chưa hề lập gia đình,
và mỗi khi giận, ông vẫn thường thẳng tay quất roi lên cô con
gái già:
Cô này cho ông cái cảm giác cô mới tám tuổi. Người con gái khác
của ông đã chết khi sinh một bé trai. Ông Gillenormand đòi nuôi
dưỡng đứa cháu ngoại của mình đồng thời hăm dọa truất quyền thừa
kế của nó nếu người ta không cho ông làm việc đó. Vì quyền lợi
của đứa con, người cha đành nhượng bộ với cõi lòng tan nát và
còn phải chấp nhận những điều kiện nghiệt ngã của lão tư sản già
nua cao ngạo và cứng đầu:
Ông đã không bao giờ tìm cách gặp lại cậu con trai Marius của
mình và làm cho cậu yêu thương mình. Một mối ác cảm không khắc
phục ngăn cách ông Gillenormand và người con rể ông. Ông
Gillenormand ngưỡng mộ dòng Bourbons và căm ghét cách mạng 1789.
Ông nói một cách quyền uy:
"Cuộc cách mạng Pháp gồm toàn bọn vô lại". Ông chỉ gọi người con
rể ông là "tên cướp sông Loire ?" Người con rể ông đã từng là
một trong những người anh hùng trong quân đội cách mạng và đế
chế. Napoléon đã gắn huy chương cho ông tại Auterlitz, sắc phong
cho ông cấp bậc đại tá và phẩm trật nam tước trên chiến trường
Waterlo. Với ông, Gillenormand là một lão già ngớ ngẩn. Ông sống
tại Vernon và vì không được gần con, ông bắt đầu yêu hoa.
Như thế, Marius Pontmercy sống gần ông ngoại. Cậu có đôi mắt to
màu nâu sẫm, dịu dàng và đầy tự tin trên một khuôn mặt xinh đẹp.
Cậu run rẩy trước ông Gillenormand luôn nói chuyện với cậu bằng
một giọng nghiêm khắc.
- Đây này nhóc tì, ông bảo cậu. Đồ xỏ lá, ba que, đến đây! Hãy
trả lời đi, ranh con! Tao phải thấy mày, đồ vô lại! v v ông rất
cưng chiều cháu ngoại của mình. Ông dẫn cậu tới các phòng khách
bảo hoàng nơi ông vẫn lui tới. Tại những nơi đó, Marius thường
nghe nói tới "chằn tinh đảo Corse" hoặc "hầu tước Bonaparte", vị
trung tướng quân đội nhà vuạ Những người theo chủ nghĩa bảo
hoàng cuồng tín đó đòi xóa sạch những trang đẹp nhất của lịch sử
nước Pháp, đang ngắm dấu vết của họ trong tâm hồn đang rộng mở
kia.
Sau những năm trung học, khi vào trường luật, Marius theo chủ
nghĩa quân chủ và sống khắc khổ. Cậu không thích ông ngoại cậu
lắm bởi sự vui vẻ và tính vô liêm sĩ của ông khiến cậu thương
tổn và cậu cũng không vui gì đối với cha cậu. Dù sao cậu vẫn là
một chàng trai cuồng nhiệt và thanh cao, quảng đại và tự hào,
đường hoàng và trong sáng đến nghiệt ngã.
Ngày cậu vừa được mười bảy tuổi, buổi chiều khi trở về nhà, cậu
thấy ông ngoại cậu cầm một lá thư trong tay.
- Cha cháu bịnh, ông Gillcnormand nói, cha cháu mong gặp cháu.
Ngày mai cháu đi Vernon.
Được tin đó Marius không xúc động lắm. Đối với cậu, ý tưởng về
cha cậu chỉ thể hiện qua hai lá thư mỗi năm. Những lá thư vì bổn
phận do dì cậu đọc cho cậu viết vào ngày một tháng giêng và vào
ngày Sinh - Georges và người ta bảo là được ghi trong tập công
thức nào đó. Do đó mà cậu không vội vã gì với lời kêu gọi của
đại tá Pontmercỵ Đến đỗi ngày sau, khi tới chỗ trọ tại Ve mon,
cậu được một bà giúp việc già tiếp trong nước mắt ràn rua, ông
đại tá đã chết hai giờ trước đó, ông đã ngồi dậy trên giường
bịnh dù người làm ngăn cản, và ông kêu lên:
"Con trai tôi không đến! Tôi phải đi đón nó".
Rồi ông bước ra khỏi phòng và ông đã ngã xuống trút hơi thở cuối
cùng trên nền lát gạch vuông của phòng đợi.
Bên thi thể của người lính già, một vị linh mục già, người bạn
độc nhất của ông, đang canh thức. Marius nhìn rất lâu người đàn
ông, cha cậu, mà cậu trông thấy lần đầu và lần cuối. Khuôn mặt
khả kính và uy nghi đó, thân thể nhiều nơi đầy những vết sẹo dọc
ngang đó, chính cha cậu đó Vị linh mục và người tớ gái đều khóc.
Mắt cậu vẫn khô khốc. Cậu chỉ thấy mình xúc động đôi chút bởi
cha cậu quá xa lạ với cậu.
ông đại tá không để lại gì. Tiền bán mớ đồ đạc chỉ xấp xỉ đủ
trang trải việc chôn cất. Người tớ gái tìm thấy một mảnh giấy
lộn trong một ngăn kéo và trao cho Marius. Trên đó có những dòng
này, tự tay ông đại tá viết:
"Cho con trai tôi - Hoàng đế đã phong tước nam cho tôi trên
chiến trường Waterloo. Bởi chế độ vương chính chống đối tôi trong
tước hiệu này mà tôi đã phải trả giá bằng máu, con trai tôi sẽ
nhận nó và giữ lấy. Chắc chắn nó sẽ xứng đáng với tước hiệu đó".
Phía sau mảnh giấy, ông đại tá viết thêm:
"Cũng trong trận Waterloo một trung sĩ đã cứu mạng tôi. Người
đó tên là Thénardier. Thời gian sau này dường như ông có một cái
quán nhỏ trong một ngôi làng thuộc vùng lân cận Paris, tại
Chelles hay tại Montèrmeil gì đó. Nếu con trai tôi gặp ông ấy nó
sẽ làm tất cả những gì có thể cho ông ấy".
Marius cho mảnh giấy vào ví. Sau đám ma cậu trở về Paris và tiếp
tục việc học luật, không nghĩ gì tới cha cậu nữa. Không còn thứ
gì của ông đại tá nữa. Ông Gillenormand sai đem thanh kiếm và bộ
lễ phục của ông cho người buôn đồ cũ. Marius chỉ còn lại miếng
băng tang nơi mũ, thế thôi.
Nhưng sự lãng quên đó chỉ kéo dài được vài tháng. Một ngày nọ
khi Marius đi xem lễ mi sa tại St-sulpice, trung thành với tập
quán tôn giáo thời thơ ấu, một lão già trông giữ nhà thờ đến bên
cậu:
- Xin lỗi cậu, ông nói. Cậu đã ngồi trên ghế tôi. Và khi người
thanh niên vội vàng đứng dậy, ông tiếp lời:
Tôi rất gần bó với chỗ này, nó gợi cho tôi nhiều kỷ niệm. chính
nơi gần cây cột này, trong hàng chục năm trời, thường xuyên cứ
trong khoảng hai, ba tháng tôi vẫn trông thấy một người cha dũng
cảm tìm đến, ông không có dịp nào khác để gặp con mình. Những
cuộc dàn xếp gia đình đã ngăn cản ông chuyện đó. Ông đến vào giờ
khắc mà ông biết người ta dẫn người con trai của ông đến xem lễ
mi sạ Cậu trai không ngờ cha mình đang có mặt ở đó.
Thậm chí có thể cậu cũng không biết mình có một người cha, cậu
trai ngây thơ đó! Còn người cha thì vẫn lẫn khuất. Ông nhìn đứa
con và không cầm được giọt lệ, bởi ông yêu quý cậu. Tôi đã trông
thấy cảnh đó. Với tôi đây là nơi chốn đã trở nên linh thiêng.
Người cha đó đã hy sinh thân mình để có ngày đứa con trai của
ông được giàu có và hạnh phúc. Người ta ngăn cách ông với cậu vì
chính kiến! Đó là một vị đại tá của Bonapartẹ Ông có cái tên
tương tự là Pontmarie hay Pontmercy gì đó... Ông ở tại Vernon,
nơi tôi có một người em là linh mục.
- Thưa ông, Marius nói trong cơn dao động, đó chính là cha tôi.
- à! Cậu là con của ông ấy! lão già trông giữ nhà thờ kêu lên,
hai bàn tay chấp lại. Thế thì, người con đáng thương, cậu có thể
nói rằng cậu có một người cha rất đỗi yêu cậu Marius đưa cánh
tay ra cho lão già nắm và đưa lão về chỗ trọ.
Từ hôm ấy cuộc sống chàng trai đã thay đổi sâu sắc Cậu gặp lại
lão già trông giữ nhà thờ và cha xứ Vernon. Cậu yêu cầu được kể
lại từng chi tiết nhỏ nhặt về ngày cuối đời của người đàn ông
quý hiếm, cao cả và dịu dàng đã là cha cậu. Trong tủ sách
"Người thầy" cậu đọc tất cả nhũng câu chuyện về nền cộng hòa và
nền đế chế, cậu hào hứng với những trang báo cáo về quân đội vĩ
đại trong đó thường xuất hiện tên tuổi Pontmercỵ Cậu tìm gặp
những vị tướng mà cha cậu từng phục vụ dưới quyền.
Việc nghiên cứu đó chiếm hết thì giờ cũng như tâm trí cậu, gần
như không cho cậu còn thì giờ gặp những người trong gia đình
Gillenormand. Khi cậu xuất hiện trong giở ăn với vẻ mặt xanh xao
và lo lắng, ông ngoại và dì cậu càu nhàu và nói với nhau:
- Marius đang bận tâm chuyện gì, nó học hành không được nghiêm
túc như trước.
Marius đang ngưỡng vọng cha mình, và qua cha mình, cậu bất đầu
ngưỡng vọng đất nước cậu.
Cho tới bấy giờ nền cộng hòa và nền đế chế đối với cậu chỉ là
những từ quái lạ. Việc tìm hiểu các giai đoạn lịch sử đó của
nước Pháp giúp cậu tỉnh táo xem xét các cuộc biến động cùng các
nhân vật. Cậu thấy từ cuộc cách mạng hiện ra khuôn mặt vĩ đại
của nhân dân và từ nền đế chế, khuôn mặt vĩ đại của nước Pháp.
Trong thâm tâm của mình, cậu tuyên bố tất cả những điều đó đều
tốt đẹp.
Tất cả những sự đảo lộn đó diễn ra trong cậu và gia đình cậu
không hay biết về chuyện đó. Cậu âm thầm vứt bỏ lớp da bảo hoàng
cũ kỹ của mình. Cậu trở nên cách mạng hoàn toàn và dân chủ một
cách triệt để. Cậu đến một người thợ khắc và đặt làm một trăm
cái thẻ mang tên "hầu tước Marius Pontmercy".
Càng đến gần cha cậu, với ký ức về ông và những gì mà ông đã
chiến đấu để bảo vệ trong hai mươi lăm năm, cậu càng rời xa ông
ngoại cậu. Vả chăng tính khí của ông Gillenormand luôn gây
thương tổn cho cậu. Giữa họ có tất cả những mối bất hoà của
chàng trai trẻ uy nghiêm đối với lão già phù phiếm. Lại nữa,
Marius cảm thấy lòng mình dâng trào những tình cảm nổi loạn
không tả hết được khi nghĩ rằng chính ông Gillenormand, vì những
động cơ ngu xuẩn, đã tách cậu khỏi cha cậu một cách không thương
tiếc.
Thỉnh thoảng Marius vẫn vắng nhà nêu ly do tham dự những buổi đi
săn với bạn.
- Cháu cứ vui chơi, cháu cứ vui chơi ! ông ngoại cậu bảo. Tuổi
trẻ phải đi qua thôi.
Những buổi đi săn đó có nghĩa là tới Vernon cầu nguyện và khóc
trên mộ Ông đại tá. Một lần Marius đã tới tận Monttermeil và hỏi
thăm ông cựu trung sĩ Thénardier của trận Waterloo, người mà cha
cậu đã chịu một cái ơn quá lớn. Với Marius, cái tên Thénardier
sáng rực khí phách anh hùng và lòng tận tụy. Thật ra ông chủ
quán ác độc không phải là trung sĩ mà là kẻ đi tuột lại sau đoàn
quân và là kẻ trấn lột xác chết. Ông ta đã lục lạo một cách tàn
nhẫn trên người ông đại tá tường đâu đã chết nên bị bỏ lại nơi
con lộ trũng Ohann tại Waterloo.
chính lúc kéo ông ra từ dưới một đống xác chết để dễ dàng cướp
tiền của, đồ đạc của ông hơn, Thénardier không ngờ giúp ông đại
tá tỉnh lại. Nhưng cả Pontmercy lẫn Marius đều không thể nào
biết được rằng một sự trớ trêu của định mệnh đã biến tên trộm
ươn hèn đó thành một người cứu nạn tận tụy. Và Thénardier cứ
chiếm lĩnh vị trí của mình trong trái tim nồng nhiệt của chàng
trai trẻ. Marius rất đỗi buồn phiền khi biết được tại
Monttẻrmeil rằng quán đã đóng cửa, rằng Thénardier bị phá sản và
người ta không biết ông ra sao.
Trở về sau chuyến đi Vernon, cuộc sống của Marius chợt đổi sang
một hướng đi khác với hướng đi của cậu cho tới bây giờ.
