Hoặc, có thể ông thích một kiểu ǵ đó ngoài đường. Tôi có thể
dàn dựng một tai nạn xe cộ, một vụ máy bay rơi, hay một vụ mất
tích ngoài biển.
Nhưng rồi hắn lại chẳng nói những điều đó, v́ sự thực hắn sợ cái
con người đang ngồi trước mặt hắn. Hắn đă nghe nói quá nhiều
chuyện đáng sợ về con người này, và hắn có nhiều lư do để tin
vào cảm giác của ḿnh.
Cuối cùng hắn chỉ nói: "Vâng, thưa ông, tôi có thể dựng một tai
nạn. Sẽ chẳng ai biết ǵ hết".
Ngay khi hắn vừa thốt ra những lời đó, một ư nghĩ thoáng hiện ra
trong đầu hắn: Thằng cha này biết rằng ta sẽ biết. Hắn đợi.
Cả hai người, đang ở trên lầu hai một toà nhà lớn trong thành
phố Cửu Long bọc kín bởi những bức tường do một người Trung Hoa
ở đây xây từ năm 1840 để bảo vệ thành phố chống bọn Anh man rợ.
Những bức tường này đă bị đổ nát nhiều trong chiến tranh thế
giới lần thứ hai nhưng c̣n có những bức tường khác, ngăn bọn
ngoại bang không vào được: Đó là các toán chuyên giết người cắt
cổ, bọn nghiện ngập ma tuư, và cướp bóc lang thang qua các phố
chật hẹp, quanh co, đông đúc, đó là các tốp người tụ tập tại các
cầu thang tối tăm dẫn đến những nơi u ám.
Người ta phải thông báo cho các khách du lịch nên xa lánh những
nơi này, và ngay cả những tên cớm cũng chẳng dám bén mảng vào
trong các thành phố Tung Tau Tshen, mà chỉ dám mon men bên
ngoài. Qua cánh cửa sổ, hắn có thể nghe được những tiếng ồn
ngoài phố, và cả các giọng the thé hay khàn khàn, các thứ tiếng
của cư dân sống tại thành phố nhiều bức tường này.
Con người với đôi mắt lạnh sắc như mảnh chai, đang nh́n hắn với
vẻ thăm ḍ. Măi sau ông ta mới nói: "Rất tốt, tôi để anh tự
quyết định phương pháp".
- Vâng, thưa ông. Thế mục tiêu đang ở đây, Cửu Long phải không?
- London, tên cô ta là Catherine. Catherine Alexander.
Một chiếc xe kiểu limousine, bám theo sau là một chiếc xe con
khác trên đó có hai tên vệ sĩ đầy đủ súng đạn, họ đưa người đàn
ông nói trên đến Ngôi Nhà Xanh ở Lascar Row, khu Tsim Sha Tsui.
Ngôi nhà này chỉ mở cửa đón những ông chủ đặc biệt. Các vị
nguyên thủ quốc gia, các ngôi sao chiếu bóng, và các vị chủ tịch
của tổng công ty thường lui tới đây. Người quản lư ngôi nhà lấy
làm tự hào về sự thận trọng này: Khoảng sáu năm trước đây, một
trong các cô gái làm việc tại ngôi nhà đă nói chuyện với một nhà
báo về các vị khách của cô ta, và sáng hôm sau, người ta thấy cô
nằm chết ở Cảng Aberden, lưỡi bị cắt.
Trong ngôi Nhà Xanh này, mọi thứ đều để bán: Sự trinh tiết, các
cậu con trai, các cô đồng tính luyến ái tự thoả măn với nhau
không cần cái "của quư" của đàn ông, và cả súc vật cũng bán
được. Chỉ có ở nơi đó, người ta mới bán nghệ thuật của Ishimpo
thế kỷ thứ 10 c̣n lại là như thế nào. Ngôi Nhà Xanh là một biểu
tượng tràn trề cho những lạc thú bị cấm đoán.
Người đàn ông lần này yêu cầu hai cô phục vụ. Họ là một đôi rất
thích hợp, với những khuôn mặt xinh đẹp, thân h́nh tuyệt mỹ, và
không có ức chế. Ông nhớ lại lần trước đến đây… cái ghế đẩu sắt
không có đế ngồi với những ngón tay và đầu lưỡi mơn trớn nhẹ
nhàng, với cái thùng tắm đổ đầy nước ấm ngọt ngào tràn ra cả sàn
nhà lát gạch và miệng các cô gái ấy đă rà soát toàn bộ thân thể
ông. Ông cảm thấy khoái lạc trào dâng. "Đă đến rồi, thưa ngài".
Ba tiếng đồng hồ sau, khi đă làm xong mọi việc với các cô gái,
thoả măn và hài ḷng, người đàn ông ra lệnh cho chiếc limousine
quay mũi xe về đường Mody. Ông nh́n qua cửa kính, ánh đèn lấp
lánh của cái thành phố không bao giờ ngủ. Người Trung Hoa gọi
nơi đây là Cửu Long - chín con rồng, và ông h́nh dung những con
rồng đó đang nấp khuất sau những ngọn núi trên cao, sẵn sàng bay
xuống phá tan đi sự hèn yếu và bất cẩn… Họ đă tới đường Mody.
Nhà tu hành đạo Lăo đang đợi ông ta. Trông nhà tu giống một h́nh
vẽ trên tấm da thời da cổ, với chiếc áo dài đă nhạt màu của
người phương đông xưa, và bộ râu dài đă bạc nhưng được vuốt một
cách cẩn thận.
- Jou sahn!
- Jou sahn!
- Gei do chi!
- Yat-chihn!
- Jou. - Nhà tu nhắm mắt, lâm râm cầu kinh và bắt đầu lắc ống
thẻ, một cái ống bằng gỗ đựng đầy những thẻ đánh số.
Một chiếc thẻ rơi ra, ông ta thôi không lắc nữa. Trong yên lặng
ông tra số thẻ trong cuốn sách và ngước nh́n vị khách. Nhà tu
nói một thứ tiếng Anh nhát gừng: "Thánh dạy rằng ngài sắp được
thoát khỏi một kẻ thù nguy hiểm".
Người đàn ông sửng sốt một cách vui mừng. Ông ta quá lạc quan
nên không nhận ra rằng nghệ thuật gieo quẻ chỉ là một sự mê tín.
Và ông ta cũng quá lạc quan để không biết đến điều đó. Hơn nữa,
đó cũng là một lời tiên đoán may mắn. Hôm nay là ngày thánh
Constantin Agios, ngày của ông ta.
"Các thánh đă phù hộ ngài sống lâu".
"Do jich"
"Hou wah"
Năm phút sau, lại ngồi vào chiếc xe limousine trên đường đi Kai
Tak, sân bay Hongkong, ở đó đă có một chiếc máy bay riêng đang
đợi để đưa ông về Athens.
Chương 1
IOANINA, HY LẠP THÁNG 7-1948
Đêm nào, nàng
cũng nằm mơ, la hét rồi tỉnh dậy.
Nàng cảm thấy như đang lênh đênh ở giữa mặt hồ rộng lớn trong
cơn giông tố khủng khiếp, có một người đàn ông và một người đàn
bà đang đè đầu nàng d́m xuống nước băng giá để cho nàng chết
đuối. Mỗi lần bừng tỉnh như vậy tâm hồn hoảng loạn, nàng cố lấy
lại hơi thở và mồ hôi toát ra đầm đ́a.
Nàng không biết nàng là ai và nàng không c̣n trí nhớ về dĩ văng.
Nàng nói tiếng Anh - nhưng nàng cũng chẳng biết nàng là người
nước nào và v́ sao nàng lại đến đây, đất Hy Lạp này, sống trong
tu viện Carmelite nhỏ bé, nơi đă che chở cho nàng.
Rồi thời gian cứ trôi đi, những kư ức quá khứ cứ thoáng hiện như
nhử trêu nàng, những ư nghĩ mơ hồ, những h́nh ảnh mờ ảo hiện lên
rồi lại tan đi nhanh chóng không cho nàng tóm chặt được nó, giữ
nó và ngắm nghía nó. Những h́nh ảnh đó xuất hiện đột nhiên ở một
lúc nào đó chộp vào đúng lúc nàng không có chút đề pḥng, và làm
nàng lẫn lộn hết cả.
Lúc mới đầu, nàng c̣n tự đặt ra những câu hỏi. Các bà xơ ở
Carmelite rất tử tế và hiểu nàng nhưng h́nh như họ được lệnh
phải im lặng, và chỉ có một người được phép nói với nàng là Xơ
Theresa, người nhiều tuổi nhất và là Mẹ Bề trên yếu đuối.
- Xơ có biết con là ai không?
- Không, con của ta ạ, - Xơ Theresa trả lời.
- Làm sao con lại được đến nơi đây?
- Ở chân những quả núi kia có một cái làng tên là Ioanina. Con ở
trong một con thuyền nhỏ lênh đênh trên mặt hồ khi trời giông
băo, cái năm ngoái ấy. Con thuyền đang ch́m nhưng nhờ ơn Chúa,
hai trong các xơ của con đă thấy và cứu sống con. Họ đă mang con
về đây?
- Nhưng… trước đó, con từ đâu đến hở Xơ?
- Xin lỗi con, ta không biết.
Nàng không thể thoả măn với những điều đó.
- Đă có ai hỏi ǵ về con? Đă có người nào muốn t́m con?
Xơ Theresa lắc đầu.
- Không có ai cả, con ạ.
Nàng muốn oà khóc v́ thất vọng. Nàng lại cố nhớ một lần nữa.
- Báo chí… họ phải có chuyện về việc ta mất tích.
- Như con biết. Chúng ta không được phép liên hệ với thế giới
bên ngoài. Chúng ta phải theo ư của Chúa, con ạ. Chúng ta phải
cám ơn Người về những ban ơn của Người. Con c̣n sống.
Và đó là tất cả những ǵ mà nàng có thể biết được.
Thời gian đầu, nàng quá yếu đuối để có thế hiểu được những điều
đă xảy ra với ḿnh, nhưng dần dà, sau nhiều tháng qua đi, nàng
đă lấy lại được nghị lực và sức khỏe.
Khi nàng đă khỏe hơn để có thể đi loanh quanh, suốt ngày nàng
cúi ḿnh trong khu vườn đầy hoa thuộc phần đất của tu viện, dưới
ánh sáng ấm cúng đă toả khắp Hy Lạp như trong một thiên đường
huyền ảo, với cả những làn gió nhẹ thổi qua, mang theo hương vị
thơm ngon của những quả chanh và những chùm nho.
Bầu không khí ở đây thật thần tiên và tĩnh mịch, tuy vậy nàng
vẫn cảm thấy không yên. Ta đă bị lạc, nàng nghĩ vậy và chẳng ai
chú ư. Tại sao? Ta có làm điều ǵ độc ác chăng? Ta là ai? Ta là
ai? Ta là ai?
Những h́nh ảnh lại tiếp tục xuất hiện, không theo một đ̣i hỏi
nào cả.
Một buổi sáng, nàng chợt tỉnh v́ nh́n thấy ḿnh trong buồng với
một người đàn ông trần truồng đang cởi quần áo nàng. Phải chăng
là một giấc mơ? Hay có điều ǵ đă xảy ra trong quá khứ đối với
nàng? Người đàn ông đó là ai? Có phải rằng nàng đă lấy một người
nào đó trước đây?
Nàng đă có chồng rồi ư?
Nàng không mang nhẫn cưới. Trong thực tế nàng không có một sở
hữu ǵ khác ngoài những lệnh theo thói quen ở Carmelite mà Xơ
Theresa đă ban cho nàng, một cái ghim cài áo, một con hoàng anh
có đôi mắt mầu ngọc bích và sải cánh rộng.
Nàng chỉ là một người vô danh, một người lạ sống giữa những kẻ
lạ. Chẳng có ai giúp đỡ nàng, không có nhà nghiên cứu tâm thần
nào có thể bảo cho nàng rằng trí óc của nàng đă bị rối loạn, và
chỉ có thể yên ổn nếu ngăn cách hẳn với quá khứ khủng khiếp.
Và rồi những h́nh ảnh lại đến, nhanh hơn và nhanh hơn.
Cứ như là trí óc của nàng tự dưng rơi vào một tṛ chơi ghép h́nh
vĩ đại, với các tấm h́nh rời rạc phải xếp vào đúng chỗ của nó.
Nhưng những tấm h́nh này chẳng có nghĩa ǵ cả. Nàng như thấy một
cảnh trường quay chật những người mặc quân phục. Họ như đang
chuẩn bị làm một cuốn phim. Ta có là một diễn viên không?
Một người lính đưa cho nàng một bó hoa. Cô phải trả tiền cho
những bông hoa này đấy nhé, anh ta cười.
Sau đó hai đêm, nàng lại mơ về cùng một người đàn ông.
Nàng đă chào tạm biệt người đó tại sân bay, và khi tỉnh dậy,
nàng đă thổn thức v́ đă để mất ông ta.
- Không c̣n có những giấc mơ thanh b́nh những lần sau đó.
Toàn là mộng mị. Đó là những mảnh vụn của đời nàng, quá khứ của
nàng. Ta phải t́m ra ta là ai. Hiện ta là ai.
Và vào lúc nửa đêm, đột nhiên, một cái tên lóe ra trong tiềm
thức nàng - Catherine - tên ḿnh là Catherine Alexander.
Chương 2
ATHENS, HY LẠP
Vương quốc của Constantin Denmiris không thể xác định
trên bất cứ một tấm bản đồ nào cả, thực vậy, ông là người cai
quản một lănh địa c̣n rộng lớn và mạnh hơn nhiều quốc gia. Ông
là một trong vài ba người giàu có nhất thế giới và ảnh hưởng của
ông th́ không thể tính được.
Ông không có chức danh hay chức vụ nào chính thức nhưng ông
thường mua và bán cả thủ tướng, cả các hồng y giáo chủ, các vị
đại sứ và cả các vị vua.
Mạng lưới tay chân của ông có ở khắp mọi nơi, đan kết bằng những
sợi dây quan hệ ngang dọc trong hàng chục quốc gia. Ông là người
có phép màu nhiệm, có một trí thông minh sắc bén nổi bậc, có sức
mạnh tấn công về thế lực có chiều cao hơn mức trung b́nh khá
nhiều, với bộ ngực nở nang và hai vai vuông vắn. Nước da ông
ngăm ngăm nâu và ông có cái mũi Hy Lạp to tướng với đôi mắt màu
xanh ô liu. Ông có bộ mặt như mặt con chim ưng, một loài chim
chuyên bắt mồi. Khi ông đă quyết gạt bỏ đi những bối rối,
Denmiris tỏ ra cực kỳ cuốn hút người khác.
Ông nói được 8 thứ tiếng và là người kể chuyện đáng được ghi
nhận. Ông có một trong những bộ sưu tập nghệ thuật quan trọng
nhất thế giới, một đôi máy bay riêng và hàng tá ngôi nhà, lâu
đài và vi la rải rác khắp địa cầu. Ông c̣n là người sành về sắc
đẹp, và khi đă thấy những người đàn bà đẹp th́ họ thường không
cưỡng nổi được. Ông đă nổi danh là một người t́nh có sức mạnh,
và những phi vụ lăng mạn của ông cũng đầy màu sắc như những cuộc
phiêu lưu kinh tế của ông vậy.
Constantin Denmiris tự hào là một người yêu nước - ngọn cờ Hy
Lạp xanh và trắng luôn được treo trước cửa vi la của ông ở
Kolonaki và Psara, cái đảo riêng của ông - nhưng ông lại không
phải trả tiền thuế. Ông không cảm thấy tự buộc ḿnh vào những
luật lệ quy định cho những con người thông thường. Trong huyết
mạch của ông có một ḍng máu - ḍng máu của chúa.
Gần như, hễ một ai đă gặp Denmiris đều muốn ở ông một điều ǵ:
tài trợ cho một dự án kinh doanh; hoặc đơn giản chỉ là nương nhờ
ở quyền lực của ông qua t́nh bạn.
Denmiris thích thú với sự thách thức nơi ông khi h́nh dung được
một con người nào đó thực sự là người thế nào và rất ít khi ông
suy nghĩ sẽ xảy ra điều ǵ sau này. Trí óc phân tích của ông
luôn hoài nghi sự thật bên ngoài, nên ông không tin cả vào những
ǵ ông đă nói ra và cũng chẳng tin tưởng vào ai.
Khẩu hiệu của ông là "Với bạn bè phải gần gũi, nhưng với kẻ thù
phải gần gũi hơn". Các phóng viên muốn t́m hiểu về cuộc đời ông
chỉ thấy được tính ôn hoà và sự hấp dẫn của ông, một con người
tinh tế và tao nhă.
Họ không có nguyên cớ ǵ để ngờ vực rằng đằng sau vẻ ngoài đáng
mến đó. Denmiris là một tên giết người, một tên du côn đểu cáng
mà bản chất đó đă đi vào máu của ông.
Ông c̣n là một người không bỏ qua một điều ǵ, không bao giờ
quên một chi tiết nhỏ nhặt nào. Theo ngôn ngữ cổ Hy Lạp, từ
"dikaisini" là công lư th́ có cùng nghĩa với "ekdikisi" là trả
thù và Denmiris bị ám ảnh bởi hai từ ấy ông nhớ những từng điều
sỉ nhục mà ông đă phải chịu đựng và những ai chẳng may gây ra nó
cho ông, th́ ông đáp lại ngay gấp một trăm lần hơn thế.
Những người đó không bao giờ hiểu được điều ấy, v́ cái đầu óc
toán học của Denmiris thường chơi tṛ báo thù rất chính xác, ông
kiên tŕ giăng ra những cái bẫy gài sẵn và c̣n tạo ra những mạng
nhện dày đặc, những sợi dây phức tạp để cuối cùng sẵn sàng vồ
lấy mồi và tiêu diệt kẻ thù mau lẹ.
Ông rất thích thú ngồi hàng giờ để nghĩ ra những cái bẫy cho
những kẻ thù của ḿnh. Ông thường nghiên cứu những nạn nhân của
ḿnh rất cẩn thận phân tích cá tính họ, đánh giá mặt mạnh và mặt
yếu của họ.
Trong bữa tiệc một tối nọ. Denmiris đă nghe lỏm rằng một tay sản
xuất phim nào đó đă coi ông là "một tên Hy Lạp nịnh bợ".
Denmiris giận lắm, đợi thời cơ. Hai năm sau, tay sản xuất phim
kia đă kư hợp đồng với một nữ tài tử nổi tiếng quốc tế, có sắc
đẹp quyến rũ để đóng trong một bộ phim với ngân quỹ rất lớn do
ông ta bỏ tiền để sản xuất. Denmiris đợi đến khi cuốn phim đă
hoàn thành một nửa, rồi ông mới quyến rũ cô diễn viên chính ấy
bỏ làm phim và cùng ông đi bơi thuyền.
- Sẽ có một tuần trăng mật! - Denmiris nói với cô ấy.
Quả là cô ta đă được hưởng tuần trăng mật nhưng lại không có đám
cưới. Cuốn phim cuối cùng phải đ́nh lại và nhà làm phim này bị
phá sản.
Cũng có vài tay chơi trong các tṛ chơi của Denmiris mà với
những tay này, ông chưa thắng ngay, nhưng ông không vội vàng.
