người con gái thuộc đủ các màu da, từ cô gái Trung Hoa cho đến
cô gái Phi Châu da đen, qua trung gian của màu sô-cô-la nhạt với
mái tóc trơn phẳng, đến người con gái ấn Độ hay Java: bố mẹ họ
vốn thuộc những chủng tộc khác nhau đă tiếp xúc với nhau trong
những đồn điền trồng cacao hay trồng mía, hoặc cô gái thổ dân
lai Trung Hoa hay lai ấn Độ với cái vỏ ốc bằng vàng cài trong
mũi, cô gái Llapane với những đường nét La Mă cổ đại, gương mặt
màu đồng đỏ được soi sáng bằng đôi mắt to lạ lùng, đen nhánh, sáng
rực, với hai hàng mi rất dài, ưỡn bộ ngực để hở rất rộng như
muốn nói: “Hăy nh́n bộ ngực của tôi đây: hoàn hảo đến thế là
cùng”, tất cả những cô gái ấy, mỗi cô cài lên mái tóc những bông
hoa có màu sắc khác nhau, đều bộc lộ những cảm xúc nồng cháy của
t́nh yêu, khiêu khích những ước vọng lứa đôi, mà không có chút
ǵ là tục tĩu, không có chút ǵ là thương mại; những cô gái ấy
không làm cho người ta có cảm giác là họ đang làm một công việc
để kiếm sống, v́ họ có vẻ như đang vui chơi thực sự và người ta
thấy rằng tiền bạc đối với họ tuyệt nhiên không phải là cái
chính ở đời.
Như hai con bọ vừng bay quờ quạng đâm vào những ngọn đèn,
Maturette và tôi hai đứa cứ la cà từ bar này đèn bar khác. Măi
đến khi bước chân tới một quăng trường nhỏ tràn ngập ánh đèn tôi
mới nh́n thấy giờ trên cái đồng hồ của một ngôi nhà thờ hay đền
đài ǵ đấy. Hai giờ. Đă hai giờ sáng Thôi chết rồi, phải về thật
mau. Chúng tôi đă lạm dụng t́nh thế: Chắc hẳn ông thống lĩnh của
Đạo quán Cứu thế phải nghĩ về chúng tôi những điều chẳng hay một
chút nào. Phải về ngay thôi. Tôi chặn một chiếc tắc-xi và leo
vội lên, chỉ một lát sau là về đến khách sạn: two dollar! Tôi
trả tiền, và chúng tôi trở về khách sạn, rất xấu hổ. ở gian tiền
sảnh, một nữ chiến sĩ của Đạo quân Cứu thế, tóc vàng, rất trẻ -
khoảng hai mươi lăm hay ba mươi tuổi là cùng - ra đón chúng tôi
một cách vui vẻ nhă nhặn.
Cô ta không hề có vẻ ngạc nhiên hay bực bội khi thấy chúng tôi
về muộn như vậy. Sau vài câu thăm hỏi bằng tiếng Anh mà chúng
tôi đoán là thân ái và niềm nở, cô ta trao cho chúng tôi cái
ch́a khóa buồng và chúc chúng tôi ngủ ngon. Chúng tôi đi ngủ.
Trong va-li, tôi thấy có để một bộ pyjama. Lúc sắp tắt đèn,
Maturette nói với tôi: “Dù sao chúng ḿnh cũng nên cám ơn Đức
chúa ḷng lành đă cho chúng ta nhiều món quà như vậy trong một
thời gian ngắn ngủi như vậy. Anh thấy thế nào hở Papi?”
- Cậu hăy cám ơn giúp tôi cái ông Chúa ḷng lành của cậu một
thể: đó là một anh chàng rất khá. Và đúng như cậu đă nói một
cách rất hay ho, anh ta quả đă tỏ ra hào phóng lạ lùng đối với
chúng ta. Tôi chúc cậu ngủ ngon. - Nói đoạn tôi tắt đèn.
Cuộc hồi sinh này, chuyến đi từ mộ địa trở về với cuộc sống này,
cuộc trốn thoát khỏi cái huyệt mà người ta đă chôn tôi xuống,
tất cả những nỗi xúc động liên tiếp và cái đêm đă làm cho tôi
được nhập vào cuộc sống trở lại cùng với đám dân đảo ở quanh
tôi, tất cả những cái đó đă kích thích tôi mạnh đến nỗi tôi
không sao ngủ được. Tôi nhắm mắt lại, nhưng trước mắt tôi không
phải là bóng tối mà là những h́nh ảnh muôn màu muôn sắc như
trong một ống kính vạn hoa: những h́nh bóng, những sự vật, cả
cái mớ đa dạng của những cảm giác pha trộn vào nhau, dồn dập đến
với tôi không hề theo một trật tự thời gian nào hết, tuy rất rơ
nét nhưng lại hết sức lộn xộn: phiên ṭa Đại h́nh, nhà lao
Conciergerie, rồi th́ ḥn đảo của những người hủi, rồi th́
Saint-Martin-de-Ré, Trobuillard, Jésus, trận băo biển... Trong
một điệu vũ quái đản, dường như tất cả những ǵ tôi đă sống qua
trong một năm đều muốn hiện ra cùng một lúc trong gian pḥng
trưng bày những kỷ niệm của tôi. Tôi cố xua đuổi những h́nh ảnh
ấy đi mà không sao xua đuổi được. Nhưng ngộ nghĩnh nhất là những
h́nh ảnh ấy đều bị trộn lẫn với những tiếng lợn kêu, những tiếng
ho c̣ gáy, tiếng gió hú, tiếng sóng gầm và tất cả những tiếng đó
đều được bao trùm trong tiếng những cây đàn c̣ một dây mà mấy
anh nhạc công ấn Độ đă chơi ban năy trong các quán bar chúng tôi
đă đi qua.
Cuối cùng tôi ngủ thiếp đi vào lúc tờ mờ sáng. Vào khoảng mười
giờ có tiếng gơ cửa pḥng. Đó là luật sư Bowen tươi cười đến
thăm chúng tôi. Chào các bạn. Hăy c̣n ngủ kia à? Chắc hôm qua về
khuya hả? Đi chơi phố có vui không?
- Chào luật sư. Vâng. chúng tôi về khuya quá, luật sư thứ lỗi
cho.
- Ơ ḱa, có ǵ mà thứ lỗi! Sau tất cả những ǵ các ông đă phải
chịu đựng th́ đó là điều hoàn toàn b́nh thường. Nhất định các
ông phải tận hưởng cái đêm đầu tiên được làm người tự do chứ!
Tôi đến để cùng đi với hai ông ra Sở Cảnh sát. Các ông phải đến
tŕnh diện với cảnh sát để tuyên bố chính thức rằng các ông đă
vào lănh thổ xứ này một cách bất hợp pháp. Làm xong cái thủ tục
này ta sẽ đi thăm ông bạn bị thương của các ông. Từ sớm họ đă
chiếu điện cho ông ấy. Ta sẽ biết kết quả sau. Sau khi rửa mặt
và mặc áo quần thật nhanh, chúng tôi đi xuống pḥng dưới, nơi
ông Bowen và ông thống lĩnh đang chờ chúng tôi.
- Chào các bạn, - ông thống lĩnh nói bằng tiếng Pháp đặc giọng
Anh.
- Xin chào tất cả. Các vị có khỏe không?
Một nữ sĩ quan của Đạo quân Cứu thế nói với chúng tôi:
- Các ông thấy Port of Spain thế nào? Có dễ chịu không?
- ồ, thưa bà rất dễ chịu! Chúng tôi rất thích.
Sau khi uống tách cà-phê, chúng tôi đến Sở Cảnh sát Chúng tôi đi
bộ v́ sở chỉ cách khách sạn khoảng hai trăm thước. Tất cả các
cảnh sát viên đều chào chúng tôi và nh́n chúng tôi không có vẻ
ǵ ṭ ṃ đặc biệt. Chúng tôi bước vào một văn pḥng trang nghiêm
sau khi đi qua trước mặt hai người lính canh da màu gỗ mun mặc
quân phục ka ki. Một viên sĩ quan trạc ngũ tuần, sơ-mi và ca-vát
đều bằng vải ka li, ngực đeo đầy huy chương và huy hiệu, đứng
dậy. Ông ta mặc quần soóc ông ta nói bằng tiếng Pháp:
- Chào các ông. Các ông ngồi xuống. Trước khi ghi nhận chính
thức lời khai của các ông, tôi muốn được nói chuyện với các ông
một chút. Hai ông bao nhiêu tuổi?
- Tôi hai mươi sáu tuổi, c̣n bạn tôi mười chín.
- Các ông bị xử v́ tội ǵ?
- Tội giết người.
- Các ông bị xử án ǵ?
- Khổ sai chung thân.
- Thế th́ không phải là v́ tội giết người đơn thuần, mà là v́
tội giết người có chủ ư?
- Thưa ông không phải, tôi chỉ bị buộc tội giết người.
- C̣n tôi th́ giết người có chủ ư, - Maturette nói - Lúc bấy giờ
tôi mới mười bảy tuổi.
- ở tuổi mười hăy người ta có ư thức về việc ḿnh làm, - viên sĩ
quan nói. - ở Anh, nếu tội trạng ấy đă có bằng chứng rơ ràng,
anh sẽ bị treo cổ. Thôi được, nhà chức trách của nước Anh không
có bổn phận phê phán cách xử án của nước Pháp. Những điều mà ta
phản đối là việc đày phạm nhân sang Guyane thuộc Pháp. Chúng tôi
cho rằng đó là một h́nh phạt vô nhân đạo và không xứng đáng với
một quốc gia văn minh như nước Pháp. Nhưng có điều đáng tiếc là
các ông không thể ở lại Trinidad hay bất cứ một ḥn đảo thuộc
Anh nào khác. Điều đó không thể được. V́ vậy tôi yêu cầu các ông
xử sự một cách trung thực và không t́m cách tŕ hoăn việc ra đi,
không lấy cớ đau ốm hoặc viện một lư do nào khác để ở lại sau
khi đă hết hạn tạm trú. Các ông có thể nghỉ ngơi tự do ở Port of
Spain từ mười lăm đến mười tám ngày. Chiếc thuyền của các ông
h́nh như cũng tốt. Tôi sẽ cho đưa nó về đây bảo quản ở cảng. Nếu
cần sửa chữa ǵ, thợ mộc của Hải quân Hoàng gia sẽ sửa chữa cho
các ông. Khi ra đi các ông sẽ nhận được tất cả các thứ lương
thực cần thiết, một cái địa bàn tốt và một tấm bản đồ hàng hải.
Tôi hy vọng rằng các nước Nam Mỹ sẽ chịu tiếp nhận các ông. Các
ông đừng đến Venezuela v́ các ông sẽ bị bắt và bị cưỡng bức làm
việc trên các đường cái cho đến ngày họ trao trả các ông cho nhà
chức trách Pháp. Sau một lầm lỗi nghiêm trọng, một con người
không thể vĩnh viễn bị cường bức phải trở thành người bỏ đi. Các
ông trẻ và khỏe mạnh, dung mạo của các ông rất dễ có cảm t́nh,
cho nên tôi hy vọng rằng sau những nỗi cay cực mà các ông đă
phải chịu đựng, các ông sẽ không chấp nhận rằng ḿnh đă bị đánh
gục vĩnh viễn. Chỉ riêng cái việc các ông đă vượt biển đến tận
đây cũng đủ chứng minh điều ngược lại. Tôi lấy làm sung sướng
được làm một trong những nhân tố giúp các ông trở thành những
người tốt và có trách nhiệm. Tôi xin chúc các ông may mắn. Nếu
các ông có vấn đề ǵ khó giải quyết các ông cứ gọi điện thoại về
số này, sẽ có người trả lời các ông bằng tiếng Pháp.
Ông ta bấm chuông gọi, và một người mặc thường phục đến t́m
chúng tôi. Trong một gian pḥng có nhiều người mặc quân phục
cảnh sát hoặc thường phục đang ngồi đánh máy, một viên chức ghi
nhận lời khai của chúng tôi.
- Các ông đến Trinidad v́ mục đích ǵ?
- Để nghỉ ngơi.
- Các ông từ đâu đến?
- Từ Guyane thuộc Pháp.
- Để vượt ngục, các ông có làm thêm điều ǵ phạm pháp, có gây
thương tích hoặc làm thiệt mạng người khác hay không?
- Chúng tôi không làm ai bị thương nặng cả.
- Sao các ông biết?
- Chúng tôi được biết như thế trước khi lên đường.
- Tuổi của các ông, vị thế h́nh sự của các ông đối với nước Pháp
(v.v...)
- Thưa các ông, các ông cớ mười lăm đến mười tám ngày để nghỉ
ngơi ớ đây. Các ông hoàn toàn tự do muốn làm ǵ th́ làm trong
thời gian đó. Nếu các ông đổi khách sạn, xin các ong báo cho
chúng tôi biết. Tôi là trung sĩ Willy. Đây là danh thiếp của
tôi, có hai số điện thoại: số này là điện thoại chính thức của
Sở, c̣n số này là nhà riêng của tôi. Dù có xảy ra chuyện ǵ, khi
cần đến sự giúp đỡ của tôi các ông cứ gọi điện ngay cho tôi.
Chúng tôi biết rằng sự tin cậy của chúng tôi đối với các ông là
đúng chỗ. Tôi tin chắc rằng các ông sẽ xử sự đúng đắn.
Lát sau ông Bowen đưa chúng tôi đến bệnh viện. Clousiot mừng
lắm. Chúng tôi không kể lại cho cậu ấy nghe cái đêm vừa qua
trong thành phố. Chúng tôi chỉ nói rằng người ta để cho chúng
tôi muốn đi đâu th́ đi.
Clousiot sửng sốt hỏi:
- Không có người áp giải à?
- Phải, không có ai đi áp giải hết.
- Chà, cái dân roastbeef (ư cậu ta muốn nói người Anh) kỳ quặc
thật!
Ông Bowen từ năy đi t́m ông bác sĩ, bây giờ đă trở lại với ông
ta. Ông bác sĩ hỏi Clousiot:
- Ai đă lắp lại chỗ xương găy trước khi buộc nẹp ván vào ống
chân?
- Tôi và một người khác nữa, bây giờ không có ở đây
- Ông đă lắp rất đúng, thành thử không cần phải làm găy lại cái
xương chân. Xương bánh chè đă được ghép lại rất khớp. Bây giờ
chỉ cần bó bột và lắp thêm một que sắt để ông có thể đi lại chút
ít. Ông thích ở lại đây hơn hay là đi với các bạn ông?
- Tôi đi với họ thôi.
- Thế th́ sáng mai ông có thể đi với họ.
Chúng tôi cảm ơn rối rít. Ông Bowen và ông bác sĩ lui ra để cho
chúng tôi ngồi lại suốt buổi sáng và buổi trưa với bạn chúng
tôi. Hôm sau, chúng tôi vui như ngày hội khi cả ba chúng tôi tụ
tập đáy đủ trong căn pḥng ở khách sạn, cửa sổ mở rộng và bao
nhiêu quạt đều chạy để cho căn pḥng thật thoáng khí. Chúng tôi
không ngớt khen ngợi nhau về gương mặt khỏe mạnh sáng sủa và về
dáng dấp bảnh bao trong những bộ áo quần mới. Khi thấy câu
chuyện lại quay về quá khứ, tôi nói với các bạn:
- Chuyện quá khứ th́ bây giờ ta hăy cố gắng quên đi, chỉ nên
nghĩ đến hiện tại và tương lai mà thôi. Chúng ta sẽ đi đâu?
Colombia chăng? Panama chăng? Hay Costa Rica? Cần phải hỏi ư
kiến ông Bowen xem thử ở những nước nào ta có nhiều khả năng
được chấp nhận hơn.
Tôi gọi điện đến văn pḥng luật sư của ông Bowen, nhưng không có
ông ở đấy. Tôi gọi về nhà ông ở San Fernando, người cầm ống máy
lên là cô con gái ông luật sư. Sau kh́ trao đổi mấy lời thăm hỏi
ân cần, cô ấy nói:
- Ông Henri ạ, gần bến khách sạn, ở Chợ cá, có những chuyến xe
buưt đi San Fernanđo. Sao ông không đến chơi nhà chúng tôi vào
buổi chiều? Ông đến nhé, tôi đợi ông đấy!
Thế là cả ba chúng tôi lên xe đi San Fernando. Clousiot trông
thật bảnh trong bộ áo quần bán quân sự màu thuốc lá của cậu ta.
Chuyến đi trở về ngôi nhà đă đón tiếp chúng tôi nồng hậu như vậy
làm cho cả ba chúng tôi đều xúc động. Dường như hai người phụ nữ
ấy cũng hiểu nỗi xúc động của chúng tôi, v́ họ cùng nói một lúc:
“Thế là các bạn đă lại trở về ngôi nhà của các bạn. Các bạn ngồi
xuống đi cho thoải mái”. Bây giờ hai nữ chủ nhân không c̣n gọi
chúng tôi là “Monsieur” nữa, mỗi lần nói với chúng tôi họ đều
gọi bằng anh hay gọi thẳng tên riêng như chỗ thân t́nh: “Henri,
anh cho tôi xin hũ đường”; Andre (Đó là tên riêng của Maturette)
anh ăn thêm miếng bánh pudding nữa nhé?” Bà Bowen và cô Bowen
ơi, tôi hy vọng rằng đến giờ này Trời đă ban thưởng cho hai
người v́ ḷng nhân hậu tuyệt vời đối với chúng tôi, và xin cầu
mong cho tâm hồn cao đẹp của hai người, đă đem lại cho chúng tôi
những niềm vui xán lạn như vậy trên quăng đường đời c̣n lại, sẽ
chỉ gặp toàn hạnh phúc tột độ mà thôi.
Chúng tôi bàn bạc với hai mẹ con bà Bowen, quây quần xung quanh
một tấm bản đồ trải ra trên bân. Nhưng khoảng cách mà chúng tôi
sẽ phải vượt qua c̣n rất lớn: một ngàn hai trăm cây số để đến
cảng gần nhất của xứ Colombia là Santa Marta, hai ngàn một trăm
cây số để đến Panama; hai ngàn năm trăm cây số để đến Costa
Rica. Ông Bowen đă về. Ông nói: “Tôi đă gọi điện cho tất cả lănh
sự quán, và bây giờ tôi có thể thông báo một tin mừng: các bạn
có thể ghé Cuarcao vài ngày để nghỉ ngơi. Nước Colombia th́ chưa
có ǵ rơ ràng lắm về cách xử lư đối với người vượt ngục. Theo
chỗ ông lănh sự được biết th́ xưa nay chưa bao giờ thấy có những
người vượt ngục đến Colombia bằng đường biển. Panama và những
nơi khác cũng thế”.
- Tôi biết một chỗ an toàn cho các anh, - cô Margaret, con gái
ông Bowen, nói. - Nhưng chỗ ấy xa lắm, đến ba ngàn cây số là ít.
- ở đâu thế? - Cha cô hỏi
- Xứ Honduras thuộc Anh. Ông thống đốc xứ này là cha đỡ đầu của
tôi.
Tôi nh́n các bạn và nói: “Vậy th́ mục tiêu sẽ là xứ Honduras
thuộc Anh”. Đó là một thuộc địa của Vương quốc Hợp nhất*
(*United Kingdom, tên gọi chung cho các xứ Anh-Cát-lợi, Tô
Cách-lan, Bắc Ai-len) phía nam giáp nước cộng ḥa Honduras, phía
bắc giáp Mexico.
Chúng tôi ngồi suốt buổi chiều vạch tuyến đường vượt biển trên
bản đồ, với sự giúp đỡ của Margaret và mẹ cô. Chặng thứ nhất
Trinidad - Curacao, một ngàn cây số. Chặng thứ hai: từ Caracao
đến một ḥn đảo bất kỳ sẽ gặp trên đường đi. Chặng thứ ba:
Honduras thuộc Anh.
V́ không thể nào lường trước được tất cả những ǵ có thể xảy ra
giữa biển, hai bà quyết định rằng ngoài các món lương thực mà
cảnh sát sẽ cung cấp cho chúng tôi phải đem theo một cái thùng
nữa đựng các món ăn dự trữ đóng hộp: thịt, rau quả, mứt, cá,
v.v... Margaret nói với chúng tôi rằng cửa hàng siêu thị
“Salvattori” sẽ vui ḷng biếu chúng tôi số đồ hộp đó. Và cô nói
thêm một cách hồn nhiên:
- Nếu họ từ chối th́ mẹ tôi sẽ mua thôi.
- Không được đâu, cô ạ.
- Thôi anh im đi, anh Henri ạ.
- Không được đâu mà, v́ chúng tôi có tiền. Chúng tôi không thể
lạm dụng ḷng tốt của các vị trọng khi có thể tự ḿnh mua lấy
các thứ đó.
Chiếc thuyền của chúng tôi đang ở Port of Spain, đậu dưới một
cái mái che của hải quân Anh. Chúng tôi từ biệt gia đ́nh ông
Bowen, hẹn là trước khi lên đường sẽ đến thăm họ một lần cuối.
Tối nào cũng vậy, đến mười một giờ, chúng tôi đều ra khỏi nhà
một cách đều đặn như thực hiện một nghi lễ tôn giáo. Clousiot
ngồi xuống một cái ghế đá trong công viên nhộn nhịp nhất của
thành phố, Maturette và tôi thay phiên nhau ngồi với cậu ta
trong khi người kia đi dạo phố. Chúng tôi ở đây đă được mười
ngày. Clousiot đi lại không đến nỗi khó khăn lắm nhờ cái que sắt
luồn dưới lớp bột bó chân. Chúng tôi đă biết cách ra cảng bằng
xe điện. Chúng tôi hay ra đấy vào buổi chiều hay buổi tối. Đă có
mấy quán bar ở cảng biết mặt chúng tôi và coi chúng tôi như
khách quen. Những viên cảnh sát trực đều chào chúng tôi, ai nấy
đều biết chúng tôi là ai và ở đâu đến, không bao giờ có ai ám
chỉ bất cứ điều ǵ. Nhưng dần đần chúng tôi nhận thấy rằng trong
các quấn bar biết mặt chúng tôi, họ tính tiền các món ăn thức
uống rẻ hơn so với khách thủy thủ. Mấy cô gái chiếu đăi cũng
vậy. Thường thường khi mấy cô ngồi ở bàn các thủy thủ, các sĩ
quan hay khách đu lịch, họ uống lấy uống để và t́m cách làm cho
khách tiêu xài càng nhiều càng tốt. ở những quán bar có nhảy
đầm, họ không bao giờ chịu nhảy với khách nếu chưa được khách
mời uống mấy cốc. Nhưng với chúng tôi, tất cả các cô đều có thái
độ khác. Họ ngồi chơi với chúng tôi rất lâu mà chẳng chịu uống
ǵ phải năn nỉ lắm họ mới chịu uống một chầu để chúc sức khỏe
chúng tôi. Nếu họ chịu uống th́ đó không phải để nhắp cái ly tư
hon trứ danh của họ mà là uống một cốc bia hay một cốc whisky
anh soda thực sự. Tất cả những điều đó đều làm cho chúng tôi rất
vui ḷng, v́ đó là một cách gián tiếp để nói với chúng tôi rằng
họ biết rơ t́nh cảnh của chúng tôi và đồng cảm với chúng tôi:
Chiếc thuyền đă được sơn lại và lắp thêm mặt đường viền cao mười
phân. Cái trụ đáy đă được củng cố lại. Những đường gân bên trong
ḷng có chỗ nào bị hư hại, chiếc thuyền vẫn tốt nguyên. Cột buồm
đă được thay thế bằng một cái cột mới cao hơn nhưng nhẹ hơn cái
cũ; lá buồm foc và cái buồm chéo bằng bao bố được thay bằng vải
toan tốt màu gạch. ở sở hàng hải, một thiếu tá thuyền trưởng đă
trao cho tôi một cái địa bàn có “hoa hồng gió bốn phương” (họ
gọi là compass) và giảng giải cho tôi biết cách dùng địa đồ để
xác định ước chừng vị trí của thuyền trên biển. Đường đi của
chúng tôi vạch theo hướng tây 1/4 bắc để đến Curacao.
Ông thiếu ta hải quân giới thiệu tôi với một sĩ quan hàng hải
chỉ huy chiếc tàu huấn luyện Tarpon. Ông này hỏi tôi xem thử tôi
có vui ḷng xuống thuyền vào khoảng tám giờ sáng mai và lái
thuyền ra khỏi cảng một chút không. Tôi chẳng hiểu như thế để
làm ǵ nhưng tôi cứ hứa. Sáng hôm sau, tôi và Maturette có mặt ở
sở hàng hải đúng giờ đă hẹn. Một thủy thủ xuống thuyền với chúng
tôi, và tôi cho thuyền ra khỏi cảng dưới một làn gió xuôi. Hai
giờ sau, trong khi chúng tôi đang thử lật buồm để vào cảng rồi
lại ra cảng, th́ thấy một chiến hạm tiến về phía chúng tôi. Trên
boong tàu, toàn bộ thủy thủ đoàn và sĩ quan mặc quân phục trắng
đă xếp hàng chỉnh tề. Họ đi qua gần sát chúng tôi và hô “Urra!”
rồi họ đi ṿng lại một ṿng và hạ cờ hai lần. Đó là một cách
chào trọng thể mà tôi không hiểu ư nghĩa cho lắm. Chúng tôi trở
về phần cảng của sở hàng hải khi chiếc chiến hạm đă đậu ở bến.
Thuyền của chúng tôi được buộc vào kè xây. Người thủy thủ ra
hiệu cho chúng tôi, chúng tôi đi theo anh ta lên tàu. Viên
thuyền trưởng đứng trên cầu quan sát tiếp chúng tôi. Một tiếng
c̣i có chuyển giọng đón chào chúng tôi, và sau khi giới thiệu
chúng tôi và với các sĩ quan, họ đưa chúng tôi đi trước hàng ngũ
các học sinh quân và hạ sĩ quan đang đứng nghiêm. Viên thuyền
trưởng nói với họ vài lời bằng tiếng Anh, rồi họ giải tán. Một
sĩ quan trẻ tuổi giảng giải cho tôi hiểu rằng ông thuyền trưởng
vừa nói với các học sinh quân đang được huấn luyện trên tàu rằng
chúng tôi đáng được các thuỷ thủ khâm phục v́ đă vượt qua một
hành tŕnh dài như vậy trên chiếc thuyền nhỏ bé này, và chúng
tôi sắp thực hiện một hành tŕnh c̣n dài hơn và nguy hiểm hơn
nữa. Chúng tôi cảm ơn viên sĩ quan về cái vinh dự lớn lao đó.
Ông ta tặng chúng tôi ba bộ áo bằng vải tráng nhựa sau này sẽ
rất có ích cho chúng tôi. Đó là những bộ áo không thấm nước màu
đen có một cái fermeture éclair to tướng, có đính thêm mũ chụp
sau cổ.
Hai ngày trước khi lên đường, luật sư Bowen đến thăm chúng tôi
và chuyển lời yêu cầu của viên tổng giám đốc cảnh sát đề nghị
chúng tôi đem theo ba người bị đày biệt xứ vừa bị bắt cách đây
một tuần. Theo lời khai của họ, họ được các bạn họ ghé thuyền
cho đo bộ lên đảo trước khi tiếp tục vượt biển đi Venezuela. Tôi
không muốn làm theo yêu cầu này, nhưng chúng tôi đă được đối xử
một cách quá ư cao thượng để có thể từ chối. Tôi xin gặp họ
trước khi trả lời. Một chiếc xe cảnh sát đến đón tôi. Tôi gặp
qua ông Tổng giám đốc, tức viên sĩ quan đeo lon đă chất vấn
chúng tôi hôm chúng tôi mới đến. Trung sĩ Willy làm phiên dịch.
- Các ông có khoẻ không?
- Cám ơn ông, khỏe cả.
- Chúng tôi đang cần các ông giúp cho một việc.
- Nếu có thể giúp được, chúng tôi rất vui ḷng.
- Ở nhà lao của chúng tôi có ba người Pháp bị đày biệt xứ. Họ đă
lén lút trên đảo mấy tuần và khai rằng đă bị các bạn bỏ lại đây
và đi tiếp. Chúng tôi nghĩ rằng họ đă đánh đắm chiếc thuyền của
họ, nhưng mỗi người đều khai là không biết điều khiển thuyền bè
ǵ cả.
Chúng tôi nghĩ rằng đó là một thủ đoạn để ép chúng tôi phải cấp
thuyền cho họ. Chúng tôi phải t́m cách cho họ đi: nếu không, tôi
sẽ buộc ḷng trao họ cho viên cảnh sát trên chuyến tàu Pháp đầu
tiên ghé qua đây, và đó là một điều rất đáng tiếc.
- Thưa ông tổng giám đốc, tôi sẽ hết sức cố gắng chiều theo yêu
cầu của ông, nhưng tôi muốn nói chuyện với họ đă. Chắc ông cũng
hiểu rằng nhận chở trên thuyền ḿnh ba người lạ là một việc nguy
hiểm.
- Tôi hiểu. Willy, xin ông lệnh đưa ba tù nhân người Pháp ra
sân.
Tôi muốn gặp riêng họ cho nên yêu cầu viên trung sĩ lui ra.
- Các anh bị đày biệt xứ, phải không?
- Không, chúng tôi là tù khổ sai.
- Thế tại sao các anh nói là bị đày biệt xứ?
- Chúng tôi nghĩ rằng họ có cảm t́nh với một người chỉ phạm pháp
vụn vặt hơn là vôi một người đă phạm tội nặng. Chúng tôi đă thấy
rơ rằng nghĩ như thế là lầm. C̣n anh, anh là ai?
- Một phạm nhân khổ sai.
- Chúng tôi không biết anh.
- Tôi thuộc chuyến áp giải sau chót, c̣n anh?
- Chuyến 1929.
- Tôi th́ thuộc chuyến 1927, - người thứ ba nói.
- Đây, ông tổng giám đốc có gọi tôi đến để yêu cầu tôi cho các
anh cùng đi với chúng tôi. Chúng tôi đă ba người rồi ông ta nói
rằng nếu tôi từ chối, trong hoàn cảnh các anh không có người nào
biết đi thuyền buồm, ông ta sẽ phải giao các anh cho chuyến tàu
Pháp đầu tiên ghé qua đây. Các anh thấy thế nào?
- V́ những lư do chỉ liên quan đến chứng tôi, chứng tôi không
muốn vượt biển nữa. Chúng tôi có thể giả vờ ra đi với các anh,
rồi anh sẽ thả chúng tôi xuống ở cuối đảo và sẽ tiếp tục vượt
biển.
- Tôi không thể làm như thế được!
- Tại sao?
- Tại v́ tôi không thể đền đáp những cách xử sự tốt đẹp của họ
bằng một hành động gian dối được.
- Thiết tưởng anh phải dành ưu tiên cho dân khổ sai trước khi
nghĩ đến bọn roastbeef chứ!
- Tại sao?
- V́ anh là dân khổ sai.
- Đúng, nhưng dân khổ sai có lắm thứ khác nhau đến nỗi giữa các
anh và tôi rất có thể c̣n khác nhau hơn là giữa tôi và bọn
roastbeef. Cái đó c̣n tùy ở cách nh́n nhận.
- Vậy là anh để cho họ trả chúng tôi cho nhà chức trách Pháp hay
sao?
- Không, nhưng tôi cũng sẽ không cho các anh xuống trước khi đến
Curacao.
- Tôi tự thấy không đủ can đảm để vượt biển thêm chuyến nữa, một
người trong bọn họ nói.
- Các anh nghe đây, hăy xem chiếc thuyền đi đă. Có lẽ chiếc của
các anh dùng để đến đây quá tồi.
- Được, để xem, - hai người kia nói.
- Tốt. Tôi sẽ yêu cầu ông tổng giám đốc để cho các anh đến xem
thuyền.
Chúng tôi đi ra cảng, có trung sĩ Willy đi theo. Ba người kia có
vẻ tin tưởng hơn sau khi xem chiếc thuyền.
Lại lên đường
Hai ngày sau chúng tôi lên đường. Ba chúng tôi và ba người lạ
mặt. Tôi không hiểu họ làm sao mà biết được, nhưng có đến một tá
những cô gái bán bar đến tiễn đưa chúng tôi, cũng như gia đ́nh
Bowen và ông thống lĩnh đạo quân Cứu thế. Khi thấy một cô gái
bán bar ôm hôn tôi. Margaret cười lớn bảo tôi: “Henri, anh làm
ǵ mà đă đính hôn nhanh thế? Chẳng nghiêm túc chút nào!”.
- Xin chào tất cả. Không, xin vĩnh biệt! Nhưng các bạn phải biết
rằng các bạn đă có một vị trí quan trọng trong ḷng chúng tôi,
và vị trí ấy vĩnh viễn thuộc về các bạn.
Chúng tôi xuất phát lúc bốn giờ chiều: một chiếc tàu kéo kéo
chúng tôi ra khỏi cảng. Mấy đứa chúng tôi không khỏi có người
lau nước mắt. Chúng tôi đă nh́n đến phức cuối tốp người ra tiễn
chúng tôi đang vẫy những chiếc khăn mùi-soa trắng. Sợi dây cáp
nối liền thuyền của chúng tôi với chiếc tàu kéo vừa được tháo ra
th́ tất cả ba cánh buồm của chúng tôi đă hứng gió căng phồng
lên, và chúng tôi lao vào những đợt sóng đầu tiên trong số hàng
triệu những đợt sóng mà chúng tôi sắp phải vượt qua trước khi
đến đích..
Trên thuyền có hai con dao, một con tôi mang, con kia Maturette
giữ. Cây ŕu th́ đặt cạnh Clousiot, cũng như con dao phát rừng.
Chúng tôi biết chắc rằng ba người kia không có ai có vũ khí.
Chúng tôi đă xếp đặt để đừng có lúc nào có hai đứa trong bọn
chúng tôi ngủ dọc đường. Đến lúc mặt trời lặn, chiếc tàu huấn
luyện của hải quân bắt kịp chúng tôi và đi kèm theo chúng tôi
trong nửa tiếng đồng hồ. Sau đó nó kéo cờ tín hiệu từ biệt và bỏ
đi.
- Anh tên ǵ?
- Leblond..
- Chuyến nào? An ǵ?
- Hai mươi năm.
- C̣n anh?
- Cargueret. Chuyến 29, mười lăm năm, tôi người Bratagne.
- Người Bretagne. mà không biết đi thuyền sao?
- Không.
- C̣n tôi tên là Dufils, người Angers. Tôi bị xử chung thân v́
đă nói một câu ngu xuẩn ở phiên ṭa đại h́nh, chứ không th́ tối
đa cũng chỉ đến mười năm. Chuyến 29.
- Câu ǵ thế?
- Số là tôi đă giết vợ tôi bằng cái bàn là. Trong phiên xử, một
viên bội thẩm đă hỏi tôi tại sao lại dùng bàn là đánh vào vợ.
Thật ra tôi cũng chẳng biết tại sao, nhưng tôi lại trả lời tôi
đă giết vợ bằng bàn là v́ vợ tôi hay là sai nếp gấp. Theo ông
trạng sư bào chữa cho tôi th́ chính v́ câu nói ngu xuẩn này mà
họ xử tôi nặng đến thế.
- Các anh ra đi từ đâu?
- Từ một trại khổ sai lâm nghiệp gọi là Cascade, cách
Saint-Laurent tám mươi cây số. Trốn đi chẳng khó ǵ v́ ở đấy tự
do lắm. Chúng tôi có năm người ra đi với nhau dễ lắm.
- Sao lại năm người? Thế hai người kia đâu?
Một phút im lặng khó chịu. Clousiot nói:
- Này anh kia, ở đây toàn đàn ông với nhau cả, mà đă cùng thuyền
với nhau th́ chúng tôi phải biết. Nói đi!
- Tôi sẽ nói hết cho các anh nghe, - người Bretagne nói - Quả
thật khi ra đi chúng tôi có năm người, nhưng hai người quê ở
Cannes hiện không có ở đây nói rằng họ những là dân thuyền chài
miền duyên hải. Họ không chi một xu nào cho chuyến vượt ngục,
nói là công lái thuyền của họ c̣n đáng giá hơn tiền bạc. Nhưng
giữa đường chúng tôi mới thấy là cả hai đứa đều không biết một
tí ǵ thuyền bè hết. Chúng tôi suưt chết đuối đến hai chục lần.
Chúng tôi phải men theo bờ biển mà đi, lúc đầu là xứ Guyan thuộc
Hà Lan, rồi đến Guyane thuộc Anh, rồi mới đến Trinidad. ở khoảng
giữa Georetown và Trinidad tôi đă giết chết cái thằng nói rằng
nó có thể làm thuyền trưởng cho chuyến vượt ngục. Thằng ấy đáng
chết, v́ để khỏi mất tiền nó đă đánh lừa mọi người về năng lực
hàng hải của nó. C̣n thằng kia th́ sợ bị chúng tôi giết nốt cho
nên một hôm mưa băo hắn đă tự ư bỏ tay lái nhảy xuống biển.
Chúng tôi đành xoay xở hú họa với nhau trên thuyền. Đă mấy lần
chúng tôi để sóng tràn vào thuyền, chúng tôi lại để thuyền đâm
vào đá may mà thoát chết. Tôi xin lấy đanh dự một gă đàn ông mà
cam đoan rằng tất cả những điều tôi vừa nói đều hoàn toàn đúng
sự thật.
- Đúng đấy, - hai người lia nói. - Sự việc đă diễn ra đúng như
thế, và cả ba đứa chúng tôi đều nhất trí giết thằng ấy. Anh nghĩ
thế nào về chuyện này hả Pappilon?
- Tôi không có vị thế để xét xử.
- Nhưng nếu ở vào địa vị của chúng tôi th́ anh sẽ xử sự như thế
nào? - Người quê ở Bretagne hỏi gặng.
- Cái này c̣n phải suy nghĩ đă. Muốn xét đoán một cách công
bằng, phải sống qua sự việc lúc đó xảy ra, nếu không th́ không
thể biết đâu là sự thật.
Clousiot nói:
- Tôi th́ tôi cũng giết, v́ đó là một lời nói dối có thể phải
trả giá bằng sinh mạng của cả bọn.
- Thôi được, đừng nói chuyện ấy nữa. Nhưng tôi có cảm giác là
các anh đă bị một phen hoảng sợ đến mức bây giờ vẫn c̣n sợ, và
các anh chịu lên thuyền với chúng tôi cũng là vạn bất đắc dĩ,
phải không?
- Đúng quá! - Họ đồng thanh trả lời. - Thế th́ ở đây cấm không
được hoảng hốt, dù có chuyện ǵ xảy ra cũng thế. Trong bất cứ
trường hợp nào, cấm không ai để lộ ra ngoài là ḿnh sợ. Ai sợ
th́ câm cái mồm đi. Thuyền này rất tốt, nó đă được thử thách.
Bây giờ thuyền chở nặng hơn trước, nhưng nó lại cao hơn trước
những mười phân. Điều đó thừa sức bù lại trọng tải.
Chúng tôi hút thuốc, uống cà phê. Trước khi đi chúng tôi đă ăn
no cho nên quyết định là đến sáng mai mới ăn bữa nữa.
Hôm ấy là ngày mồng chín tháng chạp năm 1933, cuộc vượt ngục đă
bắt đầu trong gian pḥng dành cho phạm nhân nguy hiểm ở bệnh
viện của trại Saint-Laurent cách đây bốn mươi hai ngày. Người
cho chúng tôi biết điều đó là Clousiot, kế toán viên của nhóm.
So với lúc khởi hành, tôi có thêm được ba vật quư: một cái đồng
hồ bằng thép không thấm nước mua ở Trinidad, một cái địa bàn thứ
thiệt được thiết bị treo hai chiều, rất chính xác, có cả “hoa
hồng gió bốn phương”, và một đôi kính đen bằng mi-ca. Clousiot
và Maturette th́ mỗi người được một cái mũ lưỡi trai.
Ba ngày trôi qua b́nh yên, không có chuyện ǵ xảy ra nếu không
kể hai lần thuyền gặp phải những đàn cá heo. Nó đă làm cho chúng
tôi toát mồ hôi lạnh, v́ có một tốp tám con bày tṛ đùa nghịch
với chiếc thuyền. Thoạt tiên chúng luồn dưới đáy thuyền theo
chiều dọc và nhô lên ngay trước mũi thuyền. Nhiều khi chúng tôi
đâm thẳng vào lưng nó. Nhưng làm cho chúng tôi hoảng hơn cả là
tṛ chơi sau đây: ba con cá heo xếp thành h́nh tam giác, một con
ở phía trước và hai con song song ở phía sau, đâm thẳng vào
chúng tôi với một tốc độ khủng khiếp. Vừa đúng lúc sắp đâm vào
thuyền, chúng đột ngột lặn xuống, rồi ngoi lên bên phải và bên
trái thuyền. Mặc dầu gió rất mạnh và chúng tôi dong hết buồm
phóng như bay, chúng lao c̣n nhanh hơn nữa. Tṛ chơi này kéo dài
hàng giờ, chúng tôi hoa cả mắt, đến phát cuồng lên được. Chúng
chỉ tính hơi sai một chút là thuyền chúng tôi lật ngay. Ba người
khách của tôi không nói ǵ, nhưng mặt mày nhợt nhạt trông đến
thảm.
Giữa đêm thứ tư, một trận băo khủng khiếp nổi lên. Thật là kinh
hồn táng đởm. Tệ nhất là các đợt sóng không hề đi theo một
hướng. Nhiều khi chúng va vào nhau. Đợt th́ dài, đợt th́ ngắn,
chẳng c̣n hiểu ra làm sao được nữa. Không ai thốt ra một tiếng
nào. Chỉ có Clousiot thỉnh thoảng lại quát lên: “Nào, ông lái!
Đợt này ông cũng sẽ đánh vỡ mặt nó ra như các đợt khác thôi?”
Hay là: “Coi chừng có một đợt sóng từ phía sau đấy?” Có điều lạ
là nhiều khi có những đợt sóng đến chênh chếch, gầm lên dữ dội,
trên đỉnh đầy bọt trắng. Được tôi ước lượng tốc độ của nó và
đoán trước góc tiếp xúc. Thế mà, đùng một cái, chẳng ra cái
lô-gíc ǵ cả lại có một đợt sóng khác xô ngay vào đít thuyền lúc
bây giờ đang dựng đứng lên. Nhiều lần những đợt sóng như thế đă
chồm lên vai tôi, và dĩ nhiên một phần lớn nước ập vào thuyền.
Cả năm người cầm xoong, lon, hộp, tát nước liền tay. Tuy vậy,
chưa có lần nào nước ngập ḷng thuyền đến hơn một phần tư, cho
nên chúng tôi chưa bao giờ có nguy cơ ch́m nghỉm. Phiên hội chợ
kinh hăi này kéo dài suốt nửa đêm, gần bảy tiếng đồng hồ. V́
trời mưa, măi đến tám giờ mới thấy bóng mặt trời.
