ai trong chúng tôi. V́ chúng tôi thấy anh đánh
bất kể ai, đôi khi chẳng có lư do ǵ, chúng tôi mời anh đến để
nói với anh rằng ngày nào anh đánh một người trong bọn chúng tôi
anh sẽ chết ngay. Anh hiểu chưa?
- Rồi, - tên Mọi Trắng nói.
- Một kiến nghị cuối cùng nữa.
- Ǵ thế - Y nói, giọng nghe đùng đục.
- Nếu những ǵ tôi vừa nói với anh cần được nhắc lại cho người
khác, th́ người đó phải là một sĩ quan chứ không thể là lính
được.
- Đồng ư, - y nói rồi đi. Sự việc này xảy ra ngày chủ nhật là
ngày mà tù nhân không phải đi làm. Một sĩ quan tới.
- Tên anh là ǵ?
- Papillon.
- Anh chỉ huy những người dân Cayenne này à?
- Chúng tôi có năm người, ai cũng là chỉ huy cả.
- Thế th́ tại sao người nói chuyện với giám thị lại là anh?
- V́ tôi nói tiếng Tây Ban Nha khá hơn mọi người kia.
Đấy là một đại úy quân cảnh vệ quố gia. Y nói với tôi rằng y
không phải là chỉ huy đơn vị này. Có hai sĩ quan cao cấp nhưng
họ không có mặt ở đay. Kể từ khi chúng tôi đến, y giữ quyền chỉ
huy. Hai viên sĩ quan kia thứ ba mới về.
- Anh đă nhân danh anh và nhân danh các bạn anh, dọa giết giám
thị nếu các anh bị y đánh. Có đúng thế không?
- Đúng thế đấy, và lời đe dọa đó cần được coi là một lời hứa
chắc. Bây giờ tôi nói thêm cho ông biết là chúng tôi sẽ không
bao giờ tạo ra lư do để các ông trừng phạt thể xác chúng tôi.
Đại úy cũng biết là không có ṭa án nào xét xử chúng tôi v́
chúng tôi không phạm tội ǵ ở Venezuela cả.
- Tôi không biết. Các ông đến trại không có giấy tờ ǵ hết, chỉ
có một giấy của giám đốc ở làng viết là “những người này phải
làm việc ngay sau khi đến nơi”.
- Vậy th́ ông hăy đối xử cho công bằng, v́ ông là quân nhân, và
ông phải đợi cấp chi huy của ông đến đă. Ông phải báo cho lính
của ông biết và đối xử với chúng tôi khác với các tù nhân khác.
Tôi nhắc lại để ông biết chúng tôi không phải và không thể là
những kẻ bị đem ra ṭa xử v́ chúng tôi không hề phạm tội ǵ ở
Venezuela.
- Được, tôi sẽ ra lệnh như vậy. Tôi mong rằng các ông không nói
dối tôi.
Tôi có th́ giờ nghiên cứu các tù nhân suốt buổi chiều chủ nhật
đầu tiên này. Điều thứ nhất làm tôi ngạc nhiên là tất cả tù nhân
đều khỏe mạnh về thể xác. Điều thứ hai là họ bị đánh như cơm bữa
nên họ quen chịu đựng đến nỗi ngay cả chủ nhật là ngày nghỉ, họ
có thể dễ dàng tránh được việc đó bằng cách giữ ḿnh cẩn thận,
nhưng h́nh như họ đi t́m một khoái cảm bệnh tật trong khi đùa
với lửa một cách ngông cuồng. Họ không ngừng phạm những điều cấm
kỵ: chơi xúc xắc vào nhà tiêu hôn hít một cậu pê-đê, ăn cắp của
bạn, ăn nói thô tục với những người đàn bà trong làng vẫn mang
quà bánh hay thuốc lá cho tù nhân. Mấy người đàn bà này cũng
trao đổi hàng hóa với họ. Một cái rổ đan, một đồ vật chạm được
đem đổi lấy ít tiền hay vài bao thuốc lá. Thế mà cũng có những
tù nhân t́m cách cướp giật qua hàng rào dây thép gai những thức
mà các bà đưa ra mời chào rồi chạy biến lẫn vào đám đông, không
chịu đưa ra món hàng mà lẽ ra họ phải đem đổi. Kết quả là những
h́nh thức roi vọt, được áp dụng bừa băi chẳng đâu vào đâu đă làm
cho da thịt họ chai ĺ, tạo nỗi khiếp sợ trong trại giam mà
chẳng có lợi ǵ đối với trật tự xă hội, cũng như chẳng cải tạo
được những con người khốn khố này.
Nhà giam cấm cố ở đảo Sant-Joseph với cảnh im ắng của nó c̣n ghê
rợn hơn thế này. ở đây, sự sợ hăi chỉ trong chốc lát, tù nhân có
thể nói chuyện với nhau ban đêm, ngoài giờ làm việc và ngày chủ
nhật, lại được ăn uống đầy đủ, cho nên rất có thể chịu đựng được
án tù của ḿnh, vốn không hao giờ quá năm năm. Chúng tôi hút
thuốc, uống cà phê và tṛ chuyện với nhau cho qua ngày chủ nhật.
Vài tù nhân người Colombia mon men đến gần. Chúng tôi gạt họ đi
một cách nhă nhặn nhưng kiên quyết, phải để cho mọi người thấy
chúng tôi là một loại tù đặc biệt, nếu không th́ hỏng hết.
Sáu giờ sáng hôm sau, ngày thứ hai, ăn xong bữa sáng thịnh soạn,
chúng tôi đi làm cùng các tù khác. Sau đây là cách khởi đầu công
việc, hai hàng người đứng đối diện với nhau, năm mươi tù nhân,
năm mươi lính, mỗi tên lính phụ trách một tù nhân. Giữa hai hàng
người là năm mươi dụng cụ, cuốc, xẻng hay ŕu.
Hai hàng người theo dơi nh́n nhau. Hàng tù nhân th́ lo lắng,
hàng lính th́ hung hăn.
Viên đội hô: “Tên Mỗ... lấy cuốc
Kẻ khốn khổ đó hối hả vác cuốc lên vai, và đâm đầu chạy đi làm
việc. Viên đội lại hô “numéro” có nghĩa là (đội viên số một, hai
ba v.v....” tên lính mang số đó lao theo người tù và lấy roi gân
ḅ quất y. Cảnh tượng hăi hùng này diễn ra môi ngày hai lần.
Trên đường từ trại giam đến nơi làm việc, người ta có cảm giác
đấy là những kẻ chăn lừa chạy theo đánh con lừa của ḿnh chăn.
Chúng tôi chờ đến lượt ḿnh, lo sợ đến lạnh người. May thay, nó
không như thế.
- Năm người Cayenne, lại đây! Các anh trẻ, cầm cuốc, c̣n hai
người già kia cầm hai cái xẻng đây.
Chúng tôi bắt đầu đi không phải chạy nhưng cùng là rảo bước, có
năm tên lính và một tên cai giám sát, và cứ thế chúng tôi đến
công trường lao dịch của trại. Ngày lao động hôm nay dài và nản
hơn ngày đầu tiên. Những người bị chú ư nhiều nhất đă kiệt sức,
la hét như điên và quỳ xuống lạy van, xin lính đừng đánh họ.
Buổi chiều, họ phải gom những mớ củi cháy dớ thành một đống lớn.
Một số phải quét dọn ở phía sau. Mỗi tên lính dùng roi gân ḅ
quật người tù y phải giám sát để người này nhặt các mảnh vụn rồi
chạy đem đến khu trung tâm trại. Phải chạy như ma đuổi, một số
tù phát điên thật sự và trong lúc vội vă đôi khi họ cầm củi ở
đầu c̣n cháy đỏ. Tay bị bỏng, bị quất roi tới tấp, nhiều khi họ
dẫm cả bàn chân đất lên đống than hồng hay một cành củi c̣n bốc
khói ở dưới đất, cành tượng quái dị này kéo dài ba giờ. Không ai
trong bọn tôi phải tham gia việc dọn sạch băi đất mới khai quang
này. Cũng là may, v́ chúng tôi vừa cắm đầu cuốc đất, vừa nhắn
nhau bằng những câu ngắn gọn là môi đứa chúng tôi sẽ nhảy xổ vào
năm tên lính, kể cả giám thị, cướp súng của chúng và bắn vào lũ
man rợ đó.