Ông c̣n vui thích với việc tiên đoán diễn biến, lên kế hoạch,
hành động và thực hiện ư đồ của ḿnh.
Giờ đây ông không c̣n kẻ thù nào nữa, v́ không c̣n ai chịu làm
kẻ thù cho ông, nên những nạn nhân chỉ c̣n là những kẻ đă dám cả
gan cản đường ông trong quá khứ.
Cái ư nghĩa "dikaiosim" của Constantin Denmiris có hai mặt. Một
mặt ông không hề quên một cái ǵ là bất nhân mặt khác ông cũng
không quên một cái ǵ là ơn huệ. Một ngư phủ nghèo nhưng vẫn tạo
ra cho thằng bé được ḿnh cưu mang cảm thấy nó là chủ của chiếc
thuyền của ḿnh.
Một cô gái điếm đă nuôi và may sắm quần áo cho một chú thanh
niên khi chú ta quá nghèo không có tiền trả cho cô, nhưng cô ta
lại lặng lẽ nhận thừa kế một ngôi nhà nhiều buồng mà chẳng cần
suy nghĩ ai là người cô phải mang ơn.
Denmiris là con một người làm nghề bốc vác ở cảng Piraeus. Nhà
ông có 14 anh chị em cả thảy và chẳng bao giờ trong nhà có thức
ăn trên bàn cho con cái.
Thoạt đầu, Constantin Denmiris đă tỏ ra có một thiên bẩm về công
việc. Anh kiếm tiền thêm khi tan học về, đi làm các việc phụ, và
khi 16 tuổi, anh đă tiết kiệm đủ tiền để mở một quầy bán thực
phẩm ở ngoài cảng với một người bạn làm ăn nhiều tuổi. Công việc
cứ nở rộ như hoa nhưng người bạn già kia lại lừa mất một nửa lợi
nhuận.
Phải mất mười năm Denmiris mới khử được người đó. Cậu thanh niên
sôi sục lên v́ tham vọng mănh liệt. Đêm anh nằm không ngủ được,
đôi mắt long lanh trong bóng tối. Ta sắp giàu có rồi. Ta sắp nổi
tiếng rồi. Một ngày kia đứa nào cũng sẽ biết tên ta. Chỉ có thốt
ra những lời như vậy mới làm anh ngủ được. Anh không có ư nghĩ
làm thế nào để đạt được như vậy. Anh chỉ nghĩ rằng nó phải như
vậy.
Vào ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 17 của ḿnh, anh đọc một bài báo
về những vùng dầu ở Ả-rập và nó như cánh cửa thần đi đến tương
lai đă mở ra trước anh. Anh đến gặp bố.
- Con sắp đi Ả-rập Saudi. Con sắp làm việc ở vùng dầu.
- Too-son! Mày biết ǵ những vùng dầu mỏ?
- Con chẳng biết ǵ, bố ạ. Con sẽ học.
Một tháng sau, Constantin Denmiris lên đường.
Thủ tục của Công ty Dầu mỏ liên lục địa đối với các công nhân
nước ngoài là chỉ kư hợp đồng thuê mướn hai năm, nhưng Denmiris
không nản ḷng về điều đó.
Anh lập kế hoạch sẽ ở Ả-rập Saudi tới bao giờ mà anh có của th́
thôi. Anh đă mường tượng một cuộc phiêu lưu ngoạn mục trong
những đêm Ả-rập, một miền đất quyến rũ, bí ẩn với những người
phụ nữ đẹp một cách lạ lùng, và vàng đen khi hút lên sẽ chảy
tràn mặt đất.
Thực tế quả là một chấn động mạnh đối với anh.
Vào một buổi sáng sớm mùa hè, Denmiris đă đến Fadili, một trại
buồn tẻ ở giữa sa mạc, có một ngôi nhà bằng đá xấu xí vây quanh
bởi những bụi cây barasti nhỏ bé. Có khoảng một ngh́n công nhân
loại mạt hạng sống ở đó, phần lớn là người Saudi. Những phụ nữ
đi chân đất qua những dăy phố bụi bặm và không lát nhựa đều che
mạng kín mặt.
Denmiris đi vào ngôi nhà có văn pḥng làm việc của ông J.J.
McJntyre, người phụ trách nhân sự của công ty.
Ông McJntyre nh́n người thanh niên đang đi vào cơ quan:
- Thế bên nước cậu đă mướn cậu à?
- Vâng ạ, thưa ông!
- Thế đă nằm ở vùng dầu nào chưa, cậu con trai?
Nghĩ một lát, Denmiris đă định nói dối. Nhưng ông trả lời:
- Dạ chưa ạ.
McJntyre nhăn mặt.
- Cậu chắc thích nợi đây lắm hả? Xa mọi nơi hàng ngàn dặm, ăn
uống kém, không có phụ nữ cho cậu sờ nắn nếu cậu không muốn chặt
bỏ hai ḥn của cậu đi, và không có cái đồ chết tiệt đó để làm
ban đêm đâu. Nhưng lương trả th́ tốt, được đấy?
- Tôi đến đây để học, - Denmiris nói một cách nghiêm chỉnh.
- Ề! Rồi ta sẽ nói cho cậu điều ǵ cậu sẽ học được nhanh nhất.
Hiện cậu ở một nước Hồi giáo hả. Nghĩa là không uống rượu chứ.
Kẻ nào mà ăn cắp ăn nẩy th́ phải chặt tay phải. Lần thứ hai tay
trái. Lần thứ ba, mất một bàn chân. Nếu mà cậu giết người th́
cậu sẽ bị mất đầu.
- Tôi không có ư định giết ai cả.
- Đợi đấy - Mac Jntyre lầm bầm - Cậu mới đến đây thôi.
Tổng thể kiến trúc ở đây là một toà nhà Babel, người ta đến đây
từ hàng chục nước khác nhau, nên họ nói ngôn ngữ riêng của họ.
Denmiris tai rất nhạy và có thể nhanh chóng học được các thứ
tiếng. Bọn đàn ông đến đây để làm đường giữa một sa mạc không
mến khách chút nào, hoặc xây nhà, lắp điện, đặt điện thoại, xây
xưởng sản xuất, lắp đặt hệ thống cấp nước và cung cấp thực phẩm,
thiết kế hệ thống cống rănh, cơ sở y tế, và dường như đối với
cậu Denmiris trẻ tuổi, có hàng trăm việc khác có thể làm được.
Họ phải lao động trong điều kiện nhiệt độ lên đến trên bốn mươi
độ C, chịu đựng nạn ruồi muỗi, bụi bặm và lại c̣n sốt rét và ỉa
chảy. Ngay trong sa mạc, cũng có một sự phân biệt đẳng cấp xă
hội.
Trên cao là các nhân viên xác định vị trí có dầu, và dưới là các
công nhân lao động gọi là bọn phu - và các nhân viên thư kư được
gọi là bọn "quần bóng"
Gần một nửa bọn đàn ông tham gia vào việc khoan - các nhà địa
chất, các nhân viên giám thị, các kỹ sư và các nhà hoá dầu - họ
đều là người Mỹ, v́ là cái máy khoan quay đă được phát minh ở Mỹ
và người Mỹ th́ rất quen thuộc với công việc này. Cậu thanh niên
đi ra để làm quen với họ.
Constantin Denmiris tranh thủ càng lâu càng tốt để gần bọn thợ
khoan và không ngừng hỏi han. Anh ta bắt đầu biết giữ lại những
thông tin, tiếp thu cái thông tin đó theo kiểu như là cát nóng
bỏng hút nước vậy. Anh đă nhận ra rằng người ta dùng hai phương
pháp khoan khác nhau. Anh ta mon men gần một trong những tay thợ
khoan đang làm ở một giàn khoan khổng lồ sâu tới 130 bộ.
- Tôi không hiểu tại sao lại áp dụng hai cách khoan khác nhau.
Tay thợ khoan giải thích.
- Tốt, cu cậu ơi, một kiểu dùng dây cáp, một kiểu quay. Bọn tao
bây giờ làm theo kiểu quay nhiều hơn. Họ đều bắt đầu như thế cả
mà.
- Họ làm vậy hở anh?
- Ừ. V́ một khi mà đă dựng được một giàn khoan như cái này,
người ta phải lắp lên những chi tiết thiết bị để hạ sâu xuống
giếng. - Tay thợ nh́n vào bộ mặt hăm hở của cậu thanh niên. -
Tao đố mày có ư kiến v́ sao lại gọi là giàn khoan đấy?
- Em chịu, ông anh ạ.
- Đó là tên một tay bị treo cổ nổi tiếng ở thế kỷ 19.
- Thế à?
- Sau này người ta mới khoan bằng dây cáp. Hàng trăm năm trước,
người Trung Hoa đă đào giếng nước kiểu đó. Họ đục một lỗ ở trên
mặt đất bằng cách nâng lên và hạ xuống một dụng cụ cắt gọt nặng
treo trên một sợi cáp. Nhưng ngày nay khoảng 85% các giếng đều
được đào theo phương pháp quay.
Anh quay đi, định về nơi khoan dầu của anh.
- Xin lỗi. Thế phương pháp quay th́ hoạt động thế nào hở anh.
Tay thợ dừng lại.
- Được, thay v́ phải chọn măi mới được cái lỗ trên mặt đất, bây
giờ chỉ việc khoan một lỗ cái. Mày thấy chưa? Ở giữa giàn khoan,
có một bàn quay bằng thép quay được do một máy khác. Bàn quay
này kẹp chặt và làm xoay một cái ống nối dài xuống dưới. Ở đầu
dưới cùng của cái ống, c̣n có một chỗ c̣n có thể vặn ra được.
Nghe tưởng đơn giản, phải không? Trông thế thôi, chứ phức tạp
lắm đấy. Phải có cách moi cái chất đă bị nhăo lên khi khoan.
Phải đề pḥng không cho cái bức thành tạo thành hốc và lại c̣n
phải đánh dấu nước và khí lấy lên từ giếng.
- Với cái kiểu khoan như vậy, thế mũi khoan có bao giờ bị cùn
không anh?
- Có chứ, nên đôi khi, chúng ta phải kéo cả dây khoan chết tiệt
ấy lên, lắp cái mũi khoan mới vào đầu ống khoan rồi lại hạ xuống
đáy lỗ khoan. Thế chú mày có ư định thành thợ khoan không đấy?
- Không, anh ạ. Em c̣n muốn có một giếng dầu riêng cơ?
- Xin chúc mừng. Thôi nhé, tao về làm việc đây.
Một buổi sáng, Denmiris xem một trục khoan đang hạ xuống giếng,
nhưng đáng lẽ cái trục khoan phải khoan xoáy xuống, nhưng lại
thấy nó cắt một khoanh tṛn ở thành hố và mang lên một mẩu đá.
- Xin lỗi. Cái mũi khoan nó làm như vậy để làm ǵ? - Denmiris
hỏi.
Tay thợ khoan dừng lại, lau trán.
- Đó là khoan thành giếng. Chúng tao dùng cái cục đá này để phân
tích, xem nó có chứa dầu trong đó không!
- À em hiểu rồi.
Khi mọi việc trôi chảy, Denmiris lại nghe thấy tay thợ khoan kêu
to lên "Tôi đang quay sang phải" - như thế có nghĩa là họ đang
khoan một cái hố. Denmiris nhận thấy rằng có hàng chục hố nho
nhỏ đă khoan trên khắp vùng, với đường kính khoảng từ hai đến ba
inch.
- Xin lỗi. Nhưng hố đó để làm ǵ thế ạ? - Cậu thanh niên hỏi.
- Đó là những giếng thăm ḍ, cho chúng ta biết dưới đó có cái
ǵ. Như vậy thiết kiệm được cho công ty nhiều tiền và đỡ mất
thời gian.
- Em hiểu.
Mọi cái đều làm mê mẩn cậu thanh niên và cậu vẫn cứ muốn hỏi.
- Xin lỗi. Làm sao anh biết nên khoan ở chỗ nào?
- Chúng tao có nhiều nhà địa chất - c̣n gọi các con pupé nhỏ bé
- họ đo đạc các địa tẩng và nghiên cứu các mẫu lấy từ giếng
khoan. Rồi đến bọn cổ cuốn thừng.
- Xin lỗi anh, "cổ cuốn thừng" là ǵ hở anh?
- Thợ khoan. Khi họ…
Constantin Denmiris làm việc từ sáng sớm đến khi mặt trời lặn,
kéo các đống dây qua các băi sa mạc nóng bỏng, lau chùi thiết
bị, và lái các xe kéo ngang, qua những cột lửa bốc lên từ những
mỏm đá. Các ngọn lửa đó cháy ngày đêm làm tan đi các khí độc.
Ông McJntyre đă nói với Denmiris những sự thật. Đồ ăn uống ở đây
rất tồi, điều kiện sống th́ khủng khiếp, và ban đêm chẳng có ǵ
để làm. C̣n tồi hơn Denmiris cảm thấy như thể một lỗ chân lông
trên ḿnh, đều chứa đầy các hạt cát.
Sa mạc vẫn sống và không có đường để chạy trốn. Cát lọt cả và
trong lều và chui vào quần áo, và cả cơ thể con người đến mức
anh nghĩ khéo ḿnh phát rồ mất. Và rồi, t́nh h́nh c̣n tệ hơn
nữa.
Cái xe kéo shamal. Băo cát thổi suốt ngày trong cả một tháng,
tiếp theo là những cơn gió rít với một sức mạnh đủ để làm người
ta phát điên lên.
Denmiris nh́n ra ngoài cửa sổ của cái lều barasti khi cát đang
cuốn bên ngoài.
- Liệu chúng ta có làm việc ở bên ngoài thế này không?
- Mày nói đúng quá, Charlie ạ. Đó không phải là ḍng nước khoáng
cho sức khỏe con người.
Xung quanh họ, người ta ra sức t́m kiếm dầu. Đă có những giếng
mới ở Abu Hadriyad và c̣n có các giếng khác ở Qatif và các công
nhân bị buộc làm việc bận rộn hơn bao giờ hết.
Có hai người mới đến, một nhà địa chất người Anh và vợ ông ta.
Herry Potter th́ vào khoảng gần sáu mươi tuổi và vợ ông ta, bà
Sybil th́ mới độ ngoài ba mươi. Về một khía cạnh nào đó Sybil
Potter được coi là cũng vừa mắt, một phụ nữ mập mạp có giọng nói
vừa cao, vừa khó nghe.
Ở Fadibi, bà ta là một người đẹp ngoại lệ. V́ ông Harry Potter
thường hay phải xa nhà, đi thăm ḍ các vùng dầu mới, nên vợ ông
phải ở nhà một ḿnh.
Cậu Denmiris trẻ tuổi được cử giúp bà ta đi lại trong khu nhà và
cậu c̣n giúp bà ta cả trong công việc bố trí ăn ở.
- Đây là nơi khốn khổ nhất trong đời tôi chưa thấy bao giờ -
Sybil Potter phàn nàn với giọng nói trầm trầm của bà.
- Ông Herry cứ luôn muốn tôi đi đến những nơi khủng khiếp như
thế này. Tôi không biết làm sao tôi thoát được cảnh này?
- Ông bà đang làm một công việc rất quan trọng. - Denmiris khẳng
định với bà.
Bà nh́n vào mắt người thanh niên hấp dẫn này một cách khác
thường.
- Ông nhà tôi không làm được cái việc mà ông phải làm. Anh có
hiểu tôi muốn nói ǵ không?
Denmiris biết rất rơ ư bà muốn nói ǵ.
- Không thưa bà.
- Tên anh là ǵ nhỉ?
- Denmiris, thưa bà. Constantin Denmiris.
- Thế các bạn anh gọi anh là ǵ?
- Costa.
- Ừ, Costa, tôi nghĩ rằng anh và tôi đang trở thành những người
bạn rất tốt đấy. Chúng ta chắc chẳng có ǵ giống những người ở
đây, có phải thế không?
- Những người ở đây?
- Anh biết đấy. Những người xa lạ.
- Tôi phải về để làm việc. - Denmiris nói.
Suốt mấy tuần sau, Sybil Potter cứ luôn kiếm cớ cho gọi người
thanh niên đến.
- Herry sáng nay lại đi rồi. - Bà nói với anh. - Ông ta đi để
làm cái việc khoan điên rồ của ông ta. - Bà nói thêm một cách
cay độc. - Ông ta đáng phải làm việc đó nhiều ở nhà th́ phải.
Denmiris không trả lời. Các nhà địa chất là những người quan
trọng trong các cấp bậc ở công ty và Denmiris không có ư định
dính dáng ǵ đến vợ của Potter và làm phân tán việc riêng của
anh. Anh cũng không biết chính xác v́ sao, nhưng anh biết không
cần hỏi ai rằng cách này th́ công việc anh đang làm chính là tấm
thông hành tới mọi việc anh hằng mơ đến, dầu là tương lai và anh
đă được định là một phần trong tương lai đó.
Một lần vào lúc nửa đêm. Sybil Potter cho gọi Denmiris. Anh đi
vào khu nhà bà và gọi cửa.
- Vào đi! - Sybil đang mặc một cái áo ngủ mỏng dính và khốn thay
nó chẳng che được ǵ hết.
- Tôi đây - bà muốn gặp tôi ạ, thưa bà.
- Ừ, vào đi, Costa. Cái đèn ngủ này h́nh như làm sao không sáng.
- Anh lấy ra xem. - Không có bóng bên trong… - Và anh thấy thân
thể bà ép sát vào lưng anh và hai bàn tay bà đang ṃ mẫm vào
anh.
- Bà Potter…
Đôi môi bà đă kề sát môi anh và bà đă đẩy anh nằm trên giường.
Và anh cũng không ḱm hăm nổi những ǵ xảy ra sau đó.
Quần áo anh đă tụt hết và anh đă đi sâu vào bà, bà rên lên v́
sung sướng.
- Thế đấy! Ôi, được, cứ thế.
- Trời ơi, sao mà dai thế?
Bà ôm gh́ anh một lần cuối và run lên.
- Ôi, cưng ơi, yêu cưng.
Denmiris nằm đó sợ hăi. Tôi đă làm ǵ? Nếu ông Potter mà thấy
th́ tôi hết đời.
Như bà đọc được ư nghĩ của anh, Sybil Potter gượng cười.
- Đó là điều bí mật riêng của chúng ta, phải không, cưng?
Điều bí mật riêng của họ c̣n tiếp tục mấy tháng sau nữa.
Denmiris không có cách nào xa lánh được bà, và v́ chồng bà cứ đi
xa nhiều ngày đúng lúc công việc khai thác bận rộn của ông ta,
Denmiris không làm sao nghĩ ra được cớ ǵ để khỏi leo lên giường
bà. Không biết sau điều đó c̣n tệ hơn. Sybil Potter đă yêu anh
như điên dại.
- Anh th́ quá giỏi với công việc làm ở nơi này như thế này, cưng
ạ! - Bà bảo anh. - Anh và em sẽ trở về nước Anh thôi!
- Nhà tôi là Hy Lạp.
- Không nói thế nữa! - Bà vỗ vào thân h́nh dài và gầy của anh. -
Anh sẽ trở về nhà với em. Em sẽ ly dị Herry và chúng ta sẽ lấy
nhau.
Denmiris tự nhiên có cảm giác sợ hăi.