Mệt mỏi sau hai đêm hộc tốc, chàng trai trẻ thấy cần lấy lại sức
sau những giờ thiếu ngủ bằng cách đi bơi, cậu vội vã lên phòng
mình, chỉ kịp cởi chiếc áo rây đanh gột mặc đi đường của mình và
đi tắm. Nhưng trong cơn hối hả cậu đã bỏ lại trên giường mình
một chiếc hộp bọc da lừa màu đen giống như một miếng mề đay mà
cậu vẫn buộc giây đeo lủng lẳng nơi cổ. Cậu đã cất trong chiếc
hộp đó lá thư cuối cùng của đại tá Pontmercy.
ông Gillnormand nghe tiếng người cháu ngoại trở về rồi lại đi.
Ông vội chạy vào phòng cậu trên đôi chân già yếu của ông. Vật
đầu tiên ông bắt gặp trên giường là chiếc hộp bọc da lừa màu
đen. Ông mở chiếc hộp và lấy ra một tờ giấy xếp cẩn thận.
- Đây là một mảnh giấy thân thương, ông nói với cô Gillnormand
mà ông đã gọi tới. Nó giữ mảnh giấy này trên trái tim đó. à!
Những người trẻ tuổi.
- Chúng ta hãy đọc nó xem sao, cha, người dì vừa nói vừa mang
kính.
Và họ đọc:
"Cho con trai tôi - Hoàng đế đã phong tước nam cho tôi trên
chiến trường Waterloọ Bởi chế độ vương chính... ".
Khi đọc xong lá thư đó, ông Gillenormand nói nhỏ như nói với
chính mình:
Đây là chữ viết của tên lính quê mùa đó.
Cô Gillenormand nắn cái túi áo rây đanh gết của Marius. Cô lấy
ra một cái gói nhỏ bọc giấy xanh. Đó là những tấm thẻ của
"hầu
tước Marius Pontmercy".
- Đẹp lắm! người dì nói. Và hai cha con lặng nhìn nhau trong một
tiếng đồng hồ, không ai nói gì.
Cuối cùng Marius trở về. Cậu thấy ông ngoại cậu đang cầm trong
tay một tấm thẻ của cậu và khi trông thấy cậu, ông kêu lên,
giọng nhạo báng:
- Nào! Bây giờ cháu là hầu tước đấy à? ông xin chúc mừng cháu.
Thế là cái quái gì?
Marius hơi đỏ mặt, cậu đáp:
Điều đó có nghĩa cháu là con của cha cháu.
ông Gillenormand dứt tiếng cười và nói giọng cứng cỏi:
- Cha của cháu chính là ông đây.
Cha cháu, Marius tiếp lời, mắt nhìn xuống, nhưng giọng cương
quyết, đó là một con người khiêm tốn nhưng anh hùng đã phục vụ
một cách vẻ vang nền cộng hòa và nước Pháp, đã bảo vệ hai ngọn
cờ, đã nhận hai mươi vết thương, đã chết trong quên lãng và
trong sự ruồng rẫy, và chỉ có một điều ngộ nhận trong đầu là đã
quá yêu hai thứ bất nghĩa, đất nước của người và cháu.
Thật là quá đáng đối với ông Gillenormand. Mỗi lời nói của
Marius càng làm cho lão già theo chủ nghĩa bảo hoàng thêm đỏ mặt
tía tai:
Thằng bé ghê tởm? ông kêu lên. Cha mày là cái giống gì tao chẳng
cầm biết. Nhưng những cái mũ đỏ đó, tất cả đều là bọn khốn kiếp,
bọn sát nhân. Tao nói tất cả, mày có nghe không? Tất cả bọn ăn
cướp đều phục vụ Robespierre và Bonaparte, tất cả những tên phản
bội đã phản nhà vua hợp pháp. Nếu có thằng cha mày trong đó cũng
mặc xác, tao căm giận nó; thằng cha tôi tớ của mày.
Marius xúc động đến tái mặt. Cha cậu vừa bị lăng nhục trước mặt
cậu. Và lăng nhục bởi ông ngoại cậu!
Làm sao trả thù cho người này mà không tổn hại tới 'người kiả
Trong giây phút cậu lảo đảo như đang có một cơn lốc trong đầu
mình, rồi cậu ngước mắt nhìn đăm đăm vào ông ngoại cậu và hét
lên giọng rền vang:
- Đả đảo bè lũ Bourbons và con heo mập Louis XVIII Louis XVIII
đã chết từ bốn năm trước nhưng cậu bất chấp điều đó.
Mặt ông Gillenormand trở nên trắng bệt như tóc của ông. Ông quay
về phía một pho tượng bán thân của quận công Berry đặt trên lò
sưởi và kính cẩn chào nó với một vẻ uy nghi khác thường. Rồi
nghiêng về phía con gái, ông nói với cô, miệng mỉm cười bình
thản:
- Một hầu tước như cậu này đây và một người tư sản như cha không
thể sống dưới cùng một mái nhà được.
Rồi bất ngờ ông đứng thằng, người run rẩy, mặt ông tái đi vì
giận dữ, ông dang hai cánh tay về phía Marius và hét vào cậu:
Mày cút đi.
Marius rời khỏi nhà.
Ngày hôm sau ông Gillenormand nói với con gái:
- Mỗi sáu tháng con sẽ gởi sáu mươi đồng pixton cho kẻ uống máu
đó và đừng bao giờ nói với cha chuyện đó Marius ra đi trong phẫn
uất, cậu không nói lời nào và cũng không biết mình đi đâu. Cậu
có trong người 30 frăng. Cậu bước lên một chiếc xe độc mã và đi
cầu âu về phía khu La tinh. Trong khi xe lăn bánh trên quảng
trường Sị-Miche một cách chậm chạp như thiếu dứt khoát, bất chợt
Marius nghe một giọng nói kêu lên:
Ngài Marius Pontmercy Xe dừng lại. Một người sinh viên tuổi trạc
hai mươi lăm đội mũ lệch, mặt tươi vui, tiến đến gần.
- Tôi trông thấy cái tên này trên túi xách của anh, anh ta nói
với Marius.
- Anh tìm tôi, Marius nói giọng kinh ngạc, nhưng tôi không biết
anh.
Tôi cũng thế. hôm kia, anh không vào trường. Tôi cũng là sinh
viên luật như anh và tôi có mặt ở đó. Ồ? đó chỉ là chuyện tình
cờ thôi. Ông giáo sư đang điểm danh.
ông Blondeau ấy mà. Anh biết ông ta nham hiểm nhường nào. Ông ta
bắt đầu bằng chữ P. Việc điểm danh cũng êm xuôi, không ai vắng
mặt. Blondeau có vẻ buồn.
Bỗng đâu ông ta gọi "Marius Pontmercy". Không ai lên liếng trả
lời. Blondeau tràn trề hy vọng, lập lại hy vọng giọng to hơn:
"Marius Pontmercy" và ông ta cầm viết.
lôi nghĩ thầm, ông ta sắp gạch tên một chàng trai dũng cảm đây,
coi chừng. Và tôi lên tiếng trả lời:
"Có mặt".
Do đó mà anh không bị gạch tên.
- Thưa anh! Marius nói giọng biết ơn.
Còn tôi thì bị gạch tên, người sinh viên tiếp lời.
Bởi bất ngờ Blondeau, với cái mũi tinh ranh, nhảy từ chữ P tới
chữ L. Tôi tên Lesgle. Khi nghe gọi đến tên tôi, tôi Hô "Có mặt"
- Này cậu, bấy giờ Blondeau vừa nói với tôi vừa mỉm cười một
cách hung ác, cậu hãy chọn đi. hoặc cậu là Pontnlercy thì cậu
không là Lesglẹ Nói xong ông ta gạch tên tôi. Người trẻ tuổi,
ông ta tiếp lời, đây sẽ là bài học cho cậu; trong tương lai hãy
đúng mực.
Tôi rất buồn..., Marius nói.
- Còn tôi thì rất hoan hỉ, Lesgle vừa nói vừa phá lên cười. Tôi
sẽ không là luật sư, chính anh là người mà tôi nợ cái hạnh phúc
đó. Tôi muốn đến thăm anh một cách trịnh trọng để cảm ơn. Anh ở
đâu?
Trong chiếc xe độc mã này, Marius vừa nói vừa mỉm cười buồn bã.
Dấu hiệu phong lưu đấy... Nhưng tôi vừa thấy một người bạn. Ê
Courfeyrac ? Đây là Pontmercy, một luật sư tương lai có một lợi
tức chín nghìn trăng mỗi năm và có vẻ không hài lòng về chuyện
đó..
Người sinh viên được gọi tên bước về phía Marius và xiết chặt
tay cậu.
Các bạn không biết đi đâu, cậu nói, xin hãy đến tôi tại khách
sạn Porte-st-jacques. Các bạn đừng từ chối.
Sinh viên phải tương trợ nhau. Lại nữa, anh bạn có một khuôn mặt
cảm tình. anh có một chính kiến nào không?
Anh là ai?
- Người theo chủ nghĩa dân chủ Bonaparte.
- Độ xám đáng tin cậy, Courfeyrac vừa nói vừa mỉm cười. Chúng ta
vẫn là bạn thôi. Tôi sẽ giới thiệu anh với hội
A.B.C. tại quán cà
phê Musain, cậu ta thấp giọng, điều này sẽ giúp anh đi vào cách
mạng..
Ngay buổi chiều, Courtèyrac dẫn Marius tới quán cà phê nơi một
số sinh viên và thợ thuyền họp mặt để nói về chính trị để ngấm
ngầm chuẩn bị một cuộc nổi dậy chống lại những người bạn của
chính quyền, hội
A.B.C. Có mục đích giáo dục trẻ em, thực tế là
cải tạo người lớn.
Nhóm cách mạng này đáng chú ý nhờ tính sáng giá của những thành
viên của nó. Thủ lãnh của nhóm là Enjobras, một thanh niên tuấn
tú, như Antinoùs, con của một gia đình giàu có, chiến sĩ đích
thực của nạn dân chủ và giáo sĩ của lý tưởng, tiếp đến là
Combetene, triết gia ôn hòa và nghiệt ngã thích từ "công dân"
nhưng lại thích từ "con người" hơn; Jean Prouvaire, một nhà
thơ dịu dàng bận tâm tới những áng mây không kém gì những biến
động xã hội, dễ đỏ mặt nhưng cũng rất dũng cảm.
Feuilly, người thợ làm quạt, kiếm sống vất vả với ba trăng mỗi
ngày và chỉ có một tư tưởng là học tập một hoài bão là giải
phóng thế giới; Courtèyrac, chàng trai gan dạ với vẻ ngoài của
một tư sản và trái tim của một hiệp sĩ; Bahorel, người sinh viên
trường luật luôn trốn học để lê la qua các quán cà phê; Lesgle
với tính lạc quan yêu đời bất tận, sớm tiêu tới đồng xu cuối
cùng nhưng tiếng cười thì không tắt bao giờ; Joly, học y khoa,
được lời với tư cách bịnh nhân hơn là y sĩ; Grantaire, con người
hoài nghi và uống rượu như hũ chìm, nhạo báng tất cả những hành
động tận tụy, hy sinh trong các đảng phái và nói:
- Chỉ có một điều chắc chắn là ly rượu đầy của tôi.
Tất cả những con người trẻ tuổi rất khác biệt nhau đó có cùng
một tôn giáo:
sự tiến bộ. Tất cả đều là con đẻ của cuộc cách mạng Pháp. Những
con người hời hợt nhất cũng trở nên trịnh trọng khi thốt lên cái
năm đó:
89? Là những người trong hội và những người am hiểu, họ bí mật
phác thảo lý tưởng:
Coufeyrac giới thiệu Marius với các bạn của mình một cách giản
dị.
- Một thư sinh.
Marius rơi vào một tổ ong trí tuệ. Cho tới bây giờ vẫn sống cô
độc vì thói quen và sở thích, cậu phần nào e ngại đám người
chung quanh cậu. Cậu nghe nói về triết học, văn chương, nghệ
thuật, lịch sử, tôn giáo một cách hào hứng, bất ngờ. Khi rời bỏ
những quan niệm của ông ngoại cậu để đến với những quan niệm của
cha cậu, cậu ngờ đâu mình đã cố định. Giờ đây cậu nghi ngờ, một
cách bồn chồn lo lắng mà không dám thú thật, rằng cậu chưa hẳn
thế. Góc độ qua đó cậu nhìn mọi vật lại bắt đầu đi chuyển. Cậu
phần nào khổ tâm về điều đó.
Quanh cậu, không một ai trong đám người trẻ đó nói:
"hoàng đế". Chỉ có Jean Prouvaire thỉnh thoảng nói Napoléon. Mọi
người khác đều nói Bonapartẹ Enjobras thì phát âm:
Buonaparte.
Một ngày nọ trong một câu chuyện ồn ào, Lesgle kết thúc một câu
nói của Combeferre bằng cái ngày này khiến Marius rùng mình:
18 tháng sáu 1815: Waterloo ?
- Đúng thế, Coufeyrac kêu lên, con số 18 là con số định mệnh của
Bonapartẹ Hãy đặt ngày 18 sương mù trước Louis XVIII các anh có
tất cả định mệnh của con người.
- Đúng, Enjobras cho tới bây giờ vẫn im lặng bỗng trịnh trọng
nói. án mạng và hình phạt.
Từ "án mạng" không thể chấp nhận được đối với Marius. Cậu đứng
dậy, bước về phía một tấm bản đồ nước Pháp trên tường và phía
dưới người ta trông thấy một hòn đảo trong một ngăn cách biệt.
- Đảo Corse, cậu nói. Một hòn đảo nhỏ đã làm nên nước Pháp vĩ
đại làm sao.