Hôm nay thứ tư, chúng tôi không ra chỗ làm việc. Hai sĩ quan chỉ
huy đội cảnh vệ quốc gia gọi chúng tôi lên bàn giấy. Hai quân
nhân này rất ngạc nhiên khi thấy chúng tôi đến El Durado mà
không có tài liệu ǵ chứng tỏ là có một ṭa án nào đă gửi chúng
tôi đến đây. Họ hứa với chúng tôi là ngày mai sẽ hỏi lên giám
đốc cơ quan h́nh sự. Cũng không lâu la ǵ, hai viên thiếu tá chỉ
huy đội cánh vệ trại giam này quá là nghiêm khắc, có thể nói là
trấn áp, nhưng lại đứng đắn, v́ họ đ̣i giám đốc trại phải đích
thân đến giải thích cho chúng tôi rơ. Ông ta đă đến, cùng đi với
người em rể tên là Russian và hai sĩ quan đội cảnh vệ quốc gia:
- Francese. Tôi là giám đốc trại El Dorado đây. Các anh muốn nói
với tôi điều ǵ vậy?
- Trước hết, ṭa án nào đă ra lệnh giam chúng tôi vào trại lao
động khổ sai này? Bao nhiêu lâu và về tội ǵ? Chúng tôi đến
Irapa ở Venezuela bằng đường biển. Chúng tôi không phạm một tội
nhỏ nào. Vậy th́ chúng tôi ở đây v́ lẽ ǵ? Và các ông bắt chúng
tôi phải làm khổ sai là nghĩa lư ǵ?
- Trước hết, hiện nay đang là thời chiến, vậy chúng tôi phải
biết rơ các anh là ai.
- Đúng, nhưng điều đó không giải thích được việc chúng tôi bị
tống vào trại giam này.
- Các anh đă trốn tránh pháp luật của nước Pháp v́ vậy chúng tôi
cần phải biết rơ họ có đ̣i lại các anh không.
- Tôi thừa nhận điều đó, nhưng tôi vẫn cứ hỏi: tại sao lại đối
xử với chúng tôi như chúng tôi đang phải chịu án?
- Bây giờ các anh tạm ở đây căn cứ vào điều luật về “vaguesét
maleantes”* (*vegueset maleantes (tiếng Tây Ban Nha): luật đối
với những người vô cư đi lang thang) trong khi c̣n điều tra thêm
về các anh.
Cuộc tranh luận sẽ c̣n kéo dài nếu một sĩ quan không đưa ư kiến
riêng của ḿnh ra để cắt đứt vấn đề.
- Thưa ông giám đốc, thật ra chúng ta không thể đối xử với năm
người này như các tù nhân khác. Trong khi chờ báo cáo về Caracas
về hoàn cảnh đặc biệt này, tôi đề nghị sử dụng những người này
vào việc khác chứ đừng bắt họ làm đường.
- Những người này nguy hiểm lắm, họ đe dọa sẽ giết giám thị nếu
họ bị đánh. Có đúng không?
- Thưa ông giám đốc, chúng tôi không chỉ đe dọa người đó đâu:
chúng tôi sẽ giết ngay bất cứ kẻ nào dại dột đánh một người
trong chúng tôi.
- Nếu là lính th́ sao?
- Cũng vậy thôi. Chúng tôi không làm ǵ để phải chịu một chế độ
như thế này. Luật lệ và chế độ lao tù của nước chúng tôi có thể
khủng khiếp và vô nhân đạo hơn của các ông, nhưng bị đánh như
súc vật, chúng tôi quyết không chấp nhận.
Viên giám đốc đắc ư quay về phía các sĩ quan của ḿnh: “Các ông
đă thấy họ là những người nguy hiểm chưa?” Viên thiếu tá lớn
tuổi hơn ngập ngừng một chút rồi kết luận, làm mọi người kinh
ngạc:
- Những người Pháp vượt ngục này nói có lư, không điều ǵ ở
Venezuela chứng minh được là họ phải chịu đựng các h́nh phạt
tuân theo luật lệ của trại giam này. Tôi công nhận họ nói đúng.
Cho nên có hai diện, thưa ông giám đốc: hoặc ông cho họ làm việc
ǵ khác với các tù nhân thường, hoặc họ không đi làm việc. Để họ
chung với mọi người, có ngày họ sẽ bị lính đánh thôi.
-Chúng ta sẽ xét việc đó sau. Bây giờ, cứ để họ ở lại trại. Mai,
tôi sẽ cho các ông biết phải làm ǵ.
Viêm giám đốc cùng người em rể ra về.
- Tôi cảm ơn các sĩ quan. Họ cho chúng tôi thuốc lá và hứa trong
buổi điểm danh tối sẽ thông tri cho sĩ quan và binh lính là
tuyệt đối không được đánh chúng tôi bất cứ v́ lư do ǵ.
Chúng tôi ở đây đă được tám ngày. Chúng tôi không phải làm việc.
Hôm qua chủ nhật, đă xảy ra một sự việc khủng khiếp. Những người
tù Colombia đă rút thăm để xem ái phải giết tên giám thị Mọi
Trắng. Thăm rơi vào một người trạc ba mươi tuổi. Họ đă làm cho
anh ta một cái muỗng bằng sắt, cán được mài trên nền xi- măng
thành một mũi xiên rất nhọn, hai cạnh đều sắc. Người ấy đă can
đảm nhận lời cam kết. Anh đâm tên Mọi Trắng ba nhát ở gần tim.
Viên giám thị được cấp tốc đưa đi bệnh viện, thủ phạm giết người
bị trói vào một cây cột ở giữa trại. Bọn lính đi t́m các vũ khí
khác Như một lũ điên, chúng dùng roi vọt quất tứ tung.
Trong cơn tức giận sôi sục, do tôi chưa cởi quần kịp cho nó
soát, một tên lính đă quật một roi gân ḅ vào đùi tôi. Barriére
liền cầm một chiếc ghế dài và giơ lên toan phang vào đầu nó. Một
tên lính khác dùng lưỡi lê đâm suốt qua cánh tay anh trong lúc
tôi cũng đá vào bụng tên lính đă đánh tôi làm y nằm sóng soài ra
đất.
Tôi vừa nắm lấy khẩu súng rớt dưới đất th́ một có tiếng hô lớn:
- Ngừng lại tất cả! Không được đụng đến mấy người Pháp. Anh
người Pháp cũng bỏ súng xuống! - Đó là đại úy Floran đă gặp
chúng tôi hôm đầu tiên chúng tôi đến trại.
Ông ta can thiệp đúng vào lúc tôi sắp bắn vào đám lính. Không có
ông, chúng tôi chắc có thể giết được một hai tên lính, nhưng
chúng tôi cũng bỏ xác một cách ngu ngốc ở cái xứ Venezuela sơn
cùng thủy tận này, trong khi chúng tôi đă đi gần tới đích.
Nhờ có sự can thiệp kiên quyết của viên đại úy, bọn lính rời
nhóm chúng tôi để đi hành hung chỗ khác. Và đến đây chúng tôi đă
chứng kiến một chuyện ghê tởm cực kỳ khó ḷng có thể tưởng tượng
được.
“Tội nhân” bị trói vào một cái cột ở giữa trại giam và bị ba
người, một tên giám thị và hai tên lính, đánh liên tục đến nhừ
tử, từ năm giờ chiều đến sáu giờ sáng hôm sau. Đánh đập một con
người cho đến chết cũng mất khá nhiều thời gian. Những lúc ngừng
đánh (chỉ mấy giây thôi), là để hỏi tội nhân xem ṭng phạm là
những ai, ai đă đưa cái muỗng, ai đă mài sắc nó. Anh ta không tố
giác ai, mặc dầu người ta đă hứa với anh là hễ anh nói ra, cuộc
tra tấn sẽ ngưng ngay. Anh ta ngất đi nhiều lần. Họ đổ hàng xô
nước cho anh tỉnh lại. Mức độ cao nhất là lúc bốn giờ sáng.