- Sybil, anh, anh không có tiền. Anh…
Bà đưa đôi môi bà rà xuống ngực anh.
- Không thành vấn đề. Em biết cách làm sao cho anh kiếm được
tiền, anh yêu ạ.
- Em làm được ư?
Bà ta ngồi dậy trên giường.
- Tối hôm trước Herry nói với em, ông mới t́m thấy một số vùng
dầu mới. Anh biết không cái khoản đó th́ ông ấy rất giỏi. Sao mà
ông ấy khoái chí về việc đó thế. Ông ấy đă viết báo cáo trước
khi đi và bảo em gởi đi vào túi thư sáng nay. Nhưng em c̣n để
đây. Anh có muốn xem không?
Tim Denmiris bắt đầu đập nhanh hơn.
- Ừ, anh… anh muốn.
Anh ngắm nh́n bà tụt xuống giường và lục lọi suốt ở góc một cái
bàn nhỏ cũ kỹ. Bà lấy ra một phong b́ bằng giấy mỏng nhưng dày
và quay lại giường cùng cái phong b́ đó.
- Mở ra đi!
Denmiris do dự tư chút. Anh mở phong b́, lôi ra tập giấy bên
trong. Có 5 trang. Anh lướt qua rất nhanh, rồi quay lại từ đầu
và đọc từng tờ một.
Liệu thông tin này có giá trị không? Đó có phải là báo cáo về
vùng dầu mới có thể trở thành một trong những vùng dầu mỏ giàu
có nhất trong lịch sử không.
Denmiris nuốt nước bọt.
- Ừ. Có thể.
- Đấy, cho anh đấy. - Sybil nói một cách măn nguyện - Bây giờ
chúng ta có tiền rồi.
Anh gật đầu:
- Không đơn giản thế đâu.
- Tại sao không !
Denmiris giải thích:
- Cái này chỉ có giá trị với ai có thể chọn một số khu đất xung
quanh khu vực này. Nhưng cần nhiều tiền lắm. Anh chỉ có ba trăm
đô la trong tài khoản của anh ở nhà băng.
- Ồ đừng lo điều đó. Herry có tiền. Em sẽ viết một ngân phiếu.
Liệu năm ngh́n đô la có đủ không?
Constantin Denmiris không tin nổi điều anh vừa nghe được.
- Ừ. Anh… Anh không biết nói sao bây giờ.
- Đó là cho cả hai chúng ta, cưng ạ. V́ tương lai chúng ta.
Anh ngồi như vậy trên giường suy nghĩ bao nhiêu chuyện.
- Sybil, em có thể giữ báo cáo này đến ngày mai hay ngày kia
không?
- Dĩ nhiên, được chứ. Em sẽ giữ nó tới thứ sáu. Như vậy có đủ
thời gian cho anh không, cưng?
Anh gật đầu chậm chạp:
- Như vậy sẽ đủ thời gian cho anh.
Với năm ngh́n đô la mà Sybil cho không anh, đó không phải là một
món quà, mà đó là tiền vay, anh tự nhủ.
- Constantin Denmiris chọn mua một acre(1) đất quanh cái nơi có
tiềm năng mới đó. Mấy tháng sau, khi cái giếng dầu tự nhiên bắt
đầu phun cùng với vùng dầu chính, Constantin Denmiris đă nhanh
chóng trở thành một nhà triệu phú.
- Anh trả lại cho Sybil năm ngh́n đô la, gửi cho bà một cái áo
ngủ mới, và trở về Hy Lạp. Bà ta chẳng bao giờ c̣n gặp lại anh
nữa.
----------------
Chú thích:
(1) 1 acre - 0,4047 ha.
Chương 3
Có một lư thuyết nói rằng không có cái ǵ trong thiên
nhiên mất đi cả - mỗi âm thanh phát ra, mỗi lời được nói lên,
vẫn tồn tại đâu đây trong không gian và thời gian, và một ngày
kỉa sẽ được nhắc lại.
Trước khi người ta phát minh ra radio, có ai tin được rằng không
khí quanh ta chứ đầy các âm thanh của âm nhạc, tin tức và tiếng
nói từ khắp nơi trên thế giới. Rồi sẽ có ngày, chúng ta có thể
đi ngược thời gian để lắng nghe Bài diễn văn ở Gettlysburg của
Lincoln, lắng tiếng nói của Sech-pia, lời thề trên Núi…
Catherine Alexander, đă nghe được tiếng nói từ quá khứ của nàng,
nhưng những tiếng nói ấy như câm lặng và rải rác, và làm đầu óc
nàng đầy những sự việc lẫn lộn…
- Cô có biết cô là một cô gái đặc biệt, Cathy? Tôi cảm thấy như
vậy ngay từ lúc đầu tiên gặp cô.
- Thế là hết, tôi muốn ly dị. Tôi đă yêu một người khác… - Tôi
biết tôi đă đối xử không tốt như thế nào… Tôi muốn làm theo ư
em!
- Hắn cố t́m cách giết tôi.
- Ai muốn giết cô?
- Chồng tôi.
Những tiếng nói đó vẫn không ngớt. Như một trận tra tấn Quá khứ
của nàng như một ống kính lăng trụ vạn hoa với những h́nh ảnh
luôn thay đoi cứ như đuổi bàt nhau qua tâm trí nàng.
Tu viện là một nơi che chở yên b́nh và tuyệt vời, nhưng tự dưng
trở thành nhà tù đối với nàng. Tôi không phải là người ở đây.
Nhưng tôi thuộc về đâu? Nàng không có khái niệm ǵ cả.
- Không có gương soi trong tu viện, nhưng bên ngoài gần vườn cây
có một cái ao có thể phản chiếu h́nh ta.
Catherine thận trọng tránh xa nơi đó, sợ rằng có cái ǵ không
tốt có thể tiết ]ộ ra cho nàng. Nhưng buổi sáng hôm đó nàng đi
qua ao, chậm răi quỳ và nh́n xuống: Mặt nước ao chiếu lên một
khuôn mặt đáng yêu của một phụ nữ da rám nắng, tóc đen, vẻ mặt
nghiêm trang và không có một khuyết tật, đôi mắt nâu đựng đầy
đau khổ… Nhưng có lẽ đó chỉ là một tṛ lừa dối của nước. Nàng
nh́n thấy cái miệng độ lượng luôn tươi cười, và cái mũi hơi hếch
lên nhè nhẹ một phụ nữ xinh đẹp đang độ hơn ba mươi tuổi.
Nhưng là một phụ nữ không có quá khứ và không có tương lai. Một
người phụ nữ thất lạc.
- Tôi cần có ai giúp, Catherine suy nghĩ một cách thất vọng, tôi
cần có một người để chuyện tṛ.
Nàng đi đến pḥng làm việc của Xơ Theresa.
- Thưa xơ…
- Con đấy à?
- Con… nghĩ con muốn gặp bác sĩ. Con muốn có ai giúp con t́m ra
con là ai?
Xơ Theresa nh́n nàng một lúc lâu.
- Con ngồi xuống.
Catherine ngồi xuống chiếc ghế cứng kê trước cái bàn cổ, đầy vết
xước Xơ Theresa nói lặng lẽ: "Con yêu quư, thượng đế là vị bác
sĩ của con. Đúng là ngươi sẽ nói cho con Người muốn biết những
điều đó. Hơn nữa, bên trong những bức tường này không có người
ngoài nào được phép.
Tự nhiên Catherine lại nhớ kư ức thoáng qua, h́nh ảnh lờ mờ về
một người đàn ông đang nói với nàng trong vườn tu viện - đưa
nàng một vật ǵ đó… nhưng rồi mọi cái lại biến đi.
- Con không phải là người ở đây.
- Thế con là người ở đâu?
Và có vấn đề "Con không biết chắc. Con đang t́m kiếm một cái ǵ
đó không ở đây. Hăy quên con đi, Xơ Theresa".
Xơ Theresa đang chú ư t́m hiểu về nàng, nét mặt xơ đầy ưu tư:
- Ta hiểu. Nếu con đi khỏi đây, th́ con đi đâu?
- Con không biết!
- Để cho ta suy nghĩ một chút về việc đó, con ạ. Chúng ta sẽ nói
về chuyện này sau.
- Cám ơn xơ.
Khi Catherine đă xa, Xơ Theresa c̣n ngồi ở bàn làm việc một lúc
lâu, mắt nh́n bâng quơ. Bà phải quyết định việc rất khó. Cuối
cùng, bà lấy một mẩu giấy và một cây bút rồi bắt đầu viết.
- Thưa ông - bà bắt đầu như vậy. - Có một điều xảy ra tôi cảm
thấy rằng tôi phải lưu ư ông. T́nh bạn giữa chúng tôi cho tôi
biết rằng cô ấy muốn rời tu viện. Xin ông cho biết tôi phải làm
ǵ.
Ông đọc lại mấy ḍng ấy một lần nữa, và ngồi dựa lưng vào ghế,
phân tích những điều có thể rút ra được từ đó. Như vậy,
Catherine Alexander muốn quay lại từ cái chết. Tệ quá.Ta phải
theo dơi sát nàng. Cẩn thận. Thật cẩn thận đấy. Trước tiên là
phải đưa nàng ra khỏi tu viện, Denmiris quyết định đă đến lúc
phải đến thăm Xơ Theresa.
Sáng hôm sau, Denmiris bảo lái xe đưa ông đi Ioanina. Khi xe đi
qua miền quê, Constantin Denmiris nghĩ về Catherine Alexander.
Ông nhớ lại nàng xinh đẹp biết ngần nào khi lần đầu ông đă gặp
nàng. Nàng thật lộng lẫy vui nhộn, và lanh lợi, rất phấn khởi
được ở Hy Lạp. Nàng đă từng có mọi thứ, Denmiris nghĩ vậy. Và
rồi, các đấng thánh đă lấy đi sự yên vui. Catherine đă lấy một
trong các phi công của ông, và đám cưới của họ đă trở thành một
h́nh phạt trong đời họ. Cứ qua một đêm, nàng lại già di tới mười
tuổi và nàng đă trở thành một kẻ nghiện rượu béo ị và xấu xí.
Denmiris thở dài. Thật là phí hoài.
Denmiris đă ngồi trong pḥng làm việc của Xơ Theresa.
- Tôi không muốn làm phiền ông về điều đó - Xơ Theresa xin lỗi,
- nhưng v́ con bé chẳng có nơi nào để đi và…
- Xơ đă nói đúng, - Constantin Denmiris an ủi xơ - Có phải nó đă
nhớ ra được một điều ǵ đó về quá khứ?
Xơ Theresa lắc đầu.
- Không, ông thân mến đáng thương ạ… - Bà đi qua cửa sổ, ở đó có
mấy tu sĩ đang làm việc trong vườn. - Cô ta đi ra đây bây giờ.
Constantin đi bên bà và nh́n qua cửa sổ. Có ba tu sĩ, đang quay
lưng về phía ông. Ông đợi. Một tu sĩ quay mặt lại, và ông có thể
nh́n thấy mặt người này, nhịp thở của ông nghẹn lại trong cổ.
Nàng đẹp quá. Có điều ǵ đă xảy ra đối với người phụ nữ tàn tạ
và béo này?
- Cô ấy là người ở giữa. - Xơ Theresa nói Denmiris gật đầu. -
Vâng. - Lời nói xơ Theresa th́ thật hơn cả những cái ǵ bà đă
biết.
- Ông muốn tôi làm ǵ cho cô ấy?
- Cẩn thận. Cho tôi nghĩ một tư. - Denmiris nói - Tôi sẽ c̣n gặp
bà!
Constantin Denmiris cần phải quyết định. Vẻ ngoài của Catherine
Alexander đă làm ông sửng sốt. Nàng đă thay đổi hoàn toàn. Không
ai có thể biết được rằng vẫn những phụ nữ đó, ông nghĩ. Và cái ư
nghĩ đến trong đầu óc ông th́ đơn giản một cách độc ác đến nỗi
ông suưt nữa cười phá lên.
Tốỉ hôm đó, ông đă gửi mấy chữ cho xơ Theresa.
Thật lạ lùng, Catherine nghĩ. Một giấc mơ lại thành thật. Xơ
Theresa đứng lại gần căn buồng bé nhỏ của nàng sau buổi lễ sáng.
- Ta có một vài tin cho con, con ạ!
- Dạ!
Xơ Theresa chọn cẩn thận những từ để nói.
- Tin rồi tốt. Ta viết thư cho một người bạn của tu viện về con,
và ông ta muốn giúp con.
Catherine cảm thấy tim nàng muốn giật thót lên:
- Giúp con - thế nào ạ?
- Có một vài việc ông ta muốn nói với con. V́ ông ta người rất
tử tế và độ lượng. Ông ấy muốn cho con rời tu viện.
Và những lời đó làm cho cô tự nhiên run rẩy khắp người. Cô muốn
được đi khỏi và đến một thế giới xa lạ mà cô không thể nhớ được.
Và ai là người đă ban ơn cho ta?
Mọi điều mà xơ Theresa muốn nói là:
- Ông ấy là một người rất chu đáo. Con phải biết ơn. Xe của ông
sẽ đến để đón con sáng thứ hai.
Catherine không ngủ được suốt hai đêm hôm sau. Ư nghĩ được rời
tu viện và đi đến thế giới bên ngoài đột nhiên làm nàng sợ hăi.
Nàng cảm thấy trần trụi và lạc lơng. Có lẽ, tốt hơn hết là ta đi
xa không c̣n biết ta là ai. Xin Chúa đoái hoài tới con.
Vào hôm thứ hai, chiếc xe limousine đến đỗ ngoài cửa tu viện vào
7 giờ sáng. Catherine đă thức suốt đêm suy nghĩ về tương lai
không biết ra sao.
Xơ Theresa dẫn nàng ra cửa để đi ra thế giới bên ngoài.
- Chúng ta sẽ cầu Chúa cho con. Hăy nhớ, nếu con quyết định quay
về với chúng ta, con sẽ luôn luôn có một chỗ ở đây.
- Xin cám ơn xơ. Con sẽ nhớ.
Nhưng trong thâm tâm nàng, Catherine tin chắc nàng không bao giờ
c̣n quay lại nữa.
Cuộc hành tŕnh dài từ Ioanina đến Anthens làm cho trong đầu
Catherine đầy những cảm xúc mâu thuẫn xung đột nhau. Đó là điều
vô cùng phấn khích được thoát khỏi cổng tu viện, là nỗi lo có
một điềm gở ǵ đó về thế giới bên ngoài. Nàng liệu có nắm được
điều khủng khiếp ǵ đă xảy ra trong quá khứ của nàng? Nàng phải
làm ǵ qua những giấc mơ về quá khứ rằng có một người nào đó cố
t́nh d́m chết nàng?
Vào đầu buổi chiều hôm đó, họ đi theo con đường miền quê qua
những cái làng nhỏ và cuối cùng đến vùng ngoại ô Anthens, và
chẳng bao lâu họ đă ở giữa thành phố nhộn nhịp. Thành phố dường
như hoàn toàn xa lạ và không có thực đối với Catherine - nhưng
lại có cái ǵ quen thuộc một cách kỳ lạ với nàng. H́nh như tôi
đă ở đây thuở trước, Catherine thích thú nghĩ vậy.
Người lái xe quay mũi xe về phía đông, và mười lăm phút sau, họ
lên tới một ngôi nhà ở một vùng rộng lớn trên đồi. Họ cho xe đi
qua một cổng sắt cao và mộ cửa ṿm đá, tới một con đường ô tô
dài hai bên trồng những cây bách diệp, xe dừng lại trước một
villa kiểu Địa Trung hải, viền quanh bằng những bức tượng rất
đẹp.
Người lái xe mở cửa cho Catherine và nàng bước xuống. Một người
đàn ông đang đứng đợi ở cửa trước.
- Kalimehra.
- Ông có phải… là người tôi đến để gặp không?
- Dạ, không ạ, ông Denmiris đang đợi bà ở thư viện!
Denmiris. Đó có phải là cái tên trước đây nàng đă từng được
nghe. Làm sao ông ta lại quan tâm đến việc giúp đỡ ta?
Catherine đi theo người đàn ông qua một gian pḥng lớn h́nh
tṛn, có ṿm mái làm bằng những tấm kính từ Wedgwood. Sàn nhà
lát bằng đá mầu kem từ nước Ư.
Pḥng khách rất rộng, trên trần là các thanh dầm lớn và chỗ nào
cũng có những đi-văng tiện nghi và thấp cùng với những cái ghế
to. Một bức vẽ lớn sẫm mầu và rực rỡ của hoạ sĩ Goya, phủ cả một
phía tường bên. Khi họ gần tới thư viện, người đàn ông dừng lại.
- Ông Denmiris đang đợi bà trong thư viện.
Các bức tường thư viện đều một màu trắng và có viền hoa văn
vàng, và các giá sách dọc các bức tường xếp đầy các quyển sách
bọc da gáy thếp vàng. Một người đàn ông đang ngồi sau một cái
bàn lớn. Ông nh́n lên khi Catherine bước vào và đứng dậy. Ông cố
t́m một dấu hiệu nhận ra sự quen biết trên mặt nàng, nhưng không
có.
- Xin mời vào. Tôi là Constantin Denmiris. Tên cô là ǵ?
Ông hỏi câu đó với giọng như là vô t́nh. Liệu nàng có nhớ ra
được tên nàng không?
- Catherine Alexander.
Ông tỏ ra không có phản ứng.
- Xin chào, Catherine Alexander. Xin mời ngồi.
Ông ngồi đối diện với nàng, trên chiếc đi-văng bọc da mầu đen.
Nh́n gần, nàng c̣n đáng yêu hơn. Nàng đẹp tuyệt vời. Denmiris
nghĩ vậy.
Ngay cả khi nàng mặc bộ đồ đen. Thật đáng hổ thẹn khi tàn phá đi
bất cứ cái ǵ đẹp đẽ. Ít nhất th́ nàng sẽ chết trong hạnh phúc.
- Thật… ông tử tế quá, cho tôi được gặp! Catherine nói - Tôi
không hiểu v́ sao ông…
Ông cười đầy thiện cảm.
- Điều đó thực rất đơn giản. Thường tôi vẫn giúp đỡ Xơ Theresa.
Tu viện có rất ít tiền, nên tôi giúp được ǵ th́ tôi giúp. Khi
bà viết thư cho tôi nói về cô và hỏi tôi xem có giúp được không,
tôi đă nói với bà rằng tôi rất sung sướng được giúp đỡ.
- Điều đó rất là… - Nàng định nói tiếp nhưng không biết nói sao
được. - Có phải xơ Theresa nói với ông rằng tôi… rằng tôi đă mất
hết cả trí nhớ?
- Vâng, bà không nói ǵ về điều đó. - Ông dừng lại và nói bâng
quơ, - Cô c̣n nhớ được nhiều không?
- Tôi biết tên tôi, nhưng tôi không biết tôi từ đâu đến, hoặc
thực tế là ai. - Nàng nói thêm đầy hy vọng - Có thể là tôi sẽ
t́m được ai ở Anthens biết tôi.
Constantin Denmiris cảm thấy tự nhiên hơi rùng ḿnh, một cái
rùng ḿnh báo động. Đó là điều cuối cùng trên đời mà nàng muốn
biết.
