tù ở châu Âu. Hai bức tường có đường đi tuần tra, cao hơn tám
mét.
Bộ chỉ huy của nhà tù, đứng đầu là viên giám đốc Don Gregorio,
đón tiếp chúng tôi. Nhà tù có bốn khoảng sân. Hai bên này, hai
bên kia. Giữa hai bên là một cái nhà thờ dài trong đó thường làm
lễ mi-sa, những cũng dùng làm nơi tiếp khách. Chúng tôi được
phân vào cái sân dành cho những tù nhân nguy hiểm nhất. Khi lục
soát họ đă phát hiện được số tiền hai mươi ba ngàn pesos và hai
mũi tên. Tôi tự thấy có bổn phận phải nói trước cho ông giám đốc
biết là mấy mũi tên này có tẩm thuốc độc, và điều đó chẳng có ǵ
làm tăng được mối thiện cảm của họ đối với chúng tôi.
- Mấy thằng Pháp ấy có cả tên độc nữa đấy?
Bị giam trong cái nhà tù Baranquilla này đối với chúng tôi là
thời đoạn nguy nhất trong cuộc phiêu lưu của chúng tôi. Thật
vậy, chính đây là nơi mà chúng tôi sẽ bị giao lại cho nhà chức
trách Pháp. Phải, Baranquilla đối với chúng tôi chung quy là cái
nhà tù khổng lồ của nó, làm thành một điểm mốc. Nhất định phải
vượt ngục bằng bất cứ giá nào, dù có phải hy sinh đến đâu cũng
bất chấp. Canh bạc này tôi phải đánh xả láng.
Pḥng giam của chúng tôi ở chính giữa sân. Vả chăng dấy không
phải là một căn pḥng mà là một cái chuồng: một cái mái bằng
xi-măng đặt trên những dăy chấn song lớn, ở bốn góc có chỗ rửa
mặt và đi ngoài.
Những người tù khác, có khoảng chừng một trăm, được phân vào
những căn buồng khoét trong bốn bức tường của khoảng sân rộng
hai mươi mét trên bốn mươi, mỗi buồng có một dăy chấn song trông
ra sân. Mỗi dăy chấn song có lợp một thứ mái hiên bằng tôn để
cho mưa khỏi hắt vào buồng giam. Chỉ có sáu tù nhân người Pháp
chúng tôi trong cái chuồng trung tâm để hở bốn bên, đêm ngày đều
phô ra trước mắt các tù nhân khác, nhưng nhất là trước mắt bọn
lính gác. Suốt ngày chúng tôi có thể ra sân hay vào chuồng tùy ư
từ sáu giờ sáng đến sáu giờ tối. ở ngoài sân có thể nói chuyện,
đi dạo, thậm chí ăn uống cũng được.
Chúng tôi đến được hai ngày th́ họ tập trung cả sáu người trong
nhà thờ trước mặt ông giám đốc, mấy viên cảnh sát và bảo toán
phóng viên nhiếp ảnh. Các anh là tù vượt ngục từ trại khổ sai
Pháp ở Guyane?
- Chúng tôi chưa bao giờ phủ nhận điều đó.
- Mỗi người trong các anh đă phạm những tội ǵ mà bị xử nghiêm
khắc như vậy?
Điều đó không có ǵ quan trọng. Điều quan trọng là chúng tôi
không hề làm điều ǵ phạm pháp trên đất Colombia, thế mà nước
các ông không những khước từ cái quyền của chúng tôi được làm
lại cuộc đời, mà c̣n cam tâm làm kẻ săn người, làm hiến binh cho
chính phủ Pháp.
- Nước Colombia nghĩ rằng ḿnh không được chấp nhận các anh vào
lănh thổ.
- Nhưng bản thân tôi và hai người nữa, trước đây cũng như hiện
giờ, chúng tôi đều nhất quyết không ở trên đất này. Người ta đă
bắt ba chúng tôi giữa biển chứ không phải trong khi đang đổ bộ
lên đất này. Ngược lại lúc ấy chúng tôi đang cố hết sức đi thật
xa nước các ông.
Phóng viên một tờ báo công giáo nói:
- Người Pháp hầu hết đều là người công giáo, cũng như người
Colombia chúng tôi vậy.
- Có thể các người đều được rửa tội theo công giáo, nhưng cách
xử sự của các người ít có ǵ giống với cách xử sự của người thờ
Chúa.
- Thế anh trách cứ chúng tối những ǵ?
- Các người là những kẻ cộng tác với bọn cai ngục đang săn đuổi
chúng tôi. Hơn nữa các người làm chính cái việc của bọn họ. Các
người đă tước đoạt chiếc thuyền của chúng tôi với tất cả những
đồ đạc thuộc quyền sở hữu của chúng tôi, mà đó lại là quà tặng
của những người công giáo trên đảo Curacao được Đức Giám mục
Irénée de Bruyne tôn quư đại diện. Chúng tôi không thể chấp nhận
rằng các người không chịu để cho chúng tôi t́m cách tự phục hồi,
và tệ hơn nữa các người không cho chúng tôi đi tiếp bằng phương
tiện của chính chúng tôi để t́m đến một đất nước nào có thể thừa
nhận khả năng đó. Điều này th́ không ai có thể dung thứ được.
- Các anh oán trách người Colombia chúng tôi ư?
- Không phải bản thân người Colombia, mà cái hệ thống luật pháp
và công an của họ.
- Anh muốn nói ǵ?
Tôi muốn nói rằng mọi sai lầm đều có thể sửa lại khi người ta
muốn. Các người hăy để cho chúng tôi ra đi bằng đường biển đến
một nước khác.
- Chúng tôi sẽ cố gắng đ̣i quyền đó cho các ông.
Khi chúng tôi trở ra sân Maturette nói với tôi:
- Đấy? Anh hiểu rồi chứ? Lần này th́ không c̣n ảo tưởng ǵ nữa
anh ạ! Chúng ḿnh đă nằm trên chảo, và nhảy xuống chẳng dễ ǵ
đâu.
- Các bạn ơi, tôi không biết là nếu hợp quấn lại chúng ta có
mạnh hơn không, nhưng tôi xin nói với các bạn rằng mỗi người từ
nay có quyền muốn làm ǵ th́ làm. C̣n tôi, nhất định tôi phải
vượt ngục ra khỏi cái nhà tù số “80” trứ danh này.
Hôm thứ năm họ gọi tôi ra pḥng tiếp khách trong nhà thờ. Tôi
trông thấy một người ăn mặc sang trọng trại bốn mươi lăm tuổi.
Tôi càng nh́n càng thấy giống Louis Dega lạ lùng.
- Anh là Papillon phải không?
- Vâng.
- Tôi là Joseph, em trai của Louis Dega. Tôi có đọc báo, cho nên
bây giờ tôi đến thăm anh.
- Cám ơn.
- Anh có gặp anh tôi ở bên ấy không? Anh có quen anh ấy không?
Tôi kể lại cho Joseph nghe câu chuyện của Dega cho đến ngày hai
chúng tôi chia tay ở bệnh viện. Anh ta cho tôi biết rằng Louis
bây giờ đang ở Quần đảo Salut: anh ta biết tin này nhờ một bức
thư gửi từ Marseille. Khách đến thăm tù ở nhà thờ của trại giam
là vào ngày thứ năm và ngày chủ nhật. Joseph nói với tôi rằng ở
Baranquilla có độ mươi, mười hai người Pháp đem vợ con sang đây
để t́m cách làm giàu. Họ đều làm nghề trùm điếm. Trong một khu
vực riêng của thành phố có khoảng gần hai mươi gái điếm đang duy
tŕ cái truyền thống cao cả của nước Pháp về nghệ thuật măi dâm
trang nhă và khôn khéo. ở đây cũng vẫn những kiểu người đàn ông
và đàn bà đúng hệt như từ Le Caire đến Liban, từ nước Anh đến
nước úc, từ Buenos-Aires đến Caracas, từ Sài G̣n đến
Brazzaville, đang truyền bá trên khắp trái đất cái nghề chuyên
môn xưa cũ như nhân loại: nghề măi dâm và cách sử dụng nghề này
để sống sung túc. Joseph Dega cho tôi biết một điều thật hay ho:
mấy ông trùm điếm ở người Pháp ở Baranquilla đang lo lắng. Họ sợ
rằng chúng tôi đến ở nhà tù của thành phố này sẽ kinh động đến
sự yên ổn của họ, làm phương hại đến cái ngành thương mại đang
phồn vinh của họ. Quả nhiên, nếu trong chúng tôi có người vượt
ngục, cảnh sát sẽ đến t́m những người đó trong các “casetas” của
mấy cô điếm người Pháp, dù người vượt ngục không bao giờ đến nhờ
cậy ǵ các cô hay các ông trùm cả. Hậu quả gián tiếp là công an
có thể phát hiện ra khá nhiều điều: giấy tờ giả mạo, giấy phép
cư trú quá hạn hay mất hiệu lực. Đi t́m chúng tôi sẽ đưa đến
những cuộc kiểm tra căn cước và quyền cư trú. Trong khi đó có
những người đàn bà và cả những người dàn ông nữa mà nếu bị lộ
th́ có thể phiền to.
Như thế là tôi đă được thông báo kỹ t́nh h́nh. Joseph Dega nói
thêm rằng anh ta sẵn sàng giúp đỡ tôi bất cứ việc ǵ, thứ năm và
chủ nhật nào anh cũng sẽ vào thăm tôi. Tôi cảm ơn con người tốt
bụng ấy: về sau anh ta đă cho tôi thấy rơ rằng, theo các báo,
nhà chức trách Colombia đă chính thức đồng ư trao trả chúng tôi
cho nước Pháp.
Tôi gọi các bạn lại.
- Thưa các Ngài. Tôi có rất nhiều điều cần thưa lại các Ngài.
- Ǵ thế - Cả năm cùng đồng thanh thốt lên một lượt
- Trước hết là đừng có ảo tưởng. Việc trao trả đă quyết định
xong xuôi. Một chiếc tàu đặc biệt của Guyane thuộc Pháp sẽ đến
đây chở chúng ta về trại khổ sai. Thứ đến là sự có mặt của chúng
ta gây ra nhiều lo âu cho mấy ông trùm đĩ đồng hương với chúng
ta đă lập nghiệp trong thành phố này. Không phải cái ông vừa đến
thăm tôi đâu. Ông này th́ cóc cần. Nhưng các bạn đồng nghiệp của
ông ta sợ rằng một người trong chúng ta vượt ngục th́ họ sẽ gặp
phải nhiều phiền hà.
Cả bọn cười phá lên. Họ tưởng tôi nói đùa. Clousiot nói:
- Thưa ngài ma-cô Jean Mỗ, xin ngài vui ḷng chuẩn y cho tôi
vượt ngục, có được không ạ?
- Thôi đừng giỡn nữa. Nếu mấy con đĩ có đến thăm ta, phải báo nó
đừng đến nữa. Đồng ư chứ?
- Đồng ư.
Như tôi đă nói, trong sân của chúng tôi có khoảng một trăm tù
nhân người Colombia. Họ tuyệt nhiên không phải là những thằng
ngốc. Có nhiều tay thứ thiệt: kẻ trộm ưu tú, chuyên gia làm bạc
giả, giấy giả, những tên bịp bợm tinh xảo, những tên chuyên cướp
của có vũ khí những tên buôn lậu ma túy mà mấy tên sát nhản
chuyên nghiệp đă nhờ kinh nghiệm phong phú mà trở thành điêu
luyện trong cái nghề này, một nghề rất tầm thường ở Châu Mỹ. ở
đây những kẻ giàu có, các chính khách và các phần tử lưu manh đă
thành đạt đều thuê những tên sát nhân chuyên nghiệp này làm việc
cho họ.
Màu da của họ rất khác nhau. Từ trước da đen nhánh của người
Sénégalais đến nước da màu lá trà của người Créoles ở Martinique
thuộc Pháp; từ màu gạch của người Anh-điêng thuộc chủng tộc
Mongoloid với bộ tóc trơn màu đen có ánh tím đến màu da trắng
thuần chủng. Tôi thử bắt liên lạc với họ, t́m hiểu khả năng và ư
chí vượt ngục của một vài cá nhân được chọn lọc kỹ càng. Phần
đông những người đó đều như tôi: v́ bị xử dài hạn hoặc sợ bị xử
dài hạn, họ sống trong tư thế luôn sẵn sàng vượt ngục.
Trên chớp bốn bức tường của khoảng sân h́nh chữ nhật này có một
con đường tuần tra ban đêm thắp đèn rất sáng, ở mỗi góc tường
đều có một cái cḥi canh nhỏ có một tên lính gác đứng ở trong.
Như vậy đêm ngày lúc nào cũng có bốn tên lính canh thường trực,
cộng thêm một tên nữa đứng trong sân, ở cạnh cửa nhà thờ. Tên
này không cầm vũ khí. Thức ăn khá đầy đủ, và có nhiều tù nhân
bày bán những món ăn và những món uống như cà phê hay nước ngọt
làm bằng các thứ quả vùng này: cam, dứa, đu đủ, v.v... mua từ
bên ngoài vào. Thỉnh thoảng mấy gă tiểu thương này lại bị một vụ
cướp bằng vũ lực được thực hiện một cách nhanh chóng lạ thường.
Chưa kịp thấy có ai đến th́ họ đă bị trùm lên một tấm khăn lớn
không sao kêu cứu được nữa, kèm theo đấy là một mũi dao gí vào
sườn hay vào cổ, chỉ cần nhúc nhích một cái là bị đâm sâu vào
thịt. Nạn nhân bị lột hết số tiền thu được trước khi có th́ giờ
hiểu được việc ǵ đă xảy ra. Khi tấm khăn được bỏ ra th́ đồng
thời cũng có một quá đấm nện vào gáy. Không bao giờ có ai hở
miệng nói ǵ sau khi sự việc đă xảy ra. Đôi khi người bán hàng
“đóng cửa hiệu” nghĩa là cất hết những thứ hàng đang bán, và ḍ
xem ai đă cướp ḿnh. Nếu hắn ḍ ra được th́ sẽ có một trận huyết
chiến, bao giờ cũng dùng dao.
Hai tên kẻ trộm Colombia đến gặp tôi để bàn việc. Tôi lắng nghe
họ rất chăm chú. Theo họ th́ trong thành phố có những tên cảnh
sát đồng lơa với kẻ trộm. Mỗi khi đến phiên tuần pḥng của họ
trong một khu vực nào đấy, họ báo cho đồng lơa biết để đến hành
nghề trong khu vực này.
Hai người khách của tôi biết hết những tên cảnh sát này và nói
với tôi rằng nếu trong tuần này không có một trong những tên
cảnh sát đó đến gác cửa nhà thờ th́ thật là không may. Tôi phải
làm sao có được một khẩu súng ngắn, do một người khách vào thăm
đưa lén cho. Tên cảnh sát kiêm kẻ trộm kia sẽ dễ dàng nhận lời
giả vờ bị chúng tôi bắt phải gơ vào cánh cửa sau của nhà thờ dẫn
vào một trạm gác nhỏ gồm có bốn hay sáu tên lính canh. Trong lúc
bất ngờ, bị chúng tôi chĩa súng vào mặt, bọn này sẽ phải để cho
chúng tôi chạy ra đường. Lúc bấy giờ chỉ c̣n có việc trà trộn
vào những người qua đường đi lại tấp nập ở đoạn này.
Tôi không thấy vừa ḷng lắm với kế hoạch này.
Muốn đưa một khẩu súng ngắn vào tù, đó phải là một khẩu súng cỡ
rất nhỏ, tối đa là một khẩu 6,35. Một khẩu súng nhỏ như vậy rất
có thể không đủ sức làm cho bọn lính gác hoảng sợ. Hoặc giả một
trong bọn chúng có thể có một phản ứng bất giờ và chúng tôi sẽ
đành phải giết hắn. Tôi từ chối.
Không phải chỉ có tôi đứng ngồi không yên v́ khát khao hành
động, mà các bạn tôi cũng vậy. Chỉ có chỗ khác nhau là thỉnh
thoảng, trong những ngày buồn nản, họ có khi đành ḷng chấp nhập
rằng chiếc tàu đến chở chúng tôi sẽ gặp được chúng tôi c̣n ở
trong nhà tù. Từ đó đến chỗ chịu thua không xa. Thậm chí họ c̣n
bàn bạc xem thử về đến trại chúng tôi sẽ bị xử lư ra sao, phải
chịu những h́nh phạt ǵ.
- Tôi không thể nghe nổi những câu chuyện ngu xuẩn của các cậu.
Khi nào các cậu muốn nói muốn bàn đến cái thứ tương lai ấy, các
cậu chớ để tôi nghe thấy, hăy kéo nhau ra một góc nào đấy mà
bàn. Miễn đừng có lôi cái số phận mà các cậu nói tới chỉ có thể
chấp nhận được nếu chúng ta đều là những kẻ tàn phế bất lực Các
cậu đă tàn phế cả rồi sao? Trong đám các cậu có cậu nào bị
thiến? Nếu có th́ cho tôi hay. V́ tôi nói cho các cậu biết: khi
tôi nghĩ đến vượt ngục, th́ đó là vượt ngục cho cả bọn. Tôi nghĩ
đến long óc ra để thu xếp cách vượt ngục chỉ v́ tôi muốn cả bọn
chúng ḿnh cùng vượt ngục. Sáu người cùng vượt ngục không phải
là chuyện dễ. V́ nếu chỉ mỗi một ḿnh tôi th́ khi thấy cái ngày
ấy đă quá gần mà ḿnh chưa làm được ǵ cả, tôi rất dễ giải
quyết: tôi giết một tên cảnh sát Co-lom-bia để kéo dài thời
gian. Tôi mà giết một tên cảnh sát th́ họ không đời nào lại trao
trả tôi cho nhà chức trách Pháp. Lúc bấy giờ tôi sẽ có th́ giờ
rộng răi. Và v́ trong trường hợp này tôi vượt ngục một ḿnh, cho
nên mọi sự sẽ dễ dàng hơn.
Hai người tù Colombia chuẩn bị một kế hoạch khác, cũng khá tinh
xảo. Sáng chủ nhật vào giờ xem lễ, nhà thờ bao giờ cũng đầy
những tù nhân và những người khách vào thăm. Lúc đầu mọi người
cùng xem lễ rồi khi buổi lễ đă xong, trong nhà thờ chỉ c̣n lại
những tù nhân có khách đến thăm. Hai người Colombia yêu cầu tôi
chủ nhật tới sẽ vào nhà thờ xem lễ để nắm vững cách diễn biến và
thu xếp chương tŕnh hành động cho chủ nhật sau. Họ đề nghị tôi
đứng ra làm người cầm đầu cuộc nổi loạn. Nhưng tôi từ chối cái
vinh dự ấy: tôi chưa biết được thật kỹ những người sẽ cùng hành
động.
Tôi nắm vững được trong tay bốn tù nhân Pháp.
Anh chàng người Bretange và anh chàng “Bàn là” không đồng ư tham
gia. Cũng chẳng sao, họ chỉ có việc đừng đến nhà thờ. Đến ngày
chủ nhật, chúng tôi, tức bốn người trong cuộc, sẽ đến dự buổi
xem lễ. Cái nhà thờ này h́nh chữ nhật. Trong cùng là bàn thờ; ở
khoảng giữa nhà thờ, mỗi bên có một cái cửa mở ra sân. Cửa chính
đưa thẳng vào trạm gác. Cửa này có một dăy chấn song, ở bên kia
là đội gác, gồm khoảng hai mươi cảnh binh. Cuối cùng, sau lưng
họ là cửa ra phố.
V́ trong mỗi buổi lễ, nhà thờ bao giờ cũng đông nghịt, bọn lính
gác mở chấn song và xếp hàng sát cạnh nhau đứng chắn cửa trong
suốt buổi lễ. Trong số những người khách vào thăm tù nhân sẽ có
hai người đồng lơa và mấy người khác giấu vũ khí trong người. Đó
là mấy người đàn bà mang những khẩu súng ngắn buộc vào phía
trong bắp vế. Khi mọi người đă vào trong nhà thờ, họ sẽ tuồn
súng cho hai người đàn ông kia. Đó sẽ là hai khẩu súng cỡ to, 38
hay 45. Người tù đứng đầu cuộc nổi loạn sẽ nhận được một khẩu
súng ngắn từ tay một người đàn bà, và người này sẽ lập tức ra
khỏi nhà thờ. Hễ cậu bé giúp lễ rung chuông lần thứ hai, cả bọn
phải hành động vào cùng một lúc. Phần việc của tôi là gí một con
dao lớn và họng viên giám đốc nhà tù Don Grégorio, nói: “Da la
orden de nos dejar, panar, sinh, te mao”. (Hăy ra lệnh bảo họ để
cho chúng tôi đi ra, nếu không tôi giết anh).
Một người khác cũng sẽ làm như vậy với ông linh mục. Ba người
kia, từ ba gốc khác nhau, sẽ chĩa súng vào mấy tên cảnh sát đứng
ở cửa chấn song của lối ṿ chính. Hễ tên nào không bỏ súng xuống
th́ phải bắn chết ngay. Những người tham cuộc không có vũ khí sẽ
ra trước. Ông linh mục và ông giám đốc sẽ được dùng làm b́nh
phong cho hậu quân. Nếu mọi việc diễn biến một cách b́nh thường,
tốp cảnh sát đều sẽ bỏ súng xuống đất. Những tù nhân có súng
ngắn sẽ lùa họ vào nhà thờ. Chúng tôi sẽ ra ngoài, sau đó đóng
cửa chấn song trước, rồi đến cánh cửa gỗ. Căn pḥng dùng làm
trạm canh sẽ bỏ trống v́ cả tốp cảnh sát đều phải đứng dự buổi
xem lễ. ở bên ngoài, cách đây năm mươi mét, sẽ có một chiếc xe
tải đậu sẵn, phía sau có móc một cái thang nhỏ để lên xe thật
nhanh. Chiếc xe tải sẽ khởi hành sau khi người đứng đầu cuộc nổi
loạn lên xe. Người này sẽ lên xe sau cùng. Sau khi dự một buổi
xem lễ, tôi đồng ư với kế hoạch này. Mọi việc đều diễn ra như
Fernando đă miêu tả.
Joseph Dega sẽ không vào thăm chúng tôi vào chủ nhật tới. Anh ta
biết rơ tại sao. Anh ta sẽ chuẩn bị một chiếc xe tắc-xi giả để
cho chúng tôi khỏi phải lên xe tải, và sẽ đưa chúng tôi đến một
chỗ trống cũng là do anh ta chuẩn bị. Suốt tuần ấy tôi ở trong
một t́nh trạng kích thích cao độ và rất nóng ḷng chờ lúc hành
động. Fernando đă t́m cách có được một khẩu súng lục bằng một
phương tiện khác. Đó là một khẩu 45 của quân Cảnh vệ Colombia,
một vũ khí rất đáng sợ. Đến thứ năm, một cô gái trong nhóm “chị
em” của Joseph vào thăm tôi. Cô ta rất ḥa nhă ân cần, và cho
tôi biết rằng chiếc tắc-xi sẽ đón chúng tôi là một chiếc xe sơn
màu vàng, chúng tôi sẽ không thể nhầm lẫn được. O K., cám ơn.
- Chúc các anh may mắn.
Cô ta hôn lên hai má tôi một cách dịu dàng và không khỏi có phần
xúc động.
- En tra, en tra (mời vào, mời vào). Hăy vào cho chật ngôi nhà
thờ này để lắng nghe tiếng nói của Chúa, ông linh mục nói.
Clousiot đă sẵn sàng từ đầu đến chân. Maturette hai mắt sáng
long lanh, c̣n người kia không rời tôi một tấc. Rất điềm tĩnh,
tôi đứng vào chỗ đă định. Don Grégorio, viên giám đốc nhà tù,
ngồi trên một chiếc ghế tựa bên cạnh một bà béo. Tôi đứng sát
đường. Bên phải tôi là Clousiot, bên trái tôi là hai bạn kia,
đều ăn mặc tử tế để đến khi ra đường không bị người ta để ư. Con
dao của tôi đă mở sẵn, được áp sát vào cánh tay phải bằng một
sợi dây thun và khuất hắn trong ống tay áo sơ-mi ka-ki cài kỹ ở
cổ tay. Bây giờ phải chờ đến lúc “nâng ḿnh thánh”, khi mọi
người cúi đầu xuống như thể để t́m một cái ǵ ở dưới đất, và cậu
bé giúp lễ sau khi rung chuông rất nhanh, sẽ cho nghe ba hồi
chuông tách bạch. Hồi chuông thứ hai là hiệu lệnh của chúng tôi,
mỗi người đều biết rơ lúc ấy ḿnh phải làm ǵ.
Hồi chuông thứ nhất, hồi thứ hai... Tôi lao vào Don Grégorio,
con dao dí sát cái cổ to và nhăn nheo của ông ta. Ông linh mục
kêu: “Misericordia, no me ma ta (Xin tha cho, đừng giết tôi)” và
tuy không nh́n thấy, tôi nghe rơ ba người kia ra lệnh cho bọn
lính gác bỏ súng xuống. Mọi việc đều trôi chảy. Tôi nắm chặt cái
cổ áo bộ com-lê rất đẹp của Don Grégorio, nói: Sigua y no tengas
miedo, no te ha ré dao. (Theo tôi và đừng sợ, tôi không làm ǵ
ông đâu). Ông linh mục được giữ yên bằng một con dao cạo dí sát
họng, gần nhóm chúng tôi. Fernando nói: vamos, Francès, vamos a
la salida. (Ta đi thôi, anh bạn Pháp, ra cửa đi).
Ḷng khấp khởi v́ niềm vui đắc thắng, tôi xua các bạn về phía
cửa dẫn ra đường, th́ bỗng nhiên có hai tiếng súng nổ cùng một
lúc. Fernando gục xuống, và một trong những người có súng cũng
ngă lăn ra Tôi vẫn tiến thêm được một thước nữa, nhưng lúc bấy
giờ bọn lính gác đă đứng dậy và giơ súng chặn lại. May thay giữa
họ với chúng tôi có mấy người đàn bà, nên họ không dám bắn. Lại
hai phát súng trường nữa, sau đó là một phát súng lục. Người bạn
có súng thứ ba của chúng tôi vừa bị bắn chết sau khi đă bịp bắn
một phát hú họa làm bị thương một người con gái. Don Grégorio
mặt xanh như tàu lá, nói với tôi:
- Đưa dao đây.
Tôi đưa dao cho ông ta. Tiếp tục đánh nhau chẳng có ích ǵ.
Trong khoảng không đầy nửa phút t́nh thế đă bị đảo ngược lại.
Hơn một tuần sau tôi được biết rằng cuộc nổi loạn đă thất bại v́
một tù nhân thuộc một sân khác lúc bấy giờ đứng ở ngoài nhà thờ
để xem mọi người làm lễ. Ngay những giây đầu tiên chúng tôi hành
động, hắn đă báo cho bọn lính canh ở trên thành. Những tên này
đă nhảy từ trên bức tường cao hơn sáu mét này xuống sân, hai tên
nhảy xuống hai bên nhà thờ, rồi qua những chấn song cửa hai cửa
ngang, họ bắn vào hai người đang đứng trên một chiếc ghế dài
chĩa súng vào tốp cảnh sát. Sau đó vài giây họ lại bắn gục người
thứ ba lúc bấy giờ đi qua tầm bắn của họ. Sau đó là một cuộc
“corrida”* (*trận đấu ḅ tót, trong đó những người đấu ḅ
(toreadores) phải giết chết con ḅ) ngoạn mục. Tôi lúc bấy giờ
đang đứng cạnh viên giám đốc bắt ông ta ra lệnh này nọ. Rốt cục
mười tù nhân trong đó có bốn chúng tôi bị xích lại và nhốt vào
xà lim, chỉ được ăn bánh ḿ với nước lă.
Don Grégorio đă tiếp Joseph Dega. Ông ta cho gọi tôi lên nói
rằng để làm vui ḷng Joseph, ông ta sẽ cho tôi trở ra sân cùng
với các bạn tôi. Nhờ có Joseph, mười ngày sau cuộc nổi loạn, tất
cả chúng tôi đều được trở về khoảng sân cũ và cùng được giam
chung trong pḥng giam trước kia. Khi về đến pḥng giam, tôi yêu
cầu các bạn im lặng vài phút để tưởng nhớ đến Fernando và hai
người bạn của anh ta đă chết trong khi hành động. Trong một buổi
vào thăm Joseph cho tôi biết rằng anh ta đă tổ chức một cuộc
quyên tiền, và trong giới trùm điếm anh ta đă thu được năm ngàn
pesos để đút cho Don Grégorio. Cử chỉ này làm cho chúng tôi có
phần coi trọng bọn trùm điếm hơn trước chút ít. Bây giờ tôi sẽ
làm ǵ? Biết phát minh ra cách ǵ khác đây? Chẳng lẽ tôi lại
chịu thua và đợi chuyến tàu kia mà không hành động ǵ cả hay
sao?
Nằm trong pḥng rửa mặt chung, tránh được ánh nắng gay gắt, tôi
có thể kín đáo theo dơi cách thức đi lại của bọn lính canh trên
con đường tuần tra. Ban đêm cứ mười phút họ lại lần lượt gọi
nhau: “Lính canh, hăy coi chừng.” Làm như vậy viên chỉ huy đội
canh có thể kiểm tra xem trong bọn tên lính canh có tên nào ngủ
không. Nếu có ai không trả lời, người kia gọi lại cho đến khi
hắn trả lời mới thôi.
Tôi tưởng đă t́m được một chỗ sơ hở. Số là ở mỗi cḥi canh đặt ở
bốn góc đường đi tuần đều có treo một cái lon buộc vào một sợi
dây. Khi một người lính canh muốn uống cà phê, hắn gọi người
cafetero đến rót cho hắn một hay hai chén cà phê vào lon, rồi
kéo dây lên mà uống. Cái cḥi canh ở cuối sân bên phải hơi nhô
ra phía sân một chút. Tôi tự nhủ là nếu tôi có được một cái móc
to buộc vào đầu một sợi dây đan, nó sẽ có thể mắc vào cái cḥi
canh ấy một cách dễ dàng. Chỉ trong mấy giây tôi có thể vượt qua
bức tường trông ra đường. Vấn đề duy nhất là làm sao vô hiệu hóa
được tên lính canh. Bằng cách nào?
Tôi trông thấy tên lính canh đứng dậy đi mấy bước trên con đường
tuần tra. Tôi thấy h́nh như hắn nóng quá không chịu nổi và đang
ra sức chống lại cơn buồn ngủ. Thôi đúng rồi, phải làm thế nào
cho hắn ngủ? Trước hết tôi sẽ đang sợi dây, và nếu kiếm được một
cái móc chắc chắn, tôi sẽ t́m cách làm cho hắn ngủ và cố thể
phen nữa. Trong hai ngày một sợi dây dài gần bảy mét đă được tết
bằng tất cả những chiếc áo sơ- mi bằng vải bền mà chúng tôi kiếm
được, nhất là những chiếc áo bằng vải ka-ki. Cái móc th́ t́m
tương đối dễ, đó là thanh sắt đỡ một cái mái hiên lắp ở cửa các
pḥng giam cho mưa khỏi hắt vào. Joesph Dega đă đem đến cho tôi
một chai thuốc ngủ rất mạnh. Theo lời chỉ dẫn th́ mỗi lần chỉ
được uống mười giọt. Cái chai đựng gần mười th́a xúp lớn. Tôi
t́m cách làm cho tên lính canh chịu uống cà phê của tôi biếu và
quen dần với việc ấy. Hắn tḥng cái lon xuống, tôi rót cho hắn
mỗi lần ba cốc cà phê. V́ dân Colombia đều hay rượu, mà thứ
thuốc ngủ kia lại có vị giống như rượu hồi, cho nên tôi nhờ kiếm
một chai rượu hồi. Tôi nói với tên lính canh:
- Anh muốn uống cà phê pha kiểu Pháp không?
- Nó là thế nào.
- Có cho cả rượu hồi vào đấy.
- Để thử xem, cho tôi nếm đă.
Nhiều tên lính canh đă được nếm mùi cà phê rượu hồi của tôi. Bây
giờ mỗi lần tôi mời cà phê họ đều nói: “kiểu Pháp nhé!”.
- Có ngay. - Tôi cứ thế rót rượu hồi vào.
Giờ G đă đến. ấy là vào giữa trưa một ngày thứ bảy. Trời nóng
kinh khủng. Các bạn tôi biết không thể nào có th́ giờ cho hai
người vượt qua tường được, nhưng một người tù Colombia có một
cái tên A-rập là Ali nói với tôi là hắn sẽ trèo sau tôi. Tôi
đồng ư. Tôi đi với anh này th́ các bạn tôi khỏi bị nghi là đồng
lơa và khỏi bị phạt về sau. Mặt khác tôi không thể cầm sẵn dây
và móc được v́ tên lính canh có đủ th́ giờ quan sát tôi trong
khi tôi chuyển cà phê lên. Theo ư kiến chung của các bạn tôi,
nội trong năm phút hắn phải bị đo ván.
Lúc bấy giờ đă đến “kém năm”. Tôi gọi tên lính canh.
- Thế nào?
- Vẫn thế thôi.
- Anh có uống cà phê không?
- Có pha kiểu Pháp ấy, ngon hơn.
- Đợi tí nhé, có ngay đấy.
Tôi đến cafetero: “Hai cà phê”. Trong cái lon của tôi đă rót sẵn
cả chai thuốc ngủ. Nếu uống chừng ấy mà sau năm phút hắn không
lăn đùng ra th́ thật hết chỗ nói! Tôi đến góc tường và hắn trông
thấy tôi rót rượu hồi vào lon rơ rành rành.
- Uống tí nhé?
- ừ!
Tôi rót thêm chút nữa, rồi trút cả sang lon của hắn. Hắn lập tức
kéo lên.
Năm phút, mười, mười lăm, hai mươi phút trôi qua! Hắn vẫn chưa
ngủ. Tệ hơn nữa, đáng lẽ ngồi xuống th́ hắn lại cầm súng đi đi
lại lại một lát. Thế mà hắn đă uống hết sạch chứ không phải
không. Đến một giờ trưa đă đổi gác rồi.
Như ngồi trên đống than hồng, tôi theo dơi từng cử động của hắn.
Không có dấu hiệu ǵ thấy hắn đă thấm thuốc. à! hắn vừa vấp chân
một cái. Hắn ngồi xuống trước cḥi canh, khẩu súng trường chống
giữa hai chân. Đầu hắn nghiêng sang một bên. Các bạn tôi và hai
ba người tù Colombia biết chuyện cũng đang theo dơi những phản
ứng của hắn một cách mải mê không kém ǵ tôi.
- Nào bắt đầu đi, - tôi nói với gă người Colombia.
- Dây đâu!
Anh ta đang sửa soạn ném dây th́ tên lính canh đứng dậy, để khẩu
súng rơi xuống đất, vươn vai rồi co chân bước mấy bước tại chỗ.
Gă người Colombia ngừng lại vừa đúng lúc. Chỉ c̣n mười tám phút
nữa là đến giờ đổi gác. Tôi thầm cầu cứu Chúa: “Lạy Chúa giúp
chúng tôi một lần nữa! Tôi van Chúa đừng bỏ rơi tôi!” Nhưng tôi
kêu măi vẫn chẳng thấy ǵ: cái ông Chúa của người Cơ đốc giáo
nhiều khi cũng ít thông cảm với người ta lắm, nhất là đối với
tôi, một người vô thần.
Clousiot lại gần tôi nói:
- Thế này th́ thật! Đến bây giờ mà thằng kia vẫn chưa ngủ th́ là
thật!
Tên lính canh định cầm súng lên nhưng lúc cúi xuống nhặt khẩu
súng hắn bỗng ngă nhào ra đường tuần tra, như thể bị sét đánh.
Gă người Colombia ném cái móc lên, nhưng nó lại trượt xuống. Anh
ta ném lần nữa. Lần này th́ mắc. Anh ta kéo xuống mấy cái để xem
thử đă chắc chưa. Tôi cũng kiểm tra lại một lần nữa và khi tôi
đạp chân vào tường và co tay lại để leo lên, Clousiot nói:
- Coi chừng Nó đến đổi gác kia ḱa.
Tôi vừa kịp rút lui trước khi bị họ nh́n thấy. Được sự thôi thúc
tự nhiên của bản năng tự vệ và bản năng đoàn kết của những người
tù, một tốp tù nhân Co-lom-bia, khoảng mươi người, chạy đến vây
quanh lấy tôi, tôi liền trà trộn vào bọn họ. Chúng tôi đi dọc bờ
tường, để mặc sợi dây lủng lẳng ở phía sau. Một tên cảnh sát
trông đội đến đổi gác đă trông thấy cái móc và tên lính canh nằm
sấp bên cạnh khẩu súng. Hắn chạy hai ba bước đến ấn vào nút c̣i
bóng động, yên chí rằng vừa xảy ra một cuộc vượt ngục. Người ta
đưa cáng đến khiêng tên lính đang ngủ. Bây giờ có đến hơn hai
chục tên cảnh sát trên đường tuần tra. Don Grégorio cũng có mặt
trong đám ấy. Ông ta ra lệnh kéo sợi dây lên. Cái móc đang nằm
trong tay ông ta. Một lát sau bọn cảnh sát đă vây quanh sân,
súng chĩa và các tù nhân. Họ bắt đầu gọi tên. Gọi đến tên ai th́
người ấy phải trở về buồng giam. Lạ thay! Không thiếu ai cả. Họ
liền lấy khóa khóa trái các buồng giam lại.
Lại điểm danh lần thứ hai, và kiểm tra từng buồng. Không, không
có ai mất tích cả. Đến ba giờ, họ lại cho chúng tôi ra sân.
Chúng tôi được biết rằng tên lính canh kia hiện đang ngáy như
sấm, và tất cả các biện pháp được đem ra dùng không sao đánh
thức hắn dậy được: người đồng lơa Colombia của tôi cũng thất
vọng không kém ǵ tôi. Vừa qua anh ta tin chắc mười phần thế nào
cũng thành công! Anh ta lớn tiếng chửi bới các thứ hàng Mỹ, v́
thuốc ngủ vừa rồi là thuốc Mỹ.
- Biết làm thế nào bây giờ?
- Làm lại chứ c̣n thế nào nữa! - Tôi chỉ biết trả lời có thế.
Anh ta tưởng tôi muốn nói là phải t́m cách đánh thuốc ngủ một
tên lính canh một lần nữa. Thật ra tôi đang nghĩ là phải t́m một
cách khác.
Anh ta nói:
- Anh tưởng là bọn cảnh sát ấy ngu đến nỗi sẽ có một thằng nữa
chịu uống cà phê theo kiểu Pháp à? Mặc dầu không khí lúc bấy giờ
thật bi đát, tôi vẫn không sao nhịn cười được.
- Chắc chắn là sẽ có chứ!
Tên lính canh đă ngủ ba ngày và bốn đêm. Đến khi hẳn thức dậy,
dĩ nhiên hắn báo cáo là chính tôi đă đánh thuốc ngủ cho hắn khi
tôi cho hắn uống cà phê pha theo kiểu Pháp. Don Grégorio cho gọi
tôi lên để đối chất với hắn. Viên chỉ huy đội lính canh rút gươm
định đánh tôi. Tôi nhảy lùi vào góc pḥng và thách thức hắn. Hắn
giơ cao gươm lên, Don Grégorio xông vào can liền bị một nhát
sống gươm vào vai. Ông ta gục xuống, xương đ̣n gánh găy làm đôi.
Ông ta kêu to đến nỗi viên sĩ quan kia chỉ c̣n quan tâm đến ông
ta. Hắn đỡ ông ta dậy. Don Grégorio kêu cứu om ṣm.
Từ các pḥng giấy bên cạnh, tất cả các nhân viên dân sự đều chạy
sang. Thế là nổ ra một cuộc ẩu đả giữa viên sĩ quan, hai viên
cảnh sát khác và tên lính canh đă bị tôi đánh thuốc ngủ với
khoảng một chục viên chức dân sự đang muốn trả thù cho ông giám
đốc. Trong cuộc “tangana” này, nhiều người bị thương nhẹ. Người
duy nhất b́nh yên vô sự là tôi. Vấn đề quan trọng bây giờ không
c̣n là trường hợp của tôi nữa mà là vụ xô xát giữa ông giám đốc
và viên sĩ quan. Khi ông giám đốc đă được trở vào bệnh viện,
người thay thế ông dẫn tôi trở ra sân:
- Việc anh sẽ được xét sau, Francés ạ.
Hôm sau viên giám đốc, vai bó bột, đến yêu cầu tôi viết một bản
khai báo tố cáo viên sĩ quan. Tôi khai lại một cách thích thú
tất cả những ǵ người ta muốn tôi khai. Họ đă quên hắn câu
chuyện thuốc ngủ. Chuyện này đối với họ không có ǵ thú vị nữa:
càng may cho tôi.
Mấy ngày sau, Joseph Dega t́nh nguyện tổ chức một cuộc vượt ngục
từ bên ngoài. V́ tôi có nói với anh ta rằng vượt ngục ban đêm là
không thể được v́ đèn thắp quanh đường đi tuần trên thành phố
rất sáng, anh ta t́m cách để cắt ḍng điện. Nhờ một thợ điện
mách bảo anh ta đă t́m ra: cần phải hạ cầu giao ở một cái trạm
biến thế ở bên ngoài nhà tù. Về phần tôi, tôi đă mua tên lính
canh ở phía đường cũng như ở cửa nhà thờ. Việc đó hóa ra phức
tạp hơn là người ta tưởng. Trước hết tôi buộc ḷng phải thuyết
phục Don Grégorio trả lại cho tôi mười ngàn Pesos lấy cớ là để
nhờ Joseph gửi cho gia đ́nh tôi, dĩ nhiên đồng thời tôi cũng
“cưỡng bách” ông ta nhận hai ngàn pesos để mua quà tặng vợ ông,
rồi sau khi đă xác định được người phân bố các phiên gác và giờ
đổi gác, lại phải mua cả người này nữa. Hắn sẽ được ba ngàn
pesos, nhưng hắn không chịu can thiệp vào những cuộc thương
lượng với hai tên lính canh kia. Một ḿnh tôi phải đi t́m họ và
thương lượng với họ. Sau đó tôi sẽ cho anh ta biết tên và anh ta
sẽ cắt phiên gác cho họ đúng vào giờ tôi yêu cầu. Công việc
chuẩn bị cho cuộc vượt ngục mới này phải mất hơn một tháng. Cuối
cùng, mọi việc đă được ấn định từng phút một. V́ không phải giữ
ǵn ǵ với tên cảnh sát gác ngoài sân, chúng tôi sẽ cưa chấn
song bằng một cái cưa kim loại có đủ bộ sậu. Tôi có ba lười cưa.
Người tù Colombia ném cái móc hôm trước đă được báo trước. Anh
ta sẽ cưa chấn song của ḿnh làm nhiều lần. Vào đêm hành động,
một người bạn của anh ta, ít lâu nay đă giả vờ điên, sẽ đánh
choang choang lên một miếng tôn kẽm và gân cổ lên hát thật to.
Anh bạn tù Colombia biết rằng tên lính canh chỉ thỏa thuận cho
hai người Pháp vượt ngục và đă nói trước rằng nếu có thêm một
người thứ ba lên thành hắn sẽ bắn. Tuy vậy anh ta vẫn muốn cầu
may và nói với tôi rằng nếu cứ theo sát nhau mà trèo th́ trong
bóng tối tên lính canh không thể trông thấy rơ là có một người
hay hai. Clousiot và Maturette đă bốc thăm để quyết định ai sẽ
cùng đi với tôi. Clousiot đă thắng.