Những kẻ tra tấn thấy da thịt nạn nhân không phản ứng nữa dù chỉ
là co lại khi bị đánh, nên họ đă dừng lại.
- Nó đă chết chưa? - Một sĩ quan hỏi.
- Không biết nữa.
- Cởi trói ra, bắt nó quỳ sấp xuống
Bị bốn tên lính giữ chặt, người tựa quỳ ở tư thế gần như ḅ bốn
chân. Bấy giờ một tên đao phủ lấy roi gân ḅ quất một phát thẳng
theo các khe giữa hai mông đít, đầu ngọn roi chắc c̣n đi xa tới
quá bộ phận sinh dục. Cú đánh của kẻ tra tấn điêu luyện này làm
tội nhân cuối cùng phải rên lên một tiếng. Viên sĩ quan nói:
- Tiếp tục đánh. Nó chưa chết.
Anh ta bị đánh cho đến sang. Trận đ̣n xứng đáng với thời Trung
Cổ này, có thể làm chết một con ngựa, lại không làm tội nhân
chết hẳn. Sau khi họ để anh ta yên một giờ không đánh, và sau
khi họ dội vài xô nước vào người, anh ta vẫn c̣n sức để đứng
dậy, tuy cũng được bọn lính đỡ thêm. Anh ta đứng thẳng một lát,
không cần tựa vào ai, viên y tá đến cạnh, tay cầm một ly nước:
- Uống tí thuốc xổ đi, mày sẽ hồi lại, - một sĩ quan ra lệnh.
Tội nhân do dự rồi uống liều thuốc một hơi. Một phút sau, anh ta
ngă vật ra, vĩnh viễn nằm xuống. Trong cơn hấp hối, từ miệng anh
thốt ra một câu: “Đồ ngốc, chúng nó đầu độc mày rồi”.
Tất cả các tù nhân, kể cả chúng tôi, không có ư định làm ǵ, dù
động đậy một ngón tay. Mọi người, không trừ ai, đều khiếp sợ.
Đây là lần thứ hai trong đời, tôi muốn chết đi cho xong. Trong
khoảng vài ba phút, tôi chú ư đến khẩu súng của một tên lính
đứng gần tôi cầm hờ hững. Tôi chỉ ḱm lại được khi nghĩ rằng có
thể chưa kịp lên qui-lát và bắn vào đám lính th́ đă chết rồ i.
Một tháng sau. Mọi Trắng lại trở về, và hơn bao giờ hết vẫn là
nỗi khiếp sợ của trại giam. Tuy nhiên số nó đă được định đoạt là
phải chết ở El Dorado. Một đêm, một người lính gác đă chĩa súng
vào nó khi thấy nó đi qua.
- Quỳ xuống, - người lính ra lệnh.
Mọi Trắng tuân theo.
- Cầu kinh đi, mày sẽ chết.
Người đó để nó cầu một bài kinh ngắn rồi hạ nó bằng ba phát
súng. Có những tù nhân nói rằng người lính kia ghê tởm thấy tên
dao phủ này đánh các tù nhân quá ư man rợ nên đă giết nó. Lại có
người kể rằng Mọi Trắng đă tố giác người lính nọ với cấp trên
của anh ta, nói rằng nó đă biết anh ta từ hồi ở Caracas trước
lúc đi quân dịch theo nó hồi ấy anh ta là một thằng kẻ cắp. Nó
đă được chôn cất gần người tù tội nhân, chắc hắn đă từng là kẻ
cắp nhưng cũng là một con người có ḷng dũng cảm và một phẩm giá
khác thường.
Tất cả những sự việc ấy đă làm cho quyết định về chúng tôi bị
chậm lại. Các tù nhân khác cũng không được đưa đi làm việc trong
mười lăm ngày. Barrière được một bác sĩ trong làng chữa cho khỏi
vết thương do lưỡi lê đâm.
Lúc này chúng tôi đă được kính nể. Hôm qua Chapar đă đi làm đầu
bếp cho giám đốc ở trong làng. Guittou và Barrière đă được trả
tự do v́ tin tức về chúng tôi đă được thông báo từ Pháp. V́ hai
người đă măn hạn tù nên họ được thả. Tôi đă khai một tên ư. Tên
thật của tôi cùng với dấu tay và án tù chung thân của tôi đă
được thông báo. Deplanque với án hai mươi năm cũng như án của
Chapar đều được thông báo, vị giám đốc có vẻ tự hào khi cho
chúng tôi biết tin tức nhận được từ bên Pháp, ông nói:
- Tuy nhiên, v́ các anh không làm việc ǵ xấu ở Venezuela, nên
các anh chỉ bị giữ một thời gian, sau đó các anh sẽ được trả tự
do. Nhưng muốn được vậy, các anh phải làm việc, có thái độ tốt:
các anh đang ở trong thời kỳ cần theo dơi.
Nhiều lần nói chuyện với tôi, các sĩ quan phàn nàn về việc khó
kiếm ra rau tươi ở trong làng. Trại có một khu nông nghiệp nhưng
không có rau, mà chỉ trồng lúa, bắp, đậu đen thôi. Tôi đề nghị
sẽ trồng cho họ một vườn rau nếu tôi có hạt giống. ư kiến được
chấp thuận ngay.
Điều lợi nhất: Deplanque và tôi được ra khỏi trại, và v́ có thêm
hai người tù biệt xứ bị bắt giữ ở Luidad Bolivar, nên họ đă nhập
bọn với chúng tôi. Một người tên Toto, là dân Paris, người kia
dân Corse. Bốn chúng tôi đă làm hai căn nhà nhỏ bằng gỗ tốt, mái
lợp lá cọ Deplanque và tôi ở một căn, hai cậu nọ ở căn kia.
Toto cùng tôi làm những cái bàn cao, bốn chân bàn đặt trong
những cái lon đổ dầy dầu hôi để kiến không lên ăn hạt giống.
Chúng tôi đă có ngay những cây cà chua, cà tím, đưa tây và đậu
xanh. Chúng tôi bắt đầu cấy lên trên những tấm ván v́ cây con đă
đủ sức chống được kiến. Để trồng cà chua mới, chúng tôi đào một
cái hố lúc nào cũng có nước ở bên vườn. Làm như vậy cho cây luôn
có độ ẩm và ngăn cách loại kư sinh vốn rất nhiều ở nơi đất chưa
được khai thác này.
- Cái ǵ thế này nhỉ,- Toto gọi tôi. - Anh thử xem ḥn đá cuội
này, nó sáng biết chừng nào.
- Cậu rửa sạch đi xem.
Rửa xong cậu ta đưa cho tôi coi. Đó là một viên thạch anh, to
bằng gạt đậu. Rửa sạch rồi, mặt cắt của nó bóng hơn nhiều v́ nó
có một lớp vỏ kết rất cứng bao quanh.
- Có phải là kim cương không nhỉ?
- Câm miệng đi Toto, nếu là kim cương th́ không phải ba hoa, mày
không thấy nếu chúng ta may mắn vớ được một cái mỏ kim cương th́
sẽ ra sao à? Giấu đi, để tối về xem sao.
Buổi chiều, tôi dạy toán cho một viên hạ sĩ đang chuẩn bị thi
lên cấp sĩ quan. Con người rất mực cao thượng và thẳng thắn ấy
(anh đă chứng tỏ những đức tính ấy trong t́nh bạn dài hai mươi
lăm năm với (tôi), bây giờ là đại tá Frsnciseo Bolsgno Utrera.
- Franclsco, có biết cai ǵ đây không? Có phải thạch anh không?
- Không phải -Sau khi xem xét rất tỉ mi anh nói - - Đây là kim
cương. Anh giấu kỹ đừng cho ai trông thấy. Anh t́m thấy nó ở
đâu?
- Dưới gốc cà chua.
- Lạ thật. Có phải anh lấy nước ờ sông lên tưới cà chua không?
Khi múc nước sông anh có cào xuống đáy làm cho cát lẫn vào nước
không?
- Rất có thể như vậy.