- Tất nhiên điều ấy có thể -, ông nói rất thận trọng. - V́ sao
chúng ta không trao đổi điều đó sáng nay. Rất tiếc, tôi phải đi
họp bây giờ tôi đă sắp xếp cho cô một buồng đặc biệt ở đây. Tôi
nghĩ rằng cô sẽ cảm thấy dễ chịu.
- Tôi… tôi thật không biết phải cám ơn ông thế nào.
Ông khoát tay.
- Điều đó không cần thiết. Cô sẽ được chăm sóc chu đáo ở đây.
Xin cứ tự nhiên như ở nhà nhé.
- Xin cám ơn, ông…
- Bạn bè tôi gọi tôi là Costa.
Một người giúp việc dẫn Catherine vào một buồng ngủ tuyệt vời,
được thiết kế mầu trắng mờ êm dịu, có một cái giường lớn quá
kích thước b́nh thường phủ ga lụa, một bộ ghế bành và đi-văng
trắng, những cái bàn và bộ đèn cổ, trên tường treo những bức
tranh thuộc trường phái ấn tượng. Nhưng bức rèm màu xanh nước
biển nhạt che ánh nắng từ ngoài vịnh chiếu vào. Qua cửa sổ
Catherine có thể nh́n thấy xa xa là biển Thổ Nhĩ Kỳ.
Người giúp việc nói:
- Ông Denmiris đă đặt một số quần áo đưa về đây xin bà chấp
thuận. Xin bà chọn cho bất cứ thứ ǵ bà thích ạ!
Catherine c̣n biết ngay từ đầu rằng nàng vẫn đang mặc những bộ
đồ mà người ta phát cho nàng từ tu viện.
- Cám ơn.
Nàng thả ḿnh luôn xuống chiếc giường mềm mại, như cảm thấy rằng
nàng đang ở trong mơ. Người lạ này là ai và v́ sao ông ta lại
tốt với người như vậy?
Một giờ sau, người ta đẩy vào một xe chất đầy quần áo. Một bà
thợ may đă vội vàng đi vào buồng ngủ của Catherine.
- Tôi là Dimas. Cho phép tôi xem phải làm ǵ với khổ người của
bà. Xin bà vui ḷng cởi bộ đồ ra cho.
- À tôi… ôi xin lỗi nhé?
- Xin bà cứ cởi hết ra ạ? Tôi không thể biết được rơ kích thước
là bao nhiêu trong bộ đồ này.
Đă bao lâu rồi kể từ khi nàng đă trần truồng trước mặt một người
khác?
Catherine bắt đầu cởi hết quẩn áo của nàng với động tác chậm
chạp, và cảm thấy e thẹn. Khi nàng hoàn toàn trần truồng đứng
trước người phụ nữ, bà Dimas nh́n khắp thân h́nh nàng với cái
nh́n thông thạo. Bà đă bị cảm kích:
- Bà có một thân h́nh đẹp quá. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ làm rất đẹp
và vừa ư bà.
Hai người phụ nữ phụ việc đi vào, mang theo những hộp quần áo đồ
lót, áo khoác, váy ngắn, giầy.
- Xin bà cứ chọn cái nào bà thích! - Bà thợ may nói, - và cho
tôỉ được ướm thử với người bà.
- Tôi… không thể chọn mua cái nào cả, - Catherine phản ứng. -
Tôi không có tiền.
Bà thợ may cười:
- Tôi không nghĩ rằng vấn đề tiền là điều đáng quan tâm. Ông
Denmiris đă lưu ư tôi điều đó rồi ạ!
- Nhưng làm sao?
Những loại vải gợi cho nàng những kư ức và xúc giác với những
loại quần áo mà nàng đă từng mặc. Đó là các loại tơ và len dầy,
vải bông, với hàng loạt các mầu tao nhă.
Cả ba người phụ nữ làm rất mau lẹ, hiệu quả và hai giờ sau,
Catherine đă có gần nửa tá các quần áo đẹp đẽ.
Thật là quá sức tưởng tượng. Nàng ngồi đó, không biết phải là ǵ
với chính ḿnh.
Tôi đă ăn mặc nghiêm chỉnh, nàng nghĩ nhưng không có nơi nào để
đi cả. Nhưng cũng có vài nơi để đi vào thành phố. Cái mấu chốt
của tất cả những ǵ đă xảy ra với nàng chính là ở Anthens. Nàng
tin chắc như vậy. Nàng đứng dậy. Nào, người xa lạ. Chúng ta đang
cố t́m cô là ai?
Catherine đi lang thang ra đại sảnh phía trước, và một người hầu
bàn đă tiến gần nàng.
- Xin phép cô, tôi có thể giúp ǵ được cô?
- Ừ. Tôi… tôi muốn đi vào thành phố. Anh có thể gọi một chiếc
taxi không?
- Tôi chắc chắn rằng không cần thiết, thưa cô. Chúng ta sẽ có xe
limousine sẵn sàng theo lệnh cô. Tôi sẽ bảo lái xe đến cho cô.
Catherine do dự:
- Cám ơn anh.
Liệu Denmiris bằng ḷng cho nàng vào thành phố không? Ông không
nói là không mà.
Mấy phút sau, nàng đă ngồi vào ghế sau của chiếc limousine hiệu
Daimler, nhắm hướng khu trung tâm Anthens.
Catherine sửng sốt bởi thành phố sống động và ồn ào, những đổ
nát điêu tàn liên tiếp hiện ra quanh nàng cùng với những di tích
lâu đài.
Người lái xe chỉ về đằng trước và nói một cách kiêu hănh:
- Đây là Pathenon, cô ḱa, trên đỉnh Acropolis.
Catherine ngắm nh́n ngôi nhà đá trắng quen thuộc. Chỉ có ở
Anthens nữ thần của sự thông thái - nàng nghe thấy lời nói từ
chính nàng.
Người lái xe cười tán thành.
- Cô có phải là sinh viên nghiên cứu về lịch sử Hy Lạp không ạ,
thưa cô?
Những giọt lệ thất vọng đă làm mắt Catherine mờ đi.
- Tôi không biết, - nàng nói thầm - Tôi không biết.
Họ lại đi ngang qua một công tŕnh đổ nát nữa.
- Đó là hí trường Herodes Atticus. Cô thấy không, một phần của
bức tường vẫn c̣n đứng nguyên. Có lần trên năm ngh́n người đă
ngồi ở đây.
- Sáu ngh́n, hai trăm năm mươi bảy người. - Catherine nói nhẹ
nhàng. Những khách sạn hiện đại và những binding văn pḥng có
khắp nơi, giữa những điêu tàn măi măi một sự hỗn hợp kỳ lạ giữa
quá khứ và hiện tại. Chiếc limousine đi ngang qua một công viên
lớn ở trung tâm thành phố, giữa công viên, những giếng phun nước
như nhảy múa lấp lánh. Những dăy bàn che dù xanh và vàng xếp
hàng trong công viên, và bầu trời trên đầu họ như được che phủ
bởi những tấm vải màu xanh.
Catherine nghĩ, trước đây h́nh như ta đă nh́n thấy nơi đây, đôi
bàn tay nàng trở nên lạnh cóng. Và tôi đă may mắn.
Có nhiều quán cà-phê bên đường trước mỗi khối nhà, và ở góc phố
những người đàn ông đang bán những miếng bọt biển mới đánh bắt
được. Đâu đâu cũng có những người bán hoa, mỗi quầy hoa của họ
đă gây nên một sự đam mê màu sắc mạnh mẽ.
Chiếc limousine đă tới Quảng Trường Syntagma.
Khi họ đi ngang qua một khách sạn góc đường.
Catherine kêu lên:
- Dừng, dừng lại đi!
Người lái đạp nhanh phanh hăm. Catherine cảm thấy Catherine khó
thở. Tôi nhận ra khách sạn này. Tôi đă có lần ở đây.
Khi nàng nói vậy, giọng nàng như bị rung lên.
- Tôi muốn xuống đây. Tôi muốn biết anh có thể đón tôi ở đây sau
hai giờ nữa không?
- Tất nhiên, thưa cô.
Người tài xế vội ra mở cửa cho nàng, và Catherine đă bước ra
ngoài trong không khí mùa hè nóng nực. Đôi chân nàng run lên.
- Cô có làm sao không, thưa cô?
Nàng không trả lời. Nàng cảm thấy như nàng đang đứng trên bờ vực
thẳm, hoặc như sắp rơi xuống địa ngục vô danh và khủng khiếp.
Nàng len giữa đám đông, kinh ngạc giữa đoàn người vội vă qua các
phố phường, với tiếng ồn ào của những cuộc chuyện tṛ. Sau sự
yên b́nh và hiu quạnh của tu viện, mọi việc bây giờ như là không
phải thực. Catherine thấy tự dưng nàng lại đi về Plaka, khu phố
cổ của Anthens ở ngay trái tim của thành phố, với những lối đi
quanh co uốn khúc và những cầu thang cũ kỹ bụi bặm dẫn đến những
ngôi nhà nhỏ bé, những quán cà phê và những kiến trúc quét vôi
trắng và không ra kiểu ǵ cả. Nàng t́m thấy đường đi bằng một
bản năng mà nàng không hiểu được và cũng chẳn kiểm soát nổi.
Nàng đi lên một quán rượu ở trên tầng thượng một ngôi nhà nh́n
khắp thành phố, dừng lại ở mỗi nơi và ngắm nh́n. Tôi đă ngồi ở
cái quán này. Họ đưa cho tôi tờ thực đơn bằng tiếng Hy Lạp. Bọn
chúng tôi có ba người.
- Các ngài muốn dùng ǵ ạ? - Họ đă hỏi.
- Mong anh gọi món giúp tôi? Tôi e rằng tôi phải đặt cả ông chủ
khách sạn?
Họ đă cười. Nhưng "họ" là những ai?
Một người hầu bàn lại gần Catherine:
- Bor na sas voithiso?
- Ochi efharisfo. Tôi có thể giúp bà được ǵ?
- Không, cám ơn.
Làm sao ta lại biết tiếng đó. Ta có phải là người Hy Lạp không?
Catherine vội vàng đi tiếp, và như thể là có ai đang dẫn dắt
người. Nàng như là biết chính xác nàng đi đâu.
Mọi cái đều quen thuộc. Và chẳng có ǵ cả. Chúa của con, nàng
nghĩ. Con sắp điên dại. Con đang bị lẫn lộn trong đầu. Nàng lại
đi qua quán cà phê "Trenflinkas". Một kư ức đang dày ṿ trong
những ngóc ngách của tâm trí nàng có một cái ǵ đó đă xảy ra với
nàng ở đây, một điều ǵ đó quan trọng. Nàng không tài nào nhớ ra
là ǵ.
Nàng đi qua những phố xá ồn ào và quanh co và rồi rẽ trái đến
Voukourestion. Phố này có rất nhiều cửa hàng lịch sự. Ta đă từng
dừng chân ở đây. Nàng bắt đầu sang qua đường th́ một chiếc xe
con hai chỗ ngồi màu xanh đi sát góc đường, suưt nữa đụng phải
nàng.
Nàng như nghe được một giọng nói: "Những người Hy Lạp không làm
đường chuyển tiếp cho xe ôtô. Trong thâm tâm, họ vẫn c̣n muốn
cưỡi những con lừa. Nếu anh muốn đi du ngoạn vào đất Hy Lạp,
không nên đọc sách hướng dẫn, hay đọc những bi kịch Hy Lạp.
Chúng tôi luôn tràn trề những ham muốn lớn lao, những niềm vui
sâu lắng và những nỗi đau không cạn, và chúng tôi cũng không
biết làm thế nào để lấy lớp sơn văn minh che phủ bên ngoài
được".
Ai đă nói với nàng những điều này?
Một người đàn ông đang vội vàng đi xuống, bước về phía nàng và
nh́n nàng. Ông ta đi chậm lại, nh́n vào mặt nàng như nhận ra
điều ǵ. Ông ta cao, da xàm xạm và Catherine th́ tin chắc trước
đây nàng chưa hề gặp. Và rồi…
- Hello, - Ông có vẻ rất vui mừng được gặp nàng.
- Hello - Catherine thở sâu một cái. - Ông có biết tôi ạ!
Ông ta cười vui vẻ. Dĩ nhiên tôi biết cô!
Catherine cảm thấy tim nàng giật thót lên. Nàng rồi cũng sẽ biết
sự thật về quá khứ của ḿnh. Những tại sao lại nên nói "Tôi là
ai" với một người lạ ở trên phố đông đúc này làm ǵ?
- Ta… nói chuyện được chứ? - Catherine hỏi.
- Tôi nghĩ tôi cũng rất muốn.
Catherine bắt đầu hơi sợ. Sự bí ẩn của việc t́m ra nàng đang sắp
được giải quyết. Và do vậy nàng cảm thấy sợ hăi hơn. Có điều ǵ
tôi không muốn biết th́ sao? Lỡ có điều ǵ xấu xa th́ sao?
Người đàn ông đưa nàng tới một quán rượu ngoài trời.
Tôi rất mừng tôi lại bất ngờ gặp được cô! - Ông nói.
Catherine nuốt nước bọt và nói:
- Tôi cũng vậy!
Một người hầu bàn dẫn họ tới một cái bàn.
- Cô muốn uống ǵ nào? - Người đàn ông hỏi.
- Không! - Nàng lắc đầu.
Có rất nhiều câu hỏi: Liệu ta bắt đầu từ đâu?
- Cô rất đẹp! - người đàn ông nói - Cái số nó vậy. Cô có đồng ư
không?
- Vâng! - Nàng hoàn toàn bị kích động và run lên. Nàng thở sâu
một cái. – Tôi… chúng ta đă gặp nhau ở đâu rồi nhỉ?
Ông ta cười:
- Điều đó có ǵ quan trọng, Koritsimon?
Paris hay Rome, ở cuộc đua ngựa, trong một bữa tiệc. Ông ta tiến
lên cầm tay:
- Cô là người người xinh đẹp nhất mà tôi đă gặp xung quanh đây.
Cô đ̣i bao nhiêu?
Catherine quay ngoắt đi và vội chạy xuống phố. Nàng rẽ ngay vào
một góc và đi chậm lại, hai mắt nàng ứa lên những giọt nước mắt
nhục nhă.
Phía trước là một quán nhỏ có một cái biển treo ở cửa sổ đề "Bà
Piris - Thầy bói". Catherine đi chậm, rồi dừng lại. Tôi biết bà
Piris. Tôi đă đến đây. Tim nàng lại bắt đầu rộn ràng. Nàng cảm
thấy ở đây, qua cửa vào tối tăm này, là sự bắt đầu của đoạn cuối
những bí ẩn. Nàng mở cửa và bước nào. Phải mất một lúc lâu nàng
mới quen được sự tối tăm như hũ nút của cái buồng này. Ở góc
buồng có quầy rượu quen thuộc và hơn chục cái bàn và ghế. Một
người hầu bàn đi về phía nàng và chào nàng bằng tiếng Hy Lạp.
- Kalimechira!
- Kalimechira. Pou inch Madame Piris?
- Bà Piris!
Người hầu bàn khoát tay vào cái bàn trống ở góc buồng, và
Catherine đến đó và ngồi xuống. Mọi thứ đều đúng như nàng nhớ
lại.
Một người phụ nữ già không tưởng tượng được, mặc đồ đen, với bộ
mặt khô héo thành góc cạnh, đang di chuyển tới cái bàn.
- Tôi có thể - Bà đứng lại, nh́n như đóng cọc vào mặt Catherine.
Đôi mắt bà mở rộng. - Tôi có biết cô một lần rồi nhưng gương mặt
cô…- Bà ta ngáp một cái. - Cô đă về rồi à?
- Bà biết tôi là ai? - Catherine háo hức hỏi.
Người phụ nữ quắc mắt lên, đôi mắt bà đầy vẻ sợ hăi.
- Không? Cô đă chết rồi! Cút đi!
Catherine khẽ kêu kên và rụng rời cả người và nàng thấy tóc trên
da đầu dựng cả lên.
- Xin - Tôi vừa…
- Đi, Bà Douglas?
- Tôi phải biết…
Người phụ nữ già làm dấu thánh, quay đi và vào vội.
Catherine c̣n ngồi đó một lát, run lên rồi chạy ùa ra ngoài phố.
âm thanh trong đầu nàng c̣n vọng theo nàng.
Bà Douglas?
Và điều đó ví như một cái cống tháo nước đă mở ra, Hàng chục
cảnh sáng chói đột nhiên đổ cả vào đầu óc nàng, hàng loạt h́nh
ảnh rực rỡ của ống lăng trụ vạn hoa không sao hiểu nổi. Tôi là
bà Larry Douglas. Nàng c̣n thấy gương mặt đẹp giai của chồng
nàng. Nàng đă say đắm chàng như điên như dại, nhưng có điều ǵ
đó trục trặc. Có điều ǵ đó…
H́nh ảnh tiếp theo là chính nàng đang cố t́m cách tự tử, và tỉnh
dậy trong bệnh viện.
Catherine đứng lại trên đường phố, sợ rằng đôi chân nàng không
c̣n muốn bước nữa, để cho những h́nh ảnh cứ dồn dập đi vào trong
đầu nàng.
Nàng đă uống nhiều rồi, v́ nàng đă mất Larry. Nhưng rồi chàng
lại trở về với nàng. Họ đang ở trong buồng và Larry đang nói.
Tôi biết tôi đă đối xử không tốt như thế nào. Tôi muốn làm theo
ư em, Cathy. Tôi yêu em. Tôi thực sự chưa hề yêu một ai cả. Tôi
mong có một dịp may mắn khác. Em có muốn đi đâu đó hưởng tuần
trăng mật thứ hai không? Tôi biết một nơi tuyệt vời cho chúng ta
tới. Đó là Ioanina.
Và rồi lại bắt đầu sợ hăi.
Các h́nh ảnh trong đầu nàng bây giờ rất đáng sợ.
Nàng đang ở trên đỉnh núi cùng Larry, chàng lạc trong màn sương
xám mù mờ ảo, và chàng đang tiến gần đến nàng, hai cánh tay đưa
ra, sẵn sàng đẩy nàng ngă xuống bờ kia. Lúc đó, có một số người
du lịch đến đă cứu nàng.
Và rồi là các hang động.
- Viên thư kư khách sạn nói với tôi về một sốhang động gần đây.
Các đôi đi hưởng tuần trăng mật đều đến đó!
Và họ đă đi đến hang, Larry đă dẫn nàng đi sâu vào hang, nàng
lại ở đó đến chết.
Nàng đưa hai tay bịt chặt tai lại như để bịt kín tất cả những
suy nghĩ đang dồn dập tới nàng.
Nàng đă được cứu thoát và đưa về khách sạn một bác sĩ đă phải
cho nàng uống thuốc an thần, Nhưng vào lúc nửa đêm, nàng lại
tỉnh giấc và nghe thấy tiếng Larry và tiếng bà chủ trong bếp, họ
bàn cách giết nàng, gió đă cuốn đi theo cả những lời nói của họ.
- Không có một ai sẽ…
- Tôi nói với anh tôi sẽ chăm sóc.
- Hỏng mất. Chẳng có ǵ họ có thể bây giờ, khi cô ta đang c̣n
ngủ.