Cái đêm không trăng mà chúng tôi chờ đợi đă đến. Viên đội và hai
viên cảnh sát đă nhận một nửa số tiền mà mỗi người được hưởng.
Lần này tôi không phải cắt đôi nữa, v́ đă có những tờ giấy bạc
được cắt đôi sẵn. Sau này họ sẽ đến lĩnh nửa c̣n lại ở Barrio
Chino, cửa hiệu của vợ Joseph Dega.
Đèn tắt. Chúng tôi cưa chấn song. Không đầy mười phút đă đứt.
Ḿnh mặc quần dài và áo sơ-mi sẫm màu, chúng tôi ra khỏi buồng
giam. Người tù Colombia ra nhập bọn khi chúng tôi đi ngang. Anh
ta chỉ mặc một cái si-líp đen. Tôi leo lên chấn song cửa của một
buồng giam xây trong tường, đi ṿng qua mái hiên, ném cái móc
buộc vào ba thước dây. Chỉ ba phút sau tôi đă đứng trên đường đi
tuần, không một tiếng động. Nằm sấp sát đất, tôi đợi Clousiot.
Đêm tối như mực. Tôi bỗng trông thấy, hay nói cho đúng hơn cảm
thấy một bàn tay giơ ra, tôi cầm lấy và kéo mạnh. Một tiếng động
khủng khiếp vang lên. Đó là v́ khi người Clousiot trườn qua giữa
mái hiên và bức tường, cái khóa thắt lưng của anh đă vướng vào
cái mái tôn. Dĩ nhiên khi nghe tiếng động tôi ngừng kéo. Tấm tôn
không kêu nữa. Tôi lại kéo Clousiot, tưởng rằng anh ta đă gỡ
được, và mặc cho tấm tôn kêu vang dội, tôi kéo thật mạnh làm cho
chỗ vướng bị bật ra, rồi lôi anh ta lên trên đường đi tuần.
Có mấy phát súng nổ từ các cḥi canh của các khu vực khác nhưng
ở khu vực chúng tôi vẫn im lặng. V́ hốt hoảng khi nghe tiếng
súng, chúng tôi nhảy xuống một con đường thấp cách bờ tường đến
chín mét trong khi đáng lẽ phải đi sang bên phải rồi nhảy xuống
một con đường khác chỉ cách có năm mét. Kết quả: Clousiot bị găy
lại chân phải. Tôi cũng không đứng dậy được: tôi bị găy xương cá
hai bàn chân. Về sau tôi sẽ biết rơ đó là hai cái xương gót
chân. Người tù Colombia bị sái một bên đầu gối. Mấy phát súng đă
làm cho đội gác đêm chạy ra phố. Họ chiếu một ngọn đèn pin lớn
vào chúng tôi và chĩa súng bắt chúng tôi đứng im. Tôi bật khóc
v́ uất ức. Tệ hơn nữa là bọn cảnh sát không chịu tin rằng tôi
không đứng dậy được. Tôi phải dùng hai đầu gối ḅ dưới hàng trăm
mũi lưỡi lê thúc vào người mà lê vào pḥng giam. Clousiot th́
nhảy ḷ c̣ một chân, người Colombia cũng vậy. Đầu tôi chảy máu
dữ dội v́ một phát báng súng.
Mấy phát súng đă đánh thức Don Grégorio đang ngủ trong pḥng
giấy: may thay, đêm hôm ấy ông ta trực ở nhà tù. Không có ông ta
họ đă đánh chết chúng tôi bằng báng súng và lưới lê rồi. Kẻ hăng
máu nhất trong khi đánh đập tôi chính là viên đội mà tôi đă đút
tiền để cắt phiên gác cho hai tên lính canh đồng lơa.
Don Grégorio chặn đứng ngay trận đánh đập dă man ấy ông đe dọa
sẽ đưa họ ra ṭa nếu họ đánh chúng tôi trọng thương. Câu thần
chú ấy làm cho họ tê liệt ngay. Hôm sau cái chân của Clousiot bó
bột ở bệnh viện. Người tù Colombia được một ông thầy lang ở tù
nắn lại đầu gối và được mang một cái băng Velpeau. Trong đêm ấy
thấy hai chân tôi sưng lên to bằng cả cái đầu, bị bầm giập đến
cùng cực, máu me bê bết, ông bác sĩ cho tôi ngâm hai chân vào
nước muối ấm, rồi sai y tá cho đỉa hút máu ba lần một ngày. Khi
đă hút máu no căng, mấy con đỉa tự rơi ra, người ta bỏ nó vào
dấm cho nó nhả máu. Vết thương ở đầu tôi phải khâu sáu mũi. Một
nhà báo khát tin cho đăng một bài báo nói về tôi. Hắn kể rằng
tôi là người đứng đầu cuộc nổi loạn ở nhà thờ, rằng tôi đă đầu
độc một tên lính canh, và cuối cùng tôi đă tổ chức một cuộc vượt
ngục tập thể có sự hỗ trợ từ bên ngoài v́ có người đă cắt điện ở
khu phố bằng cách hạ cầu giao ở trạm biến thế. “Ta hăy hy vọng
rằng ở nước Pháp sẽ cho người đến thật sớm để cho chúng ta thoát
khỏi tên gangster số 1 của họ. Hắn kết luận.
Joseph có vào thăm tôi, cùng đi với vợ là Annie. Viên đội và ba
viên cảnh sát đă đến đ̣i lĩnh nửa số tiền c̣n lại, mỗi người đến
vào một lúc khác nhau. Annie đến là để hỏi tôi xem chị ta phải
xử sự như thế nào. Tôi nói với chị là phải đưa tiền cho họ, v́
họ đă làm đúng lời cam kết. Chúng tôi thất bại không phải tại
họ.
Từ một tuần nay các bạn phải chở tôi đi dạo trong sân trên một
chiếc xe kít kít bằng sắt vốn cũng là giường nằm của tôi. Tôi
nằm trên xe, hai chân gác cao lên một tấm vải căng giữa hai
miếng ván lắp thẳng đứng trên hai càng xe. Đó là tư thế duy nhất
không làm cho tôi đau quá. Hai chân tôi, đầy ứ những máu đông
đặc, sưng to tướng, không thể đặt lên một cái ǵ hết, dù là ở tư
thế nằm. Được gác chân lên thật cao như vậy, tôi đỡ đau được một
chút. Gần mười lăm ngày sau, nó đă xẹp đi được một nửa, và người
ta cho tôi đi chiếu điện. Hai cái xương gót tôi đều găy. Suốt
đời tôi sẽ có hai bàn chân bẹt.
Tờ nhật báo ra hôm nay đăng tin là cuối tháng chuyến tàu chở đội
áp giải của cảnh sát Pháp đến nhận chúng tôi sẽ cặp bến. Chiếc
tàu tên là “Mana”, tờ báo viết như vậy. Hôm nay là ngày mười hai
tháng mười. Chúng tôi c̣n mười tám ngày nữa: bây giờ phải đánh
con bài cuối cùng. Nhưng đánh con bài ǵ với hai bàn chân găy
của tôi?.
Joseph tuyệt vọng. Hôm vào thăm, anh ta kể cho tôi nghe rằng tất
cả những người Pháp ở đây và tất cả các cô làm ở Barrio Chino
đều rất khổ tâm khi thấy tôi đă vật lộn dữ dội bấy nhiêu lâu để
dành tự do mà chỉ c̣n mười mấy ngày nữa đă bị trao trả cho nhà
chức trách Pháp. T́nh cảnh của tôi làm cho tất cả giới Pháp kiều
ở đây xao xuyến. Đó là một trợ lực tinh thần đă an ủi tôi rất
nhiều.
Tôi đă từ bỏ ngay cái dự định giết một tên cảnh sát Colombia.
Thật vậy, không có lư do ǵ tôi lại nỡ làm thiệt mạng một người
chẳng có thù oán ǵ với tôi. Tôi nghĩ rằng người ấy có thể có
một ông bố, một bà mẹ cần được nuôi dưỡng. Tôi mỉm cười khi nghĩ
rằng cần phái t́m một tên cảnh sát thật ác mà lại không có gia
đ́nh. Chẳng hạn, tôi có thể hỏi hắn: “Nếu tôi giết anh th́ có ai
thiệt hại ǵ không, có ai mất nơi nương tựa không?” Sáng hôm nay
ngày 13 tháng mười, tôi rất ủ ê chán chường. Tôi nh́n một mẫu đá
acid picric mà nếu ăn vào th́ tôi sẽ mắc bệnh hoàng đản. Nếu
người ta cho tôi nằm bệnh viện, có lẽ tôi sẽ có thể nhờ Joseph
thuê người đánh tháo tôi ra ngoài. Ngày hôm sau da tôi đă vàng
như nghệ. Don Grégorio đi ra sau thăm tôi: lúc bấy giờ tôi đang
nằm trên chiếc xe cút kít để ở một chỗ có bóng râm, hai chân gác
cao lên. Lập tức, không quanh co, không chút thận trọng, tôi tấn
công:
- Tôi biếu ông mười ngàn pesos nếu ông cho tôi nhập viện.
- Để tôi thử xem. Không phải v́ mười ngàn pesos kia, mà v́ tôi
rất phiền ḷng khi thấy anh vật vă dữ dội như vậy để t́m tự do
măi mà vẫn không được. Chỉ có điều tôi không tin rằng họ sẽ giữ
anh lại ở bệnh viện, v́ cái bài báo kia đă làm cho họ quá sợ
anh.
Một giờ sau, bác sĩ cho tôi đến bệnh viện. Tôi chưa kịp chạm đất
th́ đă được đưa ra khỏi bệnh viện ngay.
Được đưa từ trên xe cứu thương xuống trên một cái cáng, tôi được
khám rất kỹ, có xét nghiệm nước tiểu, trong khi vẫn nằm trên
cáng. Hai giờ sau họ đưa tôi trở về nhà giam.
Hôm ấy là ngày 19, một ngày thứ năm. Annie, vợ của Joseph, đến
trại giam với một cô người Corse. Họ cố đem vào cho tôi một ít
thuốc lá và bánh kẹo. Với những lời lẽ ân cần, tŕu mến của họ,
hai người đàn bà này đă đem lại cho tôi một niềm an úi lớn lao.
Đẹp đẽ nhất là sự thể hiện của t́nh bạn trong trẻo của họ, đă
thực sự biến cái ngày cay cực này thành một ngày chan ḥa ánh
nắng. Tôi sẽ không bao giờ có thể diễn đạt được hết niềm an ủi
mà t́nh đoàn kết của những người cùng giới đă đem lại cho tôi
trong thời gian bị giam ở nhà tù “80”. Tôi cũng không sao nói
hết được ḷng biết ơn của tôi đối với Joseph Dega đă không ngần
ngại giúp tôi vượt ngục, mặc dầu làm như vậy anh ta có thể đi
đến chỗ mất quyền tự do và mất phương tiện sinh sống.
Nhưng có một câu nói của Annie đă gợi cho tôi một ư hay. Trong
khi chuyện tṛ, cô nói:
- Anh Papillon, anh đă làm tất cả những ǵ mà sức con người có
thể làm được để t́m cách dành lại tự do. Số phận đối với anh
thật quá tàn nhẫn. Anh chỉ c̣n thiếu cách làm nổ tung cái nhà tù
“80” này? ừ nhỉ! Sao lại không? Tại sao tôi lại không làm nổ
tung cái nhà tù cũ kỹ này đi nhỉ? Đó sẽ là một việc rất có ích
cho dân Colombia. Nếu tôi cho nổ cái nhà tù này, may ra họ mới
quyết định cho xây một cái nhà tù mới, vệ sinh hơn.
Khi ôm hôn hai người thiếu phụ dễ thương này để vĩnh biệt họ,
tôi nói với Annie:
- Chị nói với Joseph chủ nhật vào gặp tôi nhé.
Ngày chủ nhật 22, Joseph đă có mặt.
- Joseph ạ, anh phải làm tất cả những ǵ có thề làm được để đến
thứ năm có ai đưa vào cho tôi một thỏi thuốc nổ dynamite, một
cái kíp nổ và một sợi dây ng̣i. Về phía tôi, tôi sẽ t́m cách có
được một cái khoan để khoan gạch.
- Anh sẽ làm ǵ vậy?
Tôi sẽ làm nổ bức tường của nhà tù giữa ban ngày. Anh cứ hứa trả
năm ngàn pesos cho chiếc xe tắc-xi giả hôm trước. Xe phải có mặt
trên con đường phía sau nhà tù từ tám giờ sáng đến sáu giờ
chiều, ngày nào cũng vậy. Người lái xe sẽ được năm trăm pesos
một ngày nếu không có ǵ xảy ra, năm ngàn pesos nếu có ǵ xảy
ra. Qua cái lỗ sẽ được mở trên tường khi ḿn nổ, một tù nhân
Colombia to khỏe sẽ cơng tôi ra xe, và bây giờ đến lượt người
lái xe hành động. Nếu anh ta bằng ḷng, anh hăy gửi thỏi ḿn
đến. Nếu không th́ thế là hết, không c̣n hy vọng ǵ nữa.
- Anh cứ tin vào tôi, - Joseph nói.
Đến năm giờ tôi nhờ một bạn cơng tôi vào nhà thờ. Tôi bảo là tôi
muốn cầu nguyện một ḿnh. Các bạn cơng tôi vào đấy. Tôi nhắn Don
Grégorio vào gặp tôi trong nhà thờ. Ông ta đến.
- Hombre, chỉ c̣n tám ngày nữa là anh phải ra đi.
- Chính v́ thế mà tôi nhắn ông đến đây. Ông c̣n giữ hộ tôi mười
lăm ngàn pesos. Trước khi đi tôi muốn chuyển số tiền ấy cho bạn
tôi để anh ta gửi về cho gia đ́nh tôi. Xin ông nhận cho ba ngàn
pesos, tôi xin biếu ông số tiền đó với tất cả ḷng thành v́ ông
trước sau vẫn luôn luôn che chở cho tôi đỡ bị hành hạ. Xin ông
làm ơn đưa số tiền lại cho tôi với một cuộn băng dính để từ đây
đến thứ năm tôi dán nó lại và đưa cho bạn tôi.
- Được!
Ông ta trở lại và giao cho tôi mười hai ngàn pesos vẫn c̣n bị
cắt đôi. Ông giữa lại ba ngàn.
Khi đă trở về nằm trên xe cút kít, tôi gọi người tù Colombia ra
một góc vắng vẻ, nói cho anh ta biết dự định của tôi và hỏi xem
anh ta liệu có đủ sức cơng tôi đi hai ba mươi mét ra đến xe
tắc-xi không. Anh ta cam đoan là sẽ làm được. Vậy phía này có
thể coi như xong. Tôi cứ hành động thể đă biết chắc là Joseph sẽ
thành công. Sáng ngày thứ hai tôi bảo các bạn đưa tôi ra pḥng
rửa mặt từ sớm, và bảo Maturette, người mấy hôm nay cùng với
Clousiot thay phiên nhau làm “tài xế” đấy xe cút kít cho tôi,
liền đi t́m tên đội mà tôi đă cho ba ngàn pesos và đă đánh đập
tôi dă man trong vụ vượt ngục vừa rồi.
- Trung sĩ Joseph, tôi cần nói chuyện với anh.
- Anh muốn ǵ?
- Tôi cần một cái khoan máy rất mạnh có ba tốc độ và sáu cái mũi
khoan để khoan gạch, hai cái cỡ nửa phân, hai cái cỡ một phân và
hai cái cỡ một phân rưỡi đường kính.
- Tôi không có tiền để mua.
- Năm trăm pesos đây.
Ngày mai thứ ba đến lúc đổi phiên gác một giờ trưa anh sẽ có các
thứ đó. Chuẩn bị số tiền hai ngàn pesos kia đi.
Một giờ trưa ngày hôm sau tôi đă có đủ cái thứ đó để trong cái
thùng rác rỗng ở ngoài sân - đó là một cái thùng đựng giấy lộn,
cứ mỗi lần đổi gác lại đổ một lần. Pablo, người tù Colombia vạm
vỡ, ra nhặt các thứ đồ khoan đem cất đi.
Ngày thứ năm 26 măi không thấy Joseph vào. Đến cuối buổi thăm tù
mới có người gọi tôi. Đó là một người Pháp già, nhăn nheo, do
Joseph phái đến.
- Trong ổ bánh ḿ này có thứ anh cần. Đây là hai ngàn pesos cho
người lái tắc-xi. Mỗi ngày năm trăm. Người lái tắc-xi là một ông
già Peru rất hăng. Về phía ấy anh đừng lo ǵ cả. Ciao* (*chào -
tiếng ư, gần như đă trở thành một cách chào quốc tế).
- Ciao.
Trong một cái túi giấy lớn, để cho họ đừng chú ư đến ổ bánh ḿ,
các bạn tôi đă để mấy bao thuốc lá, mấy bao diêm, một chuỗi xúc
xích hun khói, một khúc saucisson, một gói bơ và một lọ dầu
ô-liu đen. Trong khi người lính canh lục soát cái túi giấy, tôi
cho hắn một bao thuốc lá, vài bao diêm và hai cái xúc xích.
Hắn nói:
- Anh cho tôi một miếng bánh ḿ đi. Chỉ c̣n thiếu có thể nữa
thôi!
- Không, bánh ḿ th́ đi mua lấy mà ăn. Năm pesos đây, cầm lấy.
V́ từng này bánh ḿ sao đủ cho sáu người ăn.
ừ. Thật may mà thoát. Ai lại đi nảy ra cái ư cho thằng ấy ăn xúc
xích! Cái xe cút kít vội vàng lánh xa tên cảnh sát lắm chuyện
kia. Việc tên cảnh sát xin bánh ḿ đă làm cho tôi phát hoảng đến
nỗi bây giờ tôi vẫn c̣n toát mồ hôi.
- Ngày mai là ta bắn pháo hoa đấy. Mọi thứ đă đâu vào đấy, Pablo
ạ. Phải khoan lỗ đúng ở phía dưới chỗ cḥi canh nhô ra. Thằng mú
ở bên trên không thể trông thấy cậu được.
Nhưng hắn có thể nghe thấy.
- Tôi đă liệu trước việc này. Lúc mười giờ sáng, khoảng sân phía
này sẽ có bóng rợp. Phải làm sao cho một người trong cái kíp g̣
đồng đang làm việc ở nhà lao gơ búa vào một tấm đồng áp vào
tường cho thẳng cách chúng ta vài mét, ngay ngoài sân. Có hai
người càng tốt. Tôi sẽ cho họ mỗi người năm trăm pesos. Cố t́m
hai người ấy đi.
Anh ta đă t́m ra.
- Hai anh bạn của tôi sẽ gơ đồng liên tiếp. Tên lính canh sẽ
không nghe được tiếng khoan đâu. Có điều là anh với cái xe cút
kít phải ở vào một vi trí xê ra ngoài một chút, xung quanh có
mấy anh bạn người Pháp làm như đang bàn bạc việc ǵ với anh. Để
cho tên lính canh ở góc bên kia khó trông thấy tôi.
Trong một tiếng đồng hồ cái lỗ đă khoan xong. Nhờ những tiếng
búa đánh lên đồng và nhờ có một người giúp việc rót dầu lên mũi
khoan, tên lính canh không thấy ǵ khả nghi cả. Thỏi ḿn được
nhét vào lỗ ng̣i nổ được lắp vào ḿn, tḥ ra ngoài có hai mươi
phân ng̣i. Thỏi ḿn được chêm bằng đất sét. Chúng tôi lui ra.
Nếu mọi việc đều ổn, đến khi ḿn nổ trên tường sẽ có một lỗ
hổng. Tên lính canh sẽ rơi xuống cùng với cái cḥi canh và Pablo
sẽ cơng tôi chui qua lỗ hổng ra xe tắc-xi. Mấy người kia sẽ tự
lo liệu lấy.
Trên lư thuyết th́ Clousiot và Maturette dù có ra sau chúng tôi
cũng sẽ đến xe tắc-xi trước chúng tôi. Ngay trước khi châm ng̣i
Pablo báo cho một nhóm tù người Colombia biết.
- Nếu các anh muốn vượt ngục, chốc nữa sẽ có một lỗ hổng trên
tường.
- Như thế cũng tốt v́ bọn cảnh sát sẽ vướng chân, và có bắn th́
bắn những người chạy ở phía sau. Chúng tôi châm ng̣i. Một tiếng
nổ khủng khiếp làm cả khu phố rung chuyển. Cái cḥi canh rơi
xuống với cả tên lính canh. Bức tường nứt nẻ thành những khe hở
chạy ra tứ phía, hở rộng đến nỗi có thể nh́n thấy dăy phố bên
ngoài, nhưng không có một chỗ hở nào đủ rộng để một người có thể
lọt qua. Như vậy là vụ nổ dă không tạo được một đột phá khẩu cho
chúng tôi, và măi đến lúc ấy tôi mới thừa nhận rằng ḿnh đă thất
bại. Số tôi đúng là phải trở về trại khổ sai ở Cayenne. Sau
tiếng nổ, cả nhà tù nhốn nháo lên một cách không có ǵ tả xiết.
Trong sân có đến hơn năm chục tên cảnh sát. Don Grégorio hiểu
rất rơ đầu đuôi câu chuyện. Ông ta nói với tôi:
- Bueno (Tốt), Francés ạ. Lần này là lần cuối cùng, tôi chắc
thế.
Viên chỉ huy đội lính gác giận dữ điên cuồng. Hắn không thể ra
lệnh đánh đập một người bị thương nằm trên xe cút kít, trong khi
tôi, để khỏi liên lụy đến các bạn khác, cứ lớn tiếng tuyên bố
rằng chính tôi và chỉ một ḿnh tôi gây ra vụ này. Sáu tên cảnh
sát được cắt đứng canh trước cái tường nứt nẻ, sáu tên trong sân
nhà tù, sáu tên đứng ngoài đường, sẽ canh gác thường xuyên cho
đến khi thợ nề sửa xong bức tường. Tên lính gác ở trên cḥi rơi
xuống, may thay, không bị thương tích ǵ cả.
Trở
về trại khổ sai
Ba ngày sau, ngày 30 tháng mười, vào lúc mười một giờ sáng, mười
hai viên giám thị của trại khổ sai mặc quân phục trắng, đến nhận
chúng tôi. Trước khi khởi hành có một nghi lễ chính thức nho
nhỏ: mỗi người trong chúng tôi đều phải được xác định căn cước
và nhận dạng. Họ đă đem theo những tờ phiếu ảnh đạc h́nh: chụp
dấu lăn tay, đầy đủ bộ sậu, của từng người, để làm việc ấy. Sau
khi đă xác minh căn cước, viên lănh sự Pháp đến kư một văn kiện
trao cho viên chánh án của quận này là người có nhiệm vụ chính
thức trao trả chúng tôi cho nước Pháp. Tất cả những người có mặt
tại đấy đều ngạc nhiên v́ cái thái độ thân hữu của bọn giám thị
đối với chúng tôi. Không có một lời nói nặng, cũng không có lấy
một cứ chỉ thù địch. Ba người tù đă ở trại lâu hơn chúng tôi
quen với nhiều viên giám thị, họ nói chuyện và đùa cợt với mấy
gă này như với những người bạn cũ. Viên chỉ huy đội áp giải là
thiếu tá Boural rất quan tâm đến t́nh trạng của tôi, ông ta nh́n
đôi bàn chân của tôi và nói với tôi rằng lên tàu họ sẽ chăm sóc
cho tôi, rằng trong đội áp giải có một người y tá rất tốt sẽ cho
việc ấy.
Chuyến vượt biển dưới căn hầm tàu thủy rất gian khổ v́ ở đấy
nóng nực khó thở, hai chân chúng tôi lại phải cùm từng hai người
một vào những thanh sắt được dùng cho phạm nhân từ thời trại khổ
sai Toulon.
Trong chuyến đi chỉ xảy ra một việc đáng ghi lại: chiếc tàu phải
ghé Trinidad để lấy than. Khi tàu ghé vào cảng, một sĩ quan hải
quân Anh yêu cầu phái tháo cùm của chúng tôi ra. H́nh như công
pháp quốc tế cấm xích hay trói người đang đi trên tàu. Tôi đă
lợi dụng cơ hội này để tát tai một sĩ quan thanh tra Anh khác.
Tôi làm như vậy là để nhà chức trách Anh bắt tôi và đưa tôi lên
bộ. Viên sĩ quan nói với tôi:
- Tôi sẽ không bắt anh và sẽ không đưa anh lên bộ v́ cái hành
động nghiêm trọng mà anh vừa làm. Bị đưa về chỗ ấy là một trừng
phạt nặng hơn nhiều đối với anh.
Thế là tôi đă phí công vô ích. Quả thật cái số của tôi là phải
trở về trại khổ sai. Thật quá rủi ro, mười một tháng vượt ngục,
mười một tháng vật vă đấu tranh căng thắng đă kết thúc một cách
thật là thảm hại. Thế nhưng bất chấp tất cả, bất chấp cái hồi âm
vang dội của những cuộc phiêu lưu dồn dập, chuyến quay về trại
giam với tất cả những hậu quá cay đắng của nó, vẫn không thể xóa
nḥa những giờ phút khó quên mà tôi vừa sống qua.
Gần hải cảng Trinidad mà chúng tôi vừa từ giă, chỉ cách đấy mấy
cây số là nơi ở của gia đ́nh Bowen nhân hậu tuyệt vời. Tàu cũng
đă đi qua khá gần Curagac, nơi trú ngụ của một bậc vĩ nhân làm
giám mục xứ này: Irénée de Bruyne. Chắc chắn là tàu chúng tôi
cũng đă đi qua gần lănh thổ của người Anh-điêng Guajiros, nơi mà
tôi đă được biết t́nh yêu đắm say và trong sáng nhất dưới cái
h́nh thức hồn nhiên, nguyên thủy của nó. Tất cả sự trong sáng mà
chỉ có trẻ thơ mới có được, cách nh́n sự vật một cách thơ ngây
của cái tuổi diễm phúc này, tôi đều đă t́m thấy trong những
người con gái Anh-điêng đầy ư chí, có một tâm hồn giàu có về khả
năng thông cảm, về t́nh yêu đơn sơ và trong sạch.
Và những người hủi của đảo Bồ câu nữa! Những người tù khổ sai
khốn khổ bị mắc cái bệnh ghê tởm này mà vẫn c̣n đủ sức t́m thấy
trong ḷng ḿnh bấy nhiêu t́nh thương cao thượng để giúp đỡ
chúng tôi?
Cho đến viên lănh sự Bỉ với ḷng nhân hậu hồn nhiên của ông ta,
cho đến Joseph Dega, người không hề quen biết tôi mà vẫn v́ tôi
sẵn sàng làm những việc nguy hiểm cho bản thân như vậy. Tất cả
những người mà tôi đă được biết trong chuyến vượt ngục này đều
xứng đáng để cho nó được thực hiện. Tuy đổ vỡ tan tành, cuộc
vượt ngục của tôi là một chiến thắng, ít nhất là v́ nó làm cho
tâm hồn tôi phong phú thêm khi được làm quen với những con người
hiếm có đó. Không, tôi không hề hối tiếc là đă vượt ngục.
Và đây là sông Maroni với ḍng nước đục ngầu. Chúng tôi đang
đứng trên boong tàu Mana. ánh nắng nhiệt đới đă bắt đấu thiêu
đất dải đất này. Lúc bấy giờ là chín giờ sáng. Tôi thấy lại cái
cửa biển rộng mênh mông kia: chúng tôi đang từ từ tiến vào nơi
mà tôi đă ra đi với một tốc độ băo tố như vậy. Các bạn tôi im
lặng không nói. Mấy người giám thị rất hài ḷng là đă về đến
nơi. Vừa rồi biển xấu trong suốt chuyến đi, cho nên bây giờ
nhiều người trong bọn họ cảm thấy nhẹ nhơm.
16 tháng mười một 1934.
Trên bến một đám người rất đông đă tập hợp lại. Có thể cảm thấy
họ đang ṭ ṃ chờ đợi, nô nức muốn xem mặt những con người gan
góc đă dám đi xa như vậy. V́ hôm ấy là ngày chủ nhật cho nên đây
cũng là một cơ hội giải trí cho cái xă hội nhỏ này, vốn không có
nhiều phương tiện giải trí. Họ bảo nhau: Đấy cái người bị thương
là Bươm bướm. C̣n người kia là Clousiot. C̣n anh này là
Maturette... - Và cứ thế măi.
Trong trại tù, sáu trăm người được xếp hàng thành từng khối
trước mặt các lán. Cứ mỗi khối lại có mấy viên giám thị đứng
cạnh. Người đầu tiên tôi nhận ra được là Francois Sierra. Anh ta
khóc công khai, không hề giấu giếm. Anh ta đă leo lên một khung
cửa sổ của bệnh xá để nh́n thấy tôi. Có thể cảm thấy rơ rằng nỗi
đau ḷng của anh là thật. Chúng tôi dừng lại ở giữa trại. Viên
chỉ huy trại cầm loa lên nói:
- Các phạm nhân, các người có thể thấy rơ rằng vượt ngục là vô
ích. Dù các người có đến nước nào th́ cũng sẽ bị bắt lại và trao
trả cho nước Pháp. Không đâu người ta thu nhận các người. Vậy
tốt hơn cả là các người nên khuất phục và có hạnh kiểm cho tốt.
Cái ǵ đang chờ đợi năm người kia? Một h́nh phạt rất nặng mà họ
phải chịu ở nhà tù cấm cố trên đảo Saint-Joseph rồi sau đó họ sẽ
bị cấm cố chung thân ở quần đảo Salut. Đó, kết quả mà họ đă thu
được trong chuyến vượt ngục là như vậy. Tôi hy vọng rằng các
người đă hiểu. Giám thị, hăy dẫn mấy người kia vào khu trừng
giới.
Mấy phút sau, chúng tôi được giam vào một buồng giam riêng ở khu
giám sát nghiêm ngặt. Vừa đến một cái là tôi yêu cầu họ chăm sóc
đôi bàn chân hăy c̣n giập nặng và sưng khá to. Clousiot kêu là
chỗ bó bột ở chân rất đau. Chúng tôi thử cầu may... Nếu họ cho
chúng tôi vào bệnh viện th́ hay quá! Francois Sierra đến với
viên giám thị của anh ta. Tên lính gác nói:
- Y tá đến ḱa.
- Anh có khỏe không Papi?
- Tôi ốm, tôi muôn đi bệnh viện.
- Tôi sẽ cố đưa anh vào bệnh viện, nhưng sau những việc anh đă
làm ở đằng ấy, việc này chắc không thể nào thực hiện được.
Clousiot cũng thế.
Sierra xoa chân cho tôi, xức cho tôi một ít thuốc mỡ, xem lại
chỗ bó bột cho Clousiot rồi bỏ đi. Chúng tôi không nói ǵ với
nhau được v́ bọn cảnh sát đang đứng đấy, nhưng mắt anh ta nh́n
tôi dịu dàng tŕu mến đến nỗi tôi xúc động tận đáy ḷng.
Hôm sau, Sierra nói trong khi xoa bóp cho tôi một lần nữa:
- Không có cách ǵ có thể đưa anh vào bệnh viện được. Anh có
muốn tôi chạy cho anh được đưa vào một pḥng giam chung không?
Ban đêm anh có phải cùm chân không?
- Có
- Nếu vậy anh về pḥng giam chung th́ hơn. Anh vẫn bị cùm, nhưng
không bị cô độc. Mà lúc này bị cô độc th́ rất khổ cho anh.
- Đồng ư.
Phải, vào lúc này t́nh trạng bị cô độc c̣n khó chịu đựng hơn
trước kia nữa. Trong tâm trạng của tôi hiện nay, thậm chí chẳng
cần nhắm mắt tôi cũng có thể thả hồn đi lang thang trong dĩ văng
cũng như trong hiện tại. Và v́ tôi không đi được, cho nên bị
giam xà-lim bây giờ sẽ khổ hơn trước nhiều.
Thế là tôi đă thực sự trở về “con đường của sự thối nát”. Thế mà
trước đây tôi đă thoát ra khỏi con đường ấy rất nhanh, và đă bay
trên mặt biển về phía tự do, về phía niềm vui được làm người trở
lại, về phía sự phục thù nữa. Món nợ mà bộ ba Polein, cảnh sát
và biện lư hăy c̣n mắc đối với tôi, tôi không được quên. Về phần
cái rương, tôi không cần giao nó cho bọn cảnh binh gác ngoài
cổng sở Cảnh sát tư pháp. Tôi sẽ mặc giả làm nhân viên của hăng
chuyên chở Cook, đầu đội một cái mũ lưỡi trai rất đẹp mang huy
hiệu của hăng.
Trên rương dán một cái nhăn thật to: ủy viên Quận cảnh sát
Benoit, 36 Quai des Orfevres à Paris (Seine). Tôi sẽ thân hành
đưa cái gương lên pḥng báo cáo, và v́ tôi đă tính chính xác cho
cái đồng hồ đánh thức khởi động ng̣i nổ đúng vào lúc tôi đă ra
về, cho nên vụ này không thề thất bại được. T́m được giải pháp
rồi tôi thấy ḷng nhẹ hắn đi. Về phần tên công tố viên, tôi có
đủ th́ giờ nhổ lưỡi hắn. Cách thức chưa được quyết định, nhưng
việc này coi như đă giải quyết xong. Tôi sẽ cắt lười hắn từng
miếng một, cái lưỡi chuyên làm đĩ ấy.
C̣n bây giờ th́ mục tiêu nhăn tiền trước tiên là phải chữa cho
khỏi đôi bàn chân. Tôi phải đi lại được càng nhanh càng tốt.
Phải ba tháng nữa tôi mới bị đưa ra ṭa xử, mà trong ba tháng
th́ có khối việc xảy ra. Một tháng để đi, một tháng để thu xếp
mọi việc, thế là xin chào các ngài. Mục tiêu: Honduras thuộc
Anh, nhưng lần này th́ sẽ không có ai bắt được tôi nữa.
Hôm qua, ba ngày sau khi chúng tôi trở về trại, người ta đă
khiêng tôi vào pḥng giam chung. ở đấy có bốn mươi người đang
chờ bị đưa ra hội đồng trừng giới. Người th́ bị buộc tội ăn
trộm, người th́ tội ăn cướp, cố ư đốt nhà, giết người, mưu sát,
vượt ngục hay t́m cách vượt ngục, và thậm chí cả tội ăn thịt
người nữa.
Pḥng giam chia ra làm hai bên, mỗi bên có hai mươi người nằm
trên dăy ván gỗ, chân quay ra phía giữa, và đều bị cùm vào một
thanh sắt dài mười lăm mét: cứ đến sáu giờ chiều, chân trái mỗi
người đều được mắc vào thanh sắt ấy bằng một cái ṿng sắt lớn có
thể khóa lại được. Đến sáu giờ sáng người ta tháo mấy cái ṿng
sắt ấy ra, và suốt ngày chúng tôi có thể ngồi, đi lại đánh cờ,
nói chuyện trên cái lối đi rộng hai mét chạy qua suốt pḥng. Ban
ngày tôi không có th́ giờ để buồn chán. Mỗi người đều đến thăm
tôi từng tốp nhỏ để nghe tôi kể chuyện vượt ngục. Ai cũng kêu là
tôi điên khi nghe tôi nói là đă tự ư rời bỏ cái bộ lạc Guajiros
của tôi, bỏ cả Lali và Zoraima.
Một người Paris nói:
- Anh c̣n đi t́m cái ǵ nữa, hở anh bạn? Xe điện chăng? thang
máy? rạp xi-nê? đèn điện và các đồ dùng chạy điện như ghế điện
chẳng hạn? hay anh bạn muốn tắm ở cái bể nước trên quảng trường
Pigalle? Làm sao thế anh bạn? anh cứ tiếp tục ở đấy th́ có được
hai cô đào cô nào cũng ngon lành, anh sống trần truồng giữa
thiên nhiên với cả một lũ người nudistes* (*Nudisme là một phong
trào thịnh hành ở Tây Âu, chủ trương không mặc áo quần để gần
thiên nhiên hơn. Họ sinh hoạt trong những khu trại riêng, nội
quy ấn định là ai nấy đều phải khỏa thân) rất dễ ưa anh ăn, anh
uống, anh săn bắn, anh có biển, có nắng, có cát ấm, cho chí ngọc
trai cũng là của anh mà anh chẳng mất công ǵ cả, thế mà anh lại
từ bỏ tất cả những cái đó để đi đâu? Anh nói đi nào? Để phải
vượt qua các đường phố vừa đi vừa chạy cho khỏi bị xe cán, để bị
bắt buộc phải trả tiền thuê nhà, tiền thợ may, tiền điện và tiền
điện thoại, và nếu muốn có xe đi th́ phải ăn trộm nếu không chịu
làm việc như một thằng mọi cho một ông chủ để kiếm vừa đủ khỏi
chết đói? Tôi thật không hiểu nổi anh, anh bạn ạ! Anh đang ở
trên thiên đường, thế mà lại tự ư quay xuống địa ngục, nơi mà
ngoài những nỗi lo âu của cuộc sống anh c̣n có thêm một mối lo
nữa là phải trốn tránh tất cả những tên cảnh sát của toàn thế
giới đang đuổi theo anh. Quả t́nh anh c̣n giữ được bầu máu Pháp
c̣n tươi và chưa có đủ th́ giờ thấy những năng lực thể chất và
tinh thần của ḿnh sa sút. Tôi đây với mười năm khổ sai vừa qua,
tôi không c̣n hiểu được anh nữa. Nhưng thôi, dù sao anh đến đây
chúng tôi cũng rất hoan nghênh. Và chắc chắn là anh vẫn giữ ư
định làm lại từ đầu: vậy th́ anh hăy tin rằng tất cả chúng tôi
đều sẵn sàng giúp anh. Phải không các cậu? Các cậu đồng ư chứ?
Tất cả những người bị giam trong lán đều tỏ đồng tính, và tôi
cảm ơn tất cả bọn họ.
Họ đều là những con người rất đáng sợ: điều đó tôi thấy rơ. ở
chung chạ thế này thật khó ḷng mà dấu họ: thế nào rồi người này
hay người khác cũng sẽ nhận thấy tôi có plan. V́ ban đêm mọi
người đều bị cùm chân vào thanh sắt chung, cho nên giết một
người nào đó một cách an toàn không phải là việc khó. Chỉ cần bí
mật gặp tên A-rập giữ ch́a khóa vào ban ngày rồi đút cho hắn một
số tiền để hắn nhận lời không khóa kỹ cái ṿng cùm chân. Đến
đêm, sẽ tháo ṿng ra, thực hiện ư định và thản nhiên trở về nằm
ở chỗ cũ sau khi bóp chặt cái ṿng lại. V́ tên A-rập là đồng lơa
gián tiếp hắn sẽ câm như hến.
Tôi trở về đây đă được ba tuần. Ba tuần ấy đă qua khá nhanh. Tôi
bắt đầu đi lại được chút ít bằng cách vịn vào thanh sắt ngăn
cách hai dăy ván nằm. Tôi đang tập đi những bước đầu. Tuần
trước, trong buổi hỏi cung, tôi đă gặp lại ba tên cảnh sát gác ở
bệnh viện đă bị chúng tôi đánh ngất và tước súng. Họ rất hài
ḷng khi thấy chúng tôi trở về và hy vọng rằng một ngày kia
chúng tôi sẽ rơi vào đúng chỗ họ canh gác. V́ sau chuyến vượt
ngục của chúng tôi cả ba đều bị phạt nặng: băi bó sáu tháng nghỉ
phép ở châu Âu; cắt phụ cấp lương thuộc địa trong một năm. Thành
thừ cuộc gặp gỡ giữa hai bên không lấy ǵ làm thân thiện. Chúng
tôi báo cáo rơ những sự uy hiếp này trong buổi hỏi cung đề người
ta ghi nhận.
Người A-rập giữ ch́a khóa có một thái độ tốt hơn. Hắn chỉ nói
đúng sự thật, không phóng đại và không nhắc đến vai tṛ của
Maturette trong việc này. Viên đại úy kiêm dự thẩm đă hỏi đi hỏi
lại rất nhiều xem ai là người đă kiếm thuyền cho chúng tôi.
Chúng tôi đă làm cho ông ta ngờ vực v́ trót kể những chuyện
không thể nào tin được, như là chuyện chúng tôi tự làm lấy bè,
v.v...
V́ vụ đánh bọn giám thị, ông ta nói với chúng tôi rằng ông ta sẽ
cố hết sức ḿnh để đ̣i xử cấm cố năm năm cho tôi và Clousiot, ba
năm cho Maturette.
- Và một khi anh đă mang biệt hiệu Bươm bướm, anh hăy tin tôi,
tôi sẽ cắt hết cánh của anh, và anh chàng dễ ǵ bay lên được
đâu.
Tôi rất sợ rằng ông ta nói đúng.
Chỉ c̣n đợi hai tháng nữa là ra ṭa. Tôi tự trách ḿnh rất nhiều
là đă không bỏ vào plan một hoặc hai mũi tên tẩm thuốc độc. Giá
bây giờ tôi c̣n hai mũi tên đó có lẽ tôi sẽ có thể chơi xả láng
trong khu trừng giới.
Hiện nay mỗi ngày tôi đều có tiến bộ: tôi đi càng ngày càng khá
hơn. Ngày nào cũng vậy, hai lần vào buổi sáng và buổi chiều,
Sierra đến xoa bóp cho tôi bằng đầu long năo rất đều. Những
chuyến đến thăm và xoa bóp này giúp ít cho tôi rất nhiều về thể
chất cũng như về tinh thần. Trên đời này có được một người bạn
thật quư hóa vô cùng.
Tôi đă nhận thấy rằng cuộc vượt ngục mấy ngày vừa qua đă đem lại
cho chúng tôi một uy tín không thể chối căi đối với tất cả các
phạm nhân. Tôi tin chắc rằng chúng tôi được an toàn tuyệt đối
giữa đám người này. Chúng tôi không có nguy cơ bị giết. Tất cả
mọi người, không trừ một ai, đều kính trọng và hơn nữa c̣n khâm
phục chúng tôi. Việc đánh ngất bọn gác đă làm cho chúng tôi được
liệt vào loại người sẵn sàng làm bất cứ việc ǵ. Được cảm thấy
ḿnh an toàn cũng thật thú vị.
Mỗi ngày tôi lại đi nhiều thêm một ít, và nhiều khi nhờ cái chai
dầu nhỏ mà Sierra để lại cho tôi, có những người t́nh nguyện xo
bóp cho tôi không những hai bàn chân, mà cả các cơ của bắp chân
đă bị teo lại v́ lâu ngày không cử động.
Một người A-rập và đàn kiến
Trong pḥng giam này có haingười rất trầm lặng, không bao giờ
nói chuyện với ai. Lúc nào cũng dính chặt vào nhau, họ chỉ nói
chuyện riêng với nhau, và nói nhỏ đến nỗi không ai có thể nghe
thấy ǵ được.
Một hôm, được Sierra đem cho một bao thuốc lá Mỹ, tôi cho một
trong hai người một điếu. Hắn cảm ơn tôi rồi nói:
- Francois Sierra là bạn anh phải không?
- Phải, đó là người bạn tốt nhất của tôi.
- Có lẽ một ngày kia, nếu mọi sự hỏng hết, chúng tôi sẽ nhờ anh
ấy chuyển gia tài của chúng tôi cho anh.
- Gia tài ǵ thế?
- Tôi và bạn tôi đă quyết định là nếu bị đưa lên máy chém, chúng
tôi sẽ chuyển plan của chúng tôi cho anh để anh dùng nó mà vượt
ngục lần nữa.
- Hai anh nghĩ là sẽ bị xử tử à?
- Điều đó gần như chắc chắn, chúng tôi rất ít khả năng thoát
khỏi.