Câu nói như một luồng không khí giá băng. Mọi người im bặt trong
câu chuyện của họ. Enjobras đáp giọng ôn tồn.
Nước Pháp không cần một đảo Corse nào mới vĩ đại Nước Pháp vĩ
đại bởi nó là nước Pháp.
Marius quay sang Enjobras và bằng một giọng rung vang:
- Người ta không làm nước Pháp giảm sút chút nào khi kết hợp nó
với Napoléon. Anh khiến tôi kinh ngạc.
Chúng ta hãy giải thích cho nhau nghe về hoàng đế. Anh nói về
điều đó ngạo mạn như bọn bảo hoàng. Tuy nhiên anh ngưỡng vọng ai
nếu không ngưỡng vọng con người khổng lồ đó đã có trong não mình
số lập phương những tài năng con người? Luật học, hùng biện,
lịch sử, thi ca, khoa học, ngài biết tất cả. Ngài làm đảo lộn
châu âu.
Dưới uy lực của ngài, tất cả những ngai vàng phải lung laỵ Các
anh hãy công bằng. Được làm đế quốc của một vị hoàng đế như thế,
còn định mệnh nào huy hoàng hơn cho một dân tộc ! Chiến thắng,
chinh phục, nổi sấm sét, được làm một đất nước vàng son đầy vinh
quang tại châu âu gióng lên hồi kèn của những con người khổng lồ
qua lịch sử chinh phục thế giới, thử hỏi còn gì vĩ đại hơn.
- Được tự do, Combelerre nói.
Marius cúi đầu. Các từ đó xuyên qua lời lẽ tuôn trào một cách
hùng tráng của cậu như một lưỡi dao thép:
cậu cảm thấy nó tắt ngấm nơi cậu. Enjobras đặt bàn tay lên vai
cậu:
- Này người công dân, anh ta nói, mẹ của tôi là nền cộng hòa.
Buổi tối đó để lại trong lòng Marius một chuyển động sâu sắc.
Cậu trở nên âm u, buồn bã. Những tư tưởng mới mẻ mà người ta
nhồi nhét vào đầu cậu rồi sẽ đưa cậu về đâu? Những cái dốc đứng
dàn ra quanh cậu. Cậu không đồng tình với ông ngoại cậu lẫn các
bạn cậu. Cậu càng thừa nhận mình càng cô đơn gấp bội và không
đến quán cà phê Musain nữa.
Nhưng những phương diện nghiêm túc của cuộc sống bất chợt tìm
đến, nhắc nhở cậu những thực tại.
Để chi trả những món chi tiêu tại khách sạn Porte - St-jacques
cậu đã phải bán đi chiếc đồng hồ vàng của cậu cùng mớ quần áo để
thaỵ Cậu còn lại món tiền mười frăng. Tìm ra địa chỉ của cậu, dì
Gillenormand của cậu đã gởi đến cậu 60 đồng piston, tức là 600
đồng trăng bằng vàng, của ông ngoại cậu cấp. Nhưng Marius đã gởi
trả lại người dì số tiền đó với một lá thư đầy cung kính trong
đó cậu tuyên bố đã có phương tiện để sống và tự hậu đã có thể
chu toàn mọi nhu cầu của mình. Lúc đó, cậu còn ba trăng.
Người thanh niên rời khách sạn vì không muốn vướng nợ.
Đã có một giai đoạn trong đời Marius phải mua một xu phô mát
Bric nơi bà bán hoa quả, phải sống ba ngày với một khúc xương
sườn giá 7 xu, phải chỉ ra ngoài vào buổi sụp tối với chiếc áo
độc nhất đã hóa lục và vá víu nhiều mảnh, phải chấp nhận mọi
công việc miễn sao chúng lương thiện.
Qua tất cả những nỗi nhọc nhằn đó, Marius đã trở thành luật sự
Chàng đinh mình sẽ đến phòng Couteyrac ở vốn khá lịch sự và là
nơi có một số sách luật, lại thêm những quyển tiểu thuyết, mỗi
bộ tạo thành một thư viện đúng qui định. Chàng biên thư tới
Couteyrac. Chàng vẫn ở trong ngôi nhà tồi tàn nơi chúng ta đã
trông thấy Jean valjean và Cosette đến ở khi họ tới Paris. Cái
nghèo và cái sợ tìm ra những chỗ ở giống nhau. Được món tiền 30
trăng hàng năm, chàng được ở một phòng lụp xụp không có lò sưởi
nên chàng chỉ bày biện mớ đồ đạc cần thiết nhất. Chàng trả ba
trăng mỗi tháng cho người ở trọ chính để bà đến quét dọn và sáng
sáng mang đến cho chàng một chút nước nóng, một quả trứng tươi
và một ổ bánh mì một xu dùng làm bữa ăn trưa của chàng. Vào 6
giờ chiều chàng đi ăn tại tiệm Rousseau, đường St-jacques, một
đĩa thịt một dĩa rau và một món tráng miệng. Chàng uống nước.
Chàng trả mười sáu xu.
Trong ba năm, nhở lòng dũng cảm, sự làm việc nhọc nhằn, sự kiên
trì và ý chí sắt đá, chàng đã bước ra khỏi ngõ ngách khốn cùng.
Chàng đã học tiếng Đức và tiếng Anh. Coufeyrac đã giới thiệu
chàng với một hiệu sách nơi chàng đảm trách một công việc khiêm
tốn.
Chàng viết những giấy quảng cáo, dịch những tờ báo ngày, chú
thích những tác phẩm xuất bản, nhờ đó hàng năm chàng trả sáu
trăm năm mươi trăng việc ăn, ở, mua sắm quần áo, giặt giũ. Chàng
cảm thấy mình giàu có, nhân đó chàng cho một người bạn mượn mười
trăng.
Khi nhớ lại những năm tháng nghiệt ngã mà chàng đã sống qua,
chàng nhận ra mình không nợ ai một xu nào.
Chàng gìn giữ lòng tự hào của mình một cách đố kỵ. Chàng sống cô
độc. Chàng cương quyết không gia nhập tổ chức do Enjobras đứng
đầu. Chàng vẫn giữ mối giao hảo tốt đẹp, nhưng chàng chỉ có một
người bạn là Coufeyrac. Vả chăng dù đã là luật sư, chàng vẫn
không biện hộ. Chàng thích được tự do trong công việc nhọc nhằn
tại hiệu sách hơn. Khi sửa xong những bản in thử của nhà in,
chàng đi dạo và mơ mộng.
Chàng chỉ nghĩ về Gillenormand một cách nhẹ nhàng bởi sự khốn
khổ đã tước khỏi chàng sự cay đắng nhưng chàng quyết không nhận
thứ gì của người đã xử tệ với cha chàng. Bởi luôn bị Ông ngoại
chàng ngược đãi, chàng không thể tưởng tượng rằng lão già chỉ
nghĩ tới chàng.
Chương 6
Ánh Sáng Và Bóng Tối
Trong
những chuyến đi dạo quanh các lối đi vắng vẻ trong vườn
Luxembourg, Marius, vào thời bấy giờ đã là một thanh niên đẹp
trai hai mươi tuổi, chú ý tới một người đàn ông luống tuổi và
một cô gái rất trẻ lúc nào cũng ngồi bên nhau nơi lối đi vắng vẻ
nhất.
Người đàn ông tuổi khoảng 60, có vẻ buồn bã và đức độ, trọn
người ông toát ra vẻ tráng kiện và mỏi mệt của những người chiến
binh đã xong nhiệm vụ, trở về ẩn dật. Trang phục của ông tươm
tất và sạch sẽ. Ông có mái tóc bạc phơ.
Con gái của ông đã mười lăm tuổi. Mái tóc tuyệt vời màu hung
vàng viền quanh một khuôn mặt với những nét thuần khiết, với làn
da mịn màng. Trang phục của nàng thanh lịch một cách giản dị và
phong phú, nhưng một vài chi tiết trong cách ăn mặc cho thấy
nàng không có mẹ. Quả nhiên mẹ chàng đã từng bảo một cô gái
không nên mặc một chiếc áo dài bằng nhiễu.
Marius mơ tưởng nhiều đến cô gái đó. Hình ảnh của nàng đã nhẹ
nhàng bước vào tâm hồn chàng tự bao giờ chàng không hay biết. Và
dần dần chàng có thói quen chỉ đến vườn Luxembourg với những bộ
quần áo mới hợp với chàng và làm nổi bật vẻ duyên dáng của vóc
người chàng.
Khi đi qua trước chiếc ghế dài nơi cô gái và cha nàng đang ngồi,
chàng cố tạo ra một thái độ tự nhiên, không bước nhanh hơn hay
bước chậm hơn. Nhưng chàng khó lòng vượt qua cơn bối rối lạ
thường khiến tim chàng đập mạnh và chàng đi qua, mặt đỏ rần, mắt
không dám liếc nhìn người thiếu nữ xinh đẹp.
Tuy nhiên nhiều lần họ vẫn gặp nhau trong ánh mắt, và những hôm
đó, Marius trốn ra khỏi khu vườn, tim đập mạnh, thái dương lùng
bùng. Chàng có cảm tưởng cô gái nhìn chàng với vẻ thích thích
chớ không dửng dưng lấm.
Những cuộc đi dạo hằng ngày đó kéo dài được hơn hai tháng thì
ông lão cuối cùng nhận ra sự lân la của Marius nên không dẫn cô
con gái đến chính xác như trước nữa. Những hôm đó, thay vì đi
dạo trong nhiều giờ liền, Marius đã bỏ đi, cõi lòng dằn vặt.
Chàng muốn biết "nàng" ở đâu và một ngày nọ chàng đã đi theo
họ đến tận một ngôi nhà ở đường phía Tây. Cảm thấy khó chịu, ông
lão lo ngại về sự táo bạo của chàng nên dọn đi ở chỗ khác và
không xuất hiện tại vườn Luxembourg nữa.
Đối với Marius, đó là một đòn khủng khiếp. Trong đầu chàng chỉ
còn một ý tưởng gặp lại khuôn mặt dịu hiền và tuyệt vời đó.
Chàng tìm kiếm nó khắp nơi mà không thấy. Chàng rơi thỏm vào một
nỗi buồn đen tối.
Chàng chán ngắt công việc, chàng buồn nản mọi điều, ngày nào
thiên nhiên rộng lớn rực rỡ sắc màu và rộn ràng âm thanh xiết
bao giờ đây đã trở nên trống rỗng trước mắt chàng.
Tại sao mình theo đuổi nàng, chàng tự nhủ. Mình trông thấy nàng,
mình hạnh phúc. Nàng nhìn mình. Nàng có vẻ yêu mình. Tại sao
mình còn muốn hơn thế nữa?
Chàng đắm sâu trong nỗi buồn. Mùa hạ và mùa thu trôi qua.
Một buổi chiều khi trở về căn phòng lụp xụp của mình, chàng phần
nào bị xô đẩy bởi hai cô gái ăn mặc rách rưới, một cô cao lớn và
mảnh khảnh, cô kia nhỏ người hơn, đang chạy vội qua ngưỡng cửa.
Bọn cớm tới, một cô nói giọng nhỏ và khàn. Họ không tóm được
tôi, tôi đã thoát được.
Marius đừng bước một hồi, lòng tràn ngập chán chường và thương
xót. Qua thứ tiếng lóng đó, chàng biết rằng bọn cảnh sát thành
phố suýt bắt được các cô gái này và họ đã chạy thoát.
Chàng sắp sửa bước tiếp thì trông thấy dưới chân chàng một cái
gói nhỏ xam xám giống như một phong bì đựng giấy tờ. Chắc hẳn
các cô gái bất hạnh đó đánh rơi cái này, chàng tự nhủ.
Chàng trở về phòng và mở cái gói hầu tìm ra một cái tên cho phép
chàng hoàn trả mớ giấy tờ cho người đã đánh mất chúng. Chàng bắt
gặp bốn lá thư không niêm phong và cùng một nét chữ. Chúng toát
ra một mùi thuốc lá gớm ghiếc. Những người ký tên "Don Alvares,
đại úy Tây Ban Nha tị nạn", "Bà Balizard, một người mẹ bốn con", "Gentlot, nhà văn" và "P.Fatanbon, diễn viên bi kịch", cả
bốn người đều có cùng một phong cách rườm rà và cùng thứ chính
tả sai sót, và cả bốn người đều cầu xin sự cứu trợ của những con
người nhân đức mà họ gởi thư tới Marius cho các tờ giấy trở vào
phong bì. Chàng quá buồn phiền để có thể mỉm cười trước sự lừa
dối nhảm nhí mà chàng tìm thấy. Chàng ném nó vào một góc và đi
ngủ.
Khoảng bảy giờ sáng, chàng vừa thức giấc và ăn sáng xong, và
chàng thử bắt đầu công việc thì có tiếng ai khẽ gõ cửa.
Mời vào! Marius nói. Tưởng đâu đó là bà lão lo việc nội trợ của
mình, chàng lên tiếng hỏi mà không rời mắt khỏi mớ bản thảo trên
bàn chàng. Bà có chuyện gì cần không, bà Burgon?
Một giọng nói không phải của bà lão đáp lại:
- Xin lỗi ông.
Đó là một giọng trầm đục, rạn và rè rè, một giọng đàn ông lớn
tuổi khàn khàn vì rượu. Marius vội vàng quay lại và trông thấy
một cô gái.
Đó là một con người xanh xao và gầy gò, dáng vẻ bơ phờ, mắt lờ
đờ, trơ tráo, ti tiện.
Tuy nhiên vẻ duyên dáng của tuổi mười sáu nơi cô vẫn còn chống
trả với sự già cỗi đến sớm vì sự trác táng và nghèo khó. Cô chỉ
mặc một chiếc áo sơ mi và một chiếc váy buộc vào người bằng một
sợi dây.