Và nàng c̣n nhớ nàng đă chạy đi trong giông băo khủng khiếp đó -
họ c̣n đuổi theo người - nàng chạy tới cái thuyền có mái chèo,
gió cuốn chiếc thuyền con ra giữa mặt hồ trong sóng gió. Chiếc
thuyền đă bắt đầu ch́m, và nàng đă bất tỉnh.
Catherine ngồi phịch xuống một cái ghế dài trên phố, quá kiệt
sức nên không c̣n đi được nữa. Hoá ra những cơn ác mộng lại là
sự thực. Chồng nàng và bà chủ của anh đă cố t́nh giết nàng.
Nàng lại nghĩ về người lạ mặt đă đến thăm nàng ở tu viện không
lâu sau khi nàng được cứu thoát. Ông ta đă đưa cho nàng một con
chim làm bằng vàng đặc biệt, cánh của nó đang giang bay. - Bây
giờ th́ không ai dám hại cô nữa. Những người độc ác đă chết. -
Đến bây giờ nàng c̣n chưa nh́n rơ mặt rơ mặt nàng.
Catherine bắt đầu hồi hộp.
Cuối cùng, nàng ngồi dậy và đi ra phố, ở đó nàng phải gặp người
lái xe để đưa nàng trở lại với Constantin Denmiris, nàng sẽ được
an toàn nơi đây.
Chương 4
- Sao lại để cho cô ấy đi? - Constantin Denmiris hỏi.
- Tôi có lỗi thưa ngài, - người hầu trả lời - Ngài không nói ǵ
về việc không cho cô ấy đi nên…
Denmiris bắt anh ta phải im.
- Thôi, không sao. Cô ấy chắc chắn phải về ngay thôi!
- Có điều ǵ không ạ, thưa ngài?
- Không!
Denmiris nh́n người hầu quay đi ngang qua cửa sổ và đứng ngắm
cái vườn được chăm sóc hoàn hảo. Nếu Catherine Alexander xuất
hiện ngoài phố Anthens th́ thật nguy hiểm, v́ ở ngoài phố, có
thể có người nhận ra cô ta. Tệ quá, ta không thể để cho cô ấy
sống được. Nhưng trước hết ta phải trả thù. Cô ta c̣n phải sống
đến khi ta trả xong hận thù. Ta c̣n đang thích thú về nàng. Ta
sẽ cho cô ta đi khỏi đây, đến nơi nào mà chẳng có ai biết đến cô
ta cả. Ta sẽ sắp xếp cho cô ta một công việc văn pḥng của cô ta
ở đó.
Một giờ sau, khi Catherine đă trở về nhà Constantin Denmiris có
thể thấy ngay được sự thay đổi ở nàng. Như vậy là bức màn đen đă
kéo lên và Catherine lại tự nhiên c̣n sống. Nàng đang mặc bộ đồ
lụa trắng rất hấp dẫn, khoác ngoài một chiếc bờ lu cũng màu
trắng và Denmiris lại so với ngày trước th́ vẻ ngoài của nàng đă
thay đổi nhiều quá. Nostimi, ông nghĩ khêu gợi.
- Ông Denmiris…
- Costa!
- Tôi… tôi biết tôi là ai và điều ǵ đă xảy ra!
Nét mặt ông không hề lộ ra một tư ǵ.
- Thực ư? Ngồi xuống đi, cô em của tôi, và kể tôi nghe đi.
Catherine quá bị kích động nên nàng không ngồi được Nàng đi đi
lại lại từng bước không c̣n nhịp nhàng, trên thảm, các từ cần
nói cứ muốn bật ra.
- Chồng tôi và bà - bà chủ của anh, Noelle, cố t́nh giết tôi!
Nàng dừng lại, nh́n ông lo lắng. Những câu hỏi đó có phải là
điên dại không? Tôi không biết. Có thể như vậy.
- Nói tiếp đi, cô em thân mến, - Ông nói.
- Có một số nữ tu sĩ ở tu viện đă cứu tôi. Chồng tôi làm việc
cho ông, có phải thế không? - Nàng nói toạc ra.
Denmiris do dự, cân nhắc cẩn thận câu trả lời:
- Vâng! - Ông phải nói với cô như thế nào bây giờ? - Anh ấy là
một phi công của tôi. Tôi thấy có trách nhiệm với cô. Có thế
thôi…
Nàng nh́n thẳng vào mặt ông.
- Nhưng ông đă biết rơ tôi là ai. Tại sao sáng nay ông không nói
với tôi?
- Tôi e rằng cô bị kích động! - Denmiris nói nhẹ nhàng - Tôi cho
rằng tốt hơn là để cô tự t́m ra những điều về cô.
- Ông có biết điều ǵ xảy ra đối với chồng tôi và người đàn bà
đó? Hiện họ ở đâu?
Denmiris nh́n vào đôi mắt Catherine:
- Họ bị hành quyết rồi.
Nàng kêu khẽ một tiếng. Đột nhiên nàng cảm thấy quá yếu đuối
không đứng nổi và ngă khuỵu xuống ghế.
- Tôi không… - Họ đă bị nhà nước hành quyết, Catherine!
- Nhưng… v́ sao?
Cẩn thận. Nguy hiểm rồi.
- Bởi v́ họ cố t́nh muốn giết cô!
Catherine nhíu đôi lông mày:
- Tôi không hiểu. V́ sao mà nhà nước lại xử tử họ? Tôi c̣n sống
cơ mà!
Ông ngắt lời nàng.
- Catherine, luật lệ Hy Lạp rất nghiêm. Và toà án ở đây làm việc
rất nhanh chóng. Họ đă đưa ra xét xử công khai. Một số nhân
chứng đă xác nhận rằng chồng cô và Noelle Page đă âm mưu giết
cô. Họ đă bị kết tội và lănh án tử h́nh!
- Khó tin lắm. - Catherine ngồi đó, đờ đẫn - Toà án...
Constantin Denmiris đi về phía nàng và đặt tay lên vai nàng.
- Cô phải quên quá khứ đi mới được. Họ cố t́nh làm việc độc ác
với cô, và họ đă phải trả giá cho việc làm đó - ông cố nhấn mạnh
với một vẻ hy vọng - Tôi nghĩ cô và tôi phải bàn về tương lai.
Có kế hoạch ǵ không?
Nàng không nghe ông nữa. Larry, nàng nghĩ khuôn mặt đẹp trai của
Larry, khi anh cười. Cánh tay của Larry, tiếng nói của anh…
- Catherine…
Nàng ngước nh́n lên:
- Tôi xin lỗi!
- Cô có suy nghĩ ǵ về tương lai không?
- Không, tôi… tôi không cần biết tôi sẽ làm ǵ. Có thể tôi sẽ ở
lại Anthens…
- Không! - Denmiris nói quả quyết - Đó không phải là ư kiến hay.
Như vậy sẽ đưa đến những kỷ niệm không vui. Tôi đề nghị cô rời
Hy Lạp.
- Nhưng tôi không có nơi nào để đến cả?
- Tôi đă suy nghĩ về việc này. - Denmiris nói với nàng. - Tôi có
văn pḥng ở London. Đă có lần cô đă làm việc với một người tên
là William Fraser ở Washington. Có có nhớ không?
- William? - Và đột nhiên nàng đă nhớ ra cái tên đó.
Đó là một trong những giai đoạn hạnh phúc nhất trong đời nàng.
- Cô đă là trợ lư hành chính của ông ấy, tôi tin như vậy!
- Vâng, tôi…
- Cô sẽ làm công việc giống như vậy cho tôi ở London.
Nàng do dự.
- Tôi không biết. Tôi không muốn tỏ ra vô ơn, nhưng…
- Tôi hiểu. Tôi biết mọi việc h́nh như xảy ra quá nhanh. -
Denmiris nói rất t́nh cảm. - Cô cần có thời gian để suy nghĩ về
các sự việc đó. Thôi, cô nên ăn tối ngay tại buồng của cô cho
yên tĩnh, và sáng mai chúng ta sẽ thảo luận thêm!
Đề nghị cô ăn tối ngay trong buồng cô là một đề xuất vừa mới xảy
ra trong đầu ông. V́ ông không thể để cho vợ ông chạy đi t́m ông
ở chỗ cô.
- Ông chu đáo quá! - Catherine nói - Và độ lượng quá. Các bộ
quần áo th́…
Ông đập vào bàn tay cô và để như vậy một chút lâu hơn cần thiết.
- Đó là ư chí của tôi.
Nàng ngồi trong pḥng ngủ, ngắm nh́n mặt trời lặn qua rặng núi
xanh để lại những màu sắc như cố văng ra trước khi tắt. Không
c̣n có cách nào để làm sống lại quá khứ. Chỉ có thể nghĩ về
tương lai. Cám ơn Chúa đă phù hộ cho Constantin Denmiris. Ông là
người đồng hành trong đời nàng. Không có ông, không thể có ai
giúp nàng được.
Và ông c̣n giúp nàng một việc làm ở London. Ta có nên nhận việc
đó không? Những suy nghĩ của nàng bị đứt quăng v́ có tiếng gơ
cửa.
- Chúng tôi đă mang bữa tối lên, thưa cô.
Sau khi Catherine đă đi lâu rồi, mà Constantin Denmiris vẫn ngồi
trong thư viện, đang nghĩ về cuộc đối thoại vừa qua, Noelle, chỉ
có một lần trong đời Denmiris đă tự cho phép không kiềm chế cảm
xúc của ḿnh. Ông đă bị say đắm v́ yêu Noelle Page, và nàng đă
trở thành bà chủ của đời ông. Ông chưa bao giờ quen biết một
người đàn bà nào như nàng. Nàng hiểu biết nhậy bén về nghệ
thuật, âm nhạc, và cả kinh doanh, và nàng đă trở thành một con
người không thể thiếu được đối với ông. Ở Noelle không có điều
ǵ làm ông phải ngạc nhiên. Ông măn nguyện với nàng. Nàng là
người đàn bà xinh đẹp nhất, quyến rũ nhất mà Denmiris đă được
quen biết. Nàng đă rời bỏ nơi cao xa để ở gần ông. Noelle đă
khuấy động những xúc cảm nơi ông mà trước đó ông chưa bao giờ
có. Nàng là người yêu, người tin cẩn và người bạn của ông.
Denmiris đă tin tưởng hoàn toàn vào nàng nhưng nàng đă phản bội
lại ông khi yêu Larry Douglas. Đó là một lỗi lầm mà Noelle phải
trả giá bằng đời nàng. Constantin Denmiris đă dàn xếp với chính
quyền để cho thi thể nàng được chôn cất trên địa phận nghĩa
trang ở Psara, ḥn đảo của riêng ông ở Aegean. Ai cũng thấy rơ
đó là một cử chỉ đẹp đẽ và đầy t́nh cảm của ông. Thực ḷng,
Denmiris đă bố trí nơi chôn cất nàng ở đó để ông có thể thích
thú, đi dạo qua ngôi mộ xây ṿm cuốn đó. Trong buồng ngủ của
ông, bên cạnh giường là bức h́nh Noelle khi nàng đang nh́n ông,
mỉm cười và đáng yêu nhất. Nụ cười bất tận và không bao giờ
nguội giá.
Ngay bây giờ, đă hơn một năm rồi. Denmiris vẫn không nguôi nghĩ
về nàng. Nàng đă là một vết thương lớn nơi ông mà không một vị
bác sĩ nào có thể hàn gắn được.
V́ sao, Noelle, v́ sao?
Anh đă cho em tất cả. Anh yêu em, em yêu quư của anh. Anh yêu
em. Anh yêu em.
Và rồi Larry Douglas. Anh ta đă phải trả giá bằng cả cuộc đời
anh. Những đối với Denmiris thế chưa đủ đâu.
Trong tâm tư ông c̣n có mối thù khác nữa. Một mối thù hoàn hảo.
Ông đang định lấy lại những niềm vui thú với vợ của Douglas như
Douglas đă làm với Noelle. Rồi, ông sẽ gửi Catherine về với
chồng nàng.
- Costa… - Đó là tiếng nói của vợ ông.
Melina đi vào thư viện.
Constantin Denmiris đă cưới Melina Lambrous, một phụ nữ đầy
quyến rũ, xuất thân trong một gia đ́nh trưởng giả và lâu đời ở
Hy Lạp. Nàng cao và dáng vẻ vương giả, có phẩm chất cao quư bẩm
sinh.
- Costa, người đàn bà em trông thấy ở pḥng ngoài là ai đó, anh?
- giọng nói của nàng rất trầm lắng.
Câu hỏi làm ông không kịp đề pḥng.
- Cái ǵ? Ồ. Cô ta là bạn ở một công ty kinh doanh ấy mà -
Denmiris nói. - Cô ta đang định làm việc cho anh ở London.
- Em nh́n thoáng qua cô ta. Cô ấy làm em nhớ tới một người nào
đấy.
- Thế à?
- Vâng! - Melina do dự. - Cô ấy làm em nhớ tới vợ của viên phi
công anh đă để làm việc cho anh. Nhưng, sau đó, việc không ổn.
Họ đă giết cô.
- Ừ. - Denmiris tỏ ư tán thành - Họ đă giết cho ta.
Ông nh́n Melina khi Melina quay đi ra. Ông phải cẩn thận. Melina
không điên dại. Ta không bao giờ cưới nàng.
Denmiris nghĩ. Nếu là một sai lầm tồi tệ…
o0o
Mười năm trước, đám cưới của Melina Lambrous và Constantin
Denmiris đă gây nên làn sóng phản ứng trong các giới doanh
nghiệp và các nhóm hoạt động xă hội Anthens, đến Rivera rồi đến
cả Newport. Điều làm người ta chú ư nhiều đến đám cưới là chỉ
trước khi cưới cỡ một tháng th́ cô dâu c̣n dính líu vào việc
đính hôn của một người khác.
Khi c̣n là một đứa trẻ, Melina Lambrous đă làm gia đ́nh cô chán
nản v́ tính thích làm ǵ th́ làm của cô. Khi cô được mười tuổi,
cô đă quyết định sẽ thành thủy thủ. Gia đ́nh người lái xe phát
hiện thấy cô ở ngoài cảng, khi cô đang t́m cách trốn lên một con
tàu, và họ đă mang cô về nhà mà chẳng nhận được một chút ơn huệ
ǵ cả. Khi mười hai tuổi, cô lại t́m cách trốn đi theo một đoàn
xe lưu động.
Đến lúc Melina được mười bảy tuổi, cô đă phải theo đuổi cái số
phận của cô - rất xinh đẹp, giàu có quá đáng v́ cô là con gái
của Mihalis Lambrous. Các báo chí thích viết về cô. Cô là một
nhân vật trong thần thoại mà bạn bè đều là các công chúa, hoàng
tử, và qua đó, thật là lạ Melina đă biết cách xử sự để giữ được
tính cách của cô sao không bị hư hỏng. Melina có một người anh
ruột, Spyros, hơn cô mười tuổi, và họ rất quư mến nhau. Bố mẹ
của họ đă chết trong một tai nạn tàu thủy khi Melina mới có mười
ba tuổi, và chính Spyros đă nuôi dạy cô.
Spyros bảo vệ cho cô em hết mực - c̣n quá đáng nữa là khác,
Melina nghĩ vậy. Khi Melina đă tới tuổi lấy chồng, Spyros cũng
rất chú ư tới cậu nào dự định muốn nắm tay cô em ḿnh. Chẳng có
cậu nào trong số đó đủ tiêu chuẩn cả.
- Em phải cẩn thận đấy, - anh thường khuyên nhủ Melina. - Hiện,
em là mục tiêu cho các thằng đào mỏ trên thế giới đấy. Em c̣n
trẻ, giàu có và xinh đẹp, và em mang tên một ḍng họ nổi tiếng.
- Hoan hô, ông anh thân yêu của em. Thế th́ vô cùng thuận lợi
cho em, cho tới khi em tám mươi tuổi và chết già.
- Đừng có lo, Melina. Một chàng trai trẻ tử tế sẽ đến với em.
Chúng ta là bá tước Vassilis Manos, và chàng mới khoảng ba mươi
nhăm, một nhà doanh nghiệp thành đạt thuộc một ḍng họ Hy Lạp
lâu đời và nổi tiếng. Bá tước hiện đang say đắm cô Melina trẻ
đẹp. Anh đă đề nghị đính hôn, sau khi họ gặp nhau mới có mấy
tuần lễ.
- Nó xứng với em toàn diện. - Spyros nói tỏ ư may mắn. - Manos
có chỗ đứng vững chắc, và nó yêu em mê mẩn.
Melina th́ không thấy nhiệt t́nh lắm.
- Anh ấy không hấp dẫn, anh Spyros ạ. Khi chúng em ngồi cùng
nhau, anh ấy toàn nói nào là kinh doanh, kinh doanh và kinh
doanh. Em muốn anh ấy phải lăng mạn hơn cơ.
Anh chàng nói rất đanh thép:
- Cần để lấy làm chồng hơn là cần lăng mạn. Em cần có một người
chồng đàng hoàng và vững vàng, nó phải trả tất cả v́ em mới
được.
Và sau đó, Melina đă bị người anh thuyết phục đồng ư lời cầu hôn
của Bá tước Manos.
Bá tước rất cảm động.
- Em đă làm anh thành người đàn ông hạnh phúc nhất trên thế giới
này, - anh tuyên bố - Tôi vừa lập một công ty mới. Bây giờ tôi
đặt tên nó là "Melina International"
Nàng thích đám cưới phải có mười hai bông hồng.
Ngày cưới đă chọn, một ngh́n khách, đă gởi giấy mời đi rồi và
các kế hoạch cụ thể đă là xong.
Chính vào lúc đó Constantin Denmiris đă đi vào cuộc đời của
Melina Lambrous.
Họ gặp nhau có một lần trong hàng chục lần hay gần như thế,
trong các buổi tiệc của các cặp đính hôn là họ được mời.
Bà chủ tiệc giới thiệu họ:
- Đây là Melina Lambrous.
- Constantin Denmiris. - Denmiris, nh́n chằm chằm vào bà với đôi
mắt tỏ vẻ bối rối. - Người ta để bà đứng đó lao lần nữa? - Anh
hỏi.
- Tôi xin các vị tha thứ?
- Chắc là thiên đàng đưa bà xuống để dạy dỗ cho con người chúng
tôi sắc đẹp là ǵ?
Melina cười:
- Anh nịnh hót quá, anh Denmiris ạ.
- Anh lắc đầu - Em c̣n đáng đề cao hơn nữa. Tôi không có thể nói
liệu em có công bằng không!
Đúng lúc đó Bá tước Manos tiến đến và làm ngắt câu chuyện.
Đêm đó, ngay trước lúc đi ngủ, Melina nghĩ về Denmiris. Nàng đă
nghe nói nhiều về anh. Anh rất giàu có, anh là một chàng trai
goá vợ, và anh nổi tiếng là một nhà kinh doanh nhẫn tâm và là
một người hay ép buộc phụ nữ. Ḿnh cũng mừng là không có liên
can ǵ tới anh ta. Melina nghĩ vậy.
Chúa đang cười.
Sáng hôm sau buổi tiệc, người hầu Melina vào pḥng điểm tâm.
- Có một gói tặng phẩm đưa đến cho cô, cô Lambrous. Lái xe của
ông Denmiris giao lại ạ!
- Làm ơn, mang vào đây.