- Vậy th́ đúng rồi. Viên kim cương này anh đă mang từ dưới sông
Rio Caroni lên đấy. Anh có thể tiếp tục kiếm dưới sông đi, nhưng
cũng để ư xem trong vườn có c̣n những viên khác không, v́ không
bao giờ người ta lại chỉ t́m được có một viên đá quư. Đă kiếm ra
một viên ở đâu th́ thế nào cũng c̣n những viên khác.
Toto bắt tay ngay vào việc.
Chưa bao giờ cậu ta làm nhiều như vậy, đến nỗi hai anh bạn kia,
vốn không được chúng tôi kể lại việc này, phải nói:
- Làm vừa vừa tôi Toto, xách nước sông kiểu đó th́ chẳng bao lâu
sẽ lao lực mà chết. Đă thế lại c̣n tha cả cát về nữa.
- Đề cho đất tươi hơn các cậu ạ, - Toto đáp, - Đất có lẫn cát,
lọc nước tốt hơn.
Mặc cho chúng tôi trêu chọc. Toto cứ tiếp tục sách nước không
ngừng. Một hôm vào lúc giữa trưa cậu ta bị ngă ngay trước chỗ
chúng tôi đang ngồi ở bóng râm. Trong đống cát văng tứ tung, có
một viên đá to bằng hai hạt đậu. Một lần nữa lớp vỏ bộc bị vỡ,
nếu không cũng chẳng ai biết. Cậu ta vồ lấy viên đá một cách quá
vội vă.
- Này, có phải kim cương không? - Deplanque nói bọn lính bảo là
dưới sông có kim cương và vàng đấy.
- Bởi vậy tôi mới xách nhiều nước thế chứ. Các anh cũng thấy là
tôi không ngốc chứ. - Toto nói, măn nguyện v́ đă biện minh được
cho sự hăng hái của ḿnh.
Nói tóm lại trong sáu tháng Toto đă có được sáu bảy ca-ra kim
cương. Tôi có độ mười hai ca-ra cộng thêm hơn ba chục viên đá
nhỏ, và như vậy đă là hàng kinh doanh được rồi, theo lối nói
lóng của dân thợ mỏ. Nhưng một hôm tôi kiếm được một viên hơn
sáu ca-ra sau này đưa về Caracas dũa đi c̣n được gần bốn ca-ra.
Hiện tôi vẫn c̣n giữ nó và đeo thường xuyên ở tay. Deplanque và
Antartaglia cũng gom góp được vài viên đá quư. Tôi vẫn c̣n cái
plan trong nhà giam cũ, và tôi đă cất cả vào đấy Bọn họ th́ lấy
những khúc sừng trâu nhọn đầu để làm chỗ giấu các vậy báu nho
nhỏ ấy.
Chẳng ai biết ǵ về việc này, trừ ông đại tá tương lai, lúc này
dang là hạ sĩ Francisco Bolagno. Cà chua và các cây khác mọc
đều, các sĩ quan trả tiền rất ṣng phẳng số rau mà hàng ngày
chúng tôi đem lên bếp của họ.
Chúng tôi được tương đối tự do. Không có ai canh gác khi chúng
tôi làm việc và ngủ ở hai căn nhà nhỏ. Chúng tôi không bao giờ
đi vào trại giam. Chúng tôi được kính nể và đối xử tử tế. Tất
nhiên mỗi lần gặp giám đốc là chúng tôi lại năm nỉ để ông cho
chúng tôi được hưởng tự do. Lần này ông cũng đáp: “Sắp sửa rồi”.
Nhưng chúng tôi ở đây đă được tám tháng mà vẫn chẳng có ǵ thay
đổi. Tôi đă bắt đẩu tính chuyện trốn đi. Toto không chịu, cả mấy
cậu kia cũng vậy. Để nghiên cứu gịng sông, tôi kiếm được một
cuộn dây và cái lưỡi câu.
Tôi bán cá cá, đặc biệt loại cá Caribes chuyên ăn thịt, có con
nặng đến một kư, hàm răng bố trí như răng cá mập, và cũng khủng
khiếp như thế.
Hôm nay, có chuyện náo động, Gaston Duranton, c̣n gọi là thằng
Khoèo, đă trốn biệt mang theo bảy mươi ngàn bolivar trong két
sắt của giám đốc. Câu chuyện về gă giang hồ này khá độc đáo.
Khi c̣n nhỏ, nó đă ở nhà trừng giới ở đảo Cleron, làm thợ ở
xưởng giày tại đó. Một bữa, sợi dây cu-roa dùng để chuyển chiếc
giầy đặt trên đầu gối đưa xuống dưới chân nó bị đứt. Nó bị găy
xương hông. V́ chữa chạy không chu đáo, cái xương hông chỉ liền
có một nửa: suốt quăng dời niên thiếu và một phần tuổi trưởng
thành chân nó cong queo, người nó vẹo một bên. Nh́n nó đi thật
là khổ tâm. Thằng nhỏ gày ốm, thân h́nh vẹo vọ, khó nhọc kéo lê
cái chân không c̣n điều khiển được nữa. Nó vào trại giam năm hai
mươi lăm tuổi. V́ phải sống những thời gian dài ở các trại cải
tạo, nên không có ǵ lạ khi ra khỏi đấy, nó trở thành kẻ cắp.
Ai cũng gọi nó là thằng Khoèo. Không mấy người biết tên nó là
Gaston Duranton. Nó khoèo, vậy người ta gọi nó là thằng Khoèo có
sao đâu. Tuy vậy vẹo vọ như vậy, nhưng nó cũng vượt ngục ra khỏi
trại giam và đến được Venezuela. Chuyện ấy xảy ra dưới thời lăo
độc tài Gomez. Rất ít tù khổ sai thoát khỏi sự đàn áp của lăo
ta. Chỉ có vài trường hợp ngoại lệ, trong đó phải kể đến trường
hợp bác sĩ Bougrat v́ bác sĩ đă cứu được tất cả dân chúng đảo
ngọc trai “Margarita” khỏi bệch dịch sốt vàng da.
Thằng Khoèo bị bọn “Sagrada”, tức đội cảnh sát đặc biệt của
Gomez bắt và đưa đi làm đường ở Venezuela. Các tù nhân Pháp và
Venezuela bị xích vào những ḥn lê có in lơm h́nh hoa huệ
Toulon. Mỗi khi tù nhân khiếu nại điều ǵ, th́ người ta lại nói
với hắn: “Nhưng mà những thứ dây xích, x́ ga ma-ni, ḥn lê này
là từ trước của mày đem sang đấy chứ? Trông bông huệ ḱa!”*(*Hoa
huệ vốn là biểu trưng của Vương quốc Pháp kể từ triều đại nhà
Capet)
Tóm lại, thằng Khoèo trốn khỏi trại lưu động làm đường. Vài ngày
sau, nó bị bắt, và bị đưa trả về nơi giam lưu động nọ. Trước tất
cả tù nhân, nó phải nằm sấp trần truồng để chịu một trăm roi gân
ḅ.
Rất hiếm người chịu đựng nổi trên tám mươi roi. Điều may cho nó
là nó gầy ốm, và khi nó nằm bụng sát đất roi không đánh vào gan,
bộ phận dễ bị dập nếu bị đánh mạnh. Lệ thường ở đây, sau mỗi lần
bị roi vọt hai mông đít bị băm nát, là phải xát muối vào vết
thương rồi để nằm ngoài nắng. Nhưng người ta cũng lấy lá cây dày
để che đầu cho nó, v́ người ta chấp nhận chơ nó chết v́ đ̣n roi
chứ không thể để cho nó chết nắng được.