- Nếu việc xử tử các anh đă chắc đến như vậy, sao họ lại để các
anh trong pḥng giam chung này?
Tôi nghĩ là họ sợ chúng tôi tự tử nếu được giam xà-lim riêng.
- à phải, có thể như thế. Thế các anh đă làm ǵ mà bị xử tử?
- Chúng tôi đă cho một đàn kiến ăn thịt một thằng A-rập Việc này
tôi nói ra là v́ họ có bằng chứng không thể chối căi được. Chúng
tôi đă bị bắt quả tang.
- Việc xảy ra ở đâu?
- ở Cây số 42, ở trại tử thần cạnh vịnh Sparouine.
Bạn anh ta đă đến cạnh chúng tôi, đó là một người Toulouse. Tôi
cho anh ta một điếu thuốc lá Mỹ. Anh ta ngồi xuống bên cạnh bạn,
trước mặt tôi.
- Chúng tôi chưa bao giờ hỏi ư kiến ai cả, - người mới đến nói,
- nhưng tôi rất muốn biết anh nghĩ về chúng tôi như thế nào.
- Anh bảo làm sao tôi có thể nói được, trong khi tôi chưa biết
ǵ hết, về vấn đề các anh đúng hay sai khi cho kiến ăn một con
người đang sống, dù là một người “giữ ch́a khóa” A-rập? Muốn có
ư kiến, tôi phải biết hết sự việc từ A đến Z.
- Để tôi kể cho anh nghe, -- người Toulouse nói.
Trại Cây số 42, Saint-Laurent bốn mươi hai cây số, là một trại
lâm nghiệp. ở đấy tù khổ sai phải đẵn mỗi ngày một mét khối gỗ
cứng. Đến chiều anh phải đứng cạnh chỗ gỗ anh đă đẵn và xếp gọn
lại. Bọn giám thị, có bọn giữ ch́a khóa người A-rập đi theo, vào
tận nơi ở trong rừng để kiểm tra xem anh đă đạt chỉ tiêu chưa.
Nếu được coi là đạt, mỗi khối gỗ được đánh dấu bằng sơn đỏ, sơn
xanh hay vàng, tùy từng ngày. Họ chấp nhận nếu mỗi thanh gỗ đều
là gỗ cứng. Để làm việc tốt hơn, hai người lập thành một kíp.
Nhiều khi chúng tôi không thể đạt chỉ tiêu được. Những lúc ấy
tối về họ nhốt chúng tôi vào xà-lim không cho ăn, và sáng hôm
sau, vẫn phải nhịn đói, chúng tôi lại bị đưa đi làm việc: ngày
hôm ấy, ngoài chỉ tiêu b́nh thường ra c̣n phải làm thêm để bù
cho gỗ thiếu hôm qua. Cử cái đà ấy th́ chẳng bao lâu mà chết v́
kiệt sức.
“Với cái t́nh trạng này, chúng tôi mỗi ngày một yếu đi và càng
ít khả năng làm đủ chỉ tiêu. Thêm vào đấy, người ta cắt cho
chúng tôi một tên gác riêng không phải là giám thị, mà là một
thằng A-rập. Hắn đi với chúng tôi ra công trường, t́m chỗ ngồi
thật thoải mái, cái roi cặc ḅ đặt giữa háng, mồm không ngớt
chửi mắng chúng tôi. Khi ăn, hắn nhai chóp chép thật to để cho
chúng tôi thèm. Nói tóm lại là một sự hành hạ liên tục. Chúng
tôi có hai cái plan mỗi cái đựng ba ngàn frances, để dùng khi
vượt ngục. Một hôm chúng tôi quyết định mua gă A-rập. Bấy giờ
t́nh thế càng tệ hơn. Cũng may là từ trước tới nay hắn vẫn tưởng
hai chúng tôi chỉ có một plan. Phương sách của hắn rất giản dị:
chẳng hạn đưa cho hắn năm mươi francs th́ hắn cho chúng tôi đến
các khối gỗ đă được duyệt hôm trước, lấy trộm những thanh gỗ
không dính sơn để thêm vào khối gỗ của ngày hôm ấy. Cứ như thế,
lần th́ năm mươi francs, lần th́ một trăm, hắn đă ḅn được của
chúng tôi gần hai ngàn francs.
“Thấy chúng tôi đă bắt đầu đạt được chỉ tiêu, họ rút thằng A-rập
về. Nghĩ rằng hắn sẽ không tố giác chúng tôi v́ đă ḅn được của
chúng tôi một số tiền lớn như vậy, chúng tôi tiếp tục lấy cắp gỗ
ở các khối đă duyệt để thêm vào khối gỗ chỉ tiêu hàng ngày như
khi c̣n thằng A-rập. Một hôm hắn ngấm ngầm theo dơi chúng tôi
từng bước, để xem chúng tôi có lấy cắp gỗ không. Rồi hắn bỗng lộ
mặt ra: “à! à. Vẫn lấy cắp gỗ mà không chịu trả tiền cho tao?
Nếu mày không đưa tao năm trăm francs, tao sẽ tố giác”.
Nghĩ rằng hắn chỉ dọa thế thôi, chúng tôi từ chối.
Hôm sau hắn lại trở lại:
- Trả tiền đi không th́ tối nay mày vào xà-lim.
Chúng tôi lại từ chối. Đến chiều hắn trở lại có mấy tên lính đi
theo. Thật kinh khủng, Papillon ạ! Sau khi lột trần truồng chúng
tôi ra, họ dẫn tôi đến những khối gỗ mà chúng tôi đă lấy bớt,
rồi bắt chúng tôi chạy về tháo tung các khối mới xếp được rồi
lại chạy ra xếp gỗ vào những khối bị lấy bớt, c̣n chúng nó th́
chạy theo sát gót chúng tôi, tên A-rập luôn tay quất roi cặc ḅ
vào người chúng tôi. Cuộc “corrida” này kéo dài hai ngày, chẳng
ăn uống ǵ hết. Mỗi lần chúng tôi ngă xuống, tên A-rập lại đá
vào người hay dùng roi cặc ḅ quất chúng tôi túi bụi. Cuối cùng
chúng tôi nằm ́ ra đất, v́ không c̣n sức đâu mà gượng dậy được
nữa. Anh có biết nó làm thế nào để bắt chúng đứng dậy không? Nó
đă lấy một cái tổ ong lửa, một loại ong ṿ vẽ hoang ở trong khu
rừng này. Nó chặt cái cành có một bầy ong làm tổ và chà cái cành
ấy lên người chúng tôi. Đau đến phát điên lên được, không những
chúng tôi đứng dậy mà c̣n chạy như điên. Anh thừa biết ong ṿ vẽ
đốt đau như thế nào. Thế mà mỗi chúng tôi bị đến năm sáu chục
con đốt, anh cứ tưởng tượng xem. Ong lửa đốt đau nhức ghê gớm,
c̣n hơn cả ong ṿ vẽ.
Họ giam xà-lim, bắt chúng tôi ăn bánh ḿ chấm nước lă mười ngày
liền, không chữa chạy ǵ hết. Chúng tôi đă bôi nước đái lên các
vết đốt, nhưng vẫn bỏng rát suốt ba ngày liên tục. Tôi mù mất
con mắt trái v́ nó đến một chục con ong lửa bâu vào đấy. Khi họ
cho chúng tôi trở về trại, các phạm nhân khác quyết định giúp
chúng tôi. Mỗi người chia cho chúng tôi một thanh gỗ cứng có
kích thước thống nhất. Gộp lại cũng được một khối, thành thử cả
hai chúng tôi chỉ c̣n phải cắt một khối nữa thôi. Trong t́nh
trạng của chúng tôi lúc bấy giờ, cắt được một khối cũng hết sức
vất vả. Nhưng chúng tôi đă cắt được. Dần dà, chúng tôi cũng đă
lấy lại sức. Chúng tôi đă cắt rất nhiều. Rồi cũng do sự t́nh cờ
mà chúng tôi nảy ra cái ư trả thù tên A-rập bằng một đàn kiến.
Trong khi đi t́m gỗ cứng, chúng tôi phát hiện một cái tổ kiến ăn
thịt rất lớn trong một bụi rậm, đang ăn thịt một con hoẵng to
bằng con dê.
Thằng A-rập vẫn đi tuần để kiểm tra công việc chặt gỗ. Một hôm
chúng tôi dùng cán ŕu đánh vào đầu cho hắn ngất đi, rồi kéo lê
hắn đến cạnh cái tổ kiến. Chúng tôi lột trần hắn ra và để hắn
nằm thành h́nh cung quanh một góc cây, chân tay trói chặt vào
gốc cây bằng những sợi thừng lớn dùng để buộc gỗ.
Chúng tôi dùng ŕu cửa đứt mấy chỗ trên người hắn. Chúng tôi lại
nhét cỏ vào đầy mồm hắn để hắn không thể kêu được, rồi lấy khăn
buộc chặt ra ngoài. Xong đâu đấy chúng tôi đứng đợi. Đàn kiến
chỉ bắt đầu tấn công khi chúng tôi thọc một cái gậy vào tổ kiến
và lay mạnh cho kiến rơi xuống người tên A-rập.
Sự việc chẳng kéo dài được bao lâu. Một nửa giờ sau hàng ngàn
kiến đă bâu lên tên A-rập. Anh bao giờ trông thấy loài kiến ăn
thịt chưa?
- Chưa, chưa bao giờ. Tôi có thấy loại kiến đen rất lớn.
- Loài kiến này th́ nhỏ li ti mà màu đỏ như máu. Chúng giật
những mảnh thịt nhỏ xíu và tha về tổ. Nếu chúng tôi đă bị đau v́
ong đốt, anh thứ tưởng tượng hắn đă phải đau đớn như thế nào khi
bị hàng ngàn con kiến như thế rứt thịt từng tí một trong khi c̣n
sống.
Cơn hấp hối của hắn đă kéo dài trọn hai ngày và một buổi sáng.
Sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ, hắn không c̣n mắt nữa.
Tôi thừa nhận rằng hai đứa chúng tôi đă tàn nhẫn trong cách trả
thù, nhưng phải thấy rơ bản thân hắn đă tàn bạo đối với chúng
tôi đến mức nào. Chúng tôi không chết cũng là chuyện thần kỳ. Dĩ
nhiên người ta đi t́m tên A-rập khắp nơi, và bọn giữ ch́a khóa
A-rập khác, cũng như bọn lính gác, đều nghi ngờ rằng chúng tôi
không phải không liên quan ǵ đến việc hắn mất tích.
Trong một bụi rậm khác, mỗi ngày chúng tôi đào một ít để có một
cái lỗ dùng để chôn xác hắn. Họ vẫn chưa biết ǵ về tên A-rập,
th́ một hôm có tên lính gác trông thấy chúng tôi đang đào lỗ.
Đến hôm sau, khi đi làm hắn đi theo chúng tôi để xem thử chúng
tôi làm ǵ. Chính v́ thế mà chúng tôi bị lộ.
Sáng hôm ấy, khi đến nơi làm việc, chúng tôi cởi dây trói thằng
A-rập vẫn c̣n đầy kiến nhưng gần như chỉ c̣n xương, và trong khi
chúng tôi đang lôi nó về phía cái hố (chúng tôi không khiêng nó
được v́ sợ bị kiến đốt đến trọng thương), chúng tôi bị ba tên
A-rập giữa ch́a khóa và hai tên giám thị bắt gặp. Họ đă nấp kín
đợi một cách kiên nhẫn cho đến khi chúng tôi chôn nó.
Thế đấy! Chúng tôi một mực khai rằng đă giết hắn chết rồi mới
cho kiến ăn. Lời buộc tội căn cứ vào biên bản của bác sĩ pháp y
nói rằng không thấy có một vết thương nào chết người trên ḿnh
hắn: người ta khẳng định rằng chúng tôi đă cho kiến ăn hắn trong
khi hắn c̣n sống.
Người lính canh được phân làm trạng sư cho chúng tôi theo tập
quán xử án ở đây có nói với chúng tôi rằng nếu câu chuyện của
chúng tôi được chấp nhận th́.chúng tôi có thể thoát chết. Nếu
không, có thể nắm chắc án tử h́nh. Nói thật, chúng tôi rất ít hy
vọng. Chính v́ thế mà tôi và bạn tôi đă chọn anh làm người thừa
hưởng gia tài mà không nói cho anh biết. Ta hăy hy vọng rằng tôi
sẽ không thừa hưởng gia tài của các anh, tôi thành tâm cầu mong
như vậy.
Chúng tôi châm thuốc hút, và tôi thấy họ nh́n tôi có ư chờ đợi
tôi nói rơ ư kiến của ḿnh.
- Tôi biết hai anh đang đợi tôi nói rơ cách phán xét của tôi về
trường hợp của hai anh, với tư cách một con người, như hai anh
đă yêu cầu trước khi kể chuyện. Xin hỏi một câu cuối cùng - điều
này sẽ không có ảnh đối với kết luận của tôi: số đông trong
pḥng này nghĩ thế nào, và tại sao hai anh không nói chuyện với
ai cả?
- Số đông nghĩ rằng chúng tôi phải giết hắn, nhưng không nên để
kiến ăn sống hắn. C̣n sở dĩ chúng tôi im lặng không nói chuyện
với ai là v́ trước đây có một cơ hội vượt ngục bằng cách nổi
loạn, thế mà họ không chịu làm.
- Bây giờ tôi xin nói ư kiến của tôi. Các anh trả lại gấp trăm
những ǵ mà hắn đă làm cho các anh là đúng: cái vụ tổ ong lửa
không thể nào tha thứ được. Nếu các anh lên máy chém, đến phút
cuối cùng các anh hăy nghĩ thật tập trung về một điều duy nhất:
Họ sắp chặt đầu tôi, việc này sẽ kéo dài ba mươi giây kể từ khi
trói tay, đẩy vào cái cùm cố cho đến khi lưỡi dao sập xuống. C̣n
hắn đă hấp hối trong sáu mươi tiếng đồng hồ. Tôi là người thắng
cuộc”. Về phần có liên quan đến những người trong pḥng này, tôi
không biết các anh có đúng không, v́ hồi ấy các anh tin rằng một
cuộc nổi loạn vào hôm ấy có thể đưa đến cuộc vượt ngục chung,
c̣n những người khác th́ có thể không nghĩ như vậy. Mặt khác,
trong một cuộc nổi loạn bao giờ người ta cũng có thể bị đặt vào
t́nh thế phải giết người một cách bất đắc dĩ. Thế nhưng trong
tất cả những người ở đây chỉ có hai anh và anh em Graville là có
nguy cơ bị xử tử. Các bạn ạ, mỗi t́nh thế cá biệt đều đưa đến
những phản ứng khác nhau, nhất định là như thế.
Thỏa măn với buổi nói chuyện, hai con người đáng thương ấy lui
về chỗ và lại bắt đầu sống trong sự im lặng mà họ vừa phá vỡ
trong chốc lát để nói chuyện với tôi.
Cuộc
vượt ngục của những kẻ ăn thịt người
“Nó chén mất cái chân gỗ rồi!” “Một ra-gu dùi gỗ, một!”.
Hoặc bắt chước giọng đàn bà: một suất bít-tết đàn ông rán kỹ
không bỏ hạt tiêu nhé!”.
Giữa đêm khuya thỉnh thoảng lại nghe la lên một câu như vậy hoặc
cả ba câu liền.
Clousiot và tôi cứ băn khoăn không hiểu tại sao lại có những câu
nói ném ra một cách bâng quơ như vậy trong đêm khuya.
Cho đến chiều nay tôi mới biết căn nguyên câu chuyện. Người kể
cho tôi nghe là một nhân vật của câu chuyện tên là Marius de la
Ciotat, chuyên gia về két sắt. Khi đă biết rằng tôi có quen với
bố anh ta, ông Titin, anh ta không ngần ngại nói chuyện với tôi.
Sau khi kể cho anh ta nghe một phần trong chuyến vượt ngục của
tôi, tôi hỏi: “C̣n anh?” - hỏi lại như vậy là điều rất tự nhiên.
- ồ, tôi th́ đă tham gia vào một chuyện rất xấu xa. Tôi e rằng
chỉ v́ một cuộc vượt ngục mà lĩnh năm năm cấm cố. Nó được mệnh
danh là “cuộc vượt ngục của những kẻ ăn thịt người”. Những câu
“Nó chén rồi” hay là “một ra-gu, v.v...” và thỉnh thoảng anh có
nghe thấy là nói về hai anh em Graville.
“Chúng tôi có sáu người trốn từ Cây số 42. Trong bọn có cả Dédé
và Jean Graville, anh ba mươi lăm tuổi, em ba mươi, vốn là người
Lyon, một người Naples ở Marseille và tôi, người ở La Ciotat,
rồi th́ một anh chàng ở Angers có một chân gỗ và một cậu thanh
niên hai mươi ba tuổi, được hắn dùng làm vợ. Khi ra khỏi sông
Maroni th́ ổn cả, nhưng ra đến biển chúng tôi không sao điều
khiển được thuyền, và chỉ trong mấy tiếng đồng hồ đă bị giạt vào
bờ biển Guyane thuộc Hà Lan.
“Thuyền bị đắm, mất sạch không vớt vát được chút ǵ lương thực
cũng như đồ đạc. May mà hăy c̣n giữ dược những áo quần đang mặc
trên người. Nơi chúng tôi bị giạt vào không có băi cát, biển vào
thắng trong rừng rậm. Chỗ này những cây bị gẫy gốc hay bị biển
bứng lên cả rễ đan chi chít vào nhau.
“Đi suốt một ngày mới đến chỗ khô ráo. Chúng tôi chia ra làm ba
nhóm, nhóm thứ nhất là hai anh em Graville, tôi với Guesepi đi
với nhau, c̣n gă chân gỗ đi với thằng bạn nhỏ. Mỗi nhóm đi về
một phía, nhưng mười hai ngày sau nhóm Graville và nhóm chúng
tôi lại gặp nhau gần đúng ở chỗ đă chia tay nhau. Xung quanh
toàn là bùn lầy, t́m măi không có một lối nào qua được. Không
cần phải tả cho anh thấy mặt mũi chúng tôi lúc bấy giờ ra sao.
Suốt mười ba ngày chúng tôi không ăn ǵ ngoài mấy mẩu rễ cây hay
mầm cây. Đói và mệt lả, hoàn toàn kiệt sức, chúng tôi quyết định
là Marius và tôi sẽ thu hết tàn lực trở ra bờ biển, buộc một
chiếc áo sơ mi lên một ngọn cây, càng cao càng tốt, để ra đầu
thú với chiếc tàu tuần tra bờ biển đầu tiên của Hà Lan thế nào
cũng sẽ đi qua đấy. Hai anh em Graville sẽ ở lại nghỉ vài giờ
rồi đi t́m vết tích của hai người kia.
T́m chắc cũng dễ v́ ngay từ đầu chúng tôi đă thỏa thuận là sẽ bẻ
cành cây đánh dấu những chỗ vừa đi qua.
Thế rồi mấy giờ sau, hai anh em thấy gă chân gỗ trở lại một
ḿnh.
- C̣n thằng bé đâu?
- Tớ để nó ngồi lại cách đây rất xa, v́ nó không đi được nữa.
- Cậu bỏ nó lại như vậy thật là quá tệ.
- Chính nó muốn quay lại.
Đến đấy Dédé nhận thấy cái chân duy nhất c̣n lại của hắn đi một
chiếc giày của cậu bé.
- Cậu lại c̣n bắt nó cởi giày ra cho cậu đi nữa. à! Khá thật. Mà
cậu có vẻ khỏe khoắn lắm chứ không phải như chúng ḿnh. Rơ ràng
là cậu vừa được ăn.
- Đúng, tớ t́m được một con khỉ lớn bị què.
- Thế th́ may cho cậu. - Đến đây Dédé đứng dậy, con dao lăm lăm
trong tay, v́ anh ta eảm thấy ḿnh đă hiểu ra được một điều ǵ
khi nh́n thấy cái túi dết của gă kia căng phồng lên.
- Mở túi dết ra. Cái ǵ ở trong ấy?
Hắn mở túi dết ra th́ thấy có một súc thịt.
- Cái ǵ đấy?
- Miếng thịt khỉ ấy mà!
- Đồ khốn kiếp, mày đă giết thằng bé để ăn thịt!
- Không phải đâu Dédé, tớ thề như vậy. Cậu ấy mệt quá chết rồi,
tớ có ăn một ít. Cậu tha cho tớ.
Hắn chưa nói hết câu th́ con dao đă đâm sâu vào bụng hắn. Lục
soát trong người hắn, Dédé t́m thấy một cái túi da có đựng diêm
và tấm b́a quẹt.
Hai người giận điên lên khi thấy cái túi đựng diêm ấy v́ như thế
là khi chia tay nhau gă kia không chịu chia đều số diêm cho các
nhóm khác. Thêm vào đấy lại đói nữa, thế là họ đốt lứa và bắt
đầu nướng thịt gă chân gỗ ăn.
Guesepi đến trong khi hai người đang chén. Họ mời anh ta.
Guesepi từ chối. ở bờ biển anh ta đă ăn mấy con cua và mấy con
cá sống. Anh ta bên đứng nh́n từ bên ngoài cái cảnh hai anh em
Graville nướng miếng thịt trên than hồng, dùng cả cái chân gỗ để
đun bếp. Như vậy là trong hai ngày liền Guesepi đă trông thấy
hai anh em Graville ăn thịt gă kia; anh ta lại c̣n trông thấy rơ
những bộ phận họ đă ăn: cái bắp chân, cái đùi, bộ mông.
C̣n tôi, - Marius nói tiếp, - tôi đang đứng chờ ở bờ biển.
Guesepi ra t́m tôi. Chúng tôi bắt cua và cá nhỏ bỏ đầy một cái
mũ và đem về bếp anh em Graville để nướng. Tôi không trông thấy
xác thằng chân gỗ, chắc họ đă lôi đi chỗ khác. Nhưng tôi có
trông thấy mấy miếng thịt c̣n để ở một bên đống lửa, trên lớp
tro.
Ba hôm sau, một chiếc tàu tuần tra bờ biển cho chúng tôi lên và
giao chúng tôi lại cho trại tù Saint Laurent - Du-Maroni.
“Guesepi đă không chịu giữ mồm giữ miệng. Tất cả những người ở
trong pḥng này đều biết sự việc đă xảy ra, ngay cả bọn gác cũng
biết. Tôi kể cho anh nghe v́ ai cũng biết hết rồi; anh em
Graville là người xấu tính, cho nên mấy người khác mới ném ra
những câu mà anh đă từng nghe giữa đêm khuya.
Chúng tôi bị chính thức lên án về tội vượt ngục kèm theo tôi ăn
thịt người. Cái gay là ở chỗ để tự bào chừa tôi phái tố cáo anh
em Graville, mà điều đó th́ không thể được. Cả bọn, trong đó có
cả Guesepi, đều phủ nhận việc này trong các buổi hỏi cung. Chúng
tôi đều nói là hai người kia đă mất tích trong rừng. T́nh cảnh
của tôi là như thế đấy, Papillon ạ”.
- Tôi chia buồn với cậu, v́ quả thực cậu chỉ có thể tự bào chữa
bằng cách tố cáo người khác.
Một tháng sau, Guesepi bị giết bằng một nhát dao đâm vào giữa
tim trong lúc đang đêm. Thậm chí người ta cũng chẳng cần tự hỏi
xem ai đă giết hắn.
Đó là sự thật trong câu chuyện những người vượt ngục đă ăn thịt
một người trong bọn bằng cách nướng hắn trên ngọn lửa đốt hằng
cái chân gỗ của hắn, và trước đó bản thân người này đă ăn thịt
thằng bạn nhỏ cùng đi với hắn.
Đêm ấy tôi nằm ở một chỗ khác trên sạp gỗ: người trước đó nằm ở
đây đă bị chuyển đi nơi khác. Tôi lại xin mọi người xê ra một
quăng, thế là Clousiot có chỗ nằm cạnh tôi.
Từ chỗ tôi nằm, dù chân trái bị cùm vào thanh sắt dài, ngồi dậy
tôi vẫn thấy được những ai đang diễn ra ở ngoài sân.
Sự giám sát nghiêm ngặt đến mức các đợt đi tuần hầu như kế tiếp
nhau không hở phút nào, và bất cứ lúc nào cũng có những đội tuần
tra đi đến từ phía ngược lại với đội trước.
Bây giờ chân tôi đă đi được rất khỏe, và chí có khi nào trời mưa
tôi mới thấy đau nhức. Vậy là tôi đă đủ sức để tiến hành một
cuộc vượt ngục khác, nhưng bằng cách nào? Pḥng này không có cửa
sổ, chỉ có một dăy song sắt rất lớn ghép liền thành một bức rào
chạy hết chiều ngang và lên đến tận mái. Vị trí của nó cho phép
gió đông bắc thổi vào pḥng lồng lộng. Tuy đă quan sát suốt cả
tuần, tôi vẫn chưa t́m được một chỗ nào sơ hở trong cách giám
sát của bọn canh ngục. Lần đầu tiên, tôi hầu như đă phải chịu
rằng họ sẽ có thể đưa tôi vào nhà giam cấm cố ở đảo
Saint-Joseph.
Nghe nói là nhà giam này rất khủng khiếp. Người ta gọi nó là cái
nhà giam “ăn thịt người”. Thêm một tài liệu nữa: nó tồn tại đă
tám mươi năm nay mà chưa hề có một người nào trốn ra ngoài được.
Dĩ nhiên một khi hầu như đă chấp nhận ḿnh thua cuộc như vậy,
tôi phải nh́n về tương lai. Tôi đă hai mươi tám tuổi, mà viên
đại úy dự thẩm đ̣i giam tôi năm năm cấm cố. Rút ngắn thời hạn
này là việc hết sức khó khăn. Vậy th́ khi ra khỏi nhà giam cấm
cố tôi sẽ được ba mươi ba tuổi.
Tôi c̣n có nhiều tiền trong plan. Vậy nếu tôi không vượt ngục
được - điều này gần như chắc chắn nếu cứ theo những điều tôi
được biết - ít nhất tôi cũng phải làm thế nào để giữ được sức
khỏe cho tốt. Năm năm trong cảnh hoàn toàn cô độc khó ḷng có
thể chịu đựng nổi mà không phát điên. Cho nên tôi dự tính sẽ
luyện tập ngay từ ngày đầu bị cấm cố cho bộ óc của tôi hoạt động
thật ngăn nắp theo một phương tŕnh được ấn định chính xác và đa
dạng. Phải cố tránh đến mức tối đa những lối mơ tưởng “xây lâu
đài ở Tây Ban Nha”*(*thành ngữ Pháp có nghĩa là mơ ước những
chuyện hăo huyên) và nhất là tránh mơ ước những cách trả thù.
Vậy ngay từ bây giờ tôi đă chuẩn bị vượt qua sự trừng phạt khủng
khiếp đang chờ tôi và ra khỏi nhà giam cấm cố với tư thế của
người chiến thắng. Phải, chúng nó sẽ chẳng được xơ múi ǵ. Tôi
sẽ ra khỏi nhà giam cấm cố với một thể lực tốt, hoàn toàn làm
chủ những năng lực thể chất và tinh thần của ḿnh.
Xác lập được những dự định này và điềm tĩnh chấp nhận những ǵ
đang đợi tôi là một điều làm cho tôi thêm vừng vàng. Ngọn gió
biển lùa vào pḥng mơn trớn tôi trước khi thổi đến những người
khác và thực sự làm cho tôi thêm sảng khoái.
Clousiot biết rơ khi nào tôi không muốn nói chuyện. Cho nên anh
ta không quấy rầy những phút yên lặng của tôi, và chỉ hút nhiều
thuốc lá. Nh́n thấy mấy ngôi sao ở trên trời, tôi nói với anh:
- Nằm ở chỗ cậu có thấy sao không?
- Có anh ta nói, người hơi nghiêng về phía trước.
- Tôi thấy đừng nh́n sao th́ hơn v́ nó làm cho tôi nhớ những
ngôi sao trong chuyến vượt ngục vừa qua quá. Cậu đừng buồn,
chúng ta sẽ thấy lại hằng ngày trong một chuyến vượt ngục khác.
- Bao giờ? Năm năm nữa à?
- Clousiot ạ, cái năm mà chúng ta vừa được sống qua, tất cả
những chuyện ly kỳ đă xảy ra đến với chúng ta, những con người
mà chúng ta đă quen được biết chẳng lẽ lại không đáng giá năm
năm cấm cố hay sao? Cậu thích ở Quần đảo ngay từ đầu hơn là đă
dự cuộc vượt ngục ấy sao? V́ mấy năm cấm cố đang đợi chúng ta
chắc chắn là những năm đọa đày, cậu tiếc là đă có mặt trong cuộc
vượt ngục ấy sao? Cậu hăy trả lời thành thật đi, cậu có tiếc
không?
- Papi ạ, cậu quên mất một điều: tôi không hề được sống bảy cái
tháng thần tiền của cậu ở làng Anh-điêng. Giá tôi đă cùng đến
đấy với cậu, tôi cũng sẽ nghĩ như cậu, nhưng đằng này trọn thời
gian ấy tôi lại phải ngồi tù.
- Xin lỗi cậu, tôi quên mất, tôi nói bậy.
- Không, cậu không nói bậy: dù sao tôi cũng rất hài ḷng về
chuyến vượt ngục của chúng ta, v́ chính tôi cũng đă được sống
những giờ phút không thể nào quên được. Chỉ có điều tôi cũng hơi
lo sợ trước những ǵ đang chờ tôi ở cái nhà giam “ăn thịt
người”. Năm năm cắm cố là một cái ǵ hầu như không thể qua nổi.
Tôi liền nói với Clousiot biết những điều tôi đă quyết định làm,
và tôi cảm thấy anh ta có một phản ứng rất tích cực. Thấy bạn
lấy lại được sức mạnh tinh thần, tôi rất mừng. C̣n mười lăm ngày
nữa chúng tôi phải ra ṭa. Theo những lời dồn đại viên thiếu tá
sẽ đến đây chủ tọa hội đồng trừng giới có tiếng là người nghiêm
khắc, nhưng h́nh như lại là người rất trung trực. Ông ta không
dễ ǵ tin vào những lời xúc xiểm của Ban quản trị nhà tù. Vậy
nên coi đó là một tin mừng th́ hơn.
Clousiot và tôi (v́ Maturette ngay khi trở về trại đă bị nhốt
vào xà-lim riêng) đều không chịu nhận một viên giám thị làm
trạng sư bào chữa. Cả hai quyết định rằng tôi sẽ nói thay cho cả
ba chúng tôi và sẽ bào chữa cho cả nhóm.
Cuộc
xét xử
Sáng hôm ấy, râu cạo nhẵn, tóc hớt gọn ghẽ, ḿnh mặc một bộ đồ
phạm nhân có sọc đỏ, chân đi giày, chúng tôi đứng trong sân đợi
đến giờ được đưa ra ṭa.
Chân Clousiot đă được tháo băng bột từ hai tuần trước. Anh ta đi
b́nh thường, không bị khập khiễng.
Hội đồng trừng giới bắt đầu họp từ ngày thứ hai.
Sáng hôm nay là ngày thứ bảy, vậy trước chúng tôi đă có năm ngày
xét xử các vụ khác: việc xét xử hai người cho kiến ăn tên A-rập
đă choán hết một ngày. Cả hai đều bị xử tử, và từ đấy tôi không
gặp lại họ nữa. Hai anh em Graville chỉ bỉ bốn năm cấm cố (v́
thiếu bằng chứng về hành động ăn thịt người). Việc xét xử hai
người đă kéo dài hơn nửa ngày. Trong phần c̣n lại, các phạm nhân
can tội giết người bị xử năm hay bốn năm cấm cố.
Nh́n chung đối với mười bốn phạm nhân bị đưa ra xử, những h́nh
phạt được ứng dụng đều có phần nghiêm khắc nhưng cũng đều chấp
nhận được, không có trường hợp nào quá đáng....
Buổi xử bắt đầu lúc bảy giờ ba mươi phút. Chúng tôi đang đứng
trong pḥng xử th́ một viên thiếu tá mặc quân phục kỵ binh lạc
đà bước vào, có một viên đại úy bộ binh già và một viên trung úy
đi theo phụ tá.
ở bên phải ṭa một viên giám thị đeo lon đại úy làm người đại
diện cho Ban quản trị, tức cho phía buộc tội.
Hôm nay Hội đồng xét vụ Charrière. Clousiot, Maturette.
Chúng tôi đứng cách ṭa khoảng bốn mét. Tôi có đủ th́ giờ nh́n
kỹ mái đầu dăi nắng gió sa mạc của viên thiếu tá bốn mươi, bốn
nhăm tuổi ấy, với đôi thái dương ngả màu bạch kim. Một đôi mày
rất rậm trên một đôi mắt đen và sáng quen nh́n thẳng vào mắt mọi
người. Đó là một quân nhân thực thụ. Cái nh́n của ông ta không
có ǵ tàn ác. Ông nh́n kỹ vào mắt chúng tôi, như thể cân nhắc,
đánh giá chúng tôi trong vài giây.
Mắt tôi gắn chặt vào cái nh́n của ông một lát, rồi tôi cố t́nh
cụp mắt xuống.
Viên đại úy đại diên cho Ban quản trị lên án chúng tôi một cách
gay gắt quá mức, và chính điều đó sẽ làm cho ông ta thua cuộc.
Ông ta gọi hành động đánh vào đầu mấy tên giám thị để vô hiệu
hóa chúng trong chốc lát là một “cuộc mưu sát”. Về phần tên giữ
ch́a khóa A-rập, ông ta khẳng định rằng chúng tôi đánh hắn tới
tấp như vậy mà hắn không chết chẳng qua là do một sự may mắn
thần kỳ. Ông ta lại phạm một sai lầm nữa khi nói rằng chúng tôi
là những tên khổ sai đă đem nỗi ô nhục của nước Pháp đi bêu riếu
tận những nơi xa xôi nhất kể từ khi trại khổ sai được thành lập
cho đến nay: “Đến tận Colombia. Những con người này, kính thưa
quan chánh án, đă vượt qua hai ngàn năm trăm cây số để làm cái
việc đó. Trinidad, Curacao, tất cả các quốc gia đó chắc chắn là
đă phải nghe những lời vu khống hèn hạ nhất về chế độ trừng giới
của nước Pháp.
“Tôi yêu cầu Ṭa xử hai tội tách biệt với tổng số tám năm cấm
cố: năm năm v́ tội mưu sát, và ba năm v́ tội vượt ngục. Đó là về
phần Charrière và Clousiot.
C̣n về phần Maturette th́ tôi chỉ yêu cầu giam ba năm về tội
vượt ngục, v́ qua cuộc điều tra có thể thấy rơ tên này không
tham dự vào cuộc mưu sát.
Quan Chánh án:
- Ṭa muốn được nghe kể hết sức vắn tắt về hành tŕnh vượt biển
này”.
Tôi kể lại chuyến vượt biển đến Trinidad, bỏ qua phần trên sông
Maroni. Tôi mô tả gia đ́nh Bowen với những hành động đầy t́nh
nhân ái của họ. Tôi dẫn lại lời viên chỉ huy cảnh sát ở
Trinidad: “Chúng tôi không có bổn phận phán xét hệ thống tư pháp
của nước Pháp, nhưng chúng tôi không thể tán thành việc họ đày
các phạm nhân của họ sang Guyane, và chính v́ thế mà chúng tôi
giúp các anh”; Curacao, Đức Cha Irénée de Bruyne, câu chuyện cái
túi tiền florins, rồi xứ Co-lom-bia, tại sao chúng tôi đến đấy.
Vài câu vắn tắt về mấy tháng tôi ở với người Anh-điêng. Ông
thiếu tá im lặng nghe tôi kể, không lần nào ngắt lời. Ông chỉ
hỏi thêm vài chi tiết về sinh hoạt của tôi trong bộ lạc
Anh-điêng, một giai đoạn đă làm cho ông ta hết sức thích thú.
Rồi đến các nhà tù Colombia, đặc biệt là cái chuồng giam ngầm
của nhà tù Santa Marta.
- Cám ơn, những điều anh vừa kể đă giúp Ṭa sáng tỏ thêm và đồng
thời đă khiến cho Ṭa rất quan tâm. Ta sẽ nghỉ mười lăm phút.
Tôi không trông thấy các trạng sư bào chữa cho các anh ở đâu cả,
vậy họ ở đâu?
- Chúng tôi không có trạng sư bào chữa. Tôi xin Ṭa chấp nhận
cho tôi được bào chữa cho các bạn tôi và cho bản thân tôi.
- Anh có thể làm việc đó, quy chế thừa nhận quyền tự bào chữa
của anh.
- Cám ơn.
Mười lăm phút sau phiên ṭa lại tiếp tục.
Quan Chánh án:
- Charrière, ṭa cho phép anh tŕnh bày phần bào chữa cho các
bạn anh và cho bản thân anh. Tuy nhiên chúng tôi báo trước để
anh biết rằng Ṭa sẽ tước quyền phát biểu của anh nếu anh tỏ ra
thiếu tôn trọng vị đại diện của Ban quản trị. Anh hoàn toàn có
quyền tự bào chữa một cách tự do, nhưng với những lời lẽ đứng
đắn. Ṭa nhường lời cho anh.
- Tôi xin Ṭa dứt khoát gạt bỏ lời tố cáo chúng tôi mưu sát. Đây
là một điều không thể tin được, và tôi xin chứng minh điều đó:
năm ngoái tôi hai mươi bảy tuổi, c̣n Clousiot th́ ba mươi. Chúng
tôi đều đang tuổi sung sức, lại mới ở Pháp sang. Chúng tôi cao
một mét bảy mươi tư và một mét bảy mươi lăm. Chúng tôi đă dùng
hai cái chân giường bằng sắt để đánh người A-rập giữ ch́a khóa
và mấy người giám thị. Trong cả bốn người ấy không có ai bị
thương tích ǵ đáng kể. vậy họ đă bị đánh một cách rất thận
trọng v́ chúng tôi nhằm làm cho họ choáng đi mà không làm cho họ
bị thương, và chúng tôi đà đạt dược mục đích ấy. Viên giám thị
buộc tội chúng tôi đă quên nói, hoặc không biết, rằng hai cái
chân giường đều quấn giẻ rất kỹ để đừng làm ai bị thương. Quư
Ṭa gồm toàn những quân nhân chuyên nghiệp, nên biết rất rơ
những tác hại mà một người đàn ông khỏe mạnh có thể gây ra khi
đánh vào đầu một người khác, dù chỉ bằng má lưỡi lê. Thế th́ xin
Ṭa h́nh dung với một cái chân giường bằng sắt một người đàn ông
như chúng tôi có thể làm ǵ. Tôi xin lưu ư Ṭa rằng trong bón
người bị tấn công không có ai phải vào bệnh viện.
Tôi nghĩ rằng khi một người tù chung thân vượt ngục, tội của
người ấy không nghiêm trọng bằng tội của một người bị xử tù ngắn
hạn hơn mà vượt ngục. ở tuổi chúng tôi người ta khó ḷng có thể
đành tâm chấp nhận rằng ḿnh sẽ không bao giờ được sống lại nữa.
Tôi xin Ṭa khoan dung với cả ba chúng tôi.
Viên thiếu tá nói th́ thầm mấy câu với hai người phụ tá, rồi ông
dùng cái búa của Chánh án gơ lên bàn gấây.
- Bị cáo nhân, hăy đứng dậy
Cả ba chúng tôi đứng lên, thẳng đơ như ba cái cọc, đợi lời tuyên
án.
Quan Chánh án:
- Ṭa gạt bỏ hoàn toàn lời buộc tội mưu sát; về khoản này ṭa
không cần tuyên án, dù là tuyên án tha bổng.
Về tội vượt ngục, các anh được Ṭa thừa nhận là có tội ở mức thứ
hai. V́ tội này Ṭa xử các hai năm cấm cố.
Chúng tôi cùng nói một lượt: “Cám ơn thiếu tá”.
Tôi nói thêm: “Xin cám ơn Ṭa”.
Trong pḥng xử án, những tên cảnh sát đến dự phiên Ṭa cứ ngẩn
người ra.
Khi chúng tôi trở về pḥng giam, mọi người đều hài ḷng về tin
này, không ai ganh tỵ. Ngược lại. Ngay cả những người bị xử nặng
cũng thành thật mừng cho sự may mắn của chúng tôi.
Francois Sierra đến ôm hôn tôi. Anh ta mừng đến phát điên lên
được.
6.
Quần đảo Salut
Đến quần đảo
Mai là ngày chúng tôi phải lên tàu ra Quần đảo Salut. Mặc dầu
tôi đă đem hết sức b́nh sinh ra cưỡng lại số phận, thế mà giờ
đây chỉ c̣n mấy tiếng nữa tôi sẽ bị đưa đến nơi giam hăm suốt
đời. Trước hết tôi phải qua hai năm cấm cố ở đảo Saint-Joseph.
Tôi hy vọng sẽ làm cho cái biệt hiệu mà tù khổ sai đă đặt cho
nó: đảo “ăn thịt người”, không c̣n đúng nữa.
Tôi sẽ thua cuộc, nhưng không hề có tâm trạng của một kẻ bại
trận.
Tôi phải lấy làm mừng là chỉ phải giam hai năm trong cái nhà tù
của một trại tù này. Như tôi đă tự hứa, tôi sẽ không để t́nh
trạng hoàn toàn cô độc đưa tôi đến chỗ mất trí. Tôi đă có phương
thuốc chống lại nguy cơ dó. Tôi phải thấy trước là tôi sẽ được
tự do, lành mạnh như một tù nhân khổ sai b́nh thường trên quần
đảo. Khi ra khỏi nhà cấm cố, tôi sẽ được ba mươi tuổi.
ở Quần đảo, những vụ vượt ngục hết sức hiếm hoi, tôi biết điều
đó. Nhưng dù có thể đếm trên đầu ngón tay, vẫn có những người đă
vượt ngục. Thế th́ tôi, tôi cũng sẽ vượt ngục đó là điều chắc
chắn. Hai năm nữa tôi sẽ trốn khỏi Quần đảo, tôi nhắc đi nhắc
lại như vậy với Clousiot đang ngồi cạnh tôi.
- Bươm bướm, anh bạn già của tôi, quả thật khó ḷng có thể làm
cho anh nản chí, và tôi thật thèm muốn niềm tin mà anh mang
trong ḷng, niềm tin là chắc chắn một ngày kia anh sẽ được tự
do. Đă suốt một năm ṛng anh không ngừng vượt ngục, và chưa có
lần nào anh từ bỏ ư định. Vừa mới thất bại vụ này anh đă chuẩn
bị một vụ khác. Tôi lấy làm lạ rằng ở đây anh không thử làm ǵ
cả.
- ở đây chỉ có một cách thôi, bạn ạ: tổ chức một cuộc nổi loạn.
Nhưng để làm việc đó tôi không có đủ th́ giờ nắm vững trong tay
tất cả những con người khó điều khiển này. Tôi đă suưt gây nên
một cuộc nổi loạn, nhưng tôi đă thấy sợ bị nó nuốt chứng. Bốn
mươi người bị giam ở đây đều là tù khổ sai lâu năm. Con đường
của sự thối nát đă cuốn hút họ, họ phản ứng khác chúng ta. Dẫn
chứng: “ăn thịt người, hai anh chàng giết người bằng kiến, lại
c̣n cái người đă bỏ thuốc độc vào xoong xúp nữa: để giết một
người, hắn đă không do dự đầu độc luôn bao người khác chưa hề
làm ǵ phương hại đến hắn.
- Nhưng ở quần đảo vẫn sẽ là kiểu người đó.