Thế là Constantin Denmiris lại nghĩ anh phải gây ấn tượng với
ḿnh về sự giàu có của anh ta đây. Được, anh ta sẽ phải thất
vọng. Cái ǵ anh ta đưa đến… có thể là một đồ trang sức đắt tiền
hay một món đồ cổ có giá trị. Ḿnh sẽ gửi trả cho anh ta.
Hộp tặng phẩm nhỏ có h́nh chữ nhật gói rất đẹp. Ṭ ṃ, Melina mở
ra. Bưu thiếp ghi rất đơn giản "Tôi nghĩ cô sẽ vui với tặng phẩm
này. Constantin!"
Đó là quyển truyện b́a bọc da Toda Rada của Nikos Kazantzakis,
tác giả ưa thích nhất của cô, làm sao anh ta lại biết thế nhỉ?
Melina bèn viết mấy chữ cám ơn và nghĩ, thế là được.
Sáng hôm sau, lại có một gói khác đưa tới. Lần này th́ là bộ đĩa
hát của Delius? Nhà soạn nhạc ưa thích của cô. Có ghi lời: "Cô
sẽ vui thích khi đọc Toda Rada và nghe nhạc này".
Từ hôm đó, ngày nào cũng có tặng phẩm. Những bó hoa nàng ưa
thích nhất, những loại nước hoa, các bản nhạc và sách mà nàng
thích nghe đọc. Constantin Denmiris không hề lảng tránh t́m được
cái mà nàng thích, và nàng cũng không muốn anh làm thế nhưng lại
vui thích về sự quan tâm của anh.
Khi Melina gọi điện cám ơn Denmiris anh nói:
- Chẳng có ǵ anh có thể tặng em bằng với sự công bằng em sẽ
làm.
- Anh đă nói như vậy với bao nhiêu phụ nữ từ trước tới nay?
- Cô có muốn đi ăn trưa với tôi không, Melina?
Nàng định nói không, nhưng rồi lại nghĩ: Không nên làm người
khác đau khổ về việc đi ăn trưa. Anh ra rất hay nghĩ ngợi.
- Rất hài ḷng!
Khi nàng nói với bá tước Manos rằng nàng sẽ cùng đi ăn trưa với
Constantin Denmiris, chàng phản đối.
- Thế là thế nào, em thân yêu! Em không thể cùng làm ǵ với con
người khinh khủng đó đâu. Tại sao em lại sắp đến gặp hắn?
- Vassihs, anh ta đă gửi em những quà tặng nhỏ hàng ngày. Em sẽ
đến để bảo anh ấy thôi. - Và ngay khi Melina nói vậy, nàng nghĩ.
- Tôi không thể nói với anh ấy qua điện thoại.
Constantin Denmiris đă đặt ăn trưa ở khách sạn Floca b́nh dân
trên phố Panepistimion và anh đang đợi Melina đến.
Anh đứng lên.
- Em đấy à. Anh sợ em sẽ thay đổi ư kiến.
- Em luôn giữ lời hứa.
Anh nh́n thẳng vào nàng và nói rất trịnh trọng:
- Và anh, anh cũng giữ lời hứa của anh. Anh sẽ cưới em.
Melina lắc đầu, nửa buồn, nửa vui.
- Anh Denmiris, tôi đă đính hôn lấy một người khác rồi.
- Manos! - Anh khoát tay như thể muốn thôi cái ǵ. - Anh ta
không xứng với em.
- Ồ, thế à? Và sao lại thế hở anh?
- Anh đă kiểm tra về anh ta. Trong gia đ́nh anh ta có bệnh, anh
ta là một người hay chảy máu, anh ta đă bị cảnh sát gọi v́ một
vụ t́nh dục ở Brussels, và anh ta chơi quần vợt th́ chán lắm.
Melina không thể nào cười được nữa.
- Và anh…
- Anh không chơi quần vợt.
- Em hiểu rồi. Thế mà tại sao em lại phải lấy anh?
- Không. Em sẽ lấy anh bởi v́ anh sẽ làm em trở thành người phụ
nữ hạnh phúc nhất chưa từng có.
- Anh Denmiris…
Anh cầm tay nàng trong tay anh.
- Costa.
Nàng đẩy tay anh ta.
- Anh Denmiris, hôm nay tôi đến đây để nói với anh rằng tôi muốn
anh thôi đừng gửi cho tôi quá nhiều tặng phẩm nữa. Tôi không có
ư định gặp anh nữa.
Anh chăm chú nh́n nàng một lúc lâu.
- Anh chắc rằng em không phải là một người tàn nhẫn.
- Em cũng hy vọng thế!
Anh cười.
- Tốt. Thế em không muốn làm tan nát trái tim anh chứ.
- Em không tin rằng trái tim anh lại dễ bị vỡ như vậy. Anh khá
nổi tiếng đấy.
- À nghĩa là trước khi anh gặp em. Từ lâu anh đă mơ ước về em!
Melina cười.
- Anh nói nghiêm túc đấy. Khi anh c̣n là một thanh niên rất trẻ,
anh đă từng đọc về gia đ́nh Lambrous. Em rất giàu có mà anh th́
rất nghèo. Anh chẳng có ǵ cả. Anh làm bao nhiêu tiêu bấy nhiêu.
Bố anh là một người làm bốc vác, ông làm ở cảng Pirarus. Anh có
14 anh chị em cả thảy, và anh phải tranh đấu cho mọi thứ anh
muốn có.
Không nghĩ về việc của ḿnh, nàng bị xúc động.
- Nhưng bây giờ anh giàu rồi!
- Ừ. Không giàu bằng sắp tới anh c̣n giàu hơn.
- Làm thế nào mà anh giàu thế.
- Đói! Anh trước đây luôn luôn đói. Anh c̣n đói.
Nàng có thể đọc được sự thật trong ánh mắt anh.
- Sao anh lại… sao, anh đă bắt đầu cuộc đời như thế nào?
- Thực em có muốn biết không?
Và Melina thấy lời nói như tự phát ra:
- Em thực muốn biết!
- Khi anh mười bảy tuổi, anh đến làm việc cho một công ty dầu mỏ
ở Trung Đông. Anh chẳng phải đến để làm việc tốt. Một tối, anh
ăn cơm với một nhà địa chất tư, anh này làm việc cho một công ty
lớn. Anh ta gọi một món bít-tết tối hôm đó, và ông ta gọi có mỗi
món súp. Anh hỏi ông ta tại sao ông không ăn bít-tết, và ông nói
bởi v́ ông không có răng hàm, và ông không thể làm răng giả. Một
tháng sau,. Ông gọi điện cho anh lúc nửa đêm báo cho anh biết
ông vừa t́m ra một giếng dầu mới. Ông ấy nói với ông chủ của ông
ta về việc này. Và buổi sáng, anh đi mượn từng xu một nếu mượn
được và buổi tối anh đă chọn mua khu đất quanh nơi mới t́m được
dầu. Hoá ta nó thành một trong những giếng dầu lớn nhất thế
giới.
Melina nuốt từng lời của anh, rất thán phục.
- Đó là bước đầu. Anh cần có các tàu chở dầu để chở đầu của anh,
và sau đó anh đă có một đội tàu. Rồi một nhà máy lọc dầu. Rồi
một hăng hàng không. - Anh nhún vai - Anh tiến lên từ đó.
Không phải măi sau khi họ cưới, th́ Melina đă hiểu được rằng câu
chuyện về bít-tết hoàn toàn là chuyện bịa.
Melina Lambrous đă không có ư định gặp lại Constantin Denmiris
nữa. Nhưng, do hàng loạt những trùng hợp đă sắp đặt cẩn thận,
Denmiris thường luôn cùng có mặt trong bữa tiệc, hay đi xem hát,
hay những việc từ thiện mà Melina tham dự. Và mỗi lần như vậy,
nàng cảm thấy sự cuốn hút của ông như có từ tính cực mạnh. Bên
anh th́ Vassihs Manos dường như trở nên khó chịu, nàng căm giận
nhưng đành phải chấp nhận điều ấy đối với nàng.
Melina Lambrous rất thích những bức hoạ của Flemy và khi cuốn
"Những người đi săn tuyết" của Bruegel vừa đưa ra bán, trước khi
những mua được, th́ Constantin Denmiris đă gửi cuốn đó tặng
nàng.
Melina rất ngạc nhiên v́ sự hiểu biết rất tường tận tất cả các ư
thích của nàng.
- Em không thể nhận những món quà tặng đắt tiền như vậy! - nàng
đă phản đối.
- À, nhưng đó không phải là quà tặng. Em phải trả giá cho nhưng
món quà ấy đấy. Tối nay, ăn cơm tối với anh nhé.
V́ cuối cùng nàng vẫn đồng ư. Đối với đàn ông th́ không dễ cưỡng
nổi họ.
Một tuần lễ sau Melina phá bỏ sự đính hôn của nàng với bá tước
Nanos.
Khi Melina nói với anh trai nàng về tin này, anh đă sững người
ra.
- V́ sao, nhân danh thượng đế đi…? Spyros hỏi - V́ sao!
- Bởi v́ em sắp lấy Constantin Denmiris!
- Nó là một con người khinh khủng. Em bị điên hay sao đấy? Em
không thể lấy Denmiris được. Nó là một con quỷ sứ. Nó sẽ tiêu
diệt em. - Nếu…
- Anh hiểu sai về anh ấy, Spyros. Anh ấy tuyệt vời. Và chúng em
đă yêu nhau. Thế…
- Em đă yêu! - anh ngắt lời - Anh không biết sau này nó thế nào,
nhưng không thể yêu nó được. Em có biết sự nổi tiếng của nó là
với phụ nữ không? Nó…
- Đó là chuyện quá khứ, Spyros ạ. Em sắp làm vợ anh ấy!
Và anh không thể làm ǵ được để bảo em gái anh ngoài chuyện đám
cưới.
Một tháng sau Melina Lambrous và Constantin Denmiris lấy nhau.
o0o
Vào những buổi đầu th́ dường như đó là một cuộc hôn nhân hoàn
hảo.
Constantin hay vui đùa và quan tâm đến người khác. Anh là một
người yêu quyến rũ say đắm, anh thường làm Melina sửng sốt với
những quà tặng quá lăng phí và rồi các chuyến đi tới những nơi
xa lạ.
Vào đêm đầu tiên trong tuần trăng mật của họ, anh nói:
- Vợ đầu của anh không có thể cho anh được một thằng con trai.
Bây giờ chúng ta sẽ đẻ nhiều con trai nhé!
- Không có con gái à? - Melina vội ngắt lời.
- Nếu em muốn. Nhưng đứa đầu là con trai.
Ngày mà Melina biết được nàng đă có mang, Constantin rất vui
sướng.
- Nó sẽ chiếm đoạt cả vương quốc của tôi! - anh tuyên bố một
cách rất hạnh phúc.
Trong tháng thứ ba, Melina bị sẩy thai, việc đó xảy ra khi
Constantin Denmiris ở nước ngoài. Khi về, anh nghe được tin anh
đă phản ứng như một thằng điên.
- Em làm sao vậy! - anh rít lên. - Làm sao như thế?
- Costa, em…
- Em không cẩn thận! - Anh lấy một hơi dài. - Được. Việc ǵ đă
xảy ra th́ đă rồi. Chúng ta phải có đứa con trai khác.
- Em… Em không thể. - Nàng không dám nh́n vào đôi mắt của anh.
- Em nói ǵ thế?
- Em bị mổ. Em không thể có một đứa nào nữa.
- Anh đứng ngây ra đó, người cứng đờ, rồi quay lại biến mất
không nói một lời.
Từ khi đó, cuộc đời Melina trở thành một địa ngục, Constantin
Denmiris xử sự như thể là vợ anh đă cố t́nh giết con trai anh.
Anh không biết đến vợ, bắt đầu đi kiếm các phụ nữ khác.
Melina không thể chịu đựng được nữa, nhưng cái nhục nhă đau khổ
nhất lại chính là ư thích của anh khi phô bày lộ liễu những mối
quan hệ với các ngôi sao điện ảnh, các ca sĩ opéra và vợ của một
số người bạn, anh mang người t́nh đến Psara và đưa lên tàu bằng
thuyền buồm của anh và luôn công khai.
Báo chí vui mừng theo dơi những cuộc phiêu lưu lăng mạn của
Constantin Denmiris.
Họ đang dự một bữa tiệc ở nhà một chủ ngân hàng nổi tiếng.
- Anh và Melina phải đến nhé! - người chủ ngân hàng nói - tôi có
một anh đầu bếp phương Đông nấu các món Tàu ngon nhất thế giới.
Danh sách khách mời dài lắm. Bàn tiệc là cả một tập hợp như một
sưu tầm hấp dẫn các nghệ sĩ, các nhà chính trị và nhà công
nghiệp. Các món ăn lại càng tuyệt vời. Đầu bếp đă chế biến súp
vây cá, tôm cuốn, thịt lợn mushu, vịt Bắc Kinh, sườn rán, miến
Quảng Đông và hàng chục món khác.
Melina ngồi gần chủ nhân bữa tiệc ở đầu bàn này và đầu bên kia
là chồng nàng ngồi gần phu nhân của chủ tiệc. Bên phải Denmiris
là một ngôi sao điện ảnh trẻ xinh đẹp Denmiris cứ tập trung nh́n
cô ta, chẳng cần biết ai ở bàn tiệc. Melina c̣n nghe được cả
những đoạn trao đổi trong câu chuyện của họ.
- Khi em làm xong phim em phải đi thuyền buồm với anh nhé. Khi
đó sẽ là những ngày nghỉ đáng yêu nhất dành cho em. Chúng ta sẽ
cho thuyền đi dọc bờ biển Dalmat…
Melina không muốn nghe nữa, nhưng không được.
- Em chưa bao giờ ở Psara chứ, có phải thế không? Đó là một đảo
nhỏ đáng yêu, hoàn toàn cách ly với thế giới. Em sẽ vui thích
nơi đó.
Melina muốn chui xuống gầm bàn.
Nhưng rồi sự tồi tệ nhất đă xảy ra.
Mọi người vừa xong cái món sườn rán, và những người hầu bàn mang
ra những bát nước rửa tay bằng bạc.
Một cái bát nước rửa tay được đặt trước cô diễn viên trẻ,
Denmiris nói:
- Em không cần cái đó! - Rồi vừa nhe răng cười anh vừa nâng tay
cô về phía anh và bắt đầu liếm từ từ nước sốt c̣n dính trên
những ngón tay nàng, từng ngón một. Các vị khách khác quay mặt
đi. Melina đứng bật dậy và quay về người chủ tiệc.
- Xin chủ nhân cho phép tôi cáo từ, tôi… tôi đau đầu.
Các vị khách nh́n theo nàng chạy vội ra khỏi buồng.
Denmiris đêm đó không về nhà hay là cả đêm hôm sau nữa.
Khi Spyros nghe biết chuyện đó, anh giận tái người.
- Để cho anh nói chuyện! - người anh Melina điên lên, - và anh
sẽ giết tên chó đẻ đó.
- Làm như vậy không giúp ǵ được anh ấy đâu. - Melina bảo vệ cho
chồng. - Bản chất anh ấy như vậy rồi.
- Bản chất à? Nó là đồ con vật? Phải gạt bỏ nó đi. Sao em không
ly dị nó?
Đó là điều mà Melina thường tự hỏi ḿnh suốt những đêm dài hiu
quạnh nàng phải nằm một ḿnh. Và rồi nàng lại đi đến một câu trả
lời. Ta yêu anh ấy.
o0o
Năm rưỡi sáng, Catherine được một người hầu gái theo đạo đánh
thức giấc.
- Xin chào, thưa cô…
Catherine mở mắt và nh́n xung quanh tưởng như lẩm lẫn. Đáng ra
là những đang nằm trong căn pḥng bé nhỏ ở tu viện, nhưng giờ
nàng đang trong một buồng ngủ đẹp đẽ. Kư ức của nàng lại như
hiện trở lại. Chuyến đi Anthens… Bà Catherine Douglas… Họ đă bị
nhà nước hành quyết…
- Thưa cô… Ông Denmiris hỏi rằng cô có muốn ăn sáng cùng ông ở
thềm trước nhà không ạ?
Catherine nh́n vào nàng hầu, tỏ vẻ c̣n ngái ngủ. Nàng đă dậy từ
bốn giờ sáng, tâm trí nàng cứ muốn quay cuồng.
- Cám ơn. Nói với ông Denmiris tôi sẽ đến ngay đây.
Hai mươi phút sau, một người hầu dẫn Catherine đến thềm lớn quay
mặt ra biển. Có một cái tường đá thép, có thể nh́n qua vườn phía
dưới hai mươi bộ. Constantin Denmiris đă ngồi vào bàn, đang đợi.
Ở nàng, có một sự ngây thơ khêu gợi. Ông đang muốn lấy nó đi, sở
hữu nó và làm cho sự ngây thơ đó thuộc của ông. Ông tưởng tượng
ra nàng trần truồng trên giường, giúp ông trừng phạt Noelle và
Larry một lần nữa. Denmiris đứng dậy.
- Xin chào. Bỏ qua cho tôi đă đánh thức cô dậy sơm, nhưng v́ tôi
phải đi đến văn pḥng làm việc của tôi sau ít phút nữa, và tôi
muốn có cơ hội để chúng ta có thể nói chuyện một chút.
- Vâng, dĩ nhiên - Catherine nói.
Nàng ngồi xuống cái bàn đá lớn đối diện với ông, quay mặt ra
biển. Mặt trời vừa mới lên, toả trên mặt biển với hàng ngàn tia
nắng.
- Cô muốn dùng ǵ buổi sáng?
- Tôi không đói! - Nàng lắc đầu.
- Có lẽ uống cà phê nhé?
Người hầu đang rót cà phê nóng vào cốc Belleck.
- Catherine ạ! - Denmiris bắt đầu - Cô có suy nghĩ về buổi nói
chuyện trước của chúng ta không?
Catherine suốt đêm qua chẳng nghĩ ǵ. Ở Anthens chẳng c̣n lại ǵ
cho nàng, và nàng phải đi đâu đó. Tôi không muốn trở về tu viện,
nàng quả quyết. Việc Constantin Denmiris mời nàng làm việc ở
London phảng phất nói lên một âm mưu ǵ đó. Thực tế, Catherine
chấp nhận hết, điều đó có vẻ như đáng khích lệ lắm. Có thể là sự
bắt đầu một cuộc sống mới.
- Vâng! - Catherine nói, - Tôi đă! Và tôi cho rằng tôi cứ nên
làm việc đó!
Constantin Denmiris cố giấu vẻ hài ḷng:
- Tôi rất vui sướng. Cô đă ở London chưa?
- Không. Đó là tôi không nghĩ vậy. - Sao ta không biết chắc? C̣n
có rất nhiều điều ngạc nhiên nữa đấy?
- Đó là một trong số ít thành phố văn ḿnh trên thế giới. Tôi
tin chắc rằng cô sẽ rất thích thành phố đó.
Catherine do dự.
- Ông Denmiris ạ, sao ông cứ gánh chịu những điều rắc rối đó v́
tôi?
- Tôi muốn nói: bởi v́ tôi thấy phải có ư thức trách nhiệm. -
Ông ngừng một lát. - Tôi đă giới thiệu chồng cô với Noelle Page.