Thằng Khoèo lại sống sót được sau nhục h́nh kiều thời Trung cổ
này và lần đầu tiên nó đứng lên, th́ lạ thay, nó không c̣n
“khoèo” nữa. Trận đ̣n đă làm cho chỗ xương nối lệch lại trật
khớp và trở về đúng chỗ. Lính và tù đều reo lên coi đó là một
phép mầu, và chẳng c̣n ai hiểu ra sao nữa. ở cái đất nước mê tín
này, người ta cho là Chúa đă thưởng cho nó và đă chịu đựng sự
tra tấn một cách xứng đáng. Từ ngày ấy, nó không bị xích, cũng
không phải đeo ḥn lê nữa. Nó được che chở và chuyển sang việc
phân phối nước cho các tù khổ sai. Thân h́nh nó đă mau nhờn nở
nang và ăn được nhiều, nó trở thành một thanh niên cao lớn như
lực sĩ. Nước Pháp biết là có những tù khổ sai phải làm đường ở
Venezuela. Cho rằng những năng lực này sẽ được áp dụng tốt hơn
hết ở Guyane thuộc Pháp, thống chế Franchet d’Esperey được cứ đi
công cán để đề nghị với vị độc tài đang vui v́ không phải bỏ
tiền và cũng có nhân công - trả lại những người đó cho nước
Pháp. Gomez chấp nhận, và một chiếc tàu đă cập bến Puerto
Cabelle để đón những người này về. ở đấy, có những pha hài hước
kinh khủng v́ có những người từ các nông trường làm đường ở khắp
nơi đến chưa biết chuyện thằng Khoèo.
- A! Marcel khỏe chứ!
- Cậu là ai nhỉ?
- Thằng Khoèo.
- Cậu rỡn mặt với tôi đấy hả! - Tất cả những ai được Gaston chào
hỏi đều trả lời như vậy khi thấy chàng trai cao dẹp vừng vàng
trên đôi chân thẳng tắp này. Thằng Khoèo c̣n trẻ và thích đùa
nên luôn miệng gọi những ai nó quen trong khi mọi người xuống
tàu, và dĩ nhiên, không ai thừa nhận là thằng Khoèo lại có thể
đứng thẳng dậy được. ở trại tù khổ sai, tôi được chính nó và
những tù khác ở đảo Royale kể lại chuyện này.
Nó lại vượt ngục năm 1943, và trôi giạt về El Dorado. V́ nó đà
sông ở Venezuela rồi, nên dĩ nhiên nó không để lộ chuyện nó c̣n
là tù, và nó được giao việc nấu bếp thay cho Chapar chuyển sang
làm vườn. Nó ở trong làng cùng với giám đốc, nghĩa là ở bên kia
sông.
Trong pḥng làm việc của giám đốc có một cái két sắt đựng tiền
của trại. Ngày hôm đó, nó lấy cắp bảy mươi ngàn bolivar, tương
đương với gần hai mươi ngàn đô-la lúc bấy giờ. Do đó xảy ra
chuyện náo động ở khu vườn chúng tôi: ông giám đốc, ông em rể và
hai viên chỉ huy đội cảnh vệ làm rum beng lên. Ông giám đốc muốn
đưa chúng tôi vào trại. Hai viên sĩ quan không chịu. Họ bảo vệ
chúng tôi cũng là bảo vệ việc tiếp tế rau xanh của họ. Chúng tôi
cuối cùng cũng thuyết phục được ông giám đốc là chúng tôi không
cung cấp được cho ông tin tức ǵ cả; nếu chúng tôi biết được th́
chúng tôi có thể cũng đă đi với nó, rằng mục đích của chúng tôi
là được tự do ở Venezuela chứ không phải ở Guyane thuộc Anh, địa
điểm duy nhất mà nó có thể đến được. Lần theo vết đàn kền kền đă
ăn xác nó, người ta t́m thấy thằng Khoèo chết trong rừng cách
trại bảy mươi ki-lô-mét, rất gần biên giới Guyane thuộc Anh.
Cách giải thích thứ nhất, cách giản tiện thứ nhất, là nó đă bị
người Anh-điêng giết. Về sau, có một người bị bắt ở Giudad
bolivar trong khi đang đổi những tờ giấy bạc năm trăm bolivar
mới tinh. Nhà Ngân hàng đă phát số tiền cho giám đốc trại El
Dorado nắm được số hiệu của tập giấy bạc và thấy đấy chính là số
tiền bị mất cắp. Tên kia thú nhận và tố giác hai tên khác. Nhưng
không sao bắt được hai tên này. Đó là câu chuyện về cuộc đời và
cái chết của anh bạn thân của tôi, Gaston Duranton, c̣n gọi là
thằng Khoèo.
Một số sĩ quan lén lút dùng tù nhân vào việc ṃ vàng và kim
cương ở ḍng sông Rio Caroni. Cũng có kết quả khả quan, không
nhiều lắm nhưng cũng đủ để kích thích những kẻ đi t́m kim cương.
Phía dưới vườn tôi có hai người làm việc suốt ngày với cái nón
kiểu Tàu lật ngửa, đầu nhọn ở dưới, vành tṛn ở trên. V́ kim
cương nặng nhất nên nó lắng xuống đáy nón. Đă có một người chết
v́ đă lấy cắp của “chu”. Chuyện tai tiếng này làm việc khai thác
“mỏ” lén lút phải chấm dứt.
ở trại có một người, xăm khắp cả thân trên. Trên cổ có ḍng chừ:
“Đù mẹ thợ hớt tóc”. Tay phải y bị liệt. Miệng y méo xệch và cái
lưỡi to thường thè lè ra, dớt dăi chảy ḍng ḍng làm ai cũng
thấy là y bị chứng liệt nửa người. Y là người ở đâu? Không ai
biết. Y đến đây trước chúng tôi. Y ở đâu tới? Có điều chắc chắn
y là tù khổ sai hay là dân bị biệt xứ đă vượt ngục. Trên ngực y
có xăm ḍng chữ Bat d’Af (tức Bataillon d’Afrique - tiểu đoàn
Phi châu viết tắt). Ḍng chữ cái đó cũng như “Đù mẹ thợ cắt tóc”
ở phía gáy, làm người ta biết ngay mà không sợ lầm rằng y là tù
khổ sai.
Lính và tù đặt tên cho y là Picolino. Y được đối xử tử tế và
ngày ngày nhận ba lần xuất ăn chu đáo, có cả thuốc lá. Đôi mắt
xanh của y rất sinh động, và cái nh́n của y không phải lúc nào
cũng buồn. Khi y nh́n người nào y mến, đồng tử mắt y long lanh
lên v́ vui thích. Ai nói ǵ với y, y hiểu hết, nhưng y không nói
được, cũng không viết được; tay phải y bị liệt c̣n bàn tay trái
của y lại mất ngón cái và hai ngón khác nữa.
Cái thân tàn ma dại này đứng bám lấy hàng rào dây thép gai hàng
giờ liền, đợi tôi mang rau đi ngang, v́ đấy là con đường ngày
ngày tôi qua lại để mang rau đến bếp của sĩ quan. Buổi sáng, mỗi
lần đem rau đến đó, bao giờ tôi cũng dừng lại nói chuyện với
Picolino. Y đứng dựa vào dây thép gai, nh́n tôi bằng đôi mắt
xanh rất đẹp, đầy sức sống, trong một thân thể gần như đă chết.
Tôi ôn tồn nói chuyện với y, và y dùng đầu và mi mắt để lộ cho
tôi thấy là y đă hiểu chuyện của tôi. Bộ mặt tê liệt của y lóe
sáng lên một chút, và đôi mắt long lanh ấy muốn nói với tôi biết
bao nhiêu điều Bao giờ tôi cũng cho y một vài món quà: một mớ cà
chua, rau diếp, hay dưa leo, ăn ngay được với nước sốt dầu giấm,
hay một quả dưa bỏ nhỏ, một con cá nướng ḷ than. Y không đói,
v́ thức ăn ở nhà tù Venezuela rất dồi dào, nhưng những món của
tôi cũng lạ miệng so với bữa ăn chính thức. Cùng với quà tặng
đó, bao giờ tôi cũng kèm theo vài điếu thuốc. Việc thăm hỏi ngắn
ngủi của tôi với Picolino đă trở thành một thói quen cố định làm
cho lính và tù gọi y là “Con trai của Papillon”.
Tự do
Điều lạ thường, người dân Venezuela có sức lôi cuốn và hấp dẫn
tôi đến mức tôi quyết định tin tưởng họ. Tôi không vượt ngục
nữa. Là tù nhân, tôi chấp nhận hoàn cảnh bất thường này, hy vọng
có ngày tôi sẽ được là một phần tử trong dân tộc họ. Nói ra có
vẻ ngược đời. Tuy cách họ đối xử với tù nhân man rợ như vậy
không khuyến khích tôi sống chung với họ được nhưng tôi hiểu
rằng họ coi các h́nh phạt đối với thể xác là b́nh thường với tù
nhân cũng như với lính. Lính phạm lỗi cũng bị quất roi gân ḅ.