- Cô cần gì? Marius hỏi vào khuôn mặt có vẻ như không hoàn toàn
xa lạ.
- Một lá thư cho ông, thưa ông Marius, cô gái trả lời bằng giọng
người tù khổ sai nát rượu của mình. Và cô đưa ra cho chàng một
bức thư mà bọt niêm phong vẫn còn ướt.
Marius đọc.
"Người láng giềng đáng yêu, con gái lớn của tôi sẽ nói với ông
rằng từ hai ngày nay chúng tôi không có một miếng bánh mì, bốn
người và vợ tôi đang bịnh. Tôi hi vọng tấm lòng nhân hậu của ông
sẽ xúc động trước lời trần tình này và thuyết phục được ông
trong ước muốn giúp tôi.
Với lòng kính trọng đặc biệt dành cho những bậc ân nhân của nhân
loại, Jondrette".
A! Marius nghĩ thầm, lá thư này có cùng nguồn gốc với bốn lá thư
kia. Cùng chữ viết, cùng phong cách, cùng thứ chính tả, cùng thứ
giấy, cùng mùi thuốc lá.
Cái tên Jondrette khiến Marius nhớ lại một câu chuyện gẫu của
người đàn bà lo việc nội trợ cho chàng.
Bà đã nói rằng gia đình Jondrette, những con người khá khốn khổ
và có nhiều "dáng vẻ", họ Ở trong gian phòng tồi tàn tiếp cận
với phòng chàng.
Trong lúc Marius đang nhìn cô gái bằng một cái nhìn kinh ngạc và
buồn phiền thì cô đi đi lại lại trong phòng, xê dịch những cái
ghế, xáo trộn những tờ giấy. Cô cầm lên một quyển sách đang mở
ra trên bàn:
Tôi biết đọc mà, cô nói.
Và cô đọc khá trôi chảy.
"Tướng Bauduin được lệnh đưa lữ đoàn của ông chiếm lâu đài
Hougomont tọa lạc giữa đồng bằng Waterloo... " - à! Waterloo!
Cô nói. Tôi biết chuyện này. Đó là trận đánh trước đây mà.Cha
tôi đã tham dự trận đó. Ông phục vụ trong quân đội. Tôi đọc rành
rẽ chứ hả? Tôi cũng biết viết nữa. Tôi sẽ viết một câu thử xem.
Cô châm ngòi bút vào bình mực và viết trên một tờ giấy trắng ở
giữa bàn. "Bọn cớm tới kia rồi !".
- Này cô, Marius nói, chàng đã bắt đầu sốt ruột vì sự xâm nhập
này, tôi có một cái gói ở chỗ kia mà tôi nghĩ là của cô.
cô chập hai bàn tay vào nhau và kêu lên:
- May quá? Chúng tôi đã tìm nó khắp nơi.
Cô mở ra một trong những bức thư gửi "Con người nhân đức ở nhà
thờ Saint-jacques du-haut-pas".
- Này, cô nói, đây là thư gửi cho lão già nọ đang đi xem lễ mi
sạ Tới giờ rồi. Tôi sẽ mang nó tới lão. Có thể lão sẽ cho chúng
tôi cái gì để ăn trưa nay đây. Hai ngày rồi chúng tôi chằng ăn
uống gì cả. Câu nói khiến Marius sực nhớ điều cô gái bất hạnh
đến tìm tại phòng chàng.
Lục túi mãi, chàng cuối cùng gom được năm frăng mười sáu xu
Chàng giữ lại mười sáu xu cho bữa ăn tối trong ngày và cho cô
gái năm trăng. Cô ta chộp ngay:
Tốt lắm, cô nói. Có ánh sáng mặt trời rồi đây. Tôi sẽ vừa ăn vừa
đi. Cũng thế thôi, tôi sẽ đi gặp lão già của tôi Chào!
Và cô đi ra.
Marius vừa ngắm bức vách ngăn cách chàng với gia đình Jondrette
vừa nghĩ ngợi. Bức vách này là một lớp thạch cao mỏng chống đỡ
bằng những cái nan xuyên qua đó tiếng nói có thể nghe trót lọt.
Bất chợt chàng thanh niên chú ý thấy ở gần trần nhà nơi bức vách
ngăn có một cái lỗ hình tam giác do ba cái nan tạo nên một
khoảng trống ở giữa. Khi đứng trên cái tủ có ngăn kéo người ta
có thể qua đó nhìn thấy gian phòng của gia đình Jondrette.
Marius nghĩ, mình hãy ngó qua một chút xem những con người đó ra
sao.
Chàng leo lên cái tủ ngăn kéo, ghé mắt vào chỗ hở và nhìn:
Điều Marius trông thấy là một gian phòng tồi tàn, so với nó,
gian phòng được giữ gìn rất đỗi sạch sẽ của chàng có vẻ sung
túc. Hai cái giường tồi tàn không thể tả, một cái bàn thiếu
chân, một cái ghế nhồi rơm, vài mảnh sành, một cửa sổ trên mái
nhà với bốn tấm kính phủ đầy mạng nhện, một .lò sưởi trên đó có
một cái lò, một cái nồi, những tấm ván gẫy, những mảnh nóc vào
đinh, tro và có cả chút lửa với que củi cháy dở nhả một làn khói
ảm đạm. Dưới đất, dọc theo bức vách, là một cái pa nô bằng gỗ
lật ngược.
Một người đàn ông khoảng 60 tuổi, ốm, nước da xanh tái, đôi mắt
hung ác, một hạng người đê tiện gớm ghiếc, ông ta mặc một chiếc
áo sơ mi đàn bà và một cái quần dài nhem nhuốc, đang ngồi vào
bàn. Ông ta đang viết và hút thuốc. Một người đàn bà mập bự,
tuổi có thể bốn mươi hoặc một trăm, đang ngồi xổm cạnh lò sưởi
trên hai gót chân trần của mình. Một cô bé cao lớn đang nằm trên
một cái giường.
Bất chợt cửa phòng mở toang. Cô con gái lởn xuất hiện trên
ngưỡng cửa. Cô hét lên đến hụt hơi.
- Lão già đến, cái lão nhân từ ở nhà thờ St-jacques! lão đến
bằng xe ngựa với cô con gái ! Con đã đợi lão xem lễ mi sa ra,
con đã đưa thư cho lão, lão đã đọc thư.
Ban đầu lão có vẻ ngập ngừng, sau đó lão nói được rồi, lão sẽ
đến. Con phải chạy về báo cho cha biết.
Con là một cô gái khôn lanh, người cha nói.
Nhưng thế chưa đủ. Nơi này trông chưa khốn khổ lắm. Mẹ tụi nhỏ
đâu, tắt lửa đi ! Còn con, hãy tháo rơm độn ra khỏi ghế. Trời có
lạnh không?.
- Rất lạnh, có tuyết mà..
Người cha quay sang cô gái nhỏ, hét:
Nhanh lên! Rời khỏi giường, đồ ăn hại. Hãy đập một tấm kính.
Đúng, đập nó đi. Tao muốn thế.
Đứa trẻ lấm lét vâng lời, vung tay đấm một tấm kính cửa sổ vỡ
tan và rơi xuống đắt.
Trong lúc đó, người cha với vẻ nhanh nhẹn của một người làm trò
xiếc, đã đổ nước vào mấy que củi đang cháy và chộp chiếc ghế
dùng gót chân tháo tung lớp rơm độn của nó.
Bà lên giường đi ? ông ta ra lệnh cho bà vợ giọng sang sảng
khiến bà ta ríu ríu vâng lời và nặng nề gieo mình trên một trong
hai cái giường.
Tuy nhiên người ta nghe có một tiếng khóc nức nở trong góc:
Chuyện gì thế? người cha hét lên..
Cô con gái nhỏ đang ngồi co ro trong bóng tối, đưa ra nắm tay
bết máu. Cô bị thương khi đập vỡ kính cửa sổ.
Người vợ nhổm dậy và kêu lên.
- Ông thấy những trò bậy bạ Ông làm chưa? Khi đập vỡ tấm kính
của ông nó đã đứt tay.
Càng tốt, người đàn ông nói. Đã tính trước hết rồi. Bây giờ thì
chúng ta có thể tiếp lão già nhân từ được rồi.
ông ta xé toạc chiếc áo sơ mi mà bà vợ đang mặc trên người và
lấy một mảnh vải quấn quanh cổ tay đầy máu của cô con gái.
Marius quan sát cảnh tượng đó với một sự kinh ngạc chán chường.
Chàng muốn bước trở xuống từ tủ ngăn kéo nhưng một nỗi tò mò bí
ẩn giữ chàng lại, như để chờ đợi một điều gì đó khó tin xảy ra.
và chàng suýt kêu lên một tiếng, bởi lúc bấy giờ cửa phòng
Jondrette chợt mở trước một ông lão và một cô gái.
Đó là nàng.
Đó chính là nàng. Marius chỉ thoáng nhận ra nàng xuyên qua luồng
hơi lấp lánh chợt tỏa ra trước mắt chàng. Chính con người xa
vắng dịu hiền đó, ảo ảnh lồng lộng khuất lánh đó. Nàng lại xuất
hiện? Dường như Marius vừa mới gặp lại linh hồn thất lạc của
mình.
Nàng vẫn thế, chỉ hơi xanh xao một chút. Nàng bước vào gian
phòng và đặt một cái gói khá to lên bàn.
- Này ông, người khách nói với Jondrettẹ Ông sẽ tìm thấy trong
cái gói này mớ quần áo cũ còn tốt, vớ và mền len. Tôi thấy ông
phàn nàn là đúng, ông Fatanbon ạ.
Học trò cũ của Talma, vị ân nhân thánh thiện của tôi Jondrette
kêu lên bằng giọng người lái đò chợ phiên.
xưa kia thời vận đã mỉm cười với tôi, giờ đây đến lượt sự bất
hạnh. Ông thấy đấy, không bánh mì, không củi lửa, cái ghế độc
nhất của tôi đã tháo rơm, một tấm kính cửa sổ đã vỡ vì thời
tiết, vợ tôi bịnh liệt giường, con tôi thì bị thương.
Cô bé được khuây khỏa vì có những người lạ mặt, bất đầu ngắm "cô
nương" và đã im tiếng khóc.
Khóc đi chứ! La hét đi chứ ! Jondrette nói nhỏ với cô Cùng lúc,
ông ta véo mạnh bàn tay đau của cô một cách nhanh gọn như làm
quỷ thuật. Cô bé hét vang.
- Cô nương hãy xem cổ tay của nó, Jondrette nói với cô khách
trẻ, một tai nạn đã đến với nó khi nó làm việc dưới một cỗ máy
để lãnh sáu xu mỗi ngày. Rồi đây có thể chúng tôi buộc phải cưa
cánh tay của nó.
Đúng thế sao? ông lão nói giọng hoảng hốt.
- Hãy nhìn lão ta kìa ? Jondrette thì thầm với bà vợ. Giữa mùa
đông giá rét! ông ta tiếp lời lớn giọng, chỉ có những manh áo tả
tơi này ! Rồi ngày mai là hạn chót ông chủ tôi buộc tôi phải trả
món tiền theo kỳ hạn. Nếu chiều nay tôi không trả sáu mươi frăng
thiếu một năm cả gia đình bốn người chúng tôi sẽ bị tống ra
ngoài cửa.
ông lão móc năm frăng từ trong túi và ném chúng lên bàn. Sau đó
ông cởi chiếc áo rây đanh gết rộng màu nâu ông mặc bên trên
chiếc rây đanh gột màu xanh của ông và đặt nó trên ghế:
- Ông Fatanbon, ông nói, tôi chỉ còn món tiền này trong người.
Tôi sẽ đưa con gái tôi về nhà. Nhưng tôi sẽ có mặt tại đây vào
lúc sáu giờ và tôi sẽ mang đến ông sáu mươi trăng.
Vị ân nhân màu nhiệm của tôi, Jondrette kêu lên.
Tôi đang ứa nước mắt đây. Ông hãy cho phép tôi đưa ông Marius
suýt nhảy khỏi cái tủ để theo người con gái đáng yêu, nhưng
chàng nghĩ người cha hoặc Jondrette có thể trông thấy chàng và
cuối cùng chàng sẽ sớm bị bỏ lại bởi cỗ xe ngựa chạy nhanh.
Thế là chàng tứ bỏ ý định, nhưng chàng bị khuấy động không yên,
chàng run lên trên cơn nôn nóng khi phải lẩn tránh. Chàng nhủ
thầm rằng người cha sẽ trở lại lúc sáu giờ, bảy giờ chàng sẽ thu
xếp để theo ông đến tận nhà ông để gặp lại nàng. Nàng!
Jondrette vội vã trở về phòng. Mắt ông ta sáng quắc như mắt thú
rừng.
- Bà có nhận ra hắn không? ông ta hỏi vợ. Và ông ta cúi sát vào
tai bà. Hãy ra ngoài cả đi, ông ta bảo hai cô gái, nhưng hãy có
mặt tại đây vào lúc năm giờ. Cả hai đứa. Tao cần đến chúng mày.
Marius càng thêm chú ý.
Còn lại một mình với vợ, Jondrette bắt chéo tay và kêu lên.
- Chính hắn, cũng vóc người cao to đó, cũng giọng nói đó, nhưng
ăn mặc lịch sự hơn, thế thôi. Còn cô gái... thì cũng chính là
con nhỏ đó, con Sơn Ca.
Trọn cuộc đời của Marius đều dồn vào đôi tai của chàng.