- À! - Catherine chậm răi nói. Noelle Page. Cái tên làm cô hơi
rùng ḿnh. Cả hai người đó đă bị chết v́ nhau. Chắc Larry phải
yêu cô ta lắm.
Catherine cố gắng hỏi những câu hỏi đă làm cô trăn trở suốt đêm:
- Họ bị hành quyết thế… thế nào?
Một sự im lặng trong giây lát.
- Họ bị một đội binh bắn!
Ồ, nàng như cảm giác được những viên đạn đă xé nát thịt da
Larry, và đă làm ngă gục thân thể con người mà nàng yêu mến biết
mấy. Nàng đau khổ v́ đă hỏi đến điều này.
- Tôi xin có lời khuyên cô. Đừng nghĩ ǵ về quá khứ nữa. Điều đó
chỉ gây thêm đau đớn. Cô phải quên tất cả đi!
- Ông nói đúng. Tôi sẽ cố. - Catherine chậm răi nói.
- Tốt. Tôi phải bố trí máy bay đi London sáng nay, Catherine. Cô
có thể sẵn sàng rời đây sau một lúc không?
Catherine lại nghĩ về chuyến bay nàng đă đi cùng Larry, việc sửa
soạn vội vă, đóng gói đồ đạc và những thích thú trước đó. Lần
này, không có ai đi cùng chẳng có mấy thứ để đóng gói, và chẳng
có ǵ cần sửa soạn.
- Vâng. Tôi có thể sẵn sàng.
- Tuyệt vời. Tiện đây - Denmiris nói luôn, - bây giờ trí nhớ của
cô đă dần dần trở lại, có thể có một vài người nào đó cô muốn
tiếp xúc với họ vài người trong quá khứ đối với họ, cô nên cho
họ biết cô không sao cả nhé.
Cái tên làm căng thẳng đầu óc nàng là William Fraser. Ông ta là
người độc nhất trên thế giới này mà nàng biết rằng nàng không dễ
gặp được họ. Khi ta đă ổn định làm ăn, Catherine nghĩ. Khi ta
bắt đầu làm việc, ta sẽ tiếp xúc với họ.
Constantin Denmiris ngắm nh́n nàng, đợi câu trả lời của nàng.
- Không - Cuối cùng Catherine nói, - Chẳng có ai đâu.
Nhưng không có ư nghĩ rằng nàng đă vừa cứu mạng ở William
Fraser.
- Tôi sẽ giải quyết hộ chiếu cho cô - ông đưa nàng một phong b́
- Đây là khoản tạm ứng lương. Cô không phải lo về nơi ở. Công ty
có một ngôi nhà ở London. Cô sẽ ở đó.
Mọi việc đă giải quyết quá chu đáo.
- Ông tử tế quá.
Ông nắm tay cô.
- Cô sẽ thấy rằng tôi…- Ông định nói rồi thay đổi ư muốn nói của
ḿnh. Phải cẩn thận, ông nghĩ. Từ từ. Anh đừng có làm cho cô ta
sợ nữa… - Rằng tôi có thể là một người bạn rất tốt.
- Ông là một người bạn rất tốt.
Denmiris cười. Đợi đấy.
Hai giờ sau, Constantin Denmiris đưa Catherine ngồi vào ghế sau
chiếc xe Rolls Royce để đưa cô ra sân bay.
- Mong cô thích London - ông nói. - Tôi sẽ liên lạc với cô luôn!
Năm phút trước khi ô tô khởi hành, Denmiris đă gọi cho London:
- Cô ta đang trên đường!
Chương 5
Máy bay dự định rời sân bay Hellenikon lúc 9 giờ sáng. Đó
là chiếc Hawker Siddeley, và điều làm Catherine ngạc nhiên, nàng
là hành khách duy nhất. Viên phi công, một người Hy Lạp tuổi
trạc trung tuần, có bộ mặt vui vẻ, tên là Pantelis, đă thấy
Catherine ngồi xong đàng hoàng đă buộc dây an toàn.
- Chúng ta sẽ cất cánh trong vài phút nữa. Anh thông báo cho
nàng.
- Cám ơn!
Catherine nh́n viên phi công đi vào buồng lái cùng viên lái phụ,
và tim nàng đột nhiên đập nhanh hơn. Đó là chiếc máy bay mà
Larry đă bay. Có phải Noelle Page đă ngồi vào chiếc ghế mà hiện
nàng đang ngồi không? Từ nhiên Catherine cảm thấy là bị mất hết
can đảm và sức mạnh, các bức tường bắt đầu khép kín lại, nhốt
nàng bên trong. Nàng nhắm mắt và thở dài. Thế là hết, nàng nghĩ.
-"Denmiris nói đúng. Đó là quá khứ và không thể làm thay đổi
được những ǵ đă xảy ra."
Nghe thấy tiếng rồ máy, nàng mở mắt. Máy bay đang cất cánh, quay
đầu về phía tây Bắc thẳng hướng London. Đă bao lần Larry bay như
thế này? Larry. Nàng bị day dứt bởi những cảm xúc lẫn lộn mà tên
của anh đă gợi lại cho nàng. Và những kỷ niệm. Những kỷ niệm
tuyệt vời, những kỷ niệm khủng khiếp…
o0o
Đó là vào mùa hè 1940, một năm trước khi Mỹ tham chiến. Nàng vừa
mới tốt nghiệp Trường Đại học Tây Bắc, và phải đi từ Chicago lên
Washington để nhận việc làm đầu tiên.
Cô bạn cùng buồng đă nói:
- Này, tao nghe nói có một nghề mới chắc làm mày chú ư. Một đứa
con gái trong bữa ăn nói rằng nó sắp đi Texas. Nó sẽ làm cho ông
Bill Fraser. Ông này phụ trách khâu quan hệ báo chí của Bộ Quốc
Pḥng. Tối qua tao vừa nghe nói thế vậy nếu chúng mày đến đó bây
giờ, chúng mày sẽ đánh bại các đứa khác.
Catherine đă chạy đua với chúng bạn, t́m cho được pḥng đón tiếp
của ông Fraser lúc đó đă có hàng chục lá đơn xin việc để trên
bàn. Tôi không gặp may, Catherine nghĩ vậy.
Cánh cửa buồng bên trong vừa mở và William Fraser bước ra.
Ông ta cao, một con người hấp dẫn, với bộ tóc hung, xoăn xoăn,
lại xam xám ở thái dương, đôi mắt xanh sáng quắc và có cái cằm
to như muốn đe doạ người khác.
Ông ta nói với nhân viên tiếp tân:
- Tôi cần một tờ tạp chí Life! Số báo này ra từ ba hay bốn tuần
trước. Có một bức ảnh Stalin ở b́a.
- Tôi sẽ hỏi mua ạ, thưa ông Fraser - nhân viên tiếp tân nói.
- Sally này, tôi đang đàm thoại với Thượng Nghị sĩ Borah. Tôi
muốn đọc cho ông nghe một đoạn trong số báo đó. Cô có 2 phút để
t́m ra số báo đó cho tôi - Ông đi vào pḥng làm việc và khép cửa
lại.
Những người muốn nộp đơn xin làm việc nh́n nhau và nhún vai.
Catherine đứng đó, cố nghĩ cách. Cô quay ra và chạy khỏi văn
pḥng. Cô nghe thấy một phụ nữ nói:
- Được, thế là giảm xuống phải không ạ?
Ba phút sau, Catherine quay về văn pḥng với tạp chí "Life" - có
tranh Stalin ở b́a. Cô đưa cho nhân viên tiếp tân.
Năm phút sau Catherine thấy cô được ngồi trong văn pḥng ông
William Fraser.
- Sally nói với tôi rằng cô đă cầm lên tạp chí Life.
- Vâng, thưa ngài?
- Tôi cho rằng cô không thể nào có được một số báo đă phát hành
ba tuần rồi trong cái túi của cô.
- Không, thưa ngài!
- Làm sao cô t́m được nhanh thế!
- Tôi chạy xuống hiệu cắt tóc và pḥng khám răng luôn luôn có
những số báo cũ vất lung tung.
- Thế đối với mọi việc cô có tính nhanh thế không?
- Không, thưa ông!
- Chúng ta sẽ xem - William Fraser nói. - Cô đă được thuê làm
việc.
Catherine thích cách làm việc của Fraser. Ông đỗ cử nhân, giàu
và có tư tưởng xă hội, và h́nh như ở Washington, ai ông cũng
quen biết. Tạp chí Time đă gọi ông là "Ông cử nhân được ưa thích
nhất trong năm".
Sáu tháng sau khi Catherine bắt đầu làm việc cho William Fraser,
họ phải ḷng nhau.
Trong buồng ngủ với ông, Catherine nói:
- Em phải nói với ông một điều. Em c̣n trinh tiết.
Fraser lắc đầu ngạc nhiên.
- Thật không tưởng tượng được Làm sao tôi lại có thể được ôm một
trinh tiết độc nhất của thành phố Washington này.
Một hôm William Fraser nói với Catherine:
- Họ đang yêu cầu văn pḥng ta phải kiểm tra bộ phận phim ảnh
bên quân đoàn không quân, họ đang quay phim với hăng MGM ở
Hollywood. Tôi muốn có trong tay cuốn phim này khi tôi ở London.
- Giao cho em ư? Anh Bill, em không thể ngay cả đặt chân lên phố
Browme. Làm sao em biết mà quay một cuốn phim về tập luyện.
- Việc mới quá chứ ǵ, đối với ai cũng vậy. - Fraser cười. - Cô
không phải lo. Bên đó họ có ông Giám đốc. Tên ông ta là Allan
Benjamin. Quân đội định sử dụng các diễn viên bên ngoài đóng
trong phim.
- Tại sao!
- Tôi cho rằng cho thấy lính tráng khó bảo dù đúng như những
người lính.
- Như vậy mới là Quân đội chứ!
Và Catherine đă bay đi Hollywood để kiểm tra về phiếu huấn
luyện.
Pḥng ghi âm chật cứng người, hầu hết mặc đồng phục quân đội rất
chỉnh tề.
- Xin lỗi - Catherine nói với một người đi ngang qua - Ông Allan
Benjamin có đây không ạ?
- Hỏi ông hạ sĩ người bé kia ḱa.
Catherine quay lại và thấy một người trông yểu tướng, nhanh nhẹn
trong đồng phục với phù hiệu hạ sĩ ở cánh tay. Anh ta đang quát
một người đeo sao đại tướng.
- Làm đúng như đạo diễn mới. Tôi phải lên chỗ thằng ngốc đóng
vai tướng đây. Tôi cần không hoá trang. - Anh ta giơ tay lên một
cách tuyệt vọng. Ai cũng muốn làm chỉ huy, không ai chịu làm nô
lệ thế này.
- Xin lỗi, - Catherine nói. - Tôi là Catherine Alexander.
- Cám ơn chúa! - Con người bé nhỏ nói - Cô đi đi cho. Tôi không
biết tôi đang làm ǵ ở đấy. Tôi có một việc lương ba ngàn rưỡi
đô la một năm ở Dearborn làm biên tập viên báo chí kinh doanh về
đồ đạc, mà tôi lại đầu quân vào quân đoàn tín hiệu và giao viết
phim huấn luyện. Tôi có biết ǵ về sản xuất và điều khiển việc
làm phim đâu? Đó là tất cả các điều cô muốn biết đó. - Anh ta
quay đi và vội chạy ra lối ra, để Catherine đứng một ḿnh.
Một người đàn ông gầy, tóc hoa râm mặc quần áo mùa đông đi về
phía cô, với nụ cười vui vẻ:
- Cô có cần giúp ǵ không?
- Tôi cần một điều lạ lùng - Catherine nói - Tôi phụ trách về
việc này, và tôi không biết tôi phải làm ǵ.
- Chào mừng cô đến Hollywood. Tôi là Tom O Brien trợ lư giám đốc
phim. - Anh ta cười - Cô nghĩ cô có thể điều khiển công việc
này?
Cô thấy góc môi cô như muốn cứng lại:
- Tôi sẽ cố. Tôi đă chụp sai bức h́nh với Willie Wyler. Kết quả
không xấu xí nhưng trông thật tội. Điều cần thiết là phải có bố
trí một chút. Khi kịch bản đă viết rồi, th́ phải sẵn sàng dựng
ngay! - Catherine nh́n quanh pḥng ghi âm. - Một vài bộ quân
phục này trông gớm quá. Cho tôi xem liệu chúng ta có thể làm tốt
hơn không?
O Brien gật đầu tán thưởng.
- Phải đấy!
Catherine và O Brien đi qua nhóm những người huy động. Tiếng nói
chuyện lầm rầm trong pḥng ghi âm vĩ đại
này làm cho người ta đủ điếc tai.
- Để cho chúng tao xuống, chúng mày! - O Brien quát - Đây là cô
Alexander. Cô sẽ phụ trách ở đây".
- Cứ để cho mọi việc tiếp tục, để tôi có thể thấy rơ hơn cùng
với anh, có đúng không? - Catherine nói.
O Brien bắt mọi người đứng vào hàng vội vàng. Catherine nghe
thấy những tiếng cười và những tiếng nói chung quanh, cô quay
lại không hài ḷng. Một trong nhiều người mặc đồng phục đứng ở
một góc, không hề chú ư, đang nói chuyện với mấy cô gái, các cô
này ơng ẹo và rúc rích cười. Thái độ cậu này có vẻ khó chịu với
Catherine.
- Xin lỗi. Anh có muốn làm việc cùng chúng tôi không đấy?
Cậu ta quay lại và hỏi một cách lơ đăng.
- Cô đang nói chuyện với tôi đấy ạ!
- Vâng. Chúng ta đến đây để làm việc.
Cậu ta rất đẹp trai, cao và gầy, tóc xanh mượt và mắt nâu xẫm.
Bộ quân phục của cậu ta vừa khít người. Trên vai cậu là cái vạch
cấp đại uư và ở ngực, cậu ta gài một dải lụa màu sáng như một
rạch ngang, Catherine chú ư nh́n cậu ta:
- Những huy chương này…
- Thưa thủ trưởng, những huy chương này có gợi cảm không ạ? -
Giọng nói của cậu ta rất sâu lắng và đầy vẻ vui đùa thiếu lễ độ.
- Vứt những cái đó đi!
- V́ sao ạ? Tôi nghĩ những cái này làm cho phim thêm chút màu
sắc.
- Có một điều nhỏ mà anh quên. Nước Mỹ hiện chưa có chiến tranh.
Anh muốn nói anh đă thắng lợi ở chiến tranh trong dạ hội hoá
trang phải không?
- Cô nói phải, - cậu ta chấp hành ngoan ngoăn. - Tôi không nghĩ
đến điều đó. Tôi sẽ bỏ một số cái đi.
- Bỏ tất cả đi, - Catherine nói dứt khoát.
Sau buổi quay phim, khi Catherine đang ăn trưa ở ban chỉ huy,
anh đi về phía bàn cô.
- Tôi muốn hỏi cô sáng nay tôi đóng thế nào. Liệu tôi có được
tín nhiệm không?
Thái độ của anh làm cô tức điên lên:
- Anh thích ăn mặc đồng phục và hănh diện với các cô gái, nhưng
anh có nghĩ đến việc đăng kư vào quân đội không?
- Anh ta như bị một cú sốc, và bắn lại:
- C̣n điều cô nói con nít nó cũng biết!
Catherine sẵn sàng cho nổ.
- Tôi nghĩ anh là người không cẩn thận.
- V́ sao?
- Nếu anh không biết v́ sao, tôi không bao giờ giải thích cho
anh.
- Tại sao cô không thử…? Tối nay cùng ăn tối nhé. Chỗ cô ở đâu
nhỉ. Cô có nấu ăn được không đấy?
- Đừng nên quay lại tham gia đóng phim nữa? - Catherine ngắt lời
- Tôi đă bảo ông O Brien gửi séc trả tiền cho anh về buổi làm
việc sáng nay. Tên anh là ǵ nhỉ?
- Douglas. Larry Douglas!
Kinh nghiệm làm việc với người diễn viên trẻ thiếu lễ độ đă làm
cho Catherine nhớ măi, và nàng quyết định không nghĩ đến nữa.
Nhưng v́ lư do nào đấy, nàng cảm thấy khó quên anh ta.
Khi Catherine trở về Washington, William Fraser nói:
- Anh vắng em. Anh nghĩ về em nhiều quá. Em có yêu anh không?
- Rất yêu, Bill ạ.
- Anh cũng yêu em lắm. Sao tối nay ta lại không đi đâu đó là làm
ǵ để kỷ niệm chứ?
Catherine biết rằng đó là cái đêm mà anh sẽ đặt vấn đề.
Họ đi đến câu lạc bộ Jefferson độc nhất. Giữa buổi ăn tối, Larry
Douglas đi vào, anh c̣n đang mặc đồng phục Quân đoàn Không quân
với đầy đủ các huân chương.
Catherine nh́n và không ngờ rằng anh đi ngang qua bàn của nàng
không chào nàng mà lại chào Fraser.
Bill Fraser đứng lên:
- Cathy, đây là đại uư Lawrence Douglas Larry. Đây là cô
Alexander Catherine. Larry hiện đang bay với hăng RA. Anh là
người lănh đạo của quân đoàn Mỹ ở đó.
Họ nói với anh về chủ đề là căn cứ máy bay chiến đấu ta sẵn sàng
ra chiến trận. Như là việc quay lại một cuốn phim cũ, Catherine
nhớ nàng đă ra lệnh cho anh vứt bỏ cả vạch và huy chương và anh
đă vâng lời vui vẻ như thế nào. Nàng đă thiển cận, và thái quá,
nàng gọi anh ta là "nhát như cáy". Nàng muốn ḅ xuống dưới bàn
mà chuồn thẳng.
Ngày hôm sau, Larry Douglas điện thoại cho Catherine tại pḥng
làm việc của nàng. Nàng từ chối nói chuyện với anh. Khi hết giờ
làm việc, anh đứng ngoài đường, đợi nàng. Anh đă cất bỏ tất cả
huy chương và băng lin chỉ c̣n đeo có phù hiệu là đại uư.
- Thế này được chứ. - Anh cười và đi lại gần nàng.
Catherine ngắm anh:
- Có phải là đă đeo phù hiệu không đúng quy định không?
- Tôi không biết. Tôi nghĩ cô phụ trách cái đó.
Nàng nh́n vào mắt anh và biết rằng nàng nhầm. Có một lực hút như
nam châm ở anh mà không thể cưỡng nổi.
- Thế anh muốn ǵ ở tôi?
- Tất cả. Tôi muốn cô.
Họ đi về buồng anh và làm t́nh. Đó là một vui sướng đặc biệt mà
Catherine chưa hề có thể mơ tưởng, mọi việc đến với nhau kỳ ảo
làm rung chuyển cả căn buồng và vũ trụ đến khi lạc thú trở thành
một trái bom nổ, một cuộc du ngoạn không thể tin được, đến rồi
lại đi, kết thúc rồi lại bắt đầu. Và nàng lại nằm đó, mệt mỏi,
chết lặng đi, ôm anh chặt vào ḿnh, không muốn cho anh đi, không
bao giờ muốn cho những cảm giác đó bị dừng lại.
Họ lấy nhau năm giờ đồng hồ sau, ở Maryland.