Băo đă yên, ánh mặt trời mới tinh khôi của buổi sáng được mọi
người chào đón một cách hân hoan, dĩ nhiên kể cả tôi. Trước hết
phải uống cà-phê đă. Một chầu cà-phê sữa Nestlé sôi sùng sục,
mấy tấm bánh nướng của thủy thủ, cứng như sắt, nhưng nhúng vào
cà-phê th́ lại ngon tuyệt. Cuộc vật lộn với trận băo đêm qua đă
làm cho chúng tôi kiệt sức hoàn toàn, và tuy gió hăy c̣n mạnh,
sóng hăy c̣n cao và c̣n khá vô kỷ luật, tôi yêu cầu Maturette
cầm lái thay tôi một lúc. Tôi muốn ngủ. Tôi mới nằm xuống chưa
đầy mười phút th́ Maturette loay hoay thế nào để cho một đợt
sóng đánh ngang thuyền và nước tràn vào ngập đến ba phần tư. Đồ
đạc nổi lênh bênh trong ḷng thuyền: các thứ lon hộp, cái ḷ dầu
hỏa, mấy cái chăn... Tôi đứng dậy đi ra phía lái, nước ngập
ngang bụng, và vừa có đủ th́ giờ cầm lấy tay lái để tránh một
đợt sóng vỡ đang đâm thẳng vào chúng tôi. Tôi bẻ lái giơ đít
thuyền ra cho đợt sóng, khiến cho nó không tràn vào thuyền được
mà chỉ đẩy chúng tôi về phía trước đến mười mét.
Mọi người đều tát nước. Cái nồi lớn do Maturette sử dụng tát mỗi
lần được mười lăm lít. Không ai bận tâm vớt vát những đồ đạc có
thể trôi ra ngoài, ai nấy đều có một ư nghĩ cố định duy nhất:
tát, tát cho thật nhanh chỗ nước đang làm cho chiến thuyền trở
nên nặng nề, khó ḷng có thể chống chọi lại các đợt sóng. Tôi
phải công nhận rằng ba người mới đă xử sự không đến nỗi tồi như
anh chàng người Bretagne, khi thấy cái hộp anh ta đang dùng để
tát nước bị cuốn đi, đă tự ḿnh quyết định không do dự đẩy cái
thùng đựng nước ngọt ra khỏi thuyền cho đỡ nặng. Hai giờ sau,
mọi thứ đă khô ráo, nhưng chúng tôi đă mất mấy cái chăn, cái bếp
dầu, cái ḷ, mấy bị than, cái bi-đông xăng và cái thùng nước
ngọt - tài sản cuối cùng này chúng tôi đă mất đi một cách tự
nguyện.
Đến giữa trưa, tôi định thay quần th́ mới nhận thấy là cái va-li
nhỏ của tôi cũng đă bị sóng cuốn đi từ bao giờ, cùng với hai ái
áo vải tráng nhựa. ở đáy thuyền, chúng tôi t́m thấy hai chai
rượu rhum. Bao nhiêu thuốc lá của chúng tôi đều bị mất hay bị
ướt, cả cái hộp sắt tây đựng lá thuốc cũng không c̣n. Tôi nói:
- Các cậu ạ trước hết phải uống một chầu rhum, liều lượng kha
khá vào, rồi ta mở cái thùng đừng thức ăn dự trữ xem thử c̣n có
những ǵ. à, c̣n mấy hộp nước quả, tốt. Ta sẽ chia khẩu phần để
uống. Lại có những hộp bánh bích quy, các bạn ăn cho hết một hộp
đi và dùng cái hộp không làm ḷ. Ta sẽ để mấy cái hộp sắt tây ở
đáy thuyền để lót bếp, bên trên ta sẽ đốt lửa bằng ván thùng.
Tất cả chúng ta đều đă trải qua một cơn kinh hoàng, nhưng bây
giờ th́ hiểm nghèo đă qua. Mỗi chúng ta phải trấn tĩnh lại để
sẵn sàng đối phó với t́nh h́nh. Kể từ bây giờ trở đi, không ai
được nói: tôi khát nước; không ai được nói: tôi đói; và không ai
được nói: tôi thèm thuốc. Đồng ư không?
- Đồng ư, Papi ạ.
Mỗi người đă xử sự đúng mức, và Trời đă ra lệnh cho gió ngừng
thổi để cho chúng tôi nấu một nồi xúp bằng thịt ḅ khô. Với một
cà-mèn đầy xúp bỏ thêm bánh nướng khô, chúng tôi đă lót được dạ
đày bằng một lớp chất đỉnh dưỡng vừa ngon vừa ấm, đủ để chờ đến
ngày mai. Lại pha thêm một chút nước chè xanh cho mỗi người.
Trong cái thùng c̣n nguyên vẹn, chúng tôi đă t́m thấy một tút
thuốc lá. Cả thảy có hai mươi bốn gói nhỏ, mỗi gối đựng tám
điếu. Năm người kia quyết định là chỉ có một ḿnh tôi được hút,
để cho tỉnh táo mà lái thuyền. Và để đừng ai ghen tị, Clousiot
khước từ công việc châm dùm thuốc lá cho tôi; mỗi khi tôi cần
hút cậu ta sẽ châm lửa thôi. Nhờ mọi người đều hiểu t́nh h́nh và
hiểu nhau như vậy, giữa chúng tôi không xảy ra một sư cố nào khó
chịu.
Chúng tôi ra đi đă sáu hôm rồi mà tôi chưa ngủ được một giấc
nào. Cũng may tối nay mặt biển phẳng lặng như tờ, tôi liền ngủ
như chết gần năm tiếng đồng hồ. Đến mười giờ tối th́ tôi tỉnh
dậy, Biển vẫn lặng. Các bạn đă ăn tối trong khi tôi ngủ, để đành
lại cho tôi một thứ cháo polenta quấy rất khéo bằng bột ngô, dĩ
nhiên là bột ngô đóng hộp, và mấy thỏi xúc xích hong khói. Ngon
tuyệt. Nước trà th́ đă nguội, nhưng cũng không sao. Tôi vừa hút
thuốc vừa đợi cho gió vui ḷng nổi lên.
Đêm hôm ấy trời chi chít những sao, đẹp kỳ diệu. Sao Bắc cực
sáng hết cỡ và chỉ có cḥm sao Thập tự phương Nam ăn đứt nó về
độ sáng. Có thể nh́n rết rơ hai cḥm sao Đại hùng tinh và Tiểu
hùng tinh. Trời không gợn một chút mây, và trăng rằm đă lên cao
trên bầu trời điểm sao. Anh chàng người Bretagne run cầm cập.
Anh ta đă đánh mất cái áo vét, chỉ c̣n sơ- mi. Tôi cho anh ta
mượn cái áo tráng nhựa. Chúng tôi đang bước sang ngày thứ bảy.
- Các bạn ạ, chắc hẳn chúng ta không c̣n cách Curacao bao nhiêu.
Tôi có cảm giác là tôi đă cho thuyền đi hơi quá lên phía Bắc, từ
giờ tôi sẽ chuyển sang chính tây v́ ta không được hụt quần đảo
Antilles thuộc Hà Lan. Nếu không ghé được vào đấy th́ rất nguy
v́ bây giờ ta không c̣n nước ngọt và bao nhiêu lương thực đều đă
mất hết trừ số đồ hộp dự trữ.
- Chúng tôi tin anh, Papillon ạ, - anh chàng người Bretagne nói.
- Đúng, chúng tôi rất tin anh, - mấy người khác đồng thanh họa
theo. Anh thấy thế nào là đúng th́ cứ thế mà làm.
- Cám ơn. H́nh như những điều tôi vừa nói là giải pháp tốt nhất
Suốt đêm hôm ấy đợi măi chẳng thấy chút gió nào, măi đến bốn giờ
sáng mới có một ngọn gió vừa phải cho phép chúng tôi dong buồm.
Ngọn gió này càng về sáng càng mạnh lên, thổi suốt ba mươi sáu
giờ với một cường độ đủ mạnh cho thuyền đi nhanh, nhưng sóng th́
lại nhỏ đến nỗi không vỗ vào mũi thuyền.
Curacao
Hải âu. Thoạt tiên chỉ nghe tiếng chim kêu, v́ trời c̣n tối, rồi
sau đó trông thấy chúng lượn ṿng xung quanh thuyền. Một con đậu
lên cột buồm, rồi lại cất cánh bay lên, rồi lại đậu vào cột
buồm. Chúng bay lượn như thế trong hơn ba tiếng đồng hồ, đến khi
trời sáng và một vầng thái dương rạng rỡ mọc lên, chúng vẫn c̣n
bay xung quanh chúng tôi. ở chân trời không hề có một dấu hiệu
nào cho biết là đă gần đến đất liền. Vậy th́ mấy con hải âu ấy
từ đâu ra? Suốt ngày hôm ấy chúng tôi đưa mắt nh́n kỹ khắp chân
trời mà vẫn không thấy ǵ. Trăng rằm mọc lên đúng vào lúc mặt
trời lặn, và vầng trăng nhiệt đới ấy sáng đến nỗi ánh phản chiếu
trên mặt biển làm cho tôi lóa mắt. Tôi không c̣n cặp kính đen
nữa rồi, nó đă đi theo ngọn sóng chết tiệt kia cùng với tất cả
mấy cái mũ lưỡi trai. Vào khoảng tám giờ tối chúng tôi nh́n thấy
ở chân trời, rất xa, một đường thẳng đen đen hiện ra trong ánh
trăng.
- Kia là đất liền, chắc chắn như vậy? - Tôi nói trước tiên.
- Phải rồi, đúng.
Mọi người đều nhất trí nói rằng ḿnh nh́n thấy một đường thẩm
chắc phải là một dải đất. Suốt thời gian c̣n lại của đêm ấy, tôi
giữ mũi thuyền hướng vào cái vệt đen đang rơ dần. Chúng tôi đă
sắp đến. Gió khá lớn dưới bầu trời không gợn mây, và trên mặt
biển sóng khá cao nhưng dài và đều đặn: chúng tôi băng băng tiến
về phía cái vật đen. Nó không nhô lên cao lắm trên mặt nước, và
không có một dấu hiệu ǵ cho biết rằng bờ biển có vách đá dốc
đứng, có nhiều mơm đá rời, hay làm thành băi cát. Mặt trăng đang
lặn ở phía sau dải đất ấy, hắt thành một cái bóng khiến cho
chúng tôi không thể nh́n thấy ǵ ngoài một dải anh sáng sát mặt
nước lúc đầu th́ bằng phẳng, rồi sau đó găy khúc. Tôi cứ cho
thuyền tiến lại gân, rồi cách khoảng một cây số tôi bỏ neo. Gió
thổi mạnh, chiếc thuyền quay tại chỗ và đối diện với đợt sóng:
Mỗi lần sóng đi qua, thuyên đều đón sóng ở tư thế gần như thẳng
đứng. Chúng tôi bị nhồi mạnh, rất khó chịu. Dĩ nhiên mấy lá buồm
đều được hạ xuống và gấp lại. Lẽ ra chúng tôi có thể đợi đến
sáng trong cái tư thế khó chịu nhưng an toàn này, song bỗng
nhiên neo nhả ra. Thật là không may. Muốn điều khiển một con
thuyền, nó phải đi, chứ nếu không th́ không sao lái nó được.
Chúng tôi căng buồm foc và buồm chéo nhưng, lạ thay, neo không
thấy ăn ngay. Các bạn tôi kéo dây neo lên th́ thấy mỏ neo đă
mất: Mặc dầu tôi ra sức lái cho thuyền đi ngược trở lại, sóng
vẫn xô chúng tôi về phía mỏm đá một cách rất nguy hiểm. Tôi bèn
quyết định kéo buồm lớn lên và đi thẳng vào bờ một cách chủ
động. Cách lái thuyền của tôi thành công đến nỗi chiếc thuyền
lách vào giữa hai tảng đá lớn và ră hẳn ra. Không có ai kêu lên
“chết rồi”, nhưng khi đợt sóng tiếp theo xô tới mọi người đều
lao vào sóng để cho nó xô lên bờ. Chúng tôi bi sóng cuốn lăn
lông lốc, bị nó quật vào đá, nhưng lên đến bờ chúng tôi đều vẫn
sống. Chỉ có một ḿnh Clousiot v́ chân bó bột nên bị sóng hành
hạ nhiều hơn các bạn khác. Tay, mặt cậu ta đều đẫm máu, khắp
người sây sát. C̣n chúng tôi th́ bị xước vài chỗ ở đầu gối, ở
bàn tay và ở mắt cá. Riêng tôi bị chảy máu ở một bên tai v́ va
mạnh phải một tảng đá.
Dù sao th́ chúng tôi cũng c̣n sống cả, không c̣n nguy cơ bị sóng
cuốn đi và được đứng trên đất liền khô ráo: Khi trời sáng, chúng
tôi vớt được một chiếc áo tráng nhựa, và tôi quay trở lại chiếc
thuyền đang bắt đầu tan ra từng mảnh. Tôi tháo được cái địa bàn
đóng đinh vào chỗ ngồi lái. ở chỗ chúng tôi đổ bộ và ở xung
quanh không một bóng người. Chúng tôi nh́n về phía đêm qua có
những đốm sáng khó hiểu: đó là một dăy đèn dùng để báo hiệu cho
những người thuyền chài biết là chỗ này rất nguy hiểm - như về
sau chúng tôi được biết. Chúng tôi đi bộ vào sâu trong vùng đất
liền. Đâu đâu cũng toàn xương rồng, những cây xương rồng rất
lớn, với lại những con lừa. Chúng tôi đi đến một cái giếng,
người mệt lă ra, v́ cứ phải thay phiên nhau từng cặp một bắt
chéo tay nhau làm thành một thứ ghế để khiêng Clousiot. Quanh
giếng rải rác những cái xác lừa và xác dê khô đét. Cái giếng đă
cạn sạch, mấy cánh quạt trước kia dùng để quay cái trục kéo nước
dây để múc nước lên bây giờ quay không. Không có lấy một bóng
người, chỉ toàn lừa và dê.
Chúng tôi đi đến một ngôi nhà nhỏ, các cửa đều mở toang như mời
chúng tôi vào. Chúng tôi gọi to: “Có ai ở nhà không? Có ai ở nhà
không?” Chẳng có ai trả lời. Trên ḷ sưởi có một cái túi vải,
miệng túi buộc chặt bằng một sợi dây. Tôi tháo dây mở túi ra.
Cái dây bỗng đứt: cái túi đựng toàn tiền florins - tiền Hà Lan.
Vậy chúng tôi đang ở trên lănh thổ Hà Lan: Bonaire, Curacao hay
là Aruba ǵ đấy. Chúng tôi buộc cái túi lại y nguyên, t́m quanh
một lúc th́ thấy có nước uống, bèn thay phiên nhau múc nước bằng
một cái vá uống mỗi người một ít. Trong nhà không có ai, xung
quanh cũng chẳng có ai. Chúng tôi lại ra đường, đi rất chậm v́
có Clousiot.
Đang đi th́ một chiếc xe Ford cũ kỹ chặn chúng tôi lại.
- Các ông là người Pháp à?
- Thưa ông vâng.
- Mời các ông lên xe.
Chúng tôi để Clousiot nằm lên đùi ba người ngồi phía sau. Tôi và
Maturette ngồi bên cạnh người lái xe.
- Các ông bị đắm thuyền à?
- Vâng.
- Có ai bị chết đuối không?
Không.
- Các ông từ đâu đến?
- Từ Trinidad.
C̣n trước khi đến Trinidad?
- Từ Guyane thuộc Pháp.
- Khổ sai hay biệt xứ?
- Khổ sai.
Tôi là bác sĩ Naal, chủ nhân khoảnh đất này.
Đây là một bán đảo dính liền với Curacao. Bán đảo này có biệt
hiệu là đảo lừa. Lừa và dê sống ở đây bằng cách ăn lá xương rồng
có gai dài. Những cái gai này được dân gọi tên là “các tiểu thư
Curacao”. Tôi nói:
- Cách đặt tên này không lấy ǵ làm vinh dự cho các tiểu thư
thậtc ở Curacao.
Ông bác sĩ, một người rất to béo, cười hô hố. Chiếc Ford thở ́
ạch, nghe có tiếng kḥ khè như tiếng thở của người bị bệnh
suyễn, tự dưng đứng lại. Tôi chỉ mấy bầy lừa nói:
- Nếu xe không c̣n sức nữa th́ bắt lừa kéo cũng dễ.
- Tôi đă có sẵn một bộ đồ để thắng lừa trong thùng xe, nhưng vấn
đề là ở chỗ làm sao bắt được hai con mà thắng vào xe. Cái này
th́ chẳng dễ ǵ đâu.
Ông bác sĩ to béo mở ca-pô ra và thấy ngay rằng v́ bị lắc mạnh,
một sợi dây điện bắt vào bougie đă bị tuột ra. Trước khi lên xe
ông ta nh́n bốn phía có vẻ lo lắng. Xe lại mở máy, và sau khi đi
qua nhiều chặng đường gồ ghề khúc khuỷu, chúng tôi lại ra đường
cái. Vừa đi được một quăng th́ gặp một cây sào chắn sơn trắng. ở
đấy có một ngôi nhà nhỏ cũng màu trắng. Ông bác sĩ dùng tiếng Hà
Lan nói với một người bản xứ màu da không đen lắm, ăn mặc sạch
sẽ. Chốc chốc người này lại trả lời “Ya, master, va master”. Sau
đó ông ta lại quay sang chúng tôi nói: “Tôi vừa ra lệnh cho
người này tiếp các ông và cho các ông uống nước nếu các ông
khát, cho đến khi tôi quay lại. Xin các ông xuống xe cho”. Chúng
tôi xuống xe và chọn nơi có bóng râm ngồi giữa cỏ. Chiếc xe Ford
́ ạch lăn bánh. Nó vừa đi được năm mươi thước th́ người da đen
nói với chúng tôi bằng tiếng papiamento (một thứ thổ ngữ pha
trộn của vùng đảo Antilles dùng những từ Anh, Hà Lan, Pháp và
Tây Ban Nha kết hợp lại) rằng ông chủ của anh ta là bác sĩ Naal
và đi gọi cảnh sát v́ ông ta rất sợ chúng tôi, ông ta đă dặn là
phải pḥng thân v́ chúng tôi là những tên cướp vượt ngục. Thế
rồi cái anh lai da đen khốn khổ kia chẳng c̣n biết làm cách ǵ
để cho chúng tôi vui ḷng nữa. Anh ta pha một b́nh cà phê rất
loăng, như với cái khí trời oi bức này uống lại thấy dễ chịu
hơn. Chúng tôi chờ hơn một tiếng. đồng hồ th́ thấy một chiếc xe
vận tải chở sáu viên cảnh sát mặc theo kiểu Đức và một chiếc xe
con mui vải, người lái xe mặc quân phục cảnh sát, phía sau có ba
người đàn ông ngồi, trong đó có bác sĩ Naal. Họ xuống xe, và một
trong ba người đàn ông, người thấp bé nhất, diện mạo trông như
một ông cha xứ cạo mặt quá kỹ, nói với chúng tôi:
- Tôi là trưởng pḥng an ninh của đảo Curacao. V́ trách nhiệm
của chức vụ, tôi buộc ḷng phải cho bắt các ông. Từ khi bước
chân lên đảo các ông đă làm ǵ điều ǵ phạm pháp chưa, và nếu
đă, th́ đó là điều ǵ, ai hay những ai trong số các ông đă làm
điều đó?
- Thưa ông, chúng tôi là tù khổ sai vượt ngục. Chúng tôi từ
Trinidad đến và thuyền của chúng tôi vừa bị xông xô vào đá vỡ
cách đây vài tiếng đồng hồ. Tôi là người đứng đầu nhóm, và tôi
có thể khẳng định rằng không có ai trong chúng tôi đă làm một
điều ǵ phạm pháp, dù chỉ là phạm pháp rất nhẹ.
Ông trưởng ban an ninh quay về phía ông bác sĩ Naal nói ǵ bằng
tiếng Hà Lan một lát. Hai người đang bàn căi th́ có một người đi
xe đạp đến. Hắn ta nói rất nhanh và rất ồn ào, khi th́ nói với
bác sĩ Naal, khi th́ nói với ông trưởng pḥng an ninh.
- Ông Naal, tại sao ông lại nói với người kia rằng chúng tôi là
kẻ trộm?
- Người này (ông ta chỉ người vừa đi xe đạp đến) đă báo cho tôi
biết từ trước khi tôi gặp các ông rằng hồi năy hắn núp sau một
bụi xương rồng theo dơi các ông, đă trông thấy các ông vào trong
nhà rồi lại ra. Người này là người làm thuê cho tôi, chuyên
trông nôm mấy con lừa.
Thế ra v́ chúng tôi đi vào nhà cho nên chúng tôi là kẻ trộm sao?
Thưa ông, những điều ông nói thật là ngu xuẩn. Chúng tôi chỉ
uống một ít nước mà ông gọi là trộm cướp?
- Thế c̣n cái túi đựng tiền th́ sao?
- Cái túi th́ quả t́nh tôi có mở ra, lại c̣n làm đứt cái dây
buộc nữa. Ngoài ra tôi tuyệt nhiên không làm ǵ khác hơn là nh́n
xem thử đó là thứ tiền ǵ để cho biết ḿnh đang ở đâu. Sau đó
cẩn thận để túi tiền y nguyên ở chỗ cũ, trên ḷ sưởi.
Ông trưởng pḥng an ninh nh́n thẳng vào mắt tôi rồi đột ngột
quay sang người đi xe đạp nói một thôi, giọng rất nghiêm khắc.
Bác sĩ Naal làm một cử chỉ như định nói điều ǵ. Ông trưởng
pḥng an ninh lập tức ngăn lại một cách dứt khoát, theo kiểu
Đức. Ông ta bắt người kia lên ngồi bên cạnh viên cảnh sát lái xe
rồi cùng lên xe với hai tên cảnh sát khác và bỏ đi. Naal và
người cùng đến vôi ông ta trở vào với chúng tôi ông ta nói:
Tôi phải nói cho các ông rơ rằng người đó nói với tôi là cái túi
tiền đă biến đâu mất. Trước khi cho khám các ông, ông trưởng
pḥng đă hỏi cung người đó, v́ nghi ngờ là hắn nói dối. Nếu các
ông vô tội, tôi rất lấy làm tiếc về sự việc vừa qua, nhưng đó
không phải lỗi của tôi.
Không đầy mười lăm phút sau xe của ông trưởng pḥng an ninh trở
lại, và ông ta nói với tôi. Ông đă nói đúng sự thật, người kia
là một kẻ nói dối khốn nạn. Hắn sẽ bị trừng trị v́ đă có ư định
làm hại các ông: trong t́nh cảnh của các ông mà bị buộc tội như
vậy th́ sẽ bị trừng trị hết sức nặng.
Trong khi đó người kia được đưa lên thùng xe tải, năm người
trong chúng tôi cũng được đưa lên đấy. Tôi toan lên theo th́ ông
trưởng pḥng an ninh giữ tôi lại và nói: “Ông ngồi lên xe tôi,
bên cạnh người lái xe”.
Chiếc xe này đi trước chiếc xe tải, và chẳng bao lâu nh́n lại
không c̣n thấy nó đâu nữa. Xe lăn trên những đoạn đường rải nhựa
rất phẳng, rồi chúng tôi vào thành phố: nhà cửa ở đây đều xây
theo kiểu Hà Lan. Mọi thứ đều sạch sẽ tinh tươm, và đa số người
qua đường đều đi xe đạp: hàng trăm người đi đi lại lại trong
thành phố trên hai bánh xe như vậy. Chúng tôi vào đồn cảnh sát.
Từ một văn pḥng lớn trong đó có nhiều viên sĩ quan cảnh sát mặt
toàn đồ trắng, mỗi người có một bàn viết riêng, chúng tôi đi
sang một pḥng khác có máy điều ḥa không khí. Trong pḥng rất
mát. Một người cao lớn lực lưỡng có mái tóc vàng, trạc bốn mươi
tuổi, đang ngồi trên một chiếc ghế bành. Ông ta đứng dậy và nói
bằng tiếng Hà Lan một lúc. Sau khi trao đổi mấy câu với ông này,
ông trưởng pḥng an ninh nói bằng tiếng Pháp:
- Tôi xin giới thiệu với các ông chỉ huy trưởng cảnh sát
Curacao. Thưa ông chỉ huy trường, người này là một người Pháp
đứng đầu cái nhóm sáu người mà chúng tôi vừa bắt.
- Cám ơn ông trưởng pḥng. Tôi rất hắn hạnh được chào đón ông
đến Curacao với tư cách người bị đắm thuyền. Tên ông là ǵ?
- Henri.
- Vậy thưa ông Henri, ông đă phải trải qua những giờ phút rất
khó chịu v́ chuyện cái túi tiền, nhưng sự cố này cũng rất có lợi
cho ông v́ nó chứng minh một cách chắc chắn rằng ông là một
người lương thiện. Tôi sẽ cắt cho ông một gian pḥng sáng sủa có
giường nằm để ông nghỉ ngơi. Trường hợp của ông sẽ được đưa lên
cho quan thống đốc xét duyệt, và ngài sẽ có những chỉ thị thích
hợp. Ông trưởng pḥng an ninh hoặc là bản thân tôi sẽ bênh vực
ông trước mặt ngài.
Ông ta bắt tay tôi, và chúng tôi đi ra ngoài. Ra đến sân, bác sĩ
Naal xin lỗi tôi và hứa sẽ nói hộ cho chúng tôi. Hai giờ sau, cả
sáu anh em chúng tôi bị giam vào một căn pḥng rất lớn h́nh chữ
nhật, hai bên có đặt khoảng mười hai cái giường ở giữa có một
cái bàn gỗ dài và mấy chiếc ghế dài. Chúng tôi đưa mấy tờ
dollars Trinidad qua khung cửa sổ có chấn song cho một viên cảnh
sát, nhờ hắn mua thuốc lá, giấy quấn thuốc và diêm. Hắn không
chịu cầm tiền và trả lời những ǵ chúng tôi chẳng hiểu.
- Cái tên cảnh sát màu gỗ mun này có vẻ quy lách lắm, Clousiot
nói. - Chưa có cách ǵ kiếm thuốc mà hút được
Tôi ra gơ cửa th́ thấy cửa mở ngay. Một người nhỏ bé, chắc là
dân bản xứ, mặc một bộ đồ sám kiểu áo tù, có đính một con số
trước ngực để cho khỏi nhầm, nói với chúng tôi:
- Tiền Cigarettes?
- Không. Tabac, diêm quẹt và giấy.
Mấy phút sau hắn trở vào với đủ ba thứ đó, và thêm vào đấy c̣n
có một cái hũ lớn bốc hơi, đựng sô-cô-la hay ca-cao. Mỗi người
chúng tôi uống một bát (người tù đă đem đủ sáu cái bát lớn đến).
Đến quá trưa, họ đến gọi tôi. Tôi trở lại văn pḥng ông chỉ huy
trưởng cảnh sát.
Quan thống đốc đă ra lệnh cho tôi để các ông tự do trong sân nhà
tù. Xin ông nói với các bạn ông đừng t́m cách trốn, v́ làm như
vậy sẽ đưa tới những hậu quả nghiêm trọng đối với mọi người. Với
tư cách là thuyền trưởng, riêng ông có thể ra phố hai giờ một
buổi sáng - từ mười đến mười hai giờ - và mỗi buổi chiều từ ba
giờ đến năm giờ. Ông có tiền không?
- Có Tiền Anh, và tiền Pháp.
- Một viên cảnh sát mặc thường phục sẽ cùng đi với ông, nhưng
ông muốn đi đâu cứ đi tự do.
- Chúng tôi sẽ được xử lư như thế nào?
- Có lẽ chúng tôi sẽ t́m cách gửi các ông từng người một lên
những chiếc tàu chở dầu thuộc nhiều nước khác nhau. Curacao có
một nhà máy lọc dầu thuộc loại lớn nhất thế giới, chuyên xử lư
dầu mỏ của Venezuela. Mỗi ngày ở đây có từ hai mươi đến hai mươi
lăm tàu chở dầu thuộc đủ quốc tịch ra vào. Đó sẽ là giải pháp mà
các ông mơ ước, v́ các ông sẽ đến được những nước mà các ông
chọn, không gặp phải một trở ngại ǵ.
Chẳng hạn như những nước nào? Panama, Costa Rica, Guatemala,
Nicaragua, Mexico, Cananda, Cuba, Hoa Kỳ và các nước thuộc Anh?
- Không được, Châu Âu cũng không được. Các ông cứ yên tâm, cứ
tin tưởng vào chúng tôi, để cho chúng tôi t́m cách giúp các ông
bắt đầu một cuộc đời mới.
- Cám ơn ông chỉ huy trường.
Tôi kể lại tất cả những điều đó một cách thật trung thành cho
các bạn tôi nghe. Clousiot, người đa nghi nhất trong bọn, nói
với tôi:
- ư cậu thế nào hở Papi?
- Tôi chưa biết, tôi e rằng đây là một cái mẹo cốt để chúng ḿnh
chịu ngồi yên, không vượt ngục.
- Tôi cũng e rằng cậu có lư. - Clousiot nói.
Anh chàng người Bretagne th́ lại tin vào cái kế hoạch tuyệt vời
này. Anh chàng “chuyên sử dụng bàn là” hớn hở nói:
- Thôi thế là không c̣n phải ngồi thuyền nữa, không phải trôi
dạt phiêu lưu nữa, lần này th́ chắc chắn là an toàn. Cứ việc lên
một chiếc tàu chở dầu lớn, mỗi người đến một nước nào đó và
chính thức nhập tịch.
Leroux cũng nghĩ như thế.
- Thế c̣n cậu th́ sao hở Maturette? - Tôi hỏi.
Và cậu bé con mười chín tuổi ấy, cậu bé trưởng giả chỉ v́ t́nh
cờ mà trở thành tù khổ sai ấy, chàng thiếu niên có những nét mặt
thanh tú hơn cả dung nhan của một thiếu nữ ấy, đă nói với cái
giọng dịu dàng của cậu:
- Thế các anh tin rằng những tên cảnh sát đầu vuông ấy sẽ làm
cho chúng ta mỗi người một tấm thẻ căn cước giả hay ít nhất cũng
khả nghi? Tôi th́ tôi không tin. Quá lắm họ cũng chỉ có thể làm
ngơ để chúng ta lén lút từng người một leo lên một chiếc tàu chở
dầu sắp nhổ neo, thế thôi. Hơn nữa họ có làm như vậy chăng cũng
chỉ là để tống táng chúng ta đi mà không phải đau đầu. ư của tôi
là như thế đấy Tôi không tin nổi chuyện này.
Tôi rất ít khi ra phố, thỉnh thoảng chỉ đi một lát vào buổi sáng
để mua vài thứ. Chúng tôi ở đây đă được một tuần mà vẫn không có
tin ǵ mới. Chúng tôi bắt đầu sốt ruột. Vào một buổi chiều thấy
có ba ông linh mục, có cảnh sát đi theo, vào thăm lần lượt các
pḥng giam tập thể và xà-lim. Họ dừng lại khá lâu ở căn buồng
giam kế cận với pḥng chúng tôi, nơi có nhốt một người da đen bị
buộc tội hiếp dâm. Đoán rằng họ sẽ đến pḥng chúng tôi, chúng
tôi gọi nhau về pḥng hết, ai ngồi yên giường nấy. Quả nhiên cả
ba ông linh mục cùng vào, bên cạnh có bác sĩ Naal, ông chỉ huy
trưởng cảnh sát và một ông nữa đeo lon, chắc là một sĩ quan hàng
hải.
Thưa Đức Cha (cách gọi cấp Giám mục trong cách xưng hô của người
công giáo), mấy người này là người Pháp, ông chỉ huy trưởng cảnh
sát nói. - Họ có một hạnh kiểm mẫu mực.
- Cha rất mừng cho các con. Ta hăy ngồi xuống quanh bàn này, như
thế nói chuyện với nhau dễ hơn.
Mọi người ngồi xuống, kể cả những người đi theo đức Giám mục.
Người ta mang vào một chiếc ghế đẩu ban năy để ở trước cửa ra
vào sân, và đặt ở đầu bàn để đức Giám mục ngồi đấy có thể trông
rơ mọi người. Người Pháp hầu hết đều là người công giáo.
- Trong số các con có ai không theo đạo không?
Không ai giơ tay cả. Tôi nghĩ rằng ông linh mục của nhà lao
Conciergerie hầu như đă rửa tội cho tôi và do đó tôi phải tự coi
ḿnh như người có đạo.
- Các bạn ạ, cha cũng là người gốc Pháp, cha tên là Irénée de
Bruyne. Tổ tiên của cha là những người theo tân giáo thuộc phái
Hughenots sang tị nạn ở Hà Lan trong thời kỳ hoàng hậu Catherine
de Médicis giết chóc và truy nă người theo đạo Tin lành. Vậy cha
là người có gióng máu Pháp, cha làm giám mục của địa phận
Curacao, một thành phố có nhiều tín đồ tin lành hơn là tín đồ
công giáo, nhưng các tín đồ công giáo th́ lại có đức tin trọn
vẹn, rất chăm đi lễ và cầu nguyện. T́nh thế của các con nay ra
sao?.
- Chúng con chờ được lần lượt đưa lên các tàu chở dầu.
- Đă có bao nhiêu người được ra đi theo cách này?
- Chưa có người nào.
- Hừm! ông thấy thế nào hở ông chỉ huy trưởng? Xin ông trả lời
bằng tiếng Pháp, v́ ông nói tiếng Pháp giỏi lắm.
- Thưa Đức Cha, quan thống đốc đă thành thật có ư muốn giúp mấy
người này theo công thức đó, nhưng tôi phải nói thành thật rằng
kể cho đến hôm nay, chưa có một thuyền trưởng nào chịu nhận một
người đi tị nạn kiểu ấy, chủ yếu là v́ họ không có hộ chiếu.
Chính phải bắt đầu từ vấn đề này. Quan thống đốc không thể cấp
cho mỗi người một tờ hộ chiếu đặc biệt hay sao?
- Tôi không biết ạ. Ngài chưa bao giờ bàn với tôi việc này.
Ngày kia cha sẽ làm một buổi lễ mi-sa để cầu nguyện cho các con.
Chiều mai các con có vui ḷng đến xưng tội không? Cha sẽ thân
hành nghe lời xưng tội của các con ngơ hầu cầu nguyện Đức Chúa
ḷng lành tha tội cho các con. Ông sẽ cho họ đến nhà thờ lúc ba
giờ chiều ngày mai, có được không?
- Được ạ
- Cha mong rằng họ sẽ được đi xe riêng hay xe tắc xi đến nhà
thờ.
- Thưa Đức Cha, chính con sẽ đưa họ đến, - bác sĩ Naal nói.
- Cám ơn con. Các con ạ, cha không dám hứa ǵ với các con đâu.
Ngoại trừ một lời duy nhất mà chân thực: ngay từ phút này cha sẽ
cố gắng hết sức để giúp ích cho các con.
Thấy Naal hôn chiếc nhẫn của Đức Giám mục, sau đó đến anh chàng
người Bretaglle, chúng tôi cũng ghé môi lên chiếc nhẫn, rồi đưa
Đức Cha ra chiếc xe đang đỗ ở ngoài sân.
Hôm sau, mọi người đều đến xưng tội với đức Giám mục. Tôi là
người xưng tội sau cùng.
Nào, con hăy bắt đầu xưng cái tội nặng nhất của con đi.
- Thưa Cha, trước hết con chưa được rửa tội, nhưng một vị linh
mục nhà lao ở bên Pháp có nói với con rằng dù đă được rửa tội
hay chưa được rửa tội th́ cũng đều là con của Đức Chúa ḷng
lành.
- Vị linh mục ấy nói đúng. Thôi được. Ta sẽ ra khỏi buồng xưng
tội và con sẽ kể hết cho cha nghe.
Tôi kể tỉ mỉ cuộc đời tôi cho đức Giám mục nghe. Ngài nghe hồi
lâu, rất kiên nhẫn, rất chăm chú, không một lần nào ngắt lời
tôi. Đức Cha cầm lấy hai bàn tay tôi trong tay ḿnh và chốc chốc
lại nh́n vào mắt tôi, nhưng đôi khi ở những đoạn khó nói, đức
Cha lại nh́n xuống đất để cho tôi đỡ ngượng ngùng. Vị linh mục
sáu mươi tuổi ấy có một đôi mắt và một gương mặt trong sáng đến
nỗi nó phản ánh một cái ǵ trẻ thơ. Tâm hồn trong trẻo và chắc
chắn là tràn đầy một ḷng nhân hậu vô biên tỏa ra trong từng nét
mặt một của Đức Cha, và cái nh́n màu xám nhạt của Đức Cha thấm
vào tôi như một chất cam-lồ thấm vào một vết thương. Bằng một
giọng dịu dàng, rất dịu dàng, hai bàn tay ấm áp vẫn cầm lấy hai
tay tôi, Đức Cha nói với tôi ngọt ngào nhỏ nhẹ đến nỗi nghe như
một tiếng th́ thầm:
- Thượng đế đôi khi để cho con cái của Người phải chịu đựng sự
độc ác của người đời, để cho kẻ được thử thách trở nên vững mạnh
hơn và cao quư hơn bao giờ hết. Con thấy không, nếu con không
phải trèo lên ngọn núi khổ nhục kia, th́ không bao giờ con có
thể tự nâng ḿnh lên cao đến thế và tiến đến gần chân lư của
Thượng đế đến như vậy. Hơn nữa: những con người, những cơ chế,
những cái bánh xe răng cưa của bộ máy ghê tởm đă nghiền nát con,
những con người xấu xa từ căn bản đă hành hạ và hăm hại con cách
này cách nọ đều đă giúp con một việc rất lớn: chúng đă làm sống
dậy trong con một con người mới cao cả hơn con người trước kia,
và ngày nay sở dĩ con có được ư thức về danh dự, về ḷng nhân
hậu, về t́nh thương, và có được nghị lực cần thiết để khắc phục
mọi chướng ngại và trở thành một con người tôn quư hơn, cũng là
nhờ họ. Những ư nghĩ về việc trả thù, trừng phạt từng người tùy
theo mức nghiêm trọng của sự tổn hại mà họ đă gây ra cho con
không thể phồn vinh trong một con người như con. Con phải là một
cứu tinh cho những người khác chứ không phải là một người sống
để làm hại, dù con có đủ lư do để làm điều ác một cách công
bằng. Chúa đă đại lượng với con, Chúa đă nói với con: “Con hăy
tự giúp ḿnh, và ta sẽ giúp con”. Chúa đă giúp con mọi điều và
lại c̣n cho phép con cứu những người khác và đưa họ trở về với
tự do. Nhất là con chớ nghĩ rằng tất cả những tội lỗi con đă
phạm phải nó trầm trọng đến thế. Có nhiều người có địa vị xă hội
cao đă phạm những tội côn nghiêm trọng hơn các tội lỗi của con
rất nhiều. Chỉ có điều là họ không được trừng phạt theo cách
phán xử của xă hội loài người để có cơ hội tự nâng cao ḿnh lên
như con.
- Con xin cảm ơn cha. Cha đă đem lại cho con một hạnh phúc lớn
lao, và điều đó sẽ c̣n lại trong suốt đời con. Con sẽ không bao
giờ dám quên - Và tôi ôm hôn đôi bàn tay của đức giám mục.
- Con ơi, con sẽ lại ra đi và lại phải đương đầu với những cơn
hiểm nghèo khác. Cha muốn rửa tội cho con trước lúc khởi hành.
Con nghĩ sao?
- Thưa Cha, xin Cha tạm thời cứ để nguyên cho con sống trong
t́nh trạng này. Ba con đă nuôi dạy con ở ngoài tôn giáo. Ba con
có một tấm ḷng vàng. Khi mẹ con chết đi, ba con càng thương con
hơn trước; người đă có được những cử chỉ, những lời lẽ, những
cách chăm nom chiều chuộng của một người mẹ. Con có cảm giác
rằng nếu con chịu rửa tội th́ con dường như thể phản bội ba con.
Xin Cha để cho con một thời gian sống hoàn toàn tự do với một
căn cước xác định, một nếp sinh hoạt b́nh thường, để đến khi nào
con có thể viết thư cho ba con, con sẽ hỏi xem con có thể từ bỏ
cái triết lư của ba con để chịu rửa tội mà không làm cho người
phiền ḷng hay không.
- Cha hiểu ư con con ạ, và Cha tin chắc rằng Chúa cũng đồng ḷng
với con. Cha nguyện phước lành cho con và cầu xin Chúa phù hộ
con.
- Những lời lẽ ấy của Đức Cha Irénée de Bruyne quả là một bức
chân dung trọn vẹn của ngài, - bác sĩ Naal nói như vậy sau khi
nghe tôi kể lại buổi xưng tội.
- Thưa ông đúng như vậy. C̣n bây giờ ông định sao đây?
- Tôi sẽ xin quan thống đốc ra lệnh cho hải quân dành ưu tiên
cho tôi khi nào có dịp bán đấu giá những chiếc thuyền tịch thu
được của bọn buôn lậu. Ông sẽ cùng đến với tôi để cho ư kiến và
chọn chiếc nào vừa ư ông. C̣n như lương thực và áo quần th́ rất
dễ thôi. Kể từ ngày gặp đức Giám mục, chúng tôi luôn luôn có
khách đến thăm, nhất là buổi chiều vào khoảng sáu giờ. Những vị
khách ấy muốn làm quen và t́m hiểu thêm chúng tôi. Họ ngồi trên
mấy chiếc ghế dài để hai bên bàn, mỗi người đều có đem đến một
cái ǵ đấy đặt lên giường chúng tôi, chẳng nói chẳng rằng. Vào
khoảng hai giờ trưa, hôm nào cũng có những “người em gái của
người nghèo” (đó là tên gọi ḍng nữ tu của họ) cùng đi với “mẹ
bề trên” của họ (bà này nói tiếng Pháp rất giỏi) đến thăm chúng
tôi. Túi xách của họ bao giờ cũng đựng đầy những món ăn ngon
lành do họ nấu nướng lấy Nữ tu sĩ bề trên c̣n rất trẻ, không đến
bốn mươi. Bà đội mũ trắng nên không thấy rơ màu tóc, nhưng mắt
bà xanh và lông mày bà vàng. Bà thuộc một ḍng họ danh gia vọng
tộc ở Hà Lan (thông tin của bác sĩ Naal). Bà có viết thư về Hà
Lan để nhờ người ta t́m một cách khác với cách gửi chúng tôi ra
biển. Chúng tôi đă cùng sống qua những buổi chuyện tṛ thú vị,
và bà tu sĩ đă bắt chúng tôi để chuyện vượt ngục mấy lần. Đôi
khi bà yêu cầu tôi kể lại lần nữa cho các nữ tu sĩ cùng đi với
bà (có mấy người biết tiếng Pháp). Cứ mỗi lần tôi quên hay bỏ
qua một chi tiết, bà lại khẽ nhắc: “Henri, sao kể nhanh thế. Anh
lại bỏ qua chuyện con chim hocco rồi... Sao hôm nay anh lại quên
mất chuyện đàn kiến? Chuyện này quan trọng lắm đấy, v́ chính do
đàn kiến mà anh bị Le Breton Mặt nạ bắt gặp!”. Tôi kể những việc
ấy ra đấy v́ đó là những giờ phút thật êm đềm, thật hoàn toàn
tương phản với tất cả những ǵ chúng tôi đă sống qua, nó như một
thứ ánh sáng thiên đường huyền ảo chiếu lên con đường của sự
thối nát đang dần dần bị xóa đi trong đời chúng tôi.