Sự bùng nổ của cơn phẫn nộ nơi bà Jondrette sau những lời lẽ đó
của chồng bà khiến chàng càng kinh hồn hoảng vía khi giọng nói
người đàn bà trở nên gớm ghiếc:
Khi tôi nghĩ hai đứa con gái tôi phải đi chân trần và không có
một chiếc áo dài để mặc. Rồi sao chứ, con bé xinh đẹp ghê tởm đó
nhìn chúng vẻ thương hại lại chính là con bé khốn khổ đó à? ồ,
tôi muốn dùng guốc mà đạp cho bể bụng nó ra.
Và bà muốn nghe điều này không, Jondrette tiếp lời giọng ông ta
thấp xuống nhưng nghe còn ghê rợn hơn những tiếng hò hét của vợ
Ông tạ Là thời vận tôi đã tới rồi. Tôi muốn thành triệu phú như
mọi người. Tôi chán cảnh đói khát lắm rồi. Hấn ta sẽ tới đây
chiều nay vào lúc sáu giờ. Đó là giờ mà tên ở bên cạnh đi ăn
tối. Không có người nào trong nhà:
Hai đứa nhỏ thì lo rình. Bà sẽ giúp chúng tôi. Hắn sẽ thực hiện
thôi.
Nếu hắn không thực hiện thì sao? Người đàn bà hỏi. Jondrette nở
một nụ cười ghê sợ và nói:
Chúng ta sẽ giết hắn... Bây giờ tôi ra ngoài đây.
Tôi cần gặp mấy người bạn. Đây là một vố hấp dẫn. Bà hãy lo giữ
nhà... Bà có biết rằng hắn hạnh phúc đến nỗi đã không nhận ra
tôi? Chính chòm râu đã cứu tôi đấy, chòm râu cằm xinh xắn lãng
mạn của tôi... Hắn đã để lại chiếc áo khoác của hắn cho tôi,
tên già ngốc ấy. .Không có nó, có lẽ tôi không thể ra đường được
và mọi việc có thể hỏng bét! Thế mới được việc đấy... à quên,
bà hãy mua hai đấu thanh để đốt lò. Hãy lấy đồng trăm xu của con
người nhân đức. Nhưng hãy mang về tiền lẻ cho tôi đấy, Tôi cần
mua mấy thứ ở tiệm bán đồ lạt son ở đường Mouffetard. Hôm khác
chúng ta sẽ đi ăn. Hôm nay còn nhiều điều cần phải làm hơn.
Sau đó Marius nghe tiếng Jondrette khuất dần trong hành lang và
vội vã bước xuống cầu thang.
Bấy giờ chuông một giờ đã đổ tại St-médard.
Phải chân bọn người khốn nạn này lại, Marius nghĩ thầm trong cơn
khiếp đảm. Phải cứu nàng, và cha nàng nữa. Phải báo cảnh sát.
Marius lặng lẽ rời khỏi phòng. Rồi chàng bước vội về phía đồn
cảnh sát gần nhất, ở đường Pontoise.
Lúc đang đi trên đường Petit-banquier chàng nghe có tiếng nói
vọng ra từ những khu đất trống ven con đường. Chàng đi chậm lại,
tuyết làm cho bước chân chàng bớt gây tiếng động. Tường khá
thấp, chàng nghiêng người và trông thấy hai người đàn ông có vẻ
là dân lang thang. Một người có râu mặc áo bờ lu, người kia tóc
tai bờm xờm ăn mặc rách rưới.
- với atron-minette, vụ này không thể thất bại được Phần mỗi
người là năm trăm trăng đấy, và trong trường hợp rủi ro thì năm
năm, mười năm là cùng. Chưa tính cỗ xe ngựa của lão Chose.
Marius vừa tiếp bước vừa nghĩ ngợi. Chàng thấy câu chuyện của
hai người đàn ông đang ngồi trên tuyết kia có phần liên quan đến
những ý đồ ghê tởm của Jondrette.
Chàng tới đường Pontoise và khi bước vào đồn cảnh sát chàng xin
được nói chuyện với ông cảnh sát trưởng.
ông ấy không có ở đây, một thầy đội nói, nhưng có một thanh tra
thay ông ấy. Anh hãy theo tôi.
ông thanh tra cảnh sát là một con người cao lớn. Râu dày và xám
viền một khuôn mặt vuông với đôi mắt sáng quắc. Ông gây cho
người khác cảm giác sợ sệt lẫn tin cậy. Marius kể ông nghe câu
chuyện, tất cả những gì chàng biết về âm mưu.
- Có phải trong cái phòng cuối hành lang không?
ông thanh tra hỏi bằng một giọng chứng tỏ rằng ông biết rõ ngôi
nhà. Chắc Patron-minette có liên quan ít nhiều tới câu chuyện
phải không?
Đúng là tôi có nghe nhắc tới cái tên kỳ dị đó mới đây, chàng
trai nói. Và chàng kể lại mẩu chuyện trao đổi giữa hai kẻ lang
thang trên đường Petit-banquier.
Người tóc tai bờm xờm chắc hẳn là Brujon, và người có râu là
Demi-liard, ông thanh tra nói sau phút nghĩ ngợi. Còn lão Chose
dường như tôi đã trông thấy lão Anh có trông thấy một tên ăn mặc
sang, lượn qua đó không? Một tên to lớn đồ sộ trông như một con
voi trong thảo cầm viên? Một tên ác ôn mũi lệch?
- Dạ không, Marius nói, những người đó là ai?
Anh có sợ những người đó không? ông thanh tra hỏi thay vì trả
lời.
- Không sợ hơn ông đâu! Marius đáp giọng hơi gay gắt vì chàng
bắt đầu để ý thấy viên cảnh sát vẫn chưa gọi chàng bằng "ngài".
- Anh có chìa khóa ngôi nhà không? ông thanh tra vừa hỏi vừa
nhìn đăm đăm vào Marius nhưng với một vẻ ngưỡng vọng. Tốt, hãy
đưa nó cho tôi. Còn anh hãy giữ lại hai khẩu súng này. Chúng đã
nạp đạn. Anh hãy quay về điểm quan sát của anh. Bọn đó sẽ đến.
Hãy cứ để cho chúng vào. Khi phán đoán tình hình đã đúng lúc,
anh hãy bắn một phát chỉ thiên. Tôi và mọi người sẽ có mặt tại
đó Hẹn sáu giờ nhé? Tôi có đủ thì giờ. Anh đừng quên đấy. Pằng!
Một phát súng.
ông hãy yên tâm, Marius đáp.
Và khi chàng trai đặt tay lên chốt cửa để bước ra ngoài, ông
thanh tra gọi chàng:
Nhân tiện, từ đây đến lúc đó có cần gì tôi, anh hãy đến hoặc cho
người đến đây. Anh cứ hỏi thanh tra Javert.
Chương 7
Mai Phục
Marius
lặng lẽ trở về phòng mà không gặp ai. một chập sau chàng nghe
tiếng người chủ thuê chính, bà Burgon, ra ngoài. Cánh cửa ngôi
nhà đóng lại Bấy giờ khoảng năm giờ rưỡi. Ngồi trên giường,
chàng trai nghe động mạch mình đập như người ta nghe tiếng đập
của một chiếc đồng hồ nhỏ trong bóng tối. Tuy nhiên chàng vẫn
không nao núng, sợ sệt. Tuyết không còn rơi nữa. Trăng đã ra
khỏi sương mù và tạo cho mọi vật một dáng vẻ ma quái.
Tại phòng của gia đình Jondrette, một giọng nói vang lên. Cả gia
đình đang có mặt.
- Không có ai ở phòng bên cạnh à? Jondrette hỏi.
Không, bà vợ đáp. Anh ta chưa về và đây là giờ ăn chiều của anh
ta.
Không sao. Con gái, hãy lấy cây nến và đến đó xem.
Marius sụp xuống trên hai bàn tay và hai đầu gối, và lặng lẽ bò
dưới gầm giường.
- Không có ai cả, cô gái kêu lên.
Thế thì hãy trở lại đây, người cha nói, đây không phải là lúc
đùa giỡn. Hãy lấy hai cái ghế của anh ta.
Marius nghe tiếng cánh cửa đóng lại. Chàng lấy hơi. Nhưng chàng
không dám ra khỏi chỗ nấp của mình. Chàng chỉ đánh liều bò ra
khi nghe cô con gái của Jondrette càu nhàu tiếp theo một cái
lệnh của cha cô.
Đi canh bằng chân trần trong tuyết. Chán thật!
- Ngày mai tụi mày sẽ đi giày có cổ bằng xoa màu bọ hung.
Marius nghe tiếng hai cô con gái bước xuống cầu thang. Rồi tiếng
mở cửa phía dưới cho biết hai cô đã ra ngoài.
Trong nháy mắt, bằng sự dẻo dai của tuổi trẻ, Marius dã đến bên
cái lỗ nơi vách ngăn. Chàng ghé mắt nhìn.
Trọn gian phòng của gia đình Jondrette được soi bằng ánh sáng
của một lò lửa khá to bằng tôn đầy than đang cháy rực. Một cái
kéo to được nung đỏ trong than.
Trong một góc cạnh cửa, có hai đống dường như là một đường sắt
vụn và một đống dây, một cây nến đang cháy trên lò sưởi.
Jondrette vừa hút thuốc vừa nghĩ ngợi. Trong ánh sáng màu đỏ đó,
vẻ mặt của ông ta trông như quỷ dữ đến đỗi Marlus muốn được sẵn
sàng trước mọi bất ngờ, đã cầm lên một khẩu súng và lên cò, tạo
thành một tiếng động khô khan.
Ai đấy? Jondrette giật mình kêu lên và nhổm dậy trên chiếc ghế
của ông tạ Ông ta lắng nghe một hồi rồi bật cười. Mình ngốc
thật, ông ta nói. Đó là tiếng kêu rắc của bức vách ngăn.
Marius giữ khẩu súng lục trong bàn tay.
Khi hồi chuông lại St-médard đổ sáu giờ, có tiếng gõ nhẹ nơi
cánh cửa. Jondrette vội vàng bước ra.
- Xin vào đi, ân nhân,.ông ta nói.
Con người nhân đức xuất hiện. Ông có một dáng vẻ thanh thản đáng
kính. Ông đặt trên bàn bốn đồng tiền vàng.
- Ông Fabanton, ông nói, ông hãy dùng món tiền này để trả tiền
nhà và các nhu cầu quan yếu của ông.
Chúa trả lại nó cho ông, vị ân nhân hào hiệp của tôi, ông ta
nói, rồi thấp giọng với vợ, ông ta tiếp lời:
Hãy đuổi cỗ xe ngựa đi !
Bà vợ chuồn lẹ trong lúc chồng bà không ngớt tuôn ra những lời
thăm hỏi và cám ơn. Một chập sau bà ta trở về Tuyết rơi liên tục
từ sáng đã trở nên dày đặc đến đỗi người ta không nghe tiếng cỗ
xe ngựa tới và cũng không nghe nó đi.
Cô bé bị thương thế nào rồi người khách hỏi.
Tệ, Jondrette đáp với nụ cười đau khổ và biết ơn.
Chị nó đã đưa nó đi nhà thương để băng bó.
Tôi thấy bà Fabanton có vẻ khỏe hơn.
- Bà ấy đang ngắc ngoải, Jondrette nói. Nhưng bà ấy can đảm làm
sao! Đó không phải là một người đàn bà, đó là một con bò.
Xúc động vì lời khen, bà Jondrette kêu lên giọng nũng nịu của kẻ
xấu như ma được tán tỉnh.
- Mình lúc nào cũng quá tốt với tôi, Jondrette ạ.
- Jondrette! người khách nói, giọng kinh ngạc.
- Fabanton tức là Jondrettẹ Biệt danh nghệ sĩ mà vợ tôi đã đặt
cho tôi vì thương cảm. Chúng tôi luôn luôn hạnh phúc, ông ạ,
người yêu dấu đáng thương này và tôi; Chúng tôi sẽ còn gì nếu
không có điều đó? Chúng tôi khổ quá Chúng tôi có đôi tay, có tấm
lòng, nhưng không có công ăn việc làm? Thời kỳ sung túc của
chúng tôi chẳng còn lại gì. Chỉ còn mỗi một món đồ, một bức
tranh mà tôi quyết giữ nhưng buộc phải bán đì bởi phải sống.
Trong lúc Jondrette đang nói luôn mồm, Marius thấy một người rồi
ba người nữa mặt mày bôi đen bước vào rất êm đến nỗi người ta
không nghe tiếng bản lề cửa chuyển động. Họ ngồi trên một cái
giường.
- Những người này là ai? Người khách ngạc nhiên hỏi:
Những người hàng xóm, Jondrette nói. Họ lấm lem bởi họ làm nghề
than. Xin ông đừng bận tâm. Hãy nhìn vào bức tranh của tôi.
ông ta đến bức thành nơi phía dưới chân có một tấm pa nô mà
chúng ta đã nói, và giới thiệu nó cho người khách bấy giờ đang
nhìn ra cửa. Bốn người đàn ông vẫn ngồi trên giường.
- Ông hãy mua giùm tôi bức tranh này, ân nhân ạ, Jondrette nói
giọng van vỉ. Ông ước lượng nó bao nhiêu tiền?
Nhưng mà, người khách vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt Jondrette
như một con người bắt đầu đề phòng.
Đây là một bảng hiệu bán rượu. Nó đáng ba frăng.
Jondrette dịu giọng:
- Ông có mang theo ví không? Tôi bằng lòng với ba nghìn trăng.
ông lão đứng dậy tựa lưng vào bức thành. Bên trái ông là
Jondrette về phía cửa sổ và bên phải ông là vợ của Jondrette
cùng bốn người đàn ông phía cửa ra vào.