- Đúng nhưng tôi không sẽ vượt ngục ra khỏi Quần đảo mà không
cần đến ai hết. Tôi sẽ ra đi một ḿnh, hay quá lắm, là với một
người bạn. Tại sao cậu lại cười mỉm hở Clousiot?
- Tôi cười là v́ không bao giờ cậu chịu bỏ cuộc. Ngọn lửa dang
thiêu đốt ruột gan cậu, sự nóng ḷng được về Paris ch́a sổ nợ ra
cho ba ông bạn kia, cổ vũ cậu mạnh mẽ đến nỗi cậu không thể thừa
nhận rằng những điều mà cậu mong muốn thiết tha đến thế lại có
thể không được thực hiện.
- Thôi chào Clousiot, hẹn đến mai. Phải, chúng ḿnh sẽ trông
thấy cái Quần đảo Salut chết tiệt ấy. Điều đầu tiên cần phải hỏi
là tại sao những ḥn đảo giết người ấy lại được gọi là Quần đảo
Salut (Quần đảo Cứu văn)?
Rồi quay lưng lại với Clousiot, tôi nghiêng đầu một chút cho mặt
tôi đón lấy gió biển ban đêm.
Sáng hôm sau, từ rất sớm chúng tôi đă được đưa lên tàu để ra
Quần đảo. Có cả thảy hai mươi sáu người trên một chiếc tàu thủy
trọng tải bốn trăm tấn gọi là chiếc Tanon, một chiếc tàu chuyên
chạy ven biển đi đi lại lại như con thoi giữa Cayenne, Quần đảo
Saint-Laurent và khứ hồi. Cứ hai người một bị ghép vào nhau bằng
sợi xích chân và một đôi khóa tay. ở phía trước là hai nhóm tám
người, mỗi nhóm được bốn tên lính canh cầm súng trường giám sát.
Một nhóm mười người ở phía sau với sáu tên lính canh và hai viên
chỉ huy đội áp giải. Tất cả đám người ấy đều đứng trên boong của
chiếc tàu cũ nát chỉ chực đắm bất cứ khi nào biển động.
V́ đă quyết định sẽ không suy nghĩ trong khi đi đường, tôi muốn
bày tṛ giải trí một chút. Chỉ để làm cho tên giám thị đứng gần
tôi nhất bực ḿnh (hắn có một bộ mặt đưa đám), tôi nói với hắn
rơ to:
- Với những thứ xuyến xích mà các anh bắt chúng tôi mang, chúng
tôi sẽ không có cách ǵ trốn thoát nếu chiếc tàu mục nát này
ch́m; điều này rất có thể xảy ra khi biển động.
Đang ngái ngủ, tên gác phản ứng đúng như tôi đă dự tính.
- Chúng mày có chết đuối hết ông cũng đếch cần. Đă có lệnh xích
chúng mày lại, chỉ có thể thôi. Trách nhiệm thuộc về những người
ra lệnh ấy. C̣n chúng tao th́ có thể nào cũng không quan hệ ǵ.
- Xét cho cùng ông nói có lư lắm, thưa ông giám thị, v́ có bị
xích hay không bị xích th́ khi cái quan tài này vỡ dọc đường,
tất cả chúng ta đều ch́m xuống đáy biển như nhau.
- ồ! - Tên gác đần độn kia nói, - tàu này đi biển đă lâu lắm rồi
mà chưa bao giờ làm sao cả.
- Đúng quá, nhưng chính v́ nó đi biển đă quá lâu cho nên đến bây
giờ nó đă đến mức sẵn sàng ch́m bất cứ lúc nào.
Tôi đă đạt được ư muốn: lay chuyển cái không khí im lặng ở xung
quanh đang làm cho tôi bứt rứt. Lập tức đề tài của tôi được tù
nhân và giám thị cùng hưởng ứng.
- Đúng, chiếc tàu này đă ọp ẹp đến mức độ nguy hiểm, mà người ta
lại xích chúng tôi. Không có xích th́ dù sao cũng chút hy vọng.
- ồ! Cũng thế cả thôi. Bọn tao mặc quân phục đi ủng đeo súng thế
này, cũng chẳng nhẹ hơn.
- Súng th́ không kể, v́ hễ tàu đắm có thể bỏ ngay ra, - một
người khác nói.
Thấy câu nói ăn khách, tôi cho ra câu thứ hai:
- Xuồng cấp cứu đâu cả rồi nhỉ? Tôi chỉ thấy một chiếc rất nhỏ.
Quá lắm cũng chỉ được tám người, vừa đủ cho ông thuyền trưởng và
đội thủy thủ. C̣n những người khác th́ đi tong!
Thế là nổ ra một phản ứng hàng loạt, ở một cung bậc rất cao.
- Đúng đấy chẳng có xuồng xiếc ǵ cả, mà cái tàu này th́ ọp ẹp
đến nỗi người ta phải vô trách nhiệm một cách không thể nào chấp
nhận được mới bắt những người có vợ có con phải bất chấp hiểm
nghèo để đi áp giải cái lũ khốn kiếp này.
V́ tôi ở trong nhóm tù đứng ở phía sau, hai người chỉ huy đội áp
giải đều đứng gần tôi. Một trong hai người nh́n tôi rồi nói:
- Anh là Bươm bướm ở Colombia mới về phải không?
- Vâng.
- Tôi thấy điều đó không có ǵ lạ: anh có vẻ thông thạo về nghề
hàng hải lắm nhỉ.
Tôi trả lời một cách hợm hĩnh:
- Vâng, cái đó th́ tôi thạo.
Câu nói của tôi gây được một không khí rờn rợn.
Vừa lúc ấy viên thuyền trường từ trên lầu chỉ huy bước xuống, v́
bây giờ chúng tôi vừa ra khỏi cửa sông Maroni, và đó là chỗ nguy
hiểm nhất cho nên ông ta phải thân hành cầm bánh lái. Bây giờ
ông ta đă trao nó cho một người khác. Vậy th́ ông thuyền trưởng,
da đen láy như người Tombouctau, khổ người thấp và mập, mặt c̣n
khá trẻ, cất tiếng hỏi xem những tay đă cưỡi mấy mảnh ván nhỏ
xíu giong buồm đến tận Colombia ở đâu.
- Đây tay này, và tay kia nữa đứng bên cạnh, - viên chỉ huy đội
áp giải nó.
- Ai là thuyền trưởng? - ông thuyền trưởng lùn nói.
- Thưa ông, tôi ạ.
- Thế th́, với tư cách thủy thủ, tôi có lời ngợi khen anh bạn.
Anh chẳng phải là người tầm thường. Tôi có cái này! - Ông ta
thọc tay vào túi áo rồi nói tiếp - Anh hăy nhận lấy gói thuốc lá
xanh và mớ lá quấn thuốc này. Anh hút để chúc sức khỏe cho tôi
đi.
- Cám ơn ông thuyền trưởng. Nhưng về phần tôi, tôi cũng phải
ngợi khen ông đă có đủ can đảm đi biển trên cái quan tài này,
h́nh như mỗi tuần một hai lần th́ phải.
Ông ta cười ha hả, làm cho những kẻ tôi đang muốn trêu thấy tức
đến tận cổ. Ông ta nói:
- Chà! Anh nói đúng quá! Cái tàu khổ này đáng lẽ phải được đưa
vào nghĩa địa từ lâu, nhưng bên công ty họ nhất định đợi cho nó
ch́m để lĩnh tiền bảo hiểm.
Tôi liền kết thúc bằng một câu xỏ xiên:
- Cũng may mà ông và đội thủy thủ c̣n có được một cái xuồng cáp
cứu.
- Phải, cũng c̣n may - ông thuyền trường nói một cách thiếu suy
nghĩ trước khi mất hút trong cầu thang.
Cái đề tài tranh luận mà tôi đă cố ư nêu ra đă làm cho tôi được
khuây khỏa trong hơn bốn tiếng đồng hồ. Ai nấy đều có ư kiến
riêng để nói ra, và đến một lúc nào đó, tôi chẳng hiểu bằng cách
nào, cuộc bàn căi đă lan ra đến tận mũi tàu.
Vào khoảng mười giờ sáng, biển không động mấy, nhưng gió không
thuận lợi cho chuyến đi. Tàu chúng tôi đi về hướng đông bắc,
nghĩa là ngược chiều với sóng và gió, cho nên tất nhiên nó phải
tṛng trành cả theo chiều ngang lẫn theo chiều dọc hơn mức trung
b́nh. Nhiều tù nhân và giám thị bị say sóng. Cũng may mà người
bị xích liền vào tôi chịu sóng giỏi, v́ không có ǵ khó chịu hơn
là có một người nôn ọe ngay bên cạnh ḿnh. Anh này là một gă du
côn Paris thứ thiệt. Anh ta bị đày đến Quần đảo năm 1927. Vậy là
đă được bảy năm. Anh ta c̣n tương đối trẻ, chỉ ba mươi tám tuổi.
- Người ta gọi tôi là Titi la Belote, v́ tôi phải nói cho cậu
biết rằng bài belote là môn sở trường của tôi. Vả lại ở Quần đảo
tôi sống bằng nghề đánh bài này. Belote suốt đêm, mỗi điểm ăn
hai francs, Nếu đánh có “loan báo” th́ có thể ăn thua rất lớn.
Nếu anh thắng bằng một con bồi hai xu th́ người thua phải trả
cho anh bốn trăm francs và một ít tiền lẻ cho các điểm khác nữa.
- Nhưng ở Quần đảo sao lắm tiền thế?
- Sao mà chả lắm hở anh bạn Bươm bướm. ở quần đảo đầy những
plans nhét tiền chật ních. Có người th́ đến nơi đă có sẵn, có
người th́ nhận được tiền qua bọn giám thị với điều kiện chia cho
chúng năm mươi phần trăm. Rơ ràng anh c̣n mới toanh, có vẻ như
chưa biết ǵ cả phải không?
- Đúng, tôi chẳng biết chút ǵ về Quần đảo. Tôi chỉ biết là ở
đấy khó vượt ngục lắm.
- Vượt ngục ấy à? - Titi nói. - Thôi đừng nói nữa cho mệt. Tôi ở
Quần đảo đă bảy năm, có xảy ra hai vụ vượt ngục, với kết quả là
ba người chết và hai người bị bắt. Chưa ai thành công cả. V́ vậy
chẳng mấy ai dám cầu may.
- Vừa rồi anh lên đất liền để làm ǵ?
- Vừa rồi tôi đi chiếu điện xem thử có bị loét dạ dày hay phổi
ǵ không.
- Thế mà anh không cố trốn khỏi bệnh viện à?
- Khéo nói nhỉ! Chính anh đă làm hỏng hết đấy. Papillon ạ. Thế
mà vừa rồi tôi lại có cái may mắn rơi đúng vào căn pḥng trước
kia, anh đă trốn đi. Anh cũng thừa hiểu họ giám sát kỹ như thế
nào! Cứ mỗi lần ra gần cửa sổ để thở một chút là họ bắt lùi lại
ngày. Khi hỏi tại sao th́ họ trả lời: “Để pḥng trường hợp anh
nảy ra cái ư làm như Papillon”.
- Titi này, cái tay cao lớn ngồi bên cạnh viên chỉ huy đội áp
giải là ai thế? Một tay chỉ điểm à?
- Anh điên rồi sao? Gă này ai cũng phải quư trọng. Cậu ta vốn là
dân trường giả, nhưng lại biết xử sự đúng như một tay giang hồ:
không đi lại với bọn gác, không t́m cách chiếm vị trí ưu đăi,
biết giữ tư cách một người tù khổ sai. Có khả năng mách bạn một
lời khuyên tốt, nói chung là một người bạn tốt, rất biết giữ
khoảng cách với bọn cảnh sát. Ngay cả ông linh mục và ông bác sĩ
cũng không sử dụng được cậu ta. Con người gốc gác th́ trưởng giả
nhưng tư cách th́ giang hồ chân chính này là con cháu của Louis
XV. Thế đấy anh bạn ạ, đó là một bá tước, một bá tước chính
cống, dược gọi là bá tước Jean de Bérac. Tuy vậy, khi cậu ta mới
đến, ai nấy đều xa lánh, và phải một thời gian rất dài cậu ta
mới chinh phục được sự kính nể của mọi người, v́ cái tội khiến
cho cậu ta bị đày khổ sai là một tṛ rất tởm.
- Cậu ta đă làm ǵ thế
- ấy, cậu ta đă đứng trên cầu ném thằng con trai ruột xuống
sông, và khi thấy thằng bé rơi xuống chỗ quá cạn, cậu ta đă đủ
gan góc xuống bế nó đến ở một chỗ sâu hơn.
- Sao! Như thế là gần như giết thằng con hai lần c̣n ǵ?
- Theo một người bạn của tôi vốn làm kế toán và đă đọc hồ sơ của
cậu ta th́ cậu ta đă bị giới quư tộc khủng bố. Và mẹ cậu ta đă
ném người mẹ của con ḿnh ra đường như một con chó. Cô ấy là một
nữ tỳ trẻ tuổi trong lâu đài nhà họ. Theo bạn tôi th́ cậu này
chịu sự chế ngự của một bà mẹ kiêu ngạo, câu nệ đă hạ nhục con
trai đến cùng cực, đă làm cho cậu ta thấy rằng ḿnh là một bá
tước mà đi lại với một con đầy tớ là ô nhục cho cả gịng họ, đến
nỗi cậu ta hoang mang quá nói với mẹ thằng bé là ḿnh đưa nó ra
cho trại Tế bần nuôi rồi đi ném nó xuống sông: lúc ấy cậu gần
như mất trí, cũng chẳng biết ḿnh làm ǵ nữa.
- Cậu ta bị xử bao nhiêu?
- Mười năm thôi. Papillon ạ, cậu cũng thừa biết cậu ta không
phải là một tay như chúng ḿnh. Chắc là bà bá tước phu nhân,
người bảo vệ danh dự của gióng giơi de Berac, đă làm cho bọn
quan ṭa hiểu rằng giết con của đày tớ không phải là một tội quá
nặng khi tội nhân là một bá tước muốn cứu văn thanh danh của gia
đ́nh.
- Kết luận?
- Kết luận của tôi, một thằng du đăng Paris hèn mọn, là như sau:
về căn bản, bá tước Jean de Bérac này là một anh chàng quư tộc
nông thôn đă được giáo dục như thế nào để đi đến chỗ quan niệm
rằng trên đời này chỉ có “ḍng máu xanh” (huyết thống quư tộc)
là có giá trị, c̣n mọi thứ khác đều vô nghĩa lư và không có chút
ǵ đáng cho người ta để tâm đến. Những người không phải là quư
tộc th́ không hẳn là hạng nông nô, nhưng dù sao cũng là những
con người không cần đếm xỉa đến. Mẹ cậu ta là một quái vật của
sự ích kỷ và sự hợm hĩnh, đă nhào nặn và khủng bố cậu ta đến mức
làm cho cậu ta trở thành một kiểu người quư tộc như thế. Chính
cuộc sống ở trại khổ sai đă làm cho vị chúa đất ấy, xưa kia vẫn
tin rằng ḿnh có đặc quyền thưởng thức trước tất cả những người
con gái trên lănh địa của ḿnh trong đêm đầu tiên họ đi lấy
chồng, nay đă trở thành một người tôn quư thật sự, theo cái
nghĩa đúng của từ này. Nói ra nghe cũng ngược đời, nhưng phải
đến bây giờ cậu ta mới thực sự là một người quư phái, là một bá
tước.
Quần đảo Salut chỉ c̣n mất giờ nữa sẽ không c̣n là một cái ǵ xa
lạ đối với tôi như trước nữa. Tôi biết rằng trốn khỏi quần đảo
là rất khó. Nhưng không phải là không thể được. Vừa khoái trá
hít mạnh gió biển khơi vào lồng ngực, tôi vừa nghĩ: đến bao giờ
th́ làn gió ngược này sẽ biến thành một làn gió xuôi trong một
chuyến vượt ngục”?
Chúng tôi đă đến. Quần đảo kia rồi? Ba cái đảo ấy làm thành một
h́nh tam giác. Đảo Royale và đảo Saint-Joseph làm thành cái đáy.
Đảo quỷ là đỉnh. Mặt trời, lúc bấy giờ đă xế bóng, chiếu vào các
đảo những tia sáng rực rỡ mà chỉ có ở vùng nhiệt đới mới có thể
chói chang như vậy. Cho nên chúng tôi có thể tha hồ ngắm nghía
từng đảo đến những chi tiết nhỏ nhất. Trước hết là đảo Royale
với một dải đất cong phẳng ĺ bao quanh một ngọn đồi tṛn cao
hơn hai trăm mét. Đỉnh đồi bằng phẳng. Nh́n toàn cục, nó rất
giống một cái mũ Mexico đặt trên mặt biển, cái chóp đă bị cắt
mất, đâu đâu cũng có những rặng dừa rất cao và rất xanh tốt.
Những nếp nhà nho nhỏ lợp ngói đỏ làm cho ḥn đảo này có một sức
hấp dẫn lạ thường, và ai không biết rơ trên đảo có ǵ chắc sẽ mơ
ước được sống trên đảo suốt đời. Trên đỉnh đồi bằng phẳng có đặt
một ngọn hải đăng được thắp về đêm để khi sóng to gió lớn tàu bè
khỏi đâm vào các tảng đá ở xung quanh. Bây giờ tàu đă đến gần
hơn, tôi có thể trông rơ năm ṭa nhà lớn và dài.
Nhờ có Titi tôi được biết rằng trước hết đó là hai pḥng giam
rộng mênh mông chứa đến bốn trăm phạm nhân. Rồi đến khu trấn áp
với những căn buồng giam, xà-lim và chuồng sắt, có một bức tường
cao vây quanh. Ṭa nhà thứ tư là bệnh viện của tù khổ sai và ṭa
nhà thứ năm là bệnh viện của những người canh gác trại tù. Và
rải rác khắp nơi trên các sườn dốc là những ngôi nhà nhỏ, mái
lợp ngói đỏ, của các cảnh sát viên. Xa chúng tôi hơn, nhưng rất
gần với mũi nhọn cuối đảo Royale là đảo Saint-Joseph, ít dừa
hơn, ít cành lá um tùm hơn, và trên đỉnh cao nguyên là một cái
nhà trệt rộng mênh mông mà từ ngoài biển nh́n vào trông rất rơ.
Tôi hiểu ngay: đó là nhà tù cấm cố và Titi la Belote cũng xác
nhận điều đó. Anh ta chỉ cho tôi xem, ở phía dưới, những ṭa nhà
của trại tù, nơi giam các phạm nhân bị án b́nh thường. Các ṭa
nhà này rất gần biển. Các tháp canh nổi lên rất rơ trên nền
trời, với những ổ súng của nó. Rồi lại đến những nếp nhà xinh
xắn đỏm dáng, tường quét vôi trắng, mái ngói đỏ. V́ chiếc tàu đi
vào ngỏ đảo Royale từ phía nam cho nên bây giờ chúng tôi không
trông thấy đảo Quỷ, đảo nhỏ nhất trong cả Quần đảo. Trước đây
tôi đă có dịp nh́n thoáng qua đảo này từ xa: đó là một tảng đá
khổng lồ mọc đầy dừa, không có công tŕnh xây dựng ǵ lớn. Vài
nếp nhà ven bờ biển, sơn vàng, mái đen mồ hóng. Về sau tôi sẽ
được biết rằng đó là nhà ở của những người bị đày v́ chính trị.
Tàu chúng tôi đang đi vào bến cảng của đảo Royale, được che kín
sóng bằng một cái đập dài làm bằng những khối đá lớn. Công tŕnh
này chắc đă phải tốn nhiều sinh mạng của phạm nhân mới xây được.
Sau ba tiếng c̣i, chiếc Tanon bỏ neo cách bến khoảng hai trăm
năm mươi mét. Bến này xây rất chắc bằng xi-măng và bằng đá tảng,
chiếm một quăng dài và cao hơn ba mét. Lùi vào phía trong những
ṭa nhà sơn trắng chạy dài song song với bến. Tôi đọc thấy những
ḍng chữ sơn đen trên nền trắng: “Trạm gác” - “Sở Dịch vụ thuyền
bè” - “Xưởng bánh ḿ” - “Ban Quản trị cảng”.
Có thể trông thấy mấy người tù khổ sai đang đứng nh́n chiếc tàu.
Họ không mặc đồ sọc, mà đều mặc quần dài thường và một thứ
blouson trắng. Titi la Belote nói với tôi rằng ở Quần đảo những
người có tiền th́ thuê thợ may “may đo” áo quần bằng những cái
bao bột đă tẩy sạch chữ: họ có được những bộ áo quần mặc rất
thoải mái và trông có phần diện nữa là khác. Hầu như không một
người nào mặc đồng phục tù khổ sai.
Một chiếc xuồng đến gần chiếc Tanon.
Một viên giám thị ngồi sau lái; hai tên cầm súng trường ngồi hai
bên mạn; ở phía sau là sáu người tù khổ sai, ḿnh trần, quần
trắng, đứng chèo bằng những mái chèo rất lớn. Chỉ một lát là ra
đến tàu.
Chiếc xuồng của họ kéo theo sau một chiếc thuyền lớn kiểu xuồng
cấp cứu của tàu thủy. Cuộc chuyển từ lên bờ bắt đầu. Trước hết
mấy viên chỉ huy đội áp giải xuống thuyền và ra ngồi ở phía sau.
Rồi hai viên giám thị cầm súng trường đi ra phía trước. Chân
được tháo xiềng, nhưng tay vẫn bị khóa, chúng tôi xuồng thuyền
từng hai người một; mười người trong nhóm tôi, rồi đến tám người
trong nhóm đứng ở phía trước tàu. Mấy người chèo thuyền bắt đầu
cho thuyền tách khỏi chiếc tàu. Họ c̣n chở ra một chuyến nữa để
đưa số tù c̣n lại vào bờ.
Chúng tôi lên bến, xếp hàng trước ṭa nhà “Ban Quản trị cảng” và
đứng đợi. Trong chúng tôi không có ai có hành lư ǵ. Chẳng đếm
xỉa ǵ đến bọn cảnh sát, các phạm nhân tại chỗ bô bô nói chuyện
với chúng tôi từ một khoảng cách năm sáu mét - đủ để đừng bị bọn
cảnh sát tấn công. Nhiều phạm nhân cùng vượt Đại tây dương trên
một chuyến tàu với tôi thân ái chào tôi. Cesari và Essari, hai
tên cướp đảo Corse mà tôi đă làm quen ở Saint-Martin, cho tôi
biết hiện nay họ chèo xuồng cho sở dịch vụ ở cảng. Vừa lúc ấy
tôi trông thấy Chapar, bị đày trong vụ Chứng khoán ở Marseille,
mà tôi có quen khi anh ta c̣n được tự do ở Pháp. Không hề e ấp
trước mặt bọn lính canh, anh ta nói với tôi:
- Đừng buồn Papillon ạ! Cậu cứ tin ở bạn bè, ở nhà giam cấm cố
cậu sẽ không thiếu thứ ǵ hết. Cậu bị bao nhiêu?
- Hai năm.
- Được cũng chóng qua thôi, rồi cậu sẽ ra đây với chúng tớ, và
sẽ thấy rằng ở đây cũng khá.
- Cám ơn Chapar. C̣n Dega ở đâu?
Bác ta làm kế toán ở trên kia. Bác chưa ra đây th́ lạ thật.
Không gặp được cậu bác ta sẽ tiếc lắm. Vừa lúc đó Galgani đến.
Anh ta xăm xăm đi về phía tôi, tên lính ác toan cản, nhưng anh
ta cứ đến, nói: “Chẳng lẽ ra ôm hôn anh ruột tôi mà anh cũng cản
à? Thật quá quắt. Rồi anh ta ôm hôn tôi, nói: “Cứ tin vào tôi”.
Đoạn anh ta lùi ra.
-Anh bây giờ làm ǵ?
- Đưa thư, giao liên.
- Có ổn không?
- Tôi được yên thân lắm.
Những người tù c̣n lại đă được đưa hết lên bờ và cho nhập bọn
với chúng tôi. Mọi người đều cởi khóa tay. Titi la Belote, de
Bérac và mấy người không quen tách ra khỏi nhóm. Một viên giám
thị nói với họ: “Nào, lên đường về trại”. Mấy người này có mang
theo bị đựng đồ của trại. Họ vác bị lên vai và đi theo một con
đường dốc dẫn lên phía trên đảo. Viên chỉ huy Quần đảo đến với
sáu viên giám thị. Điểm danh. Viên chỉ huy nhận đủ số tù. Đội áp
giải chúng tôi lui ra.
- Kế toán đâu? - Viên chỉ huy hỏi.
- Thưa sếp hắn đây.
Tôi thấy Dega đến, mặc một bộ đồ trắng tươm tất, áo vét có nhiều
khuy, cùng đi với một viên giám thị; mỗi người cắp một cuốn sách
lớn. Cả hai gọi từng người một ra khỏi hàng, theo cách phân loại
mới: anh tù cấm cố Jean Mỗ, số tù X, sẽ có số tù cấm cố là Z.”
- Bao nhiêu?
- X năm.
Khi đến lượt tôi, Dega ôm hôn tôi mấy lần liền.
Viên chỉ huy lại gần.
- Anh này là Papillon à?
Thưa ông chỉ huy vâng, - Dega nói
- Mong anh giữ sức khỏe ở nhà tù cấm cố. Hai năm cũng chóng qua
thôi.
Nhà
giam cầm cố
Một chiếc xuồng đă được chuẩn bị sẵn sàng. Trong số mười chín tù
nhân cấm cố sẽ có mười người di chuyển trước. Tôi được gọi tên
để lên xuồng. Dega thản nhiên nói: “Không, anh này đi chuyến
sau”.
Từ khi đến đây tôi đă phải sửng sốt khi nghe cách ăn nói của các
tù nhân. Rơ ràng là họ không đếm xỉa đến kỷ luật và có vẻ như
chẳng coi bọn cảnh sát ra ǵ hết. Tôi nói chuyện với Dega lúc
bấy giờ đă đến đứng gần tôi. Bác ta đă biết hết chuyện vượt ngục
của tôi cũng như những chuyện khác có liên quan đến tôi. Có
những người đă tiếp xúc với tôi ở Saint-Laurent có đến Quần đảo
và kể lại cho bác biết hết. Bác ta không hề tỏ ư thương xót tôi.
Bác ta tế nhị hơn nhiều. Chỉ một câu thôi nói tự đáy ḷng: “Cậu
rất xứng đáng thành công. Thôi để lần sau?” Thậm chí bác ta cũng
không nói “Can đảm lên “. Bác thừa biết rằng cái đó th́ tôi có
thừa.
- Tôi làm kế toán trưởng ở đây và có quan hệ rất tốt với ông chỉ
huy. ở nhà giam cấm cố cậu cố gắng có hạnh kiểm tốt. Tôi sẽ gửi
cậu ít thuốc lá và thức ăn. Cậu sẽ không thiếu thứ ǵ đâu.
Papillon, đi thôi! - Đă đến lượt tôi.
- Xin chào tất cả. Cám ơn những lời lẽ chân t́nh của các bạn.
Tôi xuống thuyền. Hai mươi phút sau, thuyền cặp bến ở
Saint-Joseph. Tôi có đủ th́ giờ nhận thấy trên thuyền chỉ có ba
viên giám thị có súng, trong khi có đến sáu người tù chèo thuyền
và mười người tù cấm cố Phối hợp để chiếm lĩnh cái thuyền này
chỉ là một tṛ đùa.
ở Saint-Joseph, một ủy ban tiếp đón ra nhận chúng tôi. Có hai
viên chỉ huy tự giới thiệu: viên chỉ huy trại trừng giới của đảo
và viên chỉ huy của Nhà giam cấm cố. Chúng tôi được dẫn bộ đi
lên con đường dốc đến nhà giam. Trên đường đi không thấy một
người tù nào.
Khi đi vào cửa sắt lớn ở bên trên có mấy chữ Nhà giam cấm cố
trừng giới, người ta có thể hiểu ngay tầm quan trọng của cái
phương tiện trấn áp này. Bên trong tấm cửa và bốn bức tường cao
ở xung quanh, trước hết có một dăy nhà nhỏ có đề: “Ban giám đốc
- Quản trị”, rồi ba dăy nhà khác đề A, B, C. Chúng tôi được đưa
vào dăy nhà của ban giám đốc. Một gian pḥng lạnh lẽo. Khi mười
chín người đă được xếp thành hai hàng trong pḥng, viên chỉ huy
Nhà giam cấm cố nói với chúng tôi:
- Các phạm nhân cấm cố, các anh biết rằng nhà này là một nhà
trừng giới dành cho những phạm nhân đă bị đày khổ sai mà lại c̣n
có những hành động phạm pháp. ở đây người ta không t́m cách cải
huấn các anh. Chúng tôi biết rằng việc đó vô ích. ở đây người ta
chỉ t́m cách trấn áp các anh. Chỉ có một nội quy duy nhất: câm
mồm. Im lặng tuyệt đối, “gọi điện” là việc rất nguy hiểm, nếu bị
bắt gặp sẽ bị phạt rất nặng. Nếu không ốm nặng, chớ đăng kư xin
đi khám. V́ nếu khám không thấy có bệnh nặng, các anh sẽ bị phạt
rất nghiêm. Đó là tất cả những ǵ tôi cần nói với các anh. à
quên, ở đây nghiêm cấm hút thuốc. Giám thị, hăy lục soát kỹ các
phạm nhân, rồi đưa từng người về xà-lim. Charrière, Clousiot và
Maturette không được ở cùng một nhà. Ông Santori, ông phải thân
hành trông coi việc này.
Mười phút sau tôi bị nhốt vào căn xà-lim dành cho tôi căn số 234
của dăy nhà A.Clousiot bị giam ở dăy nhà B và Maturette ở dăy
nhà C. Chúng tôi đưa mắt từ biệt nhau. Khi bước vào đây, tất cả
chúng tôi đều hiểu ngay rằng nếu muốn sống sót mà ra khỏi th́
nhất nhất phải tuân theo cái nội quy vô nhân đạo này. Tôi từ giă
hai người bạn đường của tôi trong chuyến vượt ngục dài ngày, hai
người bạn hào hùng và dũng cảm đă tỏ rơ phẩm chất ḿnh trong khi
đi với tôi và không hề bao giờ kêu ca hay hối tiếc những ǵ họ
đă cùng làm bên cạnh tôi. Tim tôi se lại, v́ sau mười bốn tháng
vật lộn vai kề vai để dành lại tự do, chúng tôi đă vĩnh viễn gắn
bó với nhau bằng một t́nh bạn không bờ bến.
Tôi xem xét căn buồng giam mà họ đă lùa tôi vào. Không bao giờ
tôi có thể dự đoán hoặc tường tượng rằng một nước như nước Pháp
của tôi, vốn là người mẹ của tự do trên trái đất này, là đất
nước đă sinh ra Nhân quyền và Dân quyền, lại có thể dựng lên, dù
là ở Guyane thuộc Pháp, trên một ḥn đảo chơi vơi giữa Đại tây
dương, rộng vừa bằng cái mùi-soa bỏ túi, một trại giam có tính
chất trấn áp man rợ như cái nhà giam trừng giới ở Saint-Joseph.
Cái bạn hăy tương tượng một trăm năm mươi căn xà-lim kế cận
nhau, giáp lưng nhau, bốn bức tường rất dày chỉ có một cánh cửa
sắt nhỏ với cái lỗ ghi-sê của nó. ở phía trên mỗi ghi-sê đều có
ḍng chữ đề: “Cấm mở cửa này nếu không có lệnh trên”. ở bên trái
căn buồng là một tấm ván làm giường nằm với một cái gối bằng gỗ,
cũng được thiết bị như ở Beaulieu: tấm ván có thể lật lên móc
sát vào tường; một tấm chăn; một khối xi-măng xây ở góc trong
dùng làm ghế; một cái chổi nhỏ; một cái ca nhà binh, một cái
th́a bằng gỗ, một tấm sắt mỏng dựng đứng che một cái bô bằng kim
loại buộc vào tấm sắt kia bằng một sợi xích (từ phía ngoài có
thể kéo nó ra để đổ, và từ phía trong có thể lôi nó vào để
dùng). Buồng cao ba mét, trần là một dăy song sắt rất lớn, mỗi
chấn song to bằng một thanh đường ray xe điện, bắt chéo nhau rất
dày để không thể có một vật ǵ hơi to hơn có thể lọt qua. Rồi,
cao hơn nữa, là mái của ṭa nhà, cách mặt đất khoảng bảy mét.
Phía trên bức tường ngăn cách các xà lim quay lưng vào nhau là
một con đường đi tuần rộng khoảng một mét, có tay vịn bằng sắt,
nh́n thẳng xuống các buồng giam. Hai viên giám thị thường xuyên
đi từ đầu đường cho đến giữa đường: ở đây họ gặp nhau và quay
trở lại. Tất cả gây thành một ấn tượng rùng rợn. ánh sáng ban
ngày chiếu vào con đường đi tuần đủ sáng. Nhưng ở các buồng
giam, dù đang giữa ban ngày, th́ tối mờ mờ không nh́n thấy rơ
những vật xung quanh. Tôi bắt đầu đi đi lại lại ngay, trong khi
chờ đợi họ huưt c̣i bay ra một hiệu lệnh ǵ đó không biết để cho
phép tù nhân hạ tám ván xuống mà nằm.
Để khỏi gây tiếng động, tù nhân và lính gác đều đi giày vải. Tôi
nghĩ ngay: “ở đây, tại buồng giam 234, Charriere biệt hiệu Bươm
bướm, sẽ có gắng sống mà không phát điên trong thời hạn hai năm,
tức bảy trăm ba mươi ngày. Hắn có bổn phận cải chính cái biệt
hiệu “ăn thịt người” của nhà giám cấm cố này. Một, hai, ba, bốn,
năm quay đằng sau. Một hai, ba, bốn, năm, quay đằng sau. Tên
lính gác vừa đi qua trên nóc tường trước mặt tôi. Tôi không nghe
thấy tiếng chân hắn đến, tôi chỉ trông thấy hắn. Tách. Đèn bật
lên, nhưng rất cao, treo măi tận mái trên, cách mặt đất hơn sáu
mét. Lối đi tuần được chiếu sáng, các buồng giam vẫn ch́m trong
bóng tối. Tôi đi đi lại lại, cái quả lắc lại đung đưa. Hăy ngủ
yên, hỡi mấy miếng phó-mát của hội đồng bồi thẩm đă xử tôi, các
người hăy ngủ yên, v́ tôi tin rằng nếu hồi ấy các người biết các
người sẽ đưa tôi đến chỗ nào, các người sẽ thấy ghê tởm và sẽ
không chịu làm những kẻ đồng lơa với việc thi hành một h́nh phạt
như vậy.
Khó ḷng thoát khỏi t́nh trạng đi lang thang của trí tưởng
tượng. Hầu như không thể nào thoát được. Tôi nghĩ nên hướng nó
về những đề tài không đến nỗi buồn nản quá th́ hơn là cố xua
đuổi hắn nó đi. Quả nhiên, hiệu lệnh cho phép hạ ván nằm xuống
là một tiếng c̣i. Tôi nghe thấy một giọng thô lỗ nói:
- Những người mới đến nên biết rằng kể từ bây giờ, nếu muốn, th́
có thể hạ ván xuống để nằm.
Tôi chỉ ghi nhớ hai chữ “nếu muốn”. Cho nên tôi tiếp tục đi đi
lại lại, giờ phút này quá nghiêm trọng để có thể ngủ. Tôi cần
phải tập cho ḿnh quen với cái chuồng hở phía trên này.
Một, hai, ba, bốn, năm... tôi đă nắm vững được ngay cái tiết tấu
của quả lắc; đầu cúi xuống, hai tay chắp sau lưng khoảng cách từ
bước đi phải thật đều và thật chính xác, như một quả lắc đưa qua
đưa lại, tôi đi đi lại lại và cùng tận như một kẻ mộng du. Bước
hết năm bước, tôi không cần trông thấy bức tường, áo tôi chỉ
chạm nhẹ vào nó khi quay lại cứ thế măi không hề mệt mỏi trong
cuộc đua marathon không có đích mà cũng không cơ thời hạn chấm
dứt.
Phải, thật đấy Papi ạ, cái nhà giam “ăn thịt người” không phải
là tṛ đùa. Và khi bóng tên lính gác hắt xuống tường, nó gây một
hiệu quả thật dễ sợ. Nếu ngẩng đầu lên mà nh́n th́ c̣n nản hơn
nữa: người ta có cảm giác ḿnh là một con báo bị nhốt dưới hố,
c̣n ở phía trên là người đi săn vừa bắt được báo đang nh́n xuống
để quan sát nó. Cái ấn tượng thật là hăi hùng, và tôi phải mất
đến mấy tháng trời mới quen được.
Mỗi năm là ba trăm sáu mươi lăm ngày; hai năm là bảy trăm ba
mươi ngày, nếu không có năm nhuận. Tôi mỉm cười v́ cái ư này.
Anh ạ, dù có là bảy trăm ba mươi mốt th́ cũng thế thôi. Tại sao
lại cũng thế thôi? Không, không phải cũng thế thôi đâu. Thêm một
ngày là thêm hai mươi bốn giờ đồng hồ. Mà hai mươi bốn giờ đ̣ng
hồ cũng lâu lắm. Bảy trăm ba mươi lần hai mươi bốn giờ lại c̣n
lâu hơn nhiều. Tổng cộng lại th́ thành bao nhiêu giờ nhỉ? Liệu
tôi có đủ sức tính nhẩm ra con số đó không? Làm thế nào tính
nhẩm được, chịu thôi. Sao lại chịu? Tính được chứ. Xem nào. Một
trăm ngày là hai ngàn bốn trăm giờ. Nhân cho bảy rất dễ trước
hết ta có mười sáu ngàn tám trăm giờ. Rồi ta nhân ba mươi ngày
c̣n lại cho hai mươi bốn thành bảy trăm hai mươi giờ. Tổng cộng:
một vạn sáu ngàn tám trăm cộng với bảy trăm hai mươi, vị chi là
một vạn bảy ngàn năm trăm hai mươi giờ, nếu tôi không nhầm chỗ
nào. Thưa ngài Papillon thân mến, ngài có cả thảy một vạn bảy
ngàn năm trăm hai mươi giờ để mà giết trong cái chuồng được
thiết kế riêng cho thú dữ này, với bốn bức tường nhẵn nhụi của
nó. Vậy chứ tôi sẽ ở đây bao nhiêu phút nhỉ? Cái đó chẳng có
chút ǵ thú vị, giờ th́ c̣n được chứ phút th́ nghĩa lư ǵ? Ta
không nên cường điệu quá. Tại sao lại không tính cả giây nữa
nhỉ? Điều đó quan trọng là phải có cái ǵ lấp đầy những ngày,
những giờ, những phút ấy trong khi tôi sống một ḿnh, tự ḿnh
đối diện với ḿnh! Ai bị giam ở buồng bên phải nhỉ? ai ở buồng
bên trái? ai ở buồng phía sau? Ba con người đó, nếu trong các
buồng giam ấy có người, chắc cũng phải tự hỏi: ai vừa vào buồng
234?
Có một tiếng động mềm của một vật ǵ vừa rơi xuống ở sau lưng
tôi, trên nền xà~lim. Cái ǵ thế nhỉ? Phải chăng người tù kế cận
đă khéo tay vứt cho tôi một vật ǵ qua hai lần chấn song? Tôi cố
nh́n cho ra xem đó là vật ǵ. Chỉ thấy mờ mờ một cái ǵ nho nhỏ,
dài dài. Tôi đă sắp cầm nó lên, th́ cái vật mà trong bóng tối mờ
mờ tôi đoán ra được nhiều hơn là trông thấy nó, tự dưng cử động
và chạy nhanh về phía tường. Khi nó nhúc nhích, tôi bất giác
giật ḿnh lùi lại. Đến chân tường, nó bắt đầu leo lên một quăng
rồi tuột xuống đất. Bức tường nhẵn nhụi đến nỗi vật kia không
thể bám đủ chặt để leo lên. Tôi để cho nó thử leo lên tường ba
lần, rồi đến lần thứ tư, khi nó rơi xuống, tôi giẫm mạnh chân
lên. Dưới lớp giày vải tôi thấy mềm mềm. Cái ǵ thế nhỉ? Tôi quỳ
xuống để nh́n cho thật sát, và cuối cùng tôi đă nh́n ra được: đó
là một con rết khổng lồ, dài hơn hai mươi phân, thân rộng bằng
hai ngón tay cái Tôi thấy tởm lợm đến nỗi không dám nhặt nó lên
để bỏ vào bô. Tôi dùng chân đẩy nó vào gầm ván. Đến mai hăy xem
cho sáng. Về sau tôi sẽ c̣n đủ th́ giờ trông thấy nhiều rết nữa;
nó rơi từ cái mái nhà rộng ở trên kia. Tôi sẽ phải học cách để
cho nó ḅ trên thân thể để trần của tôi, không bắt, cũng không
động đến nó nếu tôi đang nằm. Tôi cũng sẽ có dịp biết rơ rằng
những khi nó đang ḅ trên người, chỉ một sai lầm nhỏ về chiến
thuật thôi cũng bắt người ta phải trả giá bằng những cơn đau đớn
dừ dội đến thế nào. Một mũi đốt của con vật kinh tởm này đủ làm
cho anh sốt nặng trong hơn mười hai tiếng đồng hồ và làm cho đau
nhức khủng khiếp trong gần sáu tiếng đồng hồ.
Dù sao chăng nữa nó vẫn có thể được dùng như một phương tiện
giải trí, một lối thoát cho những ư nghĩ của tôi. Về sau mỗi khi
có một con rết rơi xuống trong khi tôi đang thức, tôi thường lấy
cái chổi con trêu chọc nó, vật lên vật xuống thật lâu, hoặc bày
tṛ chơi với nó bằng cách để cho nó chạy đi nấp và một lát sau
tôi t́m cách phát hiện ra nó.
Một, hai, ba, bốn, năm... Xung quanh im lặng hoàn toàn. ở đây
không ai ngáy th́ phải? Không ai ho hay sao? Trời nóng nực đến
ngạt thở. Thế mà bây giờ đang là ban đêm! C̣n ban ngày th́ phải
nóng đến thế nào nữa? Số tôi là phải sống với rết hay sao ấy.
Khi nước thủy triều lên ngập cái buồng giam ở Santa Marta, rết
vào từng mớ, nó nhỏ hơn nhưng cũng là cùng một ḍng họ với lũ
rết ở đây. ở Santa Marta quả t́nh ngày nào cũng bị ngập lụt,
nhưng người ta được nói, được hét, được nghe tiếng hát hoặc
tiếng hú và nghe những câu nói lảm nhảm của những người điên tạm
thời hay vĩnh viễn. Chẳng phải như thế này. Nếu được chọn tôi sẽ
chọn Santa Marta. Chà, anh nói thế là phi lô-gích mất rồi, Papi
ạ. ở đấy, mọi người đều nhất trí nói rằng thời hạn tối đa mà một
con người có thể chịu đựng được là sáu tháng. Thế mà ở đây có
nhiều người phải giam đến bốn năm năm hoặc hơn nữa. Người ta bắt
họ phải chịu đựng như. Vậy là là một chuyện; c̣n họ có chịu đựng
được không lại là chuyện khác. Có bao nhiêu người tự tử. Tôi
cũng chẳng biết người ta làm cách ǵ để tự tử nữa. à cũng có
cách. Chẳng dễ ǵ đâu, nhưng người ta có thể tự tử bằng cách
thắt cổ chẳng hạn. Người ta xé quần ra làm một sợi dây. Buộc cái
chổi con vào một đầu dây rồi leo lên tấm ván, người ta có thể
ném sợi dây qua chấn song. Nếu buộc dây sát vào bức tường có lối
đi tuần ở phía trên, chắc tên lính gác sẽ không trông thấy sợi
dây. Đúng vào lúc hắn vừa đi qua, anh cứ việc nhảy ra khỏi tấm
ván và lủng lẳng trên không. Khi tên lính gác quay lại th́ anh
đă đi rồi. Vả chăng chắc hắn cũng chẳng vội vàng ǵ mà chạy
nhanh xuống mở buồng giam cho anh. Mở cửa buồng ư. Hắn không thể
mở được. Trên cánh cửa đă có đề: “Cấm mở cửa này nếu không có
lệnh trên”. Vậy th́ anh đừng sợ ǵ hết, người nào muốn tự tử sẽ
có đủ thời gian cần thiết trước khi có người mở cửa vào buồng
giam theo “lệnh trên”.
