Nếu như họ tạm thời lạm chi th́ ông ta sẽ thông cảm lắng nghe và
tŕ hoăn việc trả về những tấm séc đă hết tiền trong tài khoản.
Để đáp lại, có thể là một bữa cơm chiều ở đâu đó. Nhiều nữ khách
hàng phải t́m đến sự giúp đỡ của ông ta và thú nhận những bí mật
tế nhị giấu chồng vay một khoản tiền ... cần giữ kín một vài tấm
séc bí mật mà nàng đă viết ... đang dự tính ly hôn và Lester có
thể giải quyết cái tài khoản chung của hai vợ chồng ngay được
không? ... Dĩ nhiên là Lester sốt sắng làm họ hài ḷng. Và ông
ta cũng được toại nguyện.
Vào cái buổi sáng thứ sáu đặc biệt này, Lester đă biết ḿnh gặp
may khi thấy cô gái bước vào nhà băng. Đẹp đến sững sờ:
mớ tóe đen óng ả phủ xuống vai, váy ngắn bó khít lấy người và
cái áo mỏng làm thấy rơ một thận h́nh mà một vũ nữ Las Vegas
cũng phải ghen tị.
Nhà băng có bốn thủ quỹ và cặp mắt của cô gái lướt từ ô cửa này
sang ô cửa khác, vẻ như t́m kiếm một sự giúp đỡ.
Khi cô ta đưa mắt tới Léster, ông ta vội vă gật đầu và mỉm cười
mời mọc. Cô ta bèn đi lại, quả như Lester dự đoán.
“Xin chào”, Lester nồng nhiệt. “Tôi có thể giúp ǵ cô được?” Ông
ta có thể thấy hai núm vú cô gái hằn rơ trên làn lụa mỏng dính
của chiếc áo và thầm kêu lên - cô bé, giá mà ta được dày ṿ em!
“Tôi e là ḿnh đang gặp khó khăn”, cô gái than thở bằng cái
giọng miền Nam dễ chịu nhất mà Lester từng được nghe.
“Th́ tôi ở đây là v́ thế”, ông ta hồ hởi nói, “để giải quyết
những mắc mớ”.
“Ôi, được thế th́ tất quá. Tôi sợ rằng tôi đă làm một điều khủng
khiếp”.
Lester mỉm cười thân t́nh, vẻ như thầm nói với cô gái là hăy tin
cậy ở ông ta. “Tôi khó mà tin một cô gái dễ thương thế này lại
có thể làm một điều ǵ khủng khiếp”.
Ôi, thật vậy đấy”. Cặp mắt màu nâu nhạt của cô gái mở to, đầy vẻ
lo lắng.
“Tôi là thư kư của Joseph Romano, ông chủ bảo tôi đặt những tấm
séc mới cho ông ta từ cách đây một tuần, thế mà tôi quên khuấy
đi mất, và bây giờ chỗ chúng tôi sắp hết cả séc rồi. Nếu biết
chuyện này th́ thật không hiểu ông ta sẽ làm ǵ với tôi nữa”.
Những lời thốt ra sao mà mềm mại, mượt mà.
Lester đă quá quen với cái tên Joseph Romano. Đó là khách sộp
của nhà băng này, mặc dù chỉ có một khoản tiền nhỏ trong tài
khoản. Ai cũng biết là những khoản tiền lớn của ông ta đang nằm
đâu đó.
Lăo ta biết chọn thư kư lắm, Lester nghĩ bụng. Ông ta mỉm cười.
Được, có ǵ nghiêm trọng lắm đâu, thưa bà?”.
“Cô Hartford. Lureen Hartford”.
Cô Thật là một ngày may mắn. Lester có cảm giác mọi chuyện sẽ
diễn ra hết sức thú vị. “Ngay bây giờ, tôi sẽ đặt những tấm séc
mới cho cô và cô sẽ nhận được trong hai tuần nữa, và ...”.
Cô gái khẽ kêu lên. “Ôi, vậy th́ quá muộn, và ông Romano sẽ nổi
giận với tôi mất. Ông biết đấy, tôi không c̣n đầu óc nào mà làm
việc nữa”. Cô hơi tỳ người về trước, hai bầu vú chạm khẽ vào
thành ô cửa. Cô nói trong hơi thở hồi hộp, “Nếu ông có thể xuất
ngay những tấm séc đó, tôi sẽ vui ḷng trả một món tiền”.
Lester nói vẻ khổ sở. “Thật rất tiếc, cô Lureen, không thể nào
... Ông ta thấy cô đă gần phát khóc.
“Nói thật với ông, chuyện này có thể làm cho tôi mất việc đấy
Xin ông ... Tôi sẽ làm bất cứ điều ǵ ...”.
Lester như nghe thấy những nốt nhạc thánh thót.
“Tôi sẽ nói với cô việc tôi phải làm nhé”, Lester tuyên bố. “Tôi
sẽ yêu cầu làm gấp, và cô sẽ nhận những tấm séc đó vào thứ hai.
Vậy được chứ?”.
“Ôi, ông thật tuyết vời!” Giọng cô gái đầy vẻ biết ơn.
“Tôi sẽ gửi về địa chỉ nào?”.
“Tôi đến nhận th́ tốt hơn, bởi không muốn để ông Romano thấy tôi
đă ngu ngốc đến thế nào?”.
Lester mỉm cười lả lơi. “Không phải là ngu ngốc, Lureen. Đôi lúc
ai mà chất lơ đễnh”.
Cô gái nói khẽ. “Tôi sẽ không dám quên ông. Hẹn gặp ông vào thứ
hai”.
“Tôi sẽ có mặt ở đây”.
Có trời mà khiến ông ta đi đâu vào hôm đó.
Cô gái mỉm cười làm ông ta sững sờ vừa chậm răi đi ra, dáng đi
thật mê hồn.
Lester vừa tủm tỉm cười một ḿnh vừa đi lại tủ hồ sơ, y ra số
tài khoản của Josepha Romano và gọi điện yêu cầu một số séc mới
cho tài khoản đó.
Cái khách sạn trên đường Carmen y hệt cả trăm khách sạn khác ở
New Orleans, chính v́ vậy mà Tracy đă chọn nó. Nàng thuê một
pḥng nhỏ, bày biện sơ sài, tuy vậy so với cái pḥng giam kia
th́ đây vẫn là một cung điện.
Sau cuộc gặp Lester trở về Tracy tháo bộ tóc giả màu đen, vuốt
lại mái tóc óng ả của nàng, tháo đôi mắt kính mềm đeo sát tṛng
mắt, rồi rửa sạch lớp son phấn trên mặt, ngồi xuống chiếc ghế
tựa duy nhất trong pḥng và thở phào nhẹ nhơm. Mọi việc đang
trôi chảy. T́m ra tài khoản của Joe Romano nằm trong nhà băng
nào không có ǵ khó khăn. Nó có trong đóng giấy tờ mẹ nàng để
lại những tấm séc đă bị hủy do Romano viết. “Romano Cô không thể
động tới hắn được”, đó là lời Ernestine.
Ernestine đă nhầm và Joe Romano mới chỉ là kẻ đầu tiên. C̣n nữa.
Từng kẻ một.
Tracy nhắm mắt và nhớ lại điều kỳ diệu đă đưa nàng đến đây ...
Lại là cảm giác làn nước tối sẫm, lạnh giá tràn qua đầu nàng
đang ch́m xuống và thấy sợ hăi. Nàng quờ quạng và nắm được vào
con bé, đẩy nó lên mặt nước. Amy vùng vẫy lung tung, lại kéo cả
hai ch́m xuống, tay và chân con bé quẫy đạp điên cuồng. Lồng
ngực Tracy đau tức khi cố ngoi lên khỏi mặt nước, tay vẫn túm
chặt con bé, và cảm thấy đuối sức. Không được nữa rồi, nàng
nghĩ.
Cả hai cùng chết mất. Có những tiếng nói ồn ào và nàng cảm thấy
Amy bị gỡ tuột khỏi tay ḿnh, nàng thét lên. “Ôi., Chúa ơi,
không?” Những bàn tay nào đó giữ chặt ngay lấy nàng và một giọng
nói cất lên. “Giờ th́ ổn rồi, b́nh tĩnh lại.
Mọi chuyện đều đă qua”.
Tracy mở mắt nh́n quanh và thấy con bé đang trong tay một người
đàn ông.
Ít giây sau nàng đă thiếp đi.
Tai nạn này b́nh thường ra th́ cũng chẳng có ǵ hơn ngoài một
mẩu tin ở trang trong của các tờ báo buổi sáng, song ở đây lại
là việc một tù nhân không biết bơi đă liều mạng để cứu lấy đứa
con nhỏ của viên tổng giám thị. Do vậy, chỉ qua một đêm, báo chí
và các h́nh luận viên truyền h́nh đă biến Tracy thành một nữ anh
hùng. Đích thân thống đốc Haber đă cùng với tổng giám thị
Brannigan tới bệnh xá nhà tù thăm Tracy.
“Cô đă có một hành động dũng cảm”, tổng giám thị nói. “Sue Ellen
và tôi muốn được bầy tỏ ḷng biết ơn với cô”. Giọng ông nghẹn
ngào xúc động.
Tracy vẫn chưa phục hồi hẳn. “Amy thế nào rồi?”.
“Con bé sẽ khỏe thôi”.
Tracy nhắm mắt lại. Ḿnh không thể chịu nổi nếu có chuyện ǵ xảy
ra cho con bé. Tracy thầm nghĩ. Nàng nhớ lại sự lạnh lùng của
ḿnh khi mà t́nh thương yêu là tất cả những ǵ mà con bé muốn
có, và nàng thấy xấu hổ. Sự kiện xảy ra đă cướp đi cơ hội vượt
ngục, song nàng biết rằng nếu như được làm lại th́ nàng vẫn sẽ
như thế.
Cũng có một cuộc tra xét ngắn ngủi về chuyện xảy ra.
“Con có lỗi”, Amy nói với bố. “Con và cô đang chơi bóng, cô
Tracy chạy đi nhặt bóng và bảo con chờ, nhưng con lại trèo lên
tường để có thể nh́n theo cô rơ hơn và ngă nhào xuống nước. Cô
Tracy đă cứu con bố ạ”.
Họ giữ Tracy tại bệnh xá đêm đó để theo dơi và sang hôm sau nàng
được đưa tới pḥng làm việc của tổng giám thị Brannigan. Giới
thông tấn đang chờ.
Họ không bỏ lỡ bao giờ những câu chuyện hấp dẫn, và thế là các
phóng viên của UPI và AP đă có mặt, c̣n đài truyền h́nh địa
phương th́ cử tới hẳn một nhóm phóng viên.
Đêm hôm đó tin và bài về hành động anh hùng của Tracy được tung
ra, các t́nh tiết được đưa lên màn ảnh truyền h́nh quốc gia, và
câu chuyện lan nhanh.
Các tờ Times, Newsweek, People và hàng trăm tờ khác đă đăng tải
câu chuyện.
Trong khi giới báo chí rầm rộ như thế, th́ nhiều thư và điện đổ
tới nhà tù đ̣i ân xá cho Tracy.
Thống đốc Haber thảo luận vấn đề với tổng giám thị Brannlgan.
“Tracy Whitney bị đưa đến đây v́ một tội nặng”, tổng giám thị
báo cáo.
Vị thống đốc trầm ngâm. “Thế nhưng cô ta không có tiền án ǵ,
đúng không, George?”.
“Đúng vậy, thưa ngài?”.
“Tôi cũng chả ngại nói để cậu biết là tôi đang phải chịu một sức
ép ghê gớm về cô ấy”.
“Tôi cũng vậy thưa thống đốc”.
“Dĩ nhiên là không thể để công luận dạy bảo chúng ta phải điều
hành nhà tù của ta thế nào, có phải không?”.
“Chắc chắn là không rồi”.
“Mặt khác vị thống đốc thận trọng, “cô Whitney này rơ ràng đă
chứng tỏ ḷng can đảm của ḿnh, hoàn toàn xứng đáng là một nữ
anh hùng”.
“Cái đó th́ rơ rồi”. Tổng giám thị đồng t́nh.
Vị thống đốc châm một điếu x́ gà. “Ư kiến cậu thế nào, George.
George Brannigan thận trọng lựa lời. “Tất nhiên là ngài biết
đấy, thưa thống đốc, tôi có một sự quan tâm hết sức cá nhân
trong chuyện này. Đứa bé được cứu sống là con gái tôi. Thế
nhưng, gác chuyện đó qua một bên th́ tôi vẫn không nghĩ rằng
Tracy Whitney là một tội phạm thực sự, và tôi không tin cô ấy,
nếu ở bên ngoài, lại là một đe dọa đối với xă hội chúng ta, Tôi
xin đề xuất rằng hăy ân xá cho cô ta”.
Vị thống đốc, người cũng đang sắp loan báo ư định ứng cử một
nhiệm kỳ mới, đă nhận ra ư hay trong lời đề xuất đó “Chúng ta
hăy làm như đang chơi cờ vậy”. “Ông đáp”.Trong chính trị, thời
điểm là tất cả”.
Sau khi bàn bạc với chồng, Sue Ellen bảo Tracy. “Ông tổng giám
thị và tôi rất muốn cô chuyển đến ở đây, chúng tôi c̣n dư một
pḥng ngủ ở phía sau. Cô có thể trông nom Amy suốt ngày được”.
“Cảm ơn bà”, Tracy đáp với vẻ biết ơn. “Thế th́ tốt quá”.
Thật là tuyệt diệu. Chẳng những đến đêm không c̣n bị nhất vào
pḥng giam, mà quan hệ giữa nàng với Amy cũng hoàn toàn thay
đổi. Amy yêu quư Tracy và cũng được đáp lại. Nàng thích được có
con bé xinh xắn, dễ thương này luôn ở bên ḿnh. Hai cô cháu chơi
những tṛ chơi cũ, xem những cuốn phim của Disney trên ti vi và
cùng đọc sách với nhau. Không khí phần nào có vẻ như trong gia
đ́nh vậy.
Song bất kỳ khi nào có việc ǵ đấy mà Tracy phải đi tới khu nhà
giam th́ thế nào nàng cũng lại chạm trán với Bertha Lớn.
“Đồ chó may mắn” Bertha Lớn hằm hè. “Song rồi mày cũng sẽ bị đưa
trở lại đây như mọi kẻ khác. Tao sẽ làm việc đó, cô bé ạ”.
Khoảng ba tuần sau vụ tai nạn đó, một hôm Tracy và Amy đang chơi
tṛ đuổi bắt ngoài sân th́ Sue Ellen Brannigan từ trong nhà chạy
ra. Bà đứng nh́n hai cô cháu một thoáng rồi nói. “Tracy, ông
tổng giám thị vừa gọi điện về. Ông muốn cô tới pḥng làm việc
của ông ngay”.
Tracy chợt thấy sợ hăi. Liệu điều này có nghĩa là nàng sắp bị
đưa trở về nhà giam? Bertha Lớn đă sắp đặt bằng ảnh hưởng của
mụ? Hay là bà Brannigan cho là nàng và Amy đang trở nên quá thân
thiết?
“Thưa bà, vâng”.
Khi Tracy được đưa tới th́ ông tổng giám thị đang đứng ngang
ngưỡng cửa.
“Cô ngồi xuống”, ông nói.
Tracy cố t́m câu trả lời cho số phận của ḿnh qua giọng nói của
ông.
“Tôi có một tin cho cô”. Ông ngừng lời với vẻ xúc động mà Tracy
không hiểu nổi. “Tôi vừa mới nhận được lệnh của thống đốc bang
Louisiana, dành cho cô một sự ân xá hoàn toàn, hiệu lực tức
thời”.
Lạy Chúa, có phải ông ấy vừa nói cái điều mà con nghe thấy
không? Nàng sợ hăi, không dám hỏi lại.
“Tôi muốn cô hiểu rằng”, ông tổng giám thị nói tiếp.
“Điều này không phải v́ cô đă cứu sống con gái tôi. Cô đă hành
động như bất kỳ công dân đáng kính nào khác sẽ làm, nếu ở vị trí
cô lúc ấy. Dù thế nào chăng nữa, tôi thực sự không tin rằng cô
có thể là một đe dọa đối với xă hội”.
Ông cười và nói thêm “Amy sẽ nhớ cô. Chúng tôi cũng vậy”.
Tracy không c̣n biết nói ǵ. Giá mà ông tổng giám thị biết được
sự thật rằng nếu cái tai nạn đó không xảy ra chăng nữa, th́ nhân
viên của ông cũng sẽ phải mở cuộc truy lùng cô - một kẻ chạy
trốn.
“Ngày kia, cô sẽ được trả lại tự do”.
Ngày “thức dậy” của nàng. Và Tracy vẫn Chưa hết ngỡ ngàng. “Tôi
... tôi.
không biết phải nói ǵ”.
“Cô không phải nói ǵ hết. Mọi người ở đây đều tự hào về cô Bà
Brannigan nhà tôi và cá nhân tôi mong chờ cô làm được những việc
tất đẹp ở bên ngoài”.
Vậy đúng là sự thực? Nàng được tự do Tracy bủn rủn đến nỗi phải
tỳ vào thành ghế để ngồi được vững. Và sau cùng, khi cất tiếng,
giọng nàng cứng rắn.
“Thưa ông tổng giám thị, có nhiều việc tôi muốn làm”.
Hôm cuối cùng, một tù nhân ở cùng khu với Tracy bước lại gần,
hỏi. “Vậy là cô sắp ra khỏi đây?”.
“Đúng vậy?”.
Người đàn bà kia, Betty Franciscus, chừng ngoài bốn mươi, vẻ
người hấp dẫn.
“Ở ngoài đó, nếu cần giúp đỡ ǵ, cô nên tới gặp một người tên là
Connađ Morgan ở New York”. Chị ta ch́a cho Tracy một mẩu giấy.
“Ông ta thường mươn giúp đỡ những người mới ra tù”.
“Cám ơn, nhưng tôi không nghĩ là ḿnh sẽ cần”.
“Biết thế nào được. Cứ cầm lấy địa chỉ của ông ta”.
Hai giờ sau, Tracy đi ra khỏi cổng nhà tù, ngay trước những ống
kính truyền h́nh. Nảng không nói ǵ với các phóng viên, nhưng
khi Amy vùng khỏi tay mẹ và nhào vào ṿng tay của Tracy th́ các
máy quay đều chớp lấy. Và h́nh ảnh này đă được đưa ngay lên bản
tin truyền h́nh tối hôm đó.
Tự do! Với Tracy, giờ đây nó không chỉ là một từ trừu tượng mà
là một cái ǵ đó rất cụ thể, cảm nhận được hẳn hoi, một điều
kiện sống mà người ta yêu quư và thưởng thức nó. Tự do - có
nghĩa là được hít thở không khí trong lành, sự riêng tư, đi ăn
không phải xếp hàng và không phải nghe những tiếng chuông đầy
khó chịu. Nó có nghĩa là được tắm nước nóng với xà pḥng thơm,
có nghĩa là những đồ lót mềm mại, những váy áo đẹp và những đôi
giày cao gót. Nó có nghĩa là được mang một tên gọi chứ không
phải một con số. Tự do - có nghĩa là thoát khỏi Bertha Lớn,
thoát khỏi nỗi lo sợ bị cưỡng dâm tập thể, và thoát khỏi sự buồn
tẻ khủng khiếp hàng ngày trong nhà tù.
Song Tracy cũng phải mất ít thời gian để làm quen với sự tự do
mới mẻ của ḿnh. Đi ngoài phố, nàng phải chú ư để khỏi xô phải
người khác. ở trong tù, việc đụng chạm ấy có thể dẫn tới một
cuộc đánh lộn giữa các tù nhân.
Chính việc không có những sự đe dọa thường xuyên là điều mà
Tracy khó làm quen nhất. Giờ đây không có ai đe dọa nàng cả.
Và nàng được tự do thực hiện kế hoạch trả thù của ḿnh. Ở
Philadelphia, Charles Stanhope III thấy Tracy trên màn ảnh ti
vi, đang rời nhà tù. Nàng vẫn đẹp, anh ta nghĩ. Nh́n nàng người
ta không thể tin rằng đă từng phạm tội. Anh ta nh́n sang cô vợ
mũm mĩm của ḿnh đang ngồi b́nh thản kia, khâu vá ǵ đó.
Ḿnh e rằng ḿnh đă phạm sai lầm. Charles nghĩ thầm.
Daniel Cooper thấy Tracy trên bản tin truyền h́nh buổi tối trong
căn pḥng của ông ta ở New York, và hoàn toàn thờ ơ với việc cô
ta được ra tù. Ông ta tắt ti vi và tiếp tục với cái hồ sơ mà
đang xem xét.
Joe Romano xem ti vi và hắn cười lớn. Whitney quả là một con chó
may mắn. Chắc hẳn nhà tù đă dạy cho nó nhiều. Giờ nó mới thực sự
ngon lành đây.
Có ngày ta sẽ gặp nhau.
Romano tự thấy, hài ḷng với ḿnh. Hắn đă chuyển bức tranh của
Renoir cho đồng bọn, và nó đă được bán lại cho một người sưu tầm
ở Zurich. Năm trăm ngh́n lấy từ công ty bảo hiểm, và hai trăm
ngh́n nữa từ đồng bọn. Dĩ nhiên là hắn đă chia chác với Anthony
Orsatti. Romano rất thận trọng việc này bởi hắn từng thấy những
ǵ xảy ra đối với những ai xử sự không biết điều trong các giao
dịch với Orsatti.
Buổi trưa ngày thứ hai đă hẹn, Tracy trong h́nh dáng của Lureen
Hartford quay lại ngân hàng First Merchants New Orleans. Vào giờ
đó, khách hàng đông nghẹt, có tới dăm bảy người đang đứng trước
ô cửa của Lester. Tracy đứng vào hàng, và khi thấy nàng, Lester
tươi cười gật đầu Nàng thậm chí c̣n đẹp hơn nhiều so với h́nh
ảnh mà Lester ghi nhớ.
Lát sau, khi Tracy đă tới trước ô cửa, Lester vồ vập. “Thật
chẳng dễ dàng ǵ, song tôi đă 1àm được cho cô đấy, Lureen”.
Một nụ cười ấm áp, biết ơn sáng lên trên gương mặt Tracy. “Ông
thật quá tuyệt vời”.
“Thưa vâng, có đấy”. Lester mở một ngăn kéo lấy ra hộp séc đă
cất cẩn thận và đưa ra. “Đây. Bốn trăm tấm séc trắng, đủ chứ?”.
“Ồ, quá đủ rồi, trừ phi ông Romano chỉ có ngồi miệt mài viết séc
thôi”.
Lester cảm thấy rạo rực. “Tôi tin rằng con người phải xử đẹp với
nhau, cô có tin vậy không, Lureen?”.
“Ồng hoàn toàn đúng, ông Lester”.
“Cô biết đấy, cô nên mở một tài khoản riêng ở đây. Tôi sẽ quan
tâm thật chu đáo cho cô. Thật chu đáo”.
“Tôi tin là ông sẽ làm thế”, giọng Tracy mềm mại.
“Tại sao ta lại không bàn chuyện này trong một bữa ăn chiều yên
ả ở đâu đó được nhỉ?”.
“Chắc là tôi sẽ thích thế”.
“Tôi có thể gọi điện cho cô chứ, Lureen?”.
“Ồ, tôi sẽ gọi cho ông, ông Lester,” và nàng bước đi.
“Đợi một phút ...”.
Người khách tiếp theo bước tới và ch́a cho Lester đang thất vọng
một túi đầy tiền xu.
Ngay giữa gian pḥng lớn của nhà băng có bốn chiếc bàn, trên đó
là các hộp chứa các phiếu gửi và rút tiền, và các bàn này bao
giờ cũng đầy người bận rộn ghi vào các phiếu đó. Tracy đi ṿng
tránh khỏi tầm nh́n của Lester.
Và khi một người khách vừa rời khỏi bàn th́ Tracy liền ngồi ngay
xuống.
Cái hộp mà Lester trao cho nàng chứa tám tập séc trắng. Thế
nhưng không phải là Tracy quan tâm tới những tấm séc mà là những
phiếu gửi tiền ở phía dưới những tập séc đó.
Nàng cẩn thận lựa chọn những tấm phiếu gửi tiền ra khỏi các tập
séc và chưa đầy ba phút sau, đă có trong tay tám mươi tấm. Khi
cầm chắc là không có ai để ư, nàng đặt hai mươi tấm này vào
chiếc hộp trên bàn.
Nàng chuyển sang bàn bên và đặt vào đó hai mươi tấm phiếu nữa,
Sau ít phút, số phiếu c̣n lại được đặt nốt lên hai chiếc bàn
kia. Các tấm phiếu gửi tiền đều mới nguyên, chưa ghi ǵ cả, song
mỗi tấm phiếu, ở phía dưới đều mang một mă số từ tính mà máy
tính dùng để chuyển vào các tài khoản thích hợp. Ai gửi tiền th́
không quan trọng bởi v́ do mă số từ tính này, máy tính sẽ tự
động chuyển các khoản tiền gửi vào tài khoản của Romano. Từ kinh
nghiệm làm việc ở nhà băng, Tracy biết rằng chỉ trong hai ngày
th́ số phiếu gửi tiền của Romano mà nàng đặt ở đó sẽ được dùng
hết và phải ít nhất là năm ngày th́ sự nhầm lẫn này mới có thể
bị phát hiện. Vậy lả quá đủ thời gian cho nàng thực hiện kế
hoạch.
Trên đường về khách sạn, Tracy ném số séc trắng vào thùng rác.
Ông Joe Romano sẽ không cần tới chúng nữa.
Điểm dừng tiếp theo của Tracy là hăng vận chuyển du lịch New
Orleans.
Người phụ nữ trẻ ngồi sau bàn hỏi.
“Tôi có thể giúp ǵ cô?”.
“Tôi là thư kư của ông Joseph Romano, và ông muốn đi Rio de
Janeiro vào thứ sáu này”.
“Một vé?”.
“Vâng Hạng nhất. Một ghế đặc biệt được hút thuốc lá?”.
“Khứ hồi?”.
“Một chiều”.
Cô nhân viên quay sang chiếc máy tính đặt trên bàn.
Ít phút sau cô ta nói “Chúng ta đă được việc. Một chỗ hạng nhất
trên chuyến bay 728 của Pan American, khởi hành lúc 6 giờ 35
chiều thứ sáu, có dừng ở Miami”.
“Ông ấy sẽ rất hài lông”, Tracy nói.
“Tất cả là một ngh́n chín trăm hai mươi chín đô la. Trả bằng
tiền mặt hay làm hóa đơn?”.
Ông Romano luôn trả bằng tiền mặt lúc nhận hàng. Chị có thể cho
chuyển chiếc vé tới văn pḥng ông ấy vào thứ năm này không”.
“Nếu cô muốn vậy”.
“Thứ năm, lúc 11 giờ, được không?”.
“Vâng! Địa chỉ?”.
“Ông J. Romano, 217 phốPoydras, pḥng 408”.
Cô nhân viên ghi lại. “Rất tốt. Tôi sẽ cho chuyển tới vào trưa
thứ năm này”.
Đúng 11 giờ”. Tracy thêm. “Xin cảm ơn chị”.
Cách đó nửa dăy nhà là một cửa hàng hành lư thượng hạng. Tracy
xem xét số hàng trưng bày trong tủ kính trước khi bước vào bên
trong.
Một nhân viên lại gần. “Xin chào. Liệu tôi có thể giúp ǵ cô?”.
“Tôi muốn mua một vài thứ hành lư cho chồng tôi”.
“Bà đến đúng chỗ rồi. Chúng tôi biết phục vụ ở đây hiện có một
số hàng đẹp, và không đắt”.
“Không”. Tracy nói. “Tôi không muốn thứ rẻ tiền”.
Nàng bước tới chổ bày những chiếc vali Vuitton kê sát tường.
“C̣n hơn cả thứ tôi muốn t́m. Chúng tôi có một chuyến đi xa”.
“Ồ, tôi tin là ông ấy sẽ rất hài ḷng với một trong số những
chiếc vali này, Chúng tôi có ba cỡ khác nhau. Cỡ nào sẽ là ...”.
“Tôi lấy mỗi loại một chiếc”.
“Ồ, tuyệt Thanh toán bằng hóa đơn hay trả ngay?” “COD” Tên
Joseph Rmano. Ông có thể chuyển chúng tới văn pḥng của chồng
tôi vào sáng thứ năm này không “Sao cơ, chắc chắn là thế rồi,
thưa bà Romano”.
“Đúng 11 giờ nhé?”.
“Tôi sẽ lo việc đó”.
Và như cân nhắc, Tracy nói thêm. “Ôi ... ông có thể in các chữ
cái đầu tên ông ấy lên đó không, mạ vàng ấy?
Chữ J.R ...
“Tất nhiên. Chúng tôi rất vui ḷng, thưa bà Romano”.
Tracy mỉm cười và đưa cho ông ta địa chỉ cần thiết.
Tới một bưu điện gần đấy, Tracy gửi một bức điện trả tiền ngay
đến khách sạn Rio Othon Place ở Copacabana, Rio de Janeiro. Bức
điện viết:
YÊU CẦU MỘT PH̉NG HẠNG NHẤT, BẮT ĐẦU TỪ THỨ SÁU NÀY, TRONG HAI
THÁNG, ĐỀ NGHỊ BÁO LẠI BẰNG ĐIỆN TÍN. JOSEPH ROMANO, 217 PHỐ
POYDRAS, PH̉NG 408, NEW ORLEANS, LOUISIANA, USA.
Ba ngày sau Tracy gọi điện thoại tới nhà băng xin nói chuyện với
Lester Torrance. Khi nghe thấy giọng ông ta, nàng dịu dàng, “Có
thể là ông đă quên tôi rồi, ông Lester, đây là Lureen Harford,
thư kư của ông Romano và ...”.
Không nhớ cô ta? Giọng ông ta sốt sắng. “Chắc chắn là tôi nhớ cô
Lureen.
Tôi ...”.
“Thật à? Tôi thật lấy làm hănh diện. Ông phải gặp bao nhiêu
người hàng ngày?”.
“Song không ai giống cô cả”, Lester cam đoan. “Cô chưa quên việc
chúng ta hẹn ăn cơm chiều với nhau chứ?”.
“Ông thật không biết tôi mong chờ dịp đó thế nào. Thứ ba này
liệu có tiện cho ông không, ông Lester?”.
“Tuyệt”.
“Vậy là hẹn nhé. Ôi, tôi thật ngớ ngẩn quá. Nói chuyện với ông
thật là hồi hộp nên suưt quên mất việc phải hỏi. Ông Rơmano bảo
tôi kiểm tra lại cán cân thu chi trong tài khoản của ông ấy. Ông
có thể cho tôi biết con số đó không “Được chứ. Không có ǵ phiền
phức cả”.
B́nh thường th́ Lester Torrance đă phải hỏi về ngày sinh hoặc
một thông tin nào đó để xác định người gọi, song trong trường
hợp này th́ điều đó chẳng cần thiết.
“Cầm máy, Lureen” ông ta nói.
Ông ta bước lại chỗ hồ sơ, rút tấm phiếu của J.Romano, và ngạc
nhiên. Có một số tiền gửi khác thường vào tài khoản của Romano
trong vài ngày qua. Từ trước tới giờ chưa khi nào Romano để
nhiều tiền trong tài khoản đến thế. Lester Torrance băn khoăn,
không biết chuyện ǵ mà lạ vậy. Rỡ ràng chuyện lớn đây.