Bất chợt, Jondrette hét lên bằng một giọng rốn ràng - Không phải
chuyện đó đâu. Ông có nhận ra tôi không?
Cửa phòng chợt mở toang, người ta thấy xuất hiện ba người đàn
ông mặc áo bờ lu, mang mặt nạ bằng giấy màu đen, người thứ nhất
vũ trang bằng một cây gậy bịt sắt, người thứ nhì, một tên khổng
lồ, một cái búa giết bò, người thứ ba nắm chặt một cái khóa to
tướng.
Tất cả sẵn sàng chưa? Jondrette hỏi người cầm gậy Cỗ xe đã thắng
ngựa chưa? Nó có chờ đúng nơi tao bảo không? Có một xe ngựa thuê
ở phía dưới chứ? Montparnasse đâu rồi?
- Hắn đã dừng lại để nói chuyện với con gái đại cạ Ngoài ra tất
cả đều sẵn sàng.
Con người nhân đức xanh mặt. Ông chú tâm nhìn quanh. Nhưng ông
không có vẻ gì sợ hãi, ông biến cái bàn thành một lá chắn và nắm
tay chắc khỏe của ông chống trên lưng chiếc ghế ông đang ngồi
trong một cử chỉ đáng sợ.
- Thế là ông không nhận ra tôi à? Jondrette hỏi và tiếp theo đó
cất lên một tiếng cười khiếp đảm.
- Không.
- Ta không phải là Fanbanton lẫn Jondrette, bấy giờ tên cướp mới
hét lên. Ta là Thénardier. Ta là người chủ quán ở Monfelmeil. Mi
nghe rõ chưa? Thénardier.
Mi đã nhận ra ta chưa Trán ông lão thoáng đỏ, nhưng ông vẫn trả
lời một cách bình tĩnh, không chút run rẩy.
- Không.
Marius không nghe câu trả lời đó. Chàng hốt hoảng sững sờ. Cánh
tay chàng sẵn sàng nổ súng đã từ từ hạ xuống. Thénardier! Người
chủ quán ở Montelmeil! Cuối cùng chàng đã gặp ông ta ! Và trong
hoàn cảnh trớ trêu làm sao. Người cứu mạng cha chàng, người mà
chàng, Marius, đang nóng lòng xả thân báo đáp, lại là một tên
cướp, một con quỷ dữ! Marius run lên tê tái. Chàng đang nắm
trong tay mình số phận những con người đang nhốn nháo dưới mắt
chàng kia trong Khi họ vẫn không hay biết. Chọn cái gì đây? Cuộc
sống người cha của người anh yêu dấu hay tự do của Tnénarder? Cả
hai phía đều đem lại niềm ân hận. Chàng cảm thấy tâm hồn điên
loạn, hai đầu gối của chàng khuy xuống.
Thénardier vẫn đi đi lại lại vẻ đắc thắng:
à! ông ta lớn giọng, cuối cùng cũng gặp lại mi, tên triệu phú xơ
xác, kẻ mua tặng búp bể Nếu mi không nhận ra ta thì ta cũng nhận
ra mi dù không có cái áo tơi vàng của mi, tên già từ thiện ạ !
Với cái vẻ hiền lành của mi, mi đã nhạo báng ta bằng cách trả
cho ta một ngàn năm trăm trăng để lấy đi một đứa con gái chắc
chắn thuộc bọn có tiền và đã mang về cho ta nhiều tiền. à, mới
đây mi đã sa vào sự đê tiện của ta ! Ta thích thú với điều đó Ta
nghĩ thầm:
tên ngốc! Ta đã fóm được mi! Ta đã liếm chân mi sáng nay, ta sẽ
làm tan nát tim gan mi chiều nay !
- Tôi không biết ông muốn nói điều gì, ông lão nói khi
Thénardier ngừng để lấy hơi. Tôi chẳng hề là triệu phú. Ông lầm
tôi với một ai khác đấy.
- Nhảm? Thénardier đáp trả. Mi có điều gì cần nói trước khi bọn
ta cho mi được say sưa? Phải không, các bạn. Ngài buộc phải nói
thôi?
ông ta quay lại vừa cười khẩy với bọn cướp đang đứng im gần cửa.
Đó là lúc mà người lạ mặt tóc bạc phơ chờ đợi. Ông dùng chân xô
chiếc ghế và cái bàn, và bằng một cú nhảy, với một vẻ nhanh nhẹn
thần kỳ, ông đã đến cửa sổ - mở cửa sổ, leo lên bờ cửa, bước qua
đó đối với ông chỉ là công việc của một giây. Ông đã một nửa
người ở bên ngoài khi sáu nắm tay lực lượng chụp lấy ông và
cương quyết đưa ông trở vào phòng. Bà Thénardier túm lấy tóc
ông... Một tên dơ lên đầu ông một cây gậy bịt sắt.
Một ngón tay của Marius tìm cò súng. Phát súng sắp sửa bắn đi
khi giọng Thénardier vang lên:
Đừng làm hắn đau!
Một cuộc chiến quyết hệt bắt đâu. Ông lão khỏe mạnh đã quật ngã
ba tên xông vào tấn công ông, nhưng bốn tên khác đã nắm chặt tay
và gáy ông. Chúng đã quật ông ngã trên cái giường đó. Bà
Thénadier vẫn chưa buông tóc ông ra.
Chúng lục lạo trên người ông. Ông chỉ có một túi da đựng sáu
trăng và một chiếc khăn tay.
Dù sao, một tên cướp nói tiếng bụng, đây cũng là một lão già gan
dạ.
- Hãy cột hắn vào chân giường. Thénardier nói. Rồi quay sang tên
cầm gậy:
Babet, tại sao mày đưa đến lắm thằng thế? ông ta bảo.
- Biết sao bây giờ? Tất cả đều muốn đến. Thời tiết xấu Chúng nó
treo mõm cả.
Bọn cướp đã trói chặt ông lão và cột ông vào một thanh giường.
Thénardier cầm một chiếc ghế và đến ngồi trước mặt nạn nhân:
Ngài ạ, ông ta nói với một vẻ dịu dàng trầm tĩnh, càng trở nên
quái dị hơn sau cảnh dữ dội vừa quạ Ngài đã lầm tường khi thử
nhảy qua cửa sổ, ngài đã có thể gãy một chân rồi đấy. Bây giờ
chúng ta sẽ nói chuyện một cách nhỏ nhẹ hơn. Và trước tiên tôi
có nhận xét này, là ngài vẫn chưa cất lên một tiếng la nào. Tuy
nhiên một tiếng gọi vẫn là điều tự nhiên chứ. Bọn này cũng không
cần nhét giẻ vào miệng ngài bởi phòng này rất kín, chằng ai nghe
được gì cả . Tôi kết luận rằng nếu ngài không kêu la chính vì
ngài cũng ngại công lý và cảnh sát như bọn này. Chúng ta có cùng
quyền lợi. Chúng ta có thể đồng ý với nhau. Tôi có lỗi khi mới
đây đã nổi giận.
Tôi không phải là hạng người lợi dụng sự thắng thế của mình. Tôi
không biết tình trạng tài sản của ngài ra sao, nhưng tôi không
muốn vơ vét hết của ngài. Tôi chỉ đòi ngài hai trăm nghìn trăng
thôi.
ông lão không nhíu mày. Thénardier vừa tiếp lời vừa liếc nhìn về
phía lò lửa.
Ngài sẽ bảo với tôi là ngài không có hai trăm nghìn trăng trong
người. Tôi không quá đáng lắm đâu. Tôi không đòi hỏi điều đó.
Tôi chỉ nói với ngài một điều:
hãy vui lòng viết điều tôi sẽ đọc cho ngài. Hãy viết đi! ông ta
vừa nói vừa xô cái bàn tới trước ông lão và đặt trước ông một
bình mực, một ngòi bút và một tờ giấy.
- Ông muốn tôi viết thế nào đây? người tù hỏi. Tôi đang bị trói.
- Đúng, hãy cởi trói cho ngài.
Một tên cướp tuân theo lệnh của Thénardier. Khi bàn tay phải của
ông lãóđược tự do, tên cướp nhúng ngòi bút vào bình mực và đặt
nó vào các ngón tay ông.
Thénardier bắt đầu đọc.
"Con gái yêu của cha, hãy đến ngay..."
Ông ta chợt ngừng đọc.
- Ngài xưng cha con với cô ấy, phải không?
Ai? ông lão hỏi.
- Cô bé, Sơn Ca ấy mà.
Tôi không biết ông muốn nói gì.
- Hãy cứ viết, Thénardier nói và ông ta lại bắt đầu đọc:
"Hãy đến ngay. Cha tuyệt đối cần đến con. Người trao cho con
mảnh giấy này có trách nhiệm đưa con đến với cha. Cha đang đợi
con. Hãy cứ yên tâm mà đến."...
A!Hãy xóa câu "Hãy cứ yên tâm mà đến." Vì nó có thể gây ngờ
vực.
Ông lão xóa câu đó.
Bây giờ hãy ký vào, Thénardier tiếp lời. Ngài tên gì?
Urbain Fabre, người tù nói.
Thénardier cầm lên chiếc khăn tay tịch thu trên người ông lão và
nhìn mấy con chữ đầu.
U F. Ông ta nói. Đúng rồi. Ngài hãy ký vào đi. Tốt lắm. Ngài hãy
ghi địa chỉ. Ngài đã không nói dối tên mình thì sẽ không nói dối
địa chỉ của ngài.
Người tù có vẻ nghĩ ngợi một hồi rồi cầm ngòi bút
"Cô Fabre,
nhà ông Urbain Fabre, đường Si - Dominique-enfer, số 17" - Bà
đâu!Thénardier kêu lên giọng nóng nảy. Thư đây Bà biết phải làm
gì rồi. Hãy lấy xe đi và trở lại ngaỵ Còn mày, Gueulemer, đi
theo bà ấy. Mày biết đã để cỗ xe ngựa ở đâu chứ - Dạ, tên cướp
nói.
- Cần nhất đừng để mất lá thư Thénardier nói.
Một phút chưa kịp trôi qua người ta đã nghe tiếng quất roi nhỏ
dần và tắt hẳn.
Một khoảnh khắc im lặng trong gian phòng nhớp nhúa. Mấy tên cướp
im thin thít. Thénardier sưởi ấm đôi chân, người tù cúi đầu. Ông
không động đậy, tuy nhiên từng chập Marius nghe chừng như có một
tiếng động ngầm bên ông.
- Ngài Fabre, bất ngờ Thénardier nói. Như mới đây tôi đã nói với
ngài chuyện gì sẽ xảy ra. Vợ tôi sẽ trở về, ngài đừng sốt ruột.
Nhận được thư ngài, con gái ngài sẽ theo bà ấy không chút khó
khăn. Cả hai người sẽ bước lên cỗ xe ngựa với bạn tôi ở phía
sau. Ở đâu đó bên ngoài hàng rào, có một cỗ xe với hai con ngựa
thật tốt.
Người ta sẽ đưa con gái ngài lên đó. Bạn tôi sẽ lên đó với cô
gái. Rồi, hãy quất roi đi tên đánh xe! Người ta sẽ đưa cô ấy tới
nơi an toàn. Không ai làm hại cô ấy cả. Và bọn này sẽ trả cô ấy
về cho ngài ngay khi ngài trao hai trăm nghìn trăng. Nếu ngài
làm gì để tôi bị bắt, bạn tôi sẽ bóp cổ Sơn Cạ Thế đấy. Tôi báo
trước để ngài hiểu.
Ngay khi vợ tôi trở về và bảo tôi "Sơn Ca đang trên đường", bọn
tôi sẽ thả ngài ra và ngài sẽ được tự do về ngủ tại nhà ngài.
Marius cảm thấy tim mình ngừng đập. Khẩu súng mà bàn tay yếu ớt
của chàng đang cầm một cách khổ sở, hơn bao giờ hết chàng thấy
khó sử dụng được nó. "Nếu ngài làm gì để tôi bị bắt, bọn tôi sẽ
bóp cổ Sơn Ca".
Giờ đây chàng cảm thấy mình kìm chế không chỉ vì chúc thư của
ông đại tá, vì lời dặn dò của ông đối với Thénardier, mà còn vì
chính tình yêu của chàng, vì sự nguy kịch của người chàng yêu.
Thénardier lặng thinh. Nửa tiếng đồng hồ đã trôi qua như thế. Sự
náo động trong tư tưởng của Marius đối nghịch với niềm im lặng
bi thảm của gian phòng.
Bà Thénardier bước vào, mặt mày đỏ rần, miệng thở dốc, mắt đổ
lửa.
- Địa chỉ giả ! Bà ta kêu lên.
Tên cướp đi theo bà ta xuất hiện phía sau bà ta và đi lấy lại
cái búa bổ bò:
- Đúng, địa chỉ giả, bà ta lập lại. Chẳng có ai cả!
Đường St - dominique-enfer, số 17, không có Urbain Fabre nào cả.
Không ai biết gì. Thế mà lão già này bắt ông phải đợi, ông quá
tốt, ông thấy không? Tôi thì để bắt đầu có lẽ tôi phải cắt mõm
lão ta làm bốn. Và nếu lão ta hung hăng tôi sẽ luộc sống lão ta
tới chốn ? Lão ta buộc phải nói, và nói con gái lão ta ở đâu và
nói tiền giấu ơ?
đâu ?
Marius thở ra nhẹ nhõm:
nàng đã thoát nạn.
Trong lúc vợ Ông ta giận như điên, la lối om sòm, Thénardier
ngồi trên bàn không nói tiếng nào, chân đong đưa và mắt nhìn vào
lò lứa vẻ như đang trong cơn mộng tưởng đầy mang rợ. Cuối cùng
ông ta nói với người tù, uốn giọng chậm rãi và dữ dằn:
- Một địa chỉ giả à? Thế là mi hi vọng cái gì đây?