Tôi tả lại tất cả những điều trên đây, có lẽ không lấy ǵ làm
sinh động và lư thú đối với những người thích nghe chuyện hành
động và đánh nhau. Những người này có thể bỏ qua mấy trang nếu
thấy chán. Tuy nhiên, những ấn tượng đầu tiên, những ư nghĩ đầu
tiên này ồ ạt đến với tôi khi tôi tiếp xúc lần đầu với cái buồng
giam mới, những phản ứng đầu tiên này khi tôi bị đưa xuống nhà
mồ, tôi nghĩ rằng tôi phải miêu tả nó một cách thật trung thành.
Tôi đi đi lại lại như thế này đă lâu lắm rồi. Tôi nghe có tiếng
thầm th́ trong đêm khuya: họ đổi gác. Tên lính gác phiên trước
là một gă cao lớn và khẳng khiu tên đến thay phiên th́ lùn và
mập. Hắn vừa đi vừa kéo lê đôi giày vải. Khi hắn đến cách tôi
chỉ c̣n hai buồng giam, tôi có thể nghe thấy tiếng giày vải hắn
sột soạt và đến khi hắn đi qua hai buồng giam mới không nghe
thấy ǵ nữa. Hắn không im lặng một trăm phần trăm như thằng bạn
đồng ngũ của hắn. Tôi tiếp tục đi đi lại lại Bây giờ chắc đă
khuya lắm rồi. Không biết mấy giờ rồi nhỉ? Đến mai tôi sẽ không
thiếu phương tiện để đo thời gian. Mỗi ngày cái ghi-sê phải mở
bốn lần: nhờ đó tôi sẽ đại khái biết được giờ giấc. C̣n ban đêm
th́ nhờ biết giờ phiên gác đầu tiên và biết thời hạn của mỗi
phiên, tôi sẽ có thể sống với một cách đo lường thời gian xác
định: phiên thứ nhất, phiên thứ hai, phiên thứ ba...
Một, hai, ba, bốn, năm... Như một cái máy, tôi lại bắt đầu cuộc
đi dạo vô tận, và nhờ trợ lực của sự mệt mỏi, tôi cất cánh một
cách dễ dàng để trở về lục lọi trong dĩ văng Chắc chắn lá do sự
tương phản với bóng tối trong xà-lim, tôi bay ra giữa nắng ngồi
trên băi biển của bộ lạc tôi. Chiếc thuyền mà Lali dùng để đi
vớt ngọc trai đang đung đưa cách tôi hai trăm mét trên mặt biển
tuyệt vời màu xanh ngọc thạch. Hai chân tôi di di trên cát.
Zoraima đem lại cho tôi một con cá lớn nướng trên than hồng, gói
kỹ trong một tàu lá chuối cho khỏi nguội. Tôi ăn bằng mấy ngón
tay, dĩ nhiên, c̣n Zoraima th́ ngồi xếp bằng trước mặt tôi nh́n
tôi ăn. Cô ta rất vui mừng khi thấy những mảng thịt to tách ra
khỏi con cá một cách dễ dàng và đọc thấy trên gương mặt tôi vẻ
khoái trá trong khi ăn cái món ngon lành mà cô đă dọn cho tôi.
Tôi không c̣n bị nhốt nữa. Tôi không hề biết đến Nhà giam cấm
cố, Saint-Joseph, Quần đảo ǵ nữa. Tôi lăn lóc trên cát, vục hai
tay vào lớp cát cho sạch, lớp cát làm bằng những mảnh vụn san hô
mịn đến nỗi tôi có cảm giác như vục tay vào bột. Rồi tôi lội
xuống biển để súc miệng bằng thứ nước trong vắt và mặn chát ấy.
Tôi lấy hai tay múc nước phả lên mặt. Trong khi rửa cổ tôi nhận
ra rằng tóc tôi đă dài lắm. Khi nào Lali về tôi sẽ bảo nàng cạo
cổ cho tôi. Tôi qua đêm với bộ lạc của tôi. Tôi mở cái khố của
Zoraima, và trên cát, giữa nắng, dưới làn gió biển, tôi chiếm
hữu nàng. Nàng khẽ cất những tiếng rên si mê như nàng vẫn làm
những khi nàng thấy khoái lạc. Có lẽ gió đưa đến tận tai Lali
khúc nhạc yêu đương này. Dù sao th́ Lali không phải không nh́n
thấy chúng tôi và thấy cái tư thế của chúng tôi chỗ nàng có xa
xôi ǵ đâu mà không thấy rơ chúng tôi đang làm t́nh. Đúng thế,
hẳn là nàng đă trông thấy, v́ chiếc thuyền đang đi về phía bờ,
nàng tươi cười bước xuống đất. Trên quăng đường về nàng đă tháo
các bím tóc ra và lấy mười ngón tay thon và dài chải mái tóc ướt
đang bắt đầu khô dần trong làn gió và trong ánh nắng của cái
ngày tuyệt đẹp này. Tôi đi về phía nàng. Nàng lấy tay phải quàng
lưng tôi và đẩy tôi đi trên băi cát về phía nếp nhà tranh của
chúng tôi. Suốt dọc đường đi, nàng không ngớt bày tỏ cho tôi
hiểu: “Cả em nữa, cả em nữa”. Về đến nhà, nàng xô tôi xuống một
chiếc vơng len đă gấp lại trải xuống đất làm đệm, và trong nàng,
tôi quên rằng thế giới tồn tại. Zoraima rất thông minh, nàng chỉ
về khi ước chừng chúng tôi đă xong. Nàng vào nhà khi chúng tôi
hăy c̣n nằm trần truồng trên đệm, thỏa măn no nê v́ ái ân. Nàng
đến ngồi với chúng tôi, lấy ḷng bàn tay vả vả lên hai má của
chị, miệng nhắc đi nhắc lại mấy tiếng ǵ chắc chắn phải có nghĩa
đại khái là “đồ tham ăn”. Rồi với một cử chỉ trinh bạch và đầy
t́nh tŕu mến, nàng sứa lại cái khố của tôi và cái của Lali cho
ngay ngắn. Suốt đêm hôm ấy tôi đă sống ở Guajira. Tôi tuyệt
nhiên không ngủ một chút nào. Thậm chí tôi cũng không nằm xuống
để nhắm mắt lại mà hồi tưởng những cảnh đă sống qua. Ngay trong
khi đi đi lại lại không ngừng trong một trạng thái gần như thôi
miên, không cần phải vận dụng ư chí một chút nào, tôi đă vượt
qua không gian và thời gian để trở về sống lại cái ngày đẹp
tuyệt vời đă qua cách đây gần sáu tháng.
Đèn đă tắt, và có thể thấy rơ ngày mới đang tràn vào bóng tranh
tối tranh sáng của căn xà-lim, xua tan thứ sương mù lềnh bềnh
đang bao bọc mọi vật xung quanh tôi. Một tiếng c̣i huưt lên. Tôi
nghe tiếng những tấm ván nằm chạm vào tường, và cả tiếng cái móc
của người ở buồng bên phải chạm vào cái ṿng sắt gắn vào tường.
Người ở buồng bên ho, và tôi nghe có tiếng một ít nước giội
xuống nền nhà. Sao, ở đây cũng được rứa mặt nữa à?
- Thưa ông giám thị, ở đây rửa mặt thế nào ạ?
- Phạm nhân, v́ anh không biết cho nên tôi tha cho anh lần này.
Không được nói ǵ với lính gác: nếu vi phạm điều lệnh này sẽ bị
phạt nặng. Muốn rửa mặt, đứng ngay chỗ bô một tay cầm hũ nước,
tay kia hứng mà rửa. Anh chưa giở chăn ra phải không?
- Chưa.
- Trong chăn có một cái khăn mặt.
Đến thế th́ thật! Không được phép nói với lính gác v́ bất cứ lư
do ǵ? Thế nếu mắc phải chứng ǵ đau quá th́ sao? Nếu sắp chết
đến nơi: một cơn đau tim, đau ruột thừa, một cơn suyễn quá mạnh,
th́ sao? Chẳng lẽ ở đây cấm cả việc kêu cứu khi lâm vào một t́nh
cảnh nguy hiểm chết người? Vô nhân đạo đến thế là cùng? Nhưng
không, như thế là b́nh thường. Nếu không, tù nhân có thể quấy
phá, làm ầm ĩ lên một cách quá dễ dàng khi thần kinh không chịu
nổi nữa. Dù chỉ để nghe tiếng người, dù chỉ để người ta nói với
ḿnh một câu, dù câu đó chỉ là: “Chết th́ chết đi, nhưng phải
câm mồm lại!”. Cũng sẽ có vài chục người trong số hai trăm năm
mươi tù nhân bị giam ở đây, mỗi ngày vài chục lần, bày chuyện
gây ra bất cứ cuộc căi vă nào để cho thoát bớt sức hơi ép trong
óc họ như qua một cái xúp-páp!
Người đă có cái ư xây những chuồng cọp này không thể là một bác
sĩ tâm bệnh học được: một người thầy thuốc không đời nào lại tự
hạ ḿnh làm một việc nhơ nhuốc đến như vậy. Nội quy của nhà giam
này cũng không phải do một bác sĩ thảo ra. Nhưng hai con người
đă cùng nhau tạo nên cái nhà tù này, người kiến trúc sư cũng như
người viên chức đă dự tính một cách chi li những chi tiết của
nhà tù, họ quả thật là hai con quái vật đáng ghê tởm, hai nhà
tâm lư học tồi bại và độc ác tràn đầy một ḷng căm thù xa đích
đối với các phạm nhân.
Từ những căn buồng giam của khám trung tâm ở Beaulieu, ở Canen
tuy sâu như vậy, hai tầng hầm phía dưới mặt đất, vẫn c̣n có thể
vọng ra ngoài, đến tai công chúng, những tiếng vang xa xăm của
những cực h́nh mà các phạm nhân phải chịu đựng. Chứng cớ là hồi
ấy, khi người ta tháo khóa tay cho tôi tôi đă thấy rơ ràng vẻ sợ
hăi trên mặt bọn lính gác: chắc chắn là họ sợ bị phiền hà, bị
trừng trị. Nhưng ở đây, trong nhà giam cấm cố này, nơi mà chỉ có
bọn viên chức trong ban quản trị mới vào được, họ rất yên tâm họ
không bao giờ có thể bị phiền hà ǵ hết.
Clac, clac, clac, clac, - người ta mở tất cả các ghi-sê. Tôi đến
cạnh ghi-sê của tôi, đánh liều ḍm ra ngoài, rồi tôi tḥ đầu ra
một chút, và sau đó tḥ hết cả cái đầu ra ngoài hành lang. Bên
phải cũng như bên trái tôi đều trông thấy cả một dăy đầu tḥ ra.
Tôi hiểu ngay ràng hễ ghi-sê được mở th́ mọi người đều lập tức
tḥ đầu ra ngoài. Người bên phải nh́n tôi mà mắt tuyệt nhiên
không biểu hiện một cảm nghĩ ǵ. Chắc đă đờ đẫn đi v́ thói thủ
dâm. Hắn xanh xao phờ phạc, mặt ph́ ra, gương mặt đần độn, u mê.
Người bên trái hỏi tôi rất nhanh: “Bao nhiêu?”
- Hai năm.
- Tớ bốn. Mới được một. Tên ǵ?
- Papillon.
- Tớ, Georges, Jojo l’ Auvergnat. Cậu bị ở đâu?
- Paris, c̣n cậu?
Người kia chưa kịp trả lời: suất cà-phê và ổ bánh ḿ tṛn đă
được đưa đến cách đấy hai buồng. Hắn thụt đầu vào. Tôi cũng làm
như thế. Tôi giơ cái ca ra. Họ rót cà-phê vào rồi đưa một ổ bánh
ḿ tṛn. V́ tôi đưa tay ra đón ổ bánh ḿ hơi chậm, khi cửa
ghi-sê sụp xuống th́ ổ bánh ḿ của tôi lăn xuống đất. Không đầy
mười lăm phút sau im lặng đă trở lại. Chắc mỗi hành lang phải có
một tốp đi phát bữa sáng, chứ không th́ không thể nhanh như vậy.
Đến giữa trưa có món xúp bỏ một miếng thịt hầm. Buổi chiều, một
đĩa đậu ván xào. Cái thực đơn ấy trong suốt hai năm chỉ thay đổi
trong bữa ăn chiều: đậu ván, đậu đổ, đậu chiên, đậu đũa, đậu
trắng và cơm xào. Bữa trưa th́ lúc nào cũng chỉ có thế.
Cứ mười lăm ngày một lần, chúng tôi tḥ đầu ra ngoài ghi-sê, và
một người tù khổ sai dùng một cái tông-đơ răng dày của thợ cắt
tóc để cắt râu cho chúng tôi
Tôi ở đây đă được ba ngày. Có một điều làm cho tôi bận tâm. ở
đảo Royale, các bạn tôi có nói là sẽ gửi thuốc lá và thức ăn cho
tôi. Tôi chưa nhận được thứ ǵ, vả lại tôi cũng băn khoăn không
hiểu nổi họ lâm thế nào để có thể thực hiện dược một việc thần
kỳ như vậy.
Cho nên tôi không lấy làm lạ khi không thấy có ǵ gửi đến. Hút
thuốc lá chắc phải rất nguy hiểm, và dù sao đó cũng là thứ xa
xỉ. Ăn th́ hẳn là chuyện sống c̣n, v́ xoong xúp trong bữa ăn
trưa chỉ là một ít nước nóng lều bều vài nhúm rau xanh và một
miếng thịt hầm chỉ độ một trăm gam. Buổi chiều chỉ có một đĩa
đựng nước xào sền sệt, lưa thưa mấy hạt đậu hay mấy thứ rau quả
khô Nói thật, tôi không nghi ngờ ban quản trị cho tù ăn kém bằng
nghi ngờ bọn tù nhân chuyên việc nấu ăn hay phân phát thức ăn.
Tôi nảy ra cái ư này trong bữa chiều, khi một người tù quê ở
Marseille bắt đầu vào đưa thức ăn. Cái muôi của anh ta vục xuống
tận đáy thùng, cho nên trong suất của tôi đậu bao giờ cũng nhiều
hơn nước. Nếu những người khác đưa bữa ăn chiều th́ ngược lại họ
chỉ hớt phía trên sau khi ngoáy ngoáy cái muôi một chút. Do đó
nhiều nước mà ít đậu. T́nh trạng thiếu dinh dưỡng này cực kỳ
nguy hiểm. Muốn có đủ sức mạnh tinh thần để giữ vững ư chí, cần
phải có ít nhiều sức mạnh thể chất.
Lúc này người ta đang quét ngoài hành lang. Tôi có cảm giác là
người ta quét ở trước buồng giam của tôi hơi lâu quá. Tiếng chổi
quẹt măi vào cánh cưa buồng tôi một cách không b́nh thường. Tôi
nh́n kỹ th́ thấy một mẩu giấy trắng tḥ ra ở phía dưới cánh cửa.
Tôi hiểu ngay rằng người ta đă tuồn một cái ǵ dưới cánh cửa
nhưng không thể tuồn vào sâu hơn được. Người ta đợi cho tôi rút
mẩu giấy vào rồi mới quét sang chỗ khác. Tôi mở mẩu giấy ra. Có
mấy ḍng chữ viết bằng mực dạ quang. Tôi đợi cho tên lính gác đi
quá rồi đọc vội: “Papi, kể từ mai trong bô của anh mỗi ngày sẽ
có năm điếu thuốc lá và một quả dừa. Khi ăn dừa phải nhai thật
kỹ th́ mới bổ. Nhớ nuốt cả bă. Hút thuốc vào buổi sáng khi họ đổ
bô. Không bao giờ được hút sau bữa cà-phê sáng, phải hút trong
bữa ăn trưa ngay sau khi ăn, và buổi chiều cũng vậy. Kèm theo
đây có một mẩu ruột bút ch́. Mỗi khi cần dùng thứ ǵ, cứ viết
vào mẩu giấy kèm theo đây, khi người quét hành lang quệt chổi
vào cánh cửa, hăy dùng ngón tay cào vào cửa. Nếu người kia cũng
cào lại th́ tuồn mẩu giấy ra. Đừng bao giờ tuồn mẩu giấy trước
khi hắn cào lại để trả lời anh. Hăy để mẩu giấy vào tai để khỏi
rút plan ra, c̣n mẩu ruột bút ch́ th́ có thể để bất cứ chỗ nào ở
chân tường. Can đảm lên. Các bạn hôn anh. Ignace, Louis”.
Người gửi cho tôi bức thông điệp này là Galgani và Dega. Tôi
thấy nghẹn ngào ở cổ và một hơi ấm tràn đầy trong ngực; có được
những người bạn trung thành, tận tụy như vậy thật là ấm áp. Và
bước đi của tôi: một, hai, ba, bốn, năm, đằng sau quay, càng
thêm vững vàng và nhanh nhẹn, với một mềm tin lớn hơn vào tương
lai, một niềm tin tưởng chắc chắn rằng ḿnh sẽ c̣n sống cho đến
khi ra khỏi cái phần mộ này. Và tôi vừa đi vừa nghĩ: trong hai
con người ấy có bao nhiêu là t́nh cảm cao thượng, có biết bao
nhiêu ư chí muốn làm điều tốt. Chắc chắn là họ đă tự đặt ḿnh
vào một t́nh thế rất nguy hiểm: một người có thể mất chân kế
toán, người kia mất chân liên lạc. Việc họ đang làm để giúp tôi
thật là vĩ đại, chưa kể là họ phải tốn biết bao nhiêu tiền mới
làm được như thế. Họ đă phải mua biết bao nhiêu người để với tay
đến tận buồng giam của tôi trên cái đảo Royale “ăn thịt người”.
Bạn đọc cần hiểu rơ rằng một quả dừa khô chứa rất nhiều dầu
trong cái cùi ḍn và trắng của nó chỉ cần nạo sáu quả dừa ngâm
vào nước nóng th́ một ngày sau trên mặt nước có thể vớt được một
lít dầu. Thứ dầu này là một chất béo mà với chế độ ăn của chúng
tôi người ta rất cần, nó chứa nhiều thứ sinh tố. Mỗi ngày một
cái cùi dừa là gần đủ bảo đảm cho sức khỏe. ít nhất người ta
cũng không thể lâm vào t́nh trạng mất nước, cũng không thể chết
v́ suy dinh dưỡng. Đă hai tháng ṛng tôi nhận được tiếp tế về
thức ăn và thuốc hút mà không xảy ra chuyện ǵ cả. Mỗi lần hút
thuốc tôi đều đề pḥng cẩn thận như người Sioux: tôi nuốt khói
vào thật sâu rồi nhả ra từ từ, vừa nhả vừa x̣e bàn tay phải ra
như cái quạt để xua cho khói tan đi.
Hôm qua vừa xảy ra một chuyện hơi lạ. Tôi không biết là tôi đă
hành động đúng hay sai. Một tên lính gác đi trên đường tuần tra
đă chống tay vào thanh vịn nh́n xuống buồng giam tôi. Hắn châm
một điếu thuốc, hút vài hơi rồi để nó rơi xuống buồng giam tôi.
Sau đó hắn lại đi tuần. Tôi đợi cho hắn trở lại rồi lấy chân chà
lên điếu thuốc, sao cho hắn có thể trông thấy rơ. Bước hắn đi
hơi ngưng lại một chút, nhưng không lâu: khi đă thấy rơ cử chỉ
vừa rồi của tôi, hắn lại đi ngay. Có phải hắn thương hại tôi,
hay thấy xấu hổ cho cái ban quán trị của hắn? Hay đây chỉ là một
cái bẫy? Tôi không biết cho nên rất băn khoăn.
Khi người ta khổ, người ta trở nên hết sức nhạy cảm.
Nếu tên giám thị vừa rồi đă có ư muốn làm một người tốt bụng dù
cái ư ấy chỉ được một vài giây, tôi cũng rất lấy làm tiếc v́ đă
làm hắn phiền ḷng với cái cử chỉ khinh miệt của tôi.
Tôi ở đây thế là đă hơn hai tháng. Cái nhà giam cấm cố này là
nhà giam duy nhất mà theo tôi trong đó không có ǵ có thể học
được. V́ không thể có một cách dàn xếp nào hết. Tôi đă luyện tập
được rất kỹ cái khả năng phân thân. Tôi có một chiến thuật có
hiệu quả chắc chắn. Để đi lang thang giữa các v́ sao với một cảm
giác hiện thực thật cao, để dễ dàng thấy hiện ra những thời đoạn
khác nhau trong dĩ văng của cuộc đời giang hồ phiêu bạt của tôi
hay của thời thơ ấu, hoặc giả để xây những ṭa lâu đài ở Tây Ban
Nha hiện rơ y như thật, lúc đầu tôi đă phải tốn rất nhiều sức.
Tôi phải đi đi lại lại không ngớt mấy giờ đồng hồ liền, không
ngồi xuống, không dừng lại, vừa đi vừa nghĩ b́nh thường về bất
cứ vấn đề ǵ. Rồi đến khi thật mệt mỏi tôi mới nằm lên tấm ván,
gối đầu lên một nữa tấm chăn, c̣n nửa kia th́ đắp lên mặt. Bấy
giờ làn không khí đă thưa thớt của pḥng giam đi vào miệng tôi
và mũi tôi một cách khó khăn v́ bị tấm chăn lọc một lần nữa.
Điều đó nhằm gây ra trong phổi tôi một t́nh trạng gần như ngạt
thở khiến đầu tôi thấy nhức và nóng.
Trong trạng thái thiếu không khí và ngột ngạt v́ nóng bức, tôi
đột ngột thấy ḿnh bay bổng lên. Ôi? Những cuộc phi hành của
linh hồn ấy đă đem lại cho tôi bao nhiêu là cảm giác khôn tả.
Tôi đă có được những đêm ân ái mà cảm giác c̣n mạnh hơn cả khi
tôi được tự do, say sưa hơn, có sức chấn động hơn những cảm giác
thật của những đêm ân ái mà tôi đă thực sự trải qua. Phải, cái
khả năng du hành trong không gian ấy cho phép tôi ngồi bên cạnh
mẹ tôi, người đă chết cách đây mười bảy năm. Tôi mân mê tà áo
của người, và người vuốt ve những móc tóc quăn của tôi mà người
bắt để rất dài hồi tôi mới năm tuổi, làm như thể tôi là con gái.
Tôi vuốt ve mấy ngón tay thon và dài, da mịn như tơ. Người cùng
cười với tôi khi thấy nảy ra cái ư muốn gan góc được lao xuống
sông như tôi đă thấy những cậu con trai lớn tuổi hơn làm, vào
một ngày hai mẹ con đi dạo với nhau. Những chi tiết nhỏ nhặt
nhất trong cách chái tóc của người, niềm thương mến có sức tỏa
hào quang của đôi mắt sáng lóng lánh của người, những lời lẽ dịu
dàng khó quên của người: “Riri bé bỏng của mẹ, con hăy ngoan,
thật ngoan nhé, để mẹ con thương con thật nhiều. ít nữa rồi con
cũng sẽ nhảy được xuống nước từ rất cao, rất cao. C̣n bây giờ
th́ con c̣n bé quá, cục vàng của mẹ ạ Ngày ấy sẽ đến rất nhanh,
quá nhanh nữa là khác, cái ngày mà con sẽ thành một chàng trai
to khỏe”.
Và mẹ tôi dắt tay tôi đi dọc bờ sông về nhà Tôi thực sự đang
sống trong ngôi nhà của thời thơ ấu của tôi. Thực sự đến nỗi tôi
đưa hai tay bịt mắt mẹ tôi để người không đọc được nốt nhạc
nhưng vẫn tiếp tục chơi piano cho tôi nghe. Tôi đang ở nhà thật
chứ không phải tưởng tượng. Tôi đang ở nhà với mẹ, tôi leo lên
một chiếc ghế tựa đặt ở phía sau chiếc ghế quay mẹ tôi đang
ngồi, và tôi đưa hai bàn tay nhỏ bé lên bít mắt mẹ tôi thật
mạnh, để cho đôi mắt to và hiền của người đừng trông thấy ǵ.
Mấy ngón tay thon nhẹ của người vẫn tiếp tục lướt trên các phím
đàn đánh cho tôi nghe bài Nàng quả phụ vui tươi cho đến hết.
Dù là tên công tố viên vô nhân đạo, hay là những tên cảnh sát mà
sự lương thiện đáng cho người ta ngờ vực, hay là Polein, tên
khốn kiếp đă chịu mặc cả để mua lấy tự do bằng một lời khai gian
dối, hay là mười hai miếng phó-mát đă ngu xuẩn theo đuôi bản cáo
trạng và cách thuyết minh sự việc của bên nguyên, hay là những
tên lính gác ở nhà giam cấm cố, những cộng tác viên xứng đáng
của cái ngục “ăn thịt người”, không có ai, tuyệt đối không có
ai, và cũng không có cái ǵ, kể cả những bức tường dày và cái
khoảng cách xa xôi của ḥn đảo mất hút giữa Đại tây dương này,
tuyệt nhiên không có một cái ǵ thuộc phạm trù tinh thần hay vật
chất có thể ngăn cản nổi những cuộc du hành nhuộm màu hồng tuyệt
vời của hạnh phúc khi tôi cất cánh bay bổng lên các v́ sao.
Tôi đă sai lầm: khi tính thời gian phải một ḿnh đối diện với
bản thân, tôi chỉ nói đến thời gian bằng đơn vị giờ.
Đó là một sai lầm. Có những lúc phải đo thời gian bằng đơn vị
phút. Chằng hạn, sau buổi phân phát cà-phê và bánh ḿ là giờ đổ
bô - sau đó khoảng một tiếng đồng hồ. Khi người ta trả cái bô
sạch tôi sẽ nhận được quả dừa, năm điếu thuốc lá và đôi khi cả
một mảnh giấy viết chữ lân tinh. Những lúc ấy - không phải bao
giờ cũng thế, nhưng rất nhiều khi như thế - tôi đếm từng phút
một. Làm như thế cũng khá dễ dàng v́ tôi điều chỉnh thân thể tôi
thành một quả lắc, cứ năm bước, lúc quay trở lại, tôi nhẩm đếm:
một. Đếm đến mười hai th́ được một phút. Có điều là xin các bạn
chớ tưởng rằng tôi lo lắng muốn biết rồi ḿnh có được ăn cái cùi
dừa, vốn chính là sự sống của tôi, có được hưởng cái thú vô biên
là đang ở trong cái hầm mộ này mà lại được hút thuốc mười lần
trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ (v́ mỗi điếu thuốc lá tôi hút
làm hai lần) hay không.
Không phải thế; vào giờ nhận cà phê, và tuy không có lư do ǵ
đặc biệt, tôi cũng sợ rằng có một việc ǵ đă xảy ra với những
người đang hy sinh sự yên tĩnh của ḿnh để giúp tôi một cách hào
phóng như vậy. Cho nên tôi chờ đợi, và đến khi trông thấy quả
dừa tôi mới thở phào yên tâm. Quả dừa có đó, như thế có nghĩa là
họ vân yên ổn.
Chầm chậm, rất chậm, những giờ, những ngày, những tuần, những
tháng trôi qua. Rồi đến một lúc nào đó, tỉnh lại thấy ḿnh đă ở
đây được gần một năm.
Đúng mười một tháng và hai mươi ngày tôi chưa được nói chuyện
với ai hơn bôn mươi giây, mà cũng chỉ nói nhát gừng, và nói thầm
th́, chứ không thành tiếng. Tuy vậy có một hôm tôi cũng đă dự
một cuộc đối thoại to tiếng. Hôm ấy tôi bị cảm và ho nhiều. Nghĩ
rằng như vậy cũng đủ để xin đi khám, tôi liền báo cáo ốm. Bác sĩ
đă đến. Trước sự kinh ngạc của tôi, cái ghi-sê mở ra. Trong cái
khung hẹp ấy thấy hiện ra một cái đầu
- Anh làm sao? Anh đau ǵ? Phế quản à? Quay lưng lại. Ho đi.
Ḱa, sao lạ thế nhỉ. Người ta đùa chăng? Thế nhưng đó lại là sự
thật một trăm phần trăm. Một ông thầy thuốc xứ thuộc địa đă đến
chẩn bệnh qua một cái ghi-sê, bảo tôi quay lưng lại đứng cách
cánh cửa một mét, và ghé tai vào lỗ để nghe phổi tôi. Rồi ông ta
lại nói: “Tḥ tay ra. Tôi toan làm theo như cái máy, th́ do một
thứ tự trọng nào đấy, tôi nói với cái ông thầy thuốc quái dị
này: “Cám ơn bác sĩ, phiền bác sĩ quá nhỉ. Thôi không cần. Chẳng
ích ǵ đâu. ít nhất tôi cũng có đủ bản lĩnh để tỏ ra cho hắn
hiểu rằng tôi không tưởng lầm là cái kiểu chẩn bệnh của hắn có
chút ǵ nghiêm chỉnh.
- Tùy anh, - hắn đă có đủ vô liêm sỉ để trả lời như vậy. Rồi bỏ
đi. Cũng may, v́ chỉ chút nữa tôi đă nổ tung ra v́ phẫn nộ..
Một, hai, ba, bốn, năm, đằng sau quay. Một, hai, ba, bốn, năm,
đằng sau quay. Tôi đi đi lại lại, đi đi lại lại măi, không mỏi
mệt, không dừng lại, và hôm nay tôi đi đi lại lại một cách giận
dữ, hai chân tôi căng thẳng chứ không buông lơi một cách thư
thái như thường lệ. Dường như sau sự việc vừa xảy ra, tôi cần
phải xéo nát một cái ǵ. Chân tôi th́ có thể giẫm lên cái ǵ?
Dưới chân tôi chỉ có xi-măng. Không, tôi giẫm lên rất nhiều thứ
trong khi đi như vậy. Tôi giẫm lên sự hèn hạ của tên bác sĩ đă
cam tâm chịu chiều theo ư Ban Quản trị để làm những việc tởm lợm
như vậy. Tôi giẫm lên thái độ dửng dưng của một tầng lớp người
trước sự đau khổ của một tầng lớp người khác. Tôi giẫm lên sự
ngu dốt của dân tộc Pháp không hề quan tâm, không hề ṭ ṃ muốn
biết những đồng bào của họ cứ hai năm lại được lùa lên tàu như
những bầy gia súc qua Saint- Martin-de-Ré là để đi đến đâu và
được đối xử như thế nào. Tôi giẫm lên các phóng viên của các báo
chí cánh tả, sau khi viết những bài báo chua ngoa về một con
người đă phạm tội nào đấy th́ chỉ mấy tháng sau là đă không c̣n
nhớ rằng trên đời có một người như thế. Tôi giẫm lên bọn linh
mục công giáo đă nghe các phạm nhân xưng tội, biết rất rơ những
ǵ đang diễn ra ở trại khổ sai của Pháp mà vẫn im hơi lặng
tiếng. Tôi giẫm lên một hệ thống xử án biến việc cân nhắc công
bằng thành một cuộc đấu khẩu giữa kẻ buộc bội và kẻ bào chữa.
Tôi giẫm lên tổ chức Liên minh Nhân quyền và Dân quyền không hề
lên tiếng để nói: Hăy chặn đứng cái máy chém khô của các người
lại, hăy hủy diệt cái tâm lư xa-đích tập thể đang hoành hành
trong giới viên chức Hành chính. Tôi giẫm lên cái t́nh trạng tệ
mạt là không có một tổ chức hay hiệp hội nào chất vấn những kẻ
có trách nhiệm về hệ thống xử án này để hỏi họ xem tại sao và
làm thế nào mà trại khổ sai cứ hai năm lại chết mất tám mươi
phần trăm dân số của nó. Tôi giẫm lên những tờ giấy báo tử của
tổ chức y tế nhà nước: tự tử, suy dinh dưỡng, suy nhược toàn
thân, hoại huyết, ho lao, điên loạn, dở hơi. Tôi c̣n biết tôi
đang giẫm lên những ǵ nữa? Nhưng dù sao, sau sự việc đă xảy ra,
tôi không c̣n đi b́nh thường nữa, cứ mỗi bước tôi lại xéo nát
một cái ǵ.
Một, hai, ba, bốn, năm,... và những giờ phút chảy qua chầm chậm
làm cho cuộc nổi loạn thầm lặng của tôi lắng dần v́ mệt mỏi. C̣n
mười ngày nữa tôi sẽ qua được một nửa thời hạn cấm cố. Đây quả
là một kỷ niệm rất đáng ăn mừng, v́ nếu không kể cái bệnh cảm
khá nặng kia, sức khỏe tôi vẫn tốt. Tôi vẫn không điên, mà cũng
chưa bước vào quá tŕnh trở thành điên. Tôi tin chắc, thậm chí
chắc một trăm phần trăm là sẽ ra khỏi chốn này khỏe mạnh về thể
chất và tinh thần khi cái năm đang sấp bắt đầu sẽ hết.
Tôi sực tỉnh v́ ngoài kia có tiếng nói ŕ rầm.
- Hắn đă chết khô từ bao giờ ấy. Durand ạ. Sao, ban năy anh
không nhận thấy à?
- Thưa sếp tôi không biết ạ. V́ hắn treo cổ trong góc tường phía
lối đi tuần cho nên tôi đi qua nhiều lần mà không trông thấy.
- Cái đó không quan trọng, nhưng phải thú nhận rằng anh không
trông thấy hắn là phi lô-gíc.
Người bị giam ở buồng bên trái đă tự tử.
Đó là điều mà tôi đă hiểu ra, họ đến khiêng hắn đi. Cánh cửa
khép lại. Nội quy đă được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh v́ cánh
cửa ấy đă được mở ra và đóng lại trước mắt một “cấp trên” là
viên giám đốc của nhà giam cấm cố mà tôi đă nhận ra giọng nói.
Đó là người thứ năm đă chết trong các buồng giam ở quanh tôi
trong ṿng mười tuần.
Ngày kỷ niệm một năm cấm cố đă đến. Trong cái bô tôi thấy có một
hộp sữa đặc Nestlé. Đó là một cử chỉ điên rồ của các bạn tôi. Họ
đă t́m mua hộp sữa này với một giá đắt không thể tưởng tượng nổi
và đă liều lĩnh gửi nó cho tôi. Dù sao tôi cũng đă có được một
ngày đắc thắng trước sự tàn nhẫn của số phận. Cho nên tôi tự hứa
là không bay đi đâu cả. Tôi đang ở nhà giam cấm cố. Một năm đă
qua từ khi tôi đến đây, thế mà tôi vẫn tự cảm thấy đủ sức để lên
đường vượt ngục ngày mai nếu có cơ hội. Bản tổng kết như vậy là
tích cực, và tôi tự hào về nó.
Thông qua người quét hành lang buổi trưa, tôi nhận được mấy chữ
của các bạn (đó là một việc khác thường): “Can đảm lên. Chỉ c̣n
một năm nứa thôi. chúng tôi biết cậu vẫn khỏe. Chúng tôi cũng
b́nh thường, yên ổn. Chúng tôi hôn cậu. Louis, Ignace. Nếu tiện,
cậu gửi cho chúng tôi mấy chữ, đưa ngay cho người đă trao cậu
mảnh giấy này”.
Trên mảnh giấy trắng gửi kèm theo bức thư tôi viết: “Cám ơn về
tất cả. Tôi khỏe mạnh, và nhờ các cậu tôi hy vọng vẫn sẽ như thế
này sau một năm. Có thể cho tôi biết tin Clousiot, Maturette
không?” Quả nhiên một lúc sau người quét hành lang trở lại, cào
vào cửa tôi. Tội vội vàng nhét mảnh giấy dưới cửa, nó biến ngay.
Suốt ngày hôm ấy và một phần đêm ấy, tôi ở lại trên mặt đất,
trong cái trạng thái mà tôi đă mấy lần tự hứa là sẽ giữ. Một năm
nữa tôi sẽ được đưa về một trong hai đảo. Royale hay
Saint-Joseph? Tôi sẽ nói chuyện, hút thuốc đến đă đời th́ thôi,
và lập tức sẽ chuẩn bị vượt ngục.
Hôm sau tôi bước vào ngày thứ nhất trong số ba trăm sáu mươi lăm
ngày c̣n lại, ḷng vững tin vào số phận của ḿnh. Tám tháng tiếp
theo, mọi sự đă trôi qua đúng như tôi dự kiến. Nhưng đến tháng
thứ chín th́ t́nh h́nh trở nên nghiêm trọng. Sáng hôm ấy, đến
giờ để bô, người đưa dừa bị bắt quả tang vào lúc đẩy cái bô vào
buồng tôi, trong đó đă để sẵn quả dừa và năm điếu thuốc lá.
Việc vừa xảy ra nghiêm trọng đến nỗi trong mấy phút đồng hồ họ
đă quên mất quy chế im lặng tuyệt đối. Tiếng người ta đấm đá
người tù khốn khổ kia nghe rất rơ. Sau đó là tiếng rên kḥ khè
của một người đă bị đánh một ḍn chí mạng. Cái ghi-sê của tôi mở
ra và một cái mặt lính gác đỏ bừng quát vào buồng: “C̣n mày nữa,
hăy đợi đấy!”
- Tao sẵn sàng đợi mày, thằng chó đẻ! - Tôi trả lời thần kinh
căng thắng đến tột độ v́ đă phải ngồi im nghe chúng nó đánh dập
người tù khốn khổ kia.
Việc ấy đă xảy ra lúc bảy giờ. Đến mười một giờ, một phái đoàn
do viên phó chỉ huy nhà giam cấm cố đứng đầu đến buồng tôi.
Người ta mở cánh cửa đă đóng lại sau lưng tôi cách đây hai mươi
tháng và từ đó chưa bao giờ được mở ra. Tôi đang đứng ở cuối
buồng giam, tay cầm cái ca, giữ thế thủ, quyết tâm đánh trả đến
cung, v́ hai lẽ: thứ nhất là để cho bọn lính gác khi đánh tôi sẽ
được trừng trị đích đáng, thứ hai là đế chúng nó đánh tôi chết
thật nhanh. Nhưng măi chẳng thấy chúng làm ǵ cả, viên phó chỉ
huy nói:
- Phạm nhân, bước ra.
- Nếu các anh bảo tôi ra để đánh tôi th́ hăy coi chừng: tôi sẽ
đánh lại Mà tôi chẳng dại ǵ ra để bị đánh từ bốn phía. Tôi cứ
đứng đây, hễ đứa nào động vào tôi tôi sẽ cho đi đời ngay.
- Charrière, người ta sẽ không đánh anh đâu.
- Ai bảo đảm điều đó?
- Tôi, phó chỉ huy nhà giam.
- Anh có danh dự không mà bảo đảm?
- Anh đừng thóa mạ tôi, vô ích. Tôi lấy danh dự hứa với anh rằng
anh sẽ không bị đánh. Nào ra đi!
Tôi vẫn cầm cái ca trong tay.
- Anh có thể giữ cái ca, anh không phải dùng đến nó đâu.
- Được
Tôi bước ra, và đi giữa sáu tên giám thị cùng đi với viên phó
chỉ huy, vượt qua suốt chiều dài của hành lang. Ra đến sân, tôi
thấy chóng mặt và chói mắt dữ dội, phải nhắm nghiền lại. Cuối
cùng tôi trông thấy cái nhà nhỏ nơi họ đă đón chúng tôi. ở đấy
có khoảng mười hai tên giám thị. Không xô đẩy, họ đưa tôi vào
pḥng “quản trị”. Giữa nền nhà bê bết máu, một người tù đang nằm
rên rỉ. Khi thấy cái đồng hồ treo trên tường chỉ một giờ, tôi
nghĩ: “Tội nghiệp, chúng nó tra tấn anh ta bốn tiếng đồng hồ
rồi”. Viêm giám đốc đang ngồi sau bàn giấy, viên phó giám đốc
ngồi xuống cạnh hắn ta.
- Charrière, anh nhận thức ăn và thuốc lá bao lâu rồi?
- Anh kia đă nói cho các ông biết rồi c̣n ǵ.
- Tôi hỏi anh ấy.
- Tôi th́ bị bệnh mất trí nhớ, hôm qua có chuyện ǵ tôi không
thể biết được.
- Anh giễu chúng tôi đấy à?
- Không, việc này mà người ta không ghi vào hồ sơ của tôi th́ lạ
thật. Tôi bị mất trí nhớ v́ một đ̣n đánh vào đầu.
Viên giám đốc nghe câu trả lời của tôi ngạc nhiên quá quay ra
hỏi:
- Gọi diện hỏi Royale xem thử trong hồ sơ có ghi ǵ về việc này
không?
Trong khi người ta gọi điện thoại, hắn nói tiếp:
- Anh có nhớ ḿnh tên là Charrière chứ?
- Cái đó th́ có. - Đoạn tôi nói tiếp thật nhanh để làm cho họ
ngỡ ngàng hơn nữa, nói như một cái máy:
Tôi tên là Charrière, tôi sinh năm 1906 ở tỉnh Ardèehe, bị xử án
chung thân ở Paris, quận Seine. Ông ta trợn mắt tṛn xoe như hai
ḥn bi, và tôi cảm thấy ḿnh đă làm cho viên giám đốc lung lay
thực sự.
- Sáng nay anh vẫn được phát cà-phê và bánh ḿ đấy chứ?
- Vâng.
- Tối hôm qua người cho anh ăn món đậu ǵ?
- Tôi không biết.
- Thế th́ theo anh, anh không c̣n chút trí nhớ ǵ sao?
- Những việc xảy ra th́ hoàn toàn không nhớ chút ǵ. Mặt th́ tôi
nhớ. Chẳng hạn như tôi nhớ rằng ông có tiếp tôi một lần. Vào lúc
nào th́ tôi không biết.
Thế anh không biết anh c̣n phải bị giam bao lâu nữa sao?
- Chung thân mà? H́nh như đến khi chết.
- Không! Hạn giam cấm cố ấy.
- Tôi mà bị giam cấm cố à? V́ tội ǵ?
- Ơ thế th́ thật quá sức! Mẹ kiếp! Anh đừng làm cho tôi nổi
khùng lên. Anh dám nói rằng anh không nhớ đă bị xử hai năm v́
tội vượt ngục sao? Gớm thật!
Đến đây, tôi hạ nốt đ̣n cuối cùng cho hắn gục hẳn:
- Tôi mà lại vượt ngục à? Thưa ông chỉ huy, tôi là người nghiêm
chỉnh và có trách nhiệm. Xin ông cứ đi với tôi về buồng giam,
ông sẽ rơ là tôi có vượt ngục hay không.
Vừa lúc ấy một tên cảnh sát nói với viên chỉ huy:
- Thưa xếp, có điện của Royale gọi.
Viên giám đốc đến cầm máy lên: “Không ghi ǵ cả à? Lạ thật, hắn
bảo là hắn bị mất trí nhớ... Nguyên nhân à? Bị đánh vào đầu...
hiểu rồi, hắn giả vờ. Ai mà biết... Vâng, xin lỗi thiếu tá, tôi
sẽ kiểm tra lại. Chào thiếu tá... Vâng, tôi sẽ báo cáo lại để
thiếu tá rơ”.