Tôi đă được xem chiếc thuyền họ định dành cho chúng tôi. Đó là
một chiếc thuyền tuyệt đẹp dài tám mét, trụ đáy rất lớn, cột
buồm rất cao, với những lá buồm rộng mênh mông. Nó được đóng rất
chắc, quả là một chiếc thuyền lư tưởng cho những chuyến vượt
biển của dân buôn lậu. Nó được trang bị rất đầy đủ, nhưng đâu
đâu cũng chi chít những dấu xi của hải quan. Trong buổi bán đấu
giá, một ông khách trả giá đầu là sáu ngàn florins, tức khoảng
một ngàn dollars. Cuối cùng chúng tôi mua được nó với giá sáu
ngàn lẻ một florins, sau khi bác sĩ Naal rỉ tai nói ǵ với ông
khách kia.
Năm ngày sau chúng tôi đă sẵn sàng. Được sơn lại bóng loáng,
nhét đầy thức ăn được xếp ngăn nắp dưới căn hầm, cái thuyền có
sàn này quả là một tặng phẩm đế vương. Sau cái va-li cá nhân
đựng toàn áo quần mới, sáu đôi giày và đủ mọi thứ cần thiết cho
trang phục, được xếp vào một cái bọc lớn bằng vải không thấm
nước rồi được cất vào cái khoang kín ở cuối thuyền.
Nhà
tù ở Rio Hacha
Vừa tảng sáng, chúng tôi lên đường. Ông bác sĩ và các chị nữ tu
đều đến tiễn. Thuyền tách khỏi bờ xây một cách dễ dàng, gió lồng
ngay vào buồm và chúng tôi dong thuyền tiến thẳng ra khơi. Mặt
trời lên, rạng rỡ, một ngày b́nh yên đang chờ đợi chúng tôi.
Ngay lập tức tôi nhận thấy chiếc thuyền quá nhiều diện tích buồm
mà ḷng thuyền không đủ nặng. Tôi quyết định phải thận trọng.
Thuyền phóng hết tốc lực. Nó quả là một con ngựa đua tuyệt vời
về tốc độ, nhưng lại là một con ngựa dễ trở chứng. Chúng tôi đi
theo hướng chính tây. Cả bọn đă quyết định đổ lén lút vào bờ
Colombia để thả ba người đă nhập bọn với chúng tôi ở Trinidad.
Họ chẳng ưa ǵ những chuyến vượt bể dài ngày, họ bảo là họ tin
tôi, nhưng không tin thời tiết. Quả t́nh, theo những dự báo khí
tượng trong các tờ báo đọc ở nhà tù, phải dự kiến một thời tiết
xấu và thậm chí những trận băo lốc.
Tôi phải công nhận là họ có quyền lựa chọn, và chúng tôi thống
nhất với nhau là tôi sẽ cho họ đổ bộ vào một bán đảo tiêu điều
và hoang vắng gọi là Guajira. C̣n chúng tôi th́ cả ba người sẽ
lại lên đường đến Honduras thuộc Anh. Thời tiết tuyệt đẹp và đêm
đầy sao với một vành trăng lưỡi liềm khá sáng làm cho cái kế
hoạch đổ bộ này thêm dễ dàng. Chúng tôi tiến thẳng vào bờ biển
Colombia, tôi thả neo, và các bạn cứ dần dà đo chiều sâu xem thử
đă có thể đổ bộ được chưa. Chẳng may nước rất sâu và chúng tôi
phải tiến đến gần một bờ biển toàn đá cho đến khi nước chỉ c̣n
sâu độ một thước rười: một việc làm khá nguy hiểm. Chúng tôi bắt
tay nhau, bọn kia xuống từng người một rồi đội va-li trên đầu đi
vào bờ. Chúng tôi nh́n theo họ mà không khỏi cảm thấy hơi buồn.
Những người bạn ấy đă xử sự với chúng tôi một cách đứng đắn, họ
đă tỏ ra đủ sức giữ vững trong nhiều hoàn cảnh khó khăn. Họ rời
thuyền cũng đáng tiếc.
Trong khi họ đi vào bờ, gió tự dưng lặng hẳn. Thật chó má! Miễn
sao đừng lọt vào mắt những người ở trong cái làng Rio Hacha có
đánh dấu trên bản đồ? Đó là hải cảng đầu tiên có cảnh sát đóng.
May ra th́ không. Tôi có cảm giác rằng chúng tôi đă đi quá chỗ
bờ biển được đánh dấu khá xa, nếu căn cứ vào ngọn hải đăng nhỏ ở
mũi đá mà chúng tôi vừa đi qua..
Chờ đợi, chờ đợi... Ba người kia đă đi khuất sau khi vẫy khăn từ
biệt. Gió, sao măi không có gió hở trời! Phải có gió chứ, để
tách ra khỏi đất Colombia vốn là một dấu chấm hỏi đối với chúng
tôi! Thật vậy, không thể biết họ có giao trả tù vượt ngục hay
không. Cả ba chúng tôi đều thích cái giải pháp cố định của xứ
Honduras thuộc Anh hơn là t́nh trạng lập lờ ở Colombia. Măi đến
ba giờ chiều mới có gió. Tôi kéo hết buồm lên và thuyền bắt đầu
lướt nhè nhẹ, có lẽ nghiêng hơi quá mức một chút. Thuyền đi được
hơn hai giờ th́ một chiếc xuồng máy chở đầy người đi thẳng về
phía chúng tôi. Họ bắn chỉ thiên để ra lệnh cho chúng tôi dừng
lại. Tôi làm ngơ phóng thẳng, cố tăng khoảng cách để ra khỏi
lănh hải Colombia. Không được. Máy chiếc xuồng kia rất mạnh, và
chỉ một tiếng rưỡi sau nó đă đuổi kịp chúng tôi. Đứng trước mười
họng súng trường chĩa vào ngực, chúng tôi phải đầu hàng.
Những người đă bắt chúng tôi, không rơ là lính hay là cảnh sát,
người nào cũng có một dáng dấp đặc biệt: một cái quần bẩn xưa
kia đă từng có màu trắng, những chiếc áo len dệt chắc chắn là
chưa từng giặt bao giờ, thủng lỗ chỗ, ai nấy đều đi chân không,
trừ viên “chỉ huy”, tuy hắn ăn mặc tử tế hơn và sạch hơn một
chút. áo quần th́ tồi tàn như vậy, nhưng vũ khí th́ có thể nói
là họ được trang bị “đến tận răng”: một cái băng giắt đầy đạn
làm thắt lưng, những khẩu súng trường của quân đội chính quy
được bảo quản rất tốt, và thêm vào đấy, một con dao găm lớn có
bao da, cán vừa đúng tầm tay. Người được họ gọi là chỉ huy có bộ
mặt điển h́nh của thứ người lai thổ dân thuộc loại sát nhân bẩm
sinh. Hắn đeo một khẩu súng lục lớn mắc vào một cái nịt giắt đầy
đạn. V́ họ chỉ biết nói tiếng Tây Ban Nha, chúng tôi không hiểu
họ nói ǵ, nhưng trong cách nh́n, trong cử chỉ, trong giọng nói
của họ đều không thấy có chút ǵ là thiện cảm, mọi thứ đều lộ rơ
vẻ thù địch.
Chúng tôi đi bộ từ cảng đến nhà tù, qua làng Rio Hacha (ban năy
đúng là làng này), bốn phía có sáu tên đầu trâu mặt ngựa đi kèm
cống thêm ba đứa đi cách chúng tôi hai mét, sũng chĩa vào chúng
tôi. Như vậy, chuyến nhập cảnh này không lấy ǵ làm thân thiện
lắm.
Chúng tôi bước vào sân một nhà tù, xung quanh có một dăy tường
thấp. Trong sân có vài chục tù nhân râu ria bẩn thỉu, người đứng
kẻ ngồi, họ cũng nh́n chúng tôi với những đôi mắt thù địch.
- Vamos, Vamos. - Chúng tôi hiểu rằng họ muốn nói “đi đi, đi
đi”. Đối với chúng tôi điều đó hơi khó thực hiện v́ Clousiot tuy
đă đỡ nhiều nhưng vẫn phải đi bằng cái chân bó bột cho nên không
thể đi nhanh được.
Viên “chỉ huy” ban năy ở lại phía sau, bây giờ đă bắt kịp chúng
tôi, tay cầm cái địa bàn và tấm vải tráng nhựa. Hắn đang ăn bánh
và sô-cô-la của chúng tôi, và chúng tôi hiểu ngay rằng họ sẽ
tước hết các thứ của chúng tôi. Quả nhiên chúng tôi không lầm.
Họ nhốt chúng tôi vào một gian pḥng bẩn thỉu, cửa sổ có song
sắt to. Giữa đất có những tấm ván dài ở một đầu có đặt một thứ
gối bằng gỗ: đó là giường.
Khi bọn cảnh sát đă ra ngoài và khóa cửa lại, một tù nhân đến
cạnh cửa sổ của chúng tôi nói:
- Francais? Francais!
- Anh muốn ǵ?
- Francais à, không tốt, không tốt?
- Không tốt? Cái ǵ không tốt?
Cảnh sát.
- Cảnh sát à?
- ừ! Cảnh sát không tốt. - Nói đoạn hắn bỏ đi.
Đêm đă qua, gian pḥng được soi sáng bằng một ngọn đèn điện rất
yếu. Muỗi bay vo ve quanh tai chúng tôi và thỉnh thoảng lại lọt
vào mũi.
- Chà, đẹp mặt thật. Chỉ tại chúng ḿnh nhận cho ba gă kia đổ bộ
vào đây.
- Cậu nói thế làm ǵ, chúng ḿnh làm sao mà biết được nông nỗi
như thế này. Căn bản là v́ không có gió.
- Tại cậu vào gần bờ quá, - Clousiot nói.
- Thôi câm mồm đi. Bây giờ không phải là lúc tự buộc tội và buộc
tội người khác. Đây là lúc phải dựa vào nhau, phải ḥa thuận hơn
bao giờ hết.
- Xin lỗi cậu, cậu nói đúng đấy Papi ạ. Không phải lỗi của ai
cả.
Ôi! Thật là bất công quá sức: đă vật lộn hết bao nhiêu hơi sức
mà kết cục lại thế này th́ thật quá thảm hại. Họ chưa khám xét
chúng tôi. Cái plan của tôi c̣n để trong túi, tôi vội vàng đút
nó vào người. Clousiot cũng làm theo. Chúng tôi không ném nó đi
là phải. Vả chăng đó là một thứ ví không thấm nước và rất gọn,
dễ giấu. Theo đồng hồ của tôi th́ lúc bấy giờ là tám giờ tối. Họ
đem cho chúng tôi một ít đường chưa lọc màu nâu nâu, mỗi người
được một cục to bằng nắm tay, và ba cái bánh ǵ làm bằng bột gạo
luộc chín có bỏ muối.
- Buenas noches!
- Chắc như thế có nghĩa là “chúc ngủ ngon” - Maturette nói.
Sáng hôm sau lúc bảy giờ họ dọn cho chúng tôi ở ngoài sân một
thứ cà-phê tuyệt ngon rót vào mấy cái cốc bằng gỗ. Đến tám giờ
viên chỉ huy đi qua. Tôi xin hắn ra thuyền lấy đồ đạc. Không
biết là hắn không hiểu hay giả vờ thế. Tôi càng nh́n hắn càng
thấy rơ hắn có bộ mặt của một tên sát nhân bẩm sinh. ở hông bên
trái của hắn có đeo một cái chai nhỏ bọc trong túi da, hắn rút
chai ra, mở nút và uống một ngụm, rồi khạc ra và ch́a cái chai
cho tôi. Trước cái cử chỉ thân thiện đầu tiên này tôi thấy cần
cầm lấy chai và uống một ngụm. Rất may là chỉ uống một ngụm, v́
đó là một thứ lửa đặc vị cồn. Tôi nuốt vội rồi ho sặc sụa. Thấy
thế, tên cảnh sát Anh-điêng lai da đen cười hô hố.
Đến mười giờ thấy mấy người mặc thường phục trắng thắt ca-vát
đến. Họ có cả thảy sáu bảy người cùng bước vào một ṭa nhà mà
tôi đoán là nơi làm việc của giám đốc nhà lao. Họ cho gọi chúng
tôi vào. Họ đều ngồi trên những chiếc ghế tựa xếp thành h́nh bán
nguyệt trong một gian pḥng có treo một bức tranh lớn vẽ một sĩ
quan da trắng đeo rất nhiều huân chương:
“Presidente Alfonso Lopez de Colombia”. Một trong những người
mặc thường phục dùng tiếng Pháp cho phép Clousiot ngồi xuống
ghế, c̣n chúng tôi th́ đứng. Người ngồi giữa, gầy g̣, có cái mũi
diều hâu, đeo kính không có khung, bắt đầu hỏi cung tôi. Người
thông ngôn không dịch ǵ cả, mà đợi cho người kia nói hết rồi
mới thuật lại với tôi:
Cái ông vừa nói đó và lát nữa sẽ hỏi cung anh là ông quan ṭa
của thành phố Rio Hacha, mấy người kia là những ông thư lại bạn
của ông ta. C̣n tôi là thông ngôn. Tôi là người Haiti chuyên
trông coi các công tŕnh điện lực trong quận này. Tôi tin rằng
trong số các ông kia, tuy họ không nói ra, có mấy người hiểu
tiếng Pháp ít nhiều, có lẽ ngay cả ông quan ṭa cũng thế.
Ông quan ṭa sốt ruột v́ những lời giảng giải này và bắt đầu
dùng tiếng Tây Ban Nha hỏi cung tôi. Người thông ngôn Haiti lần
lượt phiên dịch các câu hỏi đáp.
- Các anh là người Pháp?
- Vâng.
Các anh từ đâu đến?
- Từ Curacao.
- Trước đó?
- Trinidad.
Trước đó?
- Martinique.
- Các anh nói dối. Lănh sự của chúng tôi ở Curacao đă được báo
trước cách đây hớn một tuần là phải canh pḥng bờ biển v́ có sáu
tù nhân vượt ngục của một trại tù thuộc Pháp sẽ t́m cách đổ bộ
vào đây.
- Vâng. Chúng tôi là những người tù vượt ngục từ trại khổ sai.
- Vậy tức là từ Cayenne?
- Vâng.
- Nếu một nước tôn quư như nước Pháp đă đày các anh đi xa như
vậy và trừng trị các anh nghiêm khắc như vậy th́ các anh ắt phải
là những tên cướp rất nguy hiểm?
- Có lẽ thế.
- Kẻ trộm hay sát nhân?
- Giết người không có chủ ư.
- À matador, cũng thế thôi. Vậy các anh là matador? C̣n ba người
kia đâu?.
- Họ ở lại Curacao.
Anh lại nói dối rồi. Các anh đă cho họ lên bờ cách đây sáu mươi
cây số, ở một vùng gọi là Castillette.
Họ đă bị bắt, và vài giờ nữa sẽ có mặt ở đây. Các anh lấy trộm
chiếc thuyền kia ở đâu?
- Không phải đâu. Đức Giám mục Curacao cho chúng tôi đấy.
- Được! Các anh sẽ bị giữ ở đây cho đến khi quan thống đốc quyết
định cách xử lư các anh. V́ đă vi phạm pháp luật bằng cách cho
ba tên đồng lơa của các anh đổ bộ lên lănh thổ Colombia rồi sau
đó mưu toan chạy ra biển, tôi xử viên thuyền trưởng, tức là anh,
ba tháng tù ngồi, c̣n hai người kia một tháng. Các anh phải có
hạnh kiểm tốt nếu các anh không muốn bị trừng phạt nhục thể: các
cảnh sát viên ở đây là những người rất cứng rắn. Các anh có cần
nói ǵ không?
Không. Tôi chỉ muốn thu nhặt những đồ đạc và lương thực của
chúng tôi c̣n để lại dưới thuyền.
Tất cả các thứ đó đều đă bị hải quan tịch thu, trừ một cái quần,
một cái áo sơ-mi, một cái áo vét và một đôi giày cho mỗi người
trong bọn các anh. Phần c̣n lại đều bị tịch thu, các anh chớ nài
thêm: không có cách ǵ khác, đây là pháp luật.
Chúng tôi lui ra ngoài sân. Ông quan ṭa bị những người tù khốn
khổ trong xứ vây quanh: “Bác sĩ ơi, bác sĩ”! Ông ta trịnh trọng
đi qua đám tù, vẻ hết sức khệnh khạng, không trả lời, không dừng
lại. Họ ra khỏi nhà tù và đi khuất
Đến một giờ trưa ba người đă cùng đi thuyền với chúng tôi đến
trên một chiếc xe tải, có bảy tám người cầm súng đi kèm theo. Họ
xách va-li xuống xe, vẻ tiu nghỉu. Chúng tôi trở vào pḥng cùng
với họ..
- Chúng tôi đă phạm phải một sai lầm quái gở và đă làm lụy đến
các anh một cách không thể nào tha thứ được, anh Pappilon ạ. Bây
giờ anh có muốn giết tôi th́ giết đi, tôi sẽ không chống đỡ đâu,
chúng tôi không phải là đàn ông nữa, chỉ là một bọn pê-đê* (do
chữ pédéraste, nguyên có nghĩa là “thích trẻ con” về sau biến
nghĩa thành “đồng tính luyến ái” hay “kê gian” cũng được dùng
theo nghĩa “ái nam ái nữ” hay “đồng cô”). Chúng tôi làm như thế
chỉ v́ sợ đi biển, ấy thế mà qua những điều tôi được biết về xứ
Colombia và dân Colombia th́ những mối hiểm nghèo ở biển chỉ là
tṛ đùa so với cái nguy cơ bị lọt vào tay những tên ác ôn như
vậy.Có phải v́ thiếu gió mà các anh bị bắt không?
- Phải, Breton ạ. Tôi sẽ không giết ai đâu: chẳng có ai đáng
giết cả, chẳng qua chúng ta đều nhầm. Tôi chỉ có việc từ chối,
không chịu đưa các anh vào bờ là xong: sẽ chẳng có chuyện ǵ xảy
ra hết.
- Anh quá tốt, Papi ạ!
- Không, tôi chỉ công bằng. - Tôi kể lại cho họ cuộc hỏi cung
vừa rồi, đoạn nói tiếp - Cũng có thể ông thống đốc sẽ phóng
thích chúng ta.
- Phải phải. Như có ai đă từng nói: ta cứ hy vọng đi hy vọng làm
cho con người ta sống.
- Theo ư tôi các nhà chức trách của cái xứ bán khai này không
thể có quyết định ǵ về trường hợp của chúng tôi. Chỉ có các cấp
cao của chính phủ mới quyết định được việc chấp nhận chúng tôi ở
Colombia, trả chúng tôi cho nước Pháp, hay cho chúng tôi xuống
thuyền đi tiếp. Sẽ là một sự mỉa mai quỷ quái nếu những con
người không hề có điều ǵ phải thù oán hay trách cứ chúng tôi
lại có một quyết định khắc nghiệt nhất đối với chúng tôi, v́
chúng tôi chưa hề làm điều ǵ phạm pháp trên lănh thổ của họ.
Chúng tôi ở đây đă được một tuần không có ǵ thay đổi tuy chúng
tôi cũng có nghe nói là người ta định giải đến một thành phố lớn
hơn cách đây hai trăm cây số, đó là thành phố Santa Marta. Những
tên cảnh sát có bộ mặt cướp biển hay sát nhân kia không hề thay
đổi thái độ với chúng tôi; hôm qua, chỉ thiếu chút nữa tôi đă bị
một tên trong bọn chúng bắn chết v́ đă lấy lại cục xà pḥng mà
tôi để quên ở chỗ rửa mặt. Chúng tôi vẫn ở trong căn pḥng nhung
nhúc những muỗi ấy, may thay bây giờ nó có sạch hơn một chút so
với ngày chúng tôi mới đến, nhờ có Maturette và anh chàng người
Brettagne ngày nào cũng cọ rửa. Tôi bắt đầu tuyệt vọng, mất ḷng
tin. Cái ṇi giống ngươi Colombia này, vốn là một sự lai tạp
giữa thổ dân Anh-điêng và người da đen hoặc giữa người Anh-điêng
với người Tây Ban Nha, thời trước đă từng là những chủ nhân của
xứ này, đă làm cho tôi mất ḷng tin. Có một tù nhân Colombia cho
chúng tôi mượn một tờ báo cũ xuất bản ở Santa Marta, ở trang
nhất có đăng sáu bức ảnh của chúng tôi, và ở phía dưới là ảnh
viên chỉ huy cảnh sát đội cái mũ dạ to tướng, mồm ngậm x́-gà, và
ảnh một chục tên cảnh sát cầm súng. Tôi hiểu rằng cuộc vây bắt
chúng tôi đă được tiểu thuyết hóa và vai tṛ của các nhân vật
này đă được phóng đại lên. Có thể tưởng đâu cả cái xứ Colombia
này đă nhờ chiến công của bọn kia vây bắt được chúng tôi mà
thoát khỏi được nguy cơ ǵ khủng khiếp lắm. Thế nhưng nh́n bức
ảnh chụp “bọn kẻ cướp”, chắc người nào xem báo cũng phải thấy
những người trên ảnh dễ có thiện cảm hơn nhiều so với những bộ
mặt cảnh sát trên bức ảnh kia. Bọn “cướp” trông như những người
dân lành vô tội, c̣n bọn cảnh sát th́ xin lỗi! Từ tên chỉ huy
trở xuống đều không thể lẫn và đâu được
Bây giờ biết làm thế nào? Tôi đă bắt đầu biết được mấy từ ngữ
tiếng Tây Ban Nha: vượt ngục là fugarse, tù nhân là preso, giết
là matar, xích là cadena, khóa tay là esposas, đàn ông là
hombre, đàn bà là mujer.
Trốn
thoát khỏi Rio Hacha
Trong sân nhà tù có một anh chàng lúc nào cũng thấy đeo khóa
tay. Tôi kết bạn với anh ta. Hai người hút chung một điếu x́-gà:
thứ x́-gà dài và mảnh, rất nặng. Tôi hiểu ra rằng anh ta đi buôn
lậu, cứ đi đi về về hết xứ Venezuela lại đảo Araba. Anh ta bị
buộc tội là đă giết mấy người lính canh bờ biển và hiện đang đợi
xét xử. Có những ngày anh ta điềm tĩnh lạ lùng, nhưng lại có
những ngày khác anh ta tỏ ra dễ bị kích động và dễ cáu bẳn. Tôi
nhận thấy anh ta điềm tĩnh lại khi có người vào thăm và đưa cho
anh mấy chiếc lá để nhai. Một hôm anh ta cho tôi một nửa chiếc
lá thế là tôi hiểu ngay. Lưỡi tôi, lợi tôi và môi tôi đều tê dại
đi, trở thành vô tri vô giác. Những chiếc lá này là lá cô ca:
Người đàn ông ba mươi lăm tuổi này, hai cánh tay và tấm ngực đều
phủ một lớp lông quăn đen thẩm chắc phải có một sức lực phi
thường. Hai bàn chân không của anh ta ở phía dưới có một lớp
chai dày đến nỗi thỉnh thoảng anh ta lại rút từ đấy ra một mảnh
chai hay là một cái đinh đă cấm ngập vào đấy nhưng chưa chạm đến
thịt. Một buổi tối tôi nói với anh buôn lậu:
- Fuga (trốn), anh và tôi, (tôi đă nhờ người tù Haiti t́m cho
một cuốn từ điển Pháp - Tây Ban Nha và đă học được mấy từ cần
thiết như từ “trốn”). Anh kia đă hiểu và ra hiệu nói với tôi
rằng anh ta cũng muốn trốn, nhưng không biết làm thế nào thoát
được cái khóa tay.
Đó là một bộ khóa Mỹ, có một khe hở để đút ch́a khóa vào: đó
chắc chắn phải là một cái ch́a khóa dẹp. Anh chàng người
Bretagne làm cho tôi một cái móc bằng dây thép đập dẹp ở đầu.
Sau mấy lần thử, tôi đă mở được cái khóa của anh bạn mới bất cứ
lúc nào tôi muốn. Ban đêm anh ta bị giam riêng trong một căn
xà-lim có chấn song sắt khá lớn. ở pḥng chúng tôi chấn song rất
mảnh, chắc chắn là có thể nong ra được. Vậy chỉ cần cưa một cái
song là đủ: song sắt của buồng giam Antonio (tên người buôn lậu
Colombia).
- Làm thế nào có được một sacette (một cái cưa)?
- Plata (tiền).
- Cuanto (bao nhiêu?
- Một trăm pesos.
- Dollar?
- Mười.
Nói tóm lại là với mười dollars mà tôi đưa cho anh ta,. Antonio
đă có được hai lưỡi cưa sắt. Tôi vẽ h́nh xuống sân giảng giải
cho anh ta hiểu rằng mỗi lần đă cưa được một ít th́ phải lấy mạt
cưa sắt trộn với ruột bánh ḿ bịt chỗ cưa lại cho kín. Vào phút
cuối, trước khi Antonio về xà-lim, tôi mở một ṿng khóa cho anh
ta. Trong trường hợp có ai muốn kiểm tra khóa, anh ta chỉ có
việc ấn một cái là ṿng khóa đóng sập lại ngay. Anh ta cưa ba
đêm mới đứt được cái song sắt. Anh ta nói rằng không đầy một
phút anh ta có thể cưa đứt hẳn và tin chắc là có thể dùng tay bẻ
quặt nó ra. Sau đó anh ta sẽ đến t́m tôi.
Trời mưa luôn, cho nên anh ta nói rằng “La primera noche de
lluvia” (đêm mưa đầu tiên) anh ta sẽ đến. Đêm hôm ấy trời mưa
như trút. Các bạn tôi đều biết rơ các dự định của tôi, không có
ai muốn đi theo tôi v́ họ đều nghĩ rằng miền tôi muốn đến quá
xa. Nơi tôi định đến là ở cuối bán đảo Colombia, giáp giới
Venezuela. Trên tấm bản đồ của chúng tôi có ghi rằng miền đất
này được gọi là Guajira, đó là một lănh thổ đang tranh chấp,
không thuộc Colombia, mà cũng không thuộc Vezezuela. Anh bạn
Colombia của tôi nói rằng “đó là đất của thổ dân Anh-điêng” và ở
đấy không có một thứ cảnh sát nào, của Colombia cũng không, của
Venezuela cũng không. Chỉ có vài người buôn lậu đi qua vùng này.
Đi như vậy rất nguy hiểm v́ người Anh-điêng Guajiros không chấp
nhận cho một người văn minh đi vào lănh thổ của họ.
Càng vào sâu trong vùng càng nguy hiểm. ở bờ biển có những người
Anh-điêng làm nghề đánh cá: qua trung gian của những người
Anh-điêng khác văn minh hơn họ một chút, họ giao dịch buôn bán
với làng Castilette và với xóm La Ve la. Antonio không muốn đến
vùng ấy. Mấy người bạn của anh ta hoặc chính bản thân anh ta đă
từng giết vài ba người Anh-điêng trong một trận đánh nhau với
họ, vào hôm chiếc thuyền chở hàng lậu của anh ta buộc ḷng phải
lánh vào bờ biển thuộc địa phận của họ. Nhưng Antonio cam kết là
sẽ đưa tôi đến sát vùng Guajira, sau đó tôi phải đi tiếp một
ḿnh. Tôi không cần phải nói th́ các bạn cũng thừa hiểu tất cả
những cuộc bàn bạc như vậy giữa Antonio và tôi đều hết sức công
phu, v́ anh ta hay dùng những từ không hề có trong từ điển.
Vậy th́ đêm hôm ấy trời mưa như trút. Tôi đứng gần cửa sổ. Một
tấm ván đă được tháo ra khỏi giường từ lâu: chúng tôi sẽ dùng nó
để nong các chấn song ra. Hai đêm trước chúng tôi đă thử th́
thấy chỉ cần dẫm lên tấm ván là song sắt oằn ngay.
- Listo (sẵn sàng).
Khuôn mặt Antonio hiện ra trong đêm, dí sát vào chấn song. Cùng
với Maturette và anh chàng người Bretagne, tôi dẫm lên tấm ván
đặt chen vào giữa hai chấn song: không những hai cái chấn song
bị nong ra hai bên mà một cái c̣n tuột chân ra nữa. Hai bạn đẩy
tôi ra ngoài, và trước khi tôi lọt ra họ vỗ mạnh vào mông tôi
mấy cái: đó chính là những cái bắt tay của bạn bè chúc tôi lên
đường may mắn. Hai chúng tôi đă đứng giữa sân. Trận mưa to trút
lên các mái tôn gây nên một tiếng ồn điếc tai. Antonio cầm tay
tôi kéo đến sát tường. Nhảy qua tường dễ như bỡn, v́ nó chỉ cao
có hai mét. Thế mà tôi vẫn bị đứt tay v́ cọ vào mấy cái mảnh
chai cắm ở trên tường. Không sao, cứ lên đường. Cái anh chàng
Antonio quỷ quái kia vẫn nhận ra lối đi dưới trận mưa dày đặc,
cách ba thước đă không trông thấy ǵ. Anh ta lợi dụng nó để đi
từ đầu làng đến cuối làng rồi men theo một con đường len lỏi
giữa rừng và bờ biển. Khuya thế này mà cũng thấy một ánh đèn ở
phía trước. Chúng tôi phải đi ṿng vào rừng để tránh chỗ ấy (May
thay rừng ở chỗ này không rộng lắm), rồi lại đi ra đường. Chúng
tôi đi dưới trời mưa cho đến sáng. Lúc ra đi anh ta đă cho tôi
một cái lá coca để tôi nhai theo kiểu vẫn thấy anh ta làm ở nhà
tù. Khi trời sáng tôi chẳng thấy mệt chút nào. Không biết có
phải nhờ cái lá ấy không? Chắc chắn là phải. Khi trời đă sáng
chúng tôi vẫn tiếp tục đi. Thỉnh thoảng anh ta lại nằm rạp xuống
và áp tai xuống mặt đất ướt sũng nước mưa. Rồi chúng tôi lại đi
tiếp. Anh ta có một kiểu đi rất lạ. Chẳng ra chạy mà cũng chẳng
ra đi, đó là những bước nhảy ngắn liên tiếp, khoảng cách rất
đều, hai tay như chèo trong không khí. Vừa rồi chắc hẳn anh ta
có nghe thấy một tiếng động ǵ khả nghi, v́ anh ta kéo tôi vào
rừng. Trời vẫn mưa. Quả nhiên, nh́n xuống đường tôi thấy có một
cái máy kéo đang kéo một cái hồ-lô san đất, chắn hẳn họ đang sửa
đường.
Mười giờ rưỡi sáng. Mưa đă tạnh, trời đă hửng nắng. Chúng tôi đă
đi vào rừng sau hơn một cây số đi trên lề cỏ chứ không đi giữa
đường. Nằm nghỉ ở dưới một lùm cây rậm rạp, xung quanh toàn bụi
rậm mọc dày đặc và đầy gai góc, tôi nghĩ là ở đây chẳng c̣n sợ
ǵ thế nhưng Antonio vẫn không cho tôi hút thuốc hay nói chuyện
khe khẽ. Thấy anh ta vẫn nuốt nước lá coca, tôi bắt chước làm
theo nhưng một cách dè dặt hơn. Anh ta có một túi đựng hơn hai
chục lá, có đưa ra cho tôi xem. Bộ răng thượng hảo hạng của anh
lấp lánh trong bóng tôi khi anh ngoác mồm ra cười nhưng không
thành tiếng. V́ xung quanh đầy muỗi, anh ta nhai một điếu x́ gà
rồi lấy nước miếng trộn lẫn nicotin bôi lên mặt và lên tay. Tôi
cũng làm như vậy. Từ đấy trở đi muỗi không dám bâu vào nữa.
Bảy giờ tối. Đêm đă xuống nhưng đường vẫn sáng quá v́ có trăng.
Antonio để ngón tay lên con số chín và nói: “Lluvia (mưa)”. Tôi
hiểu rằng đến chín giờ trời sẽ mưa. Quả nhiên đến chín giờ hai
mươi th́ trời đổ mưa, chúng tôi lại lên đường. Để theo kịp
Antonio tôi đă học được cái kiểu đi nhảy nhảy và chèo hai tay
trong không khí. Đi như thế không có ǵ khó lại nhanh hơn là đi
nhanh, mà vẫn không phải là chạy. Trong đêm ấy chúng tôi đă ba
lần phải tránh vào rừng để nhường đường cho một chiếc xe hơi du
lịch, một chiếc xe vận tải và một chiếc xe ḅ có hai con lừa
kéo. Nhờ có lá coca, đến sáng tôi vẫn không thấy mệt. Đến tám
giờ mưa tạnh, và vẫn như hôm qua chúng tôi đi nhè nhẹ trên cỏ
khoảng hơn một cây số rồi nấp vào rừng. Ngậm mấy cái lá kia có
một cái bất tiện là không thể ngủ được. Từ khi ra đi chúng tôi
chưa có lần nào chợp mắt. Đôi đồng từ của Antonio giăn to đến
nỗi không thấy tṛng xanh đâu nữa. Mắt tôi chắc cũng vậy. Chín
giờ tối. Trời mưa. Dường như trời đợi đến đúng giờ ấy th́ bắt
đầu đổ mưa. Về sau tôi được biết rằng ở miền nhiệt đới khi trời
bắt đầu mưa vào một giờ nào đấy th́ suốt tuần trăng ngày nào
cũng sẽ bắt đầu mưa vào giờ ấy và cũng sẽ tạnh vào giờ ấy. Đêm
nay khi bắt đầu đi chúng tôi nghe những tiếng gọi í ới rồi trông
thấy những ánh đèn. “Castillette”, Antonio nói. Con người quỷ
quái ấy nắm lấy tay tôi không chút do dự và chúng tôi lại vào
rừng, rồi sau hai giờ đi rất khó nhọc chúng tôi lại trở ra đường
cái. Chúng tôi đi, hay nói là nhảy nhót th́ đúng hơn, cho đến
hết đêm và gần hết buổi sáng. Nắng đă hong khô áo quần chúng tôi
mặc trên người. Chúng tôi ướt đă ba ngày rồi, và kể từ miếng
đường đen chúng tôi ăn vào ngày thứ nhất, đă ba ngày chúng tôi
chưa ăn thêm một chút ǵ. Antonio có vẻ như tin chắc rằng chúng
tôi sẽ không gặp những người xấu. Anh ta đi một cách vô tư lự và
đă mấy giờ liền anh ta không áp tai xuống đất nghe ngóng ǵ cả.
V́ con đường đi dọc băi biển, Antonio chặt một cái gậy. Bây giờ
chúng tôi đi trên cát ướt. Chúng tôi đă rời hẳn đường cái.
Antonio dừng lại xem xét một cái vết rộng năm mươi phân đi từ
biển lên đến chỗ cát khô. Anh ta đi theo cái vết và khi đến chỗ
nó loe rộng ra thành h́nh tṛn, Antonio cắm gậy xuống. Khi rút
gậy lên thấy có một chất nước vàng vàng như ḷng dỏ trứng gà
dính ở đầu gậy. Chúng tôi bới cát thành cái lỗ và chẳng bao lâu
thấy hiện ra một mớ trứng, ba bốn trăm cái ǵ đó không biết nữa.
Đó là trứng con vích, một loại rùa biển. Trứng này không có vỏ,
chỉ bọc một lớp da mỏng. Chúng tôi hốt đầy cái áo sơ-mi mà
Antonio đă cởi ra, dễ đến một trăm quả trứng. Chúng tôi rời băi
biển, băng qua đường để lại đi vào rừng. Đến một chỗ thật kín
đáo, chúng tôi bắt đầu ăn, chỉ ăn ḷng đỏ thôi nhé - Antonio dặn
tôi như vậy. Với hàm răng chó sói của anh ta, Antonio cắn đứt
lớp da bọc quanh trứng, để cho ḷng trắng chảy hết rồi hút cái
ḷng đỏ. Anh ta cắn cả một loạt trứng, rồi vừa đưa cho tôi một
cái vừa hút cái kia. No đến vỡ bụng, chúng tôi nằm dài ra đất,
đầu gối lên chiếc áo vét. Antonio nói: Manana tu sigues so lo
đos dias más. De manana enadelante no hay policias (Mai anh tiếp
tục đi một ḿnh hai ngày nữa. Kể từ mai sẽ không có cảnh sát
đâu)
Đồn biên pḥng cuối cùng: mười giờ tối nay. Chúng tôi nhận ra vị
trí của đồn biên pḥng này nhờ tiếng chó sủa, và đến gần hơn th́
trông thấy một ngôi nhà nhỏ đèn thắp sáng trưng Antonio tránh
các thứ đó một cách tài t́nh. Từ đấy chúng tôi đi suốt đêm không
cần đề pḥng ǵ cả. Đường đi không rộng, nó chỉ là một con đường
ṃn, nhưng cũng có thể cảm thấy là nó được dùng thường xuyên v́
lối đi không hề có cỏ. Nó rộng khoảng năm mươi phân và đi dọc
theo cánh rừng, cao hơn băi biển chừng hai mét. Có nhiều chỗ
thấy rơ vết móng ngựa và móng lừa. Antonio ngồi lên một cái rễ
cây to và ra hiệu cho tôi ngồi xuống. Trời nắng rất gắt. Đồng hồ
tôi chỉ mười một giờ, nhưng nh́n mặt trời th́ phải đến giữa
trưa: nếu cắm thẳng một cây gậy xuống đất th́ không hề thấy bóng
hắt xuống, vậy là đúng giữa trưa, tôi liền sửa đồng hồ lại thành
mười hai giờ. Antonio dốc cái túi đựng lá coca ra: c̣n cả thảy
bảy cái. Anh ta đưa cho tôi bốn cái và giữ lại ba cái. Tôi đi
vào rừng một lát rồi quay lại đưa cho anh ta một trăm năm mươi
dollars Trinidad và sáu mươi florins. Anh ta ngơ ngác nh́n tôi
hết sức ngạc nhiên sờ sờ lên mấy tờ giấy bạc, không hiểu nổi tại
sao nó lại có thể mới tinh như vậy và làm sao nó lại không bao
giờ bị ướt nhất là anh ta không lần nào thấy tôi đem ra phơi
phóng ǵ cả. Anh ta cám ơn tôi, tay cầm cả nắm giấy bạc, suy
nghĩ hồi lâu rồi lấy sáu tờ năm florins, vị chi là ba mươi
florins, rồi trả cho tôi số c̣n lại. Tuy tôi cố nài, anh ta nhất
định không chịu lấy thêm.
Lúc này có thể nhận thấy ở Antonio có một cái ǵ thay đổi. Chúng
tôi đă dự định là sẽ chia tay nhau ở đây, nhưng bây giờ anh có
vẻ như muốn đưa tôi đi thêm một ngày nữa. Sau đó anh sẽ quay trở
lại, - anh ta vừa nói vừa ra hiệu cho tôi hiểu như thế. Thế là
chúng tôi lại cùng lên đường, sau khi nuốt mấy cái ḷng đỏ trứng
vích và châm một điếu x́-gà (việc này phải mất hơn nửa tiếng
đồng hồ mới làm được v́ phải xát hai ḥn đá vào nhau cho lửa bén
vào một nhúm rêu khô). Chúng tôi đi được hơn ba tiếng đồng hồ
th́ thấy một người cưỡi ngựa đi thẳng về phía chúng tôi. Người
ấy đội một cái mũ rơm rộng mênh mông, chân đi ủng, không mặc
quần mà mặc một thứ slip bằng da, một cái áo sơ-mi màu xanh lá
cây và một cái áo vét cũng màu xanh lá cây nhưng đă phai bạc,
kiểu nhà binh. Vũ khí mang theo là một khẩu các bin rất đẹp và
một khấu súng lục to tướng đeo ở thắt lưng.
- Caramba! Ḱa Antonio, cậu đấy à? - Người ấy reo lên.
Từ rất xa Antonio đă nhận ra người cưỡi ngựa, anh ta không nói
ǵ với tôi cả, nhưng tôi biết chắc là như vậy. Người kia xuống
ngựa: đó là một người đàn ông cao lớn, nước da màu đồng đỏ, trạc
bốn mươi tuổi là ít Hai người vỗ rất mạnh lên vai nhau mấy cái.
Cách chào thân ái này về sau tôi sẽ c̣n gặp nhiều ở các nơi.
- C̣n gă kia là ai thế?
- Companero de fuga (bạn vượt ngục), người Pháp.
- Cậu đi đâu?
- Đến nơi nào thật gần dân chài Anh-điêng.
- Anh này muốn đi qua lănh thổ Anh-điêng, vào Venezuela rồi từ
đó t́m cách trở về Aruba hay Curacao.
- Anh-điêng Guajiros: không tốt, - người kia nói.
- Anh không có vũ khí, hăy cầm lấy cái này. - Hắn đưa cho tôi
một con dao găm có cả bao da, cán làm bằng sừng đánh bóng. Chúng
tôi ngồi xuống bên vệ đường. Tôi cởi giày ra: hai chân tôi đều
rớm máu. Antonio và người cưỡi ngựa nói ǵ rất nhanh với nhau,
có thể thấy rơ rằng dự định của tôi đi qua lănh thổ Guajira
không làm cho họ hài ḷng chút nào. Antonio ra hiệu cho tôi lên
ngựa: đôi giày buộc dây lại quàng ngang vai, tôi sẽ để trần đôi
chân cho những vết thương khô lại. Tôi hiểu được những điều đó
qua những cử chỉ của Antonio. Người cưỡi ngựa lên ngựa, Antonio
đưa tay ra cho tôi, và chưa kịp hiểu ra sao, tôi đă được ngồi
trên lưng con ngựa vừa bắt đầu phi nước đại, sau lưng người bạn
của Antonio. Suốt một ngày và một đêm chúng tôi đă phi ngựa như
thế. Thỉnh thoảng người kia dừng ngựa lại, đưa cho tôi một chai
rượu hồi, và cứ mỗi lần như thế tôi lại uống một hớp. Đến tảng
sáng anh ta dừng lại. Mặt trời đă lên. Anh ta đưa cho tôi một
bánh pho-mát cứng như sắt và hai cái bánh nướng, sáu cái lá
coca, lại biếu tôi một cái túi đặc biệt để đựng thứ lá này,
không thấm nước, buộc vào thắt lưng. Rồi anh ta vỗ mạnh mấy cái
lên vai tôi như đă từng làm với Antonio, rồi lên ngựa và phi đi.