Khi nào ăn chiều với Lereen Harford, ông phải mời cô về chuyện
này. Một chút thông tin từ nội bộ chẳng bao giờ là thừa cả. Ông
ta quay lại bên máy điện thoại.
“Ông chủ cơ đă làm chúng tôi bận bịu đấy”, ông ta bảo Tracy “Có
trên ba trăm ngh́n trong tài khoản tiết kiệm”.
“Ô, tốt. Đó cũng là con số mà chúng tôi có”.
“Liệu ông ấy có muốn chuyển sang tài khoản kinh doanh không?
Tiền nằm đây th́ cũng chẳng mang lại lời lăi ǵ và tôi có thể
...”.
“Không. Ông ấy muốn giữ nguyên ở đó”. Tracy nói.
“Tốt thôi”.
“Cảm ơn ông nhiều, ông Lester. Ông thật là một người dễ thương”.
“Đợi một phút. Tôi sẽ gọi cô tại văn pḥng để hẹn cụ thể cho
chiều thứ ba chứ?”.
“Tôi sẽ gọi ông, bạn thân mến”. Tracy đáp.
Và nàng gác máy.
Ṭa nhà cao tầng hiện đại mà Anthony Orsatti sở hữu đứng sừng
sững trên phố Poydras ở khoảng giữa bờ sông và công tŕnh khổng
lồ mái ṿm Louislana.
Văn pḥng của công ty xuất nhập khẩu Thái B́nh Dương chiếm toàn
bộ tầng thứ tư của ṭa nhà. Đầu đằng này là khu pḥng làm việc
của Orsatti và đầu kia là các pḥng của Joe Romano. Khoảng giữa
là của bốn cô tiếp tân trẻ trung những cô gái luôn có mặt vào
các buổi tối để mua vui cho bạn bè và các mối làm ăn của
Orsatti. Trước pḥng của lăo có hai gă đàn ông lực lượng ngồi
canh, và mạng sống của hai gă này có thể được hy sinh để bảo vệ
ông chủ chúng. Hài gă cũng kiêm luôn cả tài xế, người đấm bóp và
chạy việc vặt.
Vào sáng thứ năm đó, Orsatti ngồi trong pḥng làm việc của lăo,
đang kiểm tra lại các khoản thu hôm trước từ tṛ sổ số điện tử,
cá cược đua ngựa, măi dâm, và một tá các hoạt động sinh lợi khác
mà công ty xuất nhập khẩu Thái B́nh Dương này kiểm soát.
Anthony Orsatti độ chừng cuối tuổi sáu mươi, có dáng người quái
lạ với tấm thân to và nặng nề c̣n đôi chân th́ ngắn và gầy
nhẳng, như được tạo ra cho một người nhỏ hơn. Khi đứng dậy, lăo
trông như một con ếch đang ngồi.
Bộ mặt lăo chằng chịt vết sẹo, giống như cái mạng do một con
nhện say rượu chẳng nên, với cái miệng rộng ngoác và cặp mắt đen
hơi lồi. Lăo hói đầu từ tuổi mười lăm, sau một lần bị rụng hết
tóc, và dùng tóc giả từ đó. Bộ tóc giả này thật chẳng hợp với
lăo chút nào, song ngần ấy năm tháng qua không ai dám nói tới
điều đó trước mặt lăo.
Mắt lăo lạnh lùng, là cặp mắt của kẻ cờ bạc, chẳng bao giờ bỏ
lọt cái ǵ, và bộ mặt lăo, trừ khi ở bên năm đứa con gái mà lăo
yêu quư, lúc nào cũng lạnh tanh. Dấu hiệu duy nhất gắn liền với
cảm xúc của Orsatti là giọng nói. Lăo có giọng khản đặc, lại the
thé, hậu quả của một sợi dây siết chặt cổ họng vào ngày sinh
nhật lần thứ hai mươi mét của lăo - và rồi lăo đă bị bỏ mặc chờ
chết. Hai gă giết thuê đă phạm sai lầm này được khiêng vào nhà
xác ngay tuần lễ sau đó.
Một khi Orsatti thực sự giận dữ, giọng nói của lăo trầm xuống
như một tiếng th́ thầm bị bóp nghẹt, khó mà có thể nghe thấy
được.
Anthony Orsatti là một ông vua trị v́ vương quốc của ḿnh bằng
hối lộ, súng đạn và tống tiền. Lăo cai quản cả New Orleans và sự
giàu có của lăo th́ không kể xiết. Các ông trùm của gia đ́nh
Mafia khác trên khắp Hoa Kỳ kính nể lăo và thường xuyên t́m kiếm
lời khuyên bảo của lăo.
Vào lúc này, Anthony Orsatti đang trong tâm trạng vui vẻ Lăo mới
ăn sáng với t́nh nhân, ả đàn bà mà lăo giữ trong căn hộ của một
ṭa nhà mà lăo là chủ ở bên hồ Vista. Lăo tới với ả ba lần một
tuần, và sáng nay th́ đặc biệt hài ḷng. Ả làm với lăo trên
giường những tṛ mà mọi người đàn bà khác khó ḷng h́nh dung ra
được, và Orsatti thực bụng tin rằng đó là v́ ả yêu lăo ghê gớm.
Tổ chức của lăo hoạt động trôi chảy, bởi lẽ Anthony Orsatti biết
cách giải quyết những khó khăn trước khi chúng biến thành những
rắc rối. Lăo đă có lần giải thích cái triết lư của ḿnh cho
Romano. “Đừng bao giờ để một khó khăn nhỏ trở thành một cái rắc
rối lớn, Joe, nếu không th́ nó sẽ ph́nh ra như quả cầu ấy. Anh
có một thủ hạ nào đó bắt đầu nghĩ rằng nó phải được chia phần
lớn hơn, anh cho nó lặn luôn, hiểu không. “Sẽ chẳng c̣n quả cầu
tuyết nào nữa. Hay anh gặp một thằng ngu nào đó ở Chicago. Đ̣i
được mở một hoạt động nhỏ nào đó ở đây, tại New Orleans này. Anh
phải hiểu ngay rằng các hoạt động nhỏ kia sẽ trở thành một hoạt
động lớn và làm hụt lợi nhuận của anh. Vậy anh nói đồng ư và khi
hắn đến đây, anh cho tiêu luôn cái thằng chó đẻ ấy đi. Không c̣n
quả cầu tuyết nào nữa. H́nh dung ra bức tranh chưa hả?”.
Joe Romano đă h́nh dung được.
Anthony Orsatti yêu quư Romano. Với lăo, hắn như một đứa con
trai vậy, Orsatti đă nhặt hắn từ khi hắn c̣n là thằng nhăi con
bụi đời và đă rèn cặp để giờ đây th́ hắn đă khá cứng cáp. Hắn
tinh ranh, và Lại thành thật. Trong mười năm Bomano đă leo lên
địa vị phó, giám sát toàn bộ các hoạt động của gia đ́nh và chỉ
phải báo cáo cho Orllatti.
Lucy, thư kư riêng của Orsatti, gơ cửa rồi bước vào. Cô ta hai
mươi bốn tuổi, tết nghiệp đại học, với gương mặt và thân h́nh đă
từng giành chiến thắng trong vài cuộc thi hoa hậu vùng. Orsatti
vốn thích có những cô gái trẻ đẹp vây quanh ḿnh.
Lăo nh́n đồng hồ trên bản, 10 giờ 45. Đă bảo Lucy là không muốn
bị quấy rầy cho tới trưa kia mà, lăo cáu kỉnh. “Cái ǵ?”.
“Tôi xin lỗi v́ đă quấy rầy, ngài Orsatti. Có một cô Ǵgi Dupres
nào đó gọi tới. Cô ta có vẻ bị kích động, nhưng nhất định không
chịu nói với tơi là muốn ǵ. Cô ta khăng khăng đời nói trực tiếp
với ngài. Tôi nghĩ rằng có chuyện ǵ dó quan trọng”.
Orsatti ngồi yên, những cái tên vùn vụt trôi qua óc lăo Gigi
Dupres? Một trong những cô ả mà lăo đă đưa vào pḥng lần tới Las
Vegas mới rồi chăng?
Gigi Dupres? Lăo không nhớ nổi cái tên đó, vậy mà lăo vẫn tự hào
là cái dầu của lăo không bao giờ quên cái ǵ. V́ ṭ ṃ, Orsatti
nhấc máy lên và vẫy tay cho Lucy ra ngoài.
“Hả, ai đấy?”.
“Đó có phải ngài Anthony Orsatti không?”.
Cô ta nói giọng Pháp.
“Có chuyện ǵ?”.
“Ôi, ơn Chúa là tôi đă gặp được ngài, ngài Orsatti!”.
Lucy nói đúng. Con mẹ quả đang bị kích động.
Anthony Orsatti không muốn quan tâm. Lăo định gác máy th́ cô ta
tiếp tục.
“Xin ngài chặn ngay ông ta lại”.
“Cô gái, tôi không hiểu cô đang nới về ai, và tôi rất bận ...”.
“Về Joe của tôi, Joe Romano. Ông ấy hứa sẽ mang tôi đi cùng,
ngài có hiểu không?”.
“Này, có chuyện ǵ với Joe th́ hăy nói với anh ta. Tôi không
phải bảo mẫu của hắn”.
“Ông ấy nói dối tôi? Tôi mới phát hiện rằng ông ấy sẽ đi Brazil
mà không cho tôi đi cùng. Một nửa số ba trăm ngàn đô la đó là
của tôi”.
Tới lúc này th́ Anthony Orsatti đă quan tâm tới câu chuyện. “Cô
nói ba trăm ngàn nào vậy?”.
“Số tiền mà Joe cất giữ trong tài khoản của ông ấy chứ c̣n ǵ
nữa. Khoản tiền mà ông ấy nói thế thế nào nhỉ? À, chớp được”.
Anthony Orsatti trở nên rất quan tâm.
“Xin ngài bảo Joe phải cho tôi cùng đi Brazil với ông ấy. Xin
ngài! Ngài sẽ làm thế chứ?”.
“Được” Anthony Orsatti hứa. “Tôi sẽ lưu ư việc này”!.
Pḥng làm việc của Joe Romano rất hiện đại, toàn màu trắng, do
một trong những nhà trang trí nội thất nổi tiếng nhất New
Orleans tŕnh bày. Những mảnh màu duy nhất là ba bức họa của
trường phái ấn tượng Pháp treo trên tường.
Romano rất tự hào về óc thẩm mỹ của ḿnh. Hắn đă phải lăn lộn
suốt, bắt đầu từ các khu nhà ổ chuột của New Orleans, và trên
con đường đó hắn đă học được nhiều. Hắn biết thưởng thức đôi
chút đối với cả hội họa lẫn âm nhạc. Và hắn cũng rất rành về các
loại rượu trên đời này. Nếu sự thực là Anthony Orsatti sở hữu
vùng New Orleans này th́ sự thực cũng lại là Joe Romano điều
hành nó cho lăo già.
Thư kư của hắn bước vào. “Thưa ông Romano, có người chuyển tới
một chiếc vé đi Rio de Janeiro. Tôi sẽ viết séc chứ ạ? COD mà”.
“Rio de Janeiro?” Romano lắc đầu. “Bảo anh ta biết là có sự nhầm
lẫn ǵ đó”.
Người giao hàng đứng lấp ló ở ngưỡng cửa. “Tôi được Bai mang tới
cho ông Joseph Romano ở địa chỉ này mà”.
“Ô, người ta đă bảo anh sai. Cái ǵ vậy, một tṛ quảng cáo mới
của ngành hàng không chăng?”.
“Không thưa ngài. Tôi ...”.
“Đưa xem nào”. Romano cầm tấm vé từ tay người giao hàng. “Thứ
sáu. Tại sao tôi lại phải đi Rio vào thứ sáu nhỉ!”.
Đó là một câu hỏi hay đấy”. Anthony Orsatti nói. Lăo đă đứng
ngay sau người giao hàng. “Tại sao lại phải đi thế, Joe?”.
“Một nhầm lẫn ngớ ngẩn nào đó, Thony”. Romano đưa trả chiếc vé
cho người giao hàng. “Mang nó về nơi cũ của nó và ...”.
“Đừng nhanh quá thế”. Anthony Orsatti cầm lấy chiếc vé, xem xét.
“Một chiếc vé hạng nhất, ghế đặc biệt, được hút thuốc, đi Rio de
Janeiro vào thứ sáu.
Một chiều?”.
Joe Romano cười lớn. Ai đó đă nhầm lẫn”. Hắn quay sang cô thư
kư.
“Madge, gọi cho đại lư vận chuyển và bảo rằng họ là một lũ ngốc.
Một gă ngớ ngẩn tội nghiệp nào đó sắp mất toi chiếc vé rồi”.
Joleen, thư kư phụ bước vào. “Xin lỗi, thưa ông Romano. Hành lư
đă tới.
Ông có cho phép tôi kư nhận không ạ?”.
Joe Romano lừ mắt nh́n cô ta. “Hành lư nào? Tôi không đặt mua
bất kỳ thứ ǵ cả”.
“Bảo họ mang vào đây”, Anthony Orsatti ra lệnh. “Lạy Chúa”. Joe
Romano nói. “Mọi người đă hóa điên cả rồi hay sao không biết”.
Một người giao hàng bước vào mang theo ba chiếc va li Vuitton.
“Thế này là thế nào? Tôi chưa bao giờ đặt mua những thứ đó cơ
mà”.
Người kia kiểm tra lại phiếu giao hàng. “Phiếu viết là ông
Joseph Romano, phố Poydas, pḥng 408, phải không ạ?”.
Joe Romano mất b́nh tĩnh. “Tao không quan tâm nó viết cái mẹ ǵ.
Tao không đặt mua. Mang đi ngay”.
Orsatti xem xét mấy chiếc va li. “Họ in cả chữ cái đầu tên của
anh lên đây mà, Joe”.
“Cái ǵ? Ồ đợi một phút? Có khi là một thứ quà tặng ǵ đó.
“Hôm nay sinh nhật anh à?”.
“Không. Song ông biết bọn đàn bà đấy, Tony. Họ luôn luôn tặng
quà cho cánh đàn ông”.
“Anh có chuyện ǵ ở Brazil thế”. “Anthony Orsatti căn vặn.
Brazil?” Joe Romano cười lớn. “Đây có thể là sự đùa bỡn của một
kẻ nào đó. Tony”.
Orsatti mỉm cười lịch thiệp, rồi quay sang mấy cô thư kư và hai
người giao hàng, nói nhẹ. “Ra ngoài”.
Khi cánh cửa đă đóng lại sau lưng họ, Anthony Orsatti lên tiếng.
“Joe, anh có bao nhiêu tiền gửi trong tài khoản nhà băng Joe
Romano nh́n lăo ngạc nhiên.
“Tôi không rơ. Một ngh́n năm trăm, tôi đoán chừng vậy, có thể là
một hai ngh́n ǵ đó, sao cơ?
“Không có ǵ, sao anh không gọi tới nhà băng kiểm tra lại xem?”.
“Để làm ǵ? Tôi ...”.
“Kiểm tra xem sao, Joe”.
“Được thôi. Nếu điều đó làm ông vui ḷng”. Hắn bấm chuông gọi
thư kư.
“Cho tôi nói chuyện với kế toán trưởng của ngân hàng First
Merchant”.
Một phút sau chị ta đă chờ ở đầu dây kia.
“Chào người đẹp. Joseph Romano đây. Cho tôi biết cán cân tiền
mặt hiện nay trong tài khoản của tôi nào. Ngày sinh của tôi là
14 tháng Mười”.
Anthony Orsatti cầm ống nghe của chiếc máy phụ.
Một lát sau, người kế toán trưởng đă trở lại trên máy.
“Xin lỗi đă để ông phải chờ, ông Romano. Cho tới sáng nay, trong
tài khoản của ông có ba trăm mười ngàn chín trăm lẻ năm đô la và
ba mươi lăm xu”.
Romano tái mặt. “Bao nhiêu?”.
“Ba trăm mười ngàn chín trăm lẻ năm ...”.
“Đồ ngu như lợn?” Hắn quát lên. “Tao không cần ngần ấy tiền
trong tài khoản của ḿnh. Mày nhầm rồi. Cho tao nói chuyện với
...”.
Hắn thấy cái ống nghe bị nhấc khỏi tay, và Anthony Orsatti đă
gác nó xuống máy. “Tiền đó ở đâu ra thế, Joe?”.
Mặt Joe Romano xanh nhợt. “Thề có Chúa, Tony, tôi không hề biết
tư ǵ về số tiền đó”.
“Không à?”.
“Trời, ông phải tin tôi? Ông có biết chuyện ǵ đang xảy ra? Kẻ
nào đó đang chơi tôi”.
“Phải là một người rất thích anh. Hắn tặng anh một, món quà tống
tiễn tới ba trăm ngàn đô la”.
Orsatti nặng nề ngồi xuống chiếc ghế bành kiểu scalamander bọc
lụa và nh́n Joe Romano hồi lâu, rồi nói rất b́nh thản. “Tất cả
đă được thu xếp, hả? Chiếc vé một chiều đi Rio, hành lư mới ...
Có vẻ như anh đang chuẩn bị cho một cuộc sống mới ấy nhỉ”.
“Không!” Vẻ hết hoảng lộ rơ trong giọng nói của Joe Romano. “Lạy
Chúa, ông biết tôi rơ hơn thế nhiều, Tony.
Tôi đă luôn luôn đúng mực với ông. Với tôi, ông như một người
cha”. Hắn toát mồ hôi. Có tiếng gơ cửa, và Madge ló đầu vào,
ch́a ra một chiếc phong b́.
“Tôi xin lỗi v́ đă đường đột, ông Romano. Có một bức điện gửi
cho ông, nhưng mà ông phải tự kư nhận nó”.
Với bản năng của một con thú bị sa bẫy, Joe Romano đáp, Lúc
khác. Tôi đang bận”.
“Tôi sẽ nhận cho”, Anthony Orsatti nói và lăo đă rời chiếc ghế
trước khi cô thư kư kịp khép cửa. Lăo đọc bức điện kỹ càng, rồi
nh́n Joe Romano chằm chằm.
Bằng giọng trầm đục mà Romano khó có thể nghe được Anthony
Orsatti nói “Tôi sẽ đọc cho anh nghe, Joe”. VUI L̉NG GHI NHẬN
VIỆC NGÀI ĐẶT THUÊ CĂN HỘ CÔNG CHÚA CỦA CHÚNG TÔI TRONG HAI
THÁNG BẮT ĐẦU TỪ THỨ SÁU, NGÀY MỒNG MỘT THÁNG CHÍN. Dưới kư.
MONTALBAND, GIÁM ĐỐC, RIO OTHON PLACE, RIO DE JANEIRO. Đó là căn
buồng anh đặt mà, Joe. Anh sẽ không cần tới nó nữa, có phải
không?”
Chương 13
Andre Gillan đang ở trong bếp bận bịu với món salát kiểu
Ư th́ chợt nghe những tiếng động chối tai đầy quái gở và chỉ một
tích tắc sau tiếng êm dịu của máy điều ḥa không khí lạch xạch
rồi tắt ngấm.
Andre giậm chân kêu lên. “Cứt thật! Lại vào đúng tối nay cơ
chứ”.
Anh ta chạy ra cái buồng xép nơi để bảng điện và đóng mở từng
cầu dao.
Chẳng có ǵ tốt hơn.
Ôi, ông Pope sẽ nổi giận mất. Chắc chắn là thế. Andre biết rơ là
ông chủ của ḿnh ngóng đợi cuộc bài poker tối thứ sáu hàng tuần
nảy như thế nào. Đó là một thói quen từ nhiều năm nay, với cùng
một nhóm người chơi ổn định.
Không có điều ḥa không khí, ngôi nhà trở nên không thể chịu
nổi. Thực sự là không thể chịu nổi. New Orleans vào tháng Chín
này chỉ hợp với đám người nhếch nhác mà thôi. Ngay cả khi mặt
trời đă lặn thời tiết vẫn cứ nóng và ấm.
Andre quay vào bếp và nh́n đồng hồ. Bốn giờ chiều rồi. Khách
khứa sẽ đến vào lúc tám giờ đúng. Andre đă nghĩ tới việc gọi
điện cho ông chủ để báo về sự rắc rối này, nhưng rồi lạl nhớ ông
luật sư đă nói là sẽ bận rộn cả ngày ở ṭa án.
Ông chủ đáng kính thật quá bận - Andre nghĩ, ông ấy cần được
nghỉ ngơi. Và giờ th́ thế này ...
Andre rút ngăn kéo, lấy ra chiếc điện thoại màu đen và quay số.
Sau ba hồi chuông, một giọng đều đều cất lên. “Bạn đang làm việc
với hăng thch vụ điều ḥa không khí Eskimo.
Lúc này chúng tôi không có sẵn các kỹ thuật viên. Nếu bạn để lại
tên, địa chỉ và một lời chỉ dẫn ngắn, chúng tôi sẽ t́m tới bạn
ngay khi có thể. Xin hăy đợi tín hiệu”.
Đến chịu thật? Andre rất bực bội khi phải nghe lời một cái máy.
Một tiếng “Bip” khó chịu réo vào tai. Ạndre nói. “Đây là nhà
riêng của ngài Perry Pope, 42 Phố Charles. Hệ thống điều ḥa
không khí của chúng tôi đă ngừng hoạt động. Đề nghị phái người
tới đây càng sớm càng tốt”.
Anh ta đặt sầm ống nghe xuống. Tất nhiên là không sẵn thợ rồi.
Có thể là điều ḥa không khí của cái thành phố chết tiệt này đều
đang hỏng cả. Có ai đến ngay được th́ tốt quá. Andre lẩm bẩm.
Ông Pope hay cáu kỉnh lắm.
Đă ba năm nay, Andre làm đầu bếp cho ông luật sư, và đă biết chủ
của ḿnh đầy thế lực ra sao. Thật ghê gớm.
Chỉ cần búng ngón tay là khối kẻ phải nhảy dựng Andre Gillan
thấy ngôi nhà dường như bắt đầu bực bội. Nếu không làm được một
cái ǵ đó để cứu văn t́nh thế này th́ mọi chuyện sẽ thật tệ hại.
Ba mươi phút sau đó, khi tiếng chuông cửa reo vang th́ quần áo
Andre đă ướt đẫm mồ hôi, và căn bếp th́ như một cái ḷ. Gillan
vội chạy ra mở cánh cửa hậu.
Hai anh thợ trong bộ đồng phục đứng ngay trước cửa, vai đeo
những ḥm đồ nghề. Một da đen cao lớn và một da trắng, thấp hơn,
với bộ mặt buồn ngủ, đầy mệt mỏi. Ở lối đi ra phía sau có chiếc
xe chuyên dùng của họ.
“Máy điều ḥa trục trặc phải không?”. Người da đen hỏi.
Đúng. ơn Chúa các anh đă đến. Hăy cho nó làm việc trở lại, và
nhanh lên.
Khách khứa tới bây giờ rồi. Người đàn ông da đen bước lại bên ḷ
nướng hít hít và nói. “Thơm đấy”.
“Nào!” Gillian giục. “Làm ǵ đi chứ”.
“Hăy cho bọn này ngó cái nơi đặt máy đă”. Người da trắng nói.
“Nó ở đâu?”.
Andre vội đưa họ tới pḥng kho, nơi đặt hệ thống điều ḥa không
khí.
“Cái máy này tốt lắm, Ralph”. Người da đen nói với bạn đồng
nghiệp.
“Ừ Ai. Họ đâu có làm những cái như thế này nữa”.
“Thế th́ chuyện quỷ quái ǵ mà nó không chạy được?”.
Gillian kêu lên.
Họ quay lại nh́n anh ta.
“Th́ đă có chúng tôi”, Ralph nói vẻ chắc nịch. Anh ta quỳ xuống,
mở một cái nắp nhỏ ở phía dưới chiếc máy, lấy ra cái đèn bấm,
rồi nằm rạp xuống để ngó vào bên trong.
Sau một lát, anh ta lồm cồm đứng lên. “Chỗ hỏng không phải ở
đây”.
“Vậy th́ ở đâu?” Andre hỏi.
“Có thể là có chỗ chập mạch ở mạng ngoài và làm chập cả hệ
thống. Có bao nhiêu máy điều ḥa lẻ trong nhà?”.
“Mỗi pḥng có một chiếc. Để xem nào. Vậy ít nhất là chín”.
“Đó có thể là vấn đề đấy. Quá tải. Hăy cho chúng tôi kiểm tra
xem”.
Cả ba kéo nhau trở ra. Khi họ đi ngang pḥng khách.
Ai nói. “Ông Pope có căn pḥng quả là đẹp”.
Căn pḥng khách được bày biện tinh tế, đầy những đồ cổ, đáng giá
cả một gia tài lớn. Những tấm thảm Ba Tư màu sắc rực rỡ được
trải kín sàn. Bên trái pḥng khách là pḥng ăn lớn, và phía bên
phải là một pḥng kín đáo, trong kê một cái bàn để chơi bài, phủ
nỉ xanh ở góc trong là cái bàn tṛn sẵn sàng cho bữa ăn tối. Hai
anh thợ bước vào căn pḥng này, rọi đèn bấm vào chiếc máy điều
ḥa không khí gắn cao trên tường.
Hừ?” Anh ta lẩm bẩm và nh́n lên khoảng trần phía trên cái bàn
chơi bài.
“Bên trên pḥng này là cái ǵ?”.
“Căn buồng áp mái đấy mà”.
“Cho chúng tôi xem nào”.
Hai anh thợ theo Andre lên căn buồng áp mái, một cái buồng dài,
trần thấp, bụi bặm và đầy mạng nhện.
Al bước tới một cái bảng điện gắn trên tường. Anh ta kiểm tra
cái búi dây điện. “Ha?”.
“Anh thấy rồi à?” Anđre sốt sắng hỏi.
“Cái b́nh ngưng hỏng rồi. Do độ ẩm cao. Chúng tôi gặp hàng trăm
trường hợp như thế này trong tuần. Nó bị chập Ta sẽ phải thay
b́nh mới”.
“Ôi lạy Chúa! Có lâu không?”.
“Không. Chúng tôi có b́nh mới ở ngoài xe”.
“Xin nhanh lên cho”. Anđre cẩn thận. “Ông Pope sắp về đến nơi
rồi”.
“Anh cứ để đấy cho bọn này”, Al đáp.
Andre thú thật. “Tôi phải làm cho xong món trộn xa-lát.
Các anh có thể tự t́m lối trở lại căn buồng măi không? Al giơ
một tay lên.
“Có ǵ đâu. Anh cứ làm việc của anh đi, bọn tôi sẽ làm việc của
ḿnh”.
“Ồ, cám ơn. Xin cám ơn anh”.
Andre trông theo hai anh thợ đi ra ngoài xe và trở lại với hai
túi đựng dụng cụ kềnh càng. “Nếu cần ǵ”, anh ta bảo hai người
“th́ cứ gọi tôi nhé”.
Hai anh thợ đi lên trên gác, c̣n Andre th́ trở vào bếp.
Khi Ralph và Al tới căn buồng áp mái, họ mở túi đồ nghề và lấy
ra một ghế gấp nhỏ, một cái khoan với một mũi khoan thép, một
khay bánh kẹp, hai lon bia và một cặp ống nḥm cỡ 12 - 40 dùng
quan sát các mục tiêu ở xa trong ánh sáng yếu, và hai con chuột
bạch đă được tiêm ba phần tư ống axêtin promadun.
Hai người bắt tay vào việc.
“Mụ Ernestine yêu quư sẽ phải tự hào về tôi”. Al cười gịn tan.
Lúc đầu, Al đă khăng khăng phản đối.
“Chắc chắn là em loạn óc rồi. Anh sẽ không dính dáng ǵ với
Perry Pope đâu. Thằng cha đàng điếm sẽ quật anh đến nát mông ra
mất”.
Nhưng rồi anh không bao giờ c̣n phải e ngại về hắn nữa. Bời hắn
sẽ chẳng c̣n có thể làm phiền ai”.
Họ đang nằm trần truồng trên cái giường đệm nước trong căn pḥng
của Ernestine.
“Thối được, vậy em được ǵ trong vụ này, em yêu?” Al căn vặn.
“Hắn là đồ đểu cáng”.
“Này, cô bé, thế giới này đầy rẫy những đồ đểu cáng, em đâu có
dành cả đời vào việc bóp chết chúng nó được”.
“Cứng phải. Song em làm điều này v́ một người bạn”.
“Tracy phải không?”.
“Đúng vậy”.
Al rất mến Tracy. Họ đă cùng ăn chiều với nhau ngày nàng mới ra
tù.
“Cô ấy là một tiểu thư có học”. Al thừa nhận. “Nhưng tại sao ta
lại phải ch́a cổ ra v́ cô ấy?
“Bởi v́ nếu không, cô ấy sẽ phải kiếm một người khác - người mà
chẳng thế nào tốt bằng nửa anh thôi, và nếu bị tóm, chúng sẽ ném
cô ấy trở lại nhà tù mất”.
Al ngồi dậy trên giường và nh́n Ernestine đầy ṭ ṃ.
“Điều này có nhiều ư nghĩa với em hả, cô bé?”.
“Vâng, anh yêu”.
Không bao giờ cô có thể làm cho anh ta hiểu điều ấy, song sự
thật th́ đơn giản là Emestine không chịu nổi ư nghĩ việc Tracy
bị ném trở lại nhà tù với Bertha Lớn.
Không hẳn là Ernestine chỉ quan tâm tới Tracy, mà c̣n chính là
bản thân ḿnh nữa. Cô đă tự đặt ḿnh làm người bảo hộ cho Tracy
và nếu Bertha Lớn có thể động hay vào Tracy th́ điều đó có nghĩa
là Ernestine thất bại.
Vậy mà giờ đây cô chỉ nói. “Vâng, nó có nhiều ư nghĩa đối với em
lắm, anh yêu quư. Anh sẽ làm chứ?”.
Al càu nhàu. “Quỷ quái, nhưng chắc chắn một ḿnh anh không thể
làm nổi”.
Và Ernestine biết là chị đă đặt ư định. Chị hôn dọc tấm thân dài
và khơẻ mạnh của anh, th́ thào. “Thế chẳng phải là Ralph yêu quư
của chúng ta đă được thả ra cách đây ít hôm rồi à? ...”.
Tới 18 giờ 30, hai anh thợ mới trở xuống bếp, khắp người đẫm mồ
hôi và bụi.
“Lắp xong chưa?” Andre sốt ruột hỏi.
“Thật khốn nạn” Al đáp lại “Anh biết đấy, cái của anh là b́nh
kiểu AOIDC”.
“Đừng dài ḍng”, Andre sốt ruột cắt ngang. “Anh đă lắp vào
chưa?”.
“Rồi. Xong cả rồi. trong năm phút nữa chúng tôi sẽ làm cho nó
hoạt động trở lại, tốt như môi tinh”.
“Tuyệt diệu! Nếu các anh để lại hóa đơn ...”.
Ralph lắc đầu “Đừng bận tâm chuyện đó, Công ty sẽ thanh toán
sau”.
“Chúc các anh may mắn. Tạm biệt”.
Andre trông theo hai người thợ đi ra qua cửa sau, mang theo các
túi đồ nghề lỉnh kỉnh. Khi đă khuất tầm mắt anh ta, họ đi ṿng
ra sân trước và mở cái tủ đựng b́nh ngưng phía ngoài của hệ
thống điều ḥa không khí cả ngôi nhà.