- Đồ kép hát, xem cái đầu nào. ừ, mà phải. Có một vết thương khá
dài. Thế anh làm cách nào mà nhớ được rằng anh bị mất trí nhớ từ
khi bị đánh cú này, hả? Nói đi xem nào?
- Tôi không hề giải thích, tôi chỉ ghi nhận rằng tôi nhớ là đă
bị đánh, nhớ rằng tên tôi là Charriène.
Tôi c̣n nhớ nhiều thứ khác nữa ấy chứ.
- Rốt cuộc anh muốn nói ǵ hay làm ǵ?
- Vấn đề đó th́ chúng ta đang bàn đây thôi. Ông hỏi tôi là người
ta gửi thức ăn và thuốc hút cho tôi từ bao giờ. Vậy tôi xin trả
lời dứt khoát: tôi không biết; chắc đây là lần đầu, nhưng cũng
có thể là lần thứ một ngàn. Bị bệnh mất trí nhớ, tôi không thể
trả lời rơ hơn được. Xin hết, các ông muốn làm ǵ tôi th́ làm.
- Điều mà tôi muốn cũng đơn giản thôi. Anh đă ăn quá tiêu chuẩn
lâu rồi, thế th́ bây giờ phải để cho anh gầy đi một chút. Bỏ bữa
ăn chiều cho đến hết thời hạn giam cấm cố.
Ngay hôm ấy, tôi nhận được một mảnh giấy lúc họ đi quét hành
lang lần thứ hai. Tiếc thay tôi không được v́ nó không được viết
bằng mực lân tinh. Đến khuya, tôi châm một chiếu thuốc lá c̣n
lại từ hôm qua đă thoát khỏi cuộc khám xét v́ nó được giấu rất
kỹ trong tấm ván nằm. Rít mạnh điếu thuốc cho đốm lửa sáng lên,
tôi dần dần đọc được: “Người đổ bô đă giữ vững. Anh ta khai đây
là lần thứ hai anh đưa thức ăn vào cho cậu, một cách hoàn toàn
tự nguyện. Lại khai là đă làm như thế v́ trước kia có quen cậu ở
Pháp. Sẽ không có ai bị liên lụy ở Royale. Can đảm lên”. Vậy là
tôi bị tước mất món lửa, thuốc lá và tin tức của bạn bè ở
Royale. Hơn nữa họ đă cúp mất bữa ăn chiều của tôi. Tôi đă quen
với t́nh trạng không phải chịu đói và với mười lần hút thuốc lá
mà trước đây tôi vẫn dùng để lấp thời gian trong ngày và một
phần đêm. Không phải tôi chỉ nghĩ đến ḿnh, tôi nghĩ đến người
tù đáng thương bị chúng nó đánh đập tàn nhẫn v́ tôi mong rằng
anh ta sẽ không bị phạt quá nặng.
Một, hai, ba, bốn, năm đằng sau quay... Một hai, ba, bốn, năm
đằng sau quay. Mày sẽ không dễ ǵ chịu được cái chế độ ăn đói
này đâu, Papi ạ, và bây giờ mày sẽ ăn ít như vậy th́ có lẽ phải
thay đổi chiến thuật chăng? Chẳng hạn nằm đến mức tối đa để khỏi
tiêu hao năng lượng. Càng ít cứ động th́ đốt càng ít ca-lo-ri.
Những lúc không nằm th́ cố ngồi trong nhiều giờ.
Bây giờ tôi phải tập sinh hoạt theo một kiểu khác. Bốn tháng là
một trăm hai mươi ngày. Cứ cái chế độ ăn này th́ bao lâu tôi sẽ
bắt đầu thiếu máu? ít nhất là hai tháng. Vậy trước mắt tôi có
hai tháng quyết định. Khi tôi đă quá yếu th́ các bệnh tật sẽ có
được một mảnh đất tuyệt vời để hoành hành. Tôi quyết định là sẽ
nằm từ sáu giờ chiều đến sáu giờ sáng. Tôi sẽ đi đi lại lại từ
khi đưa cà-phê cho đến khi thu bô, nghĩa là khoảng hai giờ. Đến
giữa trưa, sau bữa xúp, lại đi khoảng hai giờ nữa. Cả thảy là
bốn giờ đi đi lại lại. Thời gian c̣n lại th́ ngồi hay nằm.
Không mệt th́ sẽ khó bay đi lang thang. Nhưng tôi vẫn sẽ cố bay
thử.
Hôm nay, sau một hồi lâu suy nghĩ đến các bạn và đến người tù
khốn khổ đă bị hành hạ tàn nhẫn v́ tôi tôi bắt đầu tập dượt cho
quen với cái kỷ luật mới này. Kết quả khá tốt, tuy tôi thấy thời
gian trôi chậm hơn, và đôi chân tôi không làm việc mấy giờ liền
cứ thấy buồn buồn như chứa đầy kiến.
Cái chế độ này đă thi hành được mười ngày. Bây giờ tôi đói
thường xuyên. Tôi đă bắt đầu lâm vào t́nh trạng mỏi mệt kéo dài.
Tôi thấy thèm dừa quá, và cũng thèm thuốc lá nữa. Tôi đi nằm rất
sớm và chỉ một lát sau, không lâu lắm, tôi đă vượt ra khỏi buồng
giam trong tưởng tượng. Hôm qua, tôi ở Paris, dang ngồi uống sâm
banh ở quán Au Rát Mort với mấy thằng bạn, trong đó có Antonio
de Londres, quê quán ở Baléares, nhưng nói tiếp Pháp như một
người Paris và nói tiếng Anh như một tay roastbeef chính cống
của xứ Anh-cát-lợi. Hôm sau ở quán Au Marronnier trên đại lộ
Clichy, cậu ta giết một người bạn bằng năm phát súng lục. Trong
giới giang hồ những sự đổi thay từ t́nh bạn sang căm thù diễn ra
rất nhanh. Phải, hôm qua tôi ở Paris, khiêu vũ trong tiếng đàn
accordéon ở tiệm Petit Jardin, đại lộ Saint-Quen, khách đến nhảy
toàn người Corse và người Marseille. Tất cả các bạn tôi lần lượt
hiện ra trong chuyến du hành tưởng tượng này một cách rơ rệt và
chính xác đến nỗi tôi không một giây nào nghi ngờ sự có mặt của
họ cũng như sự có mặt của tôi ở những nơi mà tôi đă sống qua
những đêm diễm phúc ấy. Như vậy, (tôi) không đi nhiều, với chế
độ ăn rất có hẹp này tôi vẫn đạt được một kết quả tương đương
như cái kết quả đạt được bằng cách làm cho thân thể mỏi mệt.
Những h́nh ảnh của quá khứ lôi tôi ra khỏi buồng giam một cách
mạnh mẽ đến nỗi tôi thực sự được sống nhiều giờ tự do hơn là
những giờ cấm cố. Chỉ c̣n một tháng nữa.
Đă ba tháng rồi tôi chỉ ăn một ổ bánh ḿ tṛn và một soong xúp
nóng không có chất bột vào bữa trưa với miếng thịt hầm của nó.
T́nh trạng đói thường xuyên đă đưa tôi đến chỗ vừa nhận xong
soong xúp tôi đă vội vàng nh́n kỹ miếng thịt xem thử có phải nó
chỉ là một miếng da như đă từng xảy ra khá nhiều lần không.
Tôi đă gầy đi nhiều, và bây giờ tôi đă nhận thức được tầm quan
trọng của trái dừa mà tôi đă may mắn nhận được trong hai mươi
tháng liền đối với việc duy tŕ sức khỏe và trạng thái cân bằng
trong t́nh cảnh bị gạt ra ngoài cuộc sống.
Sáng nay, sau khi uống suất cà-phê, tôi thấy bứt rứt khác
thường. Tôi đă tự buông thả đến mức ăn một lúc hết nửa ổ bánh
ḿ, điếu mà tôi không bao giờ làm. Mọi khi tôi cắt nó ra làm bốn
miếng gần bằng nhau dể ăn làm bốn lần, vào lúc sáu giờ sáng, vào
giữa trưa, vào sáu giờ chiều, và miếng cuối cùng vào ban đêm.
“Sao lại làm như vậy”. Tôi tự mắng nhiếc một ḿnh. “Sắp kết thúc
rồi mà mày lại tự cho phép sa ngă một cách nghiêm trọng như thế
- “Tôi đói, và tự cảm thấy không c̣n sức mạnh - “Sao mày lắm
tham vọng thế. Làm sao mày lại có thể mạnh được trong khi ăn như
vậy? Điều quan trọng là mày yếu, đúng vậy, nhưng mày không đau
ốm: và điểm này mày là kẻ chiến thắng. Xét một cách lô~gích, nếu
mày không quá rủi ro, cái nhà giam “ăn thịt người” này rốt cục
sẽ thua mày trong cuộc tỷ thí
Sau hai giờ đi đi lại lại, tôi ngồi trên cái khối xi- măng dùng
làm ghế. C̣n ba mươi ngày nữa, tức bảy trăm hai mươi giờ, cánh
cửa kia sẽ mở ra và người ta sẽ nói với tôi: “Phạm nhân
Charriere, ra đi. Anh đă măn hạn hai năm cấm cố”. Và tôi sẽ nói
ǵ? Tôi sẽ nói: “Vâng, cuối cùng tôi cũng đă kết thúc được hai
năm đày đọa này”. ồ, không được, sao lại nói thế! Nếu đó là viên
giám đốc mà mày đă chơi xỏ vụ “mất trí nhớ” mày phải tiếp tục
chơi cái tṛ đó, tỉnh bơ như không. Mày sẽ nói: “Sao, tôi được
ân xá rồi à? Tôi được về Pháp à? án chung thân của tôi đă măn
hạn à?” Chẳng qua để côi bộ mặt của hắn và cho hắn thấy rằng cái
chế độ ăn đói mà hắn dùng để trừng phạt mày là một hành động bất
công.
- “Trời ơi, mày làm sao thế? Bất công hay không, tên giám đốc
kia đếch cần. Đối với một tâm địa như vậy th́ phạt oan hay không
có ǵ quan trọng đâu? Chẳng lẽ mày nghĩ rằng hắn ân hận v́ đă
trừng phạt mày một cách bất công sao? Từ nay trở đi tao cấm mày
không được coi một tên cai ngục như một con người b́nh thường.
Không có một con người nào đáng được gọi là người lại có thể làm
cái nghề này. Trên đời, cái ǵ người ta cũng có thể quen đi,
thậm chí suốt đời quen với cái sự nghiệp của một thằng khốn nạn.
May ra chỉ khi nào gần kề miệng lỗ th́ nỗi sợ hăi trước Thượng
đế mới có thể làm cho hắn ân hận và sám hối, nếu hắn có một tôn
giáo. Không phải thực sự hối hận về những hành vi bỉ ổi mà hắn
đă làm, chẳng qua v́ sợ sự phán xử của Thượng đế, trong đó bản
thân hắn là kẻ bị xử tội. Như vậy, khi ra khỏi nhà lao cấm cố,
có được đưa về đảo nào chăng nữa, ngay từ đầu mày chớ có chút
nào thỏa hiệp với giống người này: Mày với chúng nó đối lập hoàn
toàn với nhau, và ở giữa có một đường phân giới rất rạch ṛi.
Một bên là sự hèn hạ, là quyền thế câu nệ không hồn, là bệnh
xa-đích bẩm sinh, có tính chất bản năng, máy móc trong những
phản ứng của nó; và bên kia là tôi và những người cùng cảnh ngộ,
chắc chắn là phạm những tội nặng, nhưng đă được sự đau khổ tạo
cho những phẩm chất vô giá; t́nh thương xót ḷng nhân hậu, sự
tôn quư, ḷng dũng cảm.
Hoàn toàn thành thật mà nói, tôi thà làm tên tù khổ sai c̣n hơn
làm một tên cai ngục.
Chỉ c̣n hai mươi ngày nữa. Tôi cảm thấy trong người yếu lắm rồi.
Tôi có nhận thấy ổ bánh ḿ của tôi bao giờ cũng thuộc loại nhỏ.
Ai là kẻ có thể tự hạ ḿnh đến mức chọn bánh ḿ nhỏ cho tôi? Từ
mấy ngày rồi trong soong xúp của tôi chỉ có nước nóng, và suất
thịt bao giờ cũng là một cái xương có ít thịt dính quanh, nếu
không phải là một miếng da. Tôi sợ ḿnh lăn ra ốm. Mỗi lo sợ này
cứ ám ảnh tôi. Tôi yếu đến nỗi trong khi thức tôi chẳng cần cố
gắng một chút nào cũng có thể mơ tưởng bất cứ điều ǵ. T́nh
trạng mệt mỏi ră rời kèm theo một tâm trạng chán nản trầm trọng
làm cho tôi rất lo ngại. Tôi t́m măi cách phản ứng, nhưng phải
khó khăn lắm mới qua được hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày.
Có tiếng cào ngoài cửa. Tôi hối hả rút mảnh giấy. Nó viết bằng
bút dạ quang. Đó là một bức thư của Dega và Galgani. “Cậu viết
cho chúng ḿnh mấy chữ đi. Rất lo ngại về t́nh trạng sức khỏe
của cậu. C̣n mười chín ngày nữa, can đảm lên. Louis, lgnace”.
Kèm theo có một mẩu giấy và một khúc ruột bút ch́ đen. Tôi viết:
“Tôi c̣n chịu được, tuy rất yếu. Cám ơn. Papi”.
Khi nghe tiếng chổi cào cửa lần nữa, tôi luồn mẫu giấy ra. Bức
thư nhỏ, không kèm điếu thuốc lá và quả dừa, đối với tôi vẫn là
một cái ǵ hơn tất cả các thứ đó. Sự thể hiện này của một t́nh
bạn chung thủy tuyệt vời đă cho tôi sức khích lệ mà tôi đang
cần. ở bên ngoài, các bạn biết tôi ra sao và nếu tôi lâm bệnh,
thế nào các bạn tôi cũng sẽ t́m cách thúc dục bác sĩ chăm sóc
tôi tứ tế Các bạn tôi nói đúng: chỉ c̣n mười chín ngày nữa tôi
sẽ đến đích trong cuộc chạy đua gian khổ với cái chết và với sự
điên rồ. Tôi sẽ không lâm bệnh.
Phần tôi là phải làm thật ít động tác để chỉ tiêu hao những
ca-lo-ri không thể không dùng đến. Tôi sẽ bỏ bớt hai giờ đi đi
lại lại buổi sáng và hai giờ buổi chiều. Đó là cách duy nhất để
giữ vững. Cho nên suốt đêm, trong mười hai tiếng đồng hồ tôi nằm
và mười hai tiếng c̣n lại, tôi ngồi yên trên cái ghế xi-măng.
Thỉnh thoảng tôi đứng dậy, duỗi tay ra co tay vào mấy lần, rồi
lại ngồi xuống.
Chỉ c̣n mười ngày nữa.
Tôi đang dạo chơi ở Trinidad, những cây đàn c̣ một dây của người
Java đang ru tôi với những giai điệu ai oán th́ một tiếng gớm
ghiếc, nghe không c̣n ra tiếng ngươi nữa, lôi thôi về cơi thực.
Tiếng hét này từ một buồng giam ở sát phía sau buồng tôi hay gần
như thế, rất gần, tôi lắng tai nghe:
- Thằng khốn kiếp, mày xuống đây đi, xuống cái hố này. Mày đứng
trên ấy giám sát tao măi mà không chán à? Mày không thấy là mày
bị thiệt mất một nửa cảnh v́ dưới này tối quá à?
- Anh im đi, nếu không sẽ bị phạt nặng đấy? - Tên lính gác nói.
- à à? Mày nói nghe thối bỏ mẹ, đồ mặt l...? Mày bảo c̣n có cách
ǵ phạt nặng hơn là sự im lặng này? Mày muốn phạt bao nhiêu cứ
phạt, nếu thích th́ cứ đánh đập tao đi, tên đao phủ ghê tởm kia,
nhưng mày sẽ không bao giờ t́m được một cái ǵ có thể so sánh
với sự im lặng mà mày bắt tao phải giữ. Không, không, không? Tao
không chịu thế này nữa đâu, tao không chịu im lặng nữa đâu, tao
không thể im lặng măi được nữa? Lẽ ra từ ba năm trước tao phải
nói vào mặt mày: đồ khốn nạn? Đồ cứt đái? Thế mà tao đă ngu dại
đến nỗi đợi ba mươi sáu tháng rồi mới chửi vào mặt mày, chỉ v́
sợ trừng phạt? Tao nhổ vào mặt mày và cả bọn chúng mày, đồ cai
ngục thối nát?
Một lát sau có tiếng cửa mở và tôi nghe thấy:
- Không, không phải thế! Mặc trái vào cho nó, như thể hiệu quả
hơn nhiều?
Người tù đáng thương gào lên:
- Mày muốn mặc áo cùm cho tao cách nào th́ cứ mặc đi, đồ sâu bọ!
Mặc ngược cũng được, riết thật chặt vào cho tao chết ngạt đi, kề
đầu gối vào mà rút dây cho chặt. Đằng nào thi tao cũng cứ nói
rằng mẹ mày chỉ là một con lợn cái, c̣n mày chỉ có thể là một
đống cứt?
Chắc chúng nó đă ghét giẻ vào mồm người tù v́ tôi không c̣n nghe
thấy ǵ nữa. Cánh cửa đă đóng lại.
Cảnh vừa qua chắc đă làm cho tên lính gác trẻ tuổi đang đi lại
lại phía trên xúc động v́ mấy phút sau hắn đứng lại trước buồng
giam tôi và nói: “Chắc anh ta phát điên rồi”
- Anh nghĩ thế à? Những điều anh ta nói ra đều phải cả đấy chứ.
Tên lính gác sửng sốt một lúc rồi bỏ đi sau khi ném một câu:
“Thế à, thế th́ anh cũng sẽ theo gót hắn thôi?”.
Việc vừa xảy ra dă tách tôi khỏi những người tốt bụng, những
tiếng đàn c̣, những đôi vú ấn Độ, cái cảng Port of Spain, và lôi
tôi về cái thực tế đáng buồn của nhà giam cấm cố.
C̣n mười ngày nữa, tức hai trăm bốn mươi giờ, phải chịu đựng.
Cái chiến thuật không cử động đă đem lại kết quả.
Nếu đó không phải là do những giờ cuối ngày trôi qua một cách êm
đềm, hay là nhờ mẩu giấy của các bạn tôi. Tôi có thiên hướng
nghĩ rằng sở dĩ ḿnh tự cảm thấy mạnh mẽ hơn là nhờ một sự so
sánh đă đến với tôi như một điều hiển nhiên: tôi chỉ c̣n cách
giờ ra khỏi nhà giam có hai trăm bốn mươi tiếng đồng hồ, tôi yếu
nhưng óc tôi vẫn nguyên vẹn, năng lực của tôi chỉ cần thêm một
ít sức nữa là có thể làm việc trở lại một cách hoàn hảo. Trong
khi đó th́ sau lưng tôi, chỉ cách hai mét, sau bức tường này,
một người tù khốn khổ đang bước vào giai đoạn thứ nhất của sự
điên rồ, có lẽ là bước vào bằng một ngưỡng cửa không nên vượt
qua: ngưỡng cửa của bạo lực. Người ấy sẽ không sống lâu nữa, v́
sự nổi loạn của anh ta khiến cho bọn cai ngục cơ hội sừ dụng
những biện pháp đă nghiên cứu rất kỹ để giết anh ta một cách
thật khoa học. Tôi tự trách ḿnh là đă cảm thấy ḿnh mạnh hơn
chỉ v́ người kia bại trận. Tôi tự hỏi, không biết ḿnh có phải
là một trong những kẻ ích kỷ mà vào những ngày mùa đông, chân đi
giày ấm, tay đi găng, ḿnh khoác tấm áo lông dày, đang nh́n
những đám người lao động đang đi làm ăn mặc phong phanh, người
rét cóng, hai tay tím lại v́ gió rét, đang hớt hải chạy cho kịp
chuyến xe buưt hay chuyến mé tro đầu tiên, càng nh́n họ càng
thấy ḿnh ấm áp và thường thức cái cảm giác ấy một cách trọn vẹn
hơn bao giờ hết.
Trên đời này, nhiều khi mọi sự chỉ là do so sánh mà có. Đúng
thế, người ta có thể nghĩ: tôi bị mười năm nhưng Papillon th́ bị
chung thân. Đúng thế, tôi bị chung thân, nhưng tôi mới hai mươi
tám tuổi, c̣n anh kia chỉ bị mười lăm năm, nhưng tuổi anh đă năm
mươi rồi. Dù sao cuối cùng tôi cũng đă gần đến đích, và tôi hy
vọng rằng chỉ trong ṿng sáu tháng là cùng tôi sẽ lại sung sức
về mọi phương diện - thể chất, tinh thần, ư chí - để thực hiện
một cuộc vượt ngục ngoạn mục.
Người ta đă phải nói nhiều về chuyến vượt ngục đầu tiên, chuyến
thứ hai sẽ được khắc lại trên những phiến đá xây tường của tại
khổ sai. Tôi không chút nghi ngờ.
Tôi sẽ ra đi trước sáu tháng: đó là điều hoàn toàn chắc chắn.
Đây là đêm cuối cùng của tôi ở nhà giam cấm cố. Cách đây một vạn
bảy ngàn năm trăm tám giờ tôi đă bước vào buồng giam 234. Họ đă
mở cửa ra một lần để giải tôi ra trước mặt viên giám đốc cho hắn
xử tội.
Ngoài người tù ở buồng bên mỗi ngày thường trao đổi với tôi mấy
tiếng nhát gừng, người ta đă nói chuyện với tôi bốn lần. Một lần
để nói rằng khi có tiếng c̣i huưt có thể hạ ván xuống: đó là
ngày thứ nhất. Một lần là các ông bác sĩ nói: “Quay lưng lại ho
đi”. Một buổi nói chuyện dài hơn và sôi nổi hơn với viêm giám
đốc. Và hôm trước là bốn câu trao đổi với tên lính gác bị người
tù phát điên làm cho xúc động. Giải khuây như vậy thật không lấy
làm ǵ phong phú! Tôi ch́m vào một giấc ngủ yên lành, trong ư
nghĩ không có ǵ khác hơn là: ngày mai người ta sẽ mở hẳn cánh
cửa này. Ngày mai tôi sẽ được nh́n thấy ánh mặt trời, và nếu họ
đưa tôi sang Royale tôi sẽ được hít thở không khí của biển khơi.
Ngày mai tôi sẽ được tự do. Tôi bật cười. Tự do là thế nào? Ngày
mai mày bắt đầu chính thức hưởng cái án khổ sai chung thân. Thế
mà mày gọi là tự do ư? Tôi biết, tôi biết chứ, nhưng cuộc sống ở
bên ngoài không thể nào so sánh với cuộc sống mà tôi vừa phải
chịu đựng. Tôi sẽ gặp Clousiot và Maturette như thế nào đây.
Đến sáu giờ, họ đưa cà-phê và bánh ḿ cho tôi. Tôi chỉ muốn nói:
Ḱa, hôm nay tôi được ra kia mà.
“Anh nhầm rồi”. Nhưng tôi chợt nhớ ra rằng ḿnh là người “mất
trí nhớ”, và biết đâu nếu tôi nói như vậy th́ khác nào thừa nhận
là đă giỡn mặt viên giám dốc, và hắn rất có thể phạt tôi ba mươi
ngày xà-lim nữa?
V́ dù có thể nào, theo pháp luật tôi phải ra khỏi nhà giam cấm
cố trừng giới Saint-Joseph đúng vào ngày hôm nay, 26 tháng sáu
1936. Bốn tháng nữa tôi tṛn ba mươi tuổi.
Tám giờ. Tôi đă ăn hết cả ổ bánh ḿ. Ra ngoài tôi sẽ có thứ khác
để ăn ngay. Họ đến mở cửa. Trước mặt tôi là viên phó giám đốc và
hai tên giám thị.
- Charrière, anh đă măn hạn, hôm nay là ngày 26 tháng sáu 1936.
Anh đi theo chúng tôi.
Tôi ra ngoài. Ra đến tận sân th́ mặt trời đă đủ sáng để làm tôi
lóa mắt. Tôi có cảm giác như muốn xỉu.
Hai chân tôi mềm nhũn ra, và những chấm đen quay cuồng trước mắt
tôi. Thế mà tôi mới vừa đi được chừng năm mươi mét trong đó có
ba mươi mét đi dưới nắng.
Đến trước gian nhà “Ban quản trị” tôi trông thấy Maturette và
Clousiot. Maturette đúng là một bộ xương, hai má hóp vào, đôi
mắt sâu hoắm. Clousiot th́ nằm trên cáng. Anh ta xanh xao và đă
phảng phất mùi người chết. Tôi nghĩ: “Hai bạn của tôi trông
chẳng đẹp chút nào. Không biết ḿnh có như vậy không?” Tôi nóng
ḷng muốn được nh́n thấy ḿnh trong gương. Tôi nói với hai bạn:
- Thế nào, ổn không?
Họ không trả lời. Tôi nhắc lại:
- ổn không?
- ổn - Maturette nói rất khẽ.
Tôi muốn nói với cậu ta rằng bây giờ đă hết hạn cấm cố, chúng
tôi có quyền nói chuyện. Tôi cúi xuống hôn lên má Clousiot. Anh
nh́n tôi với đôi mắt sáng long lanh và mỉm cười:
- Vĩnh biệt Papillon, - anh nói.
- Không, sao lại nói thế?
- Tôi đến rồi, thế là hết.
Mấy ngày sau, Clousiot sẽ chết ở bệnh viện đảo Royale. Anh được
ba mươi hai tuổi, bị xử hai mươi năm khổ sai v́ một vụ ăn cắp xe
đạp mà anh không phải là thủ phạm. Nhưng lúc ấy viên giám đốc đă
đến:
- Cho họ vào. Maturette và Clousiot, các anh đă có hạnh kiểm
tốt. Cho nên tôi đề vào phiếu của các anh là “Hạnh kiểm tốt”.
C̣n anh, Charriere, anh đă phạm một lỗi nặng, tôi phải đề: hạnh
kiểm xấu.
- Xin lỗi ông, tôi phạm lỗi ǵ ạ?
- Thế anh không nhớ vụ thuốc lá và dừa bị bắt quả tang à?
- Cây dừa ở đâu?
- Ḱa, bốn tháng nay anh hưởng chế độ ǵ?
- Về phương diện nào chứ? ăn uống à? Từ khi tôi vào đây hôm nào
chẳng thế!
- Chà! Thế th́ thật quá quắt! Chiều qua anh ăn ǵ?
- Như mọi khi, cho ǵ tôi ăn nấy. Tôi đi đâu mà biết? Tôi không
nhớ, nhưng tôi biết đại khái là đậu hay cơm xào, hay một thứ rau
ǵ đấy.
- Thế anh có ăn bữa chiều à?
- Trời đất! ông tưởng tôi đổ đi sao?
- Không thế này th́ không được, tôi xin bỏ cuộc. Thôi, tôi rút
lui “Hạnh kiểm xấu”. Làm lại phiếu ra tù đi ông X... Tôi ghi cho
anh “Hạnh kiểm tốt”, được chưa?
- Như thế là công bằng thôi. Tôi có làm ǵ đâu mà chẳng hạnh
kiểm tốt?
Và đó là câu cuối cùng trước khi chúng tôi ra khỏi văn pḥng.
Cổng lớn của nhà giam cấm cố mở ra cho chúng tôi đi qua. Chỉ có
một tên giám thị đi theo áp giải, chúng tôi thong thả bước xuống
con đường dẫn ra trại. Phía dưới là mặt biền lấp lánh những ánh
bạc và bọt sóng. Đảo Royale ở phía trước mặt, phủ đầy cây cối
xanh rờn và mái ngói đó. Đảo Quỷ, khắc khổ và hoang dại. Tôi xin
phép tên giám thị ngồi xuống mấy phút. Hắn bằng ḷng. Chúng tôi
ngồi xuống cạnh Clousiot, tôi bên phải, Maturette bên trái.
Chúng tôi cầm lấy tay anh từ lúc nào cũng không biết nữa. Sự
tiếp xúc này gieo vào ḷng chúng tôi một nỗi xúc động lạ kỳ.
Không nói một lời, chúng tôi ôm hôn nhau. Viên giám thị nói.
- Thôi các cậu. Phải xuống thôi.
Và chúng tôi từ từ, rất chậm răi, đi xuống trại. Hai đứa chúng
tôi cùng vào trại một lúc, hai bàn tay vẫn nắm lấy nhau, phía
sau là hai người khiêng cáng bạn chúng tôi đang hấp hối.
Cuộc
sống ở đảo Royale
Chúng tôi vừa đến sân trại đă được sự quan tâm niềm nở của toàn
thể phạm nhân. Tôi gặp lại Plerrot le Fou, Jean Sartrou,
Coloudim, Chissilia. Viên giám thị bảo cả ba chúng tôi phải vào
bệnh xá. Chúng tôi đi qua sân để vào bệnh xá, xung quanh có đến
vài chục phạm nhân hộ tống. Chỉ mấy phút sau, Maturette với tôi
đă có trước mặt hơn chục gói thuốc lá điếu và thuốc lá sợi, một
b́nh cà-phê sữa nóng hổi, mấy tấm sô-cô- la làm bằng ca-cao
nguyên chất. Ai cũng muốn tặng chúng tôi một thứ quà ǵ đó.
Clousiot dược anh y tá tiêm cho một mũi dầu long năo và một liều
adrenalin để trợ tim. Một anh da đen gầy g̣ nói: “Anh y tá ạ,
anh lấy phần sinh tốt của tôi phát cho anh ấy đi, anh ấy cần hơn
tôi”. Cái cánh tỏ t́nh đoàn kết thân ái đối với chúng tôi thật
cảm động.
Pierre người Bordeaux nói với tôi:
- Cậu cầm láy ít tiền nhé? Trước khi cậu lên đường đi Royale, tớ
sẽ có đủ th́ giơ quyên cho cậu một món.
- Thôi, cám ơn cậu nhiều, tớ có tiền. Nhưng sao cậu biết tớ đi
Royale à?
- Biết. Viên kế toán có nói với tớ cả ba cậu sẽ đi. Tớ c̣n đoán
chắc là ca ba sẽ được vào bệnh viện.
Viên y tá vốn là một tên cướp ở vùng núi đảo Corse. Anh ta lên
là Essari. Về sau tôi đă có dịp biết anh ta rất rơ. Tôi sẽ kể
lại đầu đuôi câu chuyện của anh ta. Đó là một câu chuyện thật
thú vị.
Hái tiếng đồng hồ ở bệnh xá trôi qua rất nhanh. Chúng tôi đă
được ăn uống ngon lành. No nê và hồ hởi, chúng tôi lên đường đi
Royale. Suốt thời gian vừa qua Clousiot mắt cứ nhắm nghiền, chỉ
trừ những khi tôi đến cạnh đặt bàn tay lên trán anh, anh mới mở
đôi mắt đă mờ đục, nói:
- Papi, bạn ơi! Chúng ḿnh thực sự là bạn của nhau nhỉ.
- Hơn thế nữa, chúng ḿnh là anh em ruột thịt, - tôi đáp
Vẫn chỉ có một viên giám thị đi kèm, chúng tôi xuống bến. Đi
giữa là cái cáng qua Clousiot, c̣n tôi và Maturette mỗi đứa đi
một bên. Đến cổng trại, tất cả phạm nhân đều ra từ biệt và chúc
chúng tôi may mắn. Chúng tôi cám ơn anh em. Tuy họ đều không
chịu nhận. Pierrot le Fou quàng lên cỏ tôi một túi dết đựng đầy
thuốc lá sợi, thuốc điếu, sô-cô~la, sữa hộp Nestlé. Maturette
cũng được một túi như thế. Cậu ấy chẳng biết người nào đă quàng
lên vai cậu cái túi quà ấy nữa.
Chỉ có anh y tá Fernadez và một viên giám thị đưa chúng tôi ra
bến. Fernadez trao cho mỗi đứa chúng tôi một cái phiếu nằm bệnh
viện đảo Royale. Tôi hiểu ra rằng chính hai phạm nhân khổ sai
làm y tá là Essari và Fernadez đă cấp giấy nhập viện cho chúng
tôi, chẳng hỏi ư kiến bác sĩ nữa. Chiếc ca~nô đă chờ sẵn.
Sáu người chèo, hai viên giám thị đeo súng trường ngồi ở phía
sau và một viên nữa cầm lái. Một trong những người chèo thuyền
là Chapar, bị xử trong vụ chứng khoán ở Marseile.
Chúng tôi lên đường. Sáu mái chèo vỗ xuống nước Chapar vừa chèo
vừa nói với tôi:
- ổn cả chứ Papi? Cậu vẫn nhận được dừa đấy chứ?
- Không, bốn tháng sau th́ không nhận dược nữa.
- Tớ biết. Có sự cố xảy ra. Cái cậu bị liên lụy đă xử sự rất cừ.
Cậu ấy chỉ biết có một ḿnh tớ, nhưng không hề khai tớ ra.
- Cậu ấy bây giờ ra sao?
- Chết rồi.
- Thế à? Tại sao?
- Theo một viên y tá th́ h́nh như cậu ấy bị chúng nó đá vỡ gan.
Thuyền cặp bến đảo Royale, đảo lớn nhất trong quần đảo. Đồng hồ
cửa hàng bánh ḿ chỉ ba giờ. Nắng chiều ở đây quả là gay gắt.
Tôi thấy chói và bức quá.
Một viên giám thị yêu cầu hai người khiêng cáng. Hai phạm nhân
vạm vỡ đồ trắng tinh, cổ tay đeo nịt da đen, nhấc cáng của
Clousiot lên trông nhẹ bỡn như nhấc cái lông chim. Maturette và
tôi bước theo, đi sau cùng là một viên giám thị cầm mấy thứ giấy
tờ ǵ đấy. Đường đi rộng hơn bốn mét, lát bằng đá cuội lớn lấy ở
bờ biển, rất khó đi lên dốc. May mà hai người khiêng cáng chốc
chốc lại dừng lại đợi chúng tôi lên kịp. Mỗi lần như vậy tôi lại
ngồi ghé xuống khung cáng phía đầu Clousiot, tay khẽ vuốt lên
trán và lên tóc anh
Clousiot mở mắt ra, mỉm cười với tôi nói:
- Cậu, Papi!
Maturette cầm lấy tay anh.
- Cậu đấy à cậu bé? - Clousiot th́ thầm.
Clousiot có vẻ tràn trề hạnh phúc khi thấy chúng tôi ở bên cạnh.
Vào một lúc dừng lại nghỉ, khi đă gần đến trại, chúng tôi gặp
một tốp phạm nhân đi làm cỏ về. Hầu hết là những phạm nhân cùng
sang một chuyến với tôi. Đi ngang qua, ai nấy đều nói với chúng
tôi một lời thân ái. lên đến đỉnh dốc bằng phẳng, chúng tôi
trông thấy những viên chức cao cấp nhất trên đảo ngồi trong bóng
râm trước một ṭa nhà vuông quét vôi trắng.
Chúng tôi đến trước mặt thiếu tá Barrot biệt hiệu là “Dừa khô”
và mấy viên chỉ huy trại khác. Không đứng dậy, và không làm ra
vẻ nghi thức, thiếu tá nói:
- Thế nào, ở nhà lao Cấm cố không đến nỗi gay quá chứ? C̣n anh
nằm cáng kia là ai thế
- Clousiot đấy ạ
Thiếu tá nh́n Clousiot rồi nói:
- Đưa cả ba vào bệnh viện đi. Khi nào họ ra viện, yêu cầu bảo
cho tôi biết để họ đến gặp tôi trước khi được đưa về trại nhé.
ở bệnh viện, họ cho chúng tôi nằm trong một căn pḥng rộng răi,
rất sáng sủa, giường nằm rất sạch, có trải drap và có gối mềm
hẳn hoi. Người y tá đầu tiên mà tôi nh́n thấy là Chatal - chính
viên y tá ở pḥng dành cho phạm nhân nguy hiểm ở
Saint-Laurent-du- Maroni. Anh ta lập tức đến săn sóc Clousiot và
báo một viên giám thị gọi ngay bác sĩ. Khoảng đến năm giờ chiều
bác sĩ đến. Sau khi khám nghiệm kỹ lưỡng một hồi lâu, bác sĩ lắc
đầu, vẻ không hài ḷng. Bác sĩ viết đơn thuốc rồi đi về phía
tôi. Ông ta nói với Chatal:
- Papillon với tôi chẳng ưa ǵ nhau đâu.
- Thế th́ tôi lấy làm lạ v́ anh ta rất tốt, bác sĩ
- Có thể. Nhưng anh ta bướng lắm.
- Nhân dịp nào?
- Nhân một lần tôi khám bệnh cho anh ta ở Nhà giam cấm cố.
- Bác sĩ ạ, - tôi nói - đứng ngoài hành lang hỏi tôi mấy câu như
thế mà cũng gọi là khám bệnh được sao?
- Ban Quản trị có lệnh cấm mở cửa pḥng giam.
- Rất đúng, thưa bác sĩ, nhưng tôi hy vọng rằng bác sĩ không
phải là một thành viên của Ban Quản trị: như thế tốt hơn cho bác
sĩ nhiều.
- Ta sẽ nói chuyện này vào một dịp khác. Tôi sẽ cố làm cho anh
bạn anh hồi phục. C̣n anh ta th́ tôi e là đà quá muộn.
Chatal kể cho tôi nghe rằng anh bị nghi là có chuẩn bị cho một
cuộc vượt ngục nên bị đày ra Quần đảo. Anh ta cũng cho tôi biết
rằng Jésus, kẻ đă lừa tôi trong chuyến vượt ngục của tôi, đă bị
một người hủi giết chết.
Chatal không biết tên người này. Tôi cứ băn khoăn không biết đó
có phải là một trong những người hủi đă giúp đỡ chúng tôi một
cách hào hiệp trong chuyến vượt ngục vừa qua hay không.
Cuộc sống của tù khổ sai ở đảo Salut hoàn toàn khác với những
điều người ta có thể tưởng tượng. Phần đông phạm nhân đều cực kỳ
nguy hiểm, v́ nhiều nguyên do. Trước hết ở đây mọi người đều
được ăn rất khá, v́ ở đây người ta buôn đủ thứ: rượu, thuốc lá,
cà-phê, sô-cô-la, đường, thịt, rau tươi, cá, tôm he, dừa v.v...
Cho nên phạm nhân đều khỏe mạnh. Khí hậu lại rất lạnh. Chỉ có
những phạm nhân có thời hạn mới có hy vọng được trả tự do, c̣n
tù khổ sai chung thân th́ hoàn toàn vô vọng, cho nên họ đều rất
nguy hiểm: họ c̣n có sợ ǵ nữa đâu? Mọi người đều dính dấp vào
việc buôn bán lén lút hàng ngày, phạm nhân cũng như giám thị.
Đấy là một sự pha trộn chăng dễ ǵ hiểu nổi. Có những người vợ
giám thị t́m cách đưa phạm nhân trẻ về làm việc nội trợ - và
cũng nhiều khi kiêm cả việc làm t́nh nữa. Những phạm nhân ấy
được gọi là “tù gia đ́nh”. Người th́ làm vườn, người th́ nấu
bếp. Chính loại phạm nhân này là đầu mối liên lạc giữa trại tù
và các gia đ́nh cảnh sát. Bọn “tù gia đ́nh” không bị các phạm
nhân khác khinh ghét. v́ chính nhờ bọn này mà họ có thể tha hồ
buôn bán các thứ. Nhưng bọn này cũng không được họ coi như những
người “trong sạch”. Trong giới giang hồ chân chính không có một
ai hạ ḿnh xuống làm những công việc như thế. Cũng như họ không
chịu làm việc “giữ ch́a khóa” hay hầu bàn ở nhà ăn của bọn giám
thị. Ngược lại, họ rất chuộng những công việc không buộc họ phải
dính dáng ǵ với bọn gác ngục: đổ rác, nhặt lá vàng, chăn trâu,
làm y tá, làm vườn cho nhà giam làm thịt súc vật, làm bánh ḿ,
chèo thuyền, đưa thư, canh hải đăng. Tất cả các công việc này
đều do những người “giang hồ chính cống” lĩnh lấy. Một kẻ giang
hồ chính cống không bao giờ làm những công việc lao dịch nhằm
bảo quản tường rào, đường sá, cầu thang, hay trồng dừa; tức là
những công việc lao dịch dưới ánh nắng trực tiếp hay dưới sự
kiểm soát của cảnh sát. Phạm nhân phải làm việc từ bảy giờ sáng
đến mười hai giờ trưa và từ hai giờ trưa đến sáu giờ nhiều,
những điều trên đây có thể giúp bạn đọc h́nh dung sơ sài cái
không khí sống trà trộn của những con người hết sức khác nhau,
phạm nhân lẫn cánh sát: đây thật là một cái làng nhỏ trong đó
việc ǵ cũng được mọi người b́nh luận, việc ǵ cũng được phán
xét, trong đó mọi người đều chứng kiến và quan sát cách sống của
nhau.
Dega và Galgani đă đến bệnh viện thăm tôi suốt ngày chủ nhật.
Chúng tôi đă cùng ăn món ailloli nấu cá, món canh cá, khoai tây,
pho-mát, uống cà-phê, rượu vang trắng. Bữa ăn này chúng tôi gồm
có Chatal, Dega, Galgani, Maturette và tôi, đă cùng nấu với nhau
trong pḥng của Chatal. Các bạn yêu cầu tôi kể lại chuyến vượt
biên thật tỉ mỉ. Dega đă quyết định là không t́m cách vượt ngục.
Bác ta chờ đợi tin được giam ba năm, thành thử nếu được giam th́
chỉ c̣n có bốn năm. Bác ta đă đành ḷng ngồi cho hết bốn năm ấy.
C̣n Galgani th́ nói là nghe đâu đang được một thượng nghị sĩ
người Corse lo cho.
Sau đó đến lượt tôi hỏi. Tôi muốn biết ở đây có những chỗ làm
nào thuận tiện hơn cả cho việc vượt ngục. Thế là ai nấy đều kêu
váng lên. Đối với Dega vấn đề này chưa bao giờ thoáng hiện trong
tâm trí. Galgani cũng vậy. Riêng Chatal th́ nghĩ rằng nên t́m
một mảnh vườn để chuẩn bị một cái bè. C̣n Grandet th́ cho tôi
biết rằng anh ta làm thợ rèn cho “Công trường” của trại. Đó là
một cái xưởng có đủ cái loại thợ: thợ sơn, thợ mộc, thợ rèn, thợ
nề, thợ hàn - cả thảy gần trăm hai mươi người. Xưởng lo việc bảo
tŕ nhà cửa của Ban Quản trị. Dega vốn làm kế toán trưởng, có
thể xin cho tôi vào đấy làm một việc ǵ tùy tôi chọn. Grandet tỏ
ư sẵn sàng nhường cho tôi một nửa chân chủ ṣng bạc, để lấy số
tiền ăn được của các con bạc mà giữ ǵn sức khỏe, khỏi lạm vào
tiền giấu trong plan. Về sau tôi sẽ rơ rằng việc này rất thú vị,
nhưng cũng cực kỳ nguy hiểm. Ngày chủ nhật trải qua một cách
nhanh chóng lạ lùng. “Năm giờ rồi - Dega nh́n cái đồng hồ tuyệt
đẹp đeo trên cổ tay, nói - phải về trại thôi”. Khi ra về, Dega
cho tôi năm trăm francs để đánh poker, v́ trong pḥng chúng tôi
đôi khi có những đám bạc rất khá. Grandet cho tôi một con dao
thượng hảo hạng có chốt chắn tay, lưỡi bằng thép do chính tay
anh ta tôi.