Rồi vài ngày sau, vẫn người lính đó lại nói chuyện với viên giám
thị, cai đội hay sĩ quan đă đánh ḿnh b́nh thường như không có
chuyện ǵ xảy ra.
Chế độ tàn bạo ấy là do tên độc tại Gomez thống trị nhiều năm
trường đă để lại cho họ. Tập quán này c̣n tồn tại đến mức một
người đứng đầu một đơn vị dân sự cũng phạt dân chúng trong phạm
vi của ḿnh bằng cách cho vài roi gân ḅ.
Nhờ một cuộc cách mạng mà tôi đă đến gần với tự do hơn. Một cuộc
đảo chính nửa dân sự, nửa quân sự đă làm tổng thống nước Cộng
ḥa, tướng Angarita Medina, một trong những người theo chủ nghĩa
tự do lớn nhất của Venezuela, phải rút khỏi vị trí của ḿnh. Ông
ta quá tốt và quá dân chủ, đến nỗi không biết cách hay không nỡ
chống lại cuộc đảo chính. H́nh như ông dứt khoát không chịu để
xảy ra một cuộc đổ máu giữa những người Venezuela với nhau chỉ
để ông duy tŕ được chức vị của ḿnh. Chắc chắn là người quân
nhân dân chủ lớn này không hay biết những ǵ diễn ra ở El.
Dorado. Dù sao th́ một tháng sau ngày Cách mạng, tất cả các sĩ
quan đều được thay đổi. Một cuộc điều tra về cái chết “của tội
nhân” do thuốc xổ được tiến hành. Ông giám đốc cùng người em rề
của ông biến mất, và một nhà cựu luật sư kiêm nhà ngoại giao đến
thay thế.
- Được rồi, Papillon, ngày mai tôi sẽ trả tự do cho anh, nhưng
tôi muốn anh đem cậu Picolino khốn khổ ấy theo anh v́ anh vẫn lo
cho cậu ấy. Cậu ta không có giấy căn cước, tôi sẽ cấp. C̣n giấy
căn cước (cédula) của anh đây là hợp lệ, với tên thật của anh.
Điều kiện như sau: anh phải sống một năm ở một làng nhỏ rồi mới
được đến ở một thành phố lớn. Đây không phải là quản thúc mà là
để người ta có thể xem anh sống ra sao và xem cách anh chống
chọi với đời như thế nào. Nếu trong ṿng một năm, người chủ sự
hành chính ở vùng đó cấp cho anh giấy chứng nhận về hạnh kiểm
tốt thế là ông ta đă chấm dứt t́nh trạng cư trú bắt buộc
(confinamiente) của anh. Tôi cho rằng Caracas sẽ là một thành
phố lư tưởng đối với anh. Dù sao anh cũng được phép cư trú hợp
pháp ở nước này. Chúng tôi không cần biết quá khứ của anh. Chỉ
cần anh chứng minh với mọi người là anh xứng đáng được trở thành
một người đáng kính nể. Tôi hy vọng trong năm năm nữa, anh sẽ là
đồng bào của tôi do anh xin nhập tịch để có một tổ quốc mới. Cầu
Chúa sẽ ở bên anh! Cảm ơn anh đă cáng dáng cái thân tàn ma đại
của Picolino. Tôi chỉ có thể trả tự do nó nếu có ai kư nhận sẽ
đảm nhận nó. Mong rằng nếu được nằm bệnh viện nó sẽ khỏi được.
Thế là bây giờ ngày mai, Picolino và tôi được trả tự do thật sự.
Tim tôi nóng ran lên, tôi đă vĩnh viễn chiến thắng “Con đường
của sự thối nát”, lúc đó là tháng 8 năm 1944. Tôi chờ đợi ngày
này từ mười ba năm. Tôi lui về căn nhà nhỏ ở khu vườn. Tôi xin
lỗi các bạn tôi, tôi muốn được ngồi lại một ḿnh. Cảm xúc của
tôi quá mănh liệt, quá đẹp đẽ nên tôi không thể bộc lộ trước mặt
người khác được. Tôi xem đi xem lại tấm căn cước mà ông giám đốc
trao cho tôi: h́nh của tôi ở góc trái, trên là số 1728629, cấp
ngày 3 tháng 4 năm 1944. Đứng giữa là tôi, phía dưới là tên tục.
Phía sau là ngày sinh: 10 tháng 11 năm 1096. Giấy căn cước hoàn
toàn hợp lệ, c̣n được giám đốc Sở Căn cước kư tên và đóng dấu
đàng hoàng. T́nh trạng: là “cư dân”. Từ “cư dân” thật là tuyệt
vời, thế có nghĩa là tôi được cư trú ở Venezuela. Tim tôi đập
mạnh. Tôi muốn quỳ xuống tạ ơn trời. Tôi không biết cầu nguyện,
cũng chưa được rửa tội. Tôi cầu trời nào chứ? V́ tôi có theo đạo
nào đâu? Chúa ḷng lành của những người theo đạo Cơ đốc ư? Hay
đạo Tin lành? Hay đạo của người Do Thái? Của người Hồi? Tôi sẽ
chọn ông Trời nào để hiến dâng lời cầu nguyện mà tôi phải hoàn
toàn tự đặt ra v́ tôi không biết trọn vẹn một bài kinh nào?
Nhưng tại sao hôm nay tôi lại phải hỏi xem nên cầu ông Trời nào
nhỉ? Trong đời tôi đă chẳng luôn luôn cầu nguyện (cũng có lúc
nguyền rủa nữa) Đức Chúa hài đồng Giêsu nằm trong cái giỏ cạnh
bốn con lừa và con ḅ? Có phải trong tiềm thức, tôi c̣n thù oán
các xơ bà tốt bụng ở Colombia chăng? Vậy th́ sao không chỉ nghĩa
đến Đức giám mục cao cả có một không hai ở Curacao, Đức Cha
Irenée de Bruyne, hay xa hơn nữa, vị linh mục nhân hậu ở nhà tù
Conciergerie?
Ngày mai tôi sẽ được tự do, hoàn toàn tự đo. Năm năm nữa, tôi sẽ
nhập quốc tịch Venezuela v́ chắc chắn là tôi sẽ không phạm một
lỗi nào trên đất nước đă cho tôi nơi ẩn náu và đă tin tôi. Trong
đời, tôi phải lương thiện gấp đôi tất cả mọi người.
Quả thật sở dĩ tôi không phạm tội giết người mà vẫn có một ngài
chưởng lư, mấy tên cảnh sát và mười hai viên bồi thẩm bị thịt
tống tôi đi tù, chẳng qua v́ tôi là một kẻ du đăng. V́ tôi thật
sự là một kẻ giang hồ nên người ta mới dễ dàng thêu dệt quanh
nhân cách của tôi một mớ hổ lốn những điều bịa đặt. Mở két bạc
của người khác không phải là một nghề đáng tin cậy, và xă hội có
quyền cũng như có bổn phận phải tự bảo vệ. Sở dĩ tôi đă có thể
ném vào con đường của sự - thối nát, - tôi phải thành thật thú
nhận như vậy là v́ tôi sống như một kẻ thường xuyên có khả năng
rơi vào đấy. Cách trừng phạt tôi như vậy không xứng đáng với một
dân tộc như dân tộc Pháp, xă hội có quyền tự vệ chứ không có
quyền trả thù một cách hèn hạ như vậy - tất cả những việc đó lại
là chuyện khác. Không thể xóa sạch quá khứ của tôi bằng cách lấy
một mảnh giẻ lau đi, tôi phải tự khôi phục danh dự của ḿnh đối
với bản thân ḿnh trước đă, rồi sau đó, đối với mọi người xung
quanh. Vậy th́ hỡi Papi, hăy cảm ơn Chúa ḷng lành của những
người Cơ đốc đi, hăy hứa với Người một điều ǵ cực kỳ quan
trọng.