Ralph soi đèn bấm cho AI nói ô lại những nơi đây mà chính anh ta
đă gỡ ra một vài giờ trước đó. Ngay lập tức, hệ thống hoạt động
trở lại.
AI ghi lại số điện thoại trên tấm phiếu dịch vụ gắn trên b́nh
thường. Một lát sau khi gọi đến số máy ấy và nghe giọng nói ghi
âm của Hăng dịch vụ điều ḥa không khí Eskimo, AI nói. “Đây là
nhà riêng của ông Perry Pope, 42 phố Charles. Hệ thống điều ḥa
không khí của chúng tôi hiện đă hoạt động tốt. Xin đừng phái
người tới nữa. Chúc một ngày đẹp đẽ”.
Cuộc chơi bài Poker tối thứ sáu hàng tuần ở nhà Perry Pope luôn
được những người tham gia hào hứng trông đợi. Đó là một nhóm cố
định và được lựa chọn cẩn thận, gồm có:
Anthony Orsatti, Joe Romano, thẩm phán Henry Lawrence, một ủy
viên hội đồng thành phố, một thượng nghị sĩ, và dĩ nhiên là chủ
nhà nữa. Tiền đặt bài cao, đồ ăn hảo hạng, và người chơi th́ đầy
quyền lực hắc ám.
Ở trong pḥng ngủ, Perry Pope đang mặc chiếc quần trắng tinh và
chiếc áo sơ mi kiểu thể thao. Hắn lẩm nhẩm khoái chí, mơ tưởng
tới cuộc bài buổi tối.
Dạo này hắn đang gặp vận đỏ. Thực tế th́ cả cuộc đời ḿnh đúng
là một chuổi dài may mắn, hắn nghĩ.
Bất kỳ ai ở New Orieans muốn được một sự thuận lợi pháp lư nào
đó, th́ Perry Pope chính là vị luật sư cần t́m tới Quyền lực của
hắn có được từ các mối liên hệ với gia đ́nh Orsatti. Người ta
gọi hắn là người dàn xếp, và thực tế hắn có thể thu xếp mọi
chuyện từ một cái vé tâu xe tới một lời tố cáo dính tới ma túy,
hay một lời buộc tội giết người. Cuộc sống, với hắn, thật dễ
chịu.
Khi Anthony Orsatti đến, lăo mang theo một người khách. “Joe
Romano sẽ không chơi nữa”, Orsatti loan báo.
“Các anh chắc đều chưa biết thanh tra Newhouse”.
Mấy người đàn ông bắt tay làm quen với nhau.
“Thưa các vị, đồ uống ở bàn bên”, Perry Pope nồi, “chúng ta sẽ
ăn tối Bau.
Tại sao không bắt đầu đi nhỉ?”.
Họ ngồi xuống những cái ghế quen thuộc của ḿnh quanh chiếc bàn
phủ nỉ xanh trong căn pḥng nhỏ riêng biệt kề pḥng khách.
Orsatti chỉ vào cái ghế trống vốn là chỗ của Joe Romano và nói
với thanh tra Newhouse, “Từ giờ trở đi đó sẽ là chỗ của anh,
Mel”.
Trong khi những người kia mở mấy bộ bài mới, Pope bắt đầu chia
các phần.
Hắn giải thích với thanh tra Newhouse. “Những phần đen là năm đô
la, phần đỏ là mười đô la, xanh năm mươi đô la, trắng một trăm.
Trước tiên mỗi người mua lấy một số phần trị giá năm trăm đô la,
chúng ta chơi theo lối đặt cửa, ha người xướng bài, nhà cái
chọn.
“Hợp với tôi đấy”. Gă thanh tra đáp.
Anthony, Orsatti đang ở trong một tâm trạng khó chịu. “Nào, bắt
đầu đi”, giọng lăo như tiếng th́ thầm nghẹn lời. Một dấu hiệu
chẳng hay ho ǵ. Perry Pope sẵn ḷng bỏ ra một đống tiền để biết
được chuyện ǵ xảy ra với Romano, song gă biết rơ là không nên
nêu ra. Khi nào có thể th́ lăo sẽ bản luận với gă.
Những ư nghĩ của Orsatti thật đen tối:
Ḿnh đă như bố nó, thằng Joe Romano. Ḿnh tin cậy nó, cho nó làm
phó. Và thằng chó đẻ ấy đă đâm vào lưng ḿnh. Nếu con đàn bà
người Pháp kia không cuống cuồng gọi tới th́ nó chuồn mất rồi.
Hừ, nó sẽ chẳng bao giờ mang được cái ǵ mà chuồn nữa. Khi mà nó
đang ở đó. Nếu nó thông minh đến thế th́ cứ ở đó mà chơi với đám
cá.
“Tony, ông thế nào?”.
Anthony Orsatti chú ư trở lại vào ván bài. Trên cái bàn này,
những món tiền lớn đă mất và được. Anthony Orsatti luôn bực bội
khi thua, và không phải v́ chuyện tiền bạc. Lăo không thể chịu
nổi tư thế thua trong bất kỳ chuyện ǵ. Lăo nghĩ về ḿnh như một
kẻ sinh ra là để chiến thắng. Trong cuộc sống, chỉ những kẻ
chiến thắng mới có được vị trí như lăo. Đă sáu tuần lễ qua,
Perry Pope gặp vận đỏ một cách khủng khiếp và tối nay Anthony
Orsatti quyết không để thế nữa.
Thế nhưng tối nay, dù chơi thế nào chăng nữa Anthony Orsatti vẫn
thấy là lăo đang thua. Lăơ bắt đầu tăng tiền đặt, chơi một cách
táo bạo ḥng gỡ lại. Tới nửa đêm, khi họ ngừng lại để ăn bữa tối
mà Andre dọn lên, th́ Orsatti đă thua tới mấy ngh́n đô la và
Perry Pope là kẻ thắng lớn.
Các món ăn thật quyến rũ. Thường thường th́ Orsatti rất khoái
bữa ăn này, song đêm nay lăo chị ngong ngóng trở lại canh bạc.
Ông không dùng à, Tony”.
Perly Pope hỏi.
“Ta không đói”. Orsatti với chiếc b́nh cà phê bằng bạc ở bên
cạnh, rót vào cái ly sứ Herend và ngơi xuống bàn poker. Lăo nh́n
mấy kẻ đang ăn và chỉ muốn họ ăn mau lên. Lăo sốt ruột gỡ lại
tiền. Khi bắt đầu uống cà phê, th́ một vật nhỏ xíu rơi vào trong
ly của lăo. Nhăn mặt, lăo dùng th́a vớt cái vật đó lên xem, th́
ra lạ một mẩu vữa trát tường. Lăo ngước nh́n lên trần, và một
cái ǵ đó rơi đúng trán lăo. Lăo đột nhiên nghe thấy cả những
tiếng động phía trên đầu.
“Quỷ quái ǵ trên gác thế” Orsattl hỏi.
Perry Pope đang kể giữa chừng giai thoại ǵ đó cho thanh tra
Newhouse.
“Xin lỗi, ông nói ǵ cơ ạ, Tony?”.
Lúc này những tiếng động càng trở nên rơ hơn. Những mẩu vữa liên
tiếp rơi xuống mặt bàn.
“Tôi cảm tưởng như là có chuột ở trên đó”. Viên thượng nghị sĩ
nói.
“Trong nhà này th́ không thể có chuột”, Perry Pope bực ḿnh.
“Hừ, chắc chắn là anh phải có một thứ quái quỉ ǵ trên đó”,
Orsatti cáu kỉnh.
Một mẩu vữa lớn lại rơi xuống mặt bàn.
“Tôi sẽ sai Andre coi việc này”. Pope nói. “Nếu ta đă ăn xong,
sao không trở lại bàn chơi đi nhỉ”.
Anthony Orsatti chăm chú nh́n một lỗ nhỏ trên trần nhà ngay phía
trên đầu lăo. “Khoan đă. Ta hăy lên đó ngó xem chuyện ǵ”.
“Để làm ǵ, Tony? Andre có thể ...”.
Orsatti đă nhỏm dậy và đi về hướng cầu thang.
Những người kia nh́n nhau rồi vội vă đi theo lăo.
“Có thể là một con sóc đă lọt vào căn buồng áp má!”, Perry Pope
đoán. “Vào thời gian này trong năm, đám sóc có ở mọi nơi. Có thể
là chúng muốn giữ ǵn cái của nợ kia cho mùa đông tới”. Hắn cười
lớn với câu đùa của ḿnh.
Khi bọn họ tới căn buồng áp mái, Orsatti đẩy cánh cửa ra và
Perry Pope bật đèn lên. Họ thoáng thấy ngay hai con chuột bạch
đang điên cuồng chạy quanh căn buồng”.
“Chúa ơi,” Perry Pope kêu lên. “Có chuột thật”.
Anthony Orsatti không để ư Pope nói ǵ, lăo đang chăm chú quan
sát. Ỡ ngay giữa buồng là một cái ghế kiểu dùng khi đi cắm trại,
trên có một gói bánh kẹp và hai lon bia đă mở. Cạnh cái ghế,
ngay trên sàn, là một ống nḥm. Orsatti bước lại, lật từng thứ
lên xem xét. Rồi lăo quỳ xuống trên mặt sàn bụi bặm. Và gạt cái
ống nhỏ chặn trên cái lỗ được khoan xuyên xuống qua trần nhà,
Orsatti ghé mắt nh́n qua lỗ đó. Ngay bên dưới lăo là cái bàn
chơi - nh́n thấy khá rơ ràng.
Perry Pope đang đứng như trời trồng giữa buồng. “Ma quỷ nào mang
những thứ linh tinh để đây không biết? Tôi sẽ cho thằng Andre
một trận về vụ này”.
Orsatti chậm răi đứng lên và phủi bụi trên quần.
Perly Pope đưa mắt nh́n xuống sàn. “Trông ḱa!” Hắn kêu lên.
“Chúng để lại cái lỗ ma quỷ kia trên trần. Đám công nhân ngày
nay chẳng đáng một cục cứt”.
Hắn cúi xuống và nh́n qua cái lỗ, mặt đột nhiên tái đi Hắn đứng
dậy hoảng hốt nh́n quanh, và thấy cả mấy người kia đang đứng
nh́n hắn chằm chằm.
“Trời!” Perly Pope nói. “Các vị không nghĩ là tôi ...?
Nào các vị, tôi đây. Ôi, không biết tư ǵ về chuyện này cả.
Tôi không lừa các vị đâu. Lạy Chúa chúng ta là chỗ bạn bè”. Tay
hắn vụt đưa lên miệng, và hắn bắt đầu giận dữ gặm gặm vào đó.
Orsatti vỗ vỗ lên cánh tay hắn. “Đừng bận tâm về việc đó”. Giọng
lăo gần như không nghe được nữa. Perry Pope vẫn tuyệt vọng cắn
chặt ngón tay cái của ḿnh.
Chương 14
“Thế là xong hai kẻ, Tracy”. Ernestine Littlechap cười
gịn tan. “Ngoài phố người ta x́ xào rằng ông bạn luật sư Perry
Pope của cô không c̣n hành nghề luật nữa rồi. Ông ta đă gặp một
tai nạn vô cùng đáng tiếc”.
Họ đang nhấm nháp bánh với cà phê sữa trong một tiệm cà phê nhỏ
trên phố Royal.
Ernestine cười khúc khích nói. “Cô thật có cái đầu, cô bé ạ. Thế
cô không làm ăn cùng với tôi à?”.
“Cảm ơn, chị Erllestine. Tôi c̣n có những kế hoạch khác”.
Ernestine sốt sắng hỏi. “Tiếp theo là kẻ nào vậy?”.
“Lawrence. Thẩm phán Henry Lawrence”.
Henry Lawrence bắt đầu sự nghiệp của ông ta từ chỗ là một viên
luật sư tỉnh lẻ ở Leesvilla, Louisiana. Ông ta có rất ít năng
khiếu về luật. Thế nhưng lại có hai thứ quan trọng:
Diện mạo gây ấn tượng, và rất uyển chuyển về mặt đạo lư.
Tnết lư của ông ta là coi luật pháp như một cái cần câu mảnh mai
để cớ thể uốn cong sao cho phù hợp với yêu cầu của khách hàng.
Tâm niệm điều đó, trong đầu, th́ việc ông ta hành nghề phát đạt
với một nhóm khách hàng đặc biệt chỉ sau khi chuyển đến New
Orleans ít lâu, chẳng có ǵ đáng ngạc nhiên. Ông ta từ chỗ nhận
những vụ vi phạm nhỏ nhặt, tai nạn giao thông đến chỗ nhận giải
quyết những vụ vi phạm lớn và những trọng án, trọng tội và cho
tới lúc ông ta đă là một chuyên gia trong việc mua chuộc bồi
thẩm đoàn, làm mất uy tín các nhân chứng, và hối lộ ai là người
có thể giúp ḿnh trong kiện tụng. Nói tóm lại ông ta là một kiểu
người ưa thích của Anthony Órsatti, và hai kẻ này gặp nhau là
điều không tránh khỏi. Đó là một cuộc hôn nhân trên thiên đường
của Mafia.
Lawrence trở thành người phát ngôn của gia đ́nh Orsatti, và khi
thời cơ đến, Orsatti đă đưa ông ta vào cái ghế thẩm phán ṭa án.
“Tôi không biết là cô sẽ làm cách nào để trừ khử lăo thẩm phán
này”.
Ernestine nói. “Lăo ta giàu có, nhiều thế lực và không thể nào
đụng tới được”.
Lăo ta giàu có và nhiều thế lực”, Tracy đáp. “Thế nhưng không
phải là không thể nào đụng tới được”.
Tracy tính toán kế hoạch của ḿnh, song khí gọi điện tới pḥng
làm việc của thẩm phán Lawrence th́ thấy ngay là phải thay đổi
nó.
“Xin cho tôi nói chuyện với thẩm phán Lawrence”.
Một cô thư kư trả lời. “Rất tiếc, thẩm phán Lawrence không có ở
đây”.
“Liệu khi nào ông ấy trở về?”.
“Thực sự là tôi không thể nói trước”.
“Có việc rất quan trọng. Sớm mai ông ấy có ở đấy không “Không.
Thẩm phán Lawrence hiện không có trong thành phố”.
“Ôi, Liệu tôi có thể t́m được ông ấy ở đâu?”.
“Tôi sợ rằng điều đó là không thể được. Ngài đang ở nước ngoài”.
Tracy phải cố giấu vẻ thất vọng trong giọng nói. “À! ra vậy. Cho
phép tôi hỏi ở đâu được không?”.
“Ngài đang ở châu Âu, tham dự một hội nghị luật gia quốc tế”.
“Thật đáng tiếc”. Tracy nói.
“Xin cho biết ai gọi vậy?”.
Đầu óc Tracy tính toán rất nhanh. “Tôi là Elizabeth Rowane
Dastin, chủ tịch phân hội miền Nam của Hội luật gia Mỹ. Chúng
tôi sẽ tổ chức buổi lễ trao giải thưởng hàng năm tại New Orleans
vào ngày hai mươi tháng này, và đă chọn thẩm phán Henry Lawrence
là nhân vật nổi tiếng nhất trong năm của chúng tôi”.
“Thật là tuyệt”. Cô thư kư nói. “Song tôi sợ rằng lúc đó ngài
vẫn chưa trở về được”.
“Thật đáng buồn. Chúng tôi đều trông chờ được nghe một bài diễn
văn của ông ấy. Ủy ban lựa chọn của chúng tôi đă nhất trí chọn
thẩm phán Henry Lawrence đấy”.
“Ngài sẽ thật thất vọng nếu lỡ dịp này”.
“Vâng. Tôi chắc cô cũng biết đây là một vinh dự lớn.
Một số thẩm phán lừng danh nhất của chúng ta đă được trao giải
thưởng trong quá khứ. Đợi một chút. Tôi có ư kiến thế này. Cô éo
nghĩ rằng ông thẩm phán sẽ có thể gh́ băng một bài đáp từ cho
chúng tôi không - một vài lời cảm ơn chẳng hạn”.
“Ồ tội tôi thật không thể nói. Ngài có một chương tŕnh rất
bận”.
“Sẽ có rất nhiều tin tức trên báo chí và truyền h́nh quốc gia
đấy”.
Có một chút im lặng. Thư kư của thẩm phán Lawrence biết rơ là
ông ta thích được xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Sự thực th́ theo chỗ cô biết, chuyến đi hiện nay của ông
ta dường như chủ yếu nhằm vào mục đích đó.
Cô ta nói, “Có thể ngài sẽ dành ra được thời gian để ghi lại ít
lời cho chị. Tôi có thể hỏi ngài về việc này”.
“Ổi, thế th́ thật tuyệt vời”. Tracy khuyến khích. “Tất cả buổi
tối của chúng tôi là ở việc đó”.
“Chị có muốn ngài phát biểu ư kiến về một điều ǵ cụ thể
không?”.
“Ồ, dứt khoát là thế rồi. Chúng tôi mong ông ấy nói về” Giọng
nàng tỏ ra lưỡng lự. “Tôi sợ rằng sẽ hơi phức tạp một chút. Nếu
tôi có thể trực tiếp giải thích với ông ấy th́ tốt quá”.
Một chút im lặng nữa. Cô thư kư gặp một t́nh thế tiến thoái
lưỡng nan. Cô đă được lệnh không được để lộ hành tŕnh của sếp.
Mặt khác, rất có thể ông thẩm phán sẽ mắng cô nếu v́ cô mà ông
ta lỡ mất dịp nhận một giải thưởng quan trọng như thế này.
Cô ta nói. “Thực ra tôi không được phép đưa ra bất kỳ một thông
tin nào song tôi tin rằng ngài sẽ bằng ḷng cho phép có một
ngoại lệ v́ một vấn đề mang tính uy tín như thế này. Chị có thể
liên lạc được với ngài ở Matxcơva, tại khách sạn Rossia. Ngài sẽ
ở đó trong suốt năm ngày tới và sau đó th́ ...”.
“Tuyệt diệu. Tôi sẽ liên lạc với ông ấy ngay. Cảm ơn cô nhiều.
“Cảm ơn chị, chị Dastin”.
Các bức điện đă được gửi tới cho thẩm phán Henry Lawrence ở
khách sạn Rossia, Matxcơva. Bức điện thứ nhất viết:
CUỘC HỌP HỘI ĐỒNG THẨM VẤN LẦN TỚI GIỜ ĐÂY ĐĂ ĐƯỢC DÀN XẾP. XÁC
ĐỊNH NGÀY THUẬN TIỆN THỂ THEO YÊU CẦU XẾP CHỖ. BORIS.
Bức điện thứ hai tới ngày hôm sau, viết:
THÔNG BÁO VỀ TRỤC TRẶC CỦA SƠ ĐỒ HÀNH TR̀NH CHUYẾN BAY CỦA EM
GÁI BẠN VỀ MUỘN, SONG HẠ CÁNH AN TOÀN. MẤT HỘ CHIẾU VÀ TIỀN. CÔ
ẤY SẼ ĐƯỢC ĐƯA VÀO KHÁCH SẠN THỤY SĨ HẠNG NHẤT, SẼ THU XẾP TÀI
KHOẢN SAU. BORIS.
Bức điện sau cùng viết:
EM GÁI BẠN SẼ CỐ GẮNG LIÊN HỆ VỚI SỨ QUÁN MỸ ĐỂ LẤY HỘ CHIẾU TẠM
THỜI. CHƯA CÓ THÔNG TIN G̀ VỀ THỊ THỰC MỚI.
NGƯỜI THỤY SĨ LÀM CHO NGƯỜI NGA CÓ VẺ THÁNH THẦN LẮM.
SẼ ĐƯA EM GÁI BẠN BẰNG TÀU BIỂN TRỞ VỀ VỚI BẠN NHANH NHẤT.
BORIS.
Cơ quan an ninh của Liên Xô đă đợi xem c̣n bức điện nào nữa
không, và khi thấy đă hết họ bèn bắt giữ thẩm phán Lawrence.
Cuộc thẩm vấn kéo dài mười ngày đêm.
“Ông gửi thông tin cho ai?”.
“Thông tin nào? Tôi không hiểu các ông nói ǵ?”.
“Chúng ta đang nói về các đồ án. Ai giao cho ông các đồ án đó?”.
“Đồ án nào?”.
“Đồ án về các tàu ngầm nguyên tử Xô-viết”.
“Các ông điên rồi. Tôi biết ǵ về các tàu ngầm Xô viết “Đó là
cái mà chúng tôi sẽ t́m ra. Ông có những cuộc họp mặt bí mật với
ai?”.
“Cuộc họp bí mật nào? Tôi không có ǵ bí mật cả”.
“Được Vậy nói xem ai là Boris?”.
“Boris, ai cơ?”.
“Người chuyển tiền vào tài khoản ở Thụy Sĩ của ông ấy mà”.
“Tài khoản Thụy Sĩ nào?”.
Họ bực bội. Họ nói vào mặt ông ta rằng. “Ông là một thằng ngốc
bướng bỉnh. Chúng tôi sẽ công bố rơ về ông, và tất cả những
người Mỹ làm gián điệp khác mưu toan phá hoại Tổ quốc chúng
tôi”.
Cho tới khi đại sứ Mỹ được phép tới thăm th́ thẩm phán Henry
Lawrence đă sút tới tám cân, không c̣n nhớ nổi lần cuối cùng
được ngủ là khi nào, và ông ta chỉ c̣n là một cơ thể tàn tạ, run
rẩy.
“Tại sao họ lại xử sự thế này với tôi hả?” Ông ta rên rỉ.
“Tôi là một công dân Mỹ. Tôi là một thẩm phán. V́ Chúa, hăy đưa
tôi ra khỏi đây”.
“Tôi đang làm mọi thứ có thể”. Viên đại sứ bảo đảm.
Ông bị sốc với dáng vẻ của Lawrence. Chính ông đă đón thẩm phán
Lawrence và các thành viên cùng đi khi họ tới đây, hai tuần lễ
trước. Người đàn ông mà đại sứ gặp khi đó không hề giống cái con
người quy luy, rúm ró đang phủ phục trước mặt ông này.
Lần này người Nga họ mưu tính cái quỷ quái ǵ thế không biết”
Ông đại sứ băn khoăn. Ông thẩm phán cũng như ḿnh, không phải là
một điệp viên. Rời ông gượng gạo nghĩ, cho rằng ḿnh đă có thể
có một chứng cứ rơ ràng hơn.
Ổng đại sứ đ̣i gặp người đứng đầu Bộ Chính trị Liên Xô và khi
yêu cầu này bị khước từ, ông đành nhận lời gặp một trong số các
bộ trưởng.
“Tôi buộc phải đưa ra lời phản kháng chính thức”, ông đại sứ
giận dữ tuyên bố. “Sự đối xử của đất nước ông với thẩm phán
Henry Lawrence là không thể chấp nhận được.
“Gọi một người như ông ta là gián điệp th́ thật là lố bịch”.
“Nếu như ông đă nói xong rồi”, vị bộ trưởng lạnh lùng đáp “Xin
mời ông xem những thứ này”.
Ông ta đưa những bản sao các bức điện cho ông đại sứ.
Ông đại sứ đọc rồi nh́n lên, lúng túng. “Có ǵ sai trái đâu?
Chúng hoàn toàn vô tội”.
“Thực vậy sao? Có thể ông nên đọc lại một lần nữa. Đă giải mă”.
Ông ta trao cho ông đại sứ một bản sao khác của những bức điện.
Các từ khóa đều được gạch dưới.
CUỘC HỌP CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN LẦN TỚI ĐĂ ĐƯỢC DÀN XẾP. XÁC
ĐỊNH NGÀY THUẬN TIỆN THỂ THEO YÊU CẦU XÊP CHỖ BORIS.
THÔNG BÁO VỀ TRỤC TRẶC CỦA SƠ ĐỒ HÀNH TR̀NH, CHUYẾN BAY CỦA EM
GÁI BẠN VỀ MUỘN, SONG HẠ CÁNH AN TOÀN MẤT HỘ CHIẾU VÀ TIỀN. CÔ
ẤY SẼ ĐƯỢC ĐƯA VÀO KHÁCH SẠN THỤY SĨ HẠNG NHẤT. SẼ THU XẾP TÀI
KHOẢN SAU. BORIS.
EM GÁI BẠN SẼ CỐ GẮNG LIÊN HỆ VỚI SỨ QUÁN MỸ ĐỂ LẤY HỘ CHIẾU TẠM
THỜI. CHƯA CÓ THÔNG TIN G̀ VỀ THI THỰC MỚI.
NGƯỜI THỤY SĨ LÀM CHO NGƯỜI NGA CÓ VẺ THẦN THÁNH LẮM.
SẼ ĐƯA EM GÁI BẠN BẰNG TÀU BIỂN TRỞ VỀ VỚI BẠN NHANH NHẤT.
BORIS.
Ḿnh thật xấu hổ, ông đại sứ nghĩ thầm.
Báo chí và công chúng bị ngăn không được tham dự phiên ṭa. Bị
cáo vẫn tiếp tục bướng bỉnh, tiếp tục phủ nhận việc ông ta đang
hoạt động gián điệp ở Liên Xô. Pbía ṭa đă hứa khoan hồng nếu
ông ta tiết lộ các cấp chỉ huy của ḿnh và thẩm phán Lawrence
sẵn sàng đổi tất cả để có thể làm được điều đó, song đáng tiếc,
ông ta không thể.
Ngày hôm sau báo Pravđa đăng một mẩu tin ngắn về phiên ṭa,
thông báo rằng thẩm phán Henry Lawrence, một điệp viên Mỹ tai
tiếng, đă bị buộc tội làm gián điệp và bị kết án 14 năm lao động
khổ sai ở Sibêri.
Cộng đồng t́nh báo Mỹ rối trí lên v́ vụ Lawrence.
Những lời x́ xầm lan đi trong nội bộ CIA, FBI, cơ quan mật vụ và
Bộ Tài chính.
CIA nói. “Ông ta không phải là người của chúng tôi. Có thể là
người của Bộ Tài chính”.
Bộ Tài chính công bố không hề biết ǵ về vụ này.
“Không, thưa các ngài, Lawrence không phải là người của chúng
tôi. Có thể bọn FBI khốn kiếp lại xía vào lănh vực này một lần
nữa”.
“Chưa bao giờ nghe nói về ông ta”. FBI tuyên bố. “Có thể là Bộ
Ngoại giao, hoặc DIA sử dụng ông ta”.
Cục t́nh báo Quốc pḥng DIA cũng ṃ mẫm như mấy cơ quan kia,
thận trọng ra thông cáo “Miễn b́nh luận”.
Mỗi cơ quan trong cộng đồng t́nh báo Mỹ đều tin rằng một trong
số các cơ quan kia đă phái thẩm phán Henry Lawrencera nước
ngoài.
“Quả thật tôi khâm phục ḷng dũng cảm của ông ta”, ông giám đốc
CIA nói.
“Ông ta thật cứng cựa, không hề thú nhận và không hề chỉ ra một
cái tên nào khác. Nói thực là tôi mong muốn có nhiều người như
thế nữa”.
Mọi chuyện đang diễn biến rất xấu đối với Orsatti, và lăo trùm
đă không thể hiểu nổi v́ sao. Lần đầu tiên trong đời vận may rời
bỏ lăo. Đầu tiên là sự đào tẩu của Joe Romano, rồi đến Perry
Pope và giờ đây lại mất nốt tay thẩm phán. Họ chính là nhóm ṇng
cất trong bố máy của Orsatti, những người mà lăo phải dựa vào.
Joe Romano là một trụ cột trong tổ chức của lăo, và lăo đă không
t́m được ai để thay thế hắn. Việc điều hành công việc trở nên
luộm thuộm và xuất hiện những lời phàn nàn từ những kẻ trước đây
chưa bao giờ dám phàn nàn. Đă có dư luận rằng Tony Orsatti đang
trở nên già cả, lú lẫn, rằng lăo không c̣n có thể duy tŕ trật
tự trong đám tay chân, rằng tổ chức của lăo đang tan ră.
Cọng rơm cuối cùng là một cú điện thoại gọi đến từ New Jersey.
“Chúng tôi nghe nói ông bạn đang có chút rắc rối ở đó, Tony.
Chúng tôi muốn giúp đỡ ông”.
“Tôi không gặp rắc rối ǵ hết”, Orsatti nổi giận. “Quả là có một
vài vấn đề gần đây, song chúng đă được giải quyết”.
“Đó không phải là điều chúng tôi được nghe, Tony. Có tin rằng,
khu vực của ông đang trở nên lung tung, không có ai kiểm soát
cả”.
“Tôi kiểm soát”.
“Có thể là quá nặng đối với ông. Có thể là ông đă làm việc quá
mệt mỏi. Có lẽ ông nên nghỉ ngơi một chút”.
“Đây là khu vực của tôi. Không ai có thể giật nó khỏi tay tôi
cả”.
“Này Tony, ai nói tới chuyện giật nó khỏi tay ông nhỉ?
Chúng tôi chỉ muốn giúp đỡ. Các gia đ́nh ở miền Đông này đă nhóm
họp và quyết định gửi dăm người của chúng tôi xuống đó để ch́a
ra cho ông một bàn tay bé nhỏ. Như vậy chẳng có ǵ là sai quấy
giữa những bạn bè cũ, phải không nào?”.
Ernestine đă chuẩn bị món tôm cho bữa ăn chiều và nó đang âm lên
trên bếp trong khi cô ta và Tracy đang chờ Al trở về. Cái nóng
ngột ngạt của tháng Chín đă làm cho thần kinh của mọi người trở
nên bức bối, bởi vậy khi mà Al bước vào căn pḥng hẹp th́
Ernestine gào lên. “Quỷ tha ma bắt, anh đi đâu đấy?
Đồ ăn trên bếp đang cháy rồi kia ḱa, cả tôi cũng vậy nữa”.
Thế nhưng Al không để ư v́ tâm trạng đang quá phấn chấn. “Tôi
quả có bận một chút và hăy đợi nghe tôi nói đây này”. Anh ta
quay sang Tracy. “Bọn Maphia miền Đông đă động đến Anthony
Orsatti rồi”. Khuôn mặt anh ta rạng lên. “Cô đă quật ngă cái đồ
chó đẻ đó”. Anh ta nh́n vào mắt Tracy và nụ cười bỗng tắt ngấm.
“Cô không thấy hạnh phúc à, Tracy?”.
Một từ lạ lẫm, Tracy thầm nghĩ. Hạnh phúc, nàng đă quên mất
nghĩa thực của từ đó và băn khoăn liệu ḿnh có c̣n bao giờ thấy
hạnh phúc nữa không, liệu nàng có c̣n bao giờ có được cảm xúc
b́nh thường nữa không. Đă từ lâu lắm rồi, mọi ư nghĩ của nàng
đều tập trung vào việc báo thù những kẻ đă hăm hại mẹ con nàng.
Và lúc này th́ mọi việc đă gần xong, trong nàng chỉ c̣n lại một
nỗi trống trải.
Sáng hôm sau, Tracy dừng chân trước một quầy bán hoa. “Tôl muốn
gửi một ít hoa tới viếng Anthony Orsatti.
Một ṿng hoa tang gồm hoa cẩm chướng trắng với một dải băng lớn.
Tôi muốn trên dải băng có ḍng chữ “HĂY AN NGHỈ”. Nàng viết một
tấm thiếp CON GÁI CỦA DORIS WHITNEY GỬI VIẾNG.
Chương 15
PHILADELPHIA.