Bây giờ, ngồi trên máy bay trên đường đi London để bắt đầu một
cuộc đời mới, Catherine nghĩ: Chúng ta c̣n hạnh phúc. Những điều
sai trái đó ở đâu? Những cuốn phim lăng mạn và những bản t́nh ca
đă đánh lừa chúng ta cứ tin vào những kết thúc hạnh phúc, vào
các kỵ sĩ trong t́nh yêu không bao giờ, không bao giờ chết.
Chúng ta đă tin rằng James Stewart và Dona Reed đă có một cuộc
sống tuyệt vời và chúng ta đă rơi lệ khi Fredne March quay về
với Myrna Loy v́ những năm tốt đẹp nhất của cuộc đời và chúng ta
tin chắc Joan Fontaine đă t́m thấy hạnh phúc trong cánh tay của
Laurence Olivier trong vai Rebecca. Họ đă nói dối. Tất cả nói
dối. Và những bài hát. Anh sẽ yêu em, luôn luôn. Những người đàn
ông luôn được h́nh dung thế nào. Với một cái đồng hồ bằng quả
trứng? Một bộ? Hai bộ? Măi măi và mỗi ngày. Tôi đang rời xa. Tôi
muốn ly dị. Một số buổi thích thú. Chúng ta đang trèo lên ngọn
núi Mount Toumerka.
… Anh và đêm tối âm nhạc. Người quản lư khách sạn nói với tôi về
một số hang động gần đây… Anh yêu em v́ những lư do t́nh cảm.
Không ai sẽ… bây giờ khi cô ta đang c̣n ngủ. Là người yêu của
tôi. Chúng tôi đă nghe những bài hát, xem phim và đă nghĩ rằng
cuộc sống sẽ như thế nào. Tôi tin tưởng vào chồng tôi nhiều. Tôi
c̣n có thể tin tưởng vào một ai được nữa? Tôi đă làm ǵ để gây
cho hắn muốn giết tôi?
- Cô Alexander…
Catherine nh́n lên, sững sờ, lơ đăng.
Viên phi công đang c̣n đứng ngoài kia.
- Chúng ta đă hạ cánh. Chào mừng các vị đến London!
Có một chiếc limousine đang đợi Catherine ở sân bay.
Người tài xế nói:
- Thưa cô Alexander, tên tôi là Alfred. Tôi sẽ bố trí giải quyết
hành lư của cô. Cô muốn về thẳng nhà chứ ạ?
- Nhà của tôi? Vâng, thế th́ tốt quá.
Catherine ngồi phịch xuống ghế. Không thể tin được.
Constantin Denmiris bố trí máy bay riêng cho cô, và một nơi để
sống. Ông ta vừa là người rộng lượng nhất thế giới, vừa là… Nàng
không thể nghĩ đơn giản một phương án nào cả. Không. Ông là
người đại lượng nhất trên thế giới. Ta không t́m được cách nào
để nói lên những ư kiến nhận xét của ta về những việc đó.
Ngôi nhà, trên phố Elizabeth, ngoài Quảng trường Eaton, sang
trọng cực kỳ. Có một đại sảnh lớn, một buồng tiếp khách trang
hoàng đẹp đẽ với những chùm cây nến pha lê, một thư viện trên
các giá sách, một căn bếp chứa đầy thực phẩm, ba buồng ngủ trang
hoàng hấp dẫn, và cả khu ở cho những người đầy tớ.
Catherine đă được một phụ nữ khoảng hơn bốn mươi tuổi mặc toàn
đồ đen, đón tiếp ngay ở ngoài cửa.
- Xin chào, cô Alexander. Tôi là Anna. Tôi là người quản lư nhà
của cô!
Tất nhiên. Người quản gia của tôi. Catherine bắt đầu…
- Bà có khỏe không?
Người tài xế mang những ḥm và vali của nàng vào để cả ở buồng
ngủ.
- Chiếc limousine là để phục vụ cô, - anh nói với nàng. - Xin
bảo Anna khi nào cô có thể đi làm, tôi xin đón cô.
Chiếc limousine là để phục vụ cô. Tất nhiên:
- Cám ơn.
Anna nói:
- Tôi xin đỡ đồ của cô. Nếu cô cần ǵ, xin cô cho biết.
- Tôi không thể nghĩ là cần ǵ bây giờ - Catherine đi loanh
quanh trong khu nhà đến khi Anna đă để đồ đạc xong. Nàng đi vào
buồn ngủ và nh́n vào những bộ quần áo mới đẹp mà Denmiris đă mua
cho cô và nghĩ. Có một cảm giác là tất cả hoàn toàn không có
thực. Bốn mươi tám giờ trước đày, nàng đang c̣n tưới nước ở vườn
cây trong tu viện. Bây giờ nàng đang sống một cuộc sống như nữ
quận công. Nàng không rơ công việc của nàng như thế nào. Ta sẽ
làm việc nhiều.Ta không muốn cho ông ta xuống dốc. "Ông tốt một
cách tuyệt vời". Nàng đột nhiên thấy mệt. Nàng nằm xuống chiếc
giường mềm mại và tiện nghi. Ta phải nghỉ một chút, nàng suy
nghĩ. Mắt nàng nhắm lại.
Nàng đang bị chết đuối và kêu cứu. Và Larry đang bơi về phía
nàng, khi anh tới gần nàng, anh lại d́m nàng xuống nước. Và nàng
bị nhốt trong một cái hầm tối, những con dơi móc vào mắt nàng.
Catherine bừng tỉnh v́ quá sợ hăi, ngồi trên giường, run rẩy.
Nàng hít thở mạnh cho đỡ mỏi mệt. Thế là đủ, nàng suy nghĩ. Thế
là hết. Đó là ngày hôm qua. C̣n hôm nay. Không c̣n ai làm cô đau
đớn. Không ai cả. Không một ai nữa.
Bên ngoài pḥng ngủ của Catherine, Anna, người quản gia đă lắng
nghe hết những tiếng kêu. Bà đợi một lát, khi mọi sự yên lặng,
bà đi xuống pḥng lớn và nhấc dây nói báo cáo mọi việc cho
Constantin Denmiris.
o0o
Công ty kinh doanh Hy Lạp đặt tại trụ sở số 217 phố Bond, bên
ngoài quảng trường Picadilly, trong một building cũ của Chính
phủ từ những năm trước đây đă chuyến thành những văn pḥng làm
việc. Bên ngoài building là một kiệt tác về kiến trúc, lộng lẫy
và tráng lệ.
Khi Catherine đến đây, các nhân viên chính phủ đang đợi nàng. Có
khoảng nửa tá người đứng gần cửa để chào đón nàng.
- Xin chào mừng cô Alexander. Tôi là Evenlyn Kaye.
- Đây là Carl… Tuker… Mathew… Jennic… những tên và các khuôn
mặt…
- Các bạn có khỏe không?
- Văn pḥng sẵn sàng đón đợi cô. Tôi xin dẫn cô đi.
- Cám ơn!
Buồng tiếp đón được trang hoàng đầy ư vị, với một sôfa rộng bọc
da, hai bên có các ghế dựa kiểu chippendale và một thảm lớn. Họ
đi xuống hành lang dài trải thảm, rồi vào buồng họp có những tấm
panen nặng nề và ghế dựa bọc da, theo những cái bàn cao bóng
loáng.
Catherine đi vội vào một pḥng làm việc rất hấp dẫn, với những
đồ gỗ tiện nghi có bọc đệm và những ghế xe bọc da.
- Đó là tất cả của bà.
- Đẹp quá, - nàng lẩm bẩm.
C̣n có những bông hoa tươi trên bàn làm việc.
- Của ông Denmiris đấy ạ!
- Ông sâu sắc quá!
Evenlyn Kaye, người phụ nữ đă đưa nàng đi giới thiệu các pḥng,
bà là một phụ nữ đứng tuổi, người to béo, có bộ mặt vui tươi và
phong cách chu đáo.
- Cần phải vài ngày để cô quen mọi chỗ, nhưng công việc th́ thực
rất đơn giản. Chúng ta là một trong những trung tâm cân năo của
Vương quốc Denmiris. Chúng tôi tổng hợp các báo cáo của các cơ
sở sản xuất ở nước ngoài và gửi báo cáo tổng hợp về ban điều
hành ở Anthens. Tôi là giám đốc văn pḥng. Cô sẽ là trợ lư cho
tôi.
- Ồ - Thế tôi được là trợ lư giám đốc.
Catherine không có ư nghĩ người ta mong đợi ǵ ở nàng. Nàng như
bị ném vào thế giới muôn màu muôn vẻ. Những máy bay riêng, những
chiếc limousines, ngôi nhà xinh đẹp đầy đủ đầy tớ.
- Wim Vandeen là thần đồng toán học của chúng ta, sống ở đây.
Anh có thể tính các số liệu và đưa vào biểu đồ phân tích tài
chính để chỉ đạo. Bộ óc của anh làm việc nhanh hơn các máy tính
tốt nhất. Sang bên pḥng anh và gặp anh đi.
Họ đi xuống hành lang tới một pḥng làm việc cuối đại sảnh,
Evenlyn mở cửa không khoá.
- Wim, đây là người trợ lư mới.
Catherine bước vào buồng và đứng đó, ngay như đóng cọc Wim
Vandeen trông khoảng độ ngoài ba mươi một chút, người gầy, có
cái miệng và quai hàm lỏng lẻo, biểu cảm th́ nhạt nhẽo và rỗng
tuếch. Anh đang ngắm nh́n ngoài cửa sổ.
- Wim, Wim! Đây là Catherine Alexander.
Anh quay lại:
- Catherine, tên thực là Marta Skowronka đệ nhất, nàng là con
một người đầy tớ sinh năm 1684, bị những người Nga bắt, nàng lấy
Peter Đệ nhất và đă là nữ vương của nước Nga từ 1725 đến 1727,
Catherine Đại đế là con sau của hoàng tử Đức sinh năm 1729 và
lấy Peter sau này trở thành Hoàng đế Đệ Tam vào năm 1726, và bà
đă kế tục ngai vàng của vua trong năm sau đó sau khi bà đă giết
chết ông. Dưới sự trị v́ của bà, nước Ba Lan đă ba lần chia cắt
và đă có 2 cuộc chiến tranh chống Thổ Nhĩ Kỳ…
Các thông tin tuôn ra như một ṿi nước với giọng đơn điệu.
Catherine lắng nghe, ngây người ra.
- Như vậy… như vậy rất hay, - nàng nói.
Wim Vandeen nh́n quay đi.
- Wim thẹn khi anh gặp người khác. - Evenlyn nói.
Thẹn à? Catherine nghĩ. Đàn ông mà thẹn. Và anh ta lại là một
thần đồng? Công việc ở đây đang làm là ǵ?
o0o
Ở Anthens, trong văn pḥng ở phố Aghiou Geronda, Constantin
Denmiris đang nghe điện thoại của Alfred từ London.
- Tôi đă đưa cô Alexander từ sân bay về thẳng nhà ở. Thưa ông
Denmiris. Tôi đă hỏi xem cô có yêu cầu tôi đưa cô đi đâu không,
như ông đă đề nghị, và cô nói không!
- Cô không có tiếp xúc với ai ở bên ngoài cả à?
- Không, thưa ngài. Trừ khi cô gọi điện từ nhà ở, thưa ngài.
Constantin Denmiris không lo lắng về việc đó. Anna, người quản
gia, sẽ báo cáo với ông. Ông thay ống nghe, thoả măn. Nàng hiện
không có ǵ nguy hiểm cho ông và ông tiếp tục theo dơi nàng.
Nàng chỉ có một ḿnh trên thế giới này. Nàng không có ai để tiếp
xúc, trừ người ban ơn cho nàng - Constantin Denmiris. Ta phải
sắp xếp để đi London sớm, Denmiris nghĩ rất may mắn. Nhanh đi
thôi.
o0o
Catherine thấy công việc mới của nàng rất thích thú.
Các báo cáo hàng ngày đến từ các nơi trong vườn quốc của
Constantin Denmiris. Có những vận đơn đường biển từ nhà máy cán
thép ở Indiana, các sổ sách kiểm tra từ một nhà máy ô tô ở
Italy, các hoá đơn của hàng loạt tờ báo của Úc, một mỏ vàng, một
công ty bảo hiểm. Catherine gắn các báo cáo lại, xem qua và
chuyển thông tin trực tiếp cho Wim Vandeen. Wim liếc nh́n các
báo cáo một lượt, đưa vào máy tính tuyệt vời là bộ óc của anh,
và hầu hết được tính toán ngay tỉ lệ phần trăm lợi nhuận hay
thiệt hại cho công ty.
Catherine vui thích được biết những đồng sự mới của cô và nàng
cảm thấy hơi ngại bởi vẻ đẹp của ngôi nhà cố kính nàng làm việc
ở đó.
Nàng có nói những điều đó với Evenlyn Kaye một lần trước mặt Wim
và Wim nói:
- Đó là ngôi nhà hải quan của Chính phủ do Ngài Chistopher Wren
thiết kế vào năm 1721. Sau vụ cháy lớn ở London, Chistopher Wren
đă thiết kế lại cả thảy 55 nhà thờ kể cả nhà thờ St. Paul, St.
Michael, và St. Bride. Ông c̣n thiết kế Ngân Hàng hối đoái Hoàng
gia và điện Buckingham. Ông chết năm 1723 và được chôn cất ở nhà
thời St. Paul. Ngôi nhà được chuyển thành văn pḥng làm việc vào
năm 1907 và trong Đại chiến thế giới II dưới thời Blitz, chính
phủ đă tuyên bố đó là chỗ ẩn nấp chính thức cho những cuộc ném
bom.
Chỗ ẩn nấp cho những cuộc ném bom là một buồng rộng có gia cố
chống bom, được lắp thêm cửa nặng gắn với nền móng nhà.
Catherine nh́n vào cái buồng được gia cố nặng nề đó và nghĩ về
những người đàn ông, đàn bà và trẻ con người Anh, dũng cảm đă
trú ngụ ở đây trong những trận oanh tạc khủng khiếp của phi đội
Luftwaffe của Hitler.
Móng nhà rất lớn, chạy khắp chiều dài ngôi nhà. Có một nồi hơi
lớn để đun nước sưởi ấm cho ngôi nhà, và có trang bị các thiết
bị điện và điện tử. Nồi hơi là một vấn đề quan trọng. Nhiều lần,
Catherine đă phải dẫn những người thợ sừa chữa xuống nền nhà để
xem xét. Mỗi lần lại muốn sữa chữa những cái đă hư hỏng và họ
lại bỏ đi.
- Trông nguy hiểm lắm, - Catherine nói. - Có thể nó sẽ bị nổ?
- Chỉ là do tim cô lo lắng thôi, cô ạ, không đâu. Cô xem cái van
an toàn ở đây? Vậy đấy, nếu nồi hơi bị quá nớng, cái van này sẽ
nhả hơi nước thừa ra, không sao cả.
Sau khi kết thúc một ngày làm việc, đă có London. London… một
biểu tượng ngoạn mục của những rạp hát, vũ ba lê, các dàn nhạc.
Có những cửa hàng sách cổ rất thích thú như Hatchards, và Royles
- hàng chục các viện bảo tàng, và các hiệu đồ cổ nhỏ bé, và các
khách sạn Catherine đă đến xem cửa hàng in Litô ở Cecil Court và
đi mua hàng ở các cửa hàng lớn như Harrods, Fort num và Mason,
Marks và Spencer và đă đi uống trà chủ nhật ở Savoy.
Thỉnh thoảng, những suy nghĩ không có chủ đích chợt nẩy ra trong
đầu nàng. Có quá nhiều thứ gợi lại cho nàng và Larry. Một tiếng
nói… một câu… một loại nước hoa… một bài hát. Không. Quá khứ đă
chấm dứt rồi. Tương lai là điều quan trọng. Và mỗi ngày như vậy
làm nàng như khỏe ra.
Catherine và Evenlyn Kaye trở thành những người bạn thân và
thỉnh thoảng cùng đi chơi với nhau. Một ngày chủ nhật, họ đă đi
xem triển lăm nghệ thuật ngoài trời bên bờ sông Thames. Có mấy
chục nghệ sĩ có mặt tại đó, cả trẻ và già, họ bày các bức tranh,
tất cả họ có một nét chung, là họ không thể trưng bày các tác
phẩm của họ ở bất kỳ một triển lăm nào. Các bức tranh của họ rất
khủng khiếp. Catherine đă mua một bức để tỏ bày thiện cảm.
- Cô định treo bức tranh này ở đâu? - Evenlyn hỏi.
- Trong buồng nồi hơi. - Catherine nói.
Khi họ đi dọc theo những phố xá London, họ đă đi qua nơi các
nghệ sĩ vỉa hè, nhiều người dùng phấn mầu để vẽ trên ḥn đá mặt
hè. Một số tác phẩm của họ cũng hay lắm. Các khách qua đường cứ
muốn đứng lại để ngắm nghía các bức tranh và rồi ném vài xu cho
các nghệ sĩ. Một buổi trưa, trên đường đi ăn về, Catherine đă
đứng lại ngắm một người đă nhiều tuổi đang vẽ một bức tranh
phong cảnh bằng phấn. Vừa khi về xong, trời bắt đầu đổ mưa, ông
già đứng đó ngắm nh́n bức tranh của ông đă bị xoá đi. Thật giống
cuộc đời quá khứ của ta quá, Catherine nghĩ vậy.
Evenlyn đưa Catherine đi chợ Người chăn cừu.
- Đây là một nơi rất hay, - Evenlyn đảm bảo như vậy.
Nơi đó chắc chắn có nhiều màu sắc. Có một khách sạn lâu đời tới
ba trăm tuổi tên là Tiddy Dols, một quầy báo chí, một cái chợ,
một tiệm mỹ phẩm, một ḷ bánh, một hiệu đồ cổ và vài ngôi nhà từ
hai đến ba tầng.
Tên viết trên các hộp thư th́ đủ kiểu. Có cái đọc là - Helen -
và dưới là "những bác học tiếng Pháp". Có biển khác là đọc được
"Rossis" và ở dưới là "Dạy tiếng Hy Lạp ở đây" (Greek taught
here).
Evenlyn cười:
- Về một mặt nào đó, tôi cũng đoán như vậy Chỉ có cái kiểu giáo
dục của các cô gái ở đây th́ không thể đưa vào giảng dạy ở nhà
trường được!
Evenlyn cười phá lên c̣n to hơn khi Catherine ngượng đỏ cả mặt.
Catherine sống một ḿnh hầu hết thời gian nàng muốn được bận rộn
để cho bớt đi lẻ loi. Suốt ngày, nàng đắm ḿnh vào những suy
nghĩ làm sao có được những giờ phút quư hoá trong cuộc sống để
lấy lại những ǵ đă bị mất đi trong đời. Nàng cố từ bỏ những ưu
phiền trong dĩ văng hoặc trong tương lai. Nàng đă giành thời
gian đi thăm thành phố cổ Windoorm, và cả Canterbury với nhà thờ
xinh đẹp và Hamptas Court. Vào những ngày nghỉ cuối tuần, nàng
đi về miền quê lưu lạc tại những quán trọ nhỏ bé hoặc đi bộ qua
các thôn làng.
Ta c̣n sống, nàng nghĩ. Không ai sinh ra hạnh phúc. Mọi người
phải xây dựng hạnh phúc riêng của