Người
Anh-dieng
Tôi đi đến một giờ trưa. Không c̣n rừng rậm nữa, nh́n đến tận
chân trời cũng không thấy cây cối ǵ. Mặt biển lấp lánh như bạc
dưới ánh nắng chói chang. Tôi đi chân không, đôi giày của tôi
vẫn khoác trên vai trái. Đến khi định nằm xuống, tôi trông thấy
lờ mờ ở phía xa năm sáu khóm cây, hoặc là năm sáu tảng đá ǵ
đấy, lùi sâu vào trong băi biển. Tôi thử ước lượng khoảng cách:
có lẽ chừng mười cây số. Tôi lấy một nửa lá coca khá to rồi vừa
nhai vừa đi khá nhanh. Một tiếng đồng hồ sau tôi phân biệt được
những vật mà ban hăy tôi gọi là năm sáu khóm cây: đó là những
túp lều lợp tranh hay lợp rạ, mà cũng có thể là lợp một thứ lá
ǵ đó màu nâu nhạt. Từ một túp lều có một làn khói bay lên. Rồi
tôi trông thấy người. Họ đă trông thấy tôi. Tôi nhận ra những
tiếng reo và những cử chỉ của một nhóm người hướng ra phía biển.
Tôi nh́n ra phía ấy th́ thấy bốn chiếc thuyền đi nhanh vào bờ và
từ trên thuyền có mươi người lên bờ. Tất cả tụ tập lại phía
trước mấy túp lều và nh́n về phía tôi. Tôi thấy rơ cả đàn ông
lẫn đàn bà đều trần truồng, phía trước có một vật ǵ vừa đủ che
bộ phận sinh dục. Tôi thong thả đi về phía họ. Có ba người chống
tay lên ba cái cung và cầm mỗi người một mũi tên. Không có một
cử chỉ nào, dù là thù địch hay thân thiện. Một con chó cất tiếng
sủa và giận dữ chồm vào cắn tôi ở phía dưới bắp chân, ngoạm mất
một mảnh quần... Nó toan xông vào cắn nữa th́ một mũi tên nhỏ
không biết từ đâu bắn ra (về sau tôi được biết rằng nó đă được
thổi ra từ một cái ống xi đồng) đâm vào mông nó, nó vội chuồn
mất, vừa chạy vừa kêu ăng ẳng rồi mất hút trong một cái nhà nào
đấy. Tôi bước khập khiễng về phía họ, v́ con chó đă cắn tôi khá
đau. Tôi chỉ c̣n cách nhóm người kia có mười thước. Không hề có
một người nào cử động hay nói năng ǵ, bọn trẻ con đều đứng sau
lưng mẹ chúng. Thân h́nh họ đều rám nắng, ánh lên như đồng đỏ,
gân guốc, tuyệt đẹp. Mấy người đàn bà đều có đôi vú thẳng, cứng
và chắc, nuốm vú rất to. Chỉ thấy mỗi một bà có đôi vú sệ xuống.
Trong đám có một người tư thế uy nghi, nét mặt thanh tú, dáng
dấp để lộ một sự tôn quư rơ ràng. Tôi đi thẳng về phía người ấy.
Người ấy không có cung tên ǵ cả, tầm vóc vừa bằng tôi, tóc cắt
gọn ghẽ có để một cái bờm rậm cắt ngang lông mày. Hai tai người
ấy lấp trong đám tóc rủ xuống vừa quá dái tai, màu đen huyền,
trông như có ánh tím. Hai mắt người ấy màu xám sắt. Trên ngực,
trên cánh tay và trên đôi chân đều không có lấy một sợi lông.
Cặp đùi màu đồng đỏ rất gân guốc và cặp chân thanh tú với những
đường cong rất đẹp cũng gân guốc như vậy. Người ấy đi chân
không. Khi đă đến cách người ấy ba thước, tôi đứng lại. Bấy giờ
người ấy bước tới hai bước và nh́n thẳng vào mắt tôi. Cuộc khảo
sát này kéo dài hai phút. Trên khuôn mặt ấy không có một nét nào
cử động, trông như mặt một pho tượng đồng có đôi mắt xếch. Rồi
người ấy mỉm cười và đưa tay sờ lên vai tôi. Lúc bấy giờ mọi
người đến chạm tay vào tôi và một cô gái Anh-điêng trẻ tuổi cầm
lấy tay tôi kéo vào bóng rợp do một túp lều hắt xuống. Đến đấy
cô ta vén ống quần tôi lên. Mọi người đều đến ngồi thành ṿng
tṛn xung quanh. Một người đàn ông đưa cho tôi một điếu thuốc
quấn bằng lá đă châm sẵn, tôi cầm lấy và bắt đầu hút. Mọi người
đều cười lớn khi thấy cách hút của tôi, v́ họ hút thuốc bằng
cách để đầu có lửa vào trong miệng, đàn ông cũng như đàn bà đều
thế. Chỗ bị chó cắn không chảy máu nữa, nhưng một miếng da bằng
nửa đồng xu đă bị bong mất. Cô con gái nhổ hết lông ở chỗ ấy đi
rồi lấy gáo nước biển mà một con bé Anh-điêng vừa đi múc về rửa
kỹ vết thương. Cô ta nặn cho nó chảy máu ra. Chưa vừa ḷng, cô
c̣n dùng một mảnh sắt mài nhọn cào vào hai vết răng cắn mà cô
vừa nong rộng ra. Tôi cố ngồi thật yên, không để lộ vẻ đau đớn
ǵ cả, v́ mọi người đang quan sát tôi. Một cô gái Anh-điêng khác
toan vào giúp một tay, nhưng cô ta gạt phắt ra. Trông thấy thế,
mọi người cười phá lên. Tôi hiểu là cô ta muốn tỏ ra cho cô kia
hiểu rằng tôi thuộc quyền sở hữu riêng của cô ta: chính v́ thế
mà họ cười. Rồi cô ta cắt hai ống quần của tôi ở phía trên đầu
gối một quăng. Cô nghiền mấy chùm rong biển mà người ta vừa mang
tới trên một tảng đá đắp lên vết thương và buộc lại bằng những
mảnh vải vừa cắt ở quần tôi ra. Hài ḷng v́ công việc đă xong,
cô ta ra hiệu cho tôi đứng dậy.
Tôi đứng dậy, cởi áo vét ra. Lúc ấy cô gái nh́n vào cổ áo phanh
rộng của tôi và trông thấy h́nh con bướm xăm ở khoảng dưới cổ
tôi. Cô nh́n một lúc, rồi thấy có những h́nh xăm khác nữa, cô tự
tay cởi áo sơ-mi của tôi ra để nh́n cho rơ. Đàn ông cũng như đàn
bà, ai nấy đều lấy làm thú vị với những h́nh xăm trên ngực tôi:
ở bên phải là một phạm nhân; ở bên trái là một cái đầu phụ nữ; ở
phía trên bụng là một cái đầu hổ; trên cột sống là một người
thủy thủ bị đóng đanh trên giá thập tự, và chạy dài suốt có lưng
là một cảnh săn hổ có cả những người đi săn, những khóm cọ,
những con voi và những con hổ. Khi trông thấy những h́nh xăm
này, bọn đàn ông gạt mấy người đàn bà ra và ngắm ngắm, sờ sờ
từng h́nh một cách tỉ mỉ. Sau khi vị thủ lĩnh đă phát biểu, mỗi
người đều góp thêm ư kiến riêng của ḿnh. Kể từ lúc ấy tôi đă
được bọn đàn ông thâu nạp hắn vào bộ tộc. Mấy người đàn bà th́
đă thâu nạp tôi ngay từ phút đầu, sau khi thủ lĩnh đă mỉm cười
và chạm tay vào vai tôi.
Chúng tôi đi vào nếp nhà tranh lớn nhất, và đến đây tôi hoàn
toàn bị lạc hướng. Ngôi nhà làm bằng đất nện màu đỏ gạch. Vách
nhà h́nh tṛn, có tám cửa ra vào và ở bên trong, sườn nhà được
dùng làm nơi mắc mấy cái vơng ngũ sắc, màu rất tươi, đan bằng
len thuần chất, dồn vào một góc. ở giữa có một tảng đá tṛn và
dẹp màu nâu, mặt mài nhẵn, xung quanh có những phiến đá dẹt dùng
để ngồi. Trên vách có treo nhiều khẩu súng hai ṇng, một thanh
gươm của nhà binh, và những cánh cung to nhỏ đủ cỡ treo la liệt
khắp nơi. Tôi c̣n nhận thấy có một cái vỏ rùa rất lớn, một người
có thể nằm gọn vào đấy, một cái ḷ sưởi làm bằng những phiến đá
khô xếp chồng lên nhau rất khớp làm thành một tổng thể gọn gàng
mà không hề có vết trát. Trên bàn có đặt một nửa trái bầu khô
đựng vài ba nắm ngọc trai. Họ cho tôi uống một thứ nước quả lên
men rất ngon, có vị chua - ngọt, đựng trong một thứ bát bằng gỗ,
rồi dọn lên cho tôi một con cá lớn nặng ít nhất hai ki-lô nướng
bằng than gỗ, đặt trên một tàu lá chuối. Họ mời tôi ăn: tôi nhận
lời và thong thả ăn. Khi tôi đă ăn hết con cá ngon tuyệt vời, cô
gái ban năy cầm tay tôi dắt tôi ra băi biển cho tôi rửa tay và
súc miệng bằng nước biển. Rồi chúng tôi lại quay về ngôi nhà
lớn. Chúng tôi ngồi quây thành ṿng tṛn, cô gái Anh-điêng ngồi
cạnh tôi, bàn tay đặt trên đùi tôi. Vừa nói vừa làm cứ chỉ, tôi
và những người thổ dân cố gắng t́m cách hiểu nhau.
Vị thủ lĩnh đứng phắt dậy đi vào phía trong nhà lấy ra một viên
đá trắng rồi đến vẽ lên bàn, thoạt tiên là những người Anh-điêng
trần truồng và khóm làng của họ, rồi đến biển. ở bên phải cái
làng Anh-điêng, ông ta vẽ những ngôi nhà có cửa sổ, mấy người
đàn ông và đàn bà mặc áo quần. Đàn ông th́ cầm súng hay cầm gậy.
ở bên trái, ông ta vẽ một cái làng khác, có những người đàn ông
cầm súng và đội mũ, mặt mày dữ tợn, đàn bà th́ mặc áo. Sau khi
tôi đă xem kỹ mấy h́nh vẽ, ông ta nhận thấy ḿnh đă bỏ sót một
cái ǵ đó bèn vẽ một con đường đi từ làng Anh-điêng đến khóm nhà
bên phải, rồi một con đường khác đi sang cái làng bên trái. Để
tôi thấy rơ phương hướng, ông ta lại vẽ ở phía Venezuela, tức
bên phải, một cái mặt trời được thể hiện bằng một ṿng tṛn và
những nét tua tủa ở xung quanh, và bên phía làng Colombia, một
cái mặt trời có một đường khúc khuỷu cắt ngang. Không thể nhầm
lẫn được: một bên là mặt trời mọc, bên kia là mặt trời lặn. Vị
thủ lĩnh trẻ tuổi ngắm tác phẩm của ḿnh một cách đầy tự hào, và
mọi người lần lượt đến xem h́nh vẽ. Khi thấy tôi đă hiểu rơ ông
ta muốn nói ǵ, vị thủ lĩnh lại cầm viên đá phấn lên gạch chi
chít lên hai làng kia, chỉ để nguyên làng của ông ta. Tôi hiểu
ông muốn nói với tôi rằng người ở hai làng kia đều ác, rằng ông
không muốn có liên quan ǵ với họ, và chỉ có làng ông là tốt.
Ông ta nói những điều ấy với ai kia chứ!
Người ta dùng một tấm giẻ bằng len nhúng nước lau sạch mặt bàn.
Khi bàn đă khô, vị thủ lĩnh đưa viên đá phấn cho tôi: bây giờ
đến lượt tôi phải kể chuyện ḿnh bằng h́nh vẽ. Chuyện của tôi
th́ phức tạp hơn chuyện của ông ta. Tôi vẽ một người hai tay bị
trói và hai người có vũ khí đứng nh́n hắn; rồi vẽ người bị trói
bỏ chạy và hai người kia đuổi theo, súng chĩa vào hắn. Tôi vẽ
lại cảnh ấy hai lần, lần sau khoảng cách giữa tôi và những người
đuổi theo xa hơn lần trước, và đến lần cuối cùng th́ hai tên
cảnh sát đứng lại c̣n tôi th́ chạy tiếp về phía làng của họ, gồm
có mấy người Anh-điêng và con chó, đứng ở phía trước là vị thù
lĩnh đang dang hai tay về phía tôi.
H́nh vẽ của tôi chắc không đến nỗi quá tồi, v́ sau một cuộc bàn
tán khá lâu giữa mấy người đàn ông, vị thủ lĩnh dang hai tay ra
như trong h́nh vẽ của tôi. Họ đă hiểu.
Ngay đêm hôm ấy, cô gái Anh-điêng đưa tôi về túp lều của cô
trong đó c̣n có sáu người đàn bà và bốn người đàn ông cùng ở. Cô
mắc lại cái vơng bằng len ngũ sắc rất đẹp và rất rộng, hai người
có thể nằm ngang vơng thoải mái. Tôi đến nằm vào cái vơng vừa
mắc, nhưng lại nằm dọc. Thấy thế cô gái đến cạnh một cái vơng
khác và nằm ngang lên đấy. Tôi cũng bắt chước làm theo, và lúc
bấy giờ cô liền đến nằm cạnh tôi. Cô sờ lên người tôi, sờ lên
tai, lên mắt, lên miệng tôi với mấy ngón tay dài và thon nhưng
rất xù x́, chi chít những vết sẹo nhỏ, nhưng sắc cạnh. Đó là
những vết đứt do san hô để lại khi các cô gái lặn xuống biển
nhặt trai có ngọc. Khi đến lượt tôi, tôi lại vuốt ve khuôn mặt
cô, cô cầm lấy tay tôi, rất ngạc nhiên v́ thấy nó mịn, không có
chai. Sau một tiếng đồng hồ nằm với nhau trên vơng chúng tôi
đứng dậy và đi sang ngôi nhà lớn của thủ lĩnh. Họ đưa cho tôi
mấy khẩu súng để tôi xem thử nó tốt hay xấu, đó là những khẩu
súng trường sản xuất tại Saint-Etienne, cỡ 12 và 16. Họ có sáu
hộp đựng đầy đạn ch́ double zéro.
Cô gái Anh-điêng của tôi tầm vóc trung b́nh, có đôi mắt màu xám
sắt giống như vị thủ lĩnh, đường nét rất thanh tú, bộ tóc tết
thành bím dài ngang hông, có một đường ngôi ở giữa. Vú cô rất
đẹp, cao và h́nh quả lê. Đầu vú thâm hơn nước da màu hồng đỏ ở
xung quanh và nuốm vú rất dài. Cô không biết hôn, khi cần cô chỉ
khẽ cắn cắn vào môi tôi. Chỉ ít lâu tôi đă dạy được cho cô cách
hôn theo kiểu người văn minh. Những khi hai chúng tôi cùng đi
đâu, cô không chịu đi bên cạnh tôi, nói thế nào cũng không được,
cô cứ đi theo sau tôi. Có một túp lều không ai ở, nay đă bắt đầu
dột nát. Với sự giúp đỡ của mấy người đàn bà khác cô lấy lá dừa
lợp lại cái mái, và vá lại vách nhà bằng đất sét đỏ rất dẻo.
Người Anh-điêng có đủ các thứ dụng cụ và vũ khí bằng sắt: dao,
dao găm, dao phát, ŕu, cuốc nhỏ, nạng chĩa. Cũng có những dụng
cụ bằng đồng bằng nhôm, b́nh tưới nước, soong chảo, c̣n có một
thứ đá mài quay, một thứ ḷ nướng, các thứ thùng bằng sắt và
bằng gỗ. Họ nằm trên những cái vơng hết sức rộng bằng len thuần
chất được trang trí bằng những đường viền đan và những hoa văn
ngũ sắc dùng những màu rất sặc sỡ, màu đỏ tươi màu xanh lam, màu
đen huyền, màu vàng hoàng yến. Ngôi nhà chẳng bao lâu đă sửa
xong, và cô gái bắt đầu đem về đấy những đồ dùng mà mấy người
Anh-điêng khác cho cô: một cái kiềng tṛn có ba chân, một cái
vơng vừa cho bốn người lớn nằm ngang, mấy cái ly, mấy cái hũ
bằng sắt tây, mấy cái soong, v.v... Lại có cả một bộ đồ thắng
lừa nữa.
Chúng tôi vuốt ve, mơn trớn nhau đă được mười lăm ngày, tức từ
ngày tôi đến đây, nhưng cô gái nhất định không chịu đi đến cùng
và mỗi khi tôi nài ép cô phản ứng rất mạnh. Tôi không sao hiểu
nổi, v́ chính cô đă khiêu khích tôi mà đến lúc chót th́ cô lại
không chịu. Trên người cô không bao giờ có chút vải vóc ǵ trừ
cái khố hẹp, buộc xung quanh cái có rất mảnh của cô bằng một sợi
dây nhỏ, hai mông hoàn toàn để trần. Không hề qua một chút lễ
nghi nào, chúng tôi đă dọn đến ở ngôi nhà nhỏ vừa sửa sang xong.
Nhà có ba cửa, một cửa chính ở giữa, hai cửa phụ đối diện nhau.
V́ vách nhà h́nh tṛn cho nên ba cái cửa ấy làm thành một h́nh
tam giác cân. Mỗi cái cửa đều có một công dụng riêng: cửa phía
bắc dành cho tôi, tôi chỉ được ra vào bằng cửa này mà thôi. Cửa
phía nam là cửa dành cho cô ấy. Tôi không được ra vào bằng cứa
của cô ta, và cô ta không được dùng cửa của tôi. Bạn bè th́ đi
cửa lớn, c̣n tôi và cô ta chỉ được đi cửa này khi đưa khách vào
nhà.
Sau khi chúng tôi đă dọn đến ở hẳn ngôi nhà này cô gái mới thực
sự là của tôi. Tôi không muốn đi vào chi tiết, nhưng đó quả là
một người t́nh nồng nhiệt và nhờ trực giác mà trở nên thành
thạo. Cô ấy quấn vào tôi như mọt sợi dây leo. Dấu kỹ mọi người,
tôi chải đầu cho cô và tết tóc thành bím cho cô. Tôi không bao
giờ dám làm như vậy khi chưa biết chắc là không có ai có thể
trông thấy, v́ một người đàn ông không được chải đầu cho vợ bao
giờ, cũng không được xát tay vợ bằng một ḥn đá giống như đá
bọt, cũng không được hôn môi và hôn vú vợ theo một kiểu nào đấy.
Cô rất vui sướng khi được tôi chải đầu, một niềm hạnh phúc vô
biên hiện rơ trên gương mặt cô, pha lẫn nỗi lo sợ (nhỡ có ai
trông thấy th́ chết!).
Lali (đó là tên cô) và tôi đă có nhà riêng. Có một điều khiến
tôi phải lấy làm lạ, là không bao giờ cô ta dùng mấy cái ḷ hay
xoong nồi bằng sắt hoặc bằng nhôm, cô không bao giờ uống nước
bằng cốc thủy tinh, lúc nào cũng dùng những thứ bằng đất nung do
dân làng tự làm lấy.
Cái b́nh tưới nước th́ dùng để rửa ráy, bằng cách hứng nước ở
cái gương sen ở đầu ṿi. Đi ngoài th́ đi xuống biển.
Tôi thường tham dự vào việc tách vỏ trai để t́m ngọc. Việc này
do những người đàn bà lớn tuổi nhất làm. Mỗi người thiếu phụ làm
nghề vớt trai đều có một cái túi riêng. Những viên ngọc t́m được
trong vỏ trai được chia như sau: một phần cho vị thủ lĩnh vốn là
đại diện của cộng đồng, một phần cho người chèo thuyền, một nửa
phần cho người mở trai và một phần rưỡi cho người lặn ṃ trai.
Khi c̣n ở với gia đ́nh, người con gái có được bao nhiêu ngọc
trai đều đem cho ông bác hay ông chú. Cho đến bây giờ tôi vẫn
không hiểu nổi tại sao chính cái ông bác (hay ông chú) ấy cũng
là người đầu tiên đi vào nhà hai người sắp lấy nhau: ông ta cầm
cánh tay người vợ quàng vào lưng người chồng và cầm cánh tay
phải của người chồng đặt lên bụng người vợ, sao cho ngón tay trỏ
đặt đúng vào rốn. Làm xong cái thủ tục đó, ông ta ra về.
Vậy th́ tôi có dự vào công việc mở trai, nhưng tôi không dự vào
việc vớt trai, v́ họ chưa lần nào mời tôi lên một chiếc thuyền.
Họ vớt trai hơi xa bờ, phải gần đến năm trăm mét. Có những người
Lali đi vớt trai về, hai đùi hay cạnh sườn bị san hô cào xước
hết. Đôi khi có những vết xước sâu đến chảy máu. Những khi đó
Lali lấy rong biển xát vào chỗ xước. Tôi không bao giờ làm một
việc ǵ mà người ta không ra hiệu bảo tôi làm.
Tôi không bao giờ vào nhà thủ lĩnh nếu ông ta hay một người nào
khác không cầm tay tôi dắt vào.
Lali có ư nghi ngờ rằng có ba cô gái Anh-điêng trạc tuổi cô cứ
hay đến nằm trong đám cỏ gần sát cửa nhà chúng tôi để nh́n trộm
hay nghe trộm xem thử chúng tôi làm những ǵ khi ở nhà một ḿnh
với nhau. Hôm qua tôi đă gặp người Anh-điêng đảm đương công việc
liên lạc giữa làng thổ dân với xóm dân cư Colombia gần nhất,
cách đồn biên pḥng hai cây số. Xóm này được gọi là La Vela.
Người Anh-điêng ấy có hai con lừa và đeo một khẩu các-bin
Winchester tự động. Cũng như mọi người, anh ta không mặc áo quần
ǵ ngoài cái khố. Anh ta không biết lấy một chữ Tây Ban Nha nào,
cho nên tôi không thể hiểu tại sao anh ta lại có thể giao dịch
đổi chác ǵ với những người Colombia. Tôi lấy tự điển Pháp - Tây
Ban Nha tra xem những thứ tôi cần th́ tiếng Tây Ban Nha viết như
thế nào, và ghi ra một tờ giấy: kim, mực chàm và mực đỏ chỉ khâu
- v́ ông thủ lĩnh đă nhiều lần yêu cầu tôi xăm h́nh cho ông ta.
Anh chàng Anh-điêng làm liên lạc này người bé nhỏ và khô đét.
Trên người anh ta có một vết sẹo khủng khiếp bắt đầu từ cái
xương sườn thấp nhất, chạy suốt ngực cho đến vai bên phải. Từ
vết thương cũ, thịt lồi lên làm thành một đường sẹo nổi to bằng
ngón tay.
Người ta bỏ ngọc trai vào trong một cái hộp đựng x́-gà. Cái hộp
được chia ra thành từng ngăn, mỗi ngăn đựng một cỡ ngọc. Khi
người Anh-điêng này ra đi, tôi được phép của thủ lĩnh đi theo
anh ta. Để cho tôi quay về chứ đừng đi thắng, thủ lĩnh đă cho
tôi mượn một khẩu súng hai ṇng và sáu viên đạn. Do một cách suy
nghĩ đơn giản, ông ta tin chắc rằng đă mượn súng như vậy th́ tôi
thế nào cũng phải quay lại. V́ ông không thể nào tưởng tượng
được rằng đang cầm một vật không phải là của ḿnh mà người ta
lại có thể bỏ đi hẳn được. V́ hai con lừa đều không phải chở ǵ
hết, nên người Anh-điêng cười một con, tôi cười một con. Chúng
tôi đi suốt ngày trên con đường mà tôi đă dùng để đến đây nhưng
đến cách đồn biên pḥng khoảng ba bốn cây số người Anh-điêng
quay lưng về phía biển và đi sâu vào vùng đất liền.
Đến năm giờ chúng tôi đến một bờ suối có năm nếp nhà của người
Anh-điêng. Cả xóm kéo ra xem tôi. Người Anh-điêng cùng đi với
tôi nói, nói măi cho đến lúc có một người đàn ông đến: ở người
này cái ǵ cũng giống người Anh-điêng. mắt, tóc, mũi, trừ nước
da. Da hắn trắng nhờ nhờ và mắt hắn đo đỏ giống như người bạch
tạng. Hắn mặc quần ka-ki. Đến đây tôi hiểu rằng người Anh-điêng
ở làng tôi không bao giờ đi quá chỗ này. Người Anh-điêng da nhợt
nói với tôi bằng tiếng Tây Ban Nha:
- Buenos dias (chào). Anh ta là người tù đă vượt ngục với
Antonio phải không? Anotnio với tôi là người anh em kết nghĩa
bằng máu. - Để “kết nghĩa” với nhau, hai người buộc tay vào
nhau, rồi mỗi người lấy dao rạch tay người kia và lấy máu của
ḿnh bôi lên tay người kia, sau đó lại liếm chỗ máu dính trên
tay người kia.
- Anh cần ǵ?
Mấy cái kim, một ít mực chàm và mực đỏ. Chỉ có thể thôi.
- Một tuần nữa sẽ có.
Hắn nói tiếng Tây Ban Nha giỏi hơn tôi, và có thể thấy rằng hắn
biết cách liên hệ với những người văn minh, tổ chức những cuộc
đổi chác sao cho có lợi về phía những người cùng chủng tộc. Khi
tôi chuẩn bị ra về, hắn trao cho tôi một cái chuỗi đeo cổ làm
bằng những đồng tiền bằng bạc của xứ Colombia xâu lại, nói là
gửi cho Lali.
- Hăy trở lại đây thăm tôi, - người Anh-điêng da nhợt dặn tôi.
Để cho chắc bụng là tôi sẽ trở lại, hắn cho tôi mượn một cái
cung.
Tôi ra về một ḿnh chưa đi được nửa đường th́ đă thấy Lali cùng
đi với một cô em c̣n ít tuổi, chỉ mười hai hay mười ba là cùng.
Lali th́ chắc chắn là đă mười sáu hoặc mười tám tuổi. Cô ấy xông
vào tôi như một con điên, cào cấu ngực tôi v́ tôi đă che mặt
lại, rồi cắn dữ dội vào cổ tôi. Tôi dùng hết sức b́nh sinh mới
giữ được cô. Đột nhiên cô b́nh tĩnh hắn đi. Tôi bế cô gái nhỏ
tuổi lên lưng lừa và ôm lưng Lali đi phía sau. Chúng tôi thong
thả trở về làng. Giữa đường tôi giết được một con cú. Tôi đă bắn
trúng nó mà chả biết đó là con ǵ, chỉ thấy hai con mắt sáng lên
trong đêm tối. Lali một mực đ̣i mang con cú về, tôi phải buộc nó
vào yên lừa. Đến tảng sáng chúng tôi về tới làng. Tôi mệt quá,
chỉ muốn tắm một cái. Lali tắm cho tôi, rồi trước mặt tôi cô cởi
khố của cô em gái, bắt đầu tắm cho em, rồi lại tự tắm rửa cho
ḿnh.
Khi cả hai chị em về nhà th́ tôi đang ngồi đợi nước sôi để uống
với chanh và đường. Đến đây xảy ra một sự việc mà măi về sau tôi
mới hiểu. Lali đẩy em gái vào ḷng tôi, cầm hai tay tôi quàng
ngang lưng cô bé: lúc bấy giờ tôi nhận thấy cô em của Lali không
mặc khố trên cổ đeo chuỗi tiền mà tôi đă cho Lali. Tôi không
biết làm thế nào để ra khỏi cái t́nh thế lạ lùng này. Tôi đành
khẽ ấy cô bé ra, nhấc cô bé lên và cho nằm xuống vơng. Tôi cởi
cái chuỗi đeo cổ và đem khoác vào cổ Lali. Lali nằm xuống cạnh
em gái, c̣n tôi th́ nằm xuống cạnh Lali. Măi về sau tôi mới hiểu
rằng cô ta tưởng tôi đi hỏi ḍ đây đó để t́m cách ra đi v́ có lẽ
tôi không được sung sướng với cô ta, và chắc em gái cô ta có thể
đủ sức giữ tôi lại. Khi tôi thức dậy th́ thấy tay Lali bưng chặt
lấy hai mắt tôi. Lúc bấy giờ đă rất muộn: phải đến mười một giờ
trưa. Cô em gái không c̣n đấy nữa. Lali đắm đuối nh́n tôi với
đôi mắt to màu xám và khẽ cắn vào khóe môi tôi. Cô sung sướng
bày tỏ cho tôi thấy rằng cô đă hiểu là tôi yêu cô và sở dĩ tôi
đi không phải v́ cô không biết cách giữ tôi lại.
Lúc bấy giờ trước nhà chúng tôi có một người ngồi đợi. Đó là
người Anh-điêng thường ngày vẫn chèo thuyền cho Lali đi biển.
Anh ta nhoẻn miệng cười với tôi nhắm mắt lại và làm những điệu
bộ rất dễ thương để cho tôi hiểu rằng anh ta biết Lali đang ngủ.
Tôi ngồi xuống bên cạnh anh ta, nghe anh ta nói những điều mà
tôi không hiểu. Người anh ta lực lưỡng và trẻ trung lạ thường,
dáng vóc như một lực sĩ. Anh ta ngắm nghía hồi lâu những h́nh
xăm trên người tôi, xem xét kỹ lưỡng từng h́nh một, rồi ra hiệu
cho tôi là anh ta muốn nhờ tôi xăm h́nh cho. Tôi gật đầu ưng
thuận, nhưng h́nh như anh ta cho rằng tôi không biết. Lali bước
ra. Cô đă bôi dầu lên khắp người. Cô biết rằng tôi không thích
như vậy, nhưng cô làm bộ điệu để tôi hiểu rằng hôm nay không có
nắng thành thử nước biển rất lạnh. Những điệu bộ, cử chỉ ấy, mà
Lali làm một cách vừa nghiêm trang vừa đùa bỡn, duyên dáng và
đẹp mắt đến nỗi tôi cứ giả vờ không hiểu để buộc cô phải làm đi
làm lại mấy lần. Khi tôi ra hiệu bảo Lali làm lại, cô bĩu môi,
và cái bĩu môi ấy nói rất rơ: “Có phải là anh ngốc quá không
hiểu được, hay tại em vụng quá không làm cho anh hiểu được tại
sao em lại phải bôi dầu vào người?”.
Ông thủ lĩnh đi ngang trước mặt chúng tôi, có hai cô Anh-điêng
theo sau. Hai cô xách một con thằn lằn xanh to tướng nặng phải
đến bốn năm cân, c̣n ông thủ lĩnh th́ cầm cung lên. Ông ta vừa
mới bắn được con thằn lằn và mời tôi lát nữa sang nhà ăn thịt
nó. Lali nói ǵ với ông ta không rơ, chỉ thấy ông ta chạm tay
lên vai tôi và chỉ ra biển. Tôi hiểu rằng ông ta cho phép tôi đi
ra biển với Lali nếu tôi muốn. Cả ba chúng tôi: Lali, người chèo
thuyền thường ngày cho cô, và tôi, cùng ra đi. Chiếc thuyền nhỏ
của họ rất nhẹ, làm bằng một thứ gỗ xốp mềm như điên điển, đưa
xuống nước rất dễ. Họ vác chiếc thuyền trên vai lội xuống nước
và cứ thế đ́ một quăng. Cách họ cho thuyền xuất phát rất lạ:
người đàn ông Anh-điêng lên thuyền trước, tay cầm một cái chèo
to tướng. Lali, nước lút ngang ngực, giữ cho chiếc thuyền cân
bằng và không để cho nó lùi về phía bờ, tôi leo lên ngồi ở giữa,
thế rồi bỗng nhiên, thoắt một cái, Lali đă ngồi gọn trên thuyền
đúng vào lúc người đàn ông Anh-điêng ấn mạnh chèo dẩy thuyền ra
biển. Các đợt sóng giống như những cuộn vải, càng xa bờ càng
lớn. Cách bờ khoảng năm sáu trăm mét có một thứ kênh: ở đấy đă
có hai chiếc thuyền đang vớt trai. Lali đă buộc mấy bím tóc lên
đầu bằng năm sợi dây da màu đỏ, ba sợi buộc ngang, hai sợi buộc
dọc, tất cả đầu được quấn vào cổ. Tay cầm một con dao lớn, Lali
lần theo thanh sắt nặng đến mười lăm cân vốn dùng làm neo mà
người đàn ông vừa ném xuống đáy biển.
Chiếc thuyền đứng tại chỗ nhưng không phải là đứng yên, v́ cứ
mỗi đợt sóng nó lại nhô lên rồi hạ xuống. Hơn ba tiếng đồng hồ
Lali cứ trồi lên lặn xuống, từ đáy biển lên mặt biển. ở đây
không trông thấy đáy, nhưng cứ vào khoảng thời gian Lali phải
mất mà suy ra th́ chắc phải sâu từ mười lăm đến mười tám mét.
Mỗi lần ngoi lên, trong cái túi của cô đều có trai, người đàn
ông Anh-điêng dốc cái túi cho trai đổ vào ḷng thuyền. Trong ba
tiếng đồng hồ ấy Lali không lần nào lên thuyền. Khi cần nghỉ, cô
vịn mạn thuyền đứng yên khoảng từ năm đến mười phút. Chúng tôi
đă hai lần đổi chỗ mà Lali vẫn không lên thuyền. ớ chỗ thứ hai,
trong túi thấy có nhiều trai hơn, và kích thước của nó.cũng lớn
hơn. Chúng tôi vào bờ. Lali đă leo lên thuyền và chẳng mấy chốc
sóng đă đẩy chúng tôi vào băi cát.
Người đàn bà Anh-điêng đang đợi. Lali và tôi để cho bà ta và
người đàn ông kia đưa trai lên băi cát. Khi mớ trai đă ráo nước,
Lali không để cho bà già tách miệng chúng ra, chính cô bắt đầu
làm việc đó. Cô nhanh nhẹn dùng mũi dao mở khoảng ba chục con
mới thấy được một viên ngọc. Tôi khỏi phải nói với các bạn rằng
trong khi đó tôi đă chén hết ít nhất là hai tá. Chắc nước ở dưới
đáy phải lạnh lắm, v́ thịt con nào cũng rất mát. Lali khe khẽ
moi viên ngọc ra: nó to như một hạt đậu cô-ve. Viên ngọc này
thuộc loại ngọc trai cỡ lớn. Nó sáng quá? Thiên nhiên đă cho nó
những sắc thái óng ả, uyển chuyển nhưng không quá ḷe loẹt. Lali
dùng hai ngón tay cầm viên ngọc lên bỏ vào miệng ngậm một lát,
rồi lấy ra bỏ vào miệng tôi. Bằng một loạt cử chỉ nhai, cô làm
cho tôi hiểu rằng cô muốn cắn vỡ viên ngọc và nuốt đi. Tôi từ
chối, nhưng những cử chỉ van nài của cô đẹp đến nỗi tôi phải làm
theo ư cô: tôi nhai vỡ viên ngọc và nuốt cách mảnh vụn. Cô tách
bốn năm con trai nữa cho tôi ăn, có lẽ để cho viên ngọc vào bụng
tôi kỳ hết. Cô bắt tôi nằm ngửa ra băi cát, rồi như đứa con nít,
cô banh miệng tôi ra nh́n kỹ xem có c̣n mảnh vụn nào trong răng
không. Sau đó chúng tôi ra về, để cho hai người kia tiếp tục
công việc.
Tôi ở đây đă được một tháng. Tôi không tính nhầm được, v́ ngày
nào tôi cũng ghi ngày tháng lên một tờ giấy. Mấy cái kim đă được
gửi đến từ lâu cùng với ba thứ mực dùng để xăm h́nh: đỏ, xanh,
và tím. Tôi đă phát hiện ở nhà ông thủ lĩnh ba con dao cạo
Sulliguen. Ông ta không bao giờ dùng thứ dao này để cạo râu, v́
người Anh-điêng không có râu. Ông chỉ dùng một trong ba con dao
cạo để cạo tóc: cạo như vậy tóc đứt rất đều thành từng lớp đuổi
nhau. Tôi đă xăm cho Zato (tên của thủ lĩnh). Được một h́nh trên
cánh tay. Đó là h́nh một người Anh-điêng, trên đầu có cắm những
chiếc lông chim đủ màu. Ông ta thích mê đi và ra hiệu dặn tôi
đừng xăm cho ai trước khi xăm xong một h́nh thật lớn trên ngực
ông. Ông ta muốn có cái đầu hổ như của tôi, với bộ răng nanh
thật nhọn. Tôi cười, v́ tôi không biết vẽ cho thật khéo để có
được một cái đầu hổ đẹp như vậy.
Lali đă nhổ hết lông trên người tôi. Hễ phát hiện ra được sợi
này là cô lập tức nhổ đi và lấy rong biển giă nhỏ trộn với tro
xát vào. H́nh như thứ thuốc này làm cho lông khó mọc lại thật.
Cái công xă Anh-điêng này được gọi là Guajira. Họ ở ven bờ biển
và vùng đồng bằng cho đến chân núi. Trong núi có những công xă
khác được gọi là Motilones. Mấy năm sau tôi sẽ có dịp tiếp xúc
với những người này. Người Guajiros, như tôi đă nói, có tiếp xúc
gián tiếp với thế giới văn minh thông qua những cuộc đổi chác.
Những người Anh-điêng ở bờ biển giao cho người Anh-điêng da nhợt
những viên ngọc trai và cả những con rùa bể nữa. Rùa được đổi
sống, nặng đến khoảng một trăm rưỡi kư lô. ở đây không bao giờ
có loại rùa to và nặng như ở sông Oneroca hay sông Maroni có
những con có thể đến bốn trăm kư lô, mai đôi khi dài đến hai mét
trên một mét chiều rộng. Khi bị đặt ngửa, chúng không tự lật sấp
lại được. Tôi đă trông thấy mấy con như vậy bị đặt nằm ngửa đến
ba tuần, không được ăn uống ǵ cả mà vẫn sống, trước khi bị đem
đi đổi. C̣n loại thằn lằn xanh th́ thịt rất ngọt, trắng, mềm và
ngọt, trứng của nó vùi vào cát để cho nắng nung lên cũng có
hương vị rất mặn mà. Chỉ riêng cái vẻ ngoài của nó trông không
có ǵ ngon lành cả.
Cứ mỗi lần Lali đi vớt trai, cô lại đem về nhà những viên ngọc
thuộc phần cô. Những viên ngọc ấy cô đều cho tôi tất. Tôi cất nó
vào một cái cốc bằng gỗ không phân biệt viên to, viên trung b́nh
hay viên nhỏ. Tôi chỉ cất trong một cái hộp riêng hai viên ngọc
màu hồng, ba viên đen và bảy viên có màu xám kim loại đẹp kinh
khủng. Tôi lại c̣n có một viên ngọc lớn ba màu h́nh thù như hạt
đậu, và cũng to bằng một hạt đậu trắng hay đậu đỏ ở châu Âu. Ba
màu ấy làm thành ba lớp chồng lên nhau, và tùy theo thời tiết,
một trong ba màu hiện rơ hơn và màu kia: khi th́ lớp màu đen,
khi th́ lớp màu kia nâu như thép cũ, khi th́ lớp màu bạc có ánh
hồng. Nhờ có ngọc trai và rùa, bộ lạc Guajiros này không thiếu
thứ ǵ. Chỉ có điều là họ có những vật mà họ chẳng biết dùng làm
ǵ, trong khi đó th́ lại thiếu những thứ khác lẽ ra có thể có
ích cho họ. Chẳng hạn cả bộ lạc không có lấy được một tấm gương.
Cũng may tôi bắt được một mảnh kim loại có lẽ từ một chiếc
thuyền bị đắm long ra, có một mặt mạ kền, tôi dùng nó để soi mặt
khi cần cạo râu.
Sách lược của tôi đối với các bạn tôi rất dễ dàng: tôi không làm
điều ǵ có thể có hại đến uy thế của thủ lĩnh, và càng tránh
những việc có thể xúc phạm đến một ông già Anh-điêng sống một
ḿnh trong vùng đồng bằng cách đấy bốn cây số giữa một bầy rắn,
hai con dê và một tá cừu. Đó là ông thầy mo chung của mấy xóm
Guajiros ở xung quanh. Thái độ đó khiến cho không có người nào
ganh tỵ hay có ác cảm với tôi. Sau hai tháng tôi đă được mọi
người hoàn toàn coi như người nhà. Ông thầy mo c̣n có vài chục
con gà. V́ trong hai xóm Anh-điêng mà tôi biết không hề thấy có
nuôi dê, cừu và gà ǵ cả, tôi suy ra rằng việc nuôi gia súc là
một đặc quyền của ông thầy mo. Những người đàn bà Anh-điêng thay
phiên nhau cứ mỗi buổi sáng một người đội cái rổ đựng cá và ṣ
mới vớt được đem đến cho ông ta. Ngoài ra c̣n có những chiếc
bánh bột ngô vừa làm sáng hôm ấy và được nướng chín trên những
ḥn đá nung lửa. Thỉnh thoảng họ trở về làng với mấy quả trứng
và một ít sữa đóng váng, nhưng không phải hôm nào cũng có. Khi
nào ông thầy mo muốn tôi đến thăm ông ta, ông ta gửi riêng cho
tôi ba quả trứng và một con dao bằng gỗ chuốt thật trơn. Lali đi
theo tôi đến nửa đường và ngồi đợi tôi dưới bóng những cây xương
rồng khổng lồ. Lần đầu tiên chính cô đă đặt con dao bằng gỗ ấy
vào tay tôi rồi giơ tay chỉ hướng cho tôi đi.