Thứ ba, 7 tháng Mười - 16 giờ.
Bây giờ là lúc tính đến Charles Stanhope III. Những kẻ kia đều
xa lạ.
Charlés từng là người t́nh của nàng, là cha của đứa con không
được sinh ra của nàng, và anh ta đă quay lưng lại với cả hai mẹ
con nàng Ernestine và Al cùng có mặt tại sân bay New Orleans để
tiễn Tracy.
“Tôi sẽ nhớ cô lắm”. Ernestine. “Hiển nhiên là cô đă làm cho cả
cái thành phố này thức tỉnh. Họ phải bầu cô làm thị trưởng mới
phải”.
“Cô sẽ làm ǵ ở Powilly?” AI hỏi.
Nàng đă nói với họ một nửa sự thật. “Trở lại với công việc cũ ở
nhà băng”.
Ernestine và Al đưa mắt nh́n nhau. “Họ .... ờ ... có biết cô
đang trở lại không?”.
“Không. Nhưng ông phó chủ tịch nhà băng quư tới. Sẽ không có ǵ
vướng mắc đâu. Bây giờ rất khó kiếm chuyên viên máy tính giỏi”.
“Ồ, chúc may mắn. Giữ liên lạc, nghe chưa? Và tránh xa các rắc
rối ra, cô bé”.
Ba mươi phút sau, Tracy đă ở trên bầu trời. Máy bay đang hướng
về Philadelphia.
Nàng thuê buồng ở khách sàn Hilton và việc đầu tiên phải làm là
lấy ra bộ váy áo tươm tất duy nhất, hơ nó trên bồn tắm đầy nước
nóng để làm cho nó phẳng phiu trở lại. Hôm sau, lúc 11 giờ, nàng
tới nhà băng và gặp thư kư của Claremce Desmond.
“Xin chào, Mae”.
Cô gái kia nh́n Tracy chằm chằm như thể là đang nh́n thấy một
bóng ma.
“Tracy!” Cô ta muốn tránh ánh mắt nàng. “Chị có ... khỏe
không?”.
“Tết thôi, có ngài Desmond ở đây không?”.
“Tôi ... tôi không biết. Để xem đă. Xin lỗi”. Cô ta đứng dậy,
lúng túng, rồi vội vă đi vào pḥng làm việc của viên phó chủ
tịch nhà băng.
Mấy giây sau, cô ta trở ra. “Chị có thể vào”. Cô ta lách người
ra khi Tracy bước qua.
Claremce Desmond đang đứng bên bàn làm việc của ông ta.
“Xin chào ngài Desmond. Thế là tôi đă trở về”. Tracy cởi mở.
“Để làm ǵ?” Giọng ông ta đầy vẻ thiếu thiện cảm.
Tracy sững người ngạc nhiên, và hơi dằn giọng. “Ờ, ngài chả từng
nói tôi là một chuyên viên máy tính tốt nhất mà ngài từng thấy,
và tôi nghĩ ...”.
“Cô nghĩ là tôi nhận cô về với công việc cũ của cô ư?”.
“Thưa ngài, vâng. Tôi đă không hề quên cái kỹ năng nghề nghiệp
của ḿnh.
Tôi có thể vẫn ...”.
“Cô Whitney”. Ông ta không c̣n gọi là Tracy nữa. “Tôi rất lấy
làm tiếc song không thể bàn tới cái mà cô yêu cầu.
Tôi chắc cô hiểu rằng khách hàng của chúng tôi không mong muốn
phải tiếp xúc với một người từng phải ngồi tù v́ tội cướp có vũ
trang và mưu sát. Điều đó khó mà phù hợp được với h́nh ảnh tất
đẹp cửa nhà băng này. Tôi nghĩ rằng, với tiểu sử của cô, khó có
một nhà băng nào c̣n muốn nhận cô vào làm việc. Tôi cho rằng cô
nên cố gắng t́m kiếm một chỗ khác phù hợp với hoàn cảnh của
ḿnh. Tôi hy vọng cô hiểu rằng không có vấn đề cá nhân ǵ ở đây
cả”.
Tracy nghe từng lời của ông ta, đầu tiên là với sự choáng váng
và sau là nỗi căm giận ngày càng tăng. Ông ta coi nàng như một
kẻ bị xua đuổi, một con hủi.
Chúng tôi không muốn mất cô. Cô là một trong những nhân viên quư
giá nhất của chúng tôi - Ông ta đă từng nói những lời như thế.
“C̣n ǵ nữa không, cô Whitney?” Một lời đuổi khéo.
Có hàng trăm điều Tracy muốn nói, nhưng nàng biết cũng chẳng có
ích ǵ.
“Không, tôi nghĩ là ngài đă nói cả rồi”. Tracy quay đi và bước
ra khỏi pḥng, mặt nóng bừng. Dường như tất vả các nhân viên nhà
băng đều ṭ ṃ nh́n nàng.
Mae đă đưa chuyện:
Kẻ tội phạm trở về.
Tracy đi ra, cổng, đầu ngẩng cao mà ḷng đầy cay đắng.
Ḿnh không thể để họ đối xử thế này với ḿnh. Ḷng tự trọng là
tất cả những ǵ mà ḿnh có, không kẻ nào có thể tước đoạt cái đó
được.
Tracy ở lỳ trong pḥng suốt ngày, đau khổ tràn đầy.
Sao mà nàng cớ thể ngây thơ tin rằng họ sẽ dang tay đón cơ chứ?
Giờ đây nàng là một người đầy tai tiếng. TIN VỀ EM ĐƯỢC ĐƯA BẰNG
TÍT LỚN TRÊN TỜ TIN TỨC HÀNG NGÀY PHILADELPHIA NEWS. ôi, quỷ tha
ma bắt Philadelphia đi cho rảnh, Tracy nghĩ, nàng c̣n chút việc
dở dang ở đó, nhưng khi nào xong nàng sẽ ra đi. Nàng sẽ đi New
York, nơi sẽ không ai biết đến nàng. Và Tracy thấy dễ chịu hơn
khi quyết định như vậy.
Chiều tối hôm đó, Tracy đến ăn tại nhà hàng cà phê Hoàng Gia.
Sau buổi gặp đầy khó chịu với Claremce Desmond vào buổi sáng,
nàng thấy cần có bầu không khí thoải mái của ánh sáng dịu, khung
cảnh tươi vui, và âm nhạc êm ả.
Tracy gọi một ly rượu mạnh và khi người bồi bàn mang tới, ngước
mắt lên, nàng đột nhiên thắt lại.
Phía bên kia căn pḥng, Charles và vợ anh ta đang ngồi trong một
cái ghế đôi kín đáo. Họ chưa nh́n thấy nàng.
Cảm giác thôi thúc đầu tiên của nàng là đứng dậy bỏ đi v́ chưa
sẵn sàng đối mặt với Charles.
“Cô muốn gọi đồ ăn bây giờ chưa?” Người phục vụ hỏi.
“Tôi c̣n ... Tôi c̣n đợi, cảm ơn”. Nàng phải quyết định xem có
nên ngồi lại không.
Nàng nh́n lại Charles lần nữa, và cảm thấy ngạc nhiên, dường như
đang nh́n vào một người lạ vậy. Đó là người đàn ông hói đầu,
tuổi trung niên, khuôn mặt dài thượt vàng vọt với cặp vai so lại
và vẻ chán chường không tả nổi lộ rơ trên nét mặt. Thật không
thể nào tin nổi rằng nàng đă từng nghĩ là nàng yêu người đàn ông
này, rằng nàng đă ngủ với anh ta, dự định cùng chung sống với
anh ta suốt đời. Tracy liếc nh́n vợ anh ta. Cô ta cũng mang vẻ
chán chường giống như Charles. Họ tạo ra ấn tượng của hai con
người bị trói buộc vào với nhau và với thời gian đă trở nên khô
cứng. Họ chỉ ngồi yên đó mà không nói với nhau một lời nào.
Tracy có thể h́nh dung thấy những năm dài tẻ nhạt c̣n chờ đợi họ
trước mặt. Không t́nh yêu. Không niềm vui. Đó là sự trừng phạt
đối với Charles, Tracy thầm nghĩ và nàng đột nhiên cảm thấy thư
thái, một cảm giác được giải thoát khỏi chuỗi t́nh cảm đen tối,
sâu thẳm đă từng trói buộc lấy nàng.
Tracy ra dấu gọi người phục vụ lại và nói. “Tôi muốn gọi đồ ăn
bây giờ”.
Tất cả đă qua đi. Quá khứ, sau cùng, đă được chôn vùi.
Cho măi tới khi đă trở về khách sạn, tối hôm đó, Tracy mới nhớ
ra rằng nàng c̣n một khoản tiền lương ở quỹ lương của nhà băng.
Nàng ngồi xuống và tính toán số tiền đó là 1375 đô la và 65 xu.
Nàng thảo một bức thư gửi cho Claremce Desmond và hai ngày sau
nhận được thư trả lời của Mae.
Cô Whitney thân mến.
Đáp lại yêu cầu của cô, ngài Desmond đă đề nghị tôi thông báo
cho cô rằng, thể theo chính sách truyền thống của nhà băng trong
chương tŕnh tài chính đối với nhân viên, phần tiền của cô đă
được chuyển sang quỹ chung. Ngài muốn bảo đảm với cô rằng ngài
không có ác ư ǵ với cô.
Mae Trenton.
Thư kư của phó chủ tịch Tracy không thể nào tin được. Họ đă ăn
cắp tiền của nàng, và nấp dưới cái cớ bảo vệ các nguyên tắc
truyền thống của nhà băng. Không kẻ nào c̣n có thể lừa gạt nàng
nữa.
Tracy đứng bên ngoài chiếc cổng quen thuộc của nhà băng. Nàng
mang một bộ tóc giả đen và dài, mặt đánh phấn dày, sẫm mầu, với
một cái sẹo đỏ sần sùi trên cằm.
Nếu có ǵ xấu xảy ra, họ sẽ nhớ tới cái sẹo đó. Vậy mà Tracy vẫn
cảm thấy trần trụi v́ rằng nàng đă làm việc trong nhà băng này
tới năm năm trời và nơi đây đầy những người biết nàng quá rơ, sẽ
phải hết sức thận trọng để khỏi lộ diện.
Nàng lấy từ trong bóp ra chiếc nút chai và đặt nó vào trong
giầy, rồi khập khiễng đi vào nhà băng, tới trước một trong những
chiếc bàn tiếp khách, và người đàn ông ngồi sau bàn, vừa nói
chuyện điện thoại xong, ngước lên hỏi.
“Có ǵ vậy?”.
Đó là Jon Creighton, gă cuồng tín trong nhà băng.
Anh ta căm ghét người Do Thái, người da đen và người Pucetô
Rico, song không hẳn là theo thứ tự như vậy. Anh ta là nỗi khó
chịu của Tracy trong suốt mấy năm làm việc ở đây Lúc này th́
trên vẻ mặt anh ta không có dấu hiệu ǵ tỏ vẻ là nhận ra Tracy.
“Chào ông”, Traey chào bằng giọng Tây Ban Nha. “Tôi muốn mở một
tài khoản tiết kiệm. Nàng nói bằng giọng Mehico, cái giọng mà cô
đă nghe người bạn tù Paulita nói suốt mấy tháng trời.”.
Trên mặt Creighton lộ rơ vẻ khinh miệt. “Tên?”.
“Pita Gonzales”.
“Thế cô muốn gửi vào tài khoản đó bao nhiêu?”.
“Mười đô la”.
Giọng anh ta mỉa mai “Séc hay tiền mặt?”.
“Tôi nghĩ là tiền mặt”.
Nàng cẩn thận lấy từ ví ra một tờ đô la rách nát, cuộn tṛn và
đưa nó cho anh ta và nhận lại một tờ khai mẫu.
“Điền vào đây”.
Tracy không hề có ư định để lại chữ viết của ḿnh. Cô nhăn mặt.
“Thưa ông tôi xin lỗi. Tôi đau tay v́ một tai nạn. Ông làm ơn
viết hộ tôi được không ạ?
Creighton x́ mũi. Cái bọn lưng trần vô học này. “Cô nói tên là
Rita Gonzales phải không?”.
“Vâng”.
“Địa chỉ?”.
Nàng nói địa chỉ và số điện thoại của khách sạn cô ở.
“Tên họ mẹ cô là ǵ?”.
“Gonzales. Mẹ tôi, bà ấy lấy một người chú”.
“C̣n ngày sinh của cô?”.
“20 tháng Mười Hai năm 1958”.
“Nơi sinh?”.
Thành phố Mehico!.
“Mehico City. Kư vào đây”.
“Tôi sẽ phải dùng tay trái đấy”. Tracy nói. Nàng cẩm cái bút lên
và nghuệch ngoạc một chữ kư không thể đọc nổi. Jon Creighton
viết một cái phiếu gửi tiền.
“Tôi sẽ cho cô một cuốn séc tạm thời. Những tấm séc in sẽ được
gửi bưu điện tới cho cô trong ṿng ba hoặc bốn tuần”.
“Xong rồi”.
Anh ta nh́n cô đi ra khỏi nhà băng, mồm lẩm bẩm “Nói đéo ǵ mà
khó nghe thế cơ chứ”.
Có rất nhiều cách thức bất hợp pháp để có thể tiếp xúc với một
máy tính, và Tracy là một chuyên gia. Nàng đă tham gia vào việc
thiết lập hệ thống báo động ở cái nhà băng này, và giờ đây phải
chống lại nó.
Bước đầu tiên là t́m tới một cửa hiệu bán máy tính, nơi nàng có
thể sử dụng như một điểm trung chuyển để sờ tới cái máy tính của
nhà băng.
Một người bán hàng sốt sắng tiến lại phía Tracy. “Xin phép được
giúp cô”.
“Xin ông đừng bận tâm. Tôi chỉ xem thôi”.
Chợt ông ta thấy một thiếu niên đang chơi một tṛ chơi điện tử,
bèn vội vă bước tới chỗ đó. Tracy dừng lại ở chiếc máy tính kiểu
để bàn ngang trước mặt, nó được nối với một điện thoại. Xâm nhập
vào hệ thống máy tính th́ dễ dàng thôi, song không có mă số sử
dụng thích hợp th́ thật khó được việc ǵ, thế mà cái mă số đó
lại được thay đổi hàng ngày. May mà Tracy đă có mặt ở cuộc họp
quyết định chọn cái mă số chính thức nguyên thủy.
“Chúng ta phải thay đổi nó thường xuyên”, Claremce Desmond nói,
“để không kẻ nào có thể xâm nhập được, tuy vậy lại phải giữ sao
cho nó đơn giản thôi để tiện cho những người có thẩm quyền sử
dụng nó”.
Cái mă khóa mà sau cùng họ lựa chọn là sử dụng tên gọi của bốn
mùa trong năm và kết hợp với con số chỉ ngày.
Tracy bật máy và bấm gọi số mă của Ngân hàng Tín nhiệm và Bảo
hiểm Philadelphia - Cái nhà băng vốn quen thuộc với nàng, và
nghe thấy một tín hiệu âm thanh lănh lót với màn ảnh nhỏ trên
máy bừng sang:
XIN MĂ SỐ CÓ THẨM QUYỀN.
Hôm nay là ngày mồng mười Tracy bấm phím, MÙA THU 10.
Trên màn ảnh hiện lên ḍng chữ:
MĂ SỐ KHÔNG THÍCH HỢP. Sau đó màn ảnh trở nên trắng xóa.
Họ đă thay đổi mă rồi Chăng? Qua khóe mắt, Tracy thấy người bán
hàng đang đi tới. Nàng bước tới bên một máy tính khác b́nh thản
nh́n ngó rồi tiếp tục lững thững theo dọc lối đi. Người bán.
hàng dừng bước. Một người xem hàng thôi, ông ta nghĩ rồi vội vă
ra đón hai người khách có vẻ muốn mua hàng hơn đang đi vào.
Tracy quay lại với chiếc máy tính kiểu để bàn.
Nàng đặt ḿnh vào trong suy nghĩ của Claremce DesmOnd. Ông ta là
một người của thói quen, và Tracy tin chắc rằng ông ta sẽ không
thay đổi quá nhiều.
Có thể là vẫn giữ nguyên mẫu ban đầu về mùa và các con số, thế
nhưng đă sửa đi như thế nào? Nếu đảo những con số th́ sẽ quá
phức tạp, vậy th́ có thể ông ta đă hoán vị tên gọi của các mùa
mà thôi.
Tracy thử lại.
XIN MĂ SỐ CÓ THẨM QUYỀN?
MÙA ĐÔNG 10.
MĂ SỐ KHÔNG THÍCH HỢP. Màn ảnh lại trắng xóa.
XIN MĂ SỐ CÓ THẨM QUYỀN?
MÙA XUÂN 10.
Màn ảnh trắng đi trong giây lát, rồi một ḍng chữ hiện lên:
XIN MỜI SỬ DỤNG.
Vậy là ông ta đă chuyển các mùa. Nàng nhanh chóng gơ trên các
phím chữ:
GIAO DỊCH TIỀN TỆ NỘI BỘ.
Ngay tức khắc, thực đơn của nhà băng - danh mục các giao dịch có
thể tiến hành bừng sáng trên màn ảnh:
BẠN MUÔN A - GỦI TIỀN B - RÚT TIỀN TIẾT KIỆM D - CHUYỂN NGANG E
- RÚT TIỀN TỪ TÀI KHOẢN SÉC XIN MỜI ĐƯA LỰA CHỌN CỦA BẠN VÀO
MÁY.
Tracy cho “B”. Màn ảnh trắng đi giây lát và một biểu mục khác
xuất hiện.
SỐ LƯỢNG TIẾN CHUYỂN GIAO?
CHUYỀN TỚI ĐÂU?
CHUYỂN TỪ ĐÂU?
Tracy bấm lên các phím chữ:
TỪ QUỸ DỰ TRỮ CHUNG TỚI RITA GONZALES. Khi phải đưa yêu cầu số
lượng tiền vào, nàng lưỡng lự một chút.
Cám dỗ quá, Tracy nghĩ bụng. Bởi v́ đến lúc này không cô hạn chế
nào cho số lượng tiền mà cái máy tính ngoan ngoăn này sẽ chuyển
đi. Nàng có thể lấy hàng triệu. Nhưng nàng đâu có phải kẻ ăn
cắp. Tất cả những ǵ Tracy muốn chỉ là khoản tiền thực sự là của
nàng mà thôi.
Nàng đưa con số 1.375 Đô la và 65 xu vào tài khoản của Rita
Gonzales.
Trên màn ảnh hiên lên:
GIAO DỊCH ĐĂ HOÀN THÀNH, BẠN CÓ MUỐN THỰC HIỆN GIAO DỊCH NÀO NỮA
KHÔNG?
KHÔNG.
BUỔI LÀM VIỆC ĐĂ XONG. XIN CẢM ƠN BẠN.
Khoản tiền đó sẽ được CLIPS - hệ thống thanh toán liên ngân
hàng, tự động chuyển giao. Hệ thống này mỗi ngày kiểm soát việc
chuyển một khoản tiền lên tới 220 tỷ đô la từ ngân hàng này sang
ngân hàng khác.
Người bán hàng đang đi tới, cau có. Tracy vội vă ấn một cái nút
và màn ảnh tắt ngấm.
“Cô muốn mua cái máy này ư?”.
“Không cám ơn”, Tracy nói vẻ xin lỗi. Tôi không hiểu ǵ về những
chiếc máy tính này”.
Từ một cửa hiệu thuốc gần đó nàng gọi điện thoại tới nhà băng và
yêu cầu được nói chuyện với người thủ quỹ tiền mặt.
“Xin chào. Tôi là Rita Gonzales. Tôi muốn chuyển tài khoản séc
của tôi tới chi nhánh của ngân hàng Hanover I ở thành phố New
York”.
“Số tài khoản, thưa cô Gonzales?”.
Tracy trả lời cô ta.
Một giờ sau, Tracy trả pḥng ở khách sạn Hilton và lên đường đi
New York.
Khi Ngân hàng Hanover I New York mở cửa lúc 10 giờ sáng hôm sau,
Rita Gonzales đă có mặt để rút hết tiền khỏi tài khoản của ḿnh.
“C̣n bao nhiêu trong đó?” Nàng hỏi.
Người thủ quỹ kiểm tra rồi đáp, “Một ngh́n ba trăm tám mươi lăm
đô la, sáu mươi lăm xu”.
“Vâng, đúng thế”.
“Cô muốn một tấm séc bảo đảm ư, cô Gonzales?”.
“Không, cám ơn”. Tracy nói. “Tôi không tin các nhà băng. Tôi sẽ
lấy tiền mặt”.
Ngày ra tù, Tracy đă được cấp hai trăm đô la theo chế độ, cộng
với một khoản tiền nhỏ trả cho việc trông nom Amy, thế nhưng
cộng cả số tiền rút ra được khỏi nhà băng nữa, nàng cũng không
được bảo đảm chắc chắn ǵ về mặt tài chính. Việc phải nhanh
chóng t́m chỗ làm là rất khẩn cấp.
Nàng thuê buồng ở một khách sạn rẻ tiền trên đường Lexington và
bắt đầu gửi đơn xin việc đến các nhà băng ở New York. Giờ đây
th́ Tracy thấy rằng cái máy tính đột nhiên trở thành kẻ thù của
mlnh. Cươc đời nàng không c̣n là một cái ǵ riêng tư nữa. Các bộ
nhớ của máy tính đă lưu giữ câu chuyện về nàng và sẵn sàng kể
lại cho bất kỳ ai ấn đúng nút cần thiết. Ngay khi cái tiền án
của nàng được đưa ra th́ lập tức đơn xin việc của nàng bị bác
bỏ.
Tôi nghĩ rằng, với số tiền sử của cô, khó có thể có nhà băng nào
c̣n muốn nhận cô vào làm việc”. Claremce Desmond đă nói đúng.
Tracy tiếp tục gửi đơn xin việc tới các công ty bảo hiểm và một
loạt các ngành nghề có sử dụng tới máy tính. Câu trả lời luôn
luôn là:
Không.
Được lắm, Tracy nghĩ, ḿnh c̣n có thể có một cách nữa. Nàng mua
tờ The New York Tines và xem kỹ những quảng cáo t́m người làm
việc.
Có một công việc được ghi là làm thư kư trong một công ty xuất
khẩu.
Nhưng ngay khi Tracy bước vào cửa, viên phụ trách nhân sự đă kêu
lên.
“Này, tôi thấy cô trên ti vi. Cô cứu sống một đứa trẻ trong nhà
tù, có phải không nào?
Tracy bỏ đi ngay.
Ngày tiếp theo, nàng được thuê vào làm chân bán hàng ở một cửa
hàng cho trẻ em ở đường Saks. Tiền công thấp hơn nhiều so với
tiền lương của nàng trước đây, nhưng ít nhất th́ cũng là đủ
sống.
Vào ngày làm việc thứ hai th́ một khách hàng quá khích động đă
nhận ra nàng và thông báo cho người quản lư biết là bà ta không
muốn được phục vụ bởi một kẻ giết người đă từng d́m chết đuối
một đứa trẻ. Người ta không để cho Tracy có cơ hội giải thích.
Nàng bị sa thải ngay.
Với Tracy, lúc này dường như những kẻ mà nàng đă báo thù, sau
cùng 1ại vẫn là kẻ chiến thắng. Chúng đă biến nàng thành một kẻ
tội phạm trước công luận, một kẻ bị xua đuổi. Sự bất công của
những ǵ đang xảy ra với nàng làm nàng mệt mỏi, chán chường.
Nàng không biết là sẽ làm sao để sống, và lần đầu tiên nàng bắt
đầu có một cảm giác tuyệt vọng. Tối hôm đó nàng kiểm lại tiền
xem c̣n bao nhiêu, và tận trong một góc của chiếc ví nàng thấy
mẩu giấy mà Bety Franciscus đă đưa cho ở trong tù. CONRAD
MORGAN, CHỦ TIỆM KIM HOÀN, 640 ĐẠI LỘ 5, THÀNH PHỐ NEW YORK. Ông
ta tham gia vào việc cải tạo tội phạm. Ông thường muốn giúp
những người mới ra tù - chị ta bảo nàng thế.
Conrad Morgan và Công ty là cơ sở kinh doanh bề thế, với một
người gác cửa mặc đồng phục phía ngoài và một người bảo vệ có vũ
trang phía trong. Bản thân cửa hiệu này th́ cũng không có vẻ ǵ
thật ghê gớm nhưng đồ kim hoàn của nó th́ toàn là loại tinh xảo
và đắt tiền.
Tracy nói với người tiếp tân. “Xin cho gặp ngài Conrad Morgan”.
“Cô có hẹn không?”.
“Không. Một ... một người bạn đă khuyên tôi gặp ông ấy”.
“Tên cô?”.
“Tracy Whitney”.
“Xin đợi một chút”.
Cô ta nhấc điện thoại và th́ thầm ǵ đó mà Tracy không thể nghe
được, rồi gác máy và bảo. “Ngài Morgan hiện đang bận. Ông ấy mời
cô trở lại lúc 6 giờ”.
“Vâng, cảm ơn cô”. Tracy đáp.
Nàng ra khỏi cửa hiệu và đứng bên lề đường. Không biết phải làm
ǵ. Việc đến New York đă là một sai lầm.
Có thể là Conrad Morgan không làm ǵ được để giúp nàng cả. Và
tại sao lại phải giúp? Nàng hoàn toàn xa lạ đối với ông ta.
Tracy thầm nghĩ:
Ông ta sẽ thuyết giảng và cho một ít tiền. Hừ ḿnh chẳng cần ǵ
đến hai thứ đó từ ông ta hay bất kỳ ai. Ḿnh đă sống sót. Và
bằng cách nào đó ḿnh sẽ vẫn sống được.
Thây kệ Conrad Morgan. Ḿnh sẽ không trở lại gặp ông ta làm ǵ.
Tracy lang thang trên đường phố với bước chân vô định, ngang qua
những căn pḥng lộng lẫy trên đại lộ số 5, những ṭa nhà có
người bảo vệ trên đại 1ộ Công Viên, các cửa hiệu tấp nập trên
đại lộ Lexlngton và đại lộ số 3 ...
Nàng đi trên các đường phố New York, đầu óc trống rỗng, mắt nh́n
lơ đăng, ḷng tràn ngập nỗi tuyệt vọng, đắng cay.
Vào lúc 6 giờ, Tracy tự thấy ḿnh đứng trước ngôi nhà của Conrad
Morgan và công ty trên đại lộ số 5. Người gác không c̣n ở đó và
trên cánh cửa được khóa chặt. Tracy đấm mạnh lên cánh cửa trong
một cử chỉ đầy thách thức?
Và rồi quay đi, nhưng ngạc nhiên v́ cánh cửa đột ngột mở ra.
Một người đàn ông vẻ kể cả đang đứng đó ngó nàng. Ông ta hói, lơ
thơ vài nhúm tóc bạc phía trên hai tai khuôn mặt đỏ rựng như một
chú lùn giữ cửa.
“Chắc cô là Tracy Whitney?”.
“Vâng ...”.
“Tôi là Conrad Morgan. Xin mời cô vào?”.
Tracy bước vào cái cửa hiệu vắng ngắt.
“Tôi đang chờ cô”, Conrađ Morgan nói. “Hăy vào nói chuyện trong
pḥng làm việc của tôi”.
Ông ta dẫn nàng đi ngang qua những tủ kính tới trước một cánh
cửa khép kín, và lấy ch́a khóa mở cửa.
Pḥng làm việc của ông ta bày biện tinh tế và có vẻ giống pḥng
ở hơn nơi làm việc, chỉ có mấy cái đi văng, mấy cái ghế tựa, và
mấy cái bạn nhỏ được xếp đặt khéo léo. Trên tường đầy những bức
họa cổ.
“Cô có muốn uống một chút không?” Conrad Morgan mời. “Bia, nước
quả, hoặc có thể là rượu anh đào?”.
“Không, không ǵ hết, cảm ơn ông”.
Tracy đột nhiên cảm thấy hồi hộp. Nàng đă dẹp bỏ ư nghĩ là người
đàn ông này sẽ làm ǵ để giúp nàng, ấy vậy mà đồng thời nàng
thấy ḿnh mong muốn đến tuyệt vọng rằng ông ta có thể ...
“Betty Franciscus khuyên tôi nên t́m đến ông, ông Morgan. Cô ấy
nói ông có thể giúp những người mới ... gặp khó khăn”. Nàng
không thể nói “ở tù ra”.
Conrad Morgan đan hai tay vào nhau, và Tracy để ư thấy hai bàn
tay ấy được chăm chút đẹp đẽ.
“Tội nghiệp Betty. Một phụ nữ đáng yêu như vậy, cô biết đấy, cô
ta rủi ro quá”.
“Rủi ro?”.
“Đúng. Cô ta bị tóm”.
“Tôi ... tôi không hiểu”.
“Thật đơn giản, Betty vốn làm việc cho tôi, được bảo vệ chu đáo.
Thế rồi cô gái hội nghiệp đó phải ḷng anh tài xế ở New Orleans
và bỏ đi làm ăn riêng và, hừ ... họ tóm cô ta”.
Tracy bối rối. “Cô ta làm nghề bán hàng ở đây ư?”.
Conrad Morgan ngả người ra cười đến chảy cả nước mắt. “Không, cô
bạn thân mến ạ. Rơ ràng là Betty đă không nói ǵ với cô cả”. Ông
ta nhổm người trên ghế và ch́a mấy ngón tay giơ lên. “Tôi có một
chút việc ngoại lệ mang lại lợi nhuận rất lớn, và tôi vui ḷng
chia sẻ những lợi nhuận đó với các bạn đồng nghiệp của ḿnh. Tôi
thấy tốt nhất là t́m được những người như cô, xin cô thứ lỗi,
những người từng có thời gian ở tù”.
Tracy nh́n vào mắt ông ta và càng bối rối hơn.
“Cô biết đấy, tôi ê một vị trí hết sức độc đáo. Tôi có đám khách
hàng đặc biệt giàu có. Những người khách hàng trở thành bạn của
tôi. Họ tin cậy tôi”.
Ông ta đập đập tay vào nhau một cách tế nhị”. Tôi biết rơ khi
nào th́ khách hàng của tôi có những chuyến đi xa. Rất ít người
mang đồ kim hoàn đi đường trong thời buổi đầy rẫy những nguy
hiểm này, do vậy vàng bạc, kim cương của họ thường được cất kỹ
trong nhà. Tôi đề xuất cho họ mấy biện pháp an ninh mà họ cần
làm để bảo vệ cho số châu báu đó. Tôi biết chính xác về số châu
báu mà họ có, bởi lẽ họ đă mua chúng ở đây mà. Họ ....” Tracy
đứng dậy. “Xin cảm ơn ông đă dành th́ giờ cho tôi, ông Morgan”.
“Chắc là cô chưa đi ngay chứ?”.
“Nếu như tôi nghĩ đúng về điều ông đang nói”.
“Đúng thôi. Thực sự là tôi nói thế đấy”.
Nàng cảm thấy hai má nóng bừng. “Tôi không phải là một tội phạm.
Tôi đến đây là để t́m một việc làm”.
“Và tôi đang dành cho cô một việc, cô bạn thân mến”. Cô sẽ chỉ
mất một hay hai giờ đồng hồ, và tôi hứa trả cô 25 ngàn đô-la”.
Ông ta mỉm cười đắc ư. “Miễn thuế, lẽ dĩ nhiên”.