- Đó là một vũ khí đáng gờm. Đêm ngày cậu bao giờ cũng phải thủ
dao trong người.
- Thế nhỡ chúng nó khám th́ sao?
- Phần nhiều, việc này do bọn giữ khóa A-rập làm. Đối với một
người được coi là nguy hiểm, không bao giờ chúng nó phát hiện là
có vũ khí, dù có sờ thấy dao rơ ràng chúng nó cũng phải lờ đi.
- Sẽ gặp lại ở trại - Grandet nói.
Trước khi ra về, Galgani nói là đă dành cho tôi một chỗ trong
góc của anh ta và hai đứa sẽ cùng một tổ với nhau (người cùng tổ
th́ ăn chung và tiền của mỗi người cũng là tiền của cài tổ).
Dega th́ không ngủ ở trại: bác ta có một buồng ngủ riêng trong
dăy nhà của Ban Quản trị.
Chúng tôi đến đây đă được ba ngày, nhưng v́ đêm nào tôi cũng ở
bên cạnh Clousiot, cho nên tôi không biết rơ cho lắm cảnh sinh
hoạt ở căn pḥng lớn của bệnh viện có đến gần sáu mươi người
nằm. Rồi v́ Clousiot mệt nặng quá, người ta cách ly anh vào một
pḥng riêng đă có một người bệnh nặng nằm từ trước.
Chatal cứ tống măi morphin vào cho anh. Chatal sợ anh không qua
khỏi đêm nay.
Trong pḥng có sáu mươi giường xếp lại làm hai dăy, ở giữa là
một lối đi rộng ba mét. Hầu như giường nào cũng có người nằm.
Hai ngọn đèn dầu hỏa thắp sáng gian pḥng. Maturette nói với
tôi: “Ngoài kia họ đang đánh poker”. Tôi ra chỗ đánh bài. Có bốn
người đang chơi.
- Tôi vào thêm một chân có được không?
- Được, ngồi xuống đi. Mỗi ván tối thiểu chừng một trăm francs.
Mỗi chầu ba ván vị chi ba trăm francs.
- Này, cầm lấy ba trăm tiền cắc.
Tôi đưa Maturette giữ hộ hai trăm đồng tiền cắc.
Một người Paris tên là Dupont nói:
- ở đây đánh theo luật Anh, kḥng dùng joker. Cậu biết cách chơi
chứ?
- Biết.
- Thế th́ chia bài đi, cậu làm cái trước.
Mấy người này đánh bài với một tốc độ khó tưởng tượng nổi. Bài
phải đỡ rất nhanh, nếu không người làm cái sẽ nói: “Đỏ chậm
rồi”, và người kia sẽ phải đền. Chính ở đây tôi đă phát hiện
được một loại phạm nhân mới: loại con bạc. Họ sống bằng cờ bạc,
v́ cờ bạc trong cờ bạc. Ngoài cờ bạc ra, họ không c̣n quan tâm
đến một cái ǵ khác nữa. Họ quên hết: trước kia họ là ǵ, họ bị
xử án ǵ, họ có thể làm ǵ để cho cuộc sống của họ thay đổi ít
nhiều. Họ không cần biết người ngồi đánh bài với họ là ai, tốt
xấu ra sao, chi cần người đó đánh bài, thế là đủ.
Chúng tôi chơi suốt đêm hôm ấy. Đến giờ uống cà- phê mới thôi.
Tôi được một ngàn ba trăm francs. Tôi đang đi về giường th́
Paulo đến gặp tôi hỏi vay hai trăm để đi đánh tiếp mấy ván
belote tay đôi. Cần hai trăm mà anh ta chỉ có một.
- Đây, cầm lấy ba trăm. Chung vốn một nửa, tôi nói.
- Cám ơn Papillon. Anh đúng là gă trai tôi đă được nghe nói. Ta
sẽ là bạn.
Anh ta chia tay, tôi bắt tay anh ta, và anh ta vui vẻ cầm tiền
đi.
Clousiot chết vào sáng hôm ấy.
Đêm trước, vào một lúc tỉnh táo, anh đă yêu cầu Chatal đừng tiêm
morphin cho anh nữa:
- Tôi muốn được trọn vẹn khi chết, ngồi trên giường bên cạnh có
các bạn tôi.
Có lệ tuyệt đối cấm vào các pḥng cách ly, nhưng Chatal đă tự ư
bỏ lệ đó, và bạn chúng tôi đă được chết trong tay chúng tôi. Tôi
đă vuốt mắt cho anh. Maturette biến dạng đi v́ đau đớn.
- Anh ấy là người bạn đường trong cuộc phiêu lưu tuyệt vời của
chúng ta. Thế mà bây giờ người ta đă ném anh ấy xuống biển cho
cá mập.
Khi nghe mấy tiếng “ném cho cá mập”, tôi lạnh toát cả người. ở
Quần đảo quả nhiên không có nghĩa địa cho phạm nhân. Khi một
người tù qua đời, họ đem xác ném xuống biển vào lúc mặt trời
lặn, khoảng giữa hai đảo Saint-Joseph và Royale, một nơi nhung
nhúc những cá mập.
Cái chết của người bạn làm cho tôi không tài nào ở lại bệnh viện
được. Tôi nhắn Dega là ngày kia tôi sẽ ra viện. Dega liền viết
cho tôi mấy chừ: “Cậu hăy xin Chatal kư giấy cho nghỉ mười lăm
ngày ở trại, để cậu có th́ giờ chọn một công việc vừa ư”.
Maturette sẽ nằm viện mấy ngày nữa. Có lẽ Chatal sẽ giữ cậu ta
lại làm y tá phụ việc.
Hôm tôi ra viện, họ dẫn tôi đến trụ sở ban Quản trị gặp thiếu tá
Barrot biệt hiệu “Dừa khô”.
- Bươm bướm ạ, - ông ta nói, - trước khi cho anh về trại, tôi
thấy cần nói chuyện với anh một chút. ở đây anh có một người bạn
quư làm kế toán cho tôi: Louis Dega ấy. Lăo ta nói anh không
phải là người như trong các hồ sơ từ Pháp gửi cho chúng tôi nhận
xét và v́ coi anh là một người vô tội bị xử oan, việc anh thường
nổi loạn là việc b́nh thường. Tôi xin nói với anh rằng tôi không
đồng ư lắm với Dege về vấn đề này. Điều tôi đang muốn biết là
hiện nay trạng thái tinh thần của anh ra sao.
- Thưa thiếu tá, trước tiên, để có thể trả lời ngài, xin ngài
cho biết trong hồ sơ nhận xét về tôi như thế nào?
- Anh cứ xem đi th́ biết.
Và thiếu tá đưa cho tôi một cái cặp b́a vàng, trong đó tôi đọc
thấy những điều đại loại như sau:
“Henri Charrière, biệt hiệu Bươm bướm, sinh ngày 16 tháng Một
năm 1906 ở..., tỉnh Ardèche, bị Ṭa Đại h́nh quận sông Seine xử
án khổ sai chung thân v́ tội giết người. Nguy hiểm về mọi phương
diện, cần được giám sát nghiêm ngặt. Không thể giao những công
việc ưu đăi”
“Nhà lao trung tâm Caen: một phạm nhân bất trị, không thể cải
hóa. Có khả năng khuấy động và chỉ huy một cuộc nổi loạn. Cần
quan sát thường xuyên.
“Saint-Martin-de-Ré : một tù nhân có kỷ luật nhưng rất có ảnh
hưởng đối với các bạn tù. Sẽ t́m cách vượt ngục từ bất kỳ nhà
giam nào.
“Saint-Laurent-du-Maroni: đă tấn công một cách man rợ vào ba
viên giám thị và một viên giữ khóa để trốn khỏi bệnh viện. Được
đưa từ Colombia về. Có thái độ đứng đắn khi ra ṭa trừng giới.
Bị xử nhẹ hai năm cấm cố.
“Nhà lao cấm cố Saint-Joseph: hạnh kiểm tốt cho đến măn hạn”.
Khi tôi trả lại tập hồ sơ, viên thiếu tá nói:
- Anh bạn Bươm bướm ạ, với một hồ sơ như thế, người có nhiệm vụ
quản lư anh khó ḷng có thể yên tâm. Bây giờ anh có thể kư kết
với tôi một bản giao kèo không?
- Sao lại không ạ? Tuy cũng c̣n tùy ở nội dung bản giao kèo.
- Tôi tin chắc mười phần là anh sẽ làm hết cách để vượt ngục
khỏi Quần đảo, mặc dầu việc này hết sức khó khăn. Rất có thể anh
sẽ thành công nữa là khác.
- Thế mà về phần tôi, tôi c̣n phải quản lư Quần đảo năm tháng
nữa. Anh có biết một vụ vượt ngục xảy ra th́ Giám đốc Quần đảo
phải trả giá như thế nào không? Một năm phụ cấp. Tôi sẽ bị tước
bỏ số phụ cấp của viên chức hải ngoại, sẽ bị hoăn nghỉ phép sáu
tháng và hạn nghỉ phép rút bớt ba tháng. Và tùy theo kết luận
sau khi điều tra về vụ vượt ngục, nếu thấy có sự sơ xuất của
Giám đốc trại, có thể mất một lon. Anh thấy đấy: chẳng phải
chuyện đùa. Nhưng nếu tôi là người làm việc một cách trung thực
th́ không thể chỉ v́ anh có cơ vượt ngục mà tôi lại có quyền
nhốt anh vào ngục hay vào xà lim. Trừ phi tôi đặt điều vu cho
anh phạm lỗi này nọ. Cái đó tôi không muốn làm chút nào. Cho nên
tôi mong anh lấy danh dự hứa với tôi là sẽ không t́m cách vượt
ngục trước khi tôi rời Quần đảo. Năm tháng thôi.
- Thưa thiếu tá, tôi xin lấy danh dự hứa với ngài là chừng nào
ngài c̣n ở đây, nếu không quá sáu tháng, tôi sẽ không đi khỏi
Quần đảo.
- Không đến năm tháng nữa tôi sẽ ra đi: đó là điều hoàn toàn
chắc chắn.
- Vậy th́ rất tốt. Ngài cứ hỏi Dega: bác ta biết tôi đă hứa là
giữ lời.
- Tôi tin anh.
- Nhưng đổi lại, tôi có một yêu cầu.
- Yêu cầu ǵ?
- Trong cái thời hạn năm tháng ấy tôi phải được phân những công
việc mà lư ra về sau tôi mới được nhận, và hơn nữa, khi cần tôi
sẽ được đổi sang đảo khác.
- Được, tôi đồng ư. Nhưng việc này chỉ có hai chúng ta biết
thôi.
- Thưa ngài vâng.
Thiếu tá cho gọi Dega đến: Dega nói ràng chỗ của tôi không phải
ở trong đám các “tù nhân tử tế” mà là trong đám giang hồ. Trong
ṭa nhà giam các tù nhân nguy hiểm: tất cả các bạn tôi đều ở
đấy. Người ta trao cho tôi cái bị đựng toàn bộ trang phục và đồ
dùng của tù khổ sai. Thiếu tá ra lệnh thêm cho tôi mấy bộ quần
áo lao động màu trắng tịch thu của bọn thợ may.
Thế là tôi đi theo một viên cảnh sát về khu trung tâm của trại,
với hai cái quần trắng mới tinh khôi, ba cái áo va-rơi và một
cái mũ rơm. Muốn đến dăy nhà nhỏ của Ban Quản trị trại phải đi
qua cả khoảng đất bằng trên đỉnh đồi. Chúng tôi đi ngang trước
mặt bệnh xá của giám thị, men theo một bức tường cao bốn mét bao
quanh trại giam. Sau khi đi gần hết chu vi cái h́nh chữ nhật
rộng mênh mông này, chúng tôi đến cửa chính trại trừng giới Quần
đảo “Phân trại Royale”. Cánh cửa gỗ to tướng của trại mở toang
hoác. Nó cao phải đến sáu mét. hai tốp gác mỗi tốp bốn viên giám
thị. Một viên đeo lon ngồi trên một chiếc ghế tựa. Không thấy có
súng trường: ai nấy đều đeo súng lục. Tôi c̣n thấy có năm sáu
tên giữ khóa người A-rập.
Khi tôi vào đến ṿm cửa, bọn giám thị đều bước cả ra. Viên chỉ
huy, người Corse, nói: “Đây là một phạm nhân mới, thuộc loại có
hạng”. Bọn giữ khóa toan lục soát tôi, nhưng hắn ngăn họ lại:
- Thôi đừng bày tṛ bắt hắn giở hết cả bạc-đa ra. Vào đi
Papillon. ở nhà tù trung tâm chắc chắn là có nhiều bạn cũ đang
đợi mày. Tao tên là Sofram. Chúc mày gặp may mắn ở Đảo này!
- Cám ơn sếp.
Tôi bước vào một khoảng sân rộng mênh mông xung quanh có ba ṭa
nhà lớn. Tôi đi theo viên giám thị, vào một ṭa nhà có đề trên
cửa: nhà A - Khối Đặc biệt” trước cánh cửa rộng mở viên giám thị
gọi lớn: “Khối trưởng đâu!” Một người tù khổ sai già bước ra.
Viên sếp nói: “Đây là một tay mới”, đoạn bỏ đi. Tôi bước vào một
gian pḥng lớn h́nh chữ nhật có một trăm hai mươi người ở. Cùng
như trong cái lán đầu tiên của tôi ở Saint-Laurent, hai bên có
hai thanh sắt dài chạy song song với hai bức tường làm thành
chiều dài của gian pḥng, chỉ đứt quăng ở chỗ có cánh cửa sắt
đóng vào ban đêm. Giữa mỗi thanh sắt và bức tường đối diện có
căng rất thẳng những tấm vải bố dùng làm giường, được gọi là
“vơng” tuy nó chẳng giống vơng chút nào. Nhưng cái “vơng” này
rất tiện nghi và hợp vệ sinh. Phía trên môi tấm vải có hai tấm
ván đóng vào tường dành cho phạm nhân để đồ đạc: một tấm để áo
quần, một tấm để cà-mèn và thức ăn v.v... Giữa hai hàng vơng có
một lối đi rộng ba mét, gọi là “hành lang”. ở đây phạm nhân cũng
họp thành từng nhóm nhỏ gọi là “xóm” hay “tổ” sinh hoạt. Có
những tổ chỉ có hai người, nhưng cũng có nhưng tổ có đến mười
người.
Chúng tôi vừa vào một cái là các tù nhân mặe đồ trắng đổ xô lại.
“Papi, ra phía này!”
“Không, cậu ấy đến chỗ chúng tớ”.
Grandet cầm lấy cái bị của tôi, nói: “Papi sẽ ở một tổ với tớ”
Tôi đi theo Grandet. Họ lắp “vơng” cho tôi, kéo thật căng.
- Này. cầm lấy cái gối lông gà này mà gối. Grandet nói.
Tôi gặp lại cả một lô bạn bè cũ. Rất nhiều Người Corse và người
Marseille, cùng có mấy người Paris: đều là những bạn từ Pháp
sang, hoặc giả nhưng người tôi đă làm quen ở nhà lao Sante, nhà
lao Conciergie hay trên tàu thủy. Nhưng tôi lấy làtn lạ sao giờ
này mà họ đều có mặt ở đây cả. Tôi hỏi: “Giờ này mà các cậu
không phải đi làm à?” Thế là ai nấy đều cười rộ.
- Chà! Câu này cậu phải chép lại cho chúng tớ làm kỷ niệm đấy! ở
nhà A này ai phải đi làm th́ nhiều nhất là mỗi ngày một tiếng.
Sau đó là về tổ.
- Cuộc đón tiếp của các bạn thật là nồng nhiệt. Được như thế này
măi th́ hay quá. Nhưng tôi chợt nhận thấy một điều mà tôi không
hề dự kiến: tuy chỉ nằm bệnh viện có mấy ngày, giờ đây tôi thấy
ḿnh phải học lại cách sống tập thể.
Tôi được chứng kiến một cảnh mà tôi khó ḷng có thể tưởng tượng
nổi. Một anh chàng mặc đồ trắng bước vào hai tay bưng một cái
khay lớn phủ một tấm vải trắng tinh, rao: “Bít-tết, bít-tết đây!
Ai bít-tết nào?” Một lát sau hắn đă đến ngay chỗ chúng tôi, dừng
lại, giở tấm vải trắng ra, để lộ cả một khay bày toàn là bít-tết
xếp từng chồng sắp rất ngang hàng thẳng lối như trong một cửa
hàng thịt chính quy ở Pháp. Có thể thấy rơ Grandet là một ông
khách thường xuyên, v́ cái anh bưng bít-tết không hỏi xem anh ta
có mua bít-tết không, mà chỉ hỏi xem anh ta lấy bao nhiêu suất.
- Năm suất.
- Phô-phi-lê hay thịt vai nào?
- Phô-phi-lê. Hết bao nhiêu đây? Cậu tính sổ lại thư xem, v́ bây
giờ tổ tớ thêm một nhân khẩu, chẳng giống mọi hôm.
Cậu bán bít-tết rút ra một cuốn sổ tay, tính toán cái ǵ một
lúc.
- Cả thảy vị chi một trăm ba mươi lăm francs: tổng cộng đấy.
- Thế th́ tớ thanh toán hết, để bắt đầu ghi sổ lại từ đầu
Khi anh bán thịt đă đi chỗ khác. Grandet nói với tôi:
- ở đây mà không có bím th́ chỉ có chết. Nhưng cũng may là có
một phương pháp để lúc nào cũng rủng rỉnh: đó là “biện pháp D”.
ở trong đám giang hồ chính cống, “biện pháp D” (tức là
“debrouille”) là cái cách xoay xớ riêng của từng người để kiếm
tiền xài. Anh đầu bếp của trại lấy suất thịt của cái tù nhân,
rán bít-tết đem bán. Khi nhận thịt ở nhà bếp, hắn cắt bớt đi
chừng một nửa. Tùy loại thịt, hắn làm bít-têt, làm ra-gu hay đem
hầm nhừ. Một phần đem bán cho bọn giám thị thông qua vợ họ, một
phần đem bán cho các phạm nhân có tiền. Dĩ nhiên, anh đầu bếp
cũng có chia phần lời cho viên giám thị phụ trách bếp núc. Nhà
đầu tiên anh ta mang hàng đến bao giờ cũng là nhà A, nhà của
khối Đặc biệt tức của chúng tôi.
Vậy th́ biện pháp D là biện pháp của anh đầu bếp bán thịt bán
mỡ, của anh làm bánh ḿ bán bánh ḿ phăng-te-di và bánh ḿ trắng
ba-ghét, tức bánh ḿ ống sáo nướng ḍn tan, dành cho bọn giám
thị, của anh đồ tể ở ḷ thịt bán thịt cho anh đầu bếp; của anh y
xá bán thuốc tiêm; của anh kế toán ăn tiền để chỉ định cho phạm
nhân nhận việc này việc nọ, hay chỉ để cho anh miễn một khoản
cỏvê nào đấy; của anh lao vườn, bán rau quả tươi; của anh tù làm
ở pḥng thí nghiệm bán kết quả xét nghiệm, nhiều khi c̣n sản
xuất ra cả những bệnh nhân ho lao dỏm, cùi dỏm, lỵ dỏm, v.v...,
của những chuyên gia ăn cắp các thứ vặt vănh trong sân nhà bọn
giám thị rồi đem ra bán: trứng, gà, xà-bông Marseille; của những
anh “tù gia đ́nh” chuyên móc nối đổi chác với bà chủ nhà, ai cần
ǵ cứ nhờ họ kiếm cho: bơ, sữa đặc, sữa bột, hộp cá thu, hộp cá
trích, pho-mát, và dĩ nhiên là cả rượu vang, rượu mạnh (chẳng
hạn tổ tôi bao giờ cũng có một chai Ricard và mấy bao thuốc lá
Mỹ hayĂng-lê); rồi lại c̣n những anh tù được phép đi câu, chuyên
bán cá tươi và tôm he nữa.
Nhưng cái biện pháp D hời nhất, và cũng là nguy hiểm nhất nữa,
là làm chủ ṣng bạc. Lệ ở đây quy định là không bao giờ được có
hơn ba hay bốn chủ ṣng trong một khối gồm một trăm hai mươi tù
nhân. Người nào định kiếm chân chủ ṣng th́ đang đêm cứ đến một
ṣng đang chơi tuyên bố:
- Tớ muốn kiếm một chân chú ṣng.
Người ta thường trả lời hắn là không được đâu.
- Mọi người đều đồng ư là không được chứ?
- Không được.
- Vậy th́ tớ chọn cậu Mỗ đây: tớ chiếm chỗ cậu.
Cái anh mỗ được chọn kia đă hiểu. Hắn đứng dậy, ra giữa pḥng và
hai người rút dao ra đọ sức. Ai thắng th́ được giữ chân chủ
ṣng. Chủ ṣng được hường hồ năm phần trăm mỗi số tiền thắng
được.
Cờ bạc cũng là cơ hội thực hiện những biện pháp D vụn vặt khác,
có những anh chuyên trải những tấm chăn thật thắng thơm xuống
đất cho mọi người ngồi, lại có những anh cho thuê mấy cái ghế
đ̣n con con dành cho những con bạc không quen ngồi xếp bằng, có
những anh bán thuốc lá điếu bên ṣng bạc: họ đặt lên tấm chăn
mấy cái hộp x́ gà cũ, đựng những bao thuốc Pháp, Anh, Mỹ hay
những điếu thuốc quấn lấy. Mỗi thứ đều có giá nhất định. Ai muốn
hút cứ việc tự lấy ra, nhưng không được quên bỏ vào hộp số tiền
đă ấn định cho từng loại thuốc. Lại có cả những anh chuyên trách
mấy cái đèn dầu noa, trông nom cho đèn đừng bốc khói nhiều quá.
Đó là những cây đèn làm bằng hộp sữa, mặt trên đục lỗ xâu bấc.
Lâu lâu lại phải gạt bấc cho đỡ bốc khói. Những con bạc không
hút thuốc th́ dùng kẹo hay bánh ngọt: việc sản xuất các thứ này
cũng làm thành một nghề D riêng. Mỗi khối nhà đều có một hay hai
anh bán cà-phê. Cà-phê theo kiểu A-rập, được ủ nóng suốt đêm
trong hai cái bao bố gấp kín lại và được để ở một chỗ cố định.
Lâu lâu người bán cà-phê lại đảo qua ṣng bạc chào mời, tay cầm
một cái b́nh thủy tự chế đựng cà-phê hay ca cao nóng.
Cuối cùng là nghề tiểu thủ công. Đây có thể nói là một biện pháp
D có tính chất mỹ nghệ. Có người mua lại đồi mồi của những tù
nhân chuyên đi câu để gia công. Mỗi cái mai như vậy có mười ba
mang có thể nặng tới hai ki lô. Nhà mỹ nghệ dùng đồi mồi làm
ṿng đeo tay, làm hoa mai, làm ṿng đeo cổ, làm cán điếu, làm
lược và làm bàn chải. Tôi c̣n được trông thấy một cái hộp làm
bằng đồi mồi vàng, thật là một tuyệt phẩm. Lại có những người
chạm trổ sọ dừa, sừng trâu sừng ḅ, gỗ mun và gỗ đảo h́nh rắn.
Cũng có người làm những thứ đồ gỗ cao cấp đ̣i hỏi độ chính xác
rất cao, không có lấy một cái đinh, toàn dùng khớp làm lại.
Những người khéo tay nhất th́ làm đồ đồng đen. Lại có cả những
họa sĩ nữa.
Cũng có nhiều tài nghệ khác nhau được liên kết lại để làm một
sản vật duy nhất. Nói giả dụ có một người tù câu được một con cá
mập. Hắn liền lấy xương hàm con cá đánh thật sạch rồi gia công
sao cho xương và hai hàng răng thật bóng, thật thẳng, chốt cho
cái hàm há rộng thành một cái khung xung quanh toàn răng nhọn
hoắt. Một anh thợ gỗ làm một cái mô h́nh neo bằng gỗ mịn thớ
đánh thật bóng, phần giữa thật rộng để có thể vẽ tranh lên trên.
Cái neo được gắn vào giữa cái hàm cá mập, và một họa sĩ vẽ lên
đấy một cảnh Quần đảo Salut giữa biển cả. Chủ đề hay được sử
dụng nhất là chủ đề sau đây: mũi đảo Royale, có biển và đảo
Saint~Joseph. Trên mặt biển màu xanh biếc ánh tà dương lấp lánh.
Trên mặt biển là một con thuyền có sáu phạm nhân ḿnh trần đứng
cầm chèo đứng thẳng, phía sau lại có ba viên cảnh binh cầm tiểu
liên. ở mũi thuyền, hai người đang dốc một cỗ quan tài: từ đấy
tụt ra một cái xác chết bọc trong bao bột. Trên mặt nước có thể
trông thấy mấy con cá mập đang há mơm đợi ăn. ở phía dưới bức
tranh, bên góc phải có đề “Mai táng ở Royale” và ngày tháng vẽ
tranh.
Tất cả các “mỹ nghệ phẩm” như trên đều bán cho các nhà giám thị.
Những chế phẩm đẹp nhất thường được đặt mua trước hay đặt làm
riêng. Phần c̣n lại bán cho các chuyến tàu ghé đảo. Đây là lănh
vực của mấy anh chèo thuyền. Cũng có những anh bịp đời, lấy một
cái ca cũ kỹ mép méo, khắc ḍng chừ “cái ca này trước kia là ca
của Dreyfus - Đảo quỷ, - ngày... tháng...” Th́a và cà-mèn cũng
được dân bịp đời sử dụng kiểu đó. Đối với mấy anh lính thủy
người Bretagne th́ có một món ăn chắc: bất cứ đồ vật ǵ có khắc
tên “Sezenec”.
Những cuộc mua bán thường xuyên này thu hút vào Quần đảo rất
nhiều tiền, và bọn giám thị thấy rơ điều đó có lợi cho họ, cho
nên họ cứ để mặc. Mải lo việc sản xuất và bán chác, tù nhân dễ
điều khiển hơn và dễ an phận với cuộc sống đày ải của họ hơn.
Thói pê-đê ở đây đă trở thành một nếp sống chính thức. Mọi
người, cho đến cả chi huy trại giam, đều biết rằng cậu Mỗ nào đó
là vợ của một cậu Mễ nào đó, và nếu có trót chuyển một trong hai
cậu ấy sang đảo khác mà quên mất cậu kia th́ người ta làm đủ
cách để cho cái đôi bị “chia loan rẽ thúy” kia sớm đoàn tụ.
Trong cả đám phạm nhân ấy không có lấy được ba phần trăm có ư
định t́m cách trốn khỏi quần đảo. Ngay cả những người bị án
chung thân cũng không. Cách duy nhất để có cơ vượt ngục là làm
sao được miễn giam và được chuyển về Đất liền, về Saint-Laurent,
Kourou hay Cayenne. Điều đó chỉ có thể có được với những người
bị giam có thời hạn. Đối với những người bị án giam chung nhân
th́ không có cách ǵ, trừ phi là giết người. V́ nếu phạm nhân
giết chết một người nào, th́ sẽ bị đưa về Saint-Laurent để xử.
Nhưng v́ muốn đến Saint-Laurent phải qua thủ tục thú nhận tội
sát nhân, người ấy có nguy cơ bị năm năm cấm cố mà không biết là
liệu trong cái thời hạn ngắn ngủi ở trại trừng giới
Saint-Laurent (tối đa là ba tháng) có đủ th́ giờ để tổ chức vượt
ngục hay không?
Cũng có thể t́m cách xin được miễn giam v́ lư do sức khỏe. Nếu
được công nhận là ho lao th́ được chuyển đến trại của phạm nhân
ho lao, gọi là “Trại mới”, cách Saint-Laurent tám mươi cây số.
C̣n có bệnh hủi hay bệnh kiết lỵ kinh niên nữa. Muốn được công
nhận có một trong hai bệnh này cũng tương đối dễ, nhưng làm như
thế có một nguy cơ rất khủng khiếp: phải chung sống hai năm,
cách ly trong một căn nhà riêng với những người mắc bệnh hủi thứ
thiệt hay bệnh kiết lỵ thứ thiệt. Trong hai năm ấy chẳng khó ǵ
mà chẳng chuyển từ hủi dỏm thành hủi xịn và từ kiết dỏm thành
kiết xịn: không ít người đă qua cái quá tŕnh ấy.
Thế là tôi đă an cư lạc nghiệp trong khối nhà A với một trăm hai
mươi bạn tù của tôi. Phải cố học cách sống trong cái khối cộng
đồng này, nơi mà người ta phân loại được anh ngay. Trước hết
phải làm sao cho mọi người biết rơ rằng không thể nào tấn công
ḿnh mà không bị giáng trả đích đáng. Được mọi người e sợ rồi,
c̣n phải được họ kính trọng v́ thái dộ của ḿnh khi đối xử với
bọn cớm, không được nhận một số chức việc nào đấy, phải khước từ
một số công việc nhất định, không bao giờ được khuất phục một
nên giữ khóa, không bao giờ tuân lệnh hắn, dù có phải v́ thế mà
xung đột với một viên giám thị cũng vậy. Nếu đă đánh bạc suốt
đêm rồi th́ đến giờ điểm danh cũng không ra. Người trường khối
chỉ việc trả lời: “ốm phải nằm”, thế là xong. ở các khối khác,
nhiều khi bọn giám thị vào tận pḥng t́m “người ốm” và bắt hắn
ra điểm danh. Nhưng ở khối dân cứng đầu th́ không bao giờ. Chung
quy, điều mà từ cấp cao đến cấp thấp bọn họ quư nhất là được yên
thân ở trại khổ sai này.
Bạn cùng tổ với tôi, Grandet, là một người Marseille ba mươi lăm
tuổi. Người cao lêu đêu, gầy như que củi, nhưng rất khỏe. Chúng
tôi là chỗ bạn thân từ hồi ở Pháp. Chúng tôi hay gặp nhau ở
Toulon, cũng như ở Marseille và ở Paris. Đó là một tay khoét tủ
sắt nổi tiếng. Anh ta hiền nhưng có lẽ rất nguy hiểm. Hôm nay
tôi không ra ngoài. Trong gian pḥng rộng mênh mông hầu như chỉ
có một ḿnh tôi. Ông già trưởng khối đang quét và lau cái sàn xi
măng. Tôi trông thấy một phạm nhân đang ngồi sửa đồng hồ, mắt
trái đeo cái ǵ bằng gỗ. ở phía trên vơng của hắn có một tấm ván
treo đến ba chục cái đồng hồ. Nh́n nét mặt th́ hắn độ ba mươi
tuổi là cùng, nhưng đầu hắn bạc trắng. Tôi đến cạnh hắn, nh́n
hắn làm việc một lúc. Rồi tôi thử bắt chuyện với hắn. Hắn cứ câm
như hến. Thậm chí cũng chẳng thèm ngẩng mặt lên một lần nào, hơi
trạnh ḷng, tôi bỏ đi ra sân, đến ngồi ở cạnh máy nước. ở đây đà
có Titl la Belote, đang tập dượt với một cỗ bài mới tinh khôi.
Mười ngón tay mềm mại của hắn thoăn thoắt trang di trang lại ba
mươi con bài với một tốc độ không tài nào tưởng tượng nổi. Vẫn
không ngừng ngưng động tác chớp nhoáng của nhà ảo thuật, hắn bảo
tôi:
- Thế nào anh bạn? ở Royale có ổn không?
- ổn, nhưng hôm nay tớ chán quá. Tớ sẽ t́m việc ǵ làm, để ra
ngoài trại một chút. Ban năy tớ muốn nói chuyện một lát với cái
tay ǵ sửa đồng hồ trong kia, nhưng hắn cũng chẳng buồn trả lời
tớ nữa.
- Anh không biết đấy Papi ạ, chứ thằng cha ấy nó có coi ai ra ǵ
đâu. Nó chỉ biết mấy cái đồng hồ của nó. Ngoài ra nó đếch cần.
Quả t́nh sau những chuyện nó phải chịu đựng, nó có quyền điên
lắm. Nó chưa điên là may. Anh hăy tương tượng mà xem, cái anh
chàng trẻ tuổi ấy - có thể gọi hắn như vậy v́ hắn chưa đến ba
mươi - năm ngoái đă từng bị xử tử v́ bị buộc tội là “hiếp” vợ
một thằng cớm. Chuyện láo toét cả. Hắn ngủ với cô chủ từ lâu -
cô ta là vợ một viên giam thị trưởng người Bretagne. V́ hắn là
“tù gia đ́nh” ở nhà họ, cho nên cứ đến ngày trực của viên giám
thị là hai anh chị tha hồ. Nhưng anh chị đă phạm một sai lầm
lớn: cô nàng không cho anh chàng giặt là áo quần nữa, cô ta tự
làm lấy: thế là anh chồng mọc sừng xưa nay vốn biết tính cô ta
lười, thấy lạ và sinh nghi. Nhưng anh ta chưa có bằng chứng là
ḿnh bị mọc sừng. Cho nên anh ta quyết định bày mưu để bắt quá
tang tại trận và giết chết cả đôi. Anh ta đă không lường trước
được cách phản ứng của cô nàng. Một hôm, trực được hai tiếng th́
anh ta bỏ phiên về nhà, gọi một viên giám thị về theo lấy cớ là
để biếu tay này một súc giăm-bông nhà mới gửi cho. Hai người khẽ
khàng đi vào cổng, nhưng vừa vào đến nhà th́ con vẹt nuôi trong
nhà ré lên “Ông chủ đă về!” như nó vẫn quen làm mỗi khi viên
giám thị về. Ngay tức khắc cô vợ hét lên: “Cứu với! Nó hiếp tôi
đây này?” Hai tên gác xông vào buồng đúng vào lúc cô vợ vừa vùng
ra khỏi tay anh tù. Anh này vội nhảy qua cửa sổ chạy. Viên giám
thị bắn theo, một phát trúng vai anh ta. Trong khi đó, cô nàng
xé rách áo choàng, cào xước vú và má ḿnh ra. Anh tù ngă xuống,
tên gác người Breton toan bắn chết th́ tên gác kia giật súng đi.
Tớ cần nói rơ là tên gác này người Corse, ngay từ đầu đă hiểu
rằng ông sếp phịa chứ ở đây chẳng có chuyện hăm hiếp ǵ hết.
Nhưng tên người Corse không thể nói chuyện này với tên kia, cứ
làm như thể ḿnh tin câu chuyện hiếp dâm là chuyện thật. Anh thợ
đồng hồ bị xử tử h́nh. Đến đây th́ chẳng có ǵ phi thường hết,
anh bạn ạ. Sau đó mới ly kỳ.
“ở Royale, trong những khu trừng phạt có một cái máy chém, mỗi
bộ phận đều có chỗ cất riêng trong một căn nhà đặc biệt. Ngoài
sân là năm phiến đá xây kỹ thành bệ bằng phẳng để đặt máy chém.
Cứ mỗi tuần, đao phủ thủ và hai người tù giúp việc cho hắn lại
đem cái máy ra lắp lên bệ, lưỡi dao lười diếc đầy đủ bộ sậu, rồi
cho máy chém thử hai ba cây chuối. Để cho chắc là máy vẫn trơn
tru, khi cần đến không lo trục trặc. (anh thợ đồng hồ người
Savoie lúc bấy giờ đang nằm trong khám tử h́nh với bốn người
nữa, hai người A-rập và một người Sicilia). Cả năm người đang
đợi phúc đáp đơn xin ân xá do những viên giám thị đă bênh vực họ
viết hộ cho.
Một buổi sáng nọ người ta lắp máy chém và đột nhiên mở cửa buồng
giam anh thợ đồng hồ. Tốp đao phủ xông vào trói chân anh ta lại
và cũng sợi dây ấy buộc hai cổ tay, dây liền với chân. Họ lấy
kéo xén cổ áo rồi dắt anh ta đi từng bước ngắn trong ánh sáng mờ
mờ của buổi b́nh minh, từ từ vượt qua cái khoảng cách chừng hai
mươi mét từ buồng giam đến máy chém. (chắc bạn cũng biết rằng
khi anh đến trước máy chém, anh giáp mặt với một tấm ván dựng
đứng cao ngang vai anh, có đính sẵn nịt da để buộc sấp anh vào
đấy, sau đó, tấm ván sẽ được lật ngang ra và thế là anh chuyển
sang tư thế nằm sấp, cổ đặt vừa đúng vào chỗ lưỡi dao sẽ rơi
xuống. Vậy th́ người ta đang sắp sửa lật ngang tấm ván có buộc
anh thợ đồng hồ, nhưng vừa đúng lúc ấy ông chỉ huy trại - ông
“Dừa khô” đương kim trại trưởng đấy - ra sân: theo lệ của trại,
ông ta bắt buộc phải dự cuộc hành quyết. Tay ông ta cầm một cây
đèn băo lớn, và khi giơ đèn lên soi, ông ta mới thấy là bọn cớm
chết tiệt ấy nhầm: chúng nó suưt chặt đầu anh thợ đồng hồ trong
khi anh ta chẳng dính dáng ǵ với cuộc hành quyết sáng hôm ấy.
- Dừng lại Dừng lại! - Barrot quát lớn.
Ông ta xúc động đến mức dường như không nói được nữa. Ông ta
buông cây đèn băo rơi xuống đất, xô lấn mọi người, cảnh sát cũng
như phạm nhân, tự tay đến cởi trói cho anh sửa đồng hồ Savoie.
Măi sau đó ông ta mới ra lệnh được:
- Y xá, đưa anh ta về buồng giam. Săn sóc kỹ, cho uống rượu
rhum. C̣n các anh, cái lũ ăn hại kia, vào bắt ngay tên Rencassen
đưa ra đây. Hắn mới là kẻ phải xử tử hôm nay, chứ không phải ai
khác!
“Hôm sau, anh thợ đồng hồ đă bạc trắng cả đầu ra như anh thấy
đấy. Trạng sư của hắn là một cảnh binh ở Calvi, bèn viết thêm
một lá đơn xin ân xá nữa gửi ông Bộ trưởng Tư pháp, trong đơn có
kể lại việc này. Anh thợ đồng hồ được ân xá, chuyển án tứ h́nh
thành án chung thân. Từ đấy, anh ta suốt ngày sửa đồng hồ cho
nhân viện trong trại. Anh ta say mê công việc quên hết mọi sự
trên đời. Sửa xong anh ta giữ lại rất lâu để kiểm tra, điều
chỉnh, cho nên trên ván mới treo ngần ấy đồng hồ. Bây giờ th́
anh đă hiểu ra rằng hắn có quyền hơi điên một chút chứ?
- Hiểu, Tita ạ, sau một cái sốc như thế, hắn có quyền không hồ
hởi với mọi người cho lắm. Tôi thành thật thương hại hắn.
Mỗi ngày tôi lại học thêm được chút ít về cuộc sống mới này Khối
A quả là một nơi tập trung những con người đáng sợ, xét về những
thành tích dĩ văng cũng như về cách phản ứng của họ trong sinh
hoạt hàng ngày. Tôi vẫn chưa làm việc: tôi c̣n đợi một chân đổ
thùng. Kiếm được chân này; tôi chỉ phải làm mỗi ngày bốn mười
lăm phút, rồi sau đó được đi lại tự do trên đảo và được phép
xuống biển đánh cá. Sáng hôm ấy, đến buổi điểm danh lấy người đi
làm cỏ vê ở đồn điền trồng dừa, họ chỉ định Jean Castelli. Ông
ta bước ra khỏi hàng hỏi:
- Cái ǵ? Tôi mà cắt di làm cỏ-vê à? Tôi ấy à?
- Phải, anh đấy! - Tên gác đội cỏ-vê nói. - Đây, cầm lấy cái
cuốc chim này.
Castelli lạnh lùng nh́n hắn;
- Anh kia. anh không hiểu ràng phải là dân cái xứ Auvergne nhà
anh mới biết cánh dùng cái thứ cuốc quỉ quái ấy à? Tôi là người
Corse ở Marseille. ở Corse người ta ném các dụng cụ đi cho thật
xa, c̣n ở Marseille người ta c̣n không biết nó là cái ǵ nữa.
Anh cứ giữ lấy cái cuốc và để cho tôi yên.
Tên cớm trẻ, chưa am hiểu công chuyện ở đây lắm (như về sau tôi
được biết), giơ cao cái cán cuốc lên dọa Castelli. Lập tức một
trăm hai mươi người quát lên cùng một lúc:
- Buông cuốc xuống, không th́ chết ngay bây giờ!
Grandet hô:
- Giải tán!
Thế là không bận tâm đến tư thế sẵn sàng tấn công của tất cả
những tên cảnh binh có mặt lúc bấy giờ, chúng tôi kéo nhau trở
về khối.
Khối “B” đang lũ lượt kéo nhau đi làm cả khối “C” cũng vậy. ở
khối chúng tôi thấy có chừng mười hai tên cảnh binh đến, và một
việc không b́nh thường xảy ra: họ đóng cánh cửa sắt lại. Một giờ
sau, bốn chục tên cảnh binh đứng thành hai hàng hai bên khung
cửa, tiểu liên cầm lăm lăm trong tay. Viên phó chỉ huy trại,
viên chỉ huy đội gác, viên giám thị trưởng và cả bọn giám thị
đều có mặt đông đủ chỉ trừ viên chỉ huy trại đă đi thanh tra đảo
Quỷ từ lúc sáu giờ sáng, trước khi xảy ra biến cố vừa qua. Viên
phó chỉ huy trại nói:
- Dacelli, gọi từng người một ra.
- Grandet? Bước ra!
Grandet bước ra đứng giữa hai hàng cảnh binh xếp hai bên cửa
sắt. Dacelli nói:
- Đi làm đi!
- Tôi không đi được.
- Anh từ chối phải không?
- Tôi không từ chối. Tôi ốm.
- Từ bao giờ? Lúc điểm danh lần đầu anh có cáo ốm đâu?
- Hồi sáng tôi không ốm. Bây giờ tôi mới ốm.
Sáu mươi người được gọi ra khỏi hàng sau Grandet đều lần lượt
trả lời đúng như vậy. Chỉ có một người nói thẳng ra là ḿnh
không tuân lệnh. Chắc anh ta có ư định làm cho họ phải đưa anh
ta về Saint~Laurent để ra ṭa án binh. Khi họ hỏi: “Anh từ chối
à?” anh ta trả lời:
- Đúng, tôi từ chối, mà từ chối đến ba lần.
- Ba lần? Tại sao?
- V́ các người làm tôi buồn mửa. Tôi dứt khoát không làm việc
cho những hạng người đểu cáng như các anh.
Không khí càng thẳng đên tột độ. Bọn cánh binh nhất là những tay
hăy c̣n trẻ, khó chịu đựng nối khi bị phạm nhân sỉ nhục đến mức
ấy. Họ chỉ chờ có một dịp: một cừ chỉ đe dọa của đám phạm nhân,
sẽ cho phép họ ra tay trấn áp. Nhưng trong khi chờ đợi. súng họ
vẫn phải chĩa mũi xuống đất.
- Tất cả những phạm nhân đă gọi tên, cởi hết ra. Đi về xà lim!
Trong khi áo quần được cởi bỏ tụt xuống đất chốc chốc lại nghe
tiếng ruột con dao rơi xuống khoảng sân tráng nhựa đánh cách một
cái. Vừa lúc ấy bác sĩ đến.
- Thôi, đứng lên đă! Bác sĩ đây rồi. Xin bác sĩ khám cho mấy
người này. Những ai không được công nhận là ốm sẽ vào xà lim.