Ông thầy mo Anh-điêng đă già lắm rồi. Ông ta sống trong một cảnh
dơ bẩn cùng cực dưới một cái lều căng bằng những tấm da ḅ, c̣n
nguyên lông, mặt có lông trở vào phía trong. ở giữa lều có đặt
ba ḥn đá quây quanh một bếp lửa mà người ta cảm thấy là được để
cháy suốt đêm ngày. Ông ta không ngủ trên vơng mà trên một thứ
giường làm bằng cành cây, cách mặt đất hơn một mét. Cái lều khá
rộng, phải đến hai mươi mét vuông. Nó không có vách, chỉ phía có
gió được che bằng mấy cành cây. Tôi đă được nh́n thấy hai con
rắn, một con dài gần ba mét, to bằng cánh tay, c̣n con kia dài
chừng một mét, có một hoa văn h́nh chữ V màu vàng trên đầu. Tôi
tự nhủ: “Hai con rắn này đă ngốn bao nhiêu gà và trứng không
biết!” Tôi không hiểu làm thế nào mà bấy nhiêu dê, cừu, gà và cả
con lừa nữa đều có chỗ nương thân dưới mái lều này. Ông già xem
xét tôi từng li từng tí, rồi bắt tôi cởi cái quần mà Lali đă
biến thành quần soóc, và khi tôi đă trần truồng như con nhộng,
ông ta bắt tôi ngồi lên một ḥn đá bên cạnh bếp lửa. Rồi ông ta
thả vào lửa những cái lá xanh làm khói bốc lên mù mịt, sặc mùi
bạc hà. Đám khói vay kín xung quanh tôi làm tôi ngạt thở. Nhưng
tôi hầu như không ho, cố kiên nhẫn ngồi đợi trong mười phút khói
mới tan đi. Sau đó ông ta đốt cái quần của tôi và đưa cho tôi
hai cái khố của người Anh-điêng, một bằng da cừu, một bằng da
rắn, mềm mại như một chiếc găng tay. Ông ta lại đeo vào cánh tay
tôi một cái ṿng đan bằng dây da đê, da cừu và da rắn. Nó rộng
mười phân và được buộc vào tay bằng một sợi dây làm bằng da rắn
đă thuộc có thể thắt chặt lại hay nới rộng ra tùy ở mắt cá chân
trái, ông thầy mo có một cái mụt sâu quảng to bằng một đồng bạc
hai francs, bâu đầy ruồi nhặng. Chốc chốc ông ta lại đuổi chúng
đi, và khi nào bị quấy nhiễu quá nhiều th́ ông ta lấy tro rắc
lên chỗ bị loét. Được ông thầy mo chấp nhận rồi, tôi định ra về
th́ ông ta đưa cho tôi một con dao bằng gỗ nhỏ hơn con dao ông
đă gửi cho tôi. Về sau Lali sẽ cắt nghĩa cho tôi hiểu rằng khi
nào tôi muốn gặp ông thầy mo, tôi phải gửi cho ông con dao nhỏ
này, và nếu ông ta bằng ḷng cho tôi gặp, ông ta sẽ gửi con dao
to.
Tôi từ giă ông thầy mo già sau khi nhận thấy da mặt và da cổ của
ông nhăn nheo đến nhường nào. Cái miệng móm mém của ông chỉ c̣n
có năm cái răng, ba ở hàm dưới và hai ở hàm trên, đều là răng
cửa. Mắt ông, cũng h́nh quả hạnh nhân như tất cả những người
Anh-điêng khác, có đôi mi húp đến mỗi khi nhắm lại th́ làm thành
hai cục thịt tṛn. Ông ta không c̣n lông mày lông mi ǵ nữa,
nhưng tóc th́ vẫn đen và cứng, dài đến tận vai và được xén rất
thắng. Cũng như mọi người Anh-điêng, ở phía trước mặt ông có một
bờm tóc cắt ngang lông mày.
Tôi ra về với một cảm giác ngượng nghịu v́ đôi mông đít lộ
thiên. tôi cảm thấy ḿnh buồn cười quá. Thôi, đă vượt ngục th́
đành phải thế. Không nên đùa với người Anh-điêng: vi phạm tục lệ
của họ là không xong đâu. Muốn được tự do th́ cũng phải chịu khó
chấp nhận một vài điều bất tiện. Lali nh́n cái khố cười như nắc
nẻ, phô hai hàm răng đẹp chẳng kém ǵ những viên ngọc trai mà cô
vớt được, cô xem xét cái ṿng đeo tay và cái khố thứ hai bằng da
rắn. Để kiểm tra xem tôi đă được hun khói chưa, cô ngửi kỹ người
tôi. Cũng xin mở ngoặc nói thêm rằng khứu giác của người
Anh-điêng rất tinh. Tôi đă quen với cảnh sống này và nhận thấy
không nên tiếp tục sinh hoạt quá lâu theo kiểu này, v́ đến một
lúc nào đó có thể người ta không c̣n muốn đi đâu nữa.
Lali thường xuyên quan sát tôi, cô mong cho tôi tham gia tích
cực hơn cuộc sống chung của bộ lạc. Chẳng hạn cô đă trông thấy
tôi đi đánh cá, cô biết rằng tôi chèo rất giỏi và điều khiển
chiếc xuồng nhẹ một cách thành thạo. Từ đó đến chỗ muốn rằng
chính tôi chèo xuồng cho cô đi vớt trai không có ǵ là xa. Nhưng
tôi th́ lại không muốn thế. Lali là người lặn giỏi nhất trong
đám con gái làng này, bao giờ thuyền cô cũng vớt được nhiều trai
hơn và cũng là những con trai to hơn, tức là nằm sâu hơn cả. Tôi
lại biết rằng người thanh niên Anh-điêng chèo thuyền cho cô là
em trai của thủ lĩnh. Chèo thuyền của Lali thay cho anh ta tức
là làm cho anh ta thiệt tḥi, vậy tôi không được làm điều đó.
Nhưng khi Lali thấy tôi tư lự, cô lại đi t́m em gái. Cô bé này
mừng rỡ chạy đến và đi vào nhà bằng cái cửa dành cho tôi. Điều
đó chắc phải có một ư nghĩa quan trọng. Thường hai người cùng
đến một lúc trước cái cửa lớn quay ra biển. Đến đây mỗi người đi
một phía: Lali đi một ṿng rồi vào bằng cửa của ḿnh, c̣n
Zoraima đi vào cửa của tôi. Zoraima vú mới to bằng quả mít, tóc
cũng chưa dài, mái tóc cô cắt thành đường thẳng chấm xuống ngang
cằm, cái bờm trên trán xuống quá lông mày, gần chấm đến mi. Mỗi
lần Lali gọi em đến như vậy, cả hai chị em đều xuống biển tắm,
rồi khi vào nhà họ đều cởi khố treo lên vơng. Mỗi lần ở nhà
chúng tôi ra về, cô bé lần nào cũng rất buồn v́ tôi đă không lấy
cô ta. Hôm trước, cả ba chúng tôi đang nằm trên vơng, Lali đang
nằm giữa th́ chợt đứng dậy và khi nằm xuống th́ lại nằm ra ngoài
để cho tấm thân trần truồng của Zoraima áp vào người tôi.
Người Anh-điêng thường chèo thuyền cho Lali bị thương ở đầu gối,
đó là một vết đứt rất rộng và rất sâu. Mấy người đàn ông đă
khiêng anh ta đến nhà ông thầy mo, và khi trở về, đầu gối anh
được trát một lớp đất sét trắng. Vậy sáng hôm ấy tôi phải chèo
thuyền cho Lali đi vớt trai. Tôi cũng cho thuyền ra biển đúng
như người kia vẫn làm những lần trước, và thao tác của tôi đă
được thực hiện khá chính xác. Tôi đưa Lali ra xa hơn thường lệ
một chút. Cô ta rạng rỡ v́ vui sướng khi thấy chỉ có hai người
đi cùng thuyền. Trước khi lặn cô xoa dầu lên người. Tôi nh́n
xuống đáy biển đen ng̣m, nghĩ rằng nước ở đây chắc phải lạnh
lắm. Ba cái vây cá mập nhô lên trên mặt nước đi qua khá gần chỗ
chúng tôi, tôi chỉ cho Lali xem, nhưng cô không thèm để ư. Lúc
bấy giờ vào khoảng mười giờ sáng, trời nắng. Cái túi đựng ngọc
trai quấn xung quanh cánh tay trái, con dao giắt vào bao da đeo
rất chặt ở thắt lưng, Lali nhảy xuống nước mà không hề làm cho
thuyền tṛng trành như những người khác thường làm khi đạp
thuyền để lấy đà nhảy xuống. Cô lặn xuống đáy nước đen ng̣m với
một tốc độ khó ḷng tưởng tượng nổi. Lần lặn đầu tiên này chắc
chỉ để thăm ḍ, v́ trong túi thấy có ít trai. Tôi nảy ra một ư.
Trên thuyền có một cuộn dây da rất lớn. Tôi buộc một đầu dây vào
cái túi, đưa túi cho Lali và khi cô lặn xuống tôi tháo cuộn dây
ra: sợi dây da theo cô xuống đến tận đáy. Chắc Lali đă hiểu ư
tôi v́ một lát sau cô ngoi lên, không đem theo cái túi. Tay bám
vào thuyền để nghỉ sau chuyến lặn khá lâu này, cô ra hiệu cho
tôi kéo cái túi lên. Tôi kéo, kéo nữa, nhưng đến một lúc nào đó
thấy dây bị mắc kẹt, chắc là cái túi bị vướng vào san hô. Lali
lặn xuống để gỡ nó ra, cái túi đầy được một nửa, tôi trút trai
vào ḷng thuyền. Sáng hôm ấy, sau tám lần lặn sâu mười lăm mét,
chiếc thuyền đă gần đầy. Khi Lali leo lên thuyền, mép thuyền chỉ
c̣n nhô lên trên mặt nước có hai phân. Khi tôi định kéo neo lên,
chiếc thuyền chở quá nhiều trai suưt ch́m nghỉm. Chúng tôi đành
phải tháo dây neo ra buộc vào một cái chèo cho nó nổi lềnh bềnh
tại chỗ để đánh dấu nơi thả neo rồi chèo thuyền vào. Chúng tôi
vào bờ b́nh yên vô sự.
Bà già đang chờ chúng tôi, và anh chàng Anh-điêng thường đi với
Lali cũng đang ngồi trên cát khô ở chỗ thường tách trai t́m
ngọc. Anh ta rất hài ḷng khi thấy số trai vớt được nhiều như
vậy. Lali giảng giải cho anh ta hiểu cách làm của tôi: buộc cái
túi vào dây để nguyên dưới đáy th́ khi lên cô được nhẹ hơn, do
đó tiết kiệm được thời gian, cho nên mới nhặt được nhiều trai
hơn. Anh ta nh́n cái túi để xem tôi buộc như thế nào và xem xét
rất kỹ cái nút buộc. Anh ta tháo nó ra và thử thắt lại như cũ:
chỉ một lần anh ta đă thắt được ngay. Anh ta đưa mắt nh́n tôi có
vẻ rất tự hào.
Mở hết chỗ trai ra, bà già lấy được mười ba viên ngọc, Lali
thường ngày không bao giờ ở lại xem bà già làm việc này, mà về
nhà ngay rồi đợi người ta đem phần của ḿnh về, nhưng lần này
th́ cô ngồi lại cho đến khi mở con trai cuối cùng. Tôi ăn đến ba
tá là ít, Lali th́ chỉ ăn năm sáu con. Bà già chia phần chỗ ngọc
trai vừa nhặt được. Mười ba viên gần bằng nhau, đều xấp xỉ to
bằng hạt đậu Hà Lan. Bà già tách ra ba viên cho thủ lĩnh, ba
viên cho tôi, hai viên cho bà ta, và năm viên cho Lali. Lali lấy
ba viên phần tôi đưa cho tôi. Tôi cầm lấy và đưa cho người
Anh-điêng bị thương. Anh ta không chịu lấy, nhưng tôi mở tay anh
ta ra, giúi ngọc vào và bóp tay anh lại. Đến lúc ấy anh ta mới
nhận. Vợ và con gái anh ta nảy giờ im lặng ngồi cách đấy một
quăng nh́n chúng tôi, thấy thế liền cất tiếng cười mừng rỡ và
đến nhập bọn với chúng tôi. Tôi giúp họ d́u anh ta về nhà. Cảnh
này được lặp đi lặp lại trong gần hai tuần. lần nào tôi cũng
giao lại phần ngọc của tôi cho người đàn ông Anh-điêng. Hôm qua
tôi giữ lại một trong sáu viên ngọc thuộc phần của tôi. Về đến
nhà tôi đă bắt Lali ăn nó. Lali phát cuồng lên v́ vui sướng, ca
hát suốt cá buổi chiều.
Thỉnh thoảng tôi lại đến gặp người Anh-điêng da nhợt. Anh ta bảo
tôi gọi anh là là Zorillo, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là con cáo
nhỏ. Anh ta nói với tôi là thủ lĩnh sai anh hỏi tôi xem thử tại
sao tôi không xăm cho ông h́nh đầu hổ đi, tôi phân trần rằng sở
dĩ tôi chưa dám xăm v́ tôi không biết vẽ cho thật giống cái đầu
hổ của tôi. Vừa nói vừa tra từ điển, tôi yêu cầu anh ta kiếm cho
tôi một tấm gương h́nh chữ nhật rộng bằng ngực tôi, một tờ giấy
trong, một cái bút lông nhỏ nét và một lọ mực, một ít giấy than
hay nếu không kiếm được ch́ một cây bút ch́ nét thật to và thật
đậm. Tôi cũng nhờ anh ta kiếm một ít áo quần vừa khổ người tôi
và cứ để ở nhà anh ta với ba cái áo sơ-mi ka-ki. Tôi được anh ta
cho biết rằng cảnh sát có hỏi anh ta về tôi và Antonio. Anh ta
đă nói với họ rằng tôi đă vượt núi sang Venezuela, c̣n Antonio
th́ bị rắn cắn chết rồi. Anh ta cũng biết rằng mấy người Pháp
vượt ngục hiện đang ở nhà tù Santa Marta.
Trong nhà Zorillo cũng có đủ những thứ đồ đạc linh tinh pha tạp
như trong nhà ông thủ lĩnh: một đống lớn những cái hũ bằng đất
sét có vẽ những hoa văn được người Anh-điêng ưa chuộng, đó là
những thứ đồ gốm rất nghệ thuật về h́nh dáng cũng như màu sắc và
hoa văn; những cái vơng tuyệt đẹp bằng len thuần chất, cái th́
trắng muốt, cái th́ có màu sắc, có dải viền. Những tấm da rắn,
da thằn lằn, da ễnh ương, tấm nào cũng rất lớn và được thuộc kỹ;
những cái giỏ đan bằng dây leo trắng hoặc nhiều màu. Anh ta nói
rằng tất cả những vật ấy đều là sản phẩm của những bộ lạc
Anh-điêng thuộc cùng một chủng tộc với bộ lạc của tôi nhưng lại
sống trong rừng rậm cách đây hai mươi lăm ngày đường. Hơn hai
mươi chiếc lá coca mà anh ta cho tôi cũng từ đấy đến. Khi nào
mỏi mệt chán chường, tôi sẽ nhai một chiếc lá là thấy đỡ ngay.
Tôi từ giă Zorillo và yêu cầu anh ta khi nào tiện th́ đem tất cả
những vật tôi đă kê và thêm vào đấy mấy tờ báo hay tạp chí bằng
tiếng Bây Ban Nha, v́ với cuốn từ điển, trong hai tháng qua tôi
đă học thêm được khá nhiều. Anh ta không có tin tức ǵ của
Antonio, chỉ biết rằng vừa qua lại có một cuộc đụng độ giữa các
đội canh pḥng bờ biển với bọn buôn lậu. Năm người lính và một
người buôn lậu đă bị giết, nhưng chiếc thuyền th́ không bắt
được. Chưa bao giờ tôi trông thấy một giọt rượu mạnh ở trong
làng, nếu không kể thứ nước quả lên men mà tôi đă có lần nói
đến. Trông thấy một chai rượu hồi trong nhà Zorillo, tôi hỏi xin
anh ta. Anh ta từ chối. Nếu tôi muốn uống ở đây th́ cứ uống,
nhưng đem về th́ anh ta không cho.
Cái anh bạch tạng này là một bậc hiền minh. Tôi từ giă Zorillo
và ra về với một con lừa mà anh ta cho tôi mượn để trở lại (anh
ta cam đoan rằng đến mai nó sẽ tự t́m đường về nhà một ḿnh).
Tôi chỉ đem về một gói kẹo lớn đủ màu, mỗi cái kẹo đều bọc giấy
mịn, và sáu mươi bao thuốc lá. Lali đợi tôi cách làng hơn ba cây
số cùng với cô em gái. Cô không gây gổ ǵ cả và chịu đi bên cạnh
tôi, chịu để cho tôi quàng lưng. Thỉnh thoảng cô đứng lại và hôn
lên môi tôi theo kiểu văn minh. Về đến làng, tôi đến thăm ông
thủ lĩnh và biếu ông gói kẹo với chỗ thuốc lá kia. Chúng tôi
ngồi trước cửa ngôi nhà ông thủ lĩnh, quay mặt ra biển.
Chúng tôi uống nước quả lên men đựng trong những cái chum bằng
đất nên lúc nào cũng mát. Lali ngồi ở bên phải tôi, hai tay ôm
lấy đùi tôi, c̣n cô em ngồi ở bên trái, cũng với tư thế như vậy.
Hai cô đều ngậm kẹo. Gói kẹo để mở trước mặt chúng tôi, đàn bà
trẻ con trong nhà chốc chốc lại ra bốc mấy cái. Ông thủ lĩnh khẽ
đẩy đầu Zoraima vào đầu tôi và ra hiệu cho tôi hiểu rằng cô ta
muốn làm vợ tôi như Lali. Lali cầm lấy vú Zoraima ra hiệu nói
rằng nó hơi nhỏ cho nên tôi mới không muốn lấy em gái cô. Tôi
nhún vai, thế là mọi người cười rộ. Tôi thấy h́nh như Zoraima
rất khổ sở. Tôi liền quàng tay quanh cổ cô, ôm cô vào ḷng và
vuốt ve đôi vú của cô: mặt Zoraima lập tức sáng bừng lên v́ hạnh
phúc. Tôi hút vài điếu thuốc lá. Mấy người Anh-điêng cũng thử
hút xem sao, nhưng được vài hơi họ đă vứt đi để quay trở về với
điếu thuốc lá quấn của họ, đầu có lửa ngậm trong miệng. Tôi đứng
dậy chào mọi người rồi cầm tay Lali ra về. Lali đi sau tôi và
Zoraima đi sau chị cô. Chúng tôi quạt ḷ than nướng mấy con cá
thật to: món này bao giờ cũng làm thành cả một bữa tiệc ngon
lành. Tôi vùi vào than hồng một con tôm hùm nặng ít nhất hai
cân. Chúng tôi lại ăn hết món này một cách ngon lành.
Tôi đă nhận được tấm gương, tờ giấy mịn và tờ giấy trong để đồ
h́nh, một ống keo mà tôi không hề nhờ mua nhưng có thể có ích
cho tôi, mấy cây bút ch́ than, lọ mực và cây bút lông. Tôi dùng
một sợi dây treo tấm gương ngang tầm ngực tôi ở tư thế ngồi:
Trong gương hiện ra rơ nét cái đầu hổ xăm trên ḿnh tôi, với đủ
các chi tiết. Lali và Zoraima ṭ ṃ nh́n tôi làm việc một cách
đầy hứng thú. Tôi cầm bút lông đồ lại từng nét, nhưng v́ mực cứ
chảy xuống, tôi phải dùng đến keo, pha nó vào mực. Từ đấy mọi sự
đều ổn. Sau ba buổi làm việc như thế, mỗi buổi một tiếng đồng
hồ, trên tấm gương đă có được một bán sao chính xác của cái đầu
hổ.
Lali đă đi mời ông thủ lĩnh, Zoraima cầm hai tay tôi để lên ngực
cô, cô có vẻ khổ sở và si mê, đôi mắt cô tràn đầy t́nh yêu và
dục vọng đến nỗi tôi phải ôm lấy cô, và cũng chẳng hiểu rơ ḿnh
làm ǵ, tôi chiếm hữu thân xác cô ngay dưới đất, ở giữa nhà. Cô
khẽ buông một tiếng rên, nhưng thân thể cô rướn thẳng lên v́
khoái lạc và dính chặt vào tôi không chịu buông ra nữa. Tôi nhẹ
nhàng gỡ ra rồi xuống biển tắm v́ người tôi đầy đất. Zoraima đi
theo tôi, và chúng tôi cùng tắm với nhau. Tôi kỳ lưng cho cô, cô
xát hai chân vào hai tay tôi, rồi chúng tôi cùng về nhà. Lali
đang ngồi ở chỗ chúng tôi vừa nằm với nhau, khi chúng tôi về th́
cô đă hiểu hết. Cô đứng dậy quàng tay lên cổ tôi và âu yếm hôn
tôi, rồi cô lấy cánh tay em gái và d́u nó đi ra bằng cửa của
tôi, đoạn quay lại và ra bằng cái cửa dành riêng cho ḿnh. Tôi
nghe thấy những tiếng đập vách từ phía ngoài. Tôi ra th́ trông
thấy Lali, Zoraima và hai người đàn bà khác nữa đang dùng một
thanh sắt để đục vách. Tôi hiểu rằng họ muốn khoét thêm một cái
cửa thứ tư. Để cho vách khỏi nứt ra quá rộng, họ dùng cái b́nh
tưới nước vào vách. Chỉ một lát sau cái cửa đă khoét xong.
Zoraima xua những mảnh vỡ ra ngoài. Từ nay trở đi một ḿnh cô sẽ
ra vào cái cửa này, cô sẽ không bao giờ dùng đến cửa của tôi
nữa.
Ông thủ lĩnh đến cùng với ba người Anh-điêng và người em trai
(vết thương ở chân anh này nay đă gán thành sẹo). Ông ta nh́n
cái h́nh vẽ trên gương và nh́n bóng ḿnh trong gương. Ông ta
kinh ngạc và vui mừng khi thấy cái đầu hổ được vẽ đẹp như vậy và
khi thấy mặt ḿnh được phản chiếu trong gương. Ông ta không hiểu
tôi định làm ǵ. Lúc bấy giờ mực đă khô, tôi đặt tấm gương lên
bàn, để tờ giấy trong lên mặt gương và bắt đầu đồ lại. Công việc
này rất dễ, chẳng mấy chốc mà xong. Cây bút ch́ sao lại đúng
từng nét vẽ, không đầy một nửa giờ sau, trước khi đôi mắt đầy
hứng thú của mọi người, tôi đă có được một h́nh vẽ cũng hoàn mỹ
không kém ǵ nguyên bản. Mỗi người lần lượt cầm tờ giấy lên ngắm
nghía, so sánh cái đầu hổ trên ngực tôi với cái đầu hổ trên tờ
giấy. Tôi cho Lali nằm lên bàn, nhấp một ít nước lên bụng cô
bằng một cái khăn ướt rồi đặt một tờ giấy than lên đấy và trên
cùng là tờ giấy của h́nh vẽ. Tôi vẽ một vài đường, và sự kinh
ngạc của mọi người lên đến cực độ khi họ thấy trên bụng của Lali
hiện rơ một phần của h́nh vẽ. Măi đến lúc ấy ông thủ lĩnh mới
hiểu rằng bao nhiêu công sức của tôi năy giờ là để làm vừa ḷng
ông ta.
Những con người không biết giả dối, v́ chưa được qua một quá
tŕnh giáo dục của người văn minh, bao giờ cũng phản ứng một
cách tự nhiên, cảm thụ như thế nào th́ phản ứng như thế. Họ hài
ḷng hay bất măn, vui hay buồn, thấy hứng thú hay dửng dưng đều
là một cách tự phát và hồn nhiên. Tính ưu việt của những người
Anh-điêng thuần nhất như mấy người Guajiros này thật rơ ràng. Họ
vượt chúng ta về mọi mặt, v́ khi họ đă thâu nạp một người nào
vào khối cộng đồng của họ th́ tất cả những ǵ họ có đều là của
người ấy, và về phần họ, khi nhận được của người ấy một sự quan
tâm dù nhỏ nhặt đến đâu th́ cái tâm hồn hết sức nhạy cảm của họ
cũng xúc động sâu xa. Tôi đă quyết định vạch trước những nét
chính bằng dao cạo để ngay trong buổi đầu tiên những đường viền
của h́nh vẽ đă ăn hẳn vào da. Sau đó tôi sẽ dùng ba cây kim đóng
vào một cái que nhỏ xăm thêm vào những đường đă vạch rồi xăm
tiếp những đường khác. Hôm sau tôi bắt tay vào việc.
Thủ lĩnh Zato nằm trên bàn. Sau khi đồ lại một lần nữa cái h́nh
vẽ trên giấy mịn sang một tờ giấy trắng khác dai hơn, tôi dùng
một cây bút ch́ cứng và một tờ giấy than in cái h́nh ấy lên da
bụng ông. Lớp da này đă dược bôi sẵn một lớp hồ loăng bằng đất
sét trắng pha với nước, rồi để cho khô. H́nh vẽ được in lên rất
rơ, tôi để một lúc cho nó khô hẳn. Ông thủ lĩnh nằm yên trên
bàn, người cứng đơ, không dám nhúc nhích, ngay cả cái đầu cũng
không dám nghiêng qua nghiêng lại v́ sợ làm hỏng cái h́nh vẽ mà
tôi đă cho ông ta xem trong tấm gương. Tôi dùng dao cạo vạch tất
cả các nét chính. Máu chỉ rỉ ra chút ít, rỉ ra đến đâu tôi lau
đến đấy, khi tất cả những đường nét giấy than hằn lên đă được
thay bằng những đường rạch mảnh màu đỏ, tôi lấy mực chàm bôi lên
khắp ngực. Mực chỉ khó ăn ở những chỗ tôi rạch hơi mạnh, v́ ở
những chỗ ấy máu cứ làm cho mực không ngấm xuống được, c̣n nh́n
chung th́ h́nh vẽ nổi lên rất rơ và rất đẹp. Tám ngày sau Zato
đă có cái đầu hổ trên ngực, mồm há to, với cái lưỡi màu hồng, bộ
nanh trắng, cái mũ và bộ ria đen, và cả đôi mắt nữa. Tôi rất hài
ḷng về tác phẩm của ḿnh: nó đẹp hơn cái đầu hổ của tôi, màu
sắc tươi hơn. Khi vảy đă tróc hết tôi dùng kim xâm lại một vài
chỗ chưa được đậm. Zato hài ḷng đến nỗi ông ta bảo Zorillo đặt
mua sáu tấm gương phát cho mỗi nhà một tấm và hai tấm nữa cho
nhà ông ta.
Những ngày, những tuần, những tháng lần lượt trôi qua. Bây giờ
đă là tháng tư và như vậy tôi ở đây đă được bốn tháng. Sức khỏe
tôi rất tốt. Cơ bắp tôi đều mạnh và đôi chân tôi đă quen đi đất
cho nên có thể đi bộ rất xa mà không mệt trong những chuyến đi
săn các giống thằn lằn lớn. Vừa rồi tôi quên không nói rằng sau
buổi đi thăm ông thầy mo lần đầu tôi đă yêu cầu Zorillo kiếm cho
tôi một ít thuốc i-ốt, một ít nước oxy một ít bông, mấy cuộn
bông, mấy chục viên kư ninhvà stovarsol. Dạo trước ở bệnh viện
tôi đă thấy một người tù khổ sai có một cái mụn loét to không
kém ǵ cái mụn của ông thầy mo. Tôi thấy Chatal, người y tá
nghiền một viên stovarsol rồi rắc vào đấy. Zorillo đă đem các
thứ đó đến cho tôi, lại tự động đưa thêm một ít thuốc mỡ nữa.
Tôi đă gửi con dao gỗ nhỏ cho ông thầy mo, và ông ta đă trả lời
bằng cách gửi con dao của ông cho tôi. Tôi phải năn nỉ măi và
nói đi nói lại đủ cách ông ta mới chịu để cho tôi chữa. Nhưng
tôi mới bôi thuốc được vài ba lần th́ cái mụn đă thu hẹp lại chỉ
c̣n một nữa, sau đó ông ta tiếp tục tự bôi thuốc lấy, rồi đến
một ngày kia ông ta gửi cho tôi con dao gỗ lớn để tôi đến xem
ông ta đă khỏi hẳn. Không bao giờ có ai biết rằng chính tôi đă
chữa cho ông ta khỏi.
Hai cô vợ của tôi không buông tôi ra được một phút. Khi nào Lali
đi vớt trai th́ Zoraima ở nhà với tôi. C̣n hễ Zoraima đi th́
Lali ngồi chơi với tôi. Thủ lĩnh Zato sinh con trai. Khi chuyển
bụng, vợ ông ra băi biển chọn một tảng đá lớn để tránh ở phía
sau cho đừng ai trông thấy, một bà vợ khác của Zato bưng cho bà
một cái giỏ lớn đựng bánh nướng, nước ngọt và những tảng đường
đen hai cân một. Chắc bà ta đẻ vào lúc bốn giờ chiều, v́ đến khi
mặt trời lặn bà vừa reo vừa đi về phía làng, hai tay giơ cao đứa
con. Trước khi bà ta về đến nơi th́ Zato cũng đă biết rằng đó là
một đứa con trai. Tôi đoán được rằng nếu đó là một đứa con gái
th́ bà vợ sẽ lẳng lặng bế con về, không reo ḥ ǵ cả, không giơ
cao đứa con lên như vậy. Lali dùng điệu bộ giảng giải cho tôi
hiểu điều đó. Người đàn bà Anh-điêng đi tới rồi dừng lại sau khi
giơ cao đứa con lên. Zato dang hai tay ra phía trước và reo lên,
nhưng vẫn đứng yên tại chỗ. Lúc bấy giờ người mẹ lại bước tới
mấy thước nữa, lại giơ cao đứa con, reo lên rồi đứng lại. Zato
lại reo và dang hai tay ra. Cứ như thế năm sáu lần trong khoảng
ba bốn chục mét cuối cùng. Zato vẫn đứng yên ở ngưỡng cửa nhà
ḿnh. Ông ta đứng trước cái cửa lớn, và mọi người đều chen chúc
ở hai bên. Người mẹ đứng lại khi chỉ c̣n năm sáu bước, bà ta giơ
cao đứa con và reo lên. Lúc bấy giờ Zato tiến tới luồn hai tay
dưới nách thằng bé, bế nó lên cao, rồi quay về phía đông reo ba
tiếng và giơ nó lên ba lần. Rồi ông ta đặt thằng bé ngồi trên
cánh tay phải, cho nó nằm ngang trên ngực, cho đầu nó chui vào
nách ḿnh rồi lấy cánh tay trái che nó. Xong ông ta đi vào cửa
lớn mà không quay lại. Mọi người đều vào theo, người mẹ vào sau
cùng. Có bao nhiêu nước quả lên men đều đem ra cho mọi người
uống hết.
Suốt cả tuần ấy, từ sáng đến chiều người ta tưới nước vào khoảng
đất ở trước mặt nhà của thủ lĩnh Zato, rồi cả đàn ông lẫn đàn bà
đến giẫm chân cho đất dẽ xuống. Rốt cuộc họ có được một cái sân
h́nh tṛn rất rộng bằng đất sét nện chặt. Ngày hôm sau họ dựng
một cái lêu lớn bằng da ḅ, và tôi đoán biết sắp có hội hè đến
nơi. Dưới lều da họ bày hơn hai mươi cái chum lớn bằng đất nung
rồi rót nước quả lên men vào. Họ đặt những phiến đá xếp thành
hàng lối và xung quanh chất những đống cui, khô có, xanh có, mỗi
ngày một chất cao thêm. Trong số củi đó có một phần lớn đă được
biển tấp vào từ lâu, nay đă khô, trắng và nhẵn.
Có những thân cây rất lớn đă được kéo từ biển lên không biết từ
bao giờ: Trên các phiến đá họ đă dựng hai cái cọc phía trên chĩa
đôi cao bằng nhau: đó là hai cột trụ của một cái ḷ quay khổng
lồ. Bốn con rùa lật ngửa, hơn ba mươi con thằn lằn khổng lồ hăy
c̣n sống, móng chân bị bất chéo vào nhau không chạy đi đâu được,
hai con cừu: cả đàn hy sinh vật ấy đang chờ người ta làm thịt.
Ngoài ra c̣n có ít nhất là hai ngàn cái trứng rùa biển.
Một buổi sáng nọ có khoảng mười lăm người cưỡi ngựa đến, tất cả
đều là người Anh-điêng, cổ đeo ṿng, đội mũ rơm vành rất rộng,
đóng khố, chân, đùi và mông để trần, ḿnh mặc áo không tay bằng
da cừu lộn trái. Ai nấy đều giắt một con dao găm lớn ở thắt
lưng, có hai người đeo súng săn hai ṇng, người cầm đầu có một
khẩu các bin tự động và mặc một chiếc áo vét rất đẹp, ống tay
bằng da đen, thắt một cái nịt giắt đầy đạn. Ngựa họ cưỡi rất
đẹp, nhỏ nhưng hăng, con nào lông cũng màu xám có đốm trắng.
Trên mông ngựa đều có buộc một bó cỏ khô. Từ xa họ đă báo hiệu
cho mọi người biết họ đến bằng những phát súng, nhưng v́ họ phi
nước đại cho nên vừa nghe tiếng súng đă thấy họ đến nơi ngay. Vị
thủ lĩnh của đoàn người này giống Zato và em trai ông một cách
kỳ lạ, tuy có lớn tuổi hơn. Xuống ngựa, vị thủ lĩnh ấy đi thẳng
về phía Zato và hai người chạm tay vào vai nhau. Vị khách đi vào
nhà một ḿnh, Zato theo sau, rồi lại đi ra, trên tay bế thằng bé
mới đẻ. Ông ta giơ nó ra cho mọi người trông rơ, rồi làm những
cử chỉ giống như Zato đă làm hôm trước: sau khi đưa nó về hướng
mặt trời mọc, ông ta dấu nó dưới nách và che cánh tay trái lên,
rồi đi vào nhà. Bấy giờ tất cả những người cưỡi ngựa đều nhảy
xuống đất, buộc ngựa cách đấy một quăng, bó cỏ khô treo lủng
lẳng ở cổ từng con. Vào khoảng giữa trưa một tốp đàn bà
Anh-điêng đi trên một cái xe lớn có bốn ngựa kéo, vào làng.
Người đánh xe là Zorillo. Trên xe có cả thảy đến hai mươi người
đàn bà, đều c̣n trẻ, và bảy tám đứa bé đều là con trai.
Trước khi Zorillo đến, tôi đă được giới thiệu với cả đoàn người
cưỡi ngựa, bắt đầu từ vị thủ lĩnh. Zato chỉ cho tôi để ư thấy
ngón chân út bên trái của ông ta bắt chéo lên trên ngón thứ tư.
Em trai ông ta cũng thế, và vị thủ lĩnh mới đến cũng lại như
vậy. Sau đó ông ta lại chỉ cho tôi thấy rằng phía dưới cánh tay
của mỗi người đều có một thử nốt ruồi đen giống nhau. Tôi hiểu
rằng người khách mới đến là anh ruột của thủ lĩnh làng tôi.
Những h́nh xăm trên người Zato được mọi người ngắm khía khen
ngợi, nhất là cái đầu hổ.
Tất cả những người đàn bà Anh-điêng mới đến đều có hoa văn đủ
các màu sắc vẽ khắp người, chỉ trừ khuôn mặt. Lali khoác những
chuỗi san hô vào cổ mấy người đàn bà, và những chuỗi vỏ ốc vào
cổ mấy người khác Tôi để ư đến một người đàn bà Anh-điêng rất
đẹp, cao hơn những người khác vốn có tầm vóc trung b́nh. Cô ta
có những đường nét của một người đàn bà ư trông nghiêng giống
như một bức phù điêu trên mặt những chiếc mề-đay mà người ta
thường đeo ở cổ. Tóc cô ta màu đen có ánh tím, mắt màu cẩm
thạch, rất to, với đôi hàng mi rất dài và đôi mày cong rất đẹp.
Tóc cô ta cắt theo kiểu Anh-điêng, phía trước có bờm xén thắng,
phía trên có đường ngôi ở giữa chia mái tóc ra làm hai phần rũ
xuống hai bên tai. Mái tóc được cắt rất thẳng ở khoảng giữa cổ.
Đôi vú bằng cẩm thạch gần sát nhau ở phía góc mở ra hai bên một
cách hài ḥa.
Lali giới thiệu tôi với cô ta và dắt cô ta về nhà chúng tôi cùng
với Zoraima và một cô gái Anh-điêng khác rất trẻ mang theo mấy
cái cốc gỗ và một bó bút lông. Số là mấy người đàn bà mới đến
này có nhiệm vụ vẽ hoa văn cho phụ nữ trong làng. Tôi được chứng
kiến cái công tŕnh nghệ thuật mà cô gái xinh đẹp kia thực hiện
trên người Lali và Zoraima. Bút lông của họ làm bằng một que gỗ
có gắn một dúm len ở đầu. Cô gái chấm nó vào mấy cái cốc đựng
thuốc màu để vẽ. Tôi cũng lấy cây bút lông của tôi ra, và bắt
đầu từ rốn Lali, tôi vẽ một cây hoa có hai cành đi lên hai bờ
vú, rồi vẽ những cánh hoa màu hồng trên hai vú, c̣n đầu vú th́
tôi bôi vàng. Trông như một bông hoa hé nở, ở giữa có nhụy vàng.
Ba cô con gái kia muốn tôi vẽ cả cho họ nữa. Việc này tôi phải
hỏi Zorillo. Anh ta đến và nói rằng một khi họ đă bằng ḷng th́
tôi muốn vẽ ǵ cho họ cũng được cả. Tôi đă lâm vào một t́nh thế
thật đặc biệt. Suốt hơn hai tiếng đồng hồ tôi phải vẽ màu lên
bụng và vú của tất cả các cô Anh-điêng, khách cũng như chủ.
Zoraima nhất định đ̣i tôi vẽ thật giống như Lali. Trong khi đó,
dân làng đă quay xong mấy con cừu và nướng thịt hai con rùa đă
được đă được xẻ ra từng miếng. Thịt của nó đỏ tươi giống như
thịt ḅ, trông rất ngon lành.
Tôi được ngồi gần Zato và bố ông ta ở dưới lều. Đàn ông ăn một
bên, đàn bà ăn bên kia, không kể những người bưng dọn thức ăn
cho chúng tôi. Đám hội kết thúc bằng một thứ điệu vũ, khi đă khá
khuya. Để đệm cho điệu vũ, một người đàn ông Anh-điêng thổi một
cây sáo bằng gỗ phát ra những âm thanh cao hơi đơn điệu và đánh
lên hai cái trống bằng da cừu. Có nhiều người, cả đàn ông lẫn
đàn bà, say rượu, nhưng không thấy xảy ra chuyện ǵ khó coi. Ông
thầy cũng cưỡi lừa đến dự. Ai cũng nh́n cái sẹo màu hồng đă thay
thế cho cái mụn sâu quẳng mà mọi người đều biết rơ. Họ đều lấy
làm ngạc nhiên khi thấy nó đă khỏi. Chỉ có Zorillo và tôi là
biết rơ ngọn ngành, Zorillo giảng giải cho tôi biết rằng thủ
lĩnh của bộ lạc đến dự hội là ông bố của Zato, thường được gọi
là Justo, có nghĩa là Công Bằng. Ông ta là người chuyên xử các
vụ tranh chấp giữa những người thuộc các bộ lạc khác nhau trong
chủng tộc Guajiros. Anh ta cũng nói cho tôi biết rằng khi có
chuyện xích mích với người Iapus, một chủng tộc Anh-điêng khác,
hai bên họp lại để bàn xem sẽ mở cuộc chiến tranh với nhau hay
dàn xếp với nhau. Khi một người Anh-điêng bị một người thuộc
chủng tộc khác giết chết, họ có thể tránh được chiến tranh bằng
cách thỏa thuận với nhau là kẻ giết người bồi thường cho bộ lạc
có người bị giết. Nhiều khi của bồi thường có thể lên tới hai
trăm con ḅ, v́ các vùng núi và chân núi, bộ lạc nào cũng nuôi
được rất nhiều ḅ. Đáng tiếc là họ không bao giờ tiêm chủng ḅ
để pḥng ngừa bệnh sốt lở mồm và các bệnh dịch thường làm chết
rất nhiều súc vật. Zorillo cho rằng t́nh h́nh đó cũng có mặt
tốt, v́ nếu không có những thứ bệnh ấy th́ số súc vật sẽ quá
nhiều. Ḅ của người Anh-điêng không được đem bán công khai ở
Colombia hay ở Venezuela, mà chỉ được đổi chác quanh quẩn trong
phạm vi lănh thổ Anh-điêng, v́ người ta sợ bệnh sốt lở mồm sẽ
lan vào hai xứ này. Nhưng, vẫn theo Zorillo, trong vùng núi
người ta buôn lậu gia súc rất nhiều. Vị khách của bộ lạc thủ
lĩnh Công Bằng nhờ Zorillo bảo tôi đến thăm ông ta trong làng
của bộ lạc do ông đứng đầu. Làng này h́nh như có đến một trăm
mái nhà. Ông ta bảo tôi cùng đến với Lali và Zoraima, ông ta sẽ
cho một nếp nhà riêng, và dặn tôi đừng đem ǵ theo v́ ở đấy tôi
có đủ các thứ cần dùng, chỉ cần mang theo những dụng cụ xăm h́nh
để xăm cho ông ta một cái đầu hổ. Ông ta tháo cái nịt gân bằng
da đen thắt ở cổ tay ra tặng tôi. Theo Zorillo th́ đó là một cử
chỉ có ư nghĩa quan trọng cho biết rằng ông ta là bạn của tôi và
trước những ư muốn của tôi ông ta sẽ không đủ sức từ chối. Ông
ta hỏi tôi xem tôi có muốn có một con ngựa không, tôi trả lời là
có nhưng tôi không dám nhận v́ ở đây hầu như không có cỏ. Ông ta
liền nói rằng Lali hay Zoraima mỗi khi cần có thể đến cắt cỏ ở
một nơi chỉ cách làng tôi nửa ngày đi ngựa, ông ta chỉ rơ cách
đi đến nơi ấy và nói thêm rằng ở đấy cỏ tốt và ngon. Tôi đành
nhận con ngựa mà ông nói là chỉ ít nữa ông sẽ gửi đến cho tôi
Nhân dịp Zorillo ở lại đây khá lâu, tôi nói rằng tôi tin anh ta
và hy vọng rằng anh ta sẽ không phản bội tôi khi tôi cho anh
biết ư định đi Venezuela. Anh ta liền nói rơ cho tôi biết những
mối nguy hiểm của những vùng nằm trong khoảng ba mươi cây số hai
bên biên giới. Theo những tài liệu của dân buôn lậu th́ phái
Venezuela nguy hiểm hơn phía Colombia. Mặt khác, bản thân anh ta
có thể đưa tôi đi về phía Colombia gần đến tận Santa Marta, và
nói thêm rằng tôi đă từng đi qua đường này, và theo anh ta th́
đi Colombia có lợi hơn. Anh ta bằng ḷng giúp tôi kiếm một cuốn
từ điển khác hay tốt hơn là những cuốn sách học tiếng Tây Ban
Nha trong đó có những câu mẫu. Theo anh ta nếu tôi tập giả vờ
nói cà lăm thật dữ th́ sẽ rất có lợi v́ khi nghe tôi nói người
ta sẽ sốt ruột và sẽ tự nói nốt những câu dở dang mà không để ư
đến cách phát âm lơ lớ của tôi. Thế là chúng tôi đă nhất trí:
anh ta sẽ mua cho tôi mấy cuốn sách, một tấm bản đồ càng chi
tiết càng tốt và khi cần sẽ đảm đương việc giúp tôi bán ngọc
trai để lấy tiền Colombia. Zorillo giải cho tôi hiểu rằng người
Anh-điêng, bắt đầu từ ông thủ lĩnh, chỉ có thể tán thành quyết
định ra đi của tôi, v́ một khi tôi đă muốn thế, họ sẽ lấy làm
tiếc nhưng cũng sẽ hiểu rằng tôi t́m cách trở về với đồng chủng
là lẽ tự nhiên. Cái khó là Zoraima và nhất là Lali. Cả hai
người, nhất là Lali, đều rất có thể bắn chết tôi. Mặt khác,
Zorillo cũng cho tôi biết một điều mà tôi không ngờ: Zoraima đă
có thai. Trước đó tôi không để ư, cho nên nghe nói như vậy tôi
rất kinh ngạc.