Khó khăn lắm Tracy mới kiềm được cơn giận. “Tôi không thích. Xin
ông để tôi ra chứ?”.
“Chắc chắn rồi, nếu đó là điều cô muốn”. Ông ta đưa nàng ra cửa.
“Cô Whitney, cô phải hiểu rằng nếu có nguy cơ, dù là nhỏ nhất
th́ tôi đă chẳng dính vào chuyện này. Tôi cũng cần bảo vệ tiếng
tăm của tôi chứ”.
“Tôi hứa với ông là sẽ không hé răng về chuyện này với ai”,
Tracy lạnh lùng nói.
Ông ta gằn giọng. “Thực ra th́ cũng không có ǵ để cô phải hé
răng, cô bạn thân mến, phải thế không nào? Ư tôi muốn nói, ai sẽ
tin cơ cơ chứ? C̣n tôi là Conrad Morgan - luôn luôn là thế”.
Khi họ ra tới bên ngoài, Morgan nói. “Nếu cô có đổi ư th́ hăy
cho tôi biết nhé, được không? Tất nhất là gọi cho tôi sau 6 giờ
chiều. Tôi chờ điện thoại của cô đấy”.
“Khỏi”, Tracy đáp cộc lốc, và bước vào màn đêm đang tràn tới.
Khi trở về pḥng, nàng vẫn c̣n run rẩy và nàng sai thằng bé giúp
việc duy nhất của khách sạn ra mua một cái bánh kẹp cùng ít cà
phê, cảm thấy không muốn gặp mặt ai hết. Cuộc nói chuyện với
Conrađ Morgan làm nàng thấy bứt rứt, khó chịu. Ông ta đă gộp
nàng vào những tội phạm, và đáng buồn là nàng đă từng chung sống
với họ, dù không phải là người như bọn họ. Nàng là Tracy
Whitney, một chuyên viên máy tính, một công dân lương thiện,
biết tôn trọng pháp luật.
Người mà chẳng ai muốn nhận vào làm việc.
Tracy suốt đêm trằn trọc về tương lai. Nàng không có việc làm và
chỉ c̣n lại một chút tiền. Nàng quyết định hai việc:
sáng ra sẽ chuyển tới một nơi rẻ tiền hơn và sẽ đi t́m việc làm.
Bất kỳ việc ǵ.
Cái nơi rẻ tiền hơn ấy là căn hộ một pḥng ảm đạm trên tầng bốn
không có thang máy, nằm ở khu Lower East Side. Từ pḥng ḿnh,
qua những tấm vách mỏng bằng giấy, Tracy có thể nghe thấy những
người hàng xóm mắng chửi nhau bằng những thứ tiếng nước ngoài.
Các cửa sổ và các cửa ra vào của các cửa hiệu nhỏ dọc trên các
hè phố đều được bịt bằng các song sắt mà Tracy không thể hiểu
nổi v́ sao. Cả khu vực dường như toàn gồm những kẻ say rượu, đĩ
điếm ...
Trên đường đi mua đồ ăn, Tracy đă ba lần bị quấy rầy, hai lần
bởi.hai người đàn ông và một lần là đàn bà.
Ḿnh có thể chịu đựng được. Ḿnh sẽ không ở đây lâu mà, Tracy tự
an ủi ḿnh.
Nàng đến một hăng t́m việc làm nhỏ, cách nơi ở vài dăy phố. Cơ
sở này do một bà tên là Murphy, một phụ nữ nặng nề, vẻ khắc
nghiệt, điều hành. Bà ta ghi tóm tắt về Tracy rồi ṭ ṃ nh́n
nàng, nói. “Tôi không hiểu sao cô lại cần tới tôi. Có tới cả tá
công ty xin đổi tất cả để có một người như cô ấy chứ”.
Tracy thở dài. “Tôi có một chút rắc rối”. Nàng giải thích và bà
Murphy lắng nghe và sau đó nói một cách thẳng thắn. “Cô có thể
quên chuyện t́m một công việc về máy tính đi”.
“Nhưng bà chả vừa nói ...”.
“Các công ty đang cuống cuồng v́ các vụ phạm pháp bằng máy tính
kia ḱa.
Họ sẽ không thuê bất kỳ ai có một tiền án, tiền sự ǵ đó”.
“Nhưng tôi cần việc làm. Tôi ...”.
“Có những loại công việc khác. Cô nghĩ sao về một người bán
hàng?”.
Tracy nhớ việc xảy ra ở cái cửa hàng cho trẻ em nọ nàng không
chịu nổi một lần thứ hai như thế. “C̣n ǵ nữa không ạ?”.
Người đàn bà lưỡng lự. Tracy Whitney th́ rơ là quá uổng đối với
công việc mà bà Murphy nghĩ tới. “Xem nào”, bà ta nói. “Tôi biết
́a việc này th́ chẳng phải để cho cô, nhưng đấy, có một công
việc làm hầu bàn ở tiệm Jackson Hole.
Đó là một tiệm bán humberger ở khu phố Upper East Side.
“Nghề hầu bàn à?”.
“Phải. Nếu cô nhận, tôi sẽ không đ̣i cô phải trả ǵ hết. Tôi
ngẫu nhiên biết chỗ đó thôi mà”.
Tracy cấn nhắc. Nàng đă từng làm hầu bàn ở trường đại học. Hồi
đó, làm vậy cho vui. C̣n bây giờ là vấn đề sinh sống.
“Tôi sẽ cố gắng xem”.
Jackson Hole là một tiệm ăn hỗn loạn, đầy những thực khách ồn ào
và sốt ruột, với những đầu bếp cáu kỉnh, bẳn tính. Đồ ăn th́ khá
ngon và giá cả phải chăng nên lúc nào tiệm ăn này cũng đông
nghẹt khách. Các cô hầu bàn phải làm việc luôn chân luôn tay
không có lấy một giây thư thả và đến cuối ngày làm việc đầu tiên
th́ Tracy thấy như kiệt sức. Thế nhưng tiền kiếm được th́ cũng
khá.
Vào buổi trưa ngày hôm sau, khi Tracy đang phục vụ một bàn ăn
cho gă bán hàng th́ một trong số họ đưa tay luồn vào trong váy,
thế là nàng đánh rơi chiếc chén đựng hạt tiêu xay lên đầu anh
ta. Vậy mà cũng bị đuổi việc.
Nàng trở lại chỗ bà Murphy và kể lại chuyện xảy ra.
“Có lẽ tôi có tin tất lành cho cô đây”, bà Murphy nói.
“Đằng chỗ Wellington Arms cần sự giúp việc cho người quản lư.
Tôi sẽ gửi cô tới đó”.
Wellington Arms là một khách sạn nhỏ, xinh xắn trên đại lộ Công
Viên chuyên phục vụ những người giàu có và nổi tiếng. Người quản
lư đă phỏng vấn Tracy và quyết định nhận nàng. Công việc không
khó khăn ǵ, những người cùng làm đều khá dễ chịu, và thời gian
làm việc cũng không nhiều lắm.
Sau một tuần lễ, Tracy được gọi tới văn pḥng của người quản lư.
Viên trợ lư giám đốc cũng có mặt.
“Hôm nay, cô đă kiểm tra pḥng 827 chưa?” Người quản lư hỏi
Tracy. Căn pḥng này là của Jennifer Maloewe, một nữ diễn viên
Hollywood. Một phần công việc của Tracy là kiểm tra các buồng
xem những người hầu đă làm bổn phận của họ một cách thích đáng
chưa.
“Rồi, sao cơ ạ?”.
“Lúc mấy giờ?”.
“Lúc 14 giờ. Có ǵ không ạ?”.
Viên trợ lư giám đốc lên tiếng. “Lúc 15 giờ, cô Malowe trở về và
phát hiện rằng mất một chiếc nhẫn kim cương đắt tiền”.
Tracy thấy toàn thân căng lên.
“Cô cố vào pḥng ngủ không, Tracy?”.
“Có Tôi kiểm tra tất cả các pḥng”.
“Khi ở trong pḥng ngủ, cô có thấy thứ nữ trang nào ở đâu đồ
không?”.
“Sao ... không. Tôi không nghĩ vậy”.
Viên trợ lư giám đốc chộp ngay. “Cô không nghĩ vậy?
Cô không chắc chứ ǵ? “ “Tôi không t́m đồ nữ trang làm ǵ”,
Tracy nói. “Tôi chỉ kiểm tra giường đệm và khăn mặt”.
“Malowe quả quyết rằng khi cô ấy đi th́ cái nhẫn kim cương để
trên mặt bàn phấn”.
“Tôi không biết ǵ về chuyện đó”.
“Không c̣n ai khác được đến pḥng đó. Những người hầu khác th́
đă ở đây với chúng tôi nhiều năm rồi”.
“Tôi không lấy”.
Viên trợ lư giám đốc thở dài. “Chúng tôi sẽ phải gọi cảnh sát
tới điều tra vậy”.
“Phải là một kẻ nào đó”, Tracy kêu lên. “Hoặc không phải cô
Malowe để ở đó”.
“Với tiểu sử của cô ...” viên trợ lư giám đốc nói.
Vậy đó, người ta đă nói trắng ra. “Với tiểu sử của cô ...”.
“Tôi sẽ phải yêu cầu cô đợi trong pḥng bảo vệ cho tới lúc cảnh
sát tới”.
Tracy thấy mặt ḿnh đỏ bừng. “Vâng, thưa ngài”.
Nàng được dẫn tới pḥng bảo vệ bởi một người gác, và thấy dường
như lại đang ở trong tù. Nàng đă từng nghe những người tù bị săn
đuổi v́ tiền án của họ, song chưa bao giờ tin cái loại chuyện đó
lại có thể xảy ra với ḿnh.
Họ đă gắn một cái nhăn hiệu độc ác lên nàng, và tin nàng sẽ sống
măi với cái đó. Hoặc là khuất phục với cái đó, Tracy cay đắng
nghĩ.
Ba mươi phút sau, viên trợ lư giám đốc bước vào, mỉm cười “Cô
Malowe đă t́m thấy cái nhẫn. Hóa ra là đă để nó lẫn vào đâu đó.
Một sự nhầm lẫn nhỏ”.
“Tuyệt vời”. Tracy thốt lên.
Nàng bỏ đi, và hướng về phía ngôi nhà của Conrad Morgan và Công
ty.
“Thật hết sức đơn giản”, Conrad Morgan nói. “Một khách hàng của
tôi, Lois Bel1amy, đă đi châu Âu. Nhà bà ta ở khu Sea Cliff,
trên Đảo Dài. Vào cuối hàng tuần, tất cả các người hầu đều không
đến làm việc, do vậy ở đó không có ai. Cứ 4 tiếng đồng hồ th́ có
một nhóm bảo vệ tư nhân tới kiểm tra qua loa. Cô có thể vào rồi
ra khỏi ngôi nhà trong ít phút đồng hồ”.
Họ ngồi trong pḥng làm việc của Conrad Morgan.
“Tôi biết hệ thống báo động và tôi biết các khóa mở két. Tất cả
những ǵ cô phải làm, cô bạn thân mến, là bước vào, nhặt lấy chỗ
kim cương, rồi đi ra. Cô mang chỗ kim cương đến cho tôi, tôi sửa
lại đôi chút rồi mang bán lại”.
“Nếu đơn giản vậy, sao ông không tự làm lấy?”. Tracy hỏi thẳng.
Cặp mắt ông ta đầy ranh mănh. “V́ lẽ tôi sắp đi khỏi thành phố
v́ công việc.
Bất kỳ khi nào một “vụ” nho nhỏ kiểu đó xảy ra, tôi đều đang đi
vắng v́ công việc ǵ đó”.
“Tôi hiểu”.
Nếu như cô áy náy ǵ về việc mất mát này làm cho bà Beliamy đau
khổ, th́ dẹp đi. Đó thực sự là một người đàn bà ghê gớm, có nhà
cửa trên khắp thế giới với đầy đồ đạc quư giá. Ngoài ra, bà ta
c̣n được bảo hiểm số kim cương đó tới gấp hai lần trị giá thực
của chúng. Tất nhiên, tôi là người đánh giá chúng”.
Tracy nh́n Conrad Morgan, nghĩ ngợi. Ḿnh điên à.
Ḿnh ngồi đây b́nh thản bàn đến việc cướp đoạt kim cương của
người ta, với gă đàn ông này.
“Tôi không muốn trở lại nhà tù, ông Morgan ạ”.
“Không hề có nguy cơ đó. Chưa bao giờ người của tôi bị tóm cả.
Không, chừng nào họ đang làm việc cho tôi. Ồ ... ư cô thế nào?”.
Điều đó là quá rơ. Nàng sẽ nói không. Toàn bộ ư đồ này là điên
rồ.
“Ông nói 25 ngàn đô la phải không?”.
“Trả tiền mặt lúc giao hàng”.
Đó là cả một gia tài. Nàng nghĩ tới căn pḥng chật hẹp, ảm đạm
đang ở, với những tiếng la hét của những người thuê nhà khác, và
tiếng hét của khách hàng.
“Tôi không muốn một kẻ sát nhân phục vụ tôi” và cả lời viên trợ
lư giám đốc kia, “Chúng tôi sẽ phải gọi cảnh sát tới điều tra
vậy”.. Nhưng vẫn không thể nào nói là đồng ư.
“Tôi đề nghị vào đêm thứ bảy này”. Conrad Morgan nói. Đám phục
vụ đều ra về từ buổi trưa các ngày thứ bảy. Tôi sẽ lo liệu cho
cô một bằng lái xe và một thẻ mua hàng với cái tên giả. Cô sẽ
thuê một chiếc ô tô ở Manhattan này và lái tới Đảo Dài, đến đó
vào lúc 23 giờ.
Cô sẽ nhặt số kim cương, lái xe quay lại New York và trả lại
chiếc xe ... Cô biết lái xe chứ?”.
“Biết”.
“Tuyệt vời. Có một chuyến xe lửa đi St.Louis lúc 7 giờ 45 sáng.
Tôi sẽ đặt một khoang cho cô rời sẽ đón cô tại nhà ga St. Louis,
cô trao cho tôi chỗ kim cương và tôi sẽ trao 25 ngàn đô la cho
cô”!
Ông ta làm mọi chuyện có vẻ đơn giản.
Đây là lúc phải nói “Không”, rồi đứng dậy và ra đi.
Nhưng mà đi đâu cơ chứ?
Khi Tracy đă đi, Conrad Morgan ngồi yên trong bóng tối của căn
pḥng làm việc ngẫm nghĩ về nàng. Một cồ gái đẹp Thật sự là rất
đẹp. Thật xấu hổ. Lẽ ra, phải nói cho nàng biết rằng ông ta thực
sự không hiểu rơ hệ thống báo động chống ăn cắp rất đặc biệt đó.
Chương 16
Với một ngàn đô la mà Conrad Morgan ứng trước, Tracy mua
hai bộ tóc giả - một vàng hoe và một đen, do rất nhiều bím tóc
nhỏ xíu kết thành. Nàng mua một bộ đồng phục màu xanh sẫm, một
bộ áo liền quần màu đen, và một vali Gucci giả của người bán đồ
trên đường Lexington. Cho tới lúc này mọi chuyện đều êm xuôi.
Như Morgan đă hứa, Tracy nhận được một phong b́ trong đó có bằng
lái xe mang tên Eiien Branch, một chỉ dẫn về hệ thống bảo vệ của
ngôi nhà bà Bel1amy, mă số mở cái két sắt trong pḥng ngủ, và
chiếc vé xe lửa đi St. Lolns, một khoang riêng.
Ḿnh sẽ không bao giờ ở một nơi như thế này nữa, nàng tự hứa với
ḿnh.
Nàng thuê ôtô và lái về hướng Đảo Dài. Thế là nàng đă trên đường
thực hiện một vụ trộm.
Chuyện mà nàng đang làm có cái ảo tưởng của một giấc mộng, và
nàng thấy sợ hăi. Nếu bị bắt th́ sao? Sự mạo hiểm này có đáng
không?
Thật hết sức đơn giản, Conrad Mọrgan đă nói.
Ông ấy sẽ không dính vào một chuyện như thế này nếu không thấy
chắc ăn.
Ông ta cần giữ tiếng tăm. Ḿnh cũng phải giữ cho ḿnh chứ, Tracy
cay đắng thầm nghĩ, và tất cả thật là tồi tệ. Bất kỳ khi nào có
một viên kim cương bị mất, ḿnh sẽ cảm thấy tội lỗi cho đến khi
chứng tỏ được là vô tội Tracy biết là nàng đang lâm ǵ? Nàng
đang tạo cho ḿnh một sự căm giận, chuẩn bị tâm lư để thực hiện
một hành vi phạm tội. Điều đó không thành. Cho tới lúc tới khu
Sea Cliff, nàng vẫn run rẩy v́ sợ hăi, hai lần suưt lái xe lao
khỏi mặt đường. Có thể là cảnh sát sẽ giữ ḿnh lại v́ tội lái xe
cẩu thả, nàng thầm hy vọng, và ḿnh có thể nói với Morgan rằng
gặp chuyện trục trặc.
Song không hề thấy bóng dáng một chiếc xe cảnh sát nào cả. Hẳn
là thế, Tracy nghĩ bụng, họ chẳng bao giờ có mặt khi người ta
cần tới.
Nàng tiếp tục chạy xe theo như lời chỉ dẫn của Conrad Morgan.
“Ngôi nhà kề sát biển, Morgan mô tả. “Nó là một biệt thự kiểu
Phục Hưng. Cô không thể nào không nhận ra nó”.
Giá ḿnh đừng nhận ra nó. Tracy thầm cầu khẩn.
Thế nhưng nó lại hiện ra sừng sững trong bóng tối, giống như ṭa
lâu đài có ma trong một cơn ác mộng, có vẻ như bị bỏ hoang. Sao
những người hầu lại dám nghỉ hết vào cuối tuần nhỉ, Tracy bực
bội nghĩ. Họ đáng bị đuổi việc.
Tracy lái xe vào sau một hàng cây lớn, nơi nó được che khuất và
tắt máy, ngồi lắng nghe tiếng côn trùng rả rích trong đêm. Ngoài
ra chỉ c̣n sự yên tĩnh, vắng lặng. Ngôi nhà cách xa đường trục
chính và giờ này trong đêm th́ cũng chẳng c̣n xe cộ đi lại ǵ
nữa.
“Đám cây cối che khuất tất cả, cô bạn thân mến, và kẻ hàng xóm
gần nhất cũng cách đó cả dặm, do vậy cô đừng lo bị nh́n thấy.
Đội tuần tra sẽ đến vào lúc 22 giờ và trở lại vào lúc 2 giờ sáng
th́ cô đă đi lâu rồi c̣n ǵ”.
Tracy nh́n đồng hồ. Đă 23 giờ.. Lần kiểm tra thứ nhất đă qua.
Nàng c̣n ba giờ trước khi đội tuần tra sẽ đến kiểm tra lần thứ
hai. Hoặc là chỉ ba giây đồng hồ để quay xe chạy về New York và
quên hẳn cái chuyện điên rồ này đi. Nhưng trở về đâu được? Những
h́nh ảnh cứ lóe lên trong đầu nàng. Viên phó quản lư ở cửa hàng
đồ dùng trẻ em:
“Tôi rất lấy làm tiếc, cô Whitney, nhưng mà khách hàng của chúng
tôi phải được hài ḷng ...”.
Bà Murphy:
“Có thể quên chuyện t́m_một công việc về máy tính đi. Họ sẽ
không thuê bất kỳ ai có tiền án, tiền sự ǵ đó.
Morgan. “25 ngàn đô la, miễn thuế, trong một hai giờ đồng hồ.
Nếu cô áy náy ... bà ta thực sự là một người đàn bà ghê gớm.
Ḿnh đang làm ǵ thế này? Tracy nghĩ. Ḿnh không phải là kẻ cắp.
Không phải kẻ cắp thực thụ. Ḿnh chỉ là một tay nghiệp dư ngờ
nghệch sắp suy sụp ră rời v́ căng thẳng.
Chỉ cần biết nghĩ một chút thôi, ḿnh sẽ đi khỏi đây, khi hăy
c̣n kịp, trước khi đội tuần tiễu tới, một phát súng nổ và họ
mang ḿnh ném vào nhà xác. Ḿnh có thể c̣n h́nh dung ra một cái
tít trên báo:
TỘI PHẠM NGUY HIỂM CHÊT TRONG MỘT VỤ TRỘM BỊ NGĂN CHẶN.
Sẽ có ai đến khóc trong đám tang ḿnh? Ernestine và Amy. Tracy
nh́n đồng hồ. Ôi, lạy Chúa, nàng đă ngồi đó mà mơ màng mất đến
hai mươi phút. Nếu làm, tốt nhất là bắt đầu đi thôi.
Tracy không nhúc nhích được, cứng hết cả người v́ sợ hăi. Ḿnh
không thể nào cứ ngồi măi ở đây, nàng tự nhủ.
Sao ḿnh không đi ra để ngó ngôi nhà một chút nhỉ? Xem qua thôi
mà.
Tracy hít thật mạnh và ra khỏi xe. Nàng đang mặc bận áo liền
quần màu đen, hai đầu gối run lẩy bẩy, chậm răi tiến đến gần
ngôi nhà, và thấy nó tối thui.
Nhớ mang gang tay - nàng nhớ lời Conrad Morgan và lấy ra, xỏ
vào. Ôi, Chúa ơi, ḿnh đang làm ǵ đó. Thực sự là ḿnh đang bắt
đầu rồi. Tim đập th́nh thịch đến nỗi nàng không c̣n nghe thấy
tiếng ǵ khác nữa.
“Chuông báo động ở bên trái cửa ra vào phía trước. Có năm nút
bấm. Đèn đỏ sáng - nghĩa là hệ thống báo động sẵn sàng làm việc.
Để tắt nó đi, th́ cần bấm -2-4-1-1. Khi vào rồi th́ nhớ khép cửa
lại, đùng cái đèn bấm này, đừng bật đèn trong nhà, ngừa trường
hợp có ai đó ngẫu nhiên chạy xe qua. Pḥng ngủ chính ở trên lầu,
phía tay trái, trông ra cửa vịnh. Cô sẽ t́m thấy cái két sau một
bức chân dung của Louis Bel1amy. Đó là một cái két rất đơn giản.
Cô chỉ cần quay theo mă số này”.
Conrad Morgan đă dặn ḍ nàng kỹ lưỡng.
Tracy đứng như trời trồng, run rẩy, sẵn sàng chạy trốn nếu có
một tiếng động nhỏ nhất. Đêm yên tĩnh. Chậm răi, nàng với tay ấn
vào hàng nút bấm của hệ thống báo động, ḷng thầm mong không đạt
hiệu quả ǵ. Ngọn đèn đỏ phụt tắt.
Bước tiếp theo sẽ trói buộc nàng, và nàng nhớ cách nói của những
phi công về hoàn cảnh này:
Điểm không quay lại được.
Tracy cho ch́a vào ổ khóa, cánh cửa bật mở. Nàng đứng đợi cả
nguyên phút đồng hồ trước khi bước vào bên trong. Mọi dây thần
kinh trong nàng đều căng thẳng tới tột độ trong khi nàng đứng
lặng, nghe ngóng, không dám nhúc nhích.
Toàn bộ ngôi nhà ch́m trong yên tĩnh. Nàng lấy đèn bấm ra, bật
sáng và nh́n thấy cầu thang bèn tiến lại và leo lên. Giờ đây tất
cả những ǵ nàng muốn là làm cho xong càng sớm càng tất và rồi
chạy khỏi đây ngay.
Cái hành lang trên lầu trông thật bí hiểm trong luồng sáng của
chiếc đèn bấm, và nó c̣n làm cho các bức tường như lay động.
Tracy ngó vào từng pḥng đi qua. Tất cả đều trống trơn, không hề
có ai.
Căn pḥng ngủ chính ở cuối hàng láng, trông ra vịnh, đúng như
Morgan mô tả. Nó thật đẹp, toàn một màu hồng sẫm, với chiếc
giường có màn che và chiếc tủ commốt được trang trí với những
bông hồng đỏ thắm. Có hai ghế dài kê đối diện nhau, một ḷ sưởi
và một cái bàn nhỏ kê ngay trước đó chắc để làm bàn ăn sáng.
Tracy nghĩ, lẽ ra th́ ḿnh đă sống trong một căn nhà giống như
thế này cùng Charles và đứa con của ḿnh với anh ta.
Nàng bước tới bên cửa sổ và ngắm nh́n các con tàu bỏ neo xa xa
ngoài vịnh.
Cho con biết, lạy Chúa, cái ǵ đă làm cho Chúa định rằng Lois
Beliamy sống trong ngôi nhà đẹp đẽ này và con th́ đang, ở đây để
ăn trộm? Nào. Cô bé. Tracy tự nhủ, đừng có băn khoăn ǵ nữa. Đây
là chuyện chỉ xảy ra một lần. Nó sẽ qua đi trong vài phút, song
nếu cứ đứng đây th́ chẳng bao giờ làm được ǵ hết.
Nàng rời cửa sổ và bước tới bức chân dung mà Morgan đă mô tả.
Lois Bel1amy đầy vẻ cứng rắn và tự phụ. Đúng thật. Có vẻ là một
người đàn bà ghê gớm - nàng nghĩ bụng. Bức tranh mở ra và sau đó
là một cái két nhỏ.
Tracy nhớ lại mă số. Ba ṿng bên phải, dừng lại ở 42. Hai ṿng
về bên trái, dừng ở 10. Một ṿng về bên phải, đừng ở 30. Hai tay
run rẩy đến nỗi nàng phải làm lại lần thứ hai, và nghe tiếng
“cạch”, cửa cái két mở ra.
Trơng két đầy những phong b́ và giấy tờ. Nhưng Tracy bỏ qua
chúng. Ở phía trong, trên mặt cái giá nhỏ là chiếc túi da sơn
dương. Tracy với tay nhấc nó ra. Đúng lúc đó, tiếng chuông báo
động vang lên, và đó là thứ âm thanh to nhất mà Tracy từng nghe
thấy. Nó như dồn dập vang lên từ mọi góc pḥng đến xé cả tai.
Nàng đứng chết lặng, đứng người.
Có sai sót ǵ vậy? Conrad Morgan đă không biết ǵ về bộ phận báo
động đặt trong két - tín hiệu báo động sẽ phát ra khi túi kim
cương bị nhấc khỏi giá đỡ chăng?
Phải rời đây thật nhanh, nàng ấn cái túi da vào trong áo rời
chạy ra hướng đầu thang gác. Và lúc này, ngoài các tín hiệu báo
động đang dồn dập nàng c̣n nghe thấy một âm thanh khác nữa, âm
thanh của tiếng c̣i xe cảnh sát đang lao đến gần. Tracy đứng
dừng lại ở đầu cầu thang, hoảng sợ, tim đập cuồng lên, miệng khô
đắng. Nàng chạy lại bên một cửa sổ, vén rèm lên và ghé ra ngoài.
Một chiếc xe tuần tiễu sơn hai màu trắng đen đang dừng lại trước
ngôi nhà, và một cảnh sát chạy ra phía sau, trong khi viên cảnh
sát thứ hai tiến tới cửa trước.
Không c̣n lối thoát nào cả. Tiếng chuông báo động vẫn vang vang
và bỗng nhiên nàng thấy nó thật giống tiếng chuông khủng khiếp
trong các hành lang của nhà tù Nam Louisiana.
Trung úy Melvin Durkin đă phục vụ trong lực lượng cảnh sát ở Sea
Cliff tới 10 năm. Đây là một khu vực yên tĩnh và hoạt động chính
của cảnh sát là đối phó với những kẻ phá phách gàn dở, một vài
vụ trộm xe hơi, rồi thỉnh thoảng là dăm ba vụ gây lộn giữa những
sâu rượu. Tiếng chuông báo động ở ngôi nhà của Bellamy là một
loại hoàn toàn khác. Chính v́ loại tội phạm này mà trung úy
Durkin gia nhập lực lượng cảnh sát. Anh biết bà Lois Bellamy và
cũng biết về bộ sưu tập tranh và số nữ trang quư giá của bà:
Từ hôm bà ta đi vắng, anh đă xếp ngôi nhà này thành một điểm
kiểm tra thường xuyên, v́ nó là mục tiêu thèm khát của những kẻ
đào tường khoét vách. Và giờ đây, trung úy Durkin nghĩ bụng, có
vẻ là ḿnh đă tóm được một tên. Anh chỉ cách đây hai khu phố khi
có thông báo bằng rađio từ công ty bảo vệ. Vụ này sẽ được ghi
nhận vào hồ sơ của ḿnh đây. Thật tuyệt - anh thầm nghĩ.
Trung úy Durkin ấn chuông cửa. Anh muốn có thể đàng hoàng ghi
trong báo cáo rằng đă nhấn chuông ba lần trước khi đột nhập bằng
vũ lực. Người đồng nghiệp của anh đă bao phía sau, vậy chẳng c̣n
cơ hội nào cho tên trộm tẩu thoát. Anh hoàn toàn có thể ẩn ḿnh
đợi bên ngoài, thế nhưng cũng lại muốn bất ngờ xuất hiện ngay
trong nhà. Không tên trộm nào có thể trốn thoát khỏi tay Melvin
Durkin.
Khi viên trung úy với tay định bấm chuông lần nữa th́ cửa trước
đột ngột mở ra. Anh đứng ngây người nh́n. Trong ngưỡng cửa là
một phụ nữ trong chiếc áo ngoài mỏng tang đến mức chẳng cần phải
tưởng tượng thêm ǵ mấy. Mặt cô ta trát một lớp kem phấn ǵ đó
và đầu th́ đội chiếc mũ để giữ tóc.
Cô ta cật vấn. “Chuyện quỷ quái ǵ vậy, hả?”.
Trung úy Durkin nuốt nước bọt. “Tôi ... cô là ai?”.
“Tôi là Ellen Branch. Tôi là khách ngủ lại của nhà bà Lois
Bellamy. Bà ấy đang đi châu Âu”.
“Tôi biết rồi”. Viên trung úy lúng túng. “Bà ấy không nói với
chúng tôi rằng cô một người khách ở nhà”.
Người phụ nữ gật đầu, đầy vẻ hiểu biết. “Bà Lois chẳng vẫn vậy
đó thôi?
Xin lỗi. Tôi không thể chịu nổi cái âm thanh này”.
Nói đoạn người khách của Lois Bellamy với tay lên bấm mấy cái
nút của hệ thống báo động và tiếng chuông ngừng bặt.
“Vậy dễ chịu hơn”, cô ta nói nhẹ. “Tôi không thể nói hết sự sung
sướng được thấy ông”. Rồi dịu dàng. “Tôi đang chuẩn bị lên
giường ngủ th́ chuông báo động kêu vang lên. Tôi tin rằng có bọn
trộm trong nhà, tôi ở đây chỉ có một ḿnh. Những người giúp việc
th́ đă về từ trưa rồi”.
“Cô có bằng ḷng để chúng tôi được ngó quanh một chút không?”.
“Xin mời, chính tôi muốn thế đấy”.
Chỉ mất ít phút là viên trung úy và đồng nghiệp của anh ta có
thể tin chắc rằng không có kẻ nào đang lẩn trốn quanh quẩn đâu
đây.
“Không có ǵ cả”, trung úy Durkin nói. “Báo động nhầm. Có cái ǵ
đó trục trặc thôi. Không thể lúc nào cũng tin vào ba cái đồ điện
tử này được. Cô nên báo cho công ty bảo vệ và yêu cầu họ kiểm
tra lại hệ thống báo động”.