Lạy Chúa, xin người tha tội cho con nếu con không biết cầu
nguyện nhưng Người hăy trông vào con, Người sẽ thấy là con không
đủ chữ nghĩa để bày tỏ ḷng biết ơn của con đối với Người đă đưa
con đến chốn này. Cuộc đấu tranh thật là khó khăn, vượt qua nỗi
đắng cay mà người ta đă bắt con phải chịu không phải dễ dàng,
nếu con vượt qua được tất cả mọi trở ngại và sống khỏe mạnh cho
đến người lành hôm nay, chắc chắn là có bàn tay Người đă phù hộ
cho con. Con biết làm ǵ đây để chúng tỏ con thành thật biết ơn
Người?
- Từ bỏ việc trả thù.
Tôi đă nghe thấy hay tưởng chừng nghe thấy câu trả lời này? Tôi
không rơ, nhưng nó đă tát mạnh vào mặt tôi khiến tôi phải công
nhận là h́nh như tôi có nghe trả lời như vậy thật.
- Không! Điều ấy th́ không! Người đừng bắt con làm như vậy.
Những kẻ đó đă làm con đau khổ quá nhiều. Làm sao con có thể tha
thứ cho bọn cảnh sát gian xảo, cho tên làm chứng điêu toa
Polein? Thôi không cắt lưỡi lăo chưởng lư vô nhân đạo? Không thể
được. Không, không và không! Con rất ân hận đă làm trái ư người
nhưng bằng bất kỳ giá nào, con sẽ trả thù.
Tôi đi ra ngoài, tôi sợ yếu ḷng, tôi không muốn thoái chí. Tôi
đi vài bước trong vườn. Toto sửa sang cho thân cây đậu cuốn
quanh mấy cái sào. Toto, dân thủ đô Paris chứa chan hy vọng đối
với hạ lưu ở đường Lappe, Antartaghia, tên móc túi, sinh ra ở
đảo Carse nhưng trong nhiều năm đă nẫng túi tiền của dân Paris,
và Deplanque, tên sát nhân người Dijon đă giết một thằng cũng
làm ma-cô như nó, cả ba người đến gần tôi Họ ngắm tôi, mặt mày
họ rạng rỡ v́ thấy tôi cuối cùng đă giành được tự do. Chẳng bao
lâu nữa cũng sẽ đến lượt họ.
- Cậu không mang về chai rượu vang hay rượu rum nào để ăn mừng
việc cậu đi à?
- Xin lỗi, tớ bị xúc động quá nên quên. Các cậu tha thứ cho tớ
nghe.
- Không, Papi ơi, không có ǵ phải tha thứ cả, tôi sẽ pha cà phê
nóng cho tất cả đây?
- Anh Papi, anh bằng ḷng nhé, bây giờ anh đă được hoàn toàn tự
do sau bao nhiêu năm đấu tranh. Chúng tôi đều mừng cho anh.
Tôi hy vọng rồi cũng đến lượt các cậu. Chắc chắn là như vậy rồi,
- Toto nói. - Đại úy nói với tôi rằng cứ mười lăm ngày, ông lại
trả tự do cho một người trong bọn ta. Được tự do rồi, anh định
làm ǵ đây?
Tôi do dự một hai giây, rồi tuy sợ bị những kẻ cùng cảnh tù đày
kia thấy ḿnh lố bịch, tôi cũng can đảm đáp:
- Tớ sẽ làm ǵ à? Cũng chẳng có ǵ phức tạp lắm: tớ bắt đầu lao
động và sẽ luôn luôn làm ăn lương thiện. Đất nước này đă tin cậy
tớ, tớ mà phạm tội ǵ th́ xấu hổ lắm.
Tường sẽ nhận được một lời mỉa mai, ai dè cả ba người đều cùng
thú thật:.
- Tôi cũng vậy, tôi quyết định sẽ sống cho đúng đắn. Papillon ạ,
anh nói đúng, sẽ khó đấy, nhưng phải làm như vậy và dân
Venezuela cũng xứng đáng được chúng ḿnh kính nể.
Tôi không tin ở tai tôi nữa. Toto, tên lưu manh hạ lưu ở khu
Bastille cũng có những ư nghĩ như thế ư? Thật là bất ngờ,
Antartaglia suốt đời chỉ đi móc túi người khác cũng phản ứng như
vậy sao? Thật tuyệt vời. Và Deplanque ma cô chuyên nghiệp lại
không dự định t́m một người phụ nữ nào để lợi dụng khai thác họ
ư? Cái đó c̣n lạ hơn. Tất cả chúng tôi cùng phá lên cười.
- Chà! Lại có chuyện như vậy nữa sao. Thật là đáng giá ngàn
vàng, nếu nay mai cậu trở về khu Montmartre, ra Quảng trường
Trắng mà kể lại chuyện này th́ chẳng ai tin đâu.
- Những tay anh chị trong giới chúng ta sẽ tin đấy. Họ hiểu mà.
Chỉ có bọn trưởng giả mới không chịu tin. Đại đa số dân Pháp
không chịu thừa nhận rằng một người có quá khứ như chúng ta có
thể trở thành người tốt về mọi mặt. Đấy là điều khác nhau giữa
dân Ven ezuela và dân chúng ta. Tớ đă kể cho các cậu nghe luận
điểm của một ngư dân nghèo ở Irapa: bác ta đă giải thích cho khu
trưởng rằng không có người nào là đồ bỏ cả và phải tạo cơ hội
cho người ta trở thành lương thiện. Những ngư dân hầu hết là mù
chữ ở vịnh Paria, bên lề thế giới, lọt thỏm vào giữa cái cửa
sông Orénoque mênh mông, có một triết lư nhân văn mà nhiều đồng
bào của chúng ta không có nổi. Quá nhiều tiến bộ về máy móc, một
cuộc sống bon chen, một xă hội chỉ theo đuổi một lư tưởng duy
nhất là làm sao có được nhiều phát minh về máy móc, tiến tới một
cuộc sống ngày càng dễ dăi hơn, tiện nghi hơn. Thường thức các
phát minh về máy móc cũng giống như mút kem, chỉ lôi cuốn người
ta thèm khát nhiều tiện nghi hơn nữa và đấu tranh liên tục để
đạt tới cái đích đó. Những cái đó giết chết tâm hồn, ḷng trắc
ẩn, sự thông cảm, và sự cao thượng. Người ta không c̣n th́ giờ
để quan tâm đến người khác, lại càng ít th́ giờ hơn để quan tâm
đến những kẻ phạm tội. Ngay các nhà cầm quyền ở chốn này cũng
khác ở nước ta, v́ họ chịu cả trách nhiệm vê sự yên tĩnh công
cộng. Dù họ có thể bị gặp nhiều điều phiền phức lớn lao nhưng họ
cũng nghĩ rằng cứ phải làm liều một chút để cứu lấy một con
người. Và như thế thật tuyệt vời.
Tôi có một bộ đồ xanh nước biển do học tṛ của tôi bây giờ là
đại tá, tặng: Anh ta đă vào trường sĩ quan được một tháng, sau
khi lọt vào số ba người đỗ dầu trong cuộc thi tuyển. Tôi sung
sướng thấy ḿnh cũng góp phần vào thành công của anh bằng các
bài tôi đă giảng cho anh. Trước khi đi, anh đă tặng tôi mấy bộ
quần áo c̣n mới của anh, vừa khít với tôi. Tôi ra đi, ăn vận
chững chạc nhờ Francisco Bolagno, hạ sĩ của quân cảnh vệ quốc
gia, nay đă là chủ gia đ́nh và đă là bố.
Viên sĩ quan này, ngày nay đă là đại tá, trong hai mươi sáu năm
liền đă dành cho tôi một t́nh bạn chân thành và không bao giờ
phai nhạt. Ông là biểu trưng chân chính của tính cương trực, cao
thượng, và của những t́nh cảm cao cả nhất mà một con người có
thể có được. Tuy ở một địa vị cao trong thứ bậc quân sự, ông
luôn luôn biểu lộ t́nh bạn trung thành của ông đối với tôi và
sẵn sàng giúp tôi bất cứ việc ǵ. Tôi đă chịu ơn đại tá
Francisco Bolagno Utrera rất nhiều.