Hội hè đă kết thúc, khách khứa đă ra về, cái lều da ḅ đă được
tháo gỡ, mọi việc trở lại như cũ, ít nhất là bề ngoài. Tôi đă
nhận được con ngựa của thủ lĩnh Justo tặng, một con tuấn mă màu
xám có đốm trắng, đuôi dài sát đất, bờm màu xám bạch kim rất
đẹp. Lali và Zoraima chẳng bằng ḷng chút nào, và ông thầy mo có
cho gọi tôi đến để nói cho tôi biết rằng Lali và Zoraima có hỏi
ông ta xem thử nếu họ cho con ngựa ăn thủy tinh đâm vụn cho nó
chết đi th́ họ có bị sao không. Ông thầy mo đă trả lời hai cô là
không được làm như thế v́ tôi được một ông thần Anh-điêng nào đó
che chở cho nên nếu hai cô bỏ thủy tinh vụn vào thức ăn của ngựa
th́ chỗ thủy tinh đó tức khắc sẽ chui vào bụng hai cô. Ông ta
nói thêm rằng theo ông không có ǵ đáng sợ về phía họ nữa, nhưng
điều đó cũng không chắc hoàn toàn. Tôi phải coi chừng. C̣n về
phần tôi th́ sao? Không sao cả, ông ta nói thế. Nếu hai cô thấy
tôi sửa soạn ra đi thật, quá lắm họ cũng chỉ có thể giết tôi
bằng một phát súng, nhất là Lali. Liệu tôi có thể t́m cách
thuyết phục họ để họ cho tôi đi, hứa rằng tôi nhất định sẽ trở
lại không? Tối kỵ, không bao giờ được để cho họ thấy rằng tôi
muốn ra đi.
Ông thầy mo đă nói được cho tôi hiểu tất cả những điều: đó đúng
hôm ấy ông ta cho gọi cả Zorillo đến làm thông ngôn. T́nh h́nh
rất nghiêm trọng cho nên phải đề pḥng hết cách, Zorillo kết
luận như vậy. Tôi về nhà. Zorillo cũng về bằng một con đường
khác - (khi đến đây, anh ta cũng đă giữ ư đi một con đường khác
hẳn con đường của tôi). Trong làng không có ai biết là Zorillo
lên chỗ ông thầy mo cùng một lúc với tôi.
Đă sáu tháng trôi qua, và tôi rất nóng ḷng muốn ra đi. Có một
hôm đi đâu về, tôi bắt gặp Lali và Zoraima lom khom trên tấm bản
đồ. Hai cô đang cố đoán xem những h́nh vẽ ngoằn ngoèo trên tờ
giấy kia là cái ǵ. Hai cô ngại nhất là cái h́nh có những mũi
tên chỉ ra bốn phương trời. Rốt cục họ chẳng hiểu ǵ nhưng vẫn
đoán rằng tờ giấy này có một cái ǵ rất hệ trọng đối với cuộc
đời của vợ chồng chúng tôi. Bụng Zoraima đă bắt đầu to lên khá
rơ. Lali hơi ghen và bắt tôi phải làm t́nh vào bất cứ giờ nào
không kể ngày hay đêm, hễ có nơi thuận tiện một chút là được
Zoraima cũng đ̣i làm t́nh, nhưng may thay, chỉ ban đêm thôi. Tôi
đă đến thăm thủ lĩnh Công Bằng, ông của Zato. Cả Lali và Zoraima
cũng cùng đi với tôi. Rất may là hôm trước tôi đă giữ lại h́nh
vẽ đầu hổ, cho nên bây giờ tôi có thể dùng nó để đồ lên ngực ông
thủ lĩnh. Trong sáu ngày việc xăm h́nh đă xong, v́ lớp vảy đầu
đă tróc rất nhanh sau khi ông ta rửa ngực bằng nước có bỏ chút
vôi sống. Justo hài ḷng đến nỗi mỗi ngày ông soi gương đến mấy
lần. Trong khi tôi c̣n ở đấy th́ Zorillo đến. Với sự đồng ư của
tôi, anh ta nói chuyện với thủ lĩnh về dự định của tôi, v́ tôi
muốn ông đổi cho tôi con ngựa. Ngựa của người Guajiros màu xám
có đốm trắng không hề có ở Colombia, nhưng ông thủ lĩnh có ba
con ngựa hồng, vốn là ngựa xứ Colombia. Biết được ư định của
tôi, ông ta cho người đi bắt ngựa ngay. Tôi chọn một con có vẻ
đằm tính nhất ông ta liền ra lệnh đóng yên, lắp bàn đạp và một
cái hàm thiếc, v́ ngựa của họ không có yên, và hàm thiết chỉ là
một khúc xương. Sau khi đă trang bị tôi theo kiểu Colombia, thủ
lĩnh đặt vào tay tôi sợi dây cương bằng da nâu, rồi trước mặt
tôi ông ta đếm cho Zorillo ba mươi chín đồng tiền vàng mỗi đồng
ăn một trăm pesos. Zorillo có nhiệm vụ giữ số tiền này để trao
lại cho tôi khi tôi ra đi. Ông ta muốn tặng tôi khẩu các-bin
Winchester tự động của ông ta, nhưng tôi từ chối. Vả lại Zorillo
cũng đă nói rằng tôi không thể mang vũ khí vào Colombia được.
Lúc bấy giờ thủ lĩnh Công Bằng đưa cho tôi hai mũi tên dài bằng
ngón tay bọc trong một cái túi da nhỏ. Zorillo nói cho tôi biết
rằng những mũi tên này đă được tẩm một thứ thuốc độc rất mạnh và
rất quư.
Zorillo chưa bao giờ thấy mà cũng chưa bao giờ có những mũi tên
tẩm thuốc độc. Anh ta có nhiệm vụ giữ mấy mũi tên này cho đến
khi tôi lên đường. Tôi không biết làm thế nào để bày tỏ ḷng
biết ơn của tôi đối với ḷng tốt tuyệt vời của thủ lĩnh Công
Bằng. Ông ta nói tôi qua Zorillo rằng ông ta biết được ít nhiều
về cuộc đời tôi và tôi nghĩ rằng cái phần mà ông ta chưa biết
chắc phải phong phú lắm, v́ dưới mắt ông tôi là một con người
hoàn hảo; ông ta nói lại rằng đây là lần đầu tiên trong đời ông
được biết rơ về một người da trắng, trước kia ông coi tất cả
những người da trắng như là những kẻ thù, nhưng từ nay ông sẽ
quư mến họ và t́m cách biết thêm một người nữa giống như tôi.
Ông nói:
- Anh hăy nghĩ cho kỹ trước khi lên đường đi đến một vùng đất có
nhiều kẻ thù của anh và rời bỏ vùng đất này, nơi mà anh chỉ có
những người bạn.
Ông ta lại nói rằng Zato và bản thân ông sẽ trông nom Lali và
Zoraima, rằng đứa con của Zoraima bao giờ cũng sẽ có được một vị
trí vinh hiển trong bộ lạc (nếu nó sẽ là con trai, dĩ nhiên).
Ông nói tiếp:
- Tôi th́ tôi chẳng muốn anh ra đi. Nếu anh ở lại, tôi sẽ cho
anh cô gái xinh đẹp mà anh đă gặp trong ngày hội. Đó là một đứa
con gái tốt, và nó cũng yêu anh. Nếu vậy anh có thể ở lại đây
với tôi. Anh sẽ có một ngôi nhà lớn và muốn có bao nhiêu ḅ cũng
được.
Tôi từ giă con người tuyệt vời đó và trở về làng. Suốt dọc
đường, Lali không nói một câu nào. Cô ngồi sau lưng tôi, trên
con ngựa hồng. Cái yên cà vào đùi làm cho cô đau, nhưng cô vẫn
không hé răng. Zoraima chung ngựa với một người Anh-điêng.
Zorillo trở về làng anh ta bằng một con đường khác. Ban đêm trời
hơi lạnh. Tôi mặc cho Lali chiếc áo vét bằng da cừu mà thủ lĩnh
Công Bằng mới cho tôi. Cô cứ để mặc, không nói lấy một lời,
không biểu lộ một cảm xúc ǵ. Người cô im như pho tượng. Cô cứ
để cho tôi mặc áo vào người, chỉ thế thôi. Ngựa chạy có xóc
nhiều, cô cũng không ôm lưng tôi để ngồi cho vững. Về đến làng,
trong khi tôi ghé chào Zato, cô dắt ngựa về trước, buộc dây
cương vào cột nhà, ném một bó cỏ trước mặt nó, không tháo yên,
không tháo hàm thiết. Tôi ngồi với Zato đến một tiếng đồng hồ
rồi về nhà.
Khi nào buồn, người Anh-điêng, nhất là phụ nữ, có một gương mặt
trầm ngâm, kín như bưng, không một thớ thịt nào cử động, đôi mắt
ch́m đắm trong nỗi buồn nhưng lại không bao giờ khóc. Họ có thể
rên rỉ, nhưng họ không khóc. Đang nằm, tôi trở ḿnh vô t́nh chạm
phải bụng Zoraima lần nữa. Cái vơng này mắc rất thấp. Tôi nằm
xuống th́ cảm thấy có ai chạm vào nó. Tôi giả vờ ngủ. Lali ngồi
trên một súc gỗ và im lặng nh́n tôi không nhúc nhích. Một lát
sau tôi lại cảm thấy sự có mặt của Zoraima: cô có thói quen bóp
nát mấy bông hoa cam rồi xát lên người, cho nên da cô có một mùi
thơm rết riêng biệt. Những bông hoa ấy cô thường mua từng túi
nhỏ của một người đàn bà Anh-điêng thỉnh thoảng vẫn ghé vào
làng. Khi tôi thức dậy hai cô vẫn ngồi ở đấy, im ĺm bất động.
Mặt trời đă lên, lúc ấy vào khoảng tám giờ. Tôi dẫn hai người ra
băi biển và nằm xuống lớp cát khô. Lali và Zoraima đều ngồi cạnh
tôi. Tôi vuốt lên đôi vú và lên bụng Zoraima, nhưng cô vẫn lạnh
như băng. Tôi kéo Lali nằm xuống và hôn cô, nhưng cô mím chặt
môi lại. Người chèo thuyền đă đến đợi Lali. Chỉ nh́n gương mặt
của cô thôi, anh ta cũng hiểu ngay và lảng đi nơi khác. Tôi
thành thật xót xa nhưng tôi chẳng biết làm cách nào, chỉ biết ôm
ấp vuốt ve họ để cho họ thấy rơ tôi yêu họ. Họ vẫn chẳng nói
không rằng. Chỉ nghĩ đến cuộc sống của họ sau khi tôi ra đi, tôi
cũng đă thấy rối bời cả ruột gan trước nỗi đau lớn lao của họ.
Lali muốn làm t́nh ngay cho bằng được. Cô hiến thân cho tôi một
cách hầu như tuyệt vọng. V́ nguyên do ǵ? Nguyên do chỉ có thể
có một: cố sao có thai với tôi. Sáng hôm ấy, lần đấu tiên tôi
trông thấy một cử chỉ ghen tuông của Lali đối với Zoraima. Lúc
bấy giờ tôi đang vuốt ve cái bụng và đôi vú của Zoraima c̣n cô
th́ cắn nhè nhẹ vào dái tai tôi. Chúng tôi đang nằm trên băi
biển ở một nơi kín gió trên cát mịn. Lali đi tới, cầm lấy cánh
tay em, rồi vuốt lên cái bụng hơi phồng lên của cô em, rồi lại
vuốt lên cái bụng phẳng và trơn của ḿnh. Zoraima lập tức đứng
dậy nhường chỗ cho chị bên cạnh tôi, vẻ như muốn nói: chị có lư.
Hai cô ngày nào cũng làm hết món này đến món nọ cho tôi ăn,
nhưng hai cô th́ chả ăn ǵ hết. Đă ba ngày rồi họ không ăn ǵ.
Tôi thắng ngựa và suưt phạm một sai lầm nghiêm trọng, sai lầm
đầu tiên kể từ hơn năm tháng nay: tôi định đến thăm ông thầy mo
mà không chờ được phép. Giữa đường tôi sực nhớ ra, nên không dám
vào thẳng mà chỉ đi qua đi lại cách lều ông ta khoảng hai trăm
mét. Ông ta đă trông thấy tôi và ra hiệu gọi tôi đến. Tôi t́m
cách làm cho ông ta hiểu rằng Lali và Zoraima không chịu ăn nữa.
Ông ta cho tôi một cái hạt ǵ giống như hạt dẻ, dặn tôi bỏ vào
chum nước ngọt trong nhà. Tôi về nhà và bỏ cái hột vào cái chum
lớn. Hai cô đă uống nước nhiều lần mà tôi vẫn chẳng thấy họ ăn
ǵ cả. Lali không đi vớt trai nữa. Hôm nay, sau bốn ngày nhịn
đói hoàn toàn, cô đă làm một việc thật là điên rồ: cô đă bơi ra
biển cách bờ gần hai trăm mét và đem ba mươi con ṣ về cho tôi
ăn. Nỗi tuyệt vọng câm lặng của họ làm cho tôi hoang mang đến
nỗi tôi cũng không ăn được nữa. T́nh trạng này đă kéo dài được
sáu ngày. Lali phải nằm, người cô hâm hấp sốt. Trong sáu ngày
trời cô chỉ mút nước vài quả chanh, ngoài ra chẳng có ǵ nữa.
Zoraima ăn môi ngày một lần vào giữa trưa. Tôi không c̣n biết
làm thế nào nữa.
Hôm đó tôi ngồi cạnh Lali. Lali nằm trên một chiếc vơng mà tôi
đă gấp lại trải xuống đất thành một thứ nệm, mắt cô nh́n đăm đăm
lên mái nhà, người cô bất động. Tôi nh́n Lali rồi lại nh́n
Zoraima với cái bụng cộm lên, rồi cũng chẳng hiểu rơ tại sao,
nước mắt tôi trào ra: tôi khóc. Khóc cho bản thân, hay khóc cho
họ? Ai mà biết được! Tôi khóc, nước mắt chảy ṛng ṛng trên hai
má. Zoraima thấy thế liền cất tiếng rên rỉ, lúc bấy giờ Lali
ngoảnh lại và thấy mặt tôi giàn giụa nước mắt. Cô đứng phắt dậy,
đến ngồi vào ḷng tôi, rên khe khẽ. Cô ôm hôn tôi và vuốt ve
tôi. Zoraima quàng một cánh tay lên vai tôi, Lali th́ bắt đầu
nói những ǵ không rơ, vừa nói vừa rên rỉ. Zoraima đáp lại, h́nh
như cô trách móc chị. Lali lấy một cục đường đen to bằng nắm tay
bỏ vào nước khuấy trước mặt tôi và uống hai hớp hết sạch. Rồi cô
cùng ra ngoài với Zoraima, tôi nghe thấy tiếng họ dắt ngựa ra,
và đến khi tôi ra th́ đă thấy nó được thắng yên cương đầy đủ,
dây cương buộc vào đầu yên. Tôi đem theo cái áo da cừu cho
Zoraima, và Lali đặt lên yên một cái vơng gấp lại. Zoraima lên
ngựa trước, ngồi sát cổ con ngựa, tôi ngồi giữa và Lali ngồi
sau. Lúc bấy giờ tôi hoang mang đến nỗi ra đi chẳng chào ai mà
cũng chẳng báo cho thủ lĩnh biết.
Lali kéo dây cương, v́ tôi tưởng họ định đi đến nhà ông thầy mo
nên đă cho ngựa đi về hướng ấy. Hóa ra không phải, Lali kéo dây
cương rồi nói: “Zorillo”. Chúng tôi đi gặp Zorillo, Lali ngồi
bám vào thắt lưng tôi thật chặt, mấy lần hôn vào cổ tôi. Tôi th́
tay trái cầm cương c̣n tay phải tôi vuốt ve Zoraima của tôi.
Chúng tôi đến làng Zorillo vừa đúng lúc anh ta từ Colombia trở
về với ba con lừa và một con ngựa chở rất nặng. Chúng tôi vào
nhà. Lali nói trước, rồi Zoraima.
Và đây là những điều Zorillo đă nói lại cho tôi hiểu: kể cho đến
khi trông thấy tôi khóc, Lali đă tưởng rằng tôi là một con người
Da trắng không hề coi cô ta ra ǵ. Lali biết rằng tôi sắp ra đi,
nhưng tôi giả dối như con rắn v́ tôi không bao giờ chịu nói ǵ
hay làm ǵ cho cô hiểu điều đó. Cô ấy nói rằng cô thất vọng vô
cùng, v́ cô vẫn nghĩ rằng một người như cô có thể làm cho một
người đàn ông hạnh phúc được. Cô nghĩ rằng một người đàn ông
được thỏa măn th́ không bao giờ lại bỏ đi, rằng sau một sự đổ vỡ
trầm trọng như vậy không c̣n lư do ǵ để cho cô tiếp tục sống
nữa. Zoraima cũng nói đại loại như vậy, và thêm vào đấy lại c̣n
lo rằng con trai cô đẻ ra sẽ giống như bố nó: một con người
chẳng biết nói năng, ăn ở dối trá và đ̣i hỏi ở vợ ḿnh những
chuyện khó làm đến nỗi, mặc dầu sẵn sàng hy sinh tính mạng cho
chồng, họ cũng không tài nào hiểu được tại sao tôi lại muốn xa
lánh cô ấy như thể cô ấy là con chó đă cắn tôi hôm tôi mới đến?
Tôi trả lời:
- Lali ạ, nếu bố em ốm, em sẽ làm ǵ?
- Em sẽ đi trên chông gai để đến săn sóc bố.
Nếu người ta săn đuổi em như một con thú để giết em, th́ đến cái
ngày mà em có thể chống trả được em sẽ làm ǵ?
- Em sẽ đi t́m kẻ thù của em khắp mọi nơi, để chôn nó xuống thật
sâu, sâu đến nỗi nó không c̣n có thể nhúc nhích trong cái lỗ
chôn nó được nữa.
- Làm xong tất cả những việc đó, em sẽ làm ǵ nếu em có hai
người vợ tuyệt vời đang đợi em?
- Em sẽ cưỡi ngựa trở về.
- Đó là điều mà anh sẽ làm, chắc chắn như vậy.
- Thế nếu khi anh trở về em đă già và xấu th́ sao?
- Anh sẽ về từ lâu trước khi em già và xấu.
- Phải, nước trong mắt anh đă chảy ra: như vậy là anh không bao
giờ có thể cố t́nh xa lánh chúng em. Cho nên bây giờ anh muốn ra
đi lúc nào em cũng bằng ḷng, nhưng anh phải đi giữa ban ngày,
trước mặt mọi người, chứ không phải ra đi vụng trộm như thằng ăn
cắp. Anh phải ra đi đúng như anh đă đến đây, đúng vào giờ ấy, ăn
mặc chỉnh tề. Anh phải nói rơ người nào được anh giao nhiệm vụ
trông nom chúng em đêm ngày. Zato là vị thủ lĩnh của chúng em,
nhưng phải có một người nữa trông nom chúng em. Anh phải nói cho
mọi người nghe rằng nhà này vẫn là nhà của anh, rằng không có
một người đàn ông nào trừ con trai anh nếu trong bụng Zoraima là
một đứa con trai, không có một người đàn ông nào có quyền bước
chân vào nhà anh. Vậy Zorillo phải đến đây vào ngày anh ra đi.
Để nói lại cho mọi người nghe tất cả những điều anh cần nói.
Chúng tôi đă ngủ lại nhà Zorillo. Đêm ấy là một đêm dịu ngọt và
êm ái lạ thường. Những tiếng th́ thầm và những âm thanh êm dịu
phát ra từ miệng hai đứa con gái của thiên nhiên ấy có những âm
hưởng ái ân mạnh mẽ và sâu xa đến nỗi tôi rung động đến tận đáy
ḷng. Cả ba chúng tôi cùng cưỡi ngựa trở về làng, đi rất thong
thả để nương nhẹ cái bụng của Zoraima. Tôi phải ra đi đúng vào
ngày thứ chín sau khi bắt đầu tuần trăng, v́ Lali muốn cho tôi
biết chắc cô đă có mang chưa. Tuần trăng trước, cô không thấy
kinh nguyệt. Lali sợ ḿnh có thể nhầm, nhưng nếu tuần trăng này
lại không thấy nữa th́ như thế có nghĩa là một đứa con đă bắt
đầu phôi thai trong ḿnh cô. Zorillo sẽ đem theo tất cả các thứ
áo quần tôi sẽ mặc: tôi sẽ mặc các thứ ấy vào sau khi đă nói
chuyện với dân làng với tư cách đầy đủ của một người dân
Guajiro. Nghĩa là trong bộ trang phục của dân tộc - cái khố.
Trước đấy một hôm, chúng tôi sẽ phải cùng đến gặp ông thầy mo,
cả ba người. Ông ta sẽ nói cho chúng tôi biết là trong nhà phải
để ngỏ cái cửa của tôi hay phải đóng nó lại. V́ phải nương nhẹ
cái bụng của Zoraima, chúng tôi cho ngựa đi trên đường về một
cách chậm chạp. Tuy vậy, chuyến đi này không có ǵ buồn bă. Hai
cô vợ của tôi thà biết rơ sự thật c̣n hơn là bị bỏ lại trong một
t́nh thế không minh bạch và chịu đựng những tiếng chê cười của
đàn bà và đàn ông trong làng. Khi Zoraima sinh con, cô sẽ chọn
một người chèo thuyền để đi ṃ trai, cô sẽ cố gắng ṃ thật nhiều
ngọc để dành cho tôi.
Lali cũng sẽ đi ṃ trai nhiều hơn trước để có công việc làm cho
đỡ buồn. Tôi rất tiếc là đă không học tiếng Guajiro: tôi chỉ
biết được mười lăm tiếng là cùng. Giá tôi chịu khó học, tôi có
thể nói với Lali và Zoraima biết bao nhiêu điều cần nói, nhất là
những điều không thể nói qua một người phiên dịch. Chúng tôi đă
về đến làng. Việc đầu tiên cần phải làm là đến gặp Zato để xin
lỗi v́ vừa rồi ra đi không nói ǵ với ông. Zato cũng cao thượng
như cha ông. Tôi chưa kịp nói th́ ông đă đặt bàn tay lên cổ tôi
và nói “Uilu (anh im đi)”. C̣n mười hai ngày nữa sẽ có trăng
non. Cộng thêm tám ngày tôi phải đợi nữa là hai mươi ngày: đến
ngày thứ hai mươi mốt tôi sẽ lên đường.
Tôi xem lại bản đồ, dự định thay đổi một vài chi tiết trong cách
đi qua các làng mạc, vừa xem vừa nghĩ lại những điều mà thủ lĩnh
Công Bằng đă nói với tôi. Dễ có nơi nào tôi sẽ được sung sướng
hơn ở đây, nơi mà mọi người đều yêu quư tôi? Hay là tôi sẽ tự
ḿnh chuốc lấy tai họa khi trở về với thế giới văn minh?
Tương lai sẽ trả lời cho tôi biết.
Ba tuần ấy đă trôi qua như một giấc mơ kỳ ảo. Lali đă có đủ bằng
chứng để biết chắc rằng cô có mang: thế là sẽ có hai hay ba đứa
trẻ đợi tôi về. Sao lại ba? Lali nói với tôi rằng mẹ cô đă hai
lần đẻ sinh đôi. Chúng tôi đă đến gặp ông thầy mo. Không, không
được đóng cửa. Chỉ lấy một cành cây chắn ngang cửa là đủ. Cái
vơng mà ba chúng tôi thường nằm phải đem căng lên trần nhà. Lali
và Zoraima lúc nào cũng phải cùng đi ngủ một lúc v́ hai cô bây
giờ chỉ là một. Rồi ông ta bảo chúng tôi ngồi quanh ngọn lửa, bỏ
một nắm lá xanh vào và hun khói chúng tôi hơn mười phút. Xong
đâu đấy chúng tôi về nhà chờ Zorillo đến. Ngay tối hôm ấy anh ta
đến thật. Chúng tôi đốt một đống lửa ở phía trước, và dân làng
đến ngồi xung quanh nói chuyện với chúng tôi suốt đêm. Thông qua
Zorillo, tôi nói với mỗi người một đôi lời thân ái, và người ấy
cũng đáp như thế. Khi mặt trời mọc tôi lui vào nhà với Lali và
Zoraima.
Suốt ngày hôm sau chúng tôi quấn quít bên nhau Zoraima ôm lấy
tôi để cảm thấy rơ hơn là tôi đang ở trong cô, Lali quấn quanh
tôi như một sợi dây leo, tôi như bị đóng chặt vào cô... Đến
chiều là giờ ra đi. Tôi nói với thủ lĩnh thông qua Zorillo:
- Thưa thủ lĩnh Zato vị tù trướng lớn của cái bộ lạc đă tiếp
nhận tôi và đă cho tôi tất cả, tôi buộc ḷng phải thưa với thủ
lĩnh rằng thủ lĩnh cần cho phép tôi đi xa bộ lạc trong nhiều
tuần trăng.
- Tại sao anh lại muốn xa rời các bạn anh?
- Tại v́ tôi cần phải đi trừng phạt những kẻ đă săn đuổi tôi như
một con thú. Nhờ thủ lĩnh, tôi đă có nơi nương náu trong làng
này, tôi đă được sống hạnh phúc, ăn uống no đủ, có được những
người bạn cao quư, hai người vợ đă đưa ánh nắng vào lồng ngực
tôi. Nhưng tất cả những điều đó không thể biến một người đàn ông
như tôi thành một con thú khi đă gặp được một nơi ẩn nấp ấm cúng
th́ cứ nằm lại đấy suốt đời v́ sợ phải đau khổ nếu rời chỗ ấy
lên đường đấu tranh. Tôi đi t́m những kẻ thù của tôi để đối chọi
với chúng đi t́m người cha già đang cần đến tôi. ở đây tôi để
lại linh hồn của tôi, tôi để lại những đứa con nảy mầm từ t́nh
yêu thương của chúng tôi. Nếp nhà tranh của tôi là của họ và của
những đứa con tôi khi chúng ra đời.
Tôi hy vọng rằng nếu có ai quên điều đó th́ thủ lĩnh Zato sẽ
nhắc cho họ nhớ. Tôi yêu cầu là ngoài sự trông nom riêng của thủ
lĩnh, thủ lĩnh c̣n cho một người đàn ông tên là Usli đêm ngày
bảo vệ gia đ́nh tôi. Tôi đă yêu thương tất cả các bạn rất nhiều
và tôi sẽ măi măi yêu thương các bạn. Tôi sẽ làm hết sức ḿnh để
chóng trở về đây. Nếu tôi chết trong khi làm tṛn bổn phận,
những ư nghĩ cuối cùng của tôi sẽ hướng về các người, Lali,
Zoraima và các con tôi, và hướng về các người, những người dân
làng Anh-điêng Guajiros, là gia đ́nh của tôi
Tôi trở vào nhà, Lali và Zoraima vào theo, Tôi mặc áo quần:
sơ-mi và quần ka-ki, đi tất và giày cao cổ. Rất lâu tôi đă
ngoảnh lại nh́n kỹ từng chi tiết cái làng thơ mộng nơi tôi đă
sống qua sáu tháng. Cái bộ lạc Guajiro mà người ta kinh sợ, mà
các bộ lạc khác cũng như người da trắng đều kiêng dè, đối với
tôi đă là một bến bờ yên tĩnh để nghỉ ngơi, một nơi nương tựa
không ǵ sánh nổi để tránh khỏi sự độc ác của con người. Tôi đă
t́m thấy ở đây t́nh yêu, sự thanh b́nh và sự tôn quư. Xin từ
biệt những người Guajiro, những người Anh-điêng hoang dă của bán
đảo Colombia - Venezuela này, và xin Thượng đế phù hộ cho các
người. Thật may là cái lănh thổ rộng lớn của các người không
thuộc hẳn về một quốc gia nào và thoát khỏi sự xâm nhập của hai
nền văn minh kế cận. Cách sống hoang dă và cách tự vệ hồn nhiên
của các người đă dạy cho tôi một điều rất quan trọng cho tương
lai: thà làm một người Anh-điêng hoang dă c̣n hơn làm một ông cử
nhân luật.
Xin từ biệt Lali và Zoraima, hai người đàn bà tuyệt vời với
những phản ứng thật gần gũi với thiên nhiên, không hề biết tính
toán, những con người hoàn toàn hồn nhiên tự phát, vào lúc chia
tay, bằng một cử chỉ giản dị đă bỏ vào một cái túi vải nhỏ tất
cả những viên ngọc trai đang có trong nhà. Tôi sẽ trở về, đó là
điều chắc chắn, không thể nào khác được. Bao giờ? Như thế nào?
Tôi không biết, nhưng tôi tự hứa là sẽ trở về.
Cuối buổi chiều hôm ấy, Zorillo lên ngựa, và chúng tôi đi về
phía Colombia. Tôi đội một cái mũ rơm. Tôi đi bộ, tay cầm cương
dắt con ngựa đi bên cạnh. Tất cả những người dân trong làng,
không trừ một ai, đều đưa cánh tay trái lên che mặt và dang cánh
tay phải về phía tôi. Cử chỉ đó họ dùng để nói với tôi rằng họ
không muốn nh́n thấy tôi ra đi v́ điều đó quá đau ḷng, và tay
họ dang ra là để giữ tôi lại. Lali và Zoraima đi theo tôi trong
khoảng gần một trăm mét. Tôi tưởng họ sắp ôm hôn tôi, nhưng bỗng
nhiên họ rống lên một tiếng và bỏ chạy thắng về nhà, không quay
lại.
5.
Trở về thế giới văn minh
Nhà tù Santa Marta
Ra khỏi lănh thổ của vùng Guajira thuộc người Anh-điêng không có
ǵ khó, chúng tôi vượt qua các đồn biên pḥng Lavela b́nh yên vô
sự. Tất cả đoạn đường dài mà tôi và Antonio phải chạy mất bấy
nhiêu ngày mới đi hết, th́ bây giờ đi ngựa mất có hai ngày.
Nhưng không phải chỉ có các đồn biên pḥng kia là nguy hiểm:
ngoài ra c̣n có một dải đất hơn một trăm hai mươi cây số kéo dài
đến Rio Haeha, cái làng mà tôi đă bỏ trốn.
Có Zorillo bên cạnh, tôi đă làm cuộc thí nghiệm đầu tiên về cách
dùng tiếng Tây Ban Nha trong khi nói chuyện trong một thứ quán
có bán thức uống và thức ăn, với một người thường dân Colombia.
Kết quả không đến nỗi tồi, và như Zorillo đă nói cho tôi hiểu,
tật nói lắp nặng có tác dụng rất nhiều khi người ta muốn dấu
giọng điệu và cách nói của người ngoại quốc. Chúng tôi lại lên
đường đi Santa Marta. Theo dự kiến, Zorillo sẽ chia tay với tôi
ở giữa đường và quay trở lại đúng sáng hôm nay.
Zorillo đă chia tay với tôi. Chúng tôi đă quyết định là anh ta
sẽ đưa con ngựa của tôi về. V́ có một con ngựa tức là có nơi ăn
chốn ở, là định cư trong một làng nhất định và do đó rất có thể
rơi vào cái t́nh thế phải trả lời những câu hỏi phiền phức: “Anh
ở lại X, vậy có biết ông Mỗ không? ông lư trưởng làng anh tên là
ǵ? Bà Y hiện nay ra sao? Hiện nay ai làm ở trạm?”.
Không, tốt hơn là tôi đi bộ, rồi đi xe buưt hay xe tải và đến
Santa Marta th́ có thể đi xe lửa. Đối với mọi người tôi sẽ là
một người “forastero” (một người ở nơi khác đến), đang đi kiếm
việc nơi này nơi nọ, ở đâu có việc th́ làm và làm bất cứ việc
ǵ.
Zorillo đă đổi cho tôi ba đồng tiền vàng, mỗi đồng ăn một trăm
pesos. Anh ta lại cho tôi một ngàn pesos. Một người thợ giỏi
kiếm được từ tám đến mười pesos mỗi ngày, vậy với số tiền kia
tôi có thể sống được khá lâu.
Tôi đă lên một chiếc xe vận tải đang đi đến một nơi rất gần
Santa Marta, một hải cảng khá lớn, cách nơi Zorillo chia tay với
tôi quăng một trăm hai mươi cây số. Chiếc xe này đến đấy để chở
dê hay sơn dương ǵ đấy tôi cũng không rơ. Cứ cách sáu hay mười
cây số lại có một cái quán là nơi nào cũng vậy. Anh lái xe cứ
trông thấy quán xuống xe và mời tôi vào. Anh ta th́ mời c̣n tôi
th́ trả tiền. Và mỗi lần như thế anh ta lại uống năm sáu cốc
rượu rất mạnh. Tôi th́ chỉ giả vờ uống một cốc. Xe đi được dăm
chục cây số anh ta đă say khướt. Anh ta say đến nỗi đi lạc, lái
xe vào một đoạn đường bùn lầy: xe bị sa lầy không ra được nữa.
Thế mà anh lái xe người Colombia kia không hề nao núng: anh ta
leo lên thùng xe nằm và bảo tôi lên ca- bin mà ngủ. Tôi chẳng
c̣n biết làm thế nào nữa. C̣n đến bốn mươi cây số mới đến Santa
Marta. Có anh ta th́ tôi đỡ phải trả lời những câu hỏi của những
người t́nh cờ gặp giữa đường, và tuy xe hay dừng lại như vậy, đi
xe vẫn cứ nhanh hơn đi bộ.
Khoảng gần sáng tôi quyết định ngủ một giấc. Khi tôi thức dậy đă
gần bảy giờ sáng. Một chiếc xe chở đồ có hai con ngựa kéo đi
đến. Chiếc xe tải đỗ giữa đường làm cho nó không đi qua được. Họ
đánh thức tôi dậy, tưởng tôi là người lái xe v́ tôi nằm trong
ca-bin. Tôi nói cà lăm, giả bộ làm người ngủ say mới giật thót
thức dậy chẳng biết ḿnh đang ở đâu nữa.
Anh lái xe cũng thức dậy và bàn căi với người đánh xe ngựa. Loay
hoay măi vẫn không sao đưa chiếc xe tải ra khỏi đoạn đường lầy.
Bùn ngập đến tận trục bánh xe, chẳng c̣n biết làm thế nào được.
Trên chiếc xe ngựa kéo kia có hai nữ tu sĩ mặc đồ đen, đầu đội
mũ xơ, và ba đứa con gái nhỏ. Sau nhiều lần bàn căi, hai người
đàn ông thỏa thuận được với nhau là sẽ phát quang những bụi rậm
ở bên đường để cho chiếc xe kia qua được chỗ mắc nghẽn dài
khoảng hai mươi mét.
Mỗi người cầm một chiếc “machete” (một con dao phát thường dùng
để chặt mía, đi đường ai cũng cầm một cái) họ chặt tất cả những
ǵ có thể làm vướng xe, c̣n tôi th́ cố hướng dẫn cái xe đi hướng
nào cho đỡ lăn bánh vào những chỗ c̣n rậm và những chỗ có thể
lún xuống bùn. Khoáng hai giờ sau, chiếc xe ngựa kéo đă có thể
đi tiếp. Chính vào lúc ấy hai bà xơ, sau khi cám ơn tôi, hỏi xem
tôi đi đâu. Tôi nói: “Santa Marta”
- Thế th́ sao lại đi đến đường này, phải quay trở lại với chúng
tôi. Chúng tôi sẽ đưa ông về gần đến Santa Marta, chỉ cách tám
cây số nữa thôi.
Tôi không thể tử chối được, v́ làm như thế sẽ có vẻ không b́nh
thường. Mặt khác tôi cũng định nói rằng tôi muốn ở lại với người
lái xe tải để giúp anh ta, nhưng muốn thế phải nói rất dài, cho
nên tôi đành nói:
“Graeias, gracias (cám ơn, cám ơn)”.
Thế là tôi ngồi ở phía sau cái xe có hai con ngựa kéo cùng với
ba con bé; hai cô tu sĩ th́ ngồi trên chiếc ghế dài bên cạnh
người đánh xe.
Chiếc xe lên đường, và chúng tôi đă đi đủ nhanh để vượt qua cái
khoảng năm sáu cây số bùn lầy mà chiếc xe tải đă đi nhầm vào. Ra
đến đường cái, xe bắt đầu chạy khá nhanh và đến khoảng giữa trưa
chúng tôi dừng lại cạnh một cái quán để ăn trưa. Ba đứa bé và
người đánh xe ngồi ở một bàn, c̣n hai cô nữ tu sĩ và tôi ngồi ở
bàn bên cạnh. Hai cô đều c̣n trẻ, từ hai mươi lăm đến ba mươi
tuổi là cùng. Da họ rất trắng.
Một cô người Tây Ban Nha c̣n cô kia người ái Nhĩ Lan. Cô nữ tu
ái Nhĩ Lan hỏi khẽ tôi.
- Ông không phải là người ở đây, phải không?
- Có chứ, tôi là người ở Baranquilla.
- Không, ông không phải là người Colombia, tóc ông vàng thế...
c̣n nước da ông thẫm màu chẳng qua v́ rám nắng. Ông từ đâu đến?
- Từ Rio Hacha.
- ở đấy ông làm ǵ?
- Thợ điện.
- à! Tôi có một người bạn ở Công ty điện lực, tên là Perez,
người Tây Ban Nha. Ông có quen ông ta không?
- Thế th́ thích quá.
Ăn xong, hai nữ tu sĩ đứng dậy đi rửa tay, rồi cô người ái Nhĩ
Lan trở lại một ḿnh. Cô nh́n tôi rồi nói bằng tiếng Pháp:
- Tôi không tố giác ông đâu, nhưng chị bạn của tôi nói là chị ấy
đă trông thấy ảnh của ông trên báo. Ông là người tù Pháp đă vượt
ngục khỏi nhà tù Hacha phải không?
Tôi mà chối th́ t́nh h́nh sẽ c̣n nghiêm trọng hơn.
- Phải, ma soeur ạ. Tôi van ma soeur đừng tố giác tôi. Tôi không
phải là người xấu như người ta đăng trên báo đâu. Tôi là người
vốn kính yêu Chúa.
Cô nữ tu người Tây Ban Nha trở ra, cô kia liền nói “đúng”. Cô
người Tây Ban Nha trả lời một câu ǵ rất nhanh tôi không hiểu.
Hai cô có vẻ như đang suy nghĩ điều ǵ. Họ đứng dậy rồi lại vào
pḥng rửa tay. Trong khoảng năm phút họ vắng mặt, tôi phản ứng
rất nhanh. Phải bỏ đi trước khi họ trở lại, hay cứ ngồi đây? Nếu
họ định tố giác tôi th́ cũng thế thôi, v́ nếu tôi bỏ đi th́
người ta sẽ t́m ra tôi khá nhanh. Vùng này không có một Selva
(rừng) rậm, và những lối đi ra các con đường cái đưa về thành
phố sẽ được kiểm soát ngay. Tôi quyết định là sẽ phó thác cho số
phận: cho đến ngày hôm nay, tôi chưa đến nỗi quá rủi ro.
Hai cô nữ tu đă trở lại, cả hai đều tươi cười. Cô người ái Nhĩ
Lan hỏi tên tôi.
- Enrique.
- Thế th́ ông Enrique ạ, ông sẽ cùng đi với chúng tôi về tu
viện, cách Santa Marta tám cây số. Ngồi cùng xe với chúng tôi,
dọc đường ông không phải sợ ǵ cả. Ông đừng nói, mọi người sẽ
tường ông là người làm công trong tu viện.
Hai cô nữ tu sĩ trả tiền ăn cho cả nhóm. Tôi mua một tút thuốc
lá mười hai bao và một cái bật lửa. Chúng tôi lại lên đường.
Suốt dọc đường hai cô nữ tu không nói ǵ với tôi nữa, và tôi rất
biết ơn họ về sự tế nhị đó Làm như vậy người đánh xe sẽ không
nhận thấy tôi nói tiếng Tây Ban Nha không sơi. Cuối buổi trưa xe
dừng lại cạnh một cái quán lớn. ở đấy có một chiếc xe buưt đỗ,
trên xe thấy đề: “Rio Hacha - Santa Marta”.
Tôi thấy muốn lên xe này. Tôi liền nói với cô nữ tu người ái Nhĩ
Lan là tôi có ư định dùng chiếc xe buưt này.
Nguy hiểm lắm, - cô nói, - v́ trước khi đến Santa Marta có ít
nhất hai trạm cảnh sát kiểm tra giấy “cedula” (căn cước) của
người đi đường, nhưng ngồi xe của chúng tôi th́ không bị hỏi
đâu.
Tôi cảm ơn cô một cách nhiệt thành, và nỗi lo âu của tôi từ khi
bị họ phát hiện đă hoàn toàn tan biến. Tôi gặp được hai cô nữ tu
tốt bụng này thật là cực kỳ may mắn. Quả nhiên chập tối chúng
tôi đi ngang một đồn cảnh sát (“alcabale”). Một chiếc xe buưt đi
từ Santa Marta đến Rio Hacha đang bị cảnh sát kiểm tra. Tôi nằm
ngửa trên chiếc xe ngựa, cái mũ rơm úp lên mặt, giả vờ ngủ. Một
trong ba đứa bé, tuổi chừng lên tám, đang gối đầu vào vai tôi
ngủ thật sự. Khi chiếc xe đi ngang, người đánh xe gh́m ngựa lại
đúng vào giữa chiếc xe buưt và đồn cảnh sát.
- Como estan por qui? (ở đây khỏe cả chứ?) - cô nữ tu người Tây
Ban Nha nói.
- Muy biến, Hermana (Khỏe lắm ma soeur ạ).
- Me alegro, vamonos, muchanos (Tôi rất mừng, chúng ḿnh đi
thôi).
Thế là chúng tôi điềm nhiên đi tiếp.