“Nhất định tôi sẽ làm thế”.
“Thôi, có lẽ chúng tôi sẽ lại lên đường”. Viên trung úy nói.
“Xin cảm ơn về việc các ông đă đến đây. Bây giờ, tôi cảm thấy an
toàn hơn”.
Cô ta có tấm thân tuyệt vời, trung úy Durkin nghĩ bụng. Anh băn
khoăn không biết vẻ mặt cô ta trông thế nào nếu như không có lớp
kem phấn và những cái lô cuốn tóc kia. “Cô sẽ ở đây lâu chứ, cô
Branch?”.
“Một hoặc hai tuần nữa, tới lúc bà Lois trở về”.
“Nếu tôi có thể làm ǵ giúp cô, xin cho biết nhé”.
“Cám ơn ông, tôi sẽ chờ ông”.
Tracy đứng nh́n theo chiếc xe cảnh sát lao vào màn đêm. Nàng nhẹ
bẫng người đi. Khi chiếc xe đă khuất, nàng chạy vội lên gác, rửa
sạch lớp kem phấn, gỡ mấy cuộn lộ của Lois Bellamy ra khỏi đầu
và trút bỏ cái váy ngủ, mặc trở lại bộ đồ màu đen và rời khỏi
nhà bằng cửa trước, thận trọng đặt lại chuông báo động.
Cho măi tới lúc chạy nửa quăng đường về Manhattan, sự liều lĩnh
kia mới tác động đến cân năo và nàng bỗng cười khúc khích, rồi
cười to đến mức không ḱm được, phải dừng xe lại bên đường. Nàng
cười măi cho tới lúc nước mắt giàn giụa. Đó là lần đầu tiên nàng
cười trong suốt một năm trời. Cảm giác đó thật tuyệt, tuyệt.
Chương 17
Khi đoàn tàu rời khỏi ga Pennsylvania, Tracy mới thấy bớt
lo ngại. Từng giây đồng hồ, nàng đă đợi một bàn tay nặng nề chộp
lấy vai, một giọng nói cất lên “Cô đă bị bắt”. Nàng cẩn thận để
ư các hành khách khi họ lên tàu, và không thấy có biểu hiện ǵ
lo ngại. Tuy vậy, đôi vai nàng vẫn run run v́ căng thẳng, cố tự
nhủ rằng khó ai có thể phát hiện ra vụ trộm vào lúc này, và ngay
cả trong trường hợp như vậy, cũng không có chứng cớ ǵ liên hệ
tới nàng được. Conrad Morgan sẽ chờ nàng ở St. Louis với 25 ngàn
đô la. Hai mươi lăm ngàn mà nàng có thể tự tiêu pha! Nàng phải
làm việc ở nhà băng cả năm trời mới có thể kiếm được số tiền đó.
Ḿnh sẽ đi châu Âu, Tracy nghĩ. Paris. Không, không phải là
Paris. Charles và ḿnh định đi tuần trăng mật ở đó. Ḿnh sẽ đi
London. Ở đó ḿnh sẽ không c̣n là một con chim trong lồng nữa.
Cứ như nàng vừa được tái sinh vậy.
Khóa cánh cửa ngăn riêng của ḿnh lại, nàng lấy cái túi da và mở
xem. Một dăy những viên đá lấp lánh tràn xuống tay. Có ba cái
nhẫn kim cương lớn, một cái nạm ngọc, một cái ṿng đeo bằng
Saphia, ba đôi khuyên tai, và hai dây chuyền, một bằng ngọc
Rubi, một bằng ngọc trai.
Chỗ nữ trang này trị giá tới hơn một triệu đô la. Tracy sững sờ
cả người.
Và trong lúc con tàu đang băng băng lướt qua vùng Đồng quê, nàng
ngả người trong ghế và đầu óc thoáng hiện lại những diễn biến
của buổi tối. Thuê xe ... chạy tới Sea Cliff ... sự yên lặng của
màn đêm ... ngắt hệ thống báo động và xâm nhập vào ngôi nhà ...
mở két ... choáng váng v́ tiếng chuông báo động ... sự xuất hiện
nhanh chóng của cảnh sát. Họ không thể nào h́nh dung được rằng
người phụ nữ mặt đầy kem phấn, tóc quấn lô lại chính là tên trộm
mà họ đang t́m kiếm.
Giờ đây, ngồi thanh thản trong ngăn riêng trên chuyến tàu đi St.
Louis, Tracy cho phép ḿnh mỉm một nụ cười hài ḷng. Việc qua
mặt cảnh sát làm nàng thấy thích thú. Có cái ǵ đó thật hấp dẫn
khi kề sát một nguy hiểm nào đó rồi lại vượt qua được. Nàng cảm
nhận thấy sự táo bạo, thông minh, và sự chiến thắng trong chuyện
đó, có cảm giác thật khoan khoái.
Có tiếng gơ vào ngăn của nàng. Tracy vội vă cho đồ nữ trang vào
túi da và đặt cái tín vào trong vali, lấy chiếc vé tàu ra, và mở
cửa. Một người chừng ngoài ba mươi, c̣n người kia th́ già hơn
khoảng chục tuổi. Người trẻ tuổi hơn vẻ khôi ngô, ria mép nhỏ
gọn, mang một cặp kính gọng sừng và đằng sau đó là đôi mắt ra vẻ
thông minh. Người lớn tuổi hơn dáng dấp nặng nề, tóc dầy đen,
mắt nâu, lạnh như tiền:
“Tôi có thể giúp ǵ các ông?” Tracy hỏi.
“Vâng, thưa tiểu thư”. Người lớn tuổi đáp. Ông ta móc ví và giơ
ra một tấm căn cước ...
CỤC ĐIỀU TRA LIÊN BANG BỘ TƯ PHÁP - HOA KỲ.
“Tôi là nhân viên đặc biệt Dennis Trevor. Đây là nhân viên đặc
biệt Thomas Bowers”.
Miệng Tracy chợt khô đắng, nàng cố gượng cười.
“Ôi ... e rằng tôi chẳng hiểu ǵ cả. Có chuyện ǵ chăng?”.
“Tôi e là như thế đấy, thưa cô”, người nhân viên trẻ lên tiếng.
Anh ta nói giọng miền Nam mềm mại. “Cách đây vài phút, đoàn tàu
này đă vào địa phận New Jersey.
Việc chuyên chở đồ ăn cắp từ bang này sang bang khác là một hành
vi vi phạm pháp luật Liên bang”.
Tracy muốn ngất xỉu. Như có một tấm phim mờ chắn trước mắt vậy,
tất cả đều nḥa đi.
Người đàn ông đứng tuổi, Dennis Trevor nói. “Mời cô mở hành lư
ra nào?”.
Đó không phải một đề nghị, mà là mệnh lệnh.
Hy vọng duy nhất của nàng là chỉ c̣n cách giả vờ như không biết
ǵ. “Dĩ nhiên là tôi sẽ không mở! Tại sao các ông lại dám xông
vào buồng tôi như thế này!” Giọng nàng đầy vẻ phẫn nộ. “Có phải
tất cả công việc của các ông là đi ṿng ṿng quấy nhiễu các công
dân vô tội không? Tôi sẽ gọi người phụ trách toa xe”.
“Chúng tôi đă nói với người phụ trách toa xe này rồi” Trevor
nói.
Sự giả vờ của nàng thật không đạt kết quả ǵ. Nàng lắp bắp. “Các
ông ... có giấy phép khám xét không?”.
Người đàn ông trẻ nói nhẹ nhàng. “Chúng tôi không cần phải có
giấy phép đó, thưa cô Whitney. Chúng tôi đă biết từ khi hành
động phạm tội của cô đang diễn ra cơ”.
Vậy là họ thậm chí biết cả tên. Nàng đă bị sập bẫy. Không c̣n
lối thoát nào.
Hết cả rồi.
Trevor bước đến mở va li. Việc ngăn lại chẳng c̣n ích ǵ Tracy
đứng nh́n trong lúc người đàn ông trẻ lục lọi và lôi cái túi da
ra, mở xem nó và nh́n đồng nghiệp rồi gật đầu. Tracy không c̣n
đứng nói. Nàng ngồi sụp xuống ghế.
Trevor móc trong túi quần ra một danh mục, làm vẻ kiểm tra mấy
thứ đồ trong cái túi da theo danh mục đó và nhét cái túi vào
người. “Đủ cả đấy, Tom”.
“Làm sao ... Làm sao mà các ông phát hiện ra?” Tracy đau đớn
hỏi.
“Chúng tôi không được phép đưa ra một thông tin ǵ”, Trevor đáp.
“Cô đă bị bắt. Cô có quyền im lặng và có quyển thuê một luật sư
đại diện cho cô trước khi cô nói bất cứ điều ǵ. Mọi điều cô nói
lúc này có thể được dùng làm bằng chứng chống lại chính cô. Cô
hiểu chưa?”.
Nàng lí nhí đáp, “Vâng”.
Thomas Bowers nói. “Tôi rất lấy làm tiếc về chuyện này. Ư tôi
muốn nói, tôi biết lai lịch cô, vả tôi thực sự lấy làm tiếc”.
“Lạy Chúa”, người đàn ông lớn tuổi kêu lên. “Đây đâu phải là một
cuộc thăm viếng xă giao”.
“Tôi_biết, nhưng tuy vậy ...”.
Người đàn ông lớn tuổi ch́a ra trước Tracy chiếc c̣ng tay. “Yêc
cầu đưa tay đây”.
Tracy thấy tim thắt lại v́ đau khổ, bỗng nhớ cảnh ở sân bay New
Orleans khi mà họ khóa tay nàng, những ánh mắt ḍm ngó. “Xin
ông. Các ông ... các ông có buộc phải làm thế không?”.
“Vâng, thưa cô”.
Người trẻ tuổi nói khẽ. “Tôi có thể nói riêng với anh một chút
không, Dennis?”.
Dennis Trevor nhún vai. “Được”.
Hai người bước ra ngoài hành lang. Tlacy thờ thẫn và tuyệt vọng,
lơm bơm nghe tiếng hai người kia.
“Lạy Chúa, Dennis, không nhất thiết phải c̣ng cô ta làm ǵ. Cô
ta sẽ chẳng trốn đi đâu:..”.
“Đến khi nào th́ mới thôi cái kiểu đa cảm này đi, hả” Khi mà anh
cũng đă phục vụ ở cơ quan này lâu như tôi tồi ...”.
“Nào. Nương tay cho cô ta một chút. Cô ta đă đủ hoảng hốt lắm
rồi và ...”, Không cần biết chuyện cô ta sẽ làm ǵ ...”.
Nàng không nghe được phần cuối, và cũng không muốn nghe ǵ nữa
hết.
Họ trở vào. Người đàn ông lớn tuổi có vẻ bực dọc.
“Thôi được” ông ta nới. “Chúng tôi sẽ không c̣ng tay cô nữa. Tới
ga sau chúng tôi sẽ đưa cô xuống. Chúng tôi sẽ báo trước cho xe
của Cục ra chờ. Cô không được rời khỏi đây rơ chưa?”.
Không c̣n có thể làm ǵ được nữa. Bây giờ th́ không được rồi đă
quá muộn.
Nàng đă bị bắt quả tang. Bằng cách nào đó, cảnh sát đă theo dơi
được nàng và thông báo cho FBI biết.
Hai người nhân viên đang ở ngoài hành lang nói chuyện ǵ đó với
người phụ trách toa xe. Bower chỉ Tracy và nói ǵ mà nàng không
nghe được. Người phụ trách toa xe gật đầu. Bowes đóng cánh cửa
lại, và với Tracy, nó như cánh cửa pḥng giam vừa sập vào.
Cảnh đồng quê lướt nhanh, những bức tranh thoáng hiện qua khung
cửa sổ, thế nhưng Tracy không hề thấy ǵ hết. Nàng ngồi đó, chết
lặng v́ sợ hăi, lo âu.
Tai nàng ù lên, dù không phải do tiếng động của con tàu. Nàng sẽ
không có thể c̣n một cơ hội thứ hai nữa. Nàng là một tội phạm
nguy hiểm. Họ sẽ dành cho nàng bản án nặng nhất, và lần này th́
sẽ không c̣n có dứa con nhỏ của ông tổng giám thị để mà cứu nữa,
sẽ không c̣n ǵ cả ngoài những năm tù khủng khiếp gần như kéo
dài vô tận. Và Bertha Lớn nữa.
Làm sao mà họ biết được nhỉ? Tracy tự hỏi. Người duy nhất biết
về vụ này là Conrad Morgan, và ông ta không có lư do ǵ để trao
nàng và túi kim cương cho FBI cả. Có thể là một nhân viên nào đó
trong cửa hiệu của ông ta đă biết chuyện và báo trước cho cảnh
sát. Nhưng dù chuyện thế nào th́ với nàng cũng chẳng có ǵ khác
cả. Nàng đă bị bắt. Tại ga tới nàng sẽ lại bị đưa trở lại nhà
tù. Sẽ có một cuộc hỏi cung sơ bộ, rồi phiên ṭa, và rồi ...
Tracy nhắm nghiền mắt lại, không muốn nghĩ thêm ǵ nữa, cảm thấy
những giọt những mắt nóng hổi lăn xuống hai bên má.
Đoàn tàu bắt đầu chạy chậm lại. Tracy thở mạnh, như thấy ngạt
hơi vậy.
Hai nhân viên FBI kia sẽ quay lại bây giờ thôi Một nhà ga hiện
ra và ít giây sau đoàn tàu dừng hẳn lại. Đă đến lúc phải đi.
Tracy đóng va li lại, mặc áo khoác và lại ngồi xuống, nh́n chằm
chằm vào cánh cửa, chờ đợi nó bật mở. Mấy phút trôi qua. Không
thấy hai người đàn ông kia xuất hiện. Họ đang 1àm ǵ nhỉ? Nàng
nhớ lời họ nói. “Chúng tôi sẽ đưa cô xuống ở ga sau. Chúng tôi
sẽ báo trước cho xe của Cục ra chờ. Cô được được rời khỏi đây”.
Nàng nghe tiếng người phụ trách toa xe. “Tất cả đă lên ...”
Tracy bắt đầu lo.
Có thể ư họ là sẽ chờ nàng ở dưới sân ga. Chắc là vậy. Nếu nàng
cứ ngồi lại trên tàu, họ sẽ buộc nàng thêm tội định chạy trốn,
và điều đó sẽ làm cho t́nh h́nh xấu hơn nữa. Tracy chộp lấy cái
va li và vội vă bước ra hành lang.
Người phụ trách toa xe chạy lại. “Cô xuống đây à, thưa cô?” Ông
ta hỏi. “Cô nên nhanh lên đi. Để tôi giúp nào. Một người phụ nữ
trong t́nh trạng sức khỏe như cô th́ không nên mang vác ǵ”.
Tracy nh́n ông ta. “T́nh trạng sức khỏe của tôi sao cơ?
“Cô chẳng việc ǵ phải ngượng ngùng. Hai người anh cô đă bảo tôi
là cô đang có thai và đề nghị tôi lưu ư tới cô một chút”.
“Các anh tôi ...”.
“Những chàng trai rất tốt. Họ thực sự lo lắng cho cô đấy”.
Tracy thấy tất cả đều quay cuồng, chao đảo.
Người phụ trách toa xe giúp Tracy bước xuống. Đoàn tàu bắt đầu
chuyển bánh.
“Ông có biết các anh tôi đi đâu không?” Tracy gọi với lên.
“Thưa cô, không. Khi tàu mới dừng bánh th́ họ đă nhảy vào một
chiếc tắc xi”.
Với túi kim cương bị lấy cắp trị giá cả triệu đô la, Tracy hậm
học nghĩ.
Tracy quyết định ra sân bay. Đó là nơi duy nhất mà nàng có thể
nghĩ tới.
Nếu bọn chúng lên tắc xi có nghĩa là bọn chúng không có phương
tiện riêng, và chắc chắn là chúng muốn chuồn khỏi thị trấn này
càng sớm càng tốt.
Nàng ngả người trên ghế tắc xi, giận dữ v́ điều chúng đă làm đối
với nàng và xấu hổ v́ đă để chúng lừa gạt quá dễ dàng. Ồ, nhưng
chúng quả là giỏi, cả hai gă thực sự giỏi, đă tạo ra vẻ hết sức
thuyết phục. Nàng thấy đỏ mặt v́ đă bị bẫy bằng những cái tṛ
cảnh sát thật - cảnh sát giả quá cũ kỹ.
Lạy Chúa, Dennis, không cần thiết phải c̣ng tay cô ta làm ǵ. Cô
ta sẽ chẳng trốn đi đâu ...
“ôĐến khi nào th́ mới thôi cái kiểu đa cảm này đi, hả. Khi mà
anh cũng phục vụ ở cơ quan này lâu như tôi rồi ...
Cơ quan này? Có thể cả hai gă cũng đang là những kẻ bị truy nă.
Được, nàng sẽ giành lại số kim cương đó cho bằng được. Nàng đă
trải qua quá nhiều gian nguy và không đời nào chịu để hai kẻ lừa
đảo này qua mặt. Miễn rằng phải đến được sân bay kịp thời. Nàng
dướn lên nói với người lái xe. “Xin chạy nhanh hơn nữa được
không?”.
Họ đang đứng trong hàng người chờ lên máy bay ở cổng đi và thoạt
đầu nàng đă không nhận ra họ ngay được. Gă trẻ hơn, kẻ tự xưng
là Thomas Bowers đă bỏ kính, bỏ ria mép, và màu mắt đă chuyển từ
xanh sang xám. Người kia, Deunis Trevor, giờ đây hói đầu chứ
không phải là có mớ tóc dày và đen nữa.
Tuy nhiên, không thể nhầm họ được. Họ đă không đủ thời gian để
thay quần áo.
Khi Tracy đến th́ hai gă đă gần sát tới cổng vào.
“Các ông quên một thứ”. Tracy nói.
Họ cùng quay lại và giật ḿnh. Gă trẻ hơn cau mặt.
“Cô làm ǵ ở đây hả? Người ta đă phái một chiếc xe ra đón cô cơ
mà”. Giọng nói miền Nam của gă đă biến đâu mất.
“Vậy tại sao ta không cùng quay lại kiếm chiếc xe?”.
Tracy đề nghị.
“Không thể. Chúng tôi đang theo một vụ khác.
Trevor giải thích. “Chúng tôi phải kịp chuyến bay này”.
“Trước hết, hăy trả lại tôi túi kim cương”, Tracy đ̣i.
“Sợ rằng chúng tôi không thể làm thế được”, Thomas Bower nói.
“Đó là tang vật. Chúng tôi sẽ gửi cho cô một giấy biên nhận”.
“Không. Tôi không cần giấy biên nhận. Tôi muốn trả lại túi kim
cương kia”.
“Rất tiếc”, Trevor đă giơ giấy lên máy bay cho nhân viên kiểm
soát. Tracy nh́n quanh, tuyệt vọng, và thấy một viên cảnh sát
sân bay đứng gần đó, nàng kêu lên, “Ống sĩ quan! Ông sĩ quan!”.
Hai gă đàn ông kia nh́n nhau, hất hoảng.
“Cô làm cái quỷ quái ǵ thế, hả? “ Trevor khẽ rít lên.
“Cô muốn cả bọn đều bị tóm hả?”.
Viên cảnh sát đă đến bên họ. “Ǵ vậy, cô gái? Có việc rắc rối ǵ
không?”.
“Ôi, không có rắc rối ǵ đâu”, Tracy vui vẻ nói. “Hai quư ông
tuyệt diệu này đă t́m thấy chỗ nữ trang mà tôi đánh mất, và họ
mang trả lại cho tôi. Tời đă sợ rằng phải đến FBI v́ việc này
rồi đó”.
Hai gă kia cuống cuồng nh́n nhau.
“Họ cho rằng có thể ông sẽ vui ḷng đưa tôi ra tắc xi”.
“Chắc chắn là thế, rất vui ḷng”.
Tracy quay sang hai gă kia. “Bây giờ th́ an toàn rồi, các ông
trao chỗ kim cương lại cho tôi. Ông sĩ quan đáng mến này sẽ giúp
tôi”.
“Không nên như thế”. Tom Bowers phản đối. “Sẽ tốt hơn nhiều nếu
chúng tôi ...”.
“Ồ không, tôi muốn vậy”. Tracy giục. “Tôi biết việc đi kịp
chuyến bay này là rất quan trọng đối với các ông.
Hai gă nh́n viên cảnh sát, rồi nh́n nhau, bất lực. Họ không c̣n
có thể làm ǵ được. Rất miễn cưỡng, Tom Bowers móc túi ra lấy ra
cái túi da.
“Nó đây rồi!” Tracy kêu lên, đỡ cái túi từ tay gă, mở ra xem,
“ơn Chúa, đủ cả”.
Tom Bowers cố vớt vát. “Tại sao không để chúng tôi giữ hộ cho
đến lúc cô”.
“Chẳng cần phải thế”. Tracy vui vẻ đáp rồi mở ví cất chỗ kim
cương vào và lấy ra hai tờ 5 đô la, đưa cho mỗi gă một tờ. “Đây
là một chút tượng trưng cho sự đánh giá cao của tôi đối với việc
mà hai ông đă làm”.
Tất cả hành khách đă vào hết. Nhân viên hàng không nói. “Đây là
lời nhắc cuối cùng. Tất cả quư khách phải lên máy bay ngay”.
“Cảm ơn các ông một lần nữa”. Tracy mỉm cười bước đi với viên
cảnh sát.
“Thời buổi bây giờ thật khó t́m được người lương thiện”.
Chương 18
Thomas Bowers - tức Jeff Stevens - ngồi bên cửa sổ nh́n
ra ngoài trong lúc chiếc máy bay cất cánh. Anh đưa khăn mùi xoa
lên mắt và hai vai rung rung lên xuống.
Dennis Trevor - tức Brandon Higgins - ngồi kế bên, ngạc nhiên.
“Này”, ông ta nói. “Chỉ là chuyện tiền bạc, có ǵ mà phải khóc”.
Jeff Stevens quay sang, nước mắt giàn giụa, và Higgins ngơ ngác
nhận ra rằng Jeff đang cười rũ rượi. “Có chuyện quỷ quái ǵ với
cậu thế Higgins hỏi.
“Cũng có ǵ đáng cười đâu”.
Với Jeff th́ lại khác. Cái cách mà Tracy Whitney đă qua mặt họ ở
sân bay là một tṛ bịp tuyệt vời nhất mà anh được chứng kiến.
Thật quả là kẻ cắp gặp bà già. Conrad Morgan đă bảo rằng người
phụ nữ này chỉ là một kẻ nghiệp dư. Lạy Chúa, Jeff nghĩ, cô ta
sẽ đến thế nào nếu là chuyên nghiệp nhỉ? Tracy Whitney chắc chắn
là người đàn bà đẹp nhất mà Jeff Stevens từng thấy. Và thông
minh nữa. Jeff vốn tự hào là người giỏi nhất trong nghề lừa bịp
này, thế mà cô ta đă vượt qua anh. Chú Willie cũng sẽ phải mến
cô ta, Jeff nghĩ bụng.
Chú Willie là người dạy dỗ Jeff. Mẹ Jeff, người được thừa kế một
tài sản lớn, đă cưới một người đàn ông đầy ảo tưởng với những
giấc mộng làm giàu mau chóng, chỉ có điều những giấc mộng đó
chẳng bao giờ thành hiện thực cả Cha Jeff là một người đàn ông
đầy sức hấp dẫn, cực kỳ đẹp trai và mồm miệng th́ không ai sánh
kịp. Chỉ năm năm sau ngày cưới, ông đă phá tan cả cái cơ nghiệp
được thừa kế của vợ. Những hồi ức sớm nhất của Jeff khi c̣n rất
nhỏ là việc cha mẹ căi lộn về tiền bạc và những cuộc ngoại t́nh
của cha. Đó là một cuộc hôn nhân khủng khiếp và cậu bé quyết
tâm:
Ḿnh sẽ không bao giờ lấy vợ cả:
Không bao giờ.
Người em của cha cậu, chú Willie, làm chủ một gánh tạp kỹ nhỏ
lang thang đây đó, và bất kỳ khi nào đi ngang vùng Marion, Ohio,
nơi mà gia đ́nh Stevens sống, chú cũng đến thăm. Chú là một
người đàn ông vui vẻ nhất mà Jeff từng biết, đầy nhưng lời hứa
hẹn về một ngày mai tươi đẹp Chú luôn luôn mang tới những thứ
quà hấp dẫn, và dạy Jeff những tṛ ảo thuật tuyệt diệu. Chú
Willie đầu tiên làm nghề ảo thuật trong một gánh xiếc và khi nó
sắp tan vỡ th́ chú bèn nắm lấy nó.
Khi Jeff mười bốn tuổi, mẹ cậu chết trong một tai nạn xe hơi.
Hai tháng sau, cha Jeff cưới một cô hầu bàn mười chín tuổi. “Một
người đàn ông sống độc thân là hoàn toàn phi tự nhiên”. Cha giải
thích như thế. Song cậu th́ hết sức bất b́nh, cảm thấy sự phản
bội ở vẻ vô t́nh của cha.
Cha Jeff làm nghề giao hàng và phải vắng nhà ba ngày trong tuần.
Một đêm, khi Jeff ở nhà một ḿnh với người mẹ kế, cánh cửa buồng
ngủ của cậu bị mở ra đă làm cậu thức giấc. Tí tẹo sau cậu cảm
thấy một tấm thân trần truồng, mềm mại áp sát vào ḿnh. Jeff
hoảng hất nhổm dậy.
“Ôm chị đi, Jeff bé bỏng”, người mẹ kế trẻ tuổi thầm th́. “Chị
sợ sấm lắm”.
“Làm ... làm ǵ có sấm”. Jeff lắp bắp.
“Nhưng mà có thể có. Báo nói là trời mưa mà”. Cô ta áp chặt tấm
thân trần truồng lên người cậu bé. “Làm t́nh với chị đi”.
Jeff hoảng sợ. “Được. Ta chơi trong giường của bố nhé”.
“Được chứ?” Cô ta cười khoái chí. “Cho thêm lạ, phải không?”.
“Tôi sẽ sang đó ngay”. Jeff hứa.
Cô ta trườn ra khỏi giường đi sang pḥng ngủ kia. Jeff chưa bao
giờ mặc quần áo nhanh đến thế. Cậu nhảy qua cửa sổ đi về phía
Cimarron, bang Kansas, nơi gánh tạp kỹ của chú Willie đang biểu
diễn, không hề ngoái cổ lại.
Khi chú Willie hỏi v́ sao bỏ nhà ra đi, cậu chỉ nói:
“Cháu không hợp với mẹ kế”.
Chú Willie gọi điện cho cha Jeff, và sau một hồi nói chuyện dài
đă đi đến quyết định là cậu bé sẽ ở lại gánh tạp kỹ. “Nó sẽ học
ở đây được nhiều hơn ở bất cứ một trường học nào”, chú Willie
hứa hẹn.
Bản thân gánh tạp kỹ là cả một thế giới. “Không phải chúng ta
diễn một thứ tṛ vặt ngày chủ nhật ở trường học”, chú Willie
giải thích cho Jeff. “Chúng ta là những nghệ sĩ lừa gạt. Thế
nhưng, con ạ, phải nhớ rằng, không thể bịp người ta trừ phi họ
bắt đầu nổi ḷng tham”.
Những thành viên trong gánh đều trở thành bạn của Jeff. Gánh
cũng có một nhóm các cô gái trẻ, và họ bị cậu bé trẻ trung hấp
dẫn. Jeff thừa hưởng tính nhạy cảm của mẹ và vẻ đẹp của người
cha, và các cô gái đă tranh giành nhau xem ai là người “được”
làm mất đi sự trinh tiết của Jeff.
Bài học vỡ ḷng về t́nh dục của Jeff diễn ra với một cô gái xinh
đẹp phụ trách tiết mục uốn dẻo và trong vài năm liền cô ta đă là
cái mẫu để những người đàn bà khác noi theo.
Chú Willie đă thu xếp để Jeff có cơ hội được làm tất cả các ngón
nghề khác nhau của gánh tạp kỹ.
“Một ngày nào đó, tất cả những thứ này sẽ là của cháu”, chú
Willie bảo, “và cách duy nhất để có thể nắm giữ nó là phải rành
về nó hơn bất kỳ kẻ nào khác”.
Jeff bắt đầu với tṛ “ném mèo”, một tṛ mà người chơi phải trả
tiền để có bóng ném vào sáu con mèo làm bằng giấy bồi với đế gỗ
sao cho chúng rơi vào một cái lưới.
Người diễn tṛ sẽ chứng minh rằng ném ngă chúng thật là dễ dàng,
nhưng khi người chơi bắt đầu ném, một “xạ thủ nấp sau tấm vải
phông sẽ nâng một cái cần để giữ vững đế gỗ của các con mèo
giấy. Có trời mà đánh ngă được chúng.
“Trời, ném hơi quá thấp đấy”, người diễn tṛ sẽ la lên.
“Chỉ có một việc là ném cho thật ngon lành”.
Từ “ngon lành” là một ám hiệu, ngay khi người diễn tṛ nói vậy,
kẻ giấu mặt kia sẽ hạ cái cần xuống và người diễn tṛ sẽ ném ngă
con mèo. Khi đó anh ta sẽ nói. “Thấy chưa?” và đó là ám hiệu để
kẻ giấu mặt lại nhấc cái cần giữ lên. Và dĩ nhiên, luôn luôn có
một anh chàng công tử nào đó muốn khoe với cô bạn gái đang khúc
khích cười cánh tay tuyệt vời của ḿnh.
Jeff cũng diễn tṛ số đếm. Một tṛ mà khách bỏ tiền để được ném
ṿng cao su lên những cái ghim cài vải có đánh số. Họ được hứa
rằng nếu tổng các con số ném được bằng đúng 20 th́ sẽ được
thưởng một thứ đồ chơi đắt tiền.
Nhưng điều mà khách chơi không biết là người diễn tṛ có thể
đánh tráo các con số để bảo đảm con số 20 không bao giờ đạt
được.
Một hôm, chú Willie nói với Jeff. “Làm tất đấy, bé con, chú tự
hào về cháu, cháu sẽ được chuyển sang diễn tṛ Skilô”.
Đám người diễn tṛ Skilô này là những thành phần tinh túy nhất,
và các thành viên khác đều nh́n họ ghen ty. Họ kiếm được nhiều
tiền hơn người khác, ngủ khách sạn hạng nhất và lái những chiếc
xe bóng lộn. Tṛ này ồm một h́nh tṛn phẳng được chía các ô có
gài một con số đánh dấu với một mũi tên thăng bằng ở giữa. Người
chơi sẽ quay một cái ṿng và khi nó dừng, mũi tên chỉ con số nào
th́ con số đó được nhấc ra. Người diễn tṛ giải thích rằng khi
nào tất cả các con số đều bị nhấc ra hết th́ người chơi sẽ được
thưởng một khoản tiền lớn.
Khi người chơi đă gần tới đích, người diễn tṛ bèn khuyến khích
đặt thêm tiền cược. Anh ta sẽ nh́n quanh với vẻ hồi hộp và th́
thào. “Tôi muốn anh thắng, bởi có thể anh sẽ thưởng cho tôi một
ít mà”.
Người diễn tṛ c̣n có thể dúi cho người chơi 5 hoặc 10 đô la và
nói. “Đặt thêm cho tôi được không? Anh không thể thua được”. Và
kẻ máu mê kia bỗng cảm thấy ḿnh có một đồng minh, hắn sẽ dốc
túi ra. Jeff trở thành sành nghề trong việc moi túi người chơi.