Phải, tôi sẽ làm hết cách để trở thành người lương thiện và giữ
sao cho ḿnh măi lương thiện. Chỉ có một điều phiền phức là tôi
chưa làm việc bao giờ, tôi không biết làm ǵ cả. Tôi phải làm
bất cứ việc ǵ để kiếm sống. Cũng không dễ, nhưng chắc chắn là
tôi sẽ làm được. Ngày mai tôi sẽ trơ thành một người như những
người khác. Công tố viên! Ngươi đă thua ta rồi: ta đă thoát hẳn
ra khỏi con đường của sự thối nát.
Tôi trăn trở hồi lâu trên vơng, thao thức trong đêm cuối cùng
của cuộc đời tù tội long đong. Tôi ngồi dậy, đi ra thăm cái vườn
mà tôi đă bỏ biết bao nhiêu công sức để săn sóc trong những
tháng qua. Trăng sáng như ban ngày. Nước sông lặng lẽ chảy ra
biển. Không có tiếng chim: chúng đang ngủ. Trời đầy sao, nhưng
trăng sáng quá, phải đứng quay lưng lại phía trăng mới thấy được
sao. Trước mặt tôi là bóng tối của rừng, chỉ có một điểm sáng mờ
mờ là làng El Dorado. Cảnh tĩnh mịch sâu lắng của thiên nhiên
làm cho tôi thư thái. Nỗi bồn chồn đă lắng dịu dần và đêm thanh
vắng đă đem lại cho tôi sự thanh thản mà tôi đang cần. Tôi tưởng
tượng thấy rất rơ nơi mà ngày mai tôi từ xà-lan đặt chân lên
mảnh đất của Simon Bolivar, người đă giải phóng nước này khỏi sự
thống trị của Tây Ban Nha và đă để lại cho các thế hệ sau những
t́nh cảm nhân đạo và sự thông cảm đă làm cho tôi có thể bắt đầu
được sống lại.
Tôi đă ba mươi bảy tuổi, tôi c̣n trẻ. Thể trạng của tôi hoàn
hảo. Tôi chưa bao giờ ốm nặng, thần kinh tôi hoàn toàn b́nh
thường. Tôi dám nói vậy. Con đường thối nát mà không để lại
trong tôi những dấu vết sa đọa. Tôi cho đó chủ yếu là do tôi
không bao giờ thực sự thuộc về nó cả.
Trong những tuần tự do đầu tiên, tôi không những phải t́m cách
kiếm sống cho ḿnh, mà c̣n phải săn sóc và nuôi sống Picohno.
Đối với tôi, trách nhiệm ấy thật nặng nề. Tuy cậu ta là gánh
nặng đối với tôi, tôi sẽ giữ lời hứa với giám đốc trại giam, cho
đến khi nào đưa được Picolino vào bệnh viện, nơi có những người
chuyên môn giỏi chữa bệnh cho cậu, mới thôi.
Tôi có nên báo tin cho bố tôi biết là tôi đă được tự do không?
Đă nhiều năm, ông cụ không biết ǵ về tôi. Không biết bây giờ
ông cụ ở đâu? Những tin tức duy nhất mà ông cụ có được về tôi là
do cảnh sát đến hỏi mỗi lần tôi vượt ngục. Không, tôi không được
hấp tấp. Tôi không có quyền làm vết thương có sẽ đă thành sẹo
sau bao nhiêu năm nay, lại rớm máu. Tôi sẽ viết thư cho ông cụ
khi nào tôi đă ổn định, đă có một vị trí nhỏ vững vàng, không có
vấn đề ǵ rắc rối, khi tôi đă có thể nói với ông cụ: “Thưa ba,
con của ba đă được tự do, đă trở thành một người tốt và lương
thiện. Con đă sống như thế này, bằng cách này. Ba không phải cúi
đầu khi nghĩ về con nữa, và cũng v́ thế cho nên con mới viết thư
này để nói với ba là con luôn luôn yêu thương và tôn kính ba”.
Đang có chiến tranh, không biết quân Đức có chiếm đóng làng
chúng tôi không? Ardèche không phải là một vùng có chút ǵ quan
trọng về chiến lược của nước Pháp. Chắc chúng cũng chẳng chiếm
đóng hết cả tỉnh này. ở đấy phỏng chúng kiếm được cái ǵ ngoài
hạt dẻ ra? Phải, chỉ khi nào tôi tự thấy ḿnh đă xứng đáng tôi
mới viết thư, hay nói cho đáng tôi mới viết thư, hay nói cho
đúng hơn mới t́m cách viết thư về nhà.
Tôi sẽ đi đâu bây giờ? Tôi sẽ định cư ở một làng gần mỏ vàng tên
gọi là Le Callao. Tôi sẽ sống ở đó một năm - thời gian người ta
đ̣i hỏi tôi phải sống trong một cộng đồng nhó. Rồi tôi sẽ làm
ǵ? Ai mà biết được: Mi đừng đặt trước những vấn đề như vậy. Dù
phải cuốc đất để kiếm miếng ăn, mi cũng phải làm, có thế thôi.
Tôi phải tập sống tự do, việc này sẽ không dễ đâu. Mười ba năm
rồi, không kể mấy tháng ở Georgetown, tôi không phải lo đến
chuyện kiếm ăn. Dù sao hồi ở Georgetown, tôi cũng đă xoay xở
được. Cuộc phiêu lưu vẫn tiếp tục, tôi phải nghĩ ra phương kế để
mà sống, dĩ nhiên là không làm hại đến ai. Rồi sẽ tính sau! Nào,
cứ đến Le Callao đă.
Bảy giờ sáng. Anh nắng đẹp vùng nhiệt đới, bầu trời xanh không
gợn một bóng mây, chim hót líu lo các ngói niềm vui sống. Các
bạn tôi đă về tựu ở cổng vườn. Picolino mặc quần áo thường, cạo
râu sạch sẽ. Tất cả mọi thứ: cảnh thiên nhiên, vật và người đều
toát lên niềm vui và đều mừng cho tôi được tự do. Có một thiếu
úy cùng đến với nhóm bạn bè tôi: anh ta sẽ cùng đi với chúng tôi
đến làng El Dorado.
- Chúng ta hây hôn nhau, rồi anh đi đi, - Toto nói. Như vậy sẽ
tốt hơn cho tất cả mọi người.
- Từ biệt các bạn thân mến, nếu có dịp đi qua Le Callao các bạn
đến t́m tôi nhé. Nếu tôi có nhà riêng th́ đó cũng là nhà của các
bạn.
- Từ biệt Papi, chúc anh gặp may mắn nhé!
Chúng tôi đi nhanh xuống bến và lên xà-lan. Picolino đi khá vững
vàng. Cậu ta chỉ bị liệt từ hông trở lên, chứ chân th́ không
sao. Mười lăm phút sau, chúng tôi đă qua sông.
- Giấy tờ của Picolino đây. Anh bạn Pháp, chúc anh may mắn nhé.
Từ giờ phút này anh được tự do Adios!
Rứt bỏ những xiềng xích đeo đẳng ḿnh đă mười ba năm cũng chẳng
khó khăn ǵ. “Anh được tự do từ giờ phút này”. Người ta đă quay
mặt đi, không giám sát anh nữa. Chỉ có thế thôi. Chúng tôi leo
nhanh con đường đá cuội từ bờ sông đi lên. Chúng tôi chỉ có một
gói nhỏ, ở trong có ba cái áo sơ-mi và một cái quần dài để thay
đổi. Tôi mặc bộ com-lê màu xanh hàng hải, sơ-mi trắng, thắt
ca-vát xanh cùng màu với áo ngoài.
Nhưng dĩ nhiên làm lại cuộc đời không phải như khâu lại chiếc
khuy áo. Và nếu giờ đây, hai mươi lăm năm sau, tôi đă có vợ, có
một con gái, đă sống sung sướng ở Caracas, đă là công dân
Venezuela, th́ đó là do trải qua biết bao nhiêu chuyện khác, bao
nhiêu thành công và đổ vỡ, nhưng là của một người tự do và một
công dân đứng đắn.
Hết
|