Đến mười giờ tối lại gặp một đồn cảnh sát nữa, thắp đèn sáng
trưng: Hai bên đường có hai dăy xe đang đứng đợi, đủ các thứ xe,
thứ ǵ cũng có. Một dăy từ bên phải, dăy của chúng tôi từ bên
trái. Cảnh sát đang mở các thùng xe nh́n vào phía trong. Tôi
trông thấy họ bắt một người đàn bà xuống xe, bà ta đang lục t́m
giấy tờ trong túi xách. Rốt cục bà ta bị đưa vào đồn, chắc v́
không có cedula. Trong trường hợp đó th́ chẳng c̣n biết làm thế
nào. Các cỗ xe lần lượt đi qua. V́ có hai dăy xe cho nên không
thể vượt hàng được. Chúng tôi đành đợi. Tôi thấy ḿnh nguy mất
rồi. Phía trước chúng tôi là một cái xe buưt rất nhỏ chật ních
hành khách. Trên mui xe có nhiều va-li và bó lớn, ở phía sau
cũng có một thứ lưới to đựng đầy những bó đồ đạc. Bốn viên cảnh
sát xua hành khách xuống. Xe chỉ có một cửa ra ở phía trước. Đàn
ông và đàn bà lần lượt xuống xe. Có mấy bà bế con. Rồi họ lại
lên xe từng người một.
- Cedulai Cedula?
Mỗi hành khách đều rút ra một tấm thẻ có dán ảnh đưa cho cảnh
sát xem. Chưa có lần nào Zorillo nói với tôi về việc này. Giá
tôi biết trước, có lẽ tôi có thể t́m cách kiếm một tấm thẻ căn
cước giả. Tôi nghĩ rằng nếu chuyến này mà qua được, tôi sẽ trả
với bất cứ giá nào để kiếm lấy một cedula trước khi đi từ Santa
Marta đến Baranqailla, một thành phố rất lớn trên bờ Đại Tây
Dương: hai trăm năm mươi ngàn dân, - cuối từ điển có ghi như
vậy.
- Trời ơi, sao họ kiểm soát chiếc xe buưt kia lâu đến thế! Cô nữ
tu người ái Nhĩ Lan ngoảnh lại nói với tôi: “Cứ yên tâm, Enrique
ạ”. Tôi lập tức thấy oán giận câu nói bất cẩn này, chắc chắn là
người đánh xe đă nghe thấy.
Đă đến lượt xe của chúng tôi tiến vào khu vực đèn chiếu sáng
trưng kia. Tôi đă quyết định ngồi dậy. Tôi thấy nằm có thể gây
ấn tưởng là tôi có ư trốn tránh. Tôi ngồi tựa lưng vào máy tấm
ván tháo ra tháo vào được ở sau xe và nh́n về phía lưng hai nữ
tu sĩ. Người ta chỉ có thể nh́n nghiêng vào mặt tôi, tôi lại đội
mũ trùm thụp trên đầu, nhưng đă chú ư đừng kéo vành mũ xuống quá
thấp.
- Como estan todos por qui? (ở đây các ông khỏe cả.chứ?) - cô nữ
tu người Tây Ban Nha lại hỏi.
- May bien, Hermans. Y como viajan tan tarde? (Thưa các xơ rất
khỏe~ Sao các soeur đi đường muộn thế?).
- Por una urgencia, por eso no me dentengo. Osmos mấy apuradas
(Có việc rất gấp, thành thử xin các ong đừng làm chúng tôi muộn
thêm. Chúng tôi đang vội lắm).
- Vayanse con Dios, Hermanas (Xin các xơ lên đường có Chúa phù
hộ).
- Gracias, hijos. Que Dios les protège (Cám ơn anh em. Xin Chúa
phù hộ tất cả).
- Amen - mấy người cảnh sát nói.
Thế là chúng tôi điềm nhiên đi qua, chẳng bị ai xét hỏi ǵ cả.
Những phút hồi hộp vừa qua h́nh như đă gây chứng đau bụng cho
hai cô nữ tu nhân hậu, v́ đi được một trăm thước th́ hai cô bảo
cho xe dừng lại rồi xuống xe đi khuất vào trong rừng một lát.
Chúng tôi lại lên đường. Tôi lấy thuốc ra hút. Tôi xúc động đến
nỗi khi cô người ái Nhĩ Lan lên xe, tôi nói: “Cám ơn ma soeur”.
Cô nói với tôi: “Không có chi, nhưng vừa rồi chúng tôi sợ đến
nỗi trong bụng rối loạn cả lên”.
Vào khoảng nửa đêm chúng tôi về đến tu viện. Tường cao, cổng
lớn, Người đánh xe dắt ngựa về cho ăn, c̣n cái xe cùng với ba
đứa con gái được đưa vào phía trong tu viện. Trên bậc thềm, một
cuộc tranh luận rất hăng nổ ra giữa bà nữ tu gác cửa và hai cô
nữ tu của tôi. Cô người ái Nhĩ Lan nói với tôi rằng cô không thể
đánh thức bà Mẹ Bề Trên để xin phép cho tôi ngủ lại trong tu
viện. Đến đáy tôi phân vân không biết quyết định như thế nào. Lẽ
ra tôi phải nhanh chóng lợi dụng t́nh h́nh này dể rút lui và di
bộ đến Santa Marta, v́ tôi biết chỉ c̣n có tám cây số.
Về sau, sai lầm này tôi đă phải đền bằng bảy năm khổ sai.
Cuối cùng, khi đă đánh thức được bà Mẹ Bề Trên, người ta cắt cho
tôi một căn buồng ở tầng thứ ba. Nh́n ra cửa sổ tôi có thể trông
thấy ánh đèn của thành phố. Tôi phân biệt được cả ngọn hải đăng
và những chiếc đèn hiệu của tàu thủy đậu ở cảng. Một chiếc tàu
rất lớn đang rời cảng.
Tôi ngủ thiếp đi, và khi người ta đến đập cửa buồng th́ mặt trời
đă mọc. Đêm vừa qua tôi mơ thấy một giấc chiêm bao khủng khiếp.
Lali mổ bụng ra trước mặt tôi và đứa con của chúng tôi rơi ra
từng mảng một. Tôi cạo râu rửa mặt thật nhanh, rồi mặc áo quần
xuống nhà dưới. ở chân cầu thang, cô nữ tu người ái Nhĩ Lan đón
tôi, trên môi thoáng một nụ cười:
- Chào ông Henri. Ông ngủ có ngon không?
- Thưa ma soeur rất ngon.
- Xin mời ông đến văn pḥng Mẹ Bề Trên. Mẹ muốn gặp ông.
Chúng tôi bước vào văn pḥng. Một người đàn bà đang ngồi sau bàn
giấy. Một gương mặt hết sức nghiêm khắc của một người trạc năm
mươi tuổi hay hơn nữa, đang nh́n tôi bằng đôi mắt đen không có
chút ǵ thân thiện.
- Senor, sa ba usted hablar espanol? (ông có biết nói tiếng Tây
Ban Nha không?)
- Muy po co (rất ít).
- Bueno, la Hermana va servir de interprete (được, nữ tu sĩ đây
sẽ làm thông ngôn).
- Nghe nói ông là người Pháp?
- Thưa Mẹ vâng.
- Ông đă vượt ngục ra khỏi nhà tù Rio Hacha?
- Thưa mẹ vâng.
- Khoảng bảy tháng.
- Trong thời gian ấy anh làm cái ǵ?
- Tôi ở với người Anh-điêng.
- Cái ǵ? ông mà ở với người Guajiros? Không thể tin được, nhưng
con người mọi rợ ấy chưa bao giờ cho ai ở trên lănh thổ của họ.
Chưa có một nhà truyền giáo nào lọt vào nổi, ông có thể tưởng
tượng được không. Tôi không chấp nhận câu trả lời của ông. Vừa
qua ông ở đâu? ông nói thật đi.
- Thưa Mẹ, tôi ở với người Anh-điêng, và tôi có bằng chứng về
việc này.
- Bằng chứng ǵ?
- Một số ngọc trai do họ vớt được.
Tôi tháo cái túi cài vào giữa lưng áo vét của tôi và đưa cho bà
Mẹ Bề Trên. Bà ta mở túi, tḥ tay vào bốc ra một nắm hạt trai.
- Có bao nhiêu viên?
- Tôi không biết ạ, có lẽ khoảng năm sáu trăm ǵ đấy
- Đây không phải là một bằng.. chứng. Cớ thể là ông đă lấy trộm
của một nơi khác.
- Thưa Mẹ, để cho lương tâm của Mẹ được thanh thản, nếu Mẹ vui
ḷng tôi sẽ xin ở lại đây trong một thời hạn để Mẹ có thể xác
minh xem có một vụ mất trộm ngọc trai nào mới xảy ra hay không.
Tôi có tiền. Tôi có thể trả tiền ăn ở. Tôi xin hứa là tôi sẽ
không đi đâu ra khỏi buồng cho đến ngày Mẹ quyết định cho tôi
đi.
Bà tu sĩ nh́n tôi trừng trừng. Tôi nghĩ ngay, chắc bà ta tự nhủ:
“Thế nếu anh trốn đi th́ sao? Anh đă từng vượt ngục, mà ở đây
th́ dễ trốn hơn nhiều”
- Tôi xin để lại túi ngọc trai nhờ Mẹ giữ dùm. Đây là tất cả tài
sản của tôi. Tôi biết rằng nó nằm trong những bàn tay đáng tin
cậy.
- Thôi được, cứ như thế. Không, ông không cần phải tự giam hăm
trong buồng. Buổi sáng và buổi chiều ông có thể xuống vườn trong
khi các nữ tu sĩ đang ở nhà thờ. Ông sẽ ăn dưới nhà bếp cùng với
mấy người làm công.
Qua cuộc tiếp kiến này, tôi yên tâm được một nửa. Khi tôi sắp
trở lên buồng, cô nữ tu sĩ người ái Nhĩ Lan dẫn tôi xuống nhà
bếp. Một chén cà phê sữa lớn, một khoanh bánh ḿ đen rất tươi và
một ít bơ. Cô nữ tu chứng kiến bữa ăn sáng của tôi không nói một
lời, và cứ đứng trước mặt tôi, không ngồi xuống. Cô có chiều lo
lắng.
Tôi nói:
- Cám ơn ma soeur v́ tất cả những ǵ mà ma soeur đă làm cho tôi.
-Lẽ ra tôi muốn làm nhiều hơn thế, nhưng từ bây giờ trở đi tôi
không c̣n làm ǵ được nữa, anh bạn Henri!
Nói đoạn cô ra khỏi nhà bếp.
Ngồi bên cửa sổ, tôi nh́n ra phía thành phố, hải cảng, lại nh́n
ra biển. Những cánh đồng ở xung quanh được chăm bón rất tốt. Tôi
không sao thoát ra khỏi cái cảm giác là ḿnh đang lâm nguy. Cảm
giác đó mạnh đến nỗi tôi quyết định ngay đêm nay sẽ trốn đi.
Thôi không cần đến mấy viên ngọc trai kia nữa, bà ta cứ việc giữ
lấy cho tu viện hay cho cá nhân bà ta cũng được, cái bà Mẹ Bề
trên ấy. Bà ta không tin tôi. Vả lại chắc tôi không nhầm, v́ làm
sao bà lại không nói được tiếng Pháp trong khi bà là người
Catalonge, lại là Mẹ Bề trên của một tu viện, tức là người rất
có học: thật hiếm có. Kết luận: tối nay tôi sẽ bỏ đi.
Phải, chiều nay tôi sẽ xuống sân dể xem có thể trèo qua tường ở
chỗ nào. Khoảng một giờ trưa, có tiếng gơ cửa:
- Ông Henri, mời ông xuống ăn.
- Cám ơn, tôi xuống ngay.
Ngồi xuống bàn ăn trong nhà bếp, tôi vừa mới động đến món thịt
trộn với khoai tây luộc th́ cánh cửa mở toang, bốn viên cảnh sát
mặc đồ trắng, tay cầm súng trường, và một viên hạ sĩ quan tay
cầm súng lục hiện ra.
- No tè mueve, o te mao! (Ngồi im không th́ chết ngay!)
Viên hạ sĩ quan khóa tay tôi lại. Cô nữ tu sĩ người ái Nhĩ Lan
thét lên một tiếng rất lớn và ngất đi. Hai bà nữ tu đang ở trong
bếp vội vực cô ta lên.
- Vamos (Đi)?, hắn nói, rồi cùng tôi đi lên buồng.
Cái tay nải của tôi bị mở ra lục soát. Họ t́m thấy ngay ba mươi
sáu đồng tiền vàng ăn một trăm peso, nhưng lại bỏ qua cái túi da
đựng hai mũi tên độc. Chắc họ tưởng đó là hai cây bút ch́. Với
một vẻ đắc chí không hề giấu giếm, viên hạ sĩ quan bỏ cả mấy
đồng tiền vàng vào túi.Họ giải tôi đi.
Năm tên cảnh sát đưa tôi lên một chiếc xe cũ kỹ. Người lái xe
mặc đồ cảnh sát, da đen như than. Chiếc xe phóng hết tốc lực.
Tôi hoàn toàn tuyệt vọng, chẳng c̣n buồn kháng cự, chỉ cố giữ
một thái độ tự trọng. Không việc ǵ phải t́m cách để cho họ
nương nhẹ hay thương xót. Hăy là một trượng phu, và phải nhớ
rằng không bao giờ được mất hy vọng. Những ư nghĩ ấy lướt qua
rất nhanh trong trí tôi. Và khi tôi xuống xe, ư chí làm kẻ
trượng phu và nhất thiết không để cho ḿnh trông như một mớ giẻ
rách nó mạnh mẽ đến nỗi câu nói đầu tiên của viên sĩ quan ra đón
tôi là: “Cái gă người Pháp này ghê gớm thật, lọt vào tay chúng
ta mà nó chẳng có vẻ sợ sệt một tư nào”. Tôi được đưa vào pḥng
giấy của viên sĩ quan. Tôi bỏ mũ và, không đợi cho người ta bảo,
tôi ngồi xuống ghế, cái tay nải đặt giữa hai chân.
- Tu sabes hablar espanol? (Anh có biết nói tiếng Tây Ban Nha
không).
- Không.
- Llame el zapatero (Gọi thằng thợ giày ra đây).
Một lát sau một người thấp bé mặc tạp dề xanh vào pḥng, tay cầm
một cái búa thợ giày.
- Anh là người tù Pháp đă vượt ngục ở Rio Hacha cách đây một
năm?
- Không.
- Anh nói dối.
- Tôi không nói dối. Tôi không phải là người tù Pháp đă vượt
ngục ở Rio Hacha cách đây một năm.
- Cởi khóa tay cho hắn. C̣n anh cởi áo vét và áo sơ-mi ra. (Hắn
lấy một tờ giấy rồi xem xét người tôi. Tất cả các h́nh xăm đều
được hắn ghi nhận).
- Tay trái của anh không có ngón cái. Đúng. Chính anh.
- Không phải là tôi, v́ tôi ra đi không phải cách đây một năm.
Tôi ra đi bảy tháng.
- Th́ cũng thế.
- Đối với anh th́ cũng thế, nhưng đối với tôi th́ không.
- Rơ: anh là kẻ giết người chuyên nghiệp điển h́nh. Dù là người
Pháp hay là người Colombia, tất cả những kẻ giết người chuyên
nghiệp (matadores) đều như nhau: không sao khuất phục nổi. Tôi
chỉ là phó chỉ huy của nhà tù này. Tôi không biết người ta sẽ xử
lư với anh như thế nào. Hiện giờ th́ tôi sẽ cho anh ở chung với
các bạn cũ của anh.
- Bạn cũ nào?
- Mấy người Pháp mà anh đă đưa vào Colombia.
Tôi đi theo mấy viên cảnh sát, họ dẫn tôi vào một pḥng gian có
hàng song sắt trông ra sân. Tôi gặp lại cả năm bạn tôi. Chúng
tôi ôm nhau hôn. “Thế mà chúng ḿnh cứ tưởng cậu đă thoát hẳn
được rồi”, Clousiot nói. Maturette khóc như một thằng con nít
(vả lại nó cũng chỉ là thằng con nít thôi). Ba người kia cũng
rầu rĩ.
Được gặp lại họ, tôi lại thấy ḿnh có thêm sức.
- Cậu kể đi, - họ nói.
- Sau hẵng. Các cậu th́ sao?
- Chúng ḿnh th́ ở đây đă được ba tháng.
- Họ đối xử ra sao?
- Chẳng khá mà cũng chẳng tồi. Chúng ḿnh đang đợi chuyển sang
Baranquilla, và đến đấy h́nh như người ta sẽ trao chúng ḿnh lại
cho các nhà chức trách Pháp.
- Thật là một lũ khốn kiếp! Có cách ǵ vượt ngục không?
- Vừa mới đến một cái đă nghĩ đến vượt ngục à?
- Nhiều khi cũng thật quá tệ! Cậu tưởng tôi tự dưng bỏ cuộc sao?
Chúng canh pḥng có ngặt lắm không?
- Ban ngày th́ thường thôi, nhưng ban đêm có một đội canh riêng
chúng ḿnh.
- Mấy đứa?
- Ba tên giám thị.
- C̣n cái chân cậu thế nào rồi?
- ổn rồi, thậm chí đi cũng không cà nhắc nữa.
- Bị nhốt suốt ngày à?
- Không, ngày nào cũng đi dạo trong sân để phơi nắng, buổi sáng
Hai tiếng đồng hồ, buổi chiều ba tiếng.
- Bọn tù người Colombia ra sao?
- Có những tay rất nguy hiểm th́ phải, kẻ trộm và giết người có
cả.
Quá trưa hôm ấy, vào giờ đi dạo trong sân, tôi đang nói chuyện
riêng với Clousiot th́ họ gọi. ở đấy tôi gặp viên chỉ huy nhà
tù, bên cạnh có viên phó chỉ huy ban sáng. Chiếc ghế danh dự
được dành cho một người nước da rất đậm, gần như đen. Màu da
giống một người Châu Phi đen hơn là một người Anh-điêng. Mái tóc
ngắn và quăn đúng là mái tóc của người Châu Phi. Hắn gần xấp xỉ
năm mươi tuổi, hai mắt đen và độc ác. Một bộ ria cắt rất sát
trên một đôi môi dày, một cái miệng hằn học. áo sơ-mi của hắn để
phanh ngực, không có ca-vát. ở ngực áo bên trái có gắn một cái
dải nửa trắng nửa xanh, cuống của một thứ huy chương nào đấy.
Anh thợ giày cũng có mặt ở đấy.
- Anh người Pháp kia, anh đă bị bắt lại sau bảy tháng vượt ngục.
Trong thời gian ấy anh đă làm ǵ?
- Tôi ở với người Guajiros.
- Đừng có giỡn mặt tao, không tao cho một trận bây giờ.
- Tôi nói sự thật.
- Chưa từng có ai ở với người Anh-điêng được cả. Chỉ trong một
năm nay thôi đă có hai mươi lăm lính canh pḥng bờ biển bị họ
giết.
- Không phải đâu, những người lính canh bờ biển ấy bị bọn buôn
lậu giết chết.
- Sao anh biết?
- Tôi đă ở đấy bảy tháng. Người Guajiros không bao giờ ra khỏi
lănh thổ của họ.
- Thôi được, cũng có thể đúng. Anh đă lấy trộm ba mươi sáu đồng
vàng ăn một trăm pesos ở đâu?
- Đó là tiền của tôi. Thủ lĩnh của bộ lạc vùng núi tên là Công
Bằng đă cho tôi số tiền ấy.
- Làm sao một thằng Anh-điêng lại có thể có được một gia sản như
vậy để mà cho anh?
- Thế th́ thưa xếp, trước đây có xảy ra vụ trộm tiền vàng nào
không?
- Đúng là không có. Trong các hồ sơ chưa bao giờ thấy. Tuy vậy
vẫn phải điều tra thêm.
- Xin ông điều tra đi, việc đó có lợi cho tôi.
- Anh đă phạm một tội nặng khi vượt ngục Rio Hacha, và c̣n phạm
một tội nặng hơn nữa khi giúp Antonio vượt ngục: hắn sắp bị xử
bắn v́ giết nhiều lính canh pḥng bờ biển. Bây giờ người ta đă
biết rằng chính anh đang bị nhà chức trách Pháp truy nă, Anh là
tù chung thân. Anh là một tên giết người chuyên nghiệp nguy
hiểm. V́ vậy ta sẽ không mạo hiểm để cho anh có dịp vượt ngục
lần nữa bằng cách giam chung anh với mấy người Pháp khác. Anh sẽ
bị nhốt xà-lim cho đến khi chuyển đi Baranquilla. Mấy đồng tiền
vàng sẽ được trả cho anh khi đă xác minh được là không có vụ
trộm tiền vàng nào xảy ra.
Tôi ra ngoài và họ lôi tôi đến cầu thang dẫn xuống dưới đất. Sau
khi xuống hơn hai mươi lăm bậc th́ đến một dăy hành lang tối mờ
mờ hai bên có những cái chuồng chật. Họ mở một chuồng ra và đẩy
tôi vào. Khi cánh cửa sắt mở ra hành lang được đóng lại, mùi
thối bốc lên từ nền đất nhớp nháp. Có tiếng gọi tôi từ bốn phía.
Mỗi cái chuồng có song sắt đều giam một hay ba tù nhân.
- Francés, Francés: Que a hecho? Por que esta a qui? (Anh người
Pháp kia Anh phạm tội ǵ thế? Tại sao anh lại ở đây?). Anh có
biết rằng những chuồng giam này là những chuồng giam của tử thần
không?
- Im cả đi! Để cho anh ta nói - Có tiếng quát.
Phải, tôi là người Pháp. Tôi bị giam ở đây v́ tôi đă vượt ngục ở
Rio Hacha.
Cái tiếng Tây Ban Nha giả cầy của tôi được họ hiểu ngay.
- Anh cần biết mấy điều này, anh nghe kỹ đây: ở cuối chuồng giam
có một tấm ván để nằm. Bên phải có một cái hộp đựng nước. Phải
uống dè dè, v́ mỗi sáng chỉ được một ít, mà xin thêm th́ không
được đâu. Bên trái có một cái xô đề đi ngoài. Anh lấy cái áo vét
mà bịt lại. ở đây không cần áo ngoài v́ quá nóng, cứ lấy áo mà
bịt xô cho đỡ thối. Chúng tôi đều bịt xô bằng áo quần cả.
Tôi đứng sát vào song sắt để cố nh́n mặt các bạn tù. Chỉ thấy rơ
được hai người ở trước mặt đang ngồi sát song sắt, hai chân tḥ
ra ngoài. Một trong hai người đó có những nét mặt của loại người
Anh-điêng lai Tây Ban Nha, kiểu như mấy tên cảnh sát đầu tiên đă
bắt tôi ở Rio Hacha; người kia là một người da đen có nước da
rất sáng, trẻ và đẹp trai. Anh ta cho tôi biết rằng đến giờ thủy
triều lên, nước ngập vào các xà lim. Tôi không nên sợ v́ không
bao giờ nó lên quá bụng. Chuột có leo lên người th́ đừng bắt, mà
phải đánh. Bắt th́ nó căn.
Tôi hỏi:
- Anh bị nhốt ở đây được bao lâu rồi?
- Hai tháng.
- C̣n mấy người kia.
- Không bao giờ quá ba tháng. Ai đă qua ba tháng mà không được
chuyển ra, th́ tức là phải chết ở đây.
- Người ở đây lâu nhất đă được bao lâu rồi?
- Tám tháng, nhưng chẳng c̣n sống được mấy đỗi nữa đâu. Đă gần
một tháng nay anh ta chỉ quỳ chứ không đứng lên được. Đến ngày
nào có thủy triều lôn, anh ta sẽ chết đuối thôi.
- Nhưng thế th́ nước các anh là một xứ sở man rợ sao?
- Tôi có bao giờ nói là xứ tôi văn minh đâu. C̣n nước anh th́
cũng chẳng văn minh ǵ hơn, v́ anh bị xử chung thân đấy thôi. ở
xứ Colombia này th́ hoặc hai mươi năm, hoặc xử tử. Nhưng không
bao giờ có chuyện chung thân.
- Thôi đi, đâu cũng thế thôi.
- Anh giết nhiều người lắm à?
- Không, chỉ có một thôi.
- Vô lư! Giết có một người mà bị lâu thế à?
- Tôi cam đoan là đúng như thế.
- Thế th́ rơ là nước anh cũng mọi rợ như nước tôi.
- Thôi đừng căi nhau về chuyện nước anh nước tôi nữa. Anh nói
đúng. Cảnh sát th́ ở đâu cũng là cứt cả.
- C̣n anh anh có tội ǵ?
Tôi đă giết hai vợ chồng và cả thằng con.
- Tại sao?
- Chúng nó đă đem thằng em tôi cho lợn ăn.
- Chẳng lẽ! Chuyện ǵ mà gớm ghiếc thế
- Thằng em tôi lên năm, ngày nào nó cũng ném đá thằng con nhà
ấy, mấy lần trúng đầu.
- Đó không phải là một lư do.
- Khi tôi biết chuyện tôi cũng nói thế.
- Làm sao anh biết chuyện?
- Thằng em tôi đi đâu mất từ ba hôm, tôi đi t́m măi mới thấy một
chiếc dép của nó trong đóng phân.
Chỗ phân này xúc ra từ chuồng lợn nhà nó. Tôi bới phân lợn lên
th́ thấy một chiếc tất đầy máu. Tôi đă hiểu. Mụ vợ đă thú nhận
trước khi tôi giết cả nhà chúng nó.
Tôi đă cho chúng nó cầu kinh trước khi bắn. Phát thứ nhất tôi
bắn găy chân thằng bố.
- Anh giết họ là phải. Anh sẽ bị xử ra sao?
- Hai mươi năm là cùng.
- Tại sao anh bị giam xà-lim?
Tôi đă đánh một tên cảnh sát có họ với vợ chồng bà kia. Hắn làm
ở nhà tù này. Bây giờ hắn đă được đưa đi nơi khác. Không có hắn
tôi mới được yên.
Cửa hành lang được mở ra. Một tên gác ngục đi vào với hai tù
nhân khiêng một cái thùng bằng gỗ. Có thể đoán biết được rằng
phía sau họ c̣n có hai tên gác cầm súng nữa. Hai người tù vào
từng chuồng một bưng mấy cái xô đựng phân ra đổ vào cái thúng.
Mùi nước đái và mùi phân xông lên nồng nặc, tường đến chết ngạt.
Không ai nói ǵ. Khi họ đến chuồng tôi, người tù vào lấy xô đánh
rơi một cái gói nho nhỏ xuống đất. Tôi vội lấy chân hất vào phía
trong. Khi họ đă ra tôi thấy trong gói có hai bao thuốc lá, một
cái bật lửa và một mảnh giấy có viết mấy ḍng chữ Pháp. Trước
hết tôi châm hai điếu thuốc lá ném cho hai người ở trước mặt
tôi. Rồi tôi gọi người tù kế bên bảo hắn tḥ tay ra bắt lấy một
bao thuốc lá để chuyền cho những người tù khác. Phân phát xong
tôi châm điếu thuốc của tôi lên và đưa bức thư ra sát hành lang
để đọc. Nhưng ánh sáng ở ngoài hành lang không đủ. Tôi bèn lấy
tờ giấy gói, cuốn lại rồi bật lửa đốt lên. Tôi đọc vội:
“Cam đảm lên Papi nhé, cứ tin tường vào chúng ḿnh. Hăy coi
chừng. Mai chúng ḿnh sẽ gửi giấy và bút ch́ để cậu viết cho
chúng ḿnh. Chúng ḿnh ở bên cạnh cậu cho đến chết”.
Mảnh giấy ấy làm cho tôi thấy ấm ḷng. Nó đă đem lại cho tôi bao
nhiêu sức lực! Tôi không cô độc, tôi có thể trông cậy vào bạn
bè.
Không có ai nói. Ai nấy đều mải hút thuốc. Cuộc phân phát thuốc
lá cho tôi biết rằng có cả thảy mười chín người trong mấy cái
chuồng giam của tử thần này. Thế là lần này tôi lại bị đưa vào
con đường của sự thối nát, và bây giờ sự thối nát ấy đă ngập lên
đến cổ! Mấy bà xơ tự gọi là những người “Em Gái của Chúa ḷng
lành” ấy chính là những đứa em gái của Quỷ. Nhưng có điều hoàn
toàn chắc chắn là kẻ đă tố giác tôi không phải là cô nữ tu người
ái Nhĩ Lan hay cô người Tây Ban Nha. Ôi! Tôi ngu biết chừng nào
khi tin vào các nữ tu sĩ ấy? Không phải họ đâu. Có lẽ là người
đánh xe chăng? Đă hai ba lần tôi và cô nữ tu kia trót nói tiếng
Pháp: thật là sơ xuất. Có thể anh ta đă nghe thấy chăng? Thôi,
điều ấy có quan trọng ǵ! Lần này th́ sa lưới hẳn hoi rồi, lần
này chỉ có đi tong. Nữ tu sĩ người đánh xe hay là Mẹ Bề trên,
chung quy kết quả vẫn là một.
Thế là tôi đành đi đời trong cái chuồng ghê tởm cứ mỗi ngày lại
hai lần ngập nước này. Trong chuồng nóng nực và khó thở đến nỗi
tôi phải cởi sơ-mi, rồi cởi nốt cả cái quần. Tôi tháo giày và
đem móc hết các thứ lên cửa song sắt.
Thử tưởng tượng là tôi đă vượt hai ngàn năm trăm cây số để cuối
cùng đến nông nỗi này? Kết quả thật là mỹ măn! Lạy Chúa! Chúa đă
từng hào phóng, đại lượng đối với tôi như vậy, mà bây giờ lại bỏ
rơi tôi sao? Có lẽ Chúa giận tôi chăng, v́ dù sao Chúa đă cho
tôi tự do, sự tự do chắc chắn nhất, đẹp đẽ nhất. Chúa đă cho tôi
một cộng đồng, và cộng đồng ấy đă thâu nạp tôi hoàn toàn. Chúa
đă cho tôi không phải là một một mà những hai người vợ tuyệt
vời. Và cả ánh nắng, cả biển khơi. Lại cả một nếp nhà tranh
trong đó tôi là người chủ tuyệt đối. Với cuộc sống giữa thiên
nhiên, cuộc sống nguyên thủy, hoang dă nhưng êm đềm và thanh
thản biết bao nhiêu. Đó thật là một món quà có một không hai mà
Chúa đă tặng tôi: được hoàn toàn tự do, không có cảnh sát, không
có quan ṭa, không có những kẻ ganh tỵ và những kẻ độc ác xung
quanh tôi! Thế mà tôi đă không biết giá trị vô song của nó. Vùng
biển ấy nước xanh đến nỗi trông như đen huyền, những buổi mặt
trời mọc và mặt trời lặn đầy một hương vị dịu ngọt và thanh
thản, cái nếp sống không hề cần đến tiền bạc, trong đó tôi không
phải thiếu một thứ ǵ cần thiết cho sự sống của một con người:
tất cả những cái đó tôi đă chà đạp lên, đă khinh miệt nó. Tôi đă
từ bỏ những cái đó để đi đâu? Để trở về với những xă hội không
thèm nh́n nhận đến tôi. Với những con người thậm chí cũng chẳng
buồn bỏ công t́m hiểu xem thử trong tôi có ǵ c̣n vớt vát được
không. Về với một thế giới đang hắt hủi tôi, đang đẩy tôi ra xa
mọi niềm hy vọng. Với những tập thể chỉ nghĩ đến mỗi một việc:
tiêu diệt tôi bằng bất cứ phương tiện nào.
Khi được tin tôi bị bắt, chúng nó sẽ mừng lắm đấy: mười hai
miếng pho-mát trong hội đồng bồi thẩm, thằng Polein thối tha,
mấy tên cảnh sát và tên biện lư. V́ thế nào cũng sẽ có một nhà
báo nào đấy chuyển cái tin này về Pháp.
Lại c̣n những người thân của tôi nữa. Khi bọn cảnh sát đến nhà
để báo cho họ biết tôi đă vượt ngục, họ đă mừng rỡ biết bao
nhiêu khi được biết rằng con họ hay anh họ đă thoát ra khỏi bàn
tay của bọn đao phủ này! Bây giờ được tin tôi bị bắt lại, họ lại
phải đau khổ một lần thứ hai.
Tôi đă sai vô cùng khi từ bỏ bộ lạc của tôi. Phải, tôi có thể
nói “bộ lạc của tôi” như vậy, v́ mọi người trong bộ lạc ấy đều
đă chấp nhận tôi như một thành viên của bộ lạc. Tôi đă sai và
tôi xứng đáng phải chịu những ǵ đă xảy đến với tôi. ấy thế
nhưng... Tôi vượt ngục đâu phải để làm tăng dân số người
Anh-điêng ở Nam Mỹ? Lạy Chúa, Chúa phải hiểu rằng tôi cần phải
sống lại trong một xă hội văn minh b́nh thường và chứng minh cho
mọi người thấy rằng tôi có thể làm một thành viên của xă hội đó
mà không gây thành một hiểm họa cho nó. Đó là số mệnh đích thực
của tôi - có sự tham dự của Người hay không có sự phù hộ của
người cũng vậy. Tôi phải chứng minh cho bằng được rằng tôi có
thể, rằng tôi đang và sẽ là một con người b́nh thường nếu không
phải là tốt hơn những thành viên khác của bất kỳ tập thể nào của
bất kỳ đất nước nào.
Tôi hút thuốc. Nước bắt đầu lên. Bây giờ đă ngang mắt cá tôi.
Tôi gọi:
- Anh Da Đen, nước vào chuồng giam bao nhiêu lâu th́ rút hết?
- C̣n tùy thủy triều mạnh hay nhẹ. Một giờ, hai giờ là cùng.
Tôi nghe thấy mấy người tù kêu: Esta llegando (Nó đến).
Nước lên từ từ, rất chậm. Người lai và người Da đen bám lên song
sắt. Chân họ buông thơng ra ngoài hành lang, tay họ ôm lấy mấy
cái chấn song. Có tiếng động dưới nước: đó là một con chuột cống
to bằng con mèo đang bơi lơm bơm. Nó đang t́m cách leo lên chấn
song. Tôi cầm lấy một chiếc giày và khi nó bơi đến gần tôi đánh
một cái thật mạnh lên đầu nó. Nó vừa bơi ra hành lang vừa kêu
chí chóe. Anh tù Da đen nói với tôi;
- Francés, anh nổi máu đi săn rồi đấy. Không sao giết hết được
chúng nó đâu. Leo lên chấn song đi, bám chặt vào và ngồi yên
đấy.
Tôi làm theo lời anh ta, nhưng mấy cái chấn song hằn vào đùi rất
đau, cứ cái tư thế này th́ tôi chẳng chịu đựng được bao lâu. Tôi
lấy cái áo vét bịt xô đựng phân buộc lên chấn song và cưỡi lên
đấy. Nó làm thành một thứ ghế để cho tôi có thể chịu đựng được
cái tư thế không lấy ǵ làm thoải mái kia, v́ vậy giờ tôi gần
như được ngồi.
Cuộc xâm lăng này của nước thủy triều, của chuột cống, của các
loài rết và của nhỏ li ti được nước lùa tới là cái điều kinh tởm
nhất, có sức làm mất tinh thần nhất mà một con người có thể chịu
đựng. Một giờ sau, khi nước đă rút hết, trong chuồng c̣n lại một
lớp bùn lầy lụa dày hơn một phân. Tôi đi giày vào để khỏi phải
lội trong lớp bùn này. Anh Da đen ném cho tôi một mảnh ván dài
mười phân, bảo tôi dùng để gạt bùn ra ngoài hành lang, bắt đầu
từ chỗ đặt tấm ván dùng làm giường ngủ, rồi từ cuối chuồng cho
đến chỗ ra vào. Công việc choán hết cả nửa giờ và buộc tôi phải
nghĩ đến mỗi một việc ấy thôi. Như thế cũng đă có được một chút
ǵ ích lợi. Từ bây giờ đến đợt thủy triều sau, Tôi sẽ không bị
ngập nước: như thế có nghĩa là trong mười một tiếng đồng hồ, v́
sau cùng là giờ nước tràn vào. Phải tính đủ sáu giờ nước biển
rút xuống và năm giờ nước biển dâng lên. Tôi tự nhủ một cách hơi
lố bịch: Bươm bướm, số mày là phải chịu ảnh hưởng của thủy
triều. Dù mày muốn hay không, mặt trăng cũng có một tầm quan
trọng lớn lao đối với mày và đời mày. Chính nhờ thủy triều lên
xuống mà mày đă ra khỏi sông Maroni một cách dễ dàng khi trốn
khỏi trại khổ sai. Khi mày ra đi từ Trinidad và từ Curacao, mày
cũng đă phải tính đến ngày giờ thủy triều lên xuống. Sở dĩ mày
bị bắt ở Rio Hacha chính là v́ thủy triều xuống không đủ mạnh để
mày rời bờ biển thật nhanh và cho đến bây giờ mày lại thường
xuyên phải chịu đựng nước thủy triều.
Trong số những người sẽ đọc mấy trang này, nếu một ngày nào nó
sẽ được xuất bản, có lẽ cũng sẽ có những người thương hại tôi ít
nhiều khi biết những nỗi cơ cực mà tôi phải chịu đựng trong
chuồng giam của người xứ Colombia. Đó là những người tốt. C̣n
những người khác, họ hàng thân thuộc của mười hai miếng pho-mát
đă xử tội tôi, hoặc là có bà con với viên biện lư th́ sẽ nói:
“Đáng đời cho nó, ai bảo nó vượt ngục? Nếu nó chịu ở yên trong
trại khổ sai th́ đâu đến nỗi!” Thế th́ tôi xin nói với các người
một điều, nói với những người tốt cũng như những miếng pho-mát
kia.
Tôi không tuyệt vọng, không tuyệt vọng một chút nào, và tôi c̣n
nói hơn thế nữa: tôi thà bị nhất trong những chuồng giam của cái
pháo đài cũ do bọn giáo h́nh Tây Ban Nha xây lên ở Colombia c̣n
hơn bị giam ở Quần đảo Salut là nơi mà lẽ ra tôi phải có mặt vào
giờ này. ở đây tôi c̣n phải làm rất nhiều mới ḥng có cơ vượt
ngục, và dù nằm trong cái hầm thối tha này, tôi cũng tự hào là
đă cách xa trại tù đến hai ngàn năm trăm cây số. Chúng nó sẽ
phải thi hành rất nhiều biện pháp đề pḥng mới có thể bắt tôi đi
ngược chiều đoạn đường hai ngàn năm trăm cây số ấy. Tôi chỉ tiếc
có một điều: bộ lạc Guajiros của tôi, Lali và Zoraima, và cuộc
sống tự do trong thiên nhiên, không có những tiện nghi của người
văn minh, nhưng cũng không có cảnh sát, không có nhà tù và càng
không có những chuồng nhốt người như thế này. Tôi nghĩ rằng
những người bạn hoang dă của tôi, họ không bao giờ lại có thể
nảy ra cái ư bắt một kẻ thù của họ phải chịu một cực h́nh như
thế này, và lại càng không bao giờ nảy ra cái ư dùng một cực
h́nh như thế với tôi, một người không hề làm phương hại ǵ đến
người dân Colombia.
Tôi nằm xuống tấm ván và hút hai ba điếu thuốc lá ở tận trong
cùng xà-lim để những người khác đừng nh́n thấy. Khi trả tấm ván
nhỏ lại cho người da đen, tôi đă ném cho anh ta một điếu thuốc
lá châm sẵn, và anh ta cũng làm như tôi v́ hổ ngươi với các bạn
tù.
Những chi tiết này tưởng chừng như không có ǵ đáng kể, nhưng
đối với tôi nó rất có giá trị. Nó chứng tỏ rằng chúng tôi c̣n
giữ lại được chút lịch sự và hổ ngươi tế nhị.
ở đây không phải như ở nhà lao Conciergerie, tôi có thể mơ mộng
và thả hồn đi lang thang trong không gian mà không cần phải bịt
mắt bằng một chiếc khăn mùi soa cho đỡ chói.
Ai đă báo cho cảnh sát biết là tôi đang ở trong tu viện? Ôi, nếu
một ngày kia tôi biết được, th́ tội này sẽ phải đền. Rồi tôi lại
tự nhủ: thôi đừng nói nhảm nữa Bươm bướm! ở Pháp mày c̣n bao
nhiêu việc phải làm để trả thù, c̣n cái xứ sở heo hút này th́
thôi đi mày đến đây không phải để làm điều ác! Người ấy nhất
định sẽ bị chính cuộc sống trừng phạt, và nếu một ngày kia mày
phải trở lại đây, th́ đó không phải để trả thù, mà để đem lại
hạnh phúc cho Lali và Zoraima, cho cả mấy đứa con của mày nữa.
Nếu mày sẽ trở về xứ này, th́ đó sẽ là v́ họ và v́ tất cả những
người Guajiros đă ban cho mày cái vinh dự được chấp nhận trong
bộ lạc của họ như một người đồng chủng. Tôi hăy c̣n ở trên con
đường của sự thối nát, nhưng tuy bị nhốt trong một cái chuồng
thấp hơn mực nước, dù người ta có muốn hay không th́ vẫn đang
vượt ngục, vẫn đang bước trên con đường đi tới tự do. Điều đó
không thể nào phủ nhận được”.
Tôi đă nhận được một ít giấy, một cây bút ch́, hai bao thuốc lá.
Tôi ở đây đă được ba ngày. Nói là ba đêm mới đúng. V́ ở đây bao
giờ cũng tối. Trong khi tôi châm một điếu Piel Roja, tôi phải
lấy làm khâm phục ḷng tận tụy của các tù nhân đối với nhau. Anh
tù người Colombia chuyển cho tôi gói đồ kia là làm một việc rất
liều. Nếu bị chúng bắt được, chắc chắn anh ta sẽ phải nếm mùi
chuồng giam dưới đất. Không phải anh ta không biết điều đó, cho
nên nhận lời giúp tôi trong cuộc đầy ải này không phải chỉ là
can đảm mà c̣n là làm một nghĩa cử cao thượng phi thường. Vẫn
dùng cách đốt cuộn giây, tôi đọc:
“Papílon ơi, chúng ḿnh biết cậu chịu đựng được. Cừ lắm! Cho
chúng ḿnh biết tin nhé. Chúng ḿnh vẫn thế. Một nữ tu sĩ biết
nói tiếng Pháp có đến thăm cậu người ta không cho cô ấy nói
chuyện với chúng ḿnh, nhưng một người tù Colombia cho chúng
ḿnh biết rằng anh ta đă kịp nói cho nữ tu sĩ biết là anh tù
người Pháp đang bị nhốt vào chuồng tử thần. Cô ấy nói: Tôi sẽ
trở lại. Chỉ có thể thôi. Các bạn cậu hôn cậu.