Khi khả năng tới đích đă rất lớn, sự kích động cũng tăng lên.
Jeff sẽ kêu lên. “Giờ th́ anh không thể trượt nữa rồi”, Kẻ kia
sẽ đặt thêm tiền và có khi c̣n chạy về nhà lấy nữa, dĩ nhiên là
hắn ta chẳng bao giờ được cả.
Keren, một vũ nữ xinh đẹp c̣n rủ rê Jeff chơi tṛ “Ch́a khóa”.
“Sau khi đă xong việc mồm mép cám dỗ mọi người”, vào tối thứ
bảy, Karen nói với Jeff. “Gọi vài ông khách ra, từng người một,
và bán cho họ một chiếc ch́a khóa của cái buồng ngủ lưu động của
tôi nhé”.
Mỗi chiếc ch́a này giá 5 đô la. Tới nửa đêm, cả tá đàn ông, có
khi nhiều hơn nữa, đợi chờ tới nhoài người ra quanh chỗ xe ngủ
của Keren. Trong khi đó, ở một khách sạn trong thành phố, Karen
đang trần truồng ôm Jeff. Hôm sau, khi đám đàn ông này kéo tới
để trả thù th́ gánh tạp kỹ đă lên đường lâu rồi.
Trong bốn năm từ khi bỏ nhà ra đi, Jeff đă hiểu được nhiều về
bản chất con người. Cậu phát hiện ra rằng để gợi lên ḷng tham
của ai đó thật là dễ dàng. Họ tin vào những điều không thể tin
được chỉ v́ ḷng tham đă buộc họ phải tin vào đó. Vào tuổi 18,
Jeff đẹp trai đến mức làm các cơ gái phải choáng váng. Ngay một
phụ nữ hờ hững nhất cũng lập tức để ư và mến mộ cặp mắt tơ màu
xám, dáng người cao và mớ tóe đen quăn của cậu. Những người đàn
ông th́ khoái vẻ hài hước, thoải mái, thông minh mà Jeff có.
Thậm chí đám trẻ con, dường như thấy ḿnh cũng đang nới chuyện
với một đứa trẻ trong con người Jeff và bao giờ cũng đặt ngay
ḷng tin vào cậu. Đám khách nữ luôn phỉnh phờ tán tỉnh Jeff
nhưng chú Willie cảnh cáo cậu.
“Tránh xa bộn con gái thành phố ra, cậu bé của ta. Cha chúng nó
thường là cảnh sát trưởng cả đấy?”.
Việc Jeff phải từ giă gánh tạp kỹ ra đi là do vợ của người ném
dao. Đoàn tới biểu diễn ở Milledgeville, bang Goergia, và những
ngôi lều được dựng lên. Một tiết mục mới đă được kư hợp đồng với
nghệ sĩ ném dao người Sicin được mệnh danh là Zobini vĩ đại và
cô vợ tóc vàng hấp dẫn của ông ta.
Trong khi Zorbini vĩ đại đang cùng đoàn dàn dựng các đồ nghề th́
vợ ông ta mời Jeff tới pḥng riêng của vợ chồng họ trong khách
sạn ở thành phố.
“Zorbini sẽ bận bịu suốt ngày”. Chị ta nói với Jeff.
“Chúng ta hăy vui với nhau một chút nhé”.
Nghe được quá.
“Hăy đi đâu một giờ rồi trở lại đây “. Chị ta nói.
“Sao lại phải đi đâu một giờ vậy?” Jeff hỏi.
Chị ta nhoẻn cười. “Phải chừng ấy th́ tôi mới chuẩn bị mọi thứ
sẵn sàng được”.
Sự ṭ ṃ của Jeff tăng lên, và sau cùng, khi quay lại, chị ta
đón cậu ở cửa vào, trần truồng. Jeff choàng tay ôm, nhưng chị ta
ngăn lại và nói. “Vào đây đă”.
Cậu ta theo vào pḥng tắm và trố mắt ngạc nhiên. Chị ta đă bơm
đầy nước ấm vào bồn và ḥa vào đó sáu thứ nước trái cây có ga.
“Cái ǵ thế này?” Jeff hỏi.
“Món khai vị đó. Cởi quần áo ra, chàng trai”.
Jeff làm theo.
“Nào, vào đây”.
Jeff bước vào bồn tắm và ngồi xuống, cảm giác thật là đặc biệt.
Thứ nước thơm tho, trơn trơn này như thấm vào từng thớ thịt, xoa
bóp khắp cơ thể. Người phụ nữ tóc vàng cũng ngồi vào theo.
Giữa lúc đó, cửa pḥng tắm bật mở và Zorbini vĩ đại xông vào.
Người đàn ông Sicin thoáng nh́n cảnh tượng ấy và gầm lên.
Jeff không kịp nghe ông ta quát ǵ nữa, nhưng cái cơn giận đó
th́ cậu biết, và khi Zorbini vĩ đại lao ra ngoài để lấy dao th́
Jeff vụt nhảy ra khỏi bồn tắm, người bóng nhầy lớp nước quả và
vớ vội quần áo, nhẩy qua cửa sổ, vẫn trần truồng, lao người chạy
dọc xuống sườn đồi. Cậu nghe thấy một tiếng thét phía sau và cảm
thấy tiếng rít của lưỡi dao vụt qua đầu cậu. Vèo, một lưỡi dao
nữa, và lúc này cậu đă ở ngoài tầm ném. Cậu vội vă mặc quần áo
và đi ra bến xe, nhảy lên một chiếc xe buưt và rời khỏi thành
phố.
Sáu tháng sau, Jeff đă ở Việt Nam.
Mỗi người lính nghĩ về cuộc chiến tranh mỗi khác và Jeff rời
Việt Nam với sự bất măn nặng nề đối với giới cầm quyền và sự
khinh ghét bộ máy quan liêu. Anh đă tham gia hai năm vào một
cuộc chiến tranh không thể chiến thắng và sững sờ bởi sự phung
phí tiền của và sinh mạng con người, ghê tởm với sự phản bội và
lừa gạt của các tướng lĩnh và các chính sách - những kẻ miệng
lưỡi dối trá. Ta đă bị lôi kéo vào một cuộc chiến tranh không ai
mong muốn, Jeff nghĩ.vậy. Một tṛ bịp. Tṛ bịp lớn nhất thế giới
này.
Một tuần sau khi giải ngũ, Jeff nhận được tin về cái chết của
chú Willie.
Gánh tạp kỹ đóng cửa. Quá khứ đă kết thúc. Bây giờ đă đến lúc
Jeff phải sống với tương lai.
Tiếp theo là một loạt những cuộc phiêu lưu. Đối với Jeff, cả thế
giới này lả một màn tạp kỹ và mọi người đều là đối tượng để anh
lừa gạt. Jeff đă đăng quảng cáo trên báo bán mỗi tấm h́nh màu
của tổng thống với giá một đô la đặt mua rồi gửi cho nạn nhân
một con tem bưu điện có h́nh tổng thống trên đó.
Jeff cho loan báo trên các tạp chí nhắc nhở công chúng chỉ c̣n
sáu mươi ngày để gửi vào 5 đô la, rằng sau hạn đó là thôi không
nhận nữa. Lời quảng cáo không nói cụ thể 5 đô la sẽ mua được cái
ǵ, thế mà tiền vẫn cứ đổ vào.
Jeff yêu thích các loại tàu thuyền và có hôm, một người bạn mách
rằng có chỗ làm việc trên một chiếc tàu đi Tahiti, Jeff đă kư
hợp đồng làm thủy thủ trên tàu đó.
Con tàu thật là đẹp, dài khoảng sáu mươi mét, nổi bật lên dưới
ánh nắng.
Tất cả các cánh buồm đều rộng mở. Mặt boong đóng bằng gỗ tếch,
thân tàu đóng bằng gỗ lim sam Ogeron.
Trên tàu có một pḥng ăn lớn cho mười hai người, một pḥng bếp ở
phía mũi trước. Ngoài thuyền trưởng, một người phục vụ và một
đầu bếp, nhóm thủy thủ gồm có năm người. Công việc của Jeff là
rút kéo buồm lên, lau bóng những khu cửa sổ bằng đồng, và leo
trèo trên các xà ngang để rút gấp buồm lại.
Chuyến đi này con tàu chở một nhóm hành khách gồm tám người.
“Chủ của nó là Hollander”. Người bạn của Jeff nói vậy.
Trên thực tế, chủ con tàu là cô Louise Hollander xinh đẹp, tuổi
hai mươi lăm, có mái tóc vàng óng ả. Cha cô là chủ của cả nửa
vùng Trung Mỹ. Các hành khách khác đều là bạn bè cô chủ mà đám
đồng nghiệp của Jeff giờ là những kẻ trên tiền.
Ngày đầu tiên ra khơi, trong lúc Jeff đang làm việc dưới ánh
nắng gay gắt, đánh bóng những tay vịn bọc đồng trên boong th́
Louise Hollanđer dừng lại bên.
“Cậu mới lên tàu này?”.
“Jeff nh́n lên. “Vâng”.
“Cậu có một cái tên chứ?”.
“Jeff Stevens”.
“Đó là một cái tên đẹp”. Jeff im lặng. “Cậu biết tôi là ai
không?”.
“Không”.
“Tôi là Louis Hollander, chủ con tàu này”.
“Tôi hiểu. Vậy là tôi làm việc cho cô”.
Cô ta nở một nụ cười hờ hững. “Đúng vậy”.
“Vậy th́ nếu muốn đồng tiền của cô là có ích, hăy nên để tôi
tiếp tục công việc của ḿnh”. Jeff bước tới cái trụ tiếp theo.
Ở các pḥng nghỉ của họ, vào ban đêm, đám thủy thủ thường kể
những câu chuyện giễu cợt về đám hành khách. Thế nhưng Jeff phải
tự thú nhận với ḿnh rằng cậu rất ghen tỵ với họ - về tiểu sử,
học vấn, và phong cách thoải mái vân vân ... Họ xuất thân từ các
gia đ́nh giàu có và được học hành ở các trường hạng nhất. C̣n
trường học của cậu chỉ là chú Willie và gánh tạp kỹ khốn khổ
kia.
Một trong những thành viên của gánh đă từng là giáo sư khảo cổ
học trước khi bị ném ra khỏi trường v́ tội đánh cắp và bán các
di vật quư báu. Ông ta và Jeff thường có những cuộc tṛ chuyện
dài và vị giáo sư đă khơi dậy ở Jeff long nhiệt t́nh với khảo cổ
học. “Con có thể nh́n vào quá khứ để thấy cả tương lai nhân
loại”. Vị giáo sư nói. “Nghĩ về nó một chút, con trai ạ. Hàng
ngh́n năm trước đây đă có những người như ta và con, mơ ước
những giấc mơ, sáng tác những câu chuyện dân gian ... sống hết
đời họ, và sinh ra các tổ tiên của chúng ta”. Cặp mắt ông nh́n
về xa xăm. “Carthage - đó là nơi ta muốn tiến hành một cuộc khai
quật. Ngay từ rất lâu trước khi Jesus ra đời, nó đă là một thành
phố lớn, một Paris của châu Phí cổ đại. Dân chúng đă có những
môn thể thao, các cuộc đua xe và có nhà tắm công cộng lớn. Sân
vận động Maximuc ở đó lớn bằng năm cái sân bóng đá bây giờ vậy”
Ông ta nh́n thấy vẻ thích thú trong cặp mắt của cậu bé. “Con có
biết Cato lớn đă thường kết thúc các bài nói của ông ấy trước
thượng viện La Mă thế nào không? Ồng ấy bảo, Catharge phải bị
phá hủy.
Mong mỏi của ông ấy sau cùng đă trở thành hiện thực. Người La Mă
đă biến nơi đó thành một đống gạch vụn và hai mươi lăm năm sau
đă quay lại xây dựng trên đống tro tàn này một thành phố lớn. Ta
mong rằng một ngày nào đó có thể đưa con tới nơi ấy làm một cuộc
khai quật, cậu bé của ta ạ”.
Một năm sau, vị giáo sư đă chết v́ say rượu, c̣n Jeff th́ tự hứa
với ḿnh rằng sẽ có ngày tiến hành một cuộc khai quật ở Carthege
để tưởng nhớ vị giáo sư.
Đêm cuối cùng trước khi con tàu cặp bến Tahiti, Jeff được gọi
đến pḥng riêng của Louise Hollander. Cô ta khoác trên người cái
áo choàng bằng lụa mỏng.
“Cô muốn gặp tôi ư, cô chủ?”.
“Anh có phải là kẻ đồng tính luyến ái không, Jeff?”.
“Tôi không tin rằng đó là việc liên quan tới cô, thưa cô
Hollander, thế nhưng câu trả lời của tôi là không. Tôi là một kẻ
khó chiều”.
Louise Hollander mỉm môi lại. “Anh thích loại đàn bà nào? Gái
làm tiền chăng?”.
“Thỉnh thoảng. C̣n ǵ không, cô chủ?”.
“Có Tôi sẽ mở một bữa tiệc vào tối mai. Anh có muốn dự không?”.
Jeff nh́n người phụ nữ hồi lâu trước khi trả lời. “Sao lại
không”.
Chuyện bắt đầu theo cách đó.
Louise Hollander đă có hai đời chồng trước khi đến tuổi hai mươi
mốt, khi gặp Jeff th́ luật sư của cô ta cũng chỉ mới vừa hoàn
thành một giải pháp đối với ông chồng thứ ba. Đêm thứ hai kể từ
khi họ buông neo trong cảng Papecte, và vào lúc khách khứa cùng
đám thủy thủ đă lên bờ cả, Jeff nhận được lệnh đến khu ca bin
của Louise Hollander. Khi Jeff tới nơi, cô ta xuất hiện trong
tấm váy áo bằng lụa sặc sỡ, xẻ hai bên tới tận đùi.
“Tôi đang cố cởi cái thứ này ra”, cô ta nói. “Vậy mà cái khóa
kéo bị hỏng”.
Jeff bước lại xem xét. “Nó làm ǵ có khóa kéo”.
Cô ta nh́n vào mắt Jeff và mỉm cười. “Tôi biết chứ.
Cái đó chính là chỗ rắc rối đấy”.
Họ làm t́nh với nhau ngay trên mặt boong, nơi những làn gió
nhiệt đới nhẹ nhàng vuốt ve thân thể họ như một sự âu yếm. Sau
đó, họ nằm nghiêng người, quay mặt vào nhau. Jeff chống khuỷu
tay lên và nh́n xuống Louise. “Cha cô không phải là cảnh sát
trưởng chứ?” Jeff hỏi.
Cô ngồi dậy, ngạc nhiên. “Cái ǵ?”.
“Cô là người thành phố đầu tiên mà tôi đă ăn nằm cùng. Chú
Willie đă cảnh cáo tôi rằng cha của các cô gái thành phố thường
là cảnh sát trưởng cả”.
Từ đó, đêm nào họ cũng làm t́nh. Lúc đầu bạn bè của Louise thấy
buồn cười. Họ đă nghĩ Jeff lại là thứ đồ chơi mới của Louise.
Thế nhưng khi cô ta thông báo ư định sẽ cưới Jeff th́ họ sững
người v́ ngạc nhiên.
“Hăy v́ Chúa, Louise, cậu ta chả là cái ǵ cả. Cậu ta xuất thân
từ một gánh tạp kỹ thôi mà. Lạy Chúa, có thể là cậu đang định
cưới một gă lực điền. Cậu ta đẹp trai ... đành rằng thế. Và cậu
ta có thể làm t́nh tuyệt vời. Nhưng ngoài chuyện t́nh dục, hai
người dứt khoát là không có ǵ chung cả, bạn thân mến”.
“Louise, Jeff chỉ là thứ lót dạ chứ đâu phải bữa tiệc chiều”.
“Cô c̣n phải tính đến địa vị xă hội nữa chứ”.
“Nói thẳng ra th́ cậu ta sẽ không thể nào phù hợp được, phải vậy
không, thiên thần của tôi?”.
Nhưng không ǵ có thể lay chuyển Louise. Jeff là người đàn ông
tuyệt diệu nhất mà cô ta từng biết. Cô đă phát hiện ra rằng
những người đàn ông quá đẹp trai đều hoặc là ngu xuẩn hoặc là
chậm chạp tới mức không chịu được c̣n Jeff th́ vừa thông minh,
vừa hóm hỉnh, và sự kết hợp của hai thứ đó là một sự quyến rũ
khó mà cưỡng lại.
Khi Louise đề cập tới chuyện cưới xin, Jeff cũng kinh ngạc y hệt
như bạn bè của cô ta.
“Tại sao lại thế. Cô đă có thể xác tôi rồi c̣n ǵ. Tôi không thể
hiến cho cô cái mà tôi không có”.
“Thật đơn giản thôi, Jeff. Em yêu anh. Em muốn chia sẻ cuộc sống
của em với anh cho tới cuối đời”.
Chuyện cưới xin vốn là một ư nghĩ xa lạ, và đột nhiên vấn đề trở
thành ngược lại. Dưới vẻ bề ngoài tinh tế và quảng giao của
Louise Hollander, thực ra là một cô gái yếu đuối, đáng thương.
Cô ấy cần có ḿnh, Jeff nghĩ. Ư nghĩ về một cuộc sống gia đ́nh
ổn định, và con cái, bỗng trở nên hấp dẫn mạnh mẽ. Đối với Jeff
th́ có vẻ như là anh đă liên tục chạy một quăng đường quá dài
... dài đến không c̣n tới được nữa. Đă đến lúc phải dừng lại.
Ba ngày sau, họ kết hơn tại ṭa thị chính Tahiti.
Khi họ quay trở về New York, Jeff được triệu đến văn pḥng của
Forgarty, luật sư riêng của Louise, một người đàn ông bé nhỏ,
lạnh lùng, miệng luôn mím chặt.
“Tôi có một văn bản để anh kư đây”, viên luật sư tuyên bố.
“Loại văn bản ǵ vậy?”.
“Một cam kết. Nó chỉ xác nhận rằng trong trường hợp cuộc hôn
nhân của anh với Louise Hollander ...”.
“Louise Stenvens chứ?”.
“Với Louise Stenvens tan vỡ, anh sẽ không đ̣i chia sẻ về tài
chính đối với ...”.
Jeff nghiến răng. “Kư vào đâu?”.
“Anh không muốn ngồi đọc xong à?”.
“Không. Tôi không cho rằng ông hiểu vấn đề. Tôi không cưới cô ta
v́ cái chuyện tiền bạc chết tiệt ấy”.
“Đúng vậy, ông Stenvens? Tôi chỉ ...”.
“Ông muốn tôi kư vào đó hay không?”.
Viên luật sư đặt tờ giấy ra trước Jeff. Anh nghuệch ngoạc kư vào
rồi hầm hầm bỏ ra ngoài. Chiếc xe hơi sang trọng của Louise và
người tài xế đă đợi sẵn.
Khi chui vào xe, Jeff bật cười. Có trời mà biết tại sao ḿnh lại
nổi đóa lên như thế” Cuộc đời ḿnh là cuộc đời của một kẻ lường
gạt, và lần đầu tiên khi ḿnh định ngay thẳng th́ người ta lại
sợ bị lừa - Jeff thấy ḿnh xử sự thật kỳ cục.
Louise đưa Jeff tới một hiệu may hạng nhất ở Manhattan “Trông
anh sẽ thật tuyệt vời trong bộ đồ buổi tối đấy” cô ta dỗ dành.
Và quả là thế thật. Chị chưa đầy hai tháng sau ngày cưới, cô bạn
thân nhất của Louise đă cố quyến rũ chàng thanh niên tuấn tú mới
xuất hiện này, thế nhưng Jeff lờ hết. Anh quyết tâm làm cho cuộc
hôn nhân trở thành tốt đẹp.
Budge Hollander, anh trai của Louise, tiến cử Jeff làm một chân
hội viên trong câu lạc bộ dành riêng Pilgrim New York, và được
chấp thuận. Budge 1à một người đàn ông to béo, tuổi trung niên,
chủ một công ty tàu biển, một đồn điền trồng chuối, nhiều đồng
cỏ chăn nuôi, một công ty đóng thịt hộp, và nhiều thứ khác nữa
mà Jeff không đếm xuể. Budge Hollander đă chẳng cần giấu giếm sự
khinh thị của ông ta với Jeff.
“Thật ra th́ cậu không thuộc tầng lớp chúng tôi, phải vậy không?
Nhưng chừng nào cậu làm hài ḷng Louise trên giường, th́ chừng
đó mọi chuyện sẽ tết cả. Tôi rất yêu quư em gái tôi”.
Jeff đă phải dùng hết sức mạnh ư chí để tự kiềm chế. Ḿnh không
cưới cái lăo khốn kiếp này. Ḿnh cưới Louise - anh tự nhủ.
Những hội viên khác của câu lạc bộ Pilgrin th́ cũng tệ hại như
vậy. Họ thấy Jeff thật đáng tức cười, các buổi trưa bọn họ đều
ăn tại câu lạc bộ, và đề nghị Jeff kể cho nghe chuyện về quá khứ
của ḿnh. Và Jeff đă cố t́nh làm cho những câu chuyện càng thêm
vẻ tàn nhẫn.
Jeff và Louise sống trong một biệt thự 25 pḥng, với đầy kẻ hầu
người hạ, ở khu Đông Manhattan. Louise có các dinh cơ ở Long
Island và Bahamans, có biệt thự ở Sardinia, và căn hộ lớn trên
đại lộ Foch ở Paris. Ngoài chiếc du thuyền, Louise c̣n có
một.chiếc Maserati, một chiếc Rolls Corniche, một chiếc
Lamborghini và chiếc Damler - những chiếc xe hơi hảo hạng.
Một buổi sáng Jeff tỉnh dậy trên chiếc giường kiểu thế kỷ Mười
tám, mặc lên người áo ngủ Sulka, và đi t́m Louise. Anh thấy vợ
trong pḥng ăn sáng.
Anh phải kiếm một việc làm, Jeff nói với vợ.
“Để làm ǵ chứ, anh yêu? Chúng ta không cần tiền mà”.
“Không phải là chuyện tiền nong. Em đừng nghĩ rằng tôi có thể
hài ḷng ngồi không và được bưng đồ ăn tới tận miệng. Anh phải
làm việc “.
Louise nghĩ ngợi một lát. “Cũng được, thiên thần của em. Em sẽ
nói với Budge. Anh ấy có một hăng cổ phiếu. Anh có muốn trở
thành một người mua bán cổ phiếu không, anh yêu?”.
“Ǵ cũng được, miễn là có việc làm”. Jeff càu nhàu.
Thế Jeff đi làm công cho Budge. Trước đây, anh chưa bao giờ có
việc làm mà giờ giấc ổn định cả. Ḿnh sẽ yêu thích công việc,
Jeff hy vọng.
“Khi nào th́ em và anh sẽ có một đứa con? “Jeff hỏi Louise, sau
bữa ăn sáng hôm chủ nhật.
“Ngay thôi mà, anh yêu. Em đang cố đấy”.
“Lên giường nào. Chúng ta lại thử một lần nữa xem sao”.
Jeff được xếp ngồi cùng bàn ăn dành riêng cho ông anh vợ và dăm
ông chủ khác trong câu lạc bộ Pilgrin.
Budge loan báo. “Các bạn thân mến, chúng tôi mới công bố báo cáo
hàng năm của công ty thịt hộp. Lợi nhuận lên tới 40 phần trăm”.
“Th́ làm sao không lời thế được chứ?” Một người trong bọn cười
lớn. “Anh đă hối lộ cái bọn thanh tra chết tiệt ấy” Ông ta quay
sang nói với mấy người kia.
“Ông bạn Budge khôn ngoan của chúng ta đây mua thịt phế phẩm,
cho đóng mác thượng hạng vào rồi bán mà”.
Jeff giật ḿnh. “Mọi người ăn thứ thịt đó, lạy Chúa. Họ cho cả
trẻ con ăn nữa. Ông ta đùa vậy thôi, phải không anh Budge?”.
Budge cười phá lên. “Trông anh chàng đạo đức ḱa!”.
Trong ba tháng tiếp theo đó Jeff đă biết rơ về những người ngồi
ăn cùng bàn với ḿnh. Edxeller đă bỏ ra cả triệu bạc hối lộ để
có thể xây dựng một nhà máy ở Libi. Mike Quincef, đứng đầu một
tổ hợp công nghiệp, là một tên kẻ cướp chuyên mua lại các công
ty chứng khoán và mách nước bất hợp pháp cho đồng ḅn khi nào
nên bán hoặc nên mua các cổ phiếu. Alan Thompson, người giàu
nhất a bàn ăn này đă khoe khoang chính sách của công ty hắn,
“Trước khi người ta thay đổi các điều luật đó, chúng tôi thường
sa thải những người già một năm trước khi họ đến tuổi về hưu.
Tiết kiệm được cả một gia tài đấy”.
Tất cả bọn họ đều trốn thuế, gian dối trong lĩnh vực bảo hiểm,
đưa ra những báo cáo chi phí láo toét, và đưa t́nh nhân của ḿnh
vào danh sách trả lương dưới danh nghĩa thư kư hoặc trợ lư ǵ
đó.
Lạy Chúa, Jeff nghĩ. Bọn họ cũng chỉ là những kẻ lường gạt ăn
mặc sang trọng mà thôi.
Những bà vợ th́ cũng chẳng khá hơn. Họ vơ vét tất cả những ǵ mà
bàn tay tham lam của họ có thể với tới và lừa dối những ông
chồng của ḿnh. Bọn họ đều chơi tṛ “Ch́a khóa”, Jeff nghĩ mà
thấy kinh tởm.
Khi Jeff cố gắng kể lại cảm nghĩ của ḿnh với Louise, cô ta cười
phá lên.
“Đừng có ngây thơ, Jeff. Anh đang sung sướng với cuộc sống này,
phải không nào?”.
Sự thật th́ không phải là anh sung sướng ǵ. Jeff cưới Louise
bởi v́ tin rằng cô ta cần đến ḿnh, và cho rằng con cái sẽ biến
chuyển mọi thứ.
“Chúng ta hăy có một đứa con đi. Đến lúc rồi. Chúng ta đă cưới
nhau đă một năm c̣n ǵ”.
“Thiên thần của em, hăy kiên nhẫn. Em đă tới bác sĩ, và ông ta
bảo em không có vấn đề ǵ. Có thể là anh nên đi kiểm tra xem có
b́nh thường không”.
Jeff “không có trục trặc ǵ trong việc sản sinh ra những đứa con
khỏe mạnh”, ông bác sĩ bảo đảm như vậy.
Vậy mà vẫn không có ǵ xảy ra.
Vào cái ngày thứ hai đen tối đó, thế giới của Jeff tan vở. Nó
bắt đầu vào buổi sáng khi anh vào tủ thuốc của Louise để kiếm
một viên Apspirin, và thấy cả một giá đầy những thuốc tránh
thai. Trong số đó có một hộp đă được dùng gần hết.
Nằm ngay bên cạnh nó là một cái lọ đựng thứ bột trắng tinh và
cái muỗng nhỏ mạ vàng. Và tất cả chỉ mới chỉ là bắt đầu của ngày
hôm đó. Buổi trưa, trong lúc Jeff đang ngồi trong một chiếc ghế
bành lớn, sâu lút ở câu lạc bộ Pilgrin để chờ Budge th́ nghe
tiếng hai người đàn ông nói chuyện phía sau.
“Cô ả thề sống thề chết rằng cái thằng cha ca sĩ người Ư đó làm
t́nh khỏe lắm”.
“Ồ, ả Louise th́ luôn thích cái của đó”.
Họ đang nói về một Louise nào khác, Jeff tự nhủ.
“Có thể đó là lư do mà ả cưới vội cái thằng tạp kỹ kia. Thế mà ả
đă tự kể những mẩu chuyện khôi hài về thằng nhóc đó. Anh sẽ
không thể tin nổi những điều hắn đă từng làm hồi trước ...”.
Jeff đứng phắt dậy và loạng choạng bỏ ra khỏi câu lạc bộ, giận
dữ khủng khiếp, một cảm giác chưa bao giờ có. Jeff muốn giết
chóc, muốn giết cái anh chàng người Ư nào đó, muốn giết Louise.
Trong một năm qua, không biết cô ta đă ăn nằm với bao nhiêu
người đàn ông khác nữa? Bọn họ đă cười vào mũi anh trong suốt
thời gian vừa rồi. Budge, Ed Zeller, Mike, Quincy, Alan Thompson
và mấy mụ vợ đă và đang giễu cợt, nhạo báng anh. Và cả Louise
nữa, cái người phụ nữ mà Jeff muốn che chở. Phản ứng đầu tiên
của Jeff là muốn thu xếp hành trang và xéo đi ngay. Nhưng thế
th́ không hay ho ǵ, bọn khốn nạn kia sẽ là người có tiếng cười
sau cùng.
Chiều hôm đó, khi Jeff về nhà anh th́ Louise vẫn chưa về. “Bà đi
từ sáng”, Pickens, người quản gia nói. “Tôi nghĩ là bà mắc hẹn
ǵ đó”.
Th́ chắc vậy, Jeff nghĩ, với thằng cha ca sĩ người Ư đó chứ c̣n
ǵ nữa. Lạy Chúa.
Cho tới lúc Lomse trở về th́ Jeff đă hoàn toàn b́nh tĩnh.
“Một ngày tốt lành cả chứ, em?” Jeff hỏi.
“Ôi, vẫn những chuyện tẻ nhạt hàng ngày ấy mà, anh yêu đi sửa
sang đầu tóc, mặt mũi một chút này, đi mua sắm này ... C̣n anh
thế nào, thiên thần của em?”.
“Rất thú vị”, Jeff nói đúng sự thực. “Anh đă hiểu biết thêm
nhiều điều”.
“Anh Budge nói với em là anh làm việc rất tốt”.
“Đúng vậy”. Và anh sẽ làm tốt hơn nữa”.
Louise vuốt ve tay Jeff. “Đức ông chồng tuyệt vời của em. Lên
giường với em sớm đi nào”.
“Tối nay th́ không”, Jeff. “Anh nhức đầu lắm”.
Suốt cả tuần tiếp theo, Jeff tính toán các kế hoạch của ḿnh.
Một bữa trưa tại câu lạc bộ, anh bắt đầu. “Có ai trong số các
ông biết tí ǵ về những vụ lừa gạt bằng máy tính điện tử
không?”.
“Sao vậy?” Ed Zeller muốn biết. “Cậu định làm một vụ à?”.
Tất cả cười ồ lên.
“Không, tôi nói chuyện nghiêm túc đấy”, Jeff nói chắc nịch. “Đó
là một vấn đề lớn. Người ta đang lợi dụng các máy tính điện tử
để cướp đoạt các nhà băng, công ty bảo hiểm và các ngành khác
nữa hàng tỷ đô la. Và t́nh h́nh ngày càng tệ hại thêm”.
“Có vẻ đúng lĩnh vực của cậu.đấy”. Budge làu bàu.
“Tôi đă gặp một người có cái máy tính mà ông ta cam đoan rằng
không thể nào lợi dụng nó được”.
“Và cậu muốn quật ngă hắn à?” Mike Quincy đùa.
“Trên thực tế, tôi quan tâm tới việc hùn tiền để tài trợ cho ông
ta. Tôi chỉ băn khoăn không biết có ai trong các ông biết đôi
chút về máy tính không”.