Những người ốm thật sẽ được trả về khối.
- Có sáu mươi người ốm sao?
- Thưa bác sĩ vâng, trừ người kia không chịu đi làm.
- Nào, tôi bắt đầu khám người thứ nhất? - bác sĩ nói. –
Grandet,anh ốm thế nào?
- Tôi mắc bệnh rối loạn tiêu hóa của cai ngục bác sĩ ạ. Chúng
tôi dầu là phạm nhân bị xử tội nặng, phần lớn đều là án chung
thân. ở quần đảo này không có hy vọng ǵ vượt ngục. Cho nên
chúng tôi chỉ có thể chịu đựng nổi cuộc sống này nếu quy chế nhà
tù được áp dụng một cách co giăn chút ít và có hiểu biết, thông
cảm với chúng tôi. Thế nhưng sáng nay, trước mặt tất cả chúng
tôi, một viên giám thị đă tự cho phép ḿnh giơ cán cuốc định
đánh một bạn tù được mọi người kính trọng. Đó không phái là một
động tác pḥng ngự, v́ người tù không hề đe dọa ai cả. Bác ta
chỉ nói là bác ta không muốn dùng cuốc. Nguyên nhân của bệnh
dịch tập thể của chúng tôi là như thế. Xin bác sĩ cứ suy xét.
Bác sĩ cúi đầu nghĩ ngợi dễ đến một phút, rồi nói:
- Y tá, hăy ghi vào: “Do ngộ độc tập thể v́ thức ăn, y tá giám
thị Mỗ sẽ thi hành nhưng biện pháp cần thiết để phát cho tất cả
các phạm nhân khi ốm hôm nay mỗi người một liều hai mươi gam
sulfat natri để tẩy ruột. C̣n phạm nhân X th́ hây đưa ṿ bệnh
viện để chúng tôi kiểm tra xem khi tuyên bố từ chối lao công anh
ta có đang ở trong trạng thái tâm thần b́nh thường hay không”.
Nói đoạn, bác sĩ quay lưng lại, bỏ đi thẳng.
- Tất cả về khối - Viên phó chỉ huy trại hô. - Nhặt quần áo lên,
và chớ quên mấy con dao.
Hôm ấy ai nấy đều ở lại pḥng giam. Không ai ra ngoài được, kể
cả người đưa bánh ḿ. Đến trưa không thấy đưa xúp vào, mà chỉ
thấy viên giám thị y tá, có hai phạm nhân y tá đi theo, xuất
hiện với một cái xô bằng gỗ đựng thuốc tẩy sulfat natri. Chỉ có
ba người phải uống thuốc. Người thứ tư tự nhiên lên cơn động
kinh ngă đúng vào xô thuốc, làm cả cái xô, cả cái gáo và cả cả
chỗ thuốc mỗi thứ văng ra một nơi: anh ta bắt chước cơn động
kinh giống như hệt! Thế là cái biến cố kia chấm dứt, nếu không
kể cai lệnh loan cho trưởng khối là phải lau cho khô chỗ thuộc
đổ lênh láng ra sàn nhà.
Suốt buổi trưa hôm ấy tôi ngồi nói chuyện với Castelli. Bác ta
đến ăn với chúng tôi. Tổ của bác ta th́ có một người Toulon tên
là Louis Gravon, bị đày v́ tội ăn trộm lông thú. Khi tôi nói
chuyện vượt ngục, mắt anh ta sáng quắc lên. Anh nói:
- Năm ngoái tôi đă suưt vượt ngục được, nhưng rốt cuộc cũng bị
thất bại. Tôi cũng đă cảm thấy anh chẳng phải là người cam phận,
đành chịu bó gối ở đây. Chỉ có điều là đă ở Quần đảo này mà nói
chuyện vượt ngục th́ chẳng khác nào nói chuyện lên cung trăng.
Mặt khác, tôi nhận thấy anh chưa hiểu được dân tù khổ sai ở Quần
đảo. Trông thế chứ tám mươi phần trăm tự cảm thấy ḿnh ở đây
cũng tương đối sung sướng. Sẽ không có ai tố giác anh bao giờ,
dù anh có làm ǵ chăng nữa. Anh giết người nào. Sẽ không có ai
ra làm chứng. Anh lấy trộm ư. Cũng thế thôi. Dù một bạn tù có
làm ǵ th́ mọi người đều kết lại bênh vực bạn ấy. Dân tù quần
đảo chỉ sợ có mỗi một điều: đó là một cuộc vượt ngục thành công.
V́ trong trường hợp đó, cảnh sống tương đối yên ổn của họ bị đảo
lộn hoàn toàn: khám xét liên tục, không c̣n được đánh bài, không
c̣n chơi nhạc được nữa- các nhạc cụ đều bị phá huỷ trong những
cuộc khám xét,. không c̣n được đánh cờ vua, cờ đam nữa. Cũng
không được làm đồ mỹ nghệ nữa. Mọi thứ không trừ một thứ ǵ đều
bị xúp hết. Họ lục xoát liên hồi. Đường, dầu ăn, bít tết, bơ đều
biến sạch. Xưa nay tất cả những người trốn được khỏi Quần đảo
với Quần đảo th́ đó vẫn là những cuộc vượt ngục thành công: dù
sao họ cũng đă trốn được ra khỏi Quần đảo. Do đó bọn gác bị
phạt, và lẽ tự nhiên là họ phải trả thù cả đám phạm nhân.
Tôi vểnh hết tai lên mà nghe. Tôi nghe mà không sao khỏi bàng
hoàng. Tôi chưa bao giờ xem xét vấn đề dưới góc độ này.
Castelli nói:
- Đến cái ngày cậu quyết định chuẩn bị một cuộc vượt ngục, cậu
hăy coi chừng. Trước khi điều đ́nh với một cậu nào, phải suy
nghĩ cân nhắc cho thật kỹ, trừ phi đó là một người bạn chí cốt.
Jean Castelli, chuyên gia bẻ khóa, có một nghị lực và một trí
thông minh hiếm có. Bác rất ghét sự hung bạo. Anh em gọi bác ta
bằng cái biệt hiệu người Cổ đại. Chẳng hạn bác ta chỉ tắm rửa
bằng xà-bông giặt Marseille, và nếu tôi vừa tắm bằng xà-bông
Palmolive, bác ta liền nói: “ồ, cậu sặc mùi pê-đê, thật đấy! Cậu
lại tắm bằng xà-bông đàn bà rồi!” Tiếc thay, bác ta đă năm mươi
hai tuổi, nhưng những gân cốt sắt thép của bác trông thật sướng
mắt. Bác nói: “Papi ạ, trông cậu người ta có thể ngỡ cậu là con
tôi. Sinh hoạt ở Quần đảo không làm cho cậu quan tâm. Cậu ăn
nhiều chỉ v́ muốn giữ phong độ, chứ không bao giờ cậu nghĩ đến
việc tổ chức một cuộc sống lâu dài trên Quần đảo. Tôi mừng cho
cậu. Trong cả đám tù khổ sai ở đây chẳng có nổi sáu người nghĩ
như cậu. Nhất là nghĩ đến chuyện vượt ngục. Quả t́nh, cùng có
khối người chi ra hàng gia tài để được miễn giảm và chuyển về
đất liền, toan tính sẽ vượt ngục từ đấy. Nhưng ngay ở đây th́
không một ai tin là có thể vượt ngục”.
Ông già Castelli khuyên tôi: nên học tiếng Anh và hễ có dịp là
phải nói chuyện bằng tiếng Tây Ban Nha với một người Tây Ban
Nha. Ông ta có cho tôi mượn một cuốn sách học tiếng Tây Ban Nha
trong hai mươi bốn bài. Một cuốn từ điển Pháp-Anh. Ông ta có một
người bạn rất thân, người Marseille, tên là Gardès, có am hiểu
chuyện vượt ngục. Ông này đă vượt ngục hai lần, lần thứ nhất
trốn khỏi trại khổ sai Bồ Đào Nha; lần thứ hai trốn từ Đất Liền.
Ông ta có quan điểm riêng về việc vượt ngục từ Quần đảo, Jean
Castelli cũng có Gravon, ông bạn người Toulon, lại có một cách
nh́n khác nữa đối với sự việc. Không ai nhất trí với ai. Kể từ
hôm ấy, tôi quyết định tự ḿnh t́m hiểu lấy vấn đề, và không nói
với ai về chuyện vượt ngục nữa.
Kể cũng gay, nhưng sự t́nh có thế. Điểm duy nhất mà cả ba người
đều nhất trí là đánh bạc chỉ có mỗi cái lợi kiếm được tiền,
nhưng lại rất nguy hiểm. Bất cứ lúc nào cũng có thể bị lâm vào
cái thế phải đọ dao với một tay anh chị nào đấy. Cả ba đều là
những con người hành động, và quả là những tay cừ khôi đáng gườm
so với tuổi tác của họ: Louis Gravon bốn mươi lăm tuổi, Gardès
gần năm mươi.
Tối hôm qua tôi được dịp phô bày cho mọi người trong khối thấy
cách nh́n nhận sự việc và cách hành động của tôi. Một cậu quê ở
Toulouse, người nhỏ bé, bị một tay người Nimes thách đấu dao.
Cậu bé người Toulouse mang biệt hiệu Cá Trích, c̣n anh chàng
người Nimes, rất to con được gọi là Con cừu. Con Cừu, đánh trần
trùng trục, đúng giữa lối đi, dao lăm lăm trong tay.
- Mỗi ván poker phải nộp tao hăm nhăm francs, nếu không, tao cấm
mày đánh.
Cá Trích đáp:
- Xưa nay đánh poker có ai phải nộp ai bao nhiêu tiền đâu. Tại
sao anh lại nhè vào tôi mà đ̣i nộp tiền? Thế sao anh không đ̣i
mấy tay chủ ṣng Mareilaise nộp tiền đi?
- Tại sao th́ chẳng việc ǵ đến mày.Một là mày nộp, hai là mày
không được chơi nữa, hay mày không muốn đánh nhau?
- Không, tôi chả muốn đánh nhau.
- Mày rét à?
- Tôi rét đấy. V́ tôi có thể ăn một nhát dao, có thể chết v́ tay
một gă anh chị như anh là một kẻ chưa bao giờ vượt ngục. Tôi là
dân vượt ngục. Tôi ở đây không phải để giết ai, mà cũng chẳng
phải để bị ai giết.
Tất cả chúng tôi đều chăm chú chờ xem những việc sắp diễn ra.
Grandet nói với tôi: “Đúng là thằng bé can đảm thật, mà lại là
dân vượt ngục. Thật đáng buồn là ḿnh không thể nói ǵ vào đây”.
Tôi mở con dao xếp để dưới bắp vế. Lúc bấy giờ tôi đang ngồi
trên cái “vơng” của Grandet. Con Cừu nói:
- Thế th́ mày định nộp tiền hay thôi chơi, hở thằng chết rét
kia? Nói di.
Đoạn hắn bước một bước về phía Cá Trích. Tôi liền quát:
- Câm mồm đi Con cừu, hăy để cho nó yên!
- Ḱa Papillon, cậu điên rồi ư? Grandet nói.
Vẫn ngồi yên không nhúc nhích, tay đặt sẵn vào chuôi con dao để
dưới bắp vế chân trái, tôi nói:
- Không, tôi không điên. và tôi yêu cầu tất cả các anh hăy nghe
những điều tôi sắp nói. Ccon Cừu ạ, trước khi đánh nhau với anh
(nếu anh bắt buộc tôi phải đánh nhau ngay cả sau khi tôi nói
xong), anh hăy để cho tôi ngỏ lời với anh và với mọi người rằng
từ khi đến ở cái khối gồm hơn một trăm người toàn là dân trong
giới này, tôi đă phái xấu hổ mà nhận thấy rằng cái hành động đẹp
đẽ nhất, xứng đáng nhất, cái hành động duy nhất đánh gọi là chân
chính: vượt ngục, không được kính trọng ở đây. Thế mà bất kỳ ai
đă chứng tỏ được rằng ḿnh là dân vượt ngục, rằng ḿnh có đủ gan
mật để đem kính mạng ḿnh đặt lên bàn cân trong một cuộc vượt
ngục, th́ kẻ ấy cũng phải được mọi người kính trọng, bất kẻ mọi
chuyện khác. Có ai cho là tôi nói không đúng không? Ai phản đối?
(Im lặng) Trong luật lệ của các anh thiếu mất một điều, một điều
cơ bản nhất: mọi người đều có bổn phận không những phải kính
trọng, mà c̣n phải giúp đỡ, ủng hộ những người vượt ngục. Không
ai bị bắt buộc phải ra đi, và tôi chấp nhận rằng hầu hết các anh
đều đă quyết định sống suốt đời ở đây Thế cùng được. Nhưng nếu
các anh không đủ can đảm để t́m cách sống lại, th́ ít ra các anh
cũng phải có được ḷng kính trọng mà những người vượt ngục xứng
đáng được hưởng. Và kẻ nào quên mất điều luật của đạo làm người
này, kẻ ấy phải chờ đón những hậu quả nghiêm trọng. Tôi đă nói
xong. Con Cừu! Bây giờ nếu anh vẫn muốn đánh nhau, th́ có tôi
đây
Nói đoạn, tôi cầm dao nhảy ra giữa pḥng. Con Cừu ném dao đi,
nói:
- Cậu nói đúng, Papillon ạ, cho nên tôi muốn đánh nhau với cậu
không phải bằng dao, mà bằng quả đấm, đề cậu thấy tôi không phải
là thằng hèn.
Tôi đưa dao cho Grandet giữ. Hai đứa chúng tôi đánh nhau như hai
con chó dữ trong khoảng hai mươi phút. Cuối cùng, nhờ một miếng
đ̣n húc đầu đúng lúc, tôi thắng sát nút. Chúng tôi cùng vào
pḥng vệ sinh rửa cho cạch máu trên mặt. Con Cừu nói:
- Quả thật sống ở Quần đảo măi đâm u mê ra. Tớ ở đây thế là đă
mười lăm năm nay, mà cũng chưa chi được đến ngàn francs để được
miễn giam. Thật xấu hổ.
Khi tôi về tổ, Grandet và Galgani mắng tôi một trận.
- Cậu phát rồ rồi hay sao mà lại đi thách thức và lăng mạ mọi
người như thế? Tớ không thể hiểu nổi tại sao không có đứa nào
cầm dao nhảy ra “hành lang” để đánh nhau với cậu.
- Không đúng đâu các bạn ạ, chẳng có ǵ khó hiểu đến thế. Bất cứ
ai đă ở trong giới chúng ta, hễ thấy ai nói phải thực sự là chịu
ngay.
- Thôi được, - Galgani nói. - Nhưng tôi khuyên cậu đừng bày tṛ
đùa giỡn quá nhiều với cái núi lửa này.
Suốt buổi tối hôm ấy có những gă đến gặp tôi. Họ làm như thể
t́nh cờ ghé qua, nói bâng quơ chuyện này chuyện nọ, rồi trước
khi bỏ đi, buông một câu: “Tớ đồng ư với những điều cậu nói đấy.
Papi ạ”. Cái sự cố vừa qua đă cho tôi có được một vị trí rơ rằng
giữa các bạn tù.
Kể từ buổi ấy, chắc chắn là tôi được họ coi như người cùng giới
với họ, nhưng lại không dễ ǵ chấp nhận những điều đă được mọi
người coi như đương nhiên mà không phân tích, phê phán. Tôi dần
dần nhận thấy rằng hễ tôi làm chủ ṣng, đám bạc không mấy khi có
chuyện căi cọ, và nếu tôi ra một lệnh ǵ th́ họ tuân theo rất
nhanh.
Như tôi đă nói, chủ ṣng được hưởng hồ năm phần trăm mỗi món
tiền được bạc. Hắn ngồi trên một chiếc ghế dài, lưng quay vào
tường để đề pḥng bất trắc, v́ bất cứ lúc nào cũng có kẻ muốn
đâm hắn từ phía sau. Trên đùi hắn thường có một tấm chăn che một
con dao mở sẵn. Xung quanh hắn, ngồi hay đứng thành ṿng tṛn,
là ba mươi, bốn mươi hay có khi đến năm mươi con bạc từ khắp các
miền của nước Pháp sang, lại có cả những dân ngoại quốc nữa, như
dân A-rập chẳng hạn, cũng khá đông. Cách chơi rất dễ: một người
làm cái (làm “chủ nhà băng”), một người cúp bài ngồi cạnh. Mỗi
khi nhà cái thua th́ nhường quyền làm cái cho người bên cạnh. Cỗ
bài gồm năm mươi hai con. Người cúp bài ch́a bài rồi giấu đi một
con. Người làm cái rút một con bài rồi lật ngứa nó ra trên tấm
chăn. Thế là mọi người bắt đầu đặt tiền. Có thể đặt vào cửa của
nhà cái hay vào cửa của nhà cúp bài. Khi ai nấy đă đặt xong,
tiền xếp thành từng chồng nho nho, nhà cái bắt đầu rút từng con
bài một, lật lên. Nhà nào cùng bậc với một trong hai con đă lật
trên “thảm” th́ thua. Chẳng hạn: nhà cúp giấu một con Năm, c̣n
nhà cái đă lật lên một con Đầm. Nếu rút ra được một con Đầm
trước khi rút ra một con Năm, nhà cúp thua. Nếu trái lại, rút ra
được một con Năm trước khi rút ra một con Đầm, th́ nhà cái thua.
Người chủ ṣng phải biết mỗi món tiền phải chung cho ai. Việc đó
chẳng phái là dễ. Lại phải bênh vực những kẻ yếu, sao cho những
kẻ mạnh đừng dùng uy thế bắt nạt họ. Khi người chủ ṣng quyết
định cách xử lư một trường hợp nghi vấn, quyết định của chủ ṣng
phải được chấp nhận, không lôi thôi ǵ hết.
Đêm ấy có kẻ đă giết chết một người ư lên là Carlino. Anh này
sống chung nói một cậu thiếu niên được anh ta coi là vợ. Cả hai
cùng làm việc ở một khu vườn. Anh người ư chắc cũng biết là tính
mạng của ḿnh đang bị đe dọa, v́ khi nào anh ta nghỉ th́ cậu bé
thức, khi nào câu bé ngủ th́ anh ta lại thức. Phía dưới hai tấm
vải căng làm giường ngủ (“vơng”) họ bày lổn ngổn những cái hộp
sắt tây rỗng để không ai có thể lần ṃ đến chỗ họ mà không gây
thành tiếng động.
Thế mà có kẻ đă đâm anh ta từ phía dưới lên. Tiếng kêu của người
bị đâm lập tức được kế tiếp bằng những tiếng loảng xoảng của
đống hộp sắt tây bị sát nhân xô đấy trong khi rút lui vội vàng.
Lúc bấy giờ Grandet đang điều khiển một ván bài “Marseillaise”,
xung quanh có đến ba mươi con bạc. Tôi th́ đang đứng nói chuyện
gần đấy. Tiếng kêu của Carlino và tiếng hộp sát tây xủng xoảng
đă làm cho ván bài phải ngừng lại. Ai nấy đều đứng dậy hoi xem
việc ǵ xảy ra thế. Cậu bạn trai của Carlino chẳng trông thấy
ǵ, c̣n Carlino th́ đă tắt thở. Ông trưởng khối hỏi mọi người
xem có nên gọi giám thị đến không. Không? không nên. Để đến mai,
khi điểm danh, báo cho họ biết cũng vừa, anh kia đă chết rồi th́
c̣n cứu giúp được ǵ nữa mà vội?
Grandet lên tiếng:
Không có ai nghe thấy ǵ hết. Cả cậu nữa, cậu nhé - Grandet dặn
cậu bé của Carlino. - Mai, khi cậu thức dậy, cậu mới nhận là anh
ấy chết rồi. Xong. A-lê, lại đánh tiếp. Thế là đám bạc lại nhốn
nháo lên như không hề có việc ǵ xảy ra cả: “Nhà cúp. Không
phải, nhà cái chứ!” vân vân. Tôi sốt ruột chờ xem những ǵ sẽ
diễn ra khi bọn gác phát hiện ra vụ án mạng. Năm giờ rưỡi, tiếng
chuông thứ nhất. Sáu giờ, tiếng chuông thứ hai sau đó là cà-
phê. Sáu giờ rười, tiếng chuông thứ ba, mọi người ra điểm danh,
thường ngày vẫn thế. Nhưng hôm nay th́ khác. Đến tiếng chuông
thứ hai, khối trưởng nói với tên cảnh binh đi kèm người đưa
cà-phê:
- Thưa sếp, có một người vừa bị giết.
- Ai thế?
- Carlino.
- Được
Mười phút sau, sáu tên cảnh binh đến:
- Người chết đâu?
Họ nh́n thấy con dao găm cắm vào lưng Carlino từ phía dưới, qua
lần vải. Họ rút nó ra.
- Cáng đi!
Hai người khiêng cáng đưa cái xác chết ra ngoài. Trời dă sáng
hẳn. Tiếng chuông thứ ba đă điểm. Tay vẫn cầm con dao vấy máu,
viên giám thị trương ra lệnh:
- Tất cả ra ngoài, xếp hàng điểm danh. Hôm nay không ai được
khai ốm nằm lại.
Mọi người đều ra sân. Những buổi điểm danh ban sáng, bọn chỉ huy
và giám thị trưởng bao giờ cũng có mặt. Cuộc điểm danh bắt đầu.
Nghe đọc đến tên Carlino, khối trưởng đáp:
Chết đêm qua, đă đưa ra nhà xác.
- Được - tên cảnh binh điểm danh đáp. Khi ai nấy đều đă trả lời:
“có”, viên chỉ huy trại giơ con dao lên hỏi:
- Có ai biết con dao này không?
Không ai trả lời
- Có ai trông thấy kẻ giết người không?
Im lặng tuyệt đối
- Vậy là không ai có hay biết ǵ hết, như thường lệ. Các người
hăy lần lượt giang tay đi qua trước mặt tôi, rồi sau đó người
nào đi làm việc người nấy.
- Thưa thiếu tá, bao giờ cũng chỉ có thế. Không có cách ǵ biết
được kẻ nào là hung thủ.
- Xếp việc này lại, - viên chi huy trại nói. Giữ con dao lại,
găm một tám phiếu ghi là con dao này đă được dùng đem giết
Carlino.
Thế là xong. Tôi trở về khối nằm ngủ, v́ suốt đêm qua tôi không
chợp mắt. Trong khi dần dần thiếp đi, tôi nghĩ cái thân một
thằng tù khổ sai thật chẳng ra ǵ Dù có bị ám sát một cách hèn
hạ, người ta cũng chẳng buồn bỏ công t́m cho ra thủ phạm. Đối
với ban Quản trị, mạng một thằng tù chẳng là cái ǵ hết. Chẳng
bằng mạng một con chó.
Tôi đă quyết định bắt đầu làm công việc đổ thùng thứ hai. Đến
bốn rưỡi sáng tôi và một người nữa sẽ đi đổ các bô phóng uế của
khối A tức khối của chúng tôi. Theo nội quy của trại th́ phải
đưa ra tận bờ biển mà đổ. Nhưng chúng tôi trả tiền cho người
đánh xe trâu: hắn đợi chúng tôi ở một nơi có khe xây xi-măng dẫn
xuống biển. Chúng tôi đổ bô xuống đấy, rồi anh đánh xe trâu trút
xuống ba ngàn lít nước biển đựng trong một cái phùng ton-nô
khổng lồ mà anh ta vừa xe từ biển lên cuốn hết các thứ xuống
biển. Để thật sạch, chúng tôi dùng thêm một cái chổi cứng để lùa
các thứ bẩn. Công việc chỉ trong ṿng không đầy hai mươi phút là
xong. Mỗi ngày chúng tôi phải trả hai mươi francs cho anh kia -
một anh da đen đảo Martinique rất dễ thương. V́ đây là lần đầu,
tôi phải xách một dăy bô xỏ quai vào hai thanh gỗ, cho nên mỏi
cô tay lắm. Nhưng tôi sẽ chóng quen.
Người bạn mới của tôi rất sốt sắng niềm nở, thế mà Galgani nói
đó là một con người cực kỳ nguy hiểm. Đâu như hắn đă phạm đến
bẩy vụ giết người ở Quần đảo. Nghề làm ăn của hắn ở dây là bán
cứt. Số là mấy người làm vườn đều cân phân. Anh làm vườn đào một
eái hố, lót vào đấy một ít lá khô và có thể là anh da đen
Martinique bí mật đưa vài xô cứt đến đổ vào đấy. Dĩ nhiên việc
này không thề làm một ḿnh, cho nên tôi buộc ḷng phải giúp anh
ta. Nhưng tôi biết đây là một lỗi rất nặng, v́ qua rau quá bị ô
nhiễm, có thể lan truyền bệnh kiết lỵ trong các gia đ́nh nhân
viên giám thị cùng như trong các khối phạm nhân. Tôi quyết định
h là một ngày nào đó, khi đă quen nhau hơn, tôi sẽ bảo anh ta
đừng làm việc này nữa. Dĩ nhiên tôi sẽ đền bù cho anh ta số tiền
mà anh ta sẽ mất v́ thôi nghề bán phân.
Ngoài công việc này ra, anh ta c̣n biết khắc chạm sừng ḅ. Về
phần đánh cá, anh ta nói với tôi là chẳng biết ǵ để bày vẽ cho
tôi, nhưng nếu ở bến tàu, Charpar hay một người nào khác sẽ có
thể giúp ích cho tôi.
Thế là tôi làm nghề đổ thùng. Xong việc, tôi tắm rửa sạch sẽ,
mặc đồ sọc và ngày ngày ra bờ biền câu cá, muốn câu bao nhiêu
th́ câu. Tôi chỉ có một bổn phận: đúng giữa trưa phải có mặt ở
trại. Nhờ Chapar, tôi không thiếu cần câu và lưỡi câu. Nhưng hôm
tôi từ dưới bờ biển đi lên, tay cầm sợi dây thép xâu cá một
chuỗi cá hồng, chẳng mấy khi không có những cô vợ giám thị đứng
trong nhà gọi ra rối rít. Họ đều biết tên tôi:
- Bươm bướm ơi! Bán tôi hai cân cá hồng nào!
- Bà ốm à?
- Không.
- Thằng bé con bị ốm à?
- Không.
- Thế th́ tôi không bán cá cho bà đâu.
Tôi câu được khá nhiều, thường đem cho các bạn ở trại. Tôi đổi
tôm cá lấy bánh ḿ sáo, lấy rau quả hay trái cây. ở tổ tôi mỗi
ngày ít ra cũng có một bữa cá. Một hôm, tôi đang đi từ biển lên,
tay xách một tá tôm he lớn và bảy tám ki-lô cá hồng. Đi ngang
nhà thiếu tá Barrot th́ thấy một bà, người hơi đẫy, nói với tôi:
- Anh câu được nhiều quá, Papillon nhỉ. Biển động thế này có ai
câu được ǵ đâu? ít ra đă mười lăm hôm nay tôi không được ăn cá.
Thật đáng tiếc là anh không bán cá. Nhà tôi có cho tôi biết anh
không chịu bán cá cho vợ các nhân viên giám thị.
- Thưa bà đúng thế. Nhưng đối với bà th́ có thể khác?
- Tại sao?
- Tại bà hơi mập, ăn thịt không được tốt.
- Đúng đấy, họ nói là tôi chỉ nên ăn rau và cá luộc. Nhưng ở đây
làm ǵ có đủ mà ăn?
- Đây, xin bà cầm lấy mớ tôm he và mấy con cá hồng này.
Đoạn tôi đưa cho bà ta cả xâu tôm he và khoảng hai cân cá hồng.
Kế từ hôm ấy, cứ lần nào câu được kha khá, tôi lại đem biếu bà
ta một ít, đủ để có được một chế độ ăn thích hợp với tạng người
bà. Bà thừa biết rằng ở Quần đảo này thứ ǵ cũng phải mua bán
ṣng phẳng, nhưng lần nào bà cũng chỉ đáp lại món quà của tôi
bằng hai tiếng “cám ơn” mà thôi. Bà làm như thế là phải, v́ bà
đă cám thấy rằng nếu đưa tiền, tôi sẽ phật ḷng. Nhưng có nhiều
lần bà lại mời tôi vào nhà. Bà tự tay róc cho tôi một ly rượu
hồi hay một cốc vang trắng. Nếu bên Corse có gửi figatelli cho
bà, bà cũng cho tôi một ít. Không bao giờ bà Barrot hỏi tôi về
dĩ văng. Chỉ có một lần, nhân nói đến trại khổ sai, bà lỡ lời
nói: “Quả t́nh, ở Quần đảo th́ không vượt ngục được, nhưng ở đây
khí hậu hành, c̣n hơn phải thối rữa ra như một con vật ở Đất
liền”.
Chính bà đă giảng giải cho tôi biết sự tích tên gọi Quần đảo:
dạo có dịch sốt vàng ở Cayenne, các tu sĩ ḍng áo trắng và các
bà xơ trong một tu viện nọ đă đến đây lánh nạn, và đều đă thoát
nạn. V́ thế mà Quần đảo được gọi là Quần đảo Salut (Quần đảo Cứu
nạn). Nhờ cái nghề câu cá, tôi được đi khắp đảo. Tôi làm công
việc đổ thùng đă được ba tháng nay, và tôi biết rơ địa thế của
đảo hơn ai hết. Tôi đi quan sát các khu vườn lấy cớ là đến đổi
cá lấy rau quả. Người trông khu vườn ở cạnh nghĩa địa giám thị
là Matthieu Carbonieri, bạn cùng tổ với tôi. Anh ta làm việc ở
đấy một ḿnh, cho nên tôi tự nhủ là sau này chúng tôi có thể
đóng bè và giấu bè trong khu vườn của anh. C̣n hai tháng nửa th́
ông chỉ huy trại sẽ đổi đi nơi khác. Tôi sẽ được tự do hành
động.
Tôi dă tổ chức được nếp sinh hoạt của tôi: về danh nghĩa tôi là
phu đổ thùng, nhưng công việc lại do anh chàng người Martinique
làm thay, dĩ nhiên là có trả tiền. Tôi đă có những thao tác làm
thân với hai anh em su gia Narric và Quenier, bị khổ sai chung
thân. Người ta thường gọi họ là hai anh em rể Đẩy Xe. Họ kể lại
rằng hai anh em bị tố cáo là đă biến cái xác của một người đi
thu tiền mà họ vừa giết chết thành một khối xi-măng rồi đem đổ
cái khối ấy xuống sông. Có những nhân chứng khai là nh́n thấy
hai anh em chở khối xi-măng trên một chiếc xe đẩy, đem trút
xuống sông Marne hay sông Seine ǵ đấy. Cuộc điều tra xác định
rằng người thu tiền có ghé nhà họ thu một món ǵ đấy rồi từ đấy
không c̣n thấy tăm hơi đâu nửa. Hai anh em đă phủ nhận tội này
từ đầu cho đến nay. Ngay ở trại tù họ cũng nói là ḿnh vô tội.
Thế nhưng, nếu người ta không bao giờ t́m được cái xác, th́
người ta lại t́m thấy cái đầu của nạn nhân bọc trong một chiếc
khăn mùi soa. Thế mà ở nhà hai anh em lại có những chiếc khăn mù
soa dệt cùng một kiểu chính thứ sợi ấy, theo lời “các chuyên gia
thẩm định”. Nhưng các trạng sư và bản thân các chuyên gia ấy lại
chứng minh được rằng có đến mấy ngàn thước vải như thế đă được
khâu thành mùi soa. Ai cũng có thể có những chiếc mùi soa như
thế. Tuy vậy, cuối cùng hai anh em vẫn bị khổ sai chung thân, và
vợ của một trong hai người, em gái của người kia, bị hai mươi
năm tù cấm cố.
Tôi đă làm thân được với họ. V́ làm thợ nề cho nên họ có thể ra
vào công xưởng của trại. Có lẽ họ có thể tuồn dần ra cho tôi,
từng ít một, những vật liệu cần thiết để đóng một cái bè. Nhưng
c̣n phải thuyết phục họ.
Hôm qua tôi đă gặp ông bác sĩ. Lúc ấy tôi đang vác một con cá
nặng ít ra là hai mươi ki-lô, thịt rất bùi, gọi là cá mérou. Bác
sĩ cùng đi với tôi lên đỉnh đồi.
Lưng chừng dốc, chúng tôi ngồi xuống nghỉ trên một bức tường
thấp. Bác sĩ nói với tôi là đầu con cá này nấu canh ngon tuyệt.
Tôi bèn biếu bác sĩ cái đầu cá, dính theo một mảng thịt lớn. Bác
sĩ ngạc nhiên và cái cử chỉ ấy của tôi, ông nói:
- Anh chẳng thù dai, Papillon nhỉ.
- Thưa bác sĩ, tôi làm như vậy không phải và bản thân tôi. Chẳng
qua tôi thấy có bổn phận phải trả ơn bác sĩ và bác sĩ đă hết
ḷng cứu chữa Clousiot bạn tôi.
Chúng tôi nói chuyện qua lại một lát, rồi bác sĩ nói:
- Anh muốn vượt ngục lắm phải không? Anh chẳng phải là tù khổ
sai đâu. Tôi có cảm giác anh là một hạng người khác.
- Bác sĩ nói đúng đấy. Tôi không thuộc trại khổ sai, tôi chỉ ghé
vào tham quan thôi.
Bác sĩ cười. Tôi tấn công luôn:
- Bác sĩ không tin rằng một con người có thể cải hóa được sao?
- Tôi tin chứ..
- Bác sĩ có thể nghĩ rằng tôi có thể làm việc hữu ích ở ngoài
đời mà không gây hiểm họa ǵ cho xă hội và có thể trở thành một
công dân lương thiện được không?
- Tôi thành thật tin như thế:
- Thế th́ tại sao bác sĩ không giúp tôi đạt được điều đó?
- Bằng cách nào?
- Bằng cách cho tôi miễn giam v́ bệnh ho lao. Đến đây bác sĩ đă
xác nhận một điều mà tôi đă từng nghe nói.
- Làm như thế không được, và tôi khuyên anh đừng nghĩ đến cách
đó. Nó quá nguy hiểm, Ban Quản trị chỉ miễn giam một phạm nhân
v́ bệnh sau khi hắn đă nằm ở khu điều trị dành riêng cho bệnh ấy
ít nhất là một năm.
- Để làm ǵ?
- Cái này nói ra cũng xấu hổ, nhưng tôi nghĩ rằng họ làm như thế
là để phạm nhân biết, nếu hắn giả vờ bệnh, rằng hắn rất có khả
năng bị nhiễm v́ sống chung với các bệnh nhân thật, và để hắn
nhiễm bệnh thật sự. Cho nên tôi không thể giúp anh được.
Kể từ ngày ấy, chúng tôi trở thành đôi bạn... Cho đến ngày ông
ta suưt làm cho Carbonieri bạn tôi mất mạng.
Số là Carbonieri, với sự thỏa thuận của tôi, đă nhận làm đầu bếp
kiêm giữ kho cho nhà ăn các giám thị trưởng. Nhận việc này là để
nghiên cứu xem có thể lấy trộm ba cái thùng ton-nô trước đó đựng
rượu vang, đựng dầu và đựng dấm, t́m cách buộc nó lại với nhau
làm thành một thứ bè để ra biển không. Dĩ nhiên là khi nào thiếu
tá Barrot đă đi khỏi. Việc này rất khó, v́ cùng một đêm phải lấy
trộm cả ba cái thùng, đưa ra bờ biển đừng để ai trông thấy hoặc
nghe thấy, rồi dùng dây cáp buộc lại. Phải vào một đêm giông
băo, mưa to gió lớn may ra mới có thể làm được. Nhưng nếu mưa to
gió lớn th́ việc khó nhất sẽ là đưa cái bè này xuống nước, v́
tất nhiên sóng sẽ đánh vào bờ đá hết sức dữ dội.
Vậy Carbonieri là đầu bếp. Viên quản lư bếp đă đưa cho anh ta ba
con thỏ để chuẩn bị cho bữa ăn hôm sau, vào ngày chủ nhật.
Carbonieri lột da thỏ ra (điều này thật là may), đem một con gửi
cho thằng em ở bến tàu c̣n hai con gửi cho chúng tôi. Rồi anh ta
thịt ba con mèo to nấu một nồi xi-vê ngon không thể tả.
Chẳng may cho Carbonieri, hôm sau bác sĩ được mời dự bữa ăn.
Trong khi nhấm nháp món xi-vê thỏ, ông ta nói với viên quản lư:
- Ông Filidori ạ, xin có lời khen ngợi thực đơn của ông: món
thịt mèo này ngon tuyệt.
- Xin bác sĩ đừng xỏ tôi, chúng ta đang ăn ba chú thỏ tuyệt vời.
- Không đâu, - ông bác sĩ khăng khăng nói quả quyết- Đây là thịt
mèo. Ông có nh́n thấy mấy miếng xương sườn tôi đang ăn đây
không? Xương sườn này dẹp, mà sườn thỏ th́ tṛn. Vậy không thể
có sự nhầm lẫn ǵ được: chúng ta đang ăn thịt mèo.
- Lạy Chúa, Cristacho!- viên quản lư người Corse nói. - Trong
bụng tôi có một con mèo rồi.
Thế là hắn chạy bổ xuống bếp dí súng lục vào mặt Matthieu nói:
- Mày có là dân sùng mộ Napoléon như tao cũng mặc, tao sẽ giết
mày chết ngay bây giờ về tội đă cho tao ăn thịt mèo.
Mắt hắn trợn lên như mắt người điên. Carbonieri không hiểu nổi
làm sao hắn biết được, nhưng vẫn nói:
- Nếu ông gọi mấy cái con ǵ mà ông đưa cho tôi là mèo, th́ tôi
cũng đến chịu: đó chúng phải là lỗi của tôi.
- Tao đưa cho mày ba con thỏ kia mà!
- Ông đưa ǵ tôi nấu nấy. Ông cứ nh́n mà xem: da với đầu c̣n kia
ḱa.
Lăo cớm nh́n ba bộ da và ba cái đầu thỏ, chẳng c̣n biết nói sao.
- Thế ông bác sĩ chỉ nói ṃ à?
- Té ra ông bác sĩ nói thế sao? - Carbonieri vừa thở hắt ra vừa
hỏi. - Ông ấy trêu ông đấy. Ông phải nói cho bác sĩ biết là
không nên đùa cái kiểu như vậy.
Nguôi giận, yên ḷng, Filidori trở vào pḥng ăn, nói với bác sĩ:
- Ông cứ tha hồ nói đi, muốn nói ǵ th́ cứ nói ông bác sĩ ạ. Men
rượu bắt đầu bốc lên rồi đấy. Mấy cái xương sườn của ông nó bẹp
hay nó tṛn mặc nó, chứ tôi th́ tôi biết chắc mười mươi đây là
thịt thỏ. Tôi vừa nh́n thấy ba bộ lông và ba cái đầu của nó c̣n
sờ sờ ra đấy.
Thật hú vía cho Matthieu, nhưng mấy hôm sau anh ta thấy nên xin
từ chức đầu bếp th́ tốt hơn.
Ngày tôi có thể sắp sửa hành động đă đến gần.
Chỉ c̣n mấy tuần nữa là Barrot ra đi. Hôm qua tôi vừa ghé thăm
bà vợ béo tốt của ông ta (nhân thể cũng xin nói rằng nhờ chế độ
ăn cá luộc với rau tươi, bà ta đă gầy bớt đi nhiều). Ngời đàn bà
tốt bụng này đă mời tôi vào nhà để tặng tôi một chai rượu
canh-ki-na. Trong pḥng khách tôi nh́n thấy mấy cái rương đi tày
thủy đang được xếp đồ đạc vào. Họ đang chuẩn bị cho chuyến ra
đi. Bà thiếu tá, như mọi người vẫn quen gọi bà ta, nói với tôi:
- Papillon ạ, tôi không biết lấy ǵ để cảm ơn anh đă quan tâm
đến tôi mấy tháng gần đây. Tôi biết những hôm biển động cá hiếm
anh đă cho tôi tất cả những ǵ anh câu được. Tôi cảm ơn anh
nhiều lắm. Nhờ anh bây giờ tôi thấy trong người dễ chịu lắm. Tôi
đă bớt được mười bốn ki-lô. Tôi có thể làm ǵ để tỏ ḷng biết ơn
anh đây?
- Thưa bà, một việc rất khó đối với bà: kiếm cho tôi một cái la
bàn tốt. Chính xác, nhưng đừng to quá.
- Cái này vừa không đáng là bao, lại vừa là việc lớn đấy,
Papillon ạ, mà chỉ trong ṿng ba tuần phải kiếm cho ra th́ hơi
khó cho tôi đấy.
Tám ngày trước khi ra đi, người đàn bà cao thượng này, bực ḿnh
v́ măi không kiếm đâu ra được một cái la bàn; đă dám lên tàu
thủy đi Cayenne. Bốn hôm sau, bà trở về với một cái la bàn chống
nhiễm từ tuyệt hảo.
Sáng nay, hai ông bà chỉ huy trại lên đường. Hôm trước ông đă
trao quyền chỉ huy cho một sĩ quan cảnh binh cùng cấp với ông,
một người quê ở Tunisie tên là Prouillet. Một tin mừng: viên chỉ
huy mới đă quyết định cho Dega giữ nguyên chức kế toán trưởng.
Điều này rất quan trọng đối với mọi người, nhất là đối với tôi.
Trong bài diễn văn đọc trước đám phạm nhân tập hợp thành đội ngũ
h́nh vuông trong khoảng sân lớn, viên chỉ huy mới làm cho mọi
người cảm thấy đây là một con người rất cương nghị, nhưng thông
minh. Ngoài những chuyện khác ra, ông ta có nói với chúng tôi:
- Kể từ hôm nay, tôi đảm nhiệm quyền chỉ huy Quần đảo Salut.
Nhận thấy có phương pháp cai quản của người đi trước tôi đă đem
lại những kết quả tích cực, tôi không thấy có lư do ǵ để thay
đổi chế độ hiện hành. Nếu các người không làm điều ǵ buộc tôi
phải có biện pháp khác, tôi sẽ không thay đổi ǵ trong nếp sống
của các người.
Tôi nh́n hai ông bà chỉ huy cũ ra đi mà ḷng mừng khấp khởi.
Điều đó cũng rất dễ hiểu, tuy thời gian chờ đợi đă trôi qua một
cách nhanh chóng lạ lùng. Cuộc sống tưởng chừng như tự do mà hầu
hết các phạm nhân trên đảo được hưởng, những ván bài, những buổi
đi câu những cuộc chuyện tṛ, những người bạn mới, những cuộc
căi vă những trận đánh nhau làm thành những phương tiện giải trí
rất hữu hiệu, khiến người ta không c̣n th́ giờ để mà buồn chán
nữa.
Tuy thế, tôi đă không để cho cái không khí này lôi cuốn tôi thực
sự. Mỗi lần tôi kết thân với một bạn mới, bao giờ đồng thời tôi
cũng tự đặt ra câu hói: “Anh này liệu có ư định vượt ngục không?
Nếu không, anh ta có đủ ḷng tốt để giúp người khoẻ chuẩn bị một
chuyến vượt ngục không?”
Tôi chỉ v́ cái mục đích ấy mà sống: vượt ngục, vượt ngục cho
bằng được, dù đi một ḿnh hay cùng đi với bạn cũng thế thôi. Đó
là một ư nghĩ thường xuyên ám ánh tôi, tuy tôi theo đúng lời như
Jean Castelli đă khuyên tôi, không nói hở ra với ai hết, nhưng ư
nghĩ ấy không giây phút nào rời khỏi tâm trí tôi. Và tôi sẽ vững
ḷng thực hiện lư tưởng của tôi: vượt ngục.
o0o
|