Trả lời không phải là việc dễ, nhưng tôi vẫn t́m cách viết được
mấy chữ: “Cám ơn các cậu về mọi thứ: ở đây ổn cả, tôi chịu đựng
được. Các cậu hăy viết đơn gửi ông lănh sự Pháp, may ra th́
được. Lúc nào cũng cử một cậu thôi, để khi có chuyện ǵ th́ chỉ
một cậu bị phạt. Đừng chạm tay vào hai mũi tên. Vượt ngục muôn
năm!”
Vượt
ngục ở Santa Marta
Măi hai mươi tám ngày sau, nhờ sự can thiệp của một ông lănh sự
Bỉ ở Santa Marta tên là Klausen, tôi mới được ra khỏi cái hầm
khủng khiếp kia. Người tù Da đen, tên là Palacios, đă được ra ba
tuần sau khi tôi đến: anh ta đă có cái sáng kiến nhờ bà mẹ (khi
bà ấy đến thăm) báo với lănh sự Bỉ rằng có một người Bỉ bị giam
trong hầm. Anh nảy ra cái ư đó v́ có một ngày chủ nhật anh trông
thấy một tù nhân người Bỉ được ông lănh sự đến thăm. Vậy là một
hôm họ dẫn tôi lên pḥng giấy viên chỉ huy. Hắn nói với tôi:
- Anh là người Pháp, tại sao anh lại khiếu nại với lănh sự Bỉ?
Trong pḥng giấy có một ông mặc đồ trắng trạc năm mươi tuổi, mái
tóc vàng nhạt gần như trắng ở phía trên một gương mặt tṛn
trĩnh, hồng hào và tươi tắn, đang ngồi trong chiếc ghế bành, một
cái cặp da đặt trên đùi. Tôi hiểu ngay t́nh thế:
- Chính ông nói tôi là người Pháp chứ không phải tôi. Tôi công
nhận là tôi đă vượt ngục từ một nhà tù Pháp, nhưng tôi là người
Bỉ.
- à! ông thấy chưa - ông lănh sự có bộ mặt cha xứ nói.
- Sao anh không nói từ trước?
- Tôi thiết tưởng điều đó không có ǵ quan trọng đối với các
ông, v́ thực t́nh tôi không hề có một hành dộng nào đáng coi là
phạm pháp thực sự trên đất của các ông ngoài việc tôi bỏ trốn,
một hành động b́nh thường đối với tất cả mọi tù nhân.
- Bueno, tôi sẽ để anh ở chung với các bạn anh. Nhưng thưa Senor
Lănh sự, tôi xin nói trước rằng hễ có âm mưu vượt ngục là tôi
nhốt lại chỗ cũ. Các người đưa anh này ra chỗ cắt tóc rồi đưa
vào pḥng giam bọn đồng lơa.
- Cám ơn ngài lănh sự - tôi nói bằng tiếng Pháp, cám ơn ngài rất
nhiều đă chịu phiền đến đây v́ tôi.
- Trời ơi! Anh đă phải khổ sở biết chừng nào trong những cái
chuồng giam khủng khiếp ấy? Thôi anh đi ngay đi. Không th́ nhỡ
ra hắn lại đổi ư, cái thằng súc sinh ấy. Tôi sẽ trở lại thăm
anh. Tạm biệt.
Người cắt tóc không có mặt ở đấy cho nên họ đưa tôi về pḥng các
bạn. Chắc trông mặt mũi tôi kỳ quặc lắm, v́ họ cứ nói không
ngớt:
- Có c̣n là cậu đâu nữa? Vô lư quá! Cái lũ khốn kiếp ấy đă làm
ǵ cậu, đến nỗi cậu bây giờ như thế này? Cậu nói đi, nói với
chúng ḿnh một cái ǵ đi. Cậu có mù không? Mắt cậu làm sao thế?
Sao lại mở ra nhắm vào lia lịa thế?
- Đó là v́ tôi chưa quen được với thứ ánh sáng này. ở đây sáng
quá, mắt tôi quen chỗ tối cho nên bị chói đấy thôi.
Tôi ngồi xuống và nh́n vào phía cuối pḥng:
- Nh́n vào đây đỡ hơn.
Cậu sặc mùi đồ thối, không thể tưởng tượng được! Ḿnh mẩy cậu
cũng toàn mùi thối! Tôi đă cởi hết áo quần ra, và các bạn xếp nó
vào cạnh cửa. Hai tay tôi, lưng tôi, hai ống chân tôi chi chít
những vết đốt đo đỏ như vết rệp đốt ở nhà, và những vết cắn của
đàn của tí hon nổi trên mặt nước thủy triều. Tôi trông rất gớm
ghiếc, và không cần gương soi, tôi cũng biết như vậy. Năm người
tù khổ sai đă chứng kiến biết bao điều khủng khiếp mà lúc này
cũng phải nghẹn ngào không nói được. Clousiot gọi một tên cảnh
sát đến, nói rằng nếu không có người cắt tóc th́ ngoài sân cũng
có nước để tắm rửa chứ. Tên kia nói là phải đợi giờ đi dạo.
Tôi trần truồng bước ra sân. Clousiot cầm theo mấy thứ đồ sạch
cho tôi thay. Được Maturette giúp một tay, tôi tắm đi tắm lại
mấy lần bằng thứ xà bông đen nội địa. Tôi càng kỳ càng ra nhiều
ghét. Cuối cùng sau nhiều lần sát xà-bông và dội nước, tôi cảm
thấy ḿnh đă sạch. Tôi phơi nắng trong năm phút th́ khô, và mặc
áo quần vào. Người cắt tóc đă đến. Anh ta định dùng tông-đơ cắt
ngắn tóc tôi. Tôi nói:
- Không. Cắt b́nh thường thôi và cạo râu cho tôi.Tôi sẽ trả
tiền.
- Bao nhiêu?
- Một peso.
- Cắt cho cẩn thận vào, - Clousiot, nói, - tôi sẽ cho anh hai
pesos.
Khi đă tắm rửa sạch sẽ, tóc tai cắt gọn, râu ria cạo nhẵn, áo
quần thơm tho, tôi cảm thấy như người chết đi sống lại. Các bạn
tôi cứ hỏi tôi tới tấp:
- Thế nước lên đến đâu? Thế c̣n chuột cống? Lại c̣n đàn rết? Bùn
th́ sao? Lại c̣n lũ cứt nữa? Với lại cứt ở trong mấy cái xô nổi
lên và các xác chết th́ sao?
Đó là những người chết tự nhiên hay là những người treo cổ tự
sát? Hay là những người bị bọn cảnh sát “tự tử cho chết”?
Những câu hỏi cứ kế tiếp nhau bất tận, và v́ nói nhiều, tôi đâm
khát nước. Ngoài sân nhà tù có một người bán cà-phê. Trong ba
tiếng đồng hồ chúng tôi được đứng ngoài sân, tôi đă uống đến một
chục chén cà- phê đặc pha “papelón” (đường vàng chưa lọc). Thứ
cà- phê ấy tôi thấy là món uống ngon nhất trần gian. Anh Da đen
trước giam ở chuồng đối diện có đến chào tôi. Anh khẽ kể cho tôi
câu chuyện mẹ anh khiếu nại với ông lănh sự Bỉ. Tôi siết chặt
tay anh. Anh ta rất hănh diện v́ đă nghĩ ra cách giúp tôi. Anh
tạm biệt tôi trong một tâm trạng hết sức vui sướng, nói rằng mai
gặp lại sẽ nói chuyện thêm, c̣n hôm nay thế là đủ.
Tôi có cảm giác pḥng giam các bạn tôi là một cung điện.
Clousiot có một cái vơng thuộc quyền sở hữu của anh, v́ anh ta
đă bỏ tiền ra mua được. Anh ta bắt tôi phải nằm cái vơng ấy. Tôi
nằm ngang lên vơng. Anh ta rất lấy làm lạ, nhưng tôi giải thích
cho anh ta hiểu rằng chỉ có những kẻ không biết nằm vơng mới nằm
dọc mà thôi
Ăn, uống, ngủ, đánh cờ, đánh bài bằng những con bài Tây Ban Nha,
nói tiếng Tây Ban Nha với nhau và với bọn cảnh sát cũng như với
các tù nhân Colombia để tập nói cho thạo: tất cả những hoạt động
ấy giúp cho chúng tôi qua được ngày và cả một phần đêm nữa.
Đi nằm từ chín giờ tối là rất khổ. Lúc bấy giờ những chi tiết về
cuộc vượt ngục từ bệnh viện Saint-Laurent cho đến Santa Marta
thi nhau hiện ra từng mớ, nó diễu qua mắt tôi và đ̣i một sự tiếp
tục. Cuốn phim không thể dừng lại ở đấy, nó phải được chiếu
tiếp, nó sẽ c̣n tiếp anh bạn ạ. Hăy để cho tôi lại sức, rồi anh
có thể biết chắc là sẽ c̣n nhiều diễn biến mới nữa, anh cứ tin
tôi! Tôi đă t́m lại được hai mũi tên nhỏ và hai cái lá coca, một
đă khô hẳn, một hăy c̣n hơi xanh. Tôi nhai cái lá xanh. Cả bọn
nh́n tôi sửng sốt. Tôi giảng giải cho các bạn biết rằng đó là
thứ lá mà người ta dùng để làm thuốc phiện trắng (cocaine).
- Cậu đùa đấy chứ?
- Thử nếm mà xem.
- ừ, mà thật, nó làm cho lưỡi và môi mất cảm giác.
- ở đây có bán à?
- Không biết. Clousiot này, cậu làm thế nào mà thỉnh thoảng lại
thấy có tiền thế.
Ḿnh đă đổi tiền ở Rio Hacha, và từ đấy bao giờ ḿnh cũng có
tiền để tiêu trước mặt mọi người. C̣n tôi, - tôi nói, - tôi có
ba mươi sáu đồng tiền vàng ăn một trăm pesos, hiện viên chỉ huy
đang giữ, giá trị hiện nay của mỗi đồng là ba trăm pesos. Đến
một ngày nào đấy tôi sẽ nêu vấn đề này lên. Bọn chúng nó toàn là
bọn chết đói, cậu nên mặc cả với hắn th́ hơn.
- Cũng là một ư hay.
Hôm chủ nhật tôi có nói chuyện với ông lănh sự Bỉ và người tù
Bỉ. Người tù này mang tội thất tín đối với một công ty trồng
chuối Mỹ. Ông lănh sự đă chấp nhận yêu cầu của tôi nhờ ông che
chở cho cả bọn chúng tôi ông ta đă hợp thức hóa một tờ khai
trong đó tôi ghi là ra đời ở Bruxelles trong một gia đ́nh người
Bỉ.
Tôi có kể cho ông ta nghe chuyện mấy bà xơ và cái túi ngọc trai.
Nhưng ông ta là người theo đạo tin lành, không hề quen các bà xơ
và các ông linh mục. Ông chỉ hơi quen đức giám mục một chút mà
thôi. Về món tiền vàng th́ ông khuyên tôi đừng đ̣i. Việc đó quá
nguy hiểm. Khi được chuyển đến Branquilla, phải cho ông biết
trước hai mươi bốn tiếng đồng hồ, và lúc bấy giờ “ông có thể đ̣i
số tiền đó trước mặt tôi, - ông lănh sự nói như vậy, - v́ nếu
tôi không hiểu lầm th́ có những nhân chứng biết việc này”.
- Vâng.
Nhưng bây giờ ông đừng đ̣i ǵ hết, viên chỉ huy rất có thể lại
nhốt ông vào mấy cái chuồng khủng khiếp ấy và có lẽ thậm chí c̣n
có thể sai chúng nó giết ông.
- Mấy chục đồng tiền vàng ấy quả là một gia sản. Giá trị hiện
nay của mỗi đồng không phải là ba trăm pesos như ông tưởng đâu,
mà là năm trăm năm mươi pesos. Vậy th́ đó là một món tiền lớn.
Không nên cám dô quỷ. C̣n về mấy hạt ngọc trai th́ đó là chuyện
khác. Ông cứ để cho tôi có th́ giờ suy nghĩ.
Tôi hỏi anh tù Da đen xem thử anh có muốn vượt ngục với tôi
không, và theo anh nên hành động như thế nào. Da mặt anh ta xám
hắn đi khi nghe nói chuyện vượt ngục.
- Tôi van anh, anh bạn ạ. Anh đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa. Nếu
bại lộ, anh sẽ phải nhận lấy một cái chết dần dà khủng khiếp
nhất. Anh đă được nếm qua rồi đấy. Anh phải đợi đến Baranquilla
đă. C̣n ở đây th́ làm như thế chẳng khác nào tự sát. Anh muốn
chết lắm à? Nếu không, anh hăy ngồi yên. Trong cả xứ Colombia
này không có một nơi nào có thứ chuồng giam như anh đă từng biết
đâu. Vậy th́ việc ǵ phải lĩnh ở đây?
- Phải nhưng ở đây tường không cao, chắc tương đối dễ.
- Hombre, facil o no, anh đừng trông mong ǵ vào tôi Tôi không
đi mà cũng không giúp anh đâu. Thậm chí tôi không thể nghe anh
nói chuyện này nữa đâu.
Cuối cùng anh ta bỏ đi, vẻ hết sức sợ hăi, sau khi nói:
“Francés, anh không phải là một người b́nh thường, anh phải là
người điên loạn mới có thể nghĩ đến những chuyện như thế ở đây,
ở Santa Marta”.
Sáng nào và trưa nào tôi cũng nh́n các tù nhân Colombia bị giam
ở đây v́ những tội nặng. Họ đều có những bộ mặt sát nhân, nhưng
có thể cảm thấy họ đă chịu khuất phục. Nỗi kinh hoàng bị giam
xuống những cái chuồng kia đă làm cho họ hoàn toàn tê liệt về
mọi phương diện. Cách đây bốn năm hôm chúng tôi đă thấy người ta
đưa từ dưới hầm lên một người cao lớn hơn tôi đến một cái đầu,
được gọi là “El Caiman” (Cá sấu). Anh ta nổi tiếng là một người
hết sức nguy hiểm. Tôi nói chuyện với anh ta, rồi sau ba bốn lần
cùng đi dạo, tôi nói:
- Caimán, quieres fugarte con mi go? (Anh có muốn vượt ngục với
tôi không?)
Anh ta nh́n tôi như thể nh́n quỷ Sa tan, và nói:
- Để lại bị giam xuống đấy nếu thất bại? Không đâu, xin cảm ơn.
Tôi thà giết mẹ tôi c̣n hơn trở về đấy
Đó là thí nghiệm cuối cùng của tôi. Không bao giờ tôi nói với ai
về việc vượt ngục nữa.
Chiều hôm ấy tôi thấy viên chỉ huy nhà tù đi qua.
Hắn dừng lại nh́n tôi rồi nói:
- Thế nào, ổn chứ?
- ổn, nhưng sẽ c̣n ổn hơn nếu tôi có mấy đồng tiền vàng của tôi.
- Tại sao?
- Tại v́ tôi sẽ có tiền thuê trạng sư.
- Vào đây
Hắn đưa tôi vào pḥng giấy. ở đây chỉ có hắn và tôi. Hắn đưa cho
tôi một điếu x́ gà - t́nh h́nh khá đây - châm lửa cho tôi - mỗi
lúc một khá hơn.
- Anh có biết tiếng Tây Ban Nha đủ để hiểu và trả lời cho rơ nếu
chúng ta nói với nhau rất chậm không?
- Có
- Tốt. Anh vừa nói là anh muốn bán hai mươi sáu đồng tiền vàng
của anh.
- Không, ba mươi sáu đồng tiền vàng của tôi.
- à phải, phải? Và dùng để thuê trạng sư phải không? Nhưng chỉ
có anh và tôi biết là anh có mấy đồng ấy.
- Không, c̣n có viên trung sĩ và năm người đi bắt tôi, ngoài ra
c̣n có viên phó chi huy đă nhận món tiền ấy trước khi trao lại
cho ông. Rồi lại có ông lănh sự nước tôi nữa.
- à! à! Bueno. Đă nhiều người biết như thế th́ càng tốt, v́ như
thế ta sẽ hành động một cách quang minh chính đại. Anh có biết
không, tôi đă giúp anh một việc rất lớn. Tôi đă ỉm đi, không
chuyển phiếu điều tra cho các lực lượng cảnh sát của các nước
anh đă đi qua để biết rơ họ có hồ sơ ǵ về một vụ trộm tiền vàng
hay không.
- Lẽ ra ông phải làm việc đó mới đúng.
- Không, không làm th́ có lợi cho anh hơn.
- Xin cám ơn ông chỉ huy.
- Anh muốn tôi đem bán hộ anh à?
- Giá bao nhiêu?
- Th́ cái giá mà anh nói là người ta đă trả cho anh lần anh bán
ba đồng ấy: ba trăm pesos. Anh sẽ cho tôi ăn hoa hồng mỗi đồng
một trăm pesos để đền đáp cái công của tôi đă giúp anh. Anh thấy
thế nào?
- Không. Anh trả cho tôi từng mười đồng một và tôi sẽ cho anh
không phải là một trăm mà là hai trăm pesos mỗi đồng. Việc mà
anh đă làm cho tôi đáng được trả công như thế.
- Francés, anh quá tinh ma. Tôi th́ chỉ là một anh sĩ quan
Colombia hèn mọn, quá tin người và hơi ngốc nghếch, c̣n anh là
người thông minh, và như tôi đă nói, quá tinh ma.
- Vậy anh có đề nghị ǵ phải chăng hơn không?
- Ngày mai tôi sẽ gọi người mua đến đây, trong pḥng giấy này.
Hắn sẽ xem mấy đồng tiền vàng, sẽ trả giá, sau đó được bao nhiêu
ta chia đều. Một là thế hai là không có ǵ hết. Tôi gửi anh đi
Baranquilla, kèm theo món tiền, hoặc tôi giữ nó lại để điều tra.
- Không, đây là đề nghị cuối cùng của tôi: người ấy sẽ đến đây
xem, rồi toàn bộ số dư trên ba trăm năm mươi pesos mỗi đồng tiền
vàng sẽ là của anh.
- Esta biên (Được rồi), tu tienes mi palabra (anh có thể tin ở
lời hứa của tôi). Nhưng một số tiền lớn như thế, anh cất vào
đâu?
Khi nhận tiền, anh sẽ mời ông lănh sự Bỉ đến. Tôi sẽ đưa tiền
cho ông ta để thuê trạng sư.
- Không, tôi không muốn có nhân chứng.
- Anh không có ǵ phải lo, tôi sẽ kư giấy xác nhận rằng anh đă
trả cho tôi đủ ba mươi sáu đồng tiền vàng. Anh cứ nhận đi, và
nếu anh xử sự đứng đắn với tôi, tôi sẽ bàn với anh một việc
khác.
- Việc ǵ?
- Anh cứ tin tôi. Việc này cũng hời như việc kia, và trong việc
thứ hai ta sẽ chia đều
- Cual es? (Cái ǵ đấy?) Anh nói đi.
- Mai anh làm nhanh đi, rồi đến năm giờ chiều, khi tiền của tôi
đă được an toàn trong tay ông lănh sự của tôi, tôi sẽ nói cho
anh biết việc kia.
Cuộc thương lượng đă diễn ra khá lâu. Khi tôi hài ḷng trở ra
sân, các bạn tôi đă về pḥng giam.
- Thế nào, ông việc ra sao?
Tôi kể cho họ nghe hết cuộc nói chuyện vừa qua các bạn lăn ra
cười, tuy t́nh cảnh họ chẳng có ǵ đáng lấy làm vui.
- Cái thằng cha ấy cáo thật! Nhưng cậu đă át giọng hẳn. Cậu có
tin là hắn sẽ thực hiện đúng như thế không? Tôi cuộc một trăm
pesos lấy hai trăm là hắn chịu rồi. Có ai đám cuộc với tôi
không?
- Không, tôi cũng nghĩ là hắn sẽ chịu.
Suốt đêm hôm ấy tôi suy nghĩ. Vụ thứ nhất th́ thế là xong. Vụ
thứ hai cũng sẽ xong thôi, v́ hắn sẽ mừng rơn lên khi được đi
lấy túi ngọc trai. C̣n lại vụ thứ ba. Vụ thứ ba... là tôi định
đút cho hắn tất cả số tiền tôi thu lại được để hắn làm ngơ cho
tôi lấy trộm một chiếc thuyền trong cảng. Chiếc thuyền này tôi
có thể mua bằng số tiền tôi c̣n giữ lại trong plan: Để xem hắn
có cưỡng nổi sự cám dỗ hay không. Tôi mất ǵ mà sợ? Sau hai vụ
thứ nhất hắn không c̣n dám trừng phạt tôi nữa. Sau sẽ biết. Đừng
bán da gấu, v.v... Việc ǵ phải đợi khi đến Baranquilla? Thành
phố lớn hơn th́ nhà tù cũng vừng chắc hơn, được giám sát kỹ hơn
và tường cao hơn. Tôi phải quay về sống với Lali và Zoraiam: tôi
sẽ vượt ngục thật nhanh, về đấy đợi mấy năm, rồi sẽ đi vào vùng
núi với cái bộ lạc nuôi ḅ, và sẽ bắt mối liên hệ với người
Venezuela. Bằng bất cứ giá nào tôi cũng phải thành công trong
chuyến vượt ngục này. Suốt đêm tôi nằm suy nghĩ đường đi nước
bước để thực hiện vụ thứ ba.
Hôm sau, công việc được tiến hành khá chóng vánh. Vào lúc chín
giờ sáng họ đến gọi tôi ra gặp ông khách đang đợi tôi ở pḥng
giấy viên chỉ huy. Khi tôi đến, tên cảnh sát đă đi gọi tôi đứng
ngoài, để một ḿnh tôi vào. Trước mặt tôi là một người đàn ông
trạc sáu mươi tuổi mặc đồ màu xám nhạt, thắt ca-vát xám. Trên
bàn đặt một chiếc mũ dạ màu xám rộng vành kiểu như mũ cao bồi.
Một viên ngọc trai lớn màu xám lẫn màu xanh bạc nổi bật lên
trong một thứ khung cài trên ca-vát. Người đàn ông gầy g̣ và khô
đét này không phải không có một vẻ trang nhă nhất định.
- Chào ông.
- Ông có nói được tiếng Pháp không?
- Thưa ông có, tôi vốn là người Liban. Được biết ông có những
đồng tiền vàng một trăm pesos, tôi rất quan tâm. Với giá năm
trăm pesos mỗi đồng, ông có nhượng lại được không?
Không, sáu trăm năm mươi pesos.
- Như vậy là ông không biết giá rồi? Giá tối đa bây giờ là năm
trăm năm mươi pesos.
- Ông ạ, v́ ông lấy hết nên tôi xin nhượng lại với giá sáu trăm.
- Không, năm trăm năm mươi.
Cuối cùng hai bên ngă giá là năm trăm tám mươi pesos. Thế là
việc mua bán đă xong xuôi.
- Qué han dicho? (Anh vừa nói ǵ thế?)
- Chúng tôi đă ngă giá năm trăm tám mươi. Chiều nay sẽ giao
hàng.
Ông khách ra về. Viên chỉ huy đứng dậy nói với tôi:
- Rất tốt, thế th́ tôi được bao nhiêu?
- Hai trăm năm mươi pesos mỗi đồng. Ông thấy không, tôi cho ông
một số tiền gấp hai lần rưỡi cái số mà ông yêu cầu, tức một trăm
pesos mỗi đồng.
Hắn mỉm cười rồi nói: “Thế c̣n việc kia?”
- Trước hết ông lănh sự chiều nay phải có mặt để tôi trao tiền.
Sau khi ông ấy ra về tôi sẽ nói cho anh biết việc thứ hai.
- Thế th́ có một việc nữa thật à?
- Anh có thể tin tôi.
- Biên, ojalá (thật đấy nhé).
Đến hai giờ, ông lănh sự và người đàn ông Liban đă có mặt. Người
này đưa cho tôi hai mươi ngàn tám pesos. Tôi trao mười hai ngàn
sáu trăm cho ông lănh sự và năm ngàn hai trăm tám mươi cho viên
chỉ huy. Tôi kư cho viên chỉ huy một tờ biên lai nói là đă nhận
đủ ba mươi sáu đồng tiền vàng một trăm pesos. Khi chỉ c̣n lại
viên chỉ huy trong pḥng giấy, tôi kể cho hắn nghe câu chuyện
giữa tôi và bà Mẹ Bề trên.
- Bao nhiêu hạt ngọc?
- Năm sáu trăm ǵ đấy.
- Cái bà Mẹ Bề trên ấy là một mụ ăn cắp. Lẽ ra mụ ta phải đem
trả cho anh lúc anh bị bắt, hay là gửi đến đây cho anh, nếu
không th́ nộp cho cảnh sát. Tôi sẽ tố giác mụ ta.
- Không, anh sẽ đến gặp bà ta và trao cho bà ta một bức thư, anh
sẽ yêu cầu bà ta mời cô nữ tu sĩ người ái Nhĩ Lan đến.
- Tôi hiểu: cô này sẽ đọc bức thư viết bằng tiếng Pháp của anh
và dịch ra cho mụ ấy nghe. Được, tôi đi đây.
- Hăy đợi tôi viết bức thư đă.
- à, ừ nhỉ? José, chuẩn bị xe và hai cảnh sát viên - Hắn gọi qua
cánh cửa hé mở.
Tôi ngồi vào bàn giấy viên chỉ huy, và trên một tờ giấy có
ăng-tét của nhà tù, tôi viết bức thư sau đây:
“Kính gởi bà Bề trên của tu viện”, nhờ vị nữ tu sĩ ái Nhĩ Lan
tốt bụng và đầy t́nh nhân ái chuyển giúp.
Khi chúa đă dẫn dắt tôi đến nhà bà, nơi tôi tưởng sẽ nhận được
sự giúp đỡ mà theo luật Cơ đốc giáo bất cứ ai đang bị truy nă
lùng bắt đều có quyền được hưởng, tôi đă trao gửi bà một túi
ngọc trai thuộc quyền sở hữu cửa tôi để bà có cơ sở để tin rằng
tôi sẽ không lén lút ra đi khỏi ngôi nhà mà Chúa đă giao cho bà
cai quản. Một kẻ ti tiện nào đó đă nghĩ rằng bổn phận của hắn và
tố giác tôi với cảnh sát, và họ đă nhanh chóng đến bắt tôi ngay
dưới mái nhà bà. Tôi hy vọng rằng cái linh hồn đê tiện đă có
hành động này không phải là linh hồn của một trong những người
con gái của Chúa đang tu tại viện của bà. Tôi không thể nói với
bà rằng tôi tha thứ cho cái linh hồn thối nát ấy, v́ nói như vậy
không đúng sự thật. Ngược lại, tôi sẽ thiết tha xin Chúa hoặc
một trong các vị thánh của Chúa trừng phạt không thương tiếc kẻ
đă phạm một tội lỗi quái đản như vậy. Thưa bà Bề trên, tôi xin
bà trao lại cho ông chỉ huy Cesario cái túi ngọc trai mà tôi đă
gửi bà giữ hộ. Ông ấy sẽ đưa lại cho tôi một cách trung thực,
tôi tin chắc như vậy. Bức thư này có giá trị như một tờ biên
lai. Kính xin bà nhận ở đây, v.v...”
V́ tu viện cách Santa Marta có tám cây số, nên chỉ một tiếng
rười sau là xe đă trở về. Viên chỉ huy nhà tù cho gọi tôi.
- Xong. Anh đếm thử xem có thiếu không.
Tôi đếm. Không phải để biết là thiếu viên nào không v́ tôi không
hề biết trong túi có bao nhiêu viên, mà để biết hiện nay có bao
nhiêu viên trong tay gă ma-cô này: có cả thảy năm trăm bảy mươi
hai viên.
- Đúng cái túi này chứ?
- Đúng.
- No falta? (không thiếu chứ?)
- Không. Bây giờ anh kể đi.
- Khi tôi đến tu viện, bà Mẹ Bề trên đang ở trong sân. Hai viên
cảnh sát cùng đi đă đứng nghiêm hai bên, tôi nói: “Thưa bà, v́
một việc rất hệ trọng mà chắc bà có thể đoán được, tôi cần nói
chuyện với vị nữ tu sĩ người ái Nhĩ Lan trước mặt bà”.
- Rồi sao nữa?
- Cô nữ tu sĩ run run trong khi đọc bức thư cho bà Bề trên nghe.
Bà này không nói ǵ cả. Chỉ cúi đầu xuống, rồi lên mở ngăn kéo
bàn giấy ra lấy túi ngọc và nói với tôi: “Đây, cái túi ngọc trai
vẫn y nguyên. Xin chúa tha thứ cho kẻ đă phạm.một tội ác như vậy
đối với người ấy. Xin ông nói lại với người ấy rằng chúng tôi
đang cầu nguyện cho anh ta”. Thế đấy, Hombre - Viên chỉ huy kết
thúc, mặt mày rạng rỡ. Bao giờ th́ có thể bán chỗ ngọc này?
- Mănana (mai).
- Tôi sẽ không hỏi anh những viên ngọc này ở đâu ra, tôi biết
anh là một matador nguy hiểm, nhưng bây giờ tôi cũng biết anh là
một người trung thực và có danh dự. Anh hăy cầm lấy súc giăm-
bông, chai rượu này và mấy ổ bánh ḿ Pháp này nữa, để cùng với
các bạn ăn mừng cái ngày đáng ghi nhớ này.
- Chào anh.
Thế là tôi đem về trại giam một chai rượu Chianti hai lít, một
súc giăm-bông hun khói gần ba kư lô và bốn ổ bánh ḿ dài của
Pháp. Quả là một bữa tiệc ngày hội. Giăm-bông, bánh ḿ và rượu
vơi đi rất nhanh. Ai nấy đều ăn uống hết sức ngon lành.
- Cậu có tin là một ông trạng sư sẽ có thể làm được cho chúng
ḿnh một cái ǵ không?
Tôi bật cười. Tội nghiệp, đến như họ mà cũng tin vào cái chuyện
trạng sư này!
- Tôi không biết. Cần phải nghiên cứu và hỏi ư kiến trước khi
trả tiền.
- Tất hơn cả là chỉ trả tiền trong trường hợp có kết quả. -
Clousiot nói.
- Đúng đấy, phải t́m một ông luật sư nào chấp nhận điều kiện ấy.
Tôi không nói chuyện này nữa. Tôi hơi xấu hổ. Hôm sau, cái ông
người Liban lại đến: “Việc này phức tạp lắm, - ông ta nói. -
Trước hết phải phân loại ngọc theo kích thước, rồi theo màu sắc,
rồi theo h́nh dáng, xem thử ngọc tṛn hay có h́nh dáng không
đều.
Nói tóm lại, không những việc này phức tạp, mà ngoài ra người
Liban c̣n nói rằng ông ta phải t́m một người mua thông thạo hơn
ông. Trong bốn ngày công việc đă xong. Ông ta trả ba mươi ngàn
pesos. Vào lúc chót tôi đă lấy ra một viên ngọc màu hồng và hai
viên màu đen để tặng bà vợ ông lănh sự Bỉ. Đúng như những thương
gia lành nghề, họ nhân dịp nói với tôi rằng riêng ba viên ngọc
ấy đă trị giá năm ngàn pesos rồi. Nhưng tôi vẫn lấy về.
Ông lănh sự Bỉ làm khó dễ măi rồi mới chịu nhận ba viên ngọc.
Ông sẽ giữ số tiền mươi lăm ngàn pesos. Vậy là bây giờ tôi có cả
thảy hai mươi bảy ngàn pesos.
Cần phải hoàn thành tốt đẹp việc thứ ba.
Tôi cần phải làm thế nào để thực hiện việc này đây? ở Colombia
một người thợ giỏi được trả công từ tám đến mười pesos mỗi ngày.
Vậy hai mươi bảy ngàn pesos là một món tiền lớn. Tôi phải tranh
thủ thời cơ. Viên chỉ huy đă lĩnh hai mươi ba ngàn pesos. Thêm
hai mươi bảy ngàn nữa hẳn sẽ có được năm mươi ngàn pesos.
- Ông chỉ huy này, nếu làm nghề buôn bán, cần phải có bao nhiêu
vốn mới có được một mức sống cao hơn mức sống của ông?
Muốn buôn bán khá giả th́ phải có một số vốn từ bốn mươi lăm đến
sáu mươi ngàn pesos.
- Số vốn này đẻ được bao nhiêu lăi? Có được gấp ba lần tiền
lương của ông không? Hay bốn lần?
- Nhiều hơn. Phải năm sáu lần số tiền tôi được hưởng.
- Thế tại sao ông không chuyển sáng làm nghề buôn bán?
- V́ tôi chỉ có được một nứa số vốn cần thiết.
- Ông chỉ huy ạ, tôi có một việc thứ ba muốn bàn với ông.
- Thôi anh đừng đùa.
- Không, tôi không đùa đâu. Anh có muốn lấy số hai mươi bảy ngàn
pesos của tôi không? Nó sẽ là của anh khi nào anh muốn.
- Bằng cách nào?
- Anh để cho tôi đi.
- Francés này, tôi biết anh không tin tôi. Trước đây có lẽ anh
có lư. Nhưng bây giờ, khi tôi đă nhờ anh mà thoát khỏi cảnh bần
cùng, có thể mua một cái nhà và cho con đi học trường tư, th́
anh phải biết rằng tôi là bạn của anh. Tôi không muốn ăn gian
của anh mà cũng không muốn người ta giết chết anh: ở đây tôi
không thể làm ǵ cho anh được, dù anh có biếu tôi cả gia tài.
Tôi không có cách ǵ giúp anh vượt ngục với ít nhiều hy vọng
thành công đâu.
- Thế nếu tôi chứng minh được cho anh thấy là có cách th́ sao?
- Th́ ta sẽ xem, nhưng anh phải nghĩ cho kỹ đi đă
- Anh có quen ai làm nghề đánh cá không?
- Có.
- Người đó có thể đưa tôi ra biển và bán thuyền cho tôi không?
- Tôi không biết.
- Thuyền của anh ta giá chừng bao nhiêu?
- Hai ngàn pesos.
- Nếu tôi cho người ấy bảy ngàn và cho anh hai mươi ngàn, th́
như thế đă được chưa?
- Francés ạ, với tôi th́ mười ngàn là đủ, anh phải giữ lấy ít
nhiều mà dùng chứ.
- Anh thu xếp mọi việc đi.
- Anh sẽ đi một ḿnh à?
- Không.
- Mấy người?
- Ba người cả thảy.
- Để tôi thử nói chuyện với anh bạn đánh cá đă.
Tôi rất kinh ngạc trước sự thay đổi thái độ của gă này đối với
tôi. Với cái mặt sát nhân của hắn, hắn che giấu ở đáy ḷng những
t́nh cảm khá tốt đẹp.
Ra sân, tôi đă nói chuyện với Clousiot và Maturette họ nói với
tôi rằng tôi thích thế nào th́ cứ thế mà làm, họ sẵn sàng theo
tôi. Tôi rất xúc động và hài ḷng khi thấy họ giao phó tính mạng
của họ vào tay tôi như vậy. Tôi sẽ không phụ ḷng tin của họ,
tôi sẽ thận trọng đến cùng cực, v́ tôi đă lĩnh lấy một trách
nhiệm lớn lao. Nhưng tôi phải nói cho ba bạn kia biết. Lúc bấy
giờ đă gần chín giờ tối. Chúng tôi vừa đánh xong một ván domino.
Đây là th́ giờ cuối cùng trong ngày mà chúng tôi có được để uống
cà~phê. Tôi gọi: “Cafe-tero!” Rồi chúng tôi bắt đầu ngồi uống
sáu chén cà-phê nóng.
- Tôi cần nói chuyện với các bạn. Đây. Tôi nghĩ là bây giờ tôi
đă có thể lên đường vượt ngục. Tiếc thay, chỉ đi được ba người
thôi. Lẽ tự nhiên là tôi phải đi với Clousiot và Maturette là
hai người đă cùng vượt ngục với tôi từ đầu. Nếu một trong các
bạn thấy có điều ǵ chưa thông, bạn đó hăy nói thẳng ra, tôi sẽ
lắng nghe.
- Không, - anh chàng người Bretagne nói, - làm như vậy là đúng
về mọi phương diện. Trước hết v́ các anh đă cùng ra khỏi trại
khổ sai với nhau. Thứ đến, sở dĩ các anh lâm vào t́nh cảnh này
chính là tại chúng tôi đă muốn đổ bộ xuống Colombia, Papillon ạ,
dù sao cũng cảm ơn anh đă hỏi ư kiến chúng tôi. Nhưng anh hoàn
toàn có quyền làm như thế. Chúng tôi cầu mong Chúa giúp các anh
thành công, v́ nếu các anh bị bắt th́ chắc mười phần là phải
chết trong những điều kiện hết sức kinh khủng.
- Chúng tôi biết, - Clousiot và Maturette cùng nói một lúc.
Chiều hôm sau viên chỉ huy nói chuyện với tôi rằng bạn hắn bằng
ḷng. Hắn hỏi tôi xem chúng tôi cần chở theo những ǵ trên
thuyền.
- Một thùng năm mươi lít nước ngọt, hai mươi kí-lô bột ngô và
sáu lít dầu. Chỉ thế thôi.
- Carajo! - Viên chỉ huy kêu lên. - Ra biển mà chỉ đem theo ngần
ấy thôi?
- Thế thôi.
- Anh thật cừ khôi, Francés ạ.
Thế là xong cả. Hắn đă quyết tâm làm vụ thứ ba.
Hắn lạnh lùng nói thêm:
- Anh có tin hay không th́ tùy, nhưng tôi làm việc này cho các
con tôi và sau đó là cho anh. Một người gan gốc như anh xứng
đáng được giúp như vậy.
Tôi biết rằng hắn nói thật. Tôi cảm ơn hắn.
- Anh sẽ làm thế nào để người ta đừng thấy rơ quá là tôi đồng
ḷng để cho anh trốn?
Anh sẽ không bị liên lụy đâu. Tôi sẽ đi vào ban đêm, lúc đă sang
phiên gác của viên phó chỉ huy.
- Kế hoạch của anh như thế nào?.
Ngày mai anh bắt đầu bớt một viên cảnh sát trong đội gác đêm. Ba
ngày sau anh bớt thêm một đứa nữa. Khi chỉ c̣n một đứa gác, anh
cho dựng một cái cḥi canh đối diện với cửa pḥng giam. Đến đêm
mưa đầu tiên, tên lính gác sẽ vào trú mưa trong cḥi canh và tôi
sẽ nhảy ra cái cửa sổ phía sau. Về hệ thống đèn xung quanh
tường, anh phải t́m cách tự ḿnh làm cháy cầu ch́. Đó là việc
duy nhất tôi yêu cầu anh phải tự làm. Anh có thể làm cháy cầu
ch́ bằng cách ném một sợi dây đồng dài một mét, hai đầu buộc hai
ḥn đá, quàng lên hai sợi dây điện đi từ cột điện đến dăy đèn
mắc ở phía trên bức tường. Về phần anh bạn đánh cá th́ cái
thuyền phải được buộc vào bờ bằng một sợi xích có khóa, nhưng
anh ta phải phá hỏng cái khóa đi để tôi khỏi mất th́ giờ mở bằng
ch́a, mấy lá buồm phải xếp thế nào cho chúng tôi có thể kéo ngay
lên được, và đặt sẵn ba cái chèo lớn để rời bờ trước khi hứng
được gió.
- Nhưng thuyền đă có một động cơ nhỏ, - viên chỉ huy nói.
- à! Thế th́ càng tốt: anh ta phải để máy nổ ở số không như thể
để sưởi máy, trong khi anh ta ghé vào quán cà phê gần nhất bể
uống chén rượu. Khi thấy chúng tôi đến, anh ta phải đứng cạnh
thuyền, mặc áo tráng nhựa đen.
- Thế c̣n tiền th́ sao?
- Tôi sẽ cắt đôi xấp tiền hai mươi ngàn pesos của anh làm hai
nửa. Cái món bảy ngàn pesos tôi sẽ trả trước cho anh bạn đánh
cá. Tôi sẽ đưa trước cho anh một nửa xấp bạc đă cắt đôi, nửa kia
th́ một trong mấy người khác ở lại sẽ đưa cho anh sau. Người đó
là người nào th́ tôi sẽ nói cho anh biết.
- Anh vẫn không tin tôi à? Tệ quá.
- Không, không phải là tôi không tin anh, nhưng anh có thể thất
bại thế nào đấy trong khi làm cháy cầu ch́ và lúc bấy giờ tôi sẽ
không trả tiền, v́ không cháy cầu ch́ th́ tôi không thể đi được.
- Đồng ư.
Mọi thứ đă sẵn sàng. Thông qua viên chỉ huy, tôi đă trả bảy ngàn
pesos cho người đánh cá. Đă năm ngày nay chỉ có một tên cảnh sát
gác đêm trong mỗi phiên. Cái cḥi canh đă dựng xong. Chỉ c̣n đợi
trời mưa đêm, nhưng vẫn chưa có đêm nào mưa cả. Chấn song đă
được cưa bằng những lưỡi cưa do viên chỉ huy cấp, vết cưa đă
được ngụy trang rất kín, ngoài ra lại c̣n được che khuất bằng
một cái lồng chim trong đó có nuôi một con vẹt đă bắt đầu biết
chửi “merde” (cứt) bằng tiếng Pháp. Chúng tôi đều như đang ngồi
trên đống than hồng. Viên chỉ huy đă nhận được một nửa xấp giấy
bạc cắt đôi. Đêm nào chúng tôi cũng đợi. Trời vẫn không mưa.
Theo kế hoạch, hễ mưa được một tiếng đồng hồ là viên chỉ huy
phải làm cháy cầu ch́ từ bên ngoài dăy tường. Vẫn không mưa. Mùa
này mà như vậy thật hết sức vô lư. Từ sớm, hễ thấy một đám mây
nho nhỏ ở bên kia chấn song là ḷng chúng tôi lại tràn trề hy
vọng. Nhưng cuối cùng vẫn chẳng thấy mưa đâu. Có thể phát cuồng
lên được. Mọi thứ đă được chuẩn bị xong xuôi từ mười sáu ngày
nay: mười sáu đêm thao thức đợi chờ, quả tim thót lên tận họng.
Một sáng chủ nhật, viên chỉ huy thân hành ra sân t́m tôi và đưa
tôi vào pḥng giấy.
Hắn trả cho tôi xấp bạc cắt đôi và ba ngàn pesos nguyên.
- Có chuyện ǵ thế?
- Bạn ơi, bạn chỉ c̣n một đêm nay nữa mà thôi. Ngày mai đến sáu
giờ sáng là cái bạn bị đưa đi Baranquilla. Tôi chỉ giao cho anh
ba ngàn pesos của anh bạn đánh cá, v́ phần c̣n lại anh ta đă
tiêu hết cho các anh rồi. Nếu Chúa cho trời mưa đêm nay, anh bạn
sẽ đợi anh và khi nhận thuyền anh sẽ trả số tiền này cho anh ta.
Tôi tin anh, tôi biết là tôi không có ǵ phải lo sợ cả.
Đêm ấy trời không mưa.
o0o
|