“Không”. Budge cười lớn. “Nhưng bọn ta biết mọi thứ về việc tài
trợ cho một nhà sáng chế, có phải thế không, anh bạn?”.
Cả bọn lại cười phá lên.
Hai ngày sau, Jeff bỏ qua cái bàn thường lệ vẫn ngồi và giải
thích với Budge.
“Tôi xin lỗi, tôi không ngồi cùng các ông hôm nay được. Tôi có
mời một người khách ăn trưa ở đây”.
Khi Jeff đă bỏ sang bàn khác, Alan Thompson cười cợt.
“Có lẽ là chú nhóc sẽ ăn trưa với cô ả có râu ở rạp xiếc đấy”.
Một người đàn ông tóc bạc dáng gù gù bước vào pḥng ăn và được
đưa tới bàn Jeff.
“Lạy Chúa!” Mike Quincy kêu lên. “Đó có phải là giáo sư Ackerman
không?”.
“Giáo sư Arkerman là ai vậy?”.
“Anh không bao giờ đọc ǵ khác ngoài các báo cáo tài chính ư,
Budge?
Vernon Ackerman được in h́nh trên trang b́a của tờ Time hồi
tháng trước đấy.
Ông ta là Chủ tịch Ủy ban khoa học quốc gia của Tổng thống. Hiện
đang là nhà khoa học danh tiếng nhất đất nước”.
“Ông ta có chuyện quỷ quái ǵ với cậu em rể yêu quư của tôi thế
nhỉ?”.
Jeff và vị giáo sư mải mê trao đổi một câu chuyện ǵ đó suốt cả
bữa trưa, c̣n Budge và bạn hữu của ông ta th́ càng trở nên ṭ ṃ
hơn. Khi vị giáo sư về, Budge vẫy Jeff lại bàn ḿnh.
“Này, Jeff. Ai đó?”.
Vẻ mặt Jeff đầy ngượng nghịu “ờ ... ư anh muốn hỏi Vernon ấy
à?”.
“Phải. Hai người nói chuyện về vấn đề ǵ vậy?”.
“Chúng tôi ... Ờ ...” Những người kia nh́n vẻ mặt cũng thừa biết
Jeff muốn lẩn tránh câu hỏi này. “Tôi ... ờ ... Định viết một
cuốn sách về ông ta. Ông ta là một nhân vật rất thú vị”.
“Tôi đă không biết rằng cậu c̣n là một nhà văn đấy”.
“Ồ, tôi nghĩ là chuyện ǵ mà chẳng cần phải có sự khởi đầu”.
Ba ngày sau, Jeff có một vị thực khách khác. Lần này th́ Budge
là người nhận ra ông ta. “Ḱa! Đó là Seymonr Jarett, Chủ tịch
Hội đồng quản trị của công ty máy tính quốc tế Jarett đấy. Lăo
ta có chuyện trời đánh ǵ với Jeff không biết?”.
Và Jeff cùng với vị khách của anh lại trao đổi một câu chuyện
dài đầy sôi nổi. Khi bữa trưa đă qua, Budge t́m bằng được Jeff.
“Jeff thân mến, cậu có chuyện ǵ với Seymonr Jarett vậy?”.
“Có ǵ đâu”, Jeff đáp nhanh, “chỉ một chút chuyện phiếm ấy mà”.
Anh định bỏ đi. Budge chặn lại.
“Đừng vội thế, cậu bé thân mến. Seymonr Jarett bận trăm công
ngàn việc.
Không đời nào ông ta ngồi lê nói chuyện suông đâu”.
Jeff nghiêm chỉnh trở lại. “Thôi được. Sự thực là Seymonr sưu
tầm tem, Budge ạ, và tôi nói với ông ta về một con tem tôi có
thể kiếm được cho ông ta thôi mà”.
Sự thực cái đít tao đây này, Budge nghĩ.
Tuần lễ sau đó, Jeff ăn trưa tại câu lạc bộ với Charlie
Bartlett, chủ tịch. của hăng Bartlett Bartlett, một trong số
những hăng đầu tư tư nhân lớn nhất thế giới.
Budge, Ed Zeller, Alan Thompson và Mike Quincy kinh ngạc nh́n
hai người tṛ chuyện, đầu ghé sát vào nhau.
“Cậu em rể của anh đạo này chắc hẳn có những người bạn đường tầm
cỡ”, Zeller b́nh luận. “Không biết nó đang toan tính ǵ thế nhỉ,
Budge?”.
Budge bực bội đáp. “Tôi đâu có biết, quỷ tha ma bắt đi nếu như
tôi không ṃ ra điều đó. Nếu mà Jarett và Bartlett đă quan tâm
đến, th́ dứt khoát chuyện phải liên quan tôi một hũ tiền”.
Họ thấy Bartlett đứng lên sốt sắng bắt tay Jeff và ra về Khi
Jeff đi ngang qua bàn họ, Budge túm lấy cánh tay anh. “Ngồi
xuống, Jeff. Chúng tôi có câu chuyện nhỏ muốn nói với cậu”.
Tôi phải trở lại văn pḥng”, Jeff khước từ:
“Tôị.”.
“Cậu làm việc cho tôi, cậu nhớ chứ? Ngồi xuống”. Jeff miễn cưỡng
ngồi.
Budge tiếp tục. “Cậu ăn trưa với ai thế”.
Jeff ngập ngừng. “Không có ǵ đặc biệt đâu. Một người bạn cũ ấy
mà”.
“Charlie Bartlettt mà là một người bạn cũ?”.
“Đại loại thế”.
“Vậy cậu và ông bạn cũ Charlie quư hóa đó bàn chuyện ǵ vậy,
Jeff “Trời ... chủ yếu là về ô tô. Ông bạn Charlie rất khoái
những chiếc ô tô cổ kính, và tôi có nghe về một chiếc Packard
37, bốn cửa, có thể tháo rời ...”.
“Dẹp mẹ chuyện đó đi?” Budge quát lên. “Cậu không sưu tầm tem
hay bán chác xe cộ, hay viết sách siếc mẹ ǵ hết. Cậu thực sự
đang bận tâm về việc ǵ hả?”.
“Không có ǵ cả. Tôi ...”.
“Cậu đang kiếm tiền cho một vụ ǵ đó phải không, Jeff “ EdZel1er
hỏi thẳng.
“Không mà”. Anh đáp hơi quá nhanh một chút.
Budge choàng cánh tay lực lưỡng ôm ngang người Jeff. “Này, anh
bạn, đây là anh rể cậu. Chúng ta là người nhà, cậu nhớ chứ? “
Ông ta ôm chặt lấy Jeff.
“Đó là chuyện liên quan tới cái Máy tính loại an toàn mà cậu đă
nhắc tới hồi tuần trước phải không?”.
Nàng vẻ mặt Jeff họ có thể thấy rằng đă bắt nọn được anh.
“Th́ đúng vậy đấy”.
“Tại sao cậu đă không nói với chúng tôi về sự tham gia của giáo
sư Ackerman?”.
“Tôi không nghĩ rằng các ông sẽ quan tâm”.
“Cậu đă nhầm. Khi cần vốn, cậu phải tới gặp bạn bè”.
“Ngài giáo sư và tôi đâu có cần vốn”, Jeff nói. “Jarett và
Bartlett ...”.
– Jarett và Bartlett là những con cá mập khốn khiếp! Bọn họ sẽ
nuốt sống cậu”. Alan Thompson kêu lên.
Ed Zeller chộp lấy cái ư đó. “Jeff, khi cậu làm ăn với bạn bè,
cậu sẽ không bị thua thiệt”.
“Mọi việc đă được thỏa thuận rồi”, Jeff bảo bọ.
“Cậu đă kư một thứ ǵ chưa?”.
“Chưa, nhưng tôi đă hứa”.
“Vậy th́ chưa có ǵ được thỏa thuận cả. Trời đất, Jeff, trong
chuyện kinh doanh người ta thay đổi ư kiến từng giờ”.
“Tôi thực là không nên thảo luận chuyện này với các ông”, Jeff
lớn tiếng.
“Không được nhắc đến tên của giáo sư Ackerman. Ông ấy đang làm
việc theo hợp đồng cho một cơ quan của chính phủ”.
“Chứng tôi biết thế”, Thompson nới vẻ thông cảm. “Ngài giáo sư
có cho là cái máy đó chắc chắn bảo đảm không?”.
“Ồ, ông ấy biết chắc điều đó”.
“Nếu đối với Ackerman mà nó là tốt, th́ với chúng tôi nó cũng
tất, phải vậy không các bạn?”.
Tất cả đều tỏ ư tán thành.
“Nhưng này, tôi không phải là một nhà khoa học”. Jeff nói. “Tôi
không thể bảo đảm bất kỳ điều ǵ. Theo chỗ tôi hiểu, các thứ này
có thể là chẳng có giá trị ǵ cả”.
“Được rồi. Chúng tôi hiểu. Nhưng vẫn bảo rằng nó có giá trị của
nó, Jeff ạ.
Cái máy này có thể to bằng chừng nào”.
“Anh Budge, thị trường cho cái máy này sẽ rộng khắp thế giới.
Thậm chí tôi không biết nói thế nào cả. Tất cả mọi người đều có
thể sử dụng nó”.
“Khoán tài trợ ban đầu mà cậu đang t́m kiếm là bao nhiêu?”.
“Hai triệu đô la, nhưng hiện tất cả chúng tôi chỉ c̣n là hai
trăm năm mươi ngh́n đôla, Bartlett đă hứa ...”.
“Quên Bartlett đi. Ngần đó là ǵ đâu, anh bạn thân mến. Chúng ta
sẽ tự thu xếp lấy, giữ nó trong phạm vi gia đ́nh. Phải không”.
“Phải quá đi chứ”.
Budge ngẩng lên và búng ngón tay, một người bồi bàn vội chạy
đến.
“Dominick này, mang cho ông Stevens vài tờ giấy và một cây bút”.
Giấy bút được cung cấp gần như tức khắc.
“Chúng ta có thể gói ghém câu chuyện này vào đây”.
Budge nói với Jeff. “Cậu làm ngay văn bản, dành mọi quyền cho
chúng tôi, và chúng tôi sẽ kư vào đó, sáng mai cậu sẽ nhận một
tấm séc bảo đảm, trị giá hai trăm năm mươi ngàn đô la. Cậu thấy
thế được không nào?”.
Jeff cắn môi. “Anh Budge, tôi đă hứa với ông Bartlett ...”.
“Kệ mẹ lăo Bartlett”, Budge gầm lên. “Cậu đă lấy em gái lăo hay
em gái tôi?
Nào, viết đi”.
“Chúng tôi chưa có bằng phát minh của cái máy này, và ...”.
“Viết đi, quỷ tha ma bắt?” Budge ấn cái bút vào tay Jeff. Vẻ đầy
miễn cưỡng, Jeff viết:
“Văn bản này sẽ trao toàn bộ quyền bản hiệu, và lợi nhuận của
tôi đối với chiếc máy điện toán mang tên SUCABA cho những người
mua lại bản quyền là Donald Budge Hollanđer, Eđ Zekker, Alan
Thompson và Mike Quincy với giá hai triệu đô la, trả ngay hai
trăm năm mươi ngàn đô la khi kư văn bản này. SUCABA cần được thử
nghiệm rộng răi, giá rẻ, vận hành bảo đảm không có trục trặc, và
sử dụng ít năng lượng hơn so với bất kỳ một máy điện toán nào
khác hiện đang lưu hành trên thị trường. SUCABA không có yêu cầu
bảo dưỡng hoặc thay thế linh kiện trong một giai đoạn ít nhất là
mười năm?
Tất cả bọn họ đều đứng ngay sau nh́n Jeff viết.
“Lạy Chúa!” Ed Zel1er nói. “Mười năm? Không ai dám tuyên bố báo
đảm như vậy cho bất kỳ một chiếc máy nào khác trên thị trường”.
Jeff tiếp tục. “Những người mua hiểu rằng cả giáo sư Vernon
Ackermman lẫn tôi đều chưa cầm bằng phát minh của chiếc SUCABA
...”.
“Chúng tôi sẽ lo chuyện đó”, Alan Thompson sốt ruột cắt ngang.
“Dĩ nhiên là tôi có một luật sư chuyên về bằng phát minh”.
Jeff vẫn đang viết tiếp. “Tôi đă nói rơ với những người mua rằng
SUCABA có thể không hề có giá trị ǵ, và rằng cả giáo của
Ackkekrman và tôi đều không làm bất kỳ một sự giới thiệu hay bảo
đảm ǵ về SUCABA trừ những điều nói trên.
Anh kư xuống dưới và giơ tờ giấy lên. “Các ông có hài ḷng
không?”.
“Cậu chắc về chuyện mười năm chứ”“ Budge hỏi.
Bảo đảm. Tôi sẽ làm một bản sao nữa”. Jeff nói. Họ theo dơi anh
thận trọng chép lại những ǵ đă viết.
Budge chộp lấy mấy tờ giấy từ tay Jeff và kư tên lên đó Zeller,
Quincy, và Thompson làm theo.
Budge cười hể hả. “Một bản cho chúng tôi, một bản cho cậu. Vậy
là các ông bạn Seymour Jarett và Charlie Bartltt sẽ bị ném trứng
thối vào mặt, ha, phải không các bạn? Tôi nóng ḷng chờ đợi lúc
họ biết rằng họ đă bị loại khỏi vụ này”.
Sáng hôm sau, Budge đưa cho Jeff một tấm séc bảo đảm trị giá hai
trăm năm mươi ngàn đô la.
“Cái máy tính đâu?” Budge hỏi.
“Tôi đă thu xếp để nó được chuyển lên đây, tại câu lạc bộ này,
vào lúc buổi trưa. Tôi nghĩ rằng như thế là phù hợp nhất v́ rằng
chúng ta sẽ đều có mặt khi anh nhận nó”.
Budge vỗ vỗ vào vai Jeff. “Cậu biết đấy, Jeff, cậu là một tay
khá. Hẹn gặp lại vào buổi trưa”.
Khi trưa đến, một người giao hàng mang một cái hộp xuất hiện
trước cửa pḥng ăn của câu lạc bộ Pilgrin và được đưa tới bàn
của Budge, nơi ông ta cùng ngồi với Zeller, Thompsom và Quincy.
“Đây rồi?” Budge kêu lên. “Lạy Chúa! Cái máy lại c̣n xách tay
được cơ chứ”.
“Chúng ta có nên đợi Jeff không”“ Thompson hỏi.
“Kệ mẹ nó. Cái này giờ đây là của bọn ta”. Budge xé bỏ lớp giấy
bọc ngoài của cái hộp. Trong đó là một ổ rơm. Ông ta thận trọng
tới mức gần như kính cẩn nhắc cái vật nằm trong đó ra. Cả bọn
ngồi lặng nh́n chằm chằm vào đó. Nó là một cái khung h́nh chữ
nhật nhỏ nhắn, có một loạt cái que ngang, trên đó có sâu những
viên gỗ nhẵn bóng, tṛn tṛn. Tất cả im lặng hồi lâu.
“Cái ǵ vậy?” Sau cùng th́ Quincy cất tiếng.
Alan Thompson nói. “Nó là một cái bàn tính. Một trong những thứ
mà người phương Đông dùng để đếm ...”.
Mặt ông ta chợt tái ngắt. “Lạy Chúa SUCABA là cách viết đảo
ngược của chữ ABACUS - nghĩa là bàn tính”. Ông ta quay sang
Budge. “Một kiểu đùa giỡn ǵ chăng”.
Zelle dằn từng tiếng. “Vận hành bảo đảm không trục trặc kỹ
thuật, tiêu hao ít năng lượng hơn so với bất kỳ một máy tính
điện toán nào hiện có trên thị trường ... chặn ngay cái séc ngớ
ngẩn kia lại”.
Cả bọn lao tới bên máy điện thoại.
“Séc bảo đảm của ngài ư? “ Người kế toán trưởng đáp, “Không có
ǵ phải lo ngại cả. Sáng nay ông Stevens đă rút tiền mặt rồi ạ”.
Pickens, người quản gia hết sức bối rối. “Nhưng quả thực là ông
Jeff Stevens đă sắp xếp hành lư và đă ra đi.
Ông ấy nói ǵ đó về một chuyến đi xa”.
Chiều hôm đó, Budge cuống cuồng t́m cách liên lạc với giáo sư
Vernon Ackerman.
“Đúng vậy. Jeff Stevens. Một chàng trai hấp dẫn. Ông nói là em
rể ông à?”.
“Thưa giáo sư, ngài và Jeff đă thảo luận về chuyện ǵ thế?”.
“Tôi cho rằng chả có ǵ phải bí mật cả. Jeff sốt sắng muốn viết
một cuốn sách về tôi. Cậu ta đă thuyết phục tôi rằng thế giới
muốn biết về con người thật của một nhà khoa học”.
Seymonr Jarett rất kín miệng. “Tại sao ông lại muốn biết ông
Jeff Stevens và tôi đă bàn bạc ǵ? Ông là một người sưu tầm tem
cạnh tranh với Jeff à?”.
“Không tôi ...”.
“Ồ, ông sẽ không lợi lộc ǵ trong việc xía ngang thế này đâu.
Hiện chỉ c̣n duy nhất có một con tem như vậy thôi, và ông
Stevens đă đồng ư bán cho tôi khi ông ta kiếm được”.
Budge đă biết Charlie Bartlett sắp nói ǵ trước cả khi ông ta mở
miệng. “Jeff Stevens? Ồ, phải, tôi sưu tầm xe hơi cổ. Cậu Jeff
biết nơi có chiếc Packard 37 bốn cửa có thể tháo rời, vẫn c̣n
mới nguyên” ...
“Đừng lo”, Budge nói với đồng bọn. “Chúng ta sẽ thu hồi tiền của
ta lại và ném thằng chó đẻ ấy vào tù cho tới măn đời nó. Kiệm
một cái lệnh bắt”.
“Ông có cái hợp đồng đó ở đây không, Budge?”.
“Có ngay đây”. Ông ta đưa cho Fogarty văn bản mà Jeff đă thảo ra
và ông ta đă kư vào.
Viên luật Sư nh́n lướt qua một lượt rồi chậm răi đọc lại. “Hắn
có cưỡng ép các ông kư tên vào đây không?”.
“Sao, không!” Mike Quincy nói. “Chúng tôi đ̣i kư”.
“Các ông có đọc trước không?”.
Ed Zeller bực bội đáp. “Dĩ nhiên là chúng tôi đă đọc.
Ông nghĩ rằng chúng tôi ngu ngốc cả à?”.
“Cái đó xin để các ông tự đánh giá. Các ông đă kư một hợp đồng
xác nhận là các ông đă được cho biết rằng cái mà các ông mua với
số tiền hai trăm năm mươi ngàn đô la là một đồ vật chưa được cấp
bằng phát minh và có thể hoàn toàn chẳng đáng giá ǵ. Theo cách
nói của một giáo sư già cả như tôi th́, các ông đă bị chơi một
vố thật đau một cách hết sức trịnh trọng”.
Ở Reno, Jeff đă xin ly dị. Và chính trong thời gian ổn định nơi
ăn chốn ở tại đó anh đă gặp Conrađ Morgan, người đă có một thời
gian làm việc cho chú Willie. “Cậu có thể sẵn ḷng giúp tôi một
việc nhỏ không, Jeff Conrad Morgan nêu vấn đề, “Có một phụ nữ
trẻ đi trên xe lửa từ New York tới St. Louis mang theo một ít
kim cương ...”.
Jeff lơ đăng nh́n qua cửa sổ máy bay và nghĩ về Tracy. Trên mặt
anh thoáng một nụ cười.
Khi Tracy trở lại New York, nơi dừng đầu tiên của nàng là trụ sở
Conrad Morgan và công ty. Morgan đưa Tracy vào pḥng làm việc
của ông ta, đóng cửa lại, xoa xoa tay và nói. “Cô bạn thân mến,
tôi đang rất lo lắng.
“Tôi đă đợi cô ở St. Louis và ...”.
“Ông đă không đến St. Louis”.
“Cái ǵ? Ư cô định nói ǵ vậy?” “Cặp mắt xanh của ông ta nhướn
cao, sáng lên tinh quái”.
“Tôi muốn nói là ông đă không đi St. Louis. Ông chưa bao giờ có
ư định đón tôi ở đó cả”.
“Chắc chắn là không phải thế đâu. Cô có chỗ kim cương và tôi
...”.
“Ông đă cử hai gă đàn ông đi cướp nó khỏi tay tôi”.
Vẻ lúng túng hiện rơ trên khuôn mặt Morgan. “Tôi không hiểu ǵ
cả”.
“Lúc đầu tôi nghĩ là có sự ṛ rỉ trong tổ chức của ông, nhưng
hóa ra không phải vậy, đúng không nào? Chính là ông. Ông bảo với
tôi rằng ông đích thân lo vé tàu cho tôi, bởi vậy ông là kẻ duy
nhất biết số ngăn tôi ngồi. Tôi dung một cái tên khác và đă hóa
trang, nhưng người của ông đă biết chính xác nơi phải t́m tôi”.
Khuôn mặt tṛn ngộ nghĩnh của ông ta đẩy vẻ ngạc nhiên. “Cô đang
định nói với tôi rằng có mấy kẻ nào đó đă cướp đoạt số kim cương
của cô ư?”.
Tracy mỉm cười “Tôi đang định nói với ông rằng họ đă không làm
được điều đó”.
Lần này th́ vẻ ngạc nhiên trên mặt Morgan hoàn toàn thành thực.
“Cô có trong tay chỗ kim cương”.
“Đúng. Đám tay chân của ông v́ quá vội ra sân bay nên đă bỏ
chúng lại”.
Morgan nh́n Morgan soi mói giây lát. “Xin lỗi”.
Ông ta đi qua một cái cửa riêng sang pḥng bên, c̣n Tracy thả
ḿnh ngồi xuống đi văng một cách thoải mái.
Conrad Morgan mất dạng tới gần mười lăm phút, khi trở lại, khuôn
mặt ông ta vẫn c̣n đọng vẻ hết hoảng. “Tôi sợ rằng đă có một sai
lầm. “Một sai lầm lớn.
Cô là một phụ nữ thông minh, cô Whitney. Cô đă kiếm được 25 ngàn
đô la của cô”. Ông ta mỉm cười thán phục. “Trao cho tôi kim
cương và ...”.
“Năm mươi ngàn”.
“Xin cô nói lại?”.
“Tôi đă đánh cắp chúng hai lần. Vậy là phải năm mươi ngàn đô la,
thưa ông Morgan”.
“Không được”, ông ta nói dứt khoát. Cặp mắt tôi lại. “Tôi e rằng
tôi không thể nào đưa cho cô tới ngần ấy được”.
Tracy đứng dậy. “Hoàn toàn được thôi. Tôi sẽ thử t́m ai đó ở Las
Vegas mà người đó cho rằng vậy là phải giá”.
Nàng bước ra cửa.
“Năm mươi ngàn đô la cơ à?” Conrad Morgan hỏi lại.
Tracy gật đầu.
“Chỗ kim cương đó ở đâu?”.
“Trong một hộp thư lưu ở ga Penn, ngay khi nào ông trao tiền -
tiền mặt - và đưa tôi ngồi vào một chiếc tắc xi, tôi sẽ trao ông
ch́a khóa”.
Conrad Morgan thở dài cam chịu thất bại. “Cô đă ngă giá xong”.
“Cảm ơn ông”, Tracy đáp vui vẻ. “Làm ăn với ông thật là dễ
chịu”.
Chương 19
Daniel Cooper đă biết về nội dung cuộc họp sáng hôm đó
tại văn pḥng của J.J.Reynolds, bởi v́, ngày hôm trước, tất cả
các điều tra viên của công ty đă được nhận một tường tŕnh về vụ
trộm diễn ra cách đó một tuần ở ngôi nhà của LoisA Bellamy.
Daniel Cooper rất ghét chuyện học hành. Ông ta luôn sốt ruột khi
phải ngồi nghe những bài nói dài ḍng và ngu ngốc.
Cooper đến văn pḥng của J.J.Reynolds muộn tới bốn mươi lăm
phút, giữa lúc Reynolds đang phát biểu.
“Thật hân hạnh là anh đă ghé đến”. J.J.Reynolds nói cạnh khóe.
Không có phản ứng ǵ đáp lại. Chỉ tổ phí lời, Reynolds nghĩ
bụng. Cooper không hiểu những lời nói mỉa mai - hay bất kỳ thứ
ǵ khác, theo chỗ mà Reynolds hiểu mỗi việc làm cách nào để tóm
được bọn tội phạm mà thôi. Và ở điểm này th́ ông ta buộc phải
thừa nhận thằng cha kia là một tài năng thật sự.
Ngồi trong pḥng của Reynolds là ba điều tra viên cự phách nhất
của cộng ty:
Davit Swift, Robert Schiffer và Jerry Davis.
Tất cả các ông đều đă đọc báo cáo về vụ trộm ở nhà bà Bellamy”,
Reynolđs nói:
“Nhưng có điều mới cần nói thêm:
Lois Bellamy chính là em họ của ông giám đốc cảnh sát. Ông ta
đang làm ầm lên”.
Thế cảnh sát hiện đang làm ǵ?” Davis hỏi.
“Lẩn tránh báo chí. Không thể trách họ được. Đám cảnh sát điều
tra như một lũ ngốc. Họ đă chuyện tṛ thực sự với tên trộm mà họ
bắt gặp trong ngôi nhà, và rồi để ả chuồn mất”.
“Vậy th́ họ phải nhớ đúng nhận dạng của ả”, Swift nói.
“Họ chỉ nhớ rơ về cái váy ngủ của ả thôi”, Reynolds đáp nhanh,
vẻ khinh thị.
“Tấm thân của ả đă gây ấn tượng mạnh đến nỗi đầu óc họ biến đâu
mất cả.
Thậm chí họ không biết cả màu tóc nữa. Ả ta đă đội một thứ mũ
giữ tóc ǵ đó, và mặt th́ trét kín kem. Họ mô tả đó là một phụ
nữ chừng giữa tuổi hai mươi với bộ mông và cặp vú kỳ diệu. Không
có được một dấu vết ǵ hết. Chúng ta không có thông tin ǵ để
làm cơ sở. Không ǵ cả”.
Lúc này, Daniel Cooper mới lên tiếng “Có, chúng ta có”.
Tất cả quay sang nh́n ông ta, với nhiều mức độ khó chịu khác
nhau:
“Anh đang nói về cái ǵ vậy?” Reynolds hỏi.
“Tôi biết cô ta là ai”.
Từ hôm trước, khi đọc bản tường tŕnh, Cooper quyết định phải
xem xét ngôi nhà của bà Bellamy, v́ đó là bước đi lôgic đầu
tiên. Đối với Daniel, logic là sự trật tự mà. Chúa đă sắp đặt,
là giải pháp cơ sở của mọi vấn đề và để đạt tới sự lôgic, người
ta luôn phải bắt đầu từ đâu. Cooper đă lái xe chạy tới khu dinh
thự của Benamy trên Đảo Dài, nh́n ngó một chút, vẫn không ra
khỏi xe, quay đầu, và chạy tới Manhattan. Ông ta đă biết được
tất cả những ǵ muốn biết.
Ngôi nhà hoàn toàn biệt lập, và không có thứ phương tiện giao
thông công cộng nào ở gần đó, điều đó có nghĩa là tên trộm chỉ
có thể tới ngôi nhà bằng xe hơi riêng.
Ông ta đang giải thích cho mấy người có mặt trong văn pḥng của
Reynolds.
“Bởi v́ không muốn sử dụng chiếc xe của ḿnh v́ sợ bị phát hiện,
phương tiện mà cô ta dùng trên thực tế hoặc là đồ bị đánh cắp
hoặc là đồ đi thuê. Trước tiên tôi quyết định t́m hiểu ở các
hăng cho thuê xe đă. Tôi giả định rằng cô ta đă thuê xe ở
Manhattan, nơi dễ che giấu vết tích nhất”.
Jerry Davis không đồng t́nh. “Anh lại đùa rồi Cooper. Mỗi ngày ở
Manhattan phải có tới hàng ngàn chiếc xe được cho thuê”.
Cooper phớt lờ lời cắt ngang đó. “Tất cả các giao dịch thuê mướn
xe đều được đưa vào máy tính. Người phụ nữ mà chúng ta đang đề
cập đă tới hàng Budget ở số 61 trên đường 23 Tây lúc 20 giờ hôm
xảy ra vụ trộm thuê một chiếc Chevy Caprlce và trả lại vào lúc 2
giờ sáng”.
“Làm sao anh biết đó chính là chiếc xe mà ả đă sử dụng vào vụ
trộm?”.
Reynolds hỏi một cách hoài nghi.
Cooper bắt đầu bực ḿnh với các câu hỏi ngu ngốc này. “Tôi kiểm
tra công tơ mét. Từ Manhattan tới dinh thự của Lois Bellamy là
32 dặm và 32 dặm trở về. Con số này hoàn toàn khớp với chỉ số
trên đồng hồ đo của chiếc Caprice.
Chiếc xe được thuê với cái tên Ellen Branch”.
“Một cái tên giả”. David Swift đoán.
“Đúng vậy. Tên thật cô ta là Tracy Wihitney”.
Cả mấy người nh́n chằm chằm vào ông ta. “Làm thế quái nào mà anh
biết điều đó?” Schiffer căn vặn.
“Cô ta đă đưa tên và địa chỉ giả, nhưng c̣n phải kư giao kèo
thuê xe. Tơi mang văn bản này qua bên kỹ thuật của cảnh sát để
họ kiểm tra dấu tay. Những dấu tay trên đó là của Tracy
Wihitney. Cô ta đă có thời gian nằm trong nhà tù dành cho phụ nữ
Nam Louisiana. Nếu các ông c̣n nhớ th́ biết rằng tôi đă nói
chuyện với cô ta cách đây một năm về vụ mất cắp bức Renoir”.
“Tôi nhớ”, Reynolds gật gù. “Khi đó anh đă nói rằng cô ta vô
tội”.
“Khi đó th́ đúng vậy. Nhưng bây giờ th́ không c̣n vô tội nữa. Cô
ta đă làm vụ trộm ở nhà Bellamy”.
Thằng cha khốn kiếp lại đă ṃ ra, và hắn ta đă làm cho nó trở
nên đơn giản.
Reynolds phải cố để khỏi tỏ ra ghen tị. “Thật là ... thật là một
công việc hữu hiệu, Cooper. Thực sự hữu hiệu. Chúng ta sẽ ghim ả
lại. Chúng ta sẽ báo cho cảnh sát tóm lấy ả và ...”.
“Trên tội chứng ǵ? “ Coơper b́nh thản hỏi. “Tội thuê xe à? Cảnh
sát không nhận diện được cô ta, và cũng không có một tư tẹo
chứng cớ ǵ để chống lại cô ta cả”.
“Vậy chúng ta sẽ phải làm ǵ?” Schiffer hỏi. “Để ả bỏ đi thản
nhiên vậy sao?”.
“Lần này th́ đúng thế, Cooper trả lời. “Nhưng giờ th́ tôi biết
rơ rồi. Cô ta sẽ c̣n dính vào một vụ khác. Và khi đó tôi sẽ tóm
cô ta”.
Sau cùng th́ cuộc họp đă kết thúc. Cooper muốn tắm lắm rồi. Ông
ta lấy ra một cuốn sổ nhỏ màu đen và ghi rất cẩn thận:TRACY
WHIITNEY.
o0o
|