Kéo dài thì giờ! ông già hét lên giọng sang sảng. Cùng lúc đó,
ông giật mạnh những dây trói, chúng đã đứt phăng. Ông chỉ còn
một chân bị cột vào giường.
Trước khi bảy người đàn ông kịp định thần lại và xông vào ông đã
cúi xuống lò lửa và chụp cái kéo đang đỏ rực trong than, ông đưa
nó lên khỏi đầu trong một động tác dữ dằn đáng sợ.
Cuộc điều tra tư pháp tiếp theo sau trận mai phục đã khám phá
trong phòng một đồng xu lớn bị cắt đứt và đẽo gọt thật công phu
trong nhà tù. Người ta còn tìm ra một cây cưa nhỏ bằng thép xanh
có thể được giấu trong đồng xu.
Bọn cướp đã trở lại với sự kinh ngạc ban đầu của chúng. Chúng
sắp sửa xông vào khi người tù cất cao tiếng nói.
- Bọn bây là những kẻ khốn khổ, ông nói, nhưng đời tao không
đáng được bảo vệ đến thế. Khi nghĩ bọn bây buộc tao phải nói
hoặc viết nhưng điều tao không muốn ! Hãy nhìn đây !
ông vén tay áo nơi cánh tay trái của mình và đặt lên da thịt
trần cái kéo nóng đỏ mà ông cầm nơi cái cán gỗ. Người ta nghe
tiếng xèo xèo của thịt cháy.
Marius lảo đảo, sững sờ trong cơn khiếp đảm, bọn cướp cũng rùng
mình:
Khuôn mặt của ông lão chỉ hơi co rút. Và trong lúc sắt đỏ ấn sâu
trong vết thương, điềm nhiên, không nao núng, ông nhìn đăm đăm
vào Thénardier bằng cái nhìn sáng đẹp không vương chút hận thù.
Bọn khốn khổ, ông nói, đừng quá sợ tao hơn tao sợ bọn bây? ..
Và khi giật cái kéo ra khỏi vết thương, ông ném nó qua cửa sổ
vẫn mở toang.
Hãy cứ làm gì tao theo ý muốn bọn bây đi.
- Hãy túm lấy nó! Thénardier hét lên. Hai tên cướp đặt bàn tay
lên vai ông. Cùng lúc, Marius nghe câu chuyện thì thầm:
Sao đây?
Chỉ có một việc để làm là chém phăng lão ta đi. Thénardier từ từ
bước về phía cái bàn, mở ngăn kéo và lấy ra một con dao.
Marius đưa mắt dào dác nhìn quanh trong cơn tuyệt vọng. Bỗng đâu
chàng giật mình. Chàng vừa trông thấy trên bàn một tờ giấy trên
đó cô con gái lớn của Thénardier đã viết sáng nay
"Bọn cớm tới!" Chàng cầm tờ giấy, gói một mớ thạch cao vụn tróc ra từ vách
ngăn. Ném qua chỗ nẻ giữa phòng. Bấy giờ, Thénardier bước về
phía người tù.
Có cái gì rơi xuống kìa! bà Thénardier kêu lên.
Người đàn bà xông tới, lượm mớ thạch cao vụn và tờ giấy đưa cho
chồng:
- Cái này từ đâu đến? Người chồng hỏi.
- Qua cửa sổ.
- Đây là nét chữ của Eponinẹ Quỷ thần ơi? Nhanh lên? Cái thang
đâu? Hãy bỏ lão lại cho cảnh sát và chuồn ngay thôi.
- Không cắt cổ lão ta à? bà Thénardier nói.
- Chúng ta không có thì giờ. Hãy chuồn qua cửa sổ. Một tên cướp
đeo mặt nạ đặt cái khóa to xuống đất, giơ cao hai cánh tay, xòe
và nắm hai bàn tay ba lần, không nói tiếng nào.
Điều đó giống như một mật hiệu báo động trong một nhóm người.
Những tên cướp đang giữ chặt ông lão đành buông ra, trong nháy
mắt thang dây được ném ngoài cửa sổ và cột chặt vào bờ cửa bằng
hai móc sắt.
- Bà đến đây! Thénardier kêu lên trong cơn hối hả.
Không được, lão hề à ! Sau tụi này mới được ! một tên cướp nói,
tay nắm chặt cổ áo ông ta.
- Đúng rồi, sau tụi này mới được! Những tên khác hét lên.
- Bọn bây là đồ con nít? Thénardier nói. Chỉ mất thì giờ thôi.
Bọn cảnh sát đã tới bên gót chân chúng ta rồi.
Nào, tên cướp người ta vẫn gọi là Babet tiếp lời, chúng ta hãy
rút thăm xem ai qua trước.
Bọn bây có điên không? Thénardier kêu lên.
Đúng là một lũ khờ ! Rút thăm hả? Thì viết tên rả Bỏ vào một cái
mũ..
- Các người có cần mũ của tôi không? một giọng nói vang lên từ
ngưỡng cửa.
Mọi người quay đầu lại. Đó là Javert. Ông cầm chiếc mũ trong tay
và đưa nó ra mỉm cười.
Vào lúc trời sụp tối, Javert cùng người của ông ta đã mai phục
sau những thân cây đối diện với ngôi nhà.
Việc đầu tiên là ông bắt nhốt Azelmạ Còn Eponine vì không có mặt
ở chỗ của cô ta nên ông không tóm cô ta được ông vểnh tai nghe
ngóng và chờ mật hiệu. Việc đi đi lại lại của cỗ xe đã khiến ông
dao động không ít. Cuối cùng mệt mỏi vì mãi chờ đợi, tin chắc
hốt trọn tổ chim, ông quyết định bước lên:
ông đã tới lúc đúng lúc. Những tên cướp trong cơn hốt hoảng đã
nhào vào mớ khí giới mà chúng bỏ lại trong lúc lẩn trốn. Javert
đội lại mũ và tiến hai bước trong phòng, hai cánh tay khoanh,
cây gậy cấp trong nách.
- Tất cả đứng yên, ông nói, các người sẽ không qua ngã cửa sổ.
Các người sẽ đi qua cửa chính như thế đỡ nguy hiểm hơn. Các
người bảy, chúng tôi mười lăm. Đừng chống cự vô ích. Hãy ngoan
ngoãn.
Balet đưa cho Thénardier một khẩu súng lục mà hắn giấu trong lớp
áo bờ lu của hắn và hắn nói vào tai ông ta:
Javert đấy. Tôi không dám bắn ông tạ Ông hãy bắn đi ! Thénardier
đón khẩu súng và nhắm vào Javert.
- Đừng bắn, hãy đi đi ! Javert vừa nói vừa nhìn ông ta đăm đăm.
Phát súng của ông sẽ hỏng thôi !
Thénardier bóp cò, phát súng hỏng thật.
- Ông là vua của loài quỷ dứt Babet nói với Javert.
Tôi xin đầu hàng.
- Còn các anh thì sao? Javert hỏi những tên cướp khác, giọng
lạnh lùng.
- Chúng tôi cũng thế, bọn chúng đáp.
Một tiểu đội cảnh sát vũ trang bằng chùy xông vào nhà theo lệnh
của Javert.
Hãy xích tất cả lại! Javert hét.
- Hãy đến đây một chút xem nào ! bà Thénardier hét lên.
Bà ta đã đứng trước chồng và dùng thân mình che chở ông tạ Bà ta
giơ cao khởi đầu một tấm đá lát và ném về phìa Javert. Ông này
cuội mình xuống tránh. Tấm đá lát bay qua trên đầu ông và rơi
xuống lăn trong hành lang. Cùng lúc đó Javert đã tới bên vợ
chồng Thénardier. Một bàn tay to khoẻ của ông chụp lên vai người
đàn bà, bàn tay kia lên đầu người chồng.
- Hai đứa con gái tôi! bà Thénardler kêu lên ầm ĩ, bà ta vừa ngã
xuống đất vừa khóc..
- Chúng nó đang trong bóng mát, Javert nói. Rồi quay sang sáu
tên cướp đã bị trói cứng:
Hãy giữ mặt nạ bọn bây lại, ông tiếp lời, tao biết bọn bây và
nhận ra tất cả bọn bây. Chào Brigrenaille, chào Blujou, chào
Deux - Milliaids, chào Gueulemer, chào Babet, chào Claquesous!
Bấy giờ ông trông thấy người tù của bọn cướp vẫn ngồi cúi đầu
không nói gì từ lúc các nhân viên cảnh sát xông vào.
Hãy mở trói cho ông kiả Javert tiếp lời. Và không ai được ra
khỏi đây !
Nói xong, ông ngồi một cách oai vệ trước bàn nơi vẫn còn cây nến
và bình mực cùng ngòi bút, ông rút một tờ giấy có đóng dấu từ
trong túi và bắt đầu lập biên bản.
Khi đã viết xong những dòng đầu vốn chỉ là những công thức quen
thuộc, bao giờ cũng giống nhau, ông ngước mắt nhìn lên.
Đưa người bị bọn cướp trói đến đây, ông nói.
Đám cảnh sát nhìn quanh. Người tù của bọn cướp đã biến mất. Cửa
chính được canh gác, nhưng cửa sổ thì không. Vừa được cởi trói
xong, và trong lúc ông Javert lập biên bản, người tù đã lợi dụng
sự lộn xộn, sự bề bộn, bóng tối và khoảnh khắc mọi người không
chú ý tới ông để phóng mình qua cửa sổ.
Một nhân viên chạy lên cửa sổ trên mái nhà và nhìn quanh. Không
có ai bên ngoài. Cái thang dây hãy còn lay động.
Quỷ tha ma bắt? Javert rít qua kẽ răng. Đó phải là tên nổi cộm
nhất.
Chương 8
Lớp Phụ Tình Tứ
Marius đã
chứng kiến phần kết cục bất ngờ của các biến cố. Trong đêm chàng
trằn trọc suy nghĩ. Hôm sau ngay vào lúc bảy giờ sáng, chàng trả
tiền phòng còn thiếu, cho chất lên chiếc xe đẩy tay sách vở,
giường, tủ ngăn kéo, cái bàn cùng hai chiếc ghế của chàng và lên
đường không để lại địa chỉ, đến nỗi khi Javert trở lại trong
buổi sáng để hỏi Marius về sự bỏ cuộc hôm trước, ông chỉ gặp
người thuê nhà chính, bà Burgon.
Đã dọn đi ! bà đáp gọn khi được hỏi về chàng trai.
Javert tin rằng chàng trai mà ông không giữ lại tên đã sợ hãi và
thậm chí không dám trở về phòng trong lúc mai phục. Ông thử tìm
cách gặp lại chàng nhưng không thành công.
Hai tháng trôi quạ Marius đã dọn đến ở với Couteyrac. Qua một
luật sư tập sự, Marius biết Thénardier bị giam vào ngục kín. Mỗi
sáng thứ hai, Marius nhờ mang đến phòng lục sự Ở Force năm frăng
cho Thénardier.
- Món tiền này từ đâu đến vậy kìa? người cựu chủ quán thắc mắc.
Marius rất đỗi chán ngán. Đời chàng lại chìm đắm vào niệm bí ẩn
trong đó chàng lang thang dò dẫm. Đã có lúc chàng được nhìn lại
sát kề, trong bóng tối kia, người con gái mà chàng yêu và ông
lão chừng như là cha nàng. Rồi một làn gió đã cuốn đi tất cả
những cái bóng đó.
Phải nghĩ sao về ông lão đây? Có phải ông thực sự lẩn trốn cảnh
sát! ông có những phương diện anh hùng và những phương diện đáng
ngờ. Tại sao ông trốn lánh Với Marius, tất cả những câu hôi đó
vẫn không tước bỏ chút nào vẻ quyến rũ thiên thần của cô gái nơi
vườn Luxembourg. Gặp lại nàng. Chàng vẫn mong mỗi điều đó, nhưng
chàng không hy vọng gì nữa.
Công việc chàng gián đoạn khi chàng mãi đắm hồn trong mộng tưởng
dịu dàng của chàng vì không gì nguy hiểm hơn sự đứt khoảng của
công việc bởi mơ mộng thái quá chỉ nhận chìm con người thôi.
Marius phó mặc cho mối ám ảnh tuyệt vọng đó xâm chiếm tâm hồn
chàng.
Chàng cầm thấy đời mình cùn nhụt đi và chàng tự nhủ, mình chỉ
cần gặp lại nàng rồi chết cũng được!
Chàng ra phố mỗi ngày. Chàng mải mê đưa mộng tưởng dạo khắp các
con đường. Người đi đường xô đẩy chàng, chàng cũng không hay
biết.
Thế nhưng một ngày nọ, chàng cảm thấy một bàn tay đặt lên cánh
tay của chàng một cách khẩn khoản, chàng ngước mắt và nhận ra
Eponine, cô gái lớn của ông Thénardier - Cuối cùng tôi cũng gặp
anh! cô nói. Tôi đã bị giam hết mười lăm ngày. Họ đã thả tôi ra,
tôi chưa đến tuổi trưởng thành. Còn thiếu hai tháng. Anh không
còn ở đó à?
Không.
à, đúng rồi, tôi hiểu. Vì chuyện đó. Thật khó chịu, những vụ ra
oai đó! Ngài có vẻ buồn, thưa ngài Marius...
Marius chợt nảy ra một ý nghĩ:
Eponine..., chàng nói.
- Anh biết tôi tên là Eponine à'? cô gái ngạc nhiên hỏi.
- Biết chớ, Eponine... những người mà cô dẫn về phòng cha
cô... Cô còn nhớ chứ? Này, tôi muốn biết địa chỉ của họ.
Eponine nhìn Marius đăm đăm.
- Anh muốn biết địa chỉ của cô nàng xinh đẹp chứ gì? Cô nói. Tốt
lắm.
- Hoặc của ông ấy. Chẳng quan hệ gì.
- Đúng chẳng quan hệ gì, cô nói trong khi Marius thẹn đỏ mặt.
Còn anh, anh ở đâu?
- Khách sạn Porte St-jacques.
Eponine biến mất, nhanh như một con ma trơi và Marius trở về
phòng, lòng chứa chan hy vọng. Chàng không ra ngoài nữa vì sợ cô
sứ giả đến mà không gặp. CÔ nàng cũng không để chàng đợi lâu.
Một tuần lễ chưa trôi qua cô đã gõ cửa nhà Coufeyrac.
Tôi đã có địa chỉ? cô nói. Tôi đã ăn xin tại cổng của nhiều giáo
đường để gặp lại họ. Nhưng anh có hứa sẽ cho tôi điều tôi thích
để thưởng tôi không?
- Tôi hứa với cô, chàng nói, lòng mừng khấp khởi.
Số 18 đường Plumet. Một ngôi nhà một tầng với một khu vườn lớn
phần nào bị bỏ hoang. Có một cửa song sắt. Nhưng hai người đó
vào ra bằng một cửa khác cách đó rất xa trên đường Babylonẹ Họ Ở
đó với một người giúp việc già. Thế đấy.
- Cám ơn, Marius nồng nhiệt nói. Này cô bé, hãy cầm cái này và
chàng đưa cho Eponine một đồng năm frăng. Tuy nhiên tôi cũng
muốn xin cô một lời hứa. Cô hãy thề với tôi rằng cô sẽ không nói
địa chỉ này với cha cô cũng như bất luận ai trong gia đình cô.
Tôi xin thề. Vả chăng tôi không quan tâm đến cha tôi, ông ấy
đang bị giam vào ngục kín. Nhưng anh hãy giữ lấy tiền. Tôi không
thích.
Và cô bước đi, vẻ buồn bã.
Ngay trong ngày, khi hoàng hôn bắt đầu phủ mờ mọi vật, Marius đã
dừng lại trước cửa song sắt ở đường Plumet và cái nhìn của chàng
háo hức rảo khắp khu vườn nơi nàng đang ở. Trọn buổi tối anh vẫn
nấn ná ở đó, ưu tư và ngây ngất, trán áp vào các thanh sắt lạnh.
Nơi tầng một của ngôi nhà những ngọn đèn đã thắp sáng. Với
Marius, chúng đã biến thành những vì sao.
Nhiều ngày liên tiếp. Chàng vẫn trở lại nhưng chàng đã quyết
định mình phải thận trọng, không nên gây sự ngờ vực của ông lão
lẫn sự tò mò của láng giềng.
Hai hoặc ba lần chàng đã trông thấy bóng dáng người chàng yêu.
Một lần nàng đã đến ngồi trên một chiếc ghế dài phủ đầy rêu cách
hàng rào song sắt không xạ Marius xúc động đến nỗi chàng suýt
bộc lộ sự hiện diện của mình.
Nỗi e ấp của những trái tim yêu đã lấn lướt tính táo bạo của
tuổi trẻ chàng. Chàng ngưỡng vọng, chàng yêu, chàng không dám
đến gần.
Tuy nhiên một buổi chiều chàng trở nên bạo dạn, một thanh của
hàng rào song sắt tróc khỏi lỗ chôn, chàng chỉ cần mạnh tay một
chút để gạt nó sang một bên.
Chàng mảnh khảnh, chàng thừa sức chui quạ Bởi đường vắng và đêm
tối mịt, chàng không sợ ai trông thấy.
Thế là tối hôm đó chàng đã dám đến gần chiếc ghế dài bằng đá nơi
chàng đã trông thấy cô gái ngồi chàng đã ở lại đó hết một phần
đêm, mắt đăm đăm nhìn lên các khung cửa sổ ngôi nhà. Khi bước
đi, chàng đặt trên chiếc ghế dài một lá thư lời lẽ dịu dàng và
cảm động bộc bạch những tinh cảm tha thiết tự trái tim chàng.
Chàng vừa đặt trên lá thư của mình một hòn đá vừa nhủ thầm rằng
hòn đá này, tại nơi này sẽ thu hút cái nhìn của người đi dạo
xinh đẹp.
Và quả nhiên, sớm ngày hôm sau, mọi việc xảy ra như Marius đã
mong đợi. Cô gái bắt gặp lá thư, đọc và nhủ thầm:
Chỉ có một người độc nhất mới có thể viết lá thư này, đó là
chàng". Từ nhiều tháng nay, nàng cũng mơ tưởng tới những lần gặp
gỡ tại vườn Luxembourg, tới chàng trai trẻ đẹp kia, mảnh khảnh
và buồn buồn, vẫn ngắm nàng hàng giờ một cách ngưỡng mộ. Nàng
cũng buồn khổ vì mất đi những buổi đi dạo đó, mất đi những niềm
vui lạ thường và tuyệt vời do cái nhìn dịu dàng xiết bao kia
mang lại.
Nàng dành trọn ngày để đọc lại những câu tình tứ đó. Nàng cảm
nhận trong mấy dòng chữ đó những tia sáng và những ngọn lửa, và
trái tim thơ ngây của nàng cháy lên từ đó. Nàng mới chớm biết
suy nghĩ. Nàng hy vọng gì? Những điều mơ hồ nàng thấy dáng như
có lúc nàng sống trong mơ.
Chiều đến, nàng ăn mặc chu đáo. Nàng có muốn ra ngoài không? Hay
nàng chờ đợi một cuộc viếng thăm?
Không. Nàng bước xuống khu vườn và đến chiếc ghế dài. Hòn đá vẫn
còn đó. Nàng nhẹ nhàng đặt bàn tay trắng nõn của nàng lên đó như
muốn cám ơn nó bằng cái vuốt ve.
Bất chợt nàng có cái cảm tưởng không thể giải thích được mà
người ta nhận ra khi có ai đứng phía sau mình. Nàng quay đầu lại
và đứng thẳng người. Đó là chàng.
Chàng không đội nón. Chàng có vẻ xanh xao và ốm đi. Hoàng hôn
càng làm tái thêm vầng trán đẹp của chàng và phủ bóng tối lên
đôi mắt chàng.
Xin lỗi cô, chàng thì thầm với cô gái đang khẽ run lên, tôi
không thể sống mãi như thế được. Tôi đã đến.
Cô có đọc những gì tôi để lại nơi đó, trên chiếc ghế dài kiả Cô
có nhận ra tôi không ? Xin cô đừng sợ tôi. Đêm đêm, tôi vẫn đến
đây, nhìn sát vào các khung cửa sổ của cô Đêm nọ tôi đã nghe cô
hát. Tôi rất hạnh phúc. Cô biết không, cô là một thiên thần. Xin
cô hãy cho tôi đến gần một chút. Tôi nghĩ rằng tôi sắp chết mất.
Có thể tôi làm phiền cô khi tôi nói với cô tất cả những điều đó.
Cô gái thất thần trong cơn xúc động. Marius đỡ nàng trong đôi
cánh tay của mình. Nàng cầm một bàn tay của chàng và đặt nó lên
tim mình. Chàng nhận ra bức thư nàng giấu trong áo lót của nàng.
Chàng ấp úng.
- Cô yêu tôi chứ?
Nàng đáp bằng một giọng nhỏ nhẹ đến nỗi người ta hầu như không
nghe.
Anh im đi ! Anh biết rồi mà ?
Họ không còn lời lẽ nữa. Những vì sao bắt đầu tỏa rạng. Họ trao
nhau một nụ hôn. Cả hai rùng mình và nhìn nhau trong bóng tối
với đôi mắt sáng rực. Họ không nhận ra cái mát của đêm lẫn cái
lạnh của đá, họ nhìn nhau đắm đuối và tâm hồn tràn ngập bao ý
tưởng.
Anh tên gì Anh tên Marius. Còn em!
Em tên Clossne.
Thế rồi họ nói với nhau tất cả mọi điều. Hai trái tim đó tuôn
chảy vào nhau và rực lên trong hân hoan.
Bằng một sự thân thiết tuyệt vời, họ gởi gấm cho nhau những giấc
mơ của họ, những cơn ngây ngất của họ, những gì mà mỗi người
chưa hề thổ lộ với một ai, những gì kín đáo nhất và rất đỗi bí
ẩn trong tâm hồn họ.
Marius được biết rằng Cosette được nuôi dưỡng trong nhà tu, nàng
ở với cha, ông Fauchelevent, và một người giúp việc già tên là
Toussaint, rằng cha nàng làm được nhiều điều tốt cho mọi người
nhưng chỉ chấp nhận về mình phần tối thiểu nghiêm ngặt.
- Cha không hề từ chối với em điều gì cả và còn lo trước những
điều em mong muốn nữa, Cosette nói.
Nhưng em buộc phải giận dỗi nếu em muốn cha chia sẻ sự xa hoa mà
cha dành cho em. Phòng của cha quét nước vôi trắng, có một cái
giường đai vải, một cái bàn gỗ, một cái ghế. Từ khi cha con em
không đến vườn Luxembourg nữa, cha con em vẫn ra khỏi nhà trước
bình minh, đến những vùng ven Paris. Trong ngày thì không bao
giờ.
Cha con em có một căn hộ Ở đường Homme-armé và một căn hộ khác ở
đường Ouest, nhưng cha con em không đến đó nữa. Khi em còn nhỏ
xíu, em nhớ em rất khổ, có một người đàn bà tàn ác luôn đánh đập
em. Rồi sau đó trong tu viện, tất cả các bà đều tốt với em. Cha
em làm vườn, em được phép gặp ông mỗi ngày. Em rất hạnh phúc.
Nhưng bây giờ...
Cái đầu dễ thương của cô tựa vào vai Marius...
Vào tất cả những đêm tháng năm năm 1832 trong khu vườn hoang dại
đó, dưới bụi rậm ngày một rậm rạp và sực nức mùi hương đó, hai
tâm hồn trẻ biết tới những khoảnh khắc thiêng liêng nhất với tất
cả những diễm phúc của trời. Họ sống trong sự trào dâng rực rỡ
của tâm hồn họ. Tình yêu của họ biến nơi đây thành một ngôi đền.
Tất cả những loài hoa nở rộ quanh họ và gửi đến họ những mùi
hương thơm ngát của chúng. Những câu nói, những câu truyện trẻ
con. những điều nhắc đi nhắc lại. những tiếng cười vì những
chuyện không đâu, những gì cao cả và sâu xa nhất trên đời này,
những gì đáng nói và đáng nghe nhất. những tiếng cười của họ
lượn lờ trên các cành lá như đi cánh thiên thần. Đôi lứa tình
nhân xinh đẹp đó ẩn mình trong hoàng hôn, cùng chim chóc và hoa
lá. Họ đắm đuối nhau với cõi lòng trào dâng nơi ánh mắt. Họ thủ
thỉ. họ thì thầm, và trong lúc đó, vô vàn sự dao động mênh mông
của những thiên thể giăng lấp đầy cõi vô hạn.
Nhưng một buổi tối, Marius thấy Cosette buồn.
Nàng đã khóc..
- Em làm sao thế? Marius lo lắng hỏi.
- Sáng nay cha em bảo em hãy sẵn sàng ông sẽ đưa quần áo của ông
để em xếp vào rương, ông buộc phải thực hiện một chuyến đi, cha
con em sẽ lên đường, có thể sẽ đi Anh.
Bao giờ em lên đường'? chàng hỏi giọng yếu ớt.
Cha em không nói bao giờ đi.
- Và bao giờ em trở về ông không nói bao giờ về.
Cosette, chàng trai nói, tim như ngừng đập, nếu em đi, anh sẽ
chết mất.
Nhưng tại sao anh không cùng đi với cha con em?
Cosette hỏi, mặt tái xanh. Nếu cha con em lên đường, em sẽ cho
anh biết bao giờ cha con đi. Anh sẽ gặp cha con em.
Không thể được. Marius ấp úng. Anh nghèo lắm.
Anh không có tiền dù để trả cho một tờ hộ chiếu. Em sẽ chỉ gặp
anh vào buổi tối và em trao cho anh tình yêu của em, nếu em gặp
anh ban ngày, em sẽ cho anh một đồng xu bởi áo quần anh rất tồi
tàn.
- Thế thì làm gì bây giờ?
- Anh sẽ thử... Anh sẽ gặp ông ngoại anh... Biết đâu ông sẽ
không đến đỗi vô tâm. Hẹn em ngày mai, anh sẽ nghĩ tới chuyến
đó. Em phải biết địa chỉ của anh. Anh không biết chuyện gì có
thể xảy ra đây. Anh đang ở nơi một người bạn tên là Cluileyrac
đằng La Verrerie, số... Chàng lục túi lấy một con dao nhíp rồi
dùng mũi dao viết địa chỉ lên lớp thạch cao của bức thành, rồi
nhìn Cosette một cách trìu mến:
Chúng ta hãy hy vọng. chàng nói. Sức mạnh nào còn có thể chia rẽ
chúng ta được khi Thượng đế đã kết hợp chúng ta lại? Anh sẽ yêu
em mãi mãi.
- Mãi mãi, Cosette dịu dàng lập lại. Hợp nhất với nhau trong tư
tưởng, say đắm nhau cả trong khổ đau, họ Ôm chầm lấy nhau, trong
lúc mắt họ ngây ngất và đẫm lệ đang ngước nhìn những vì sao.
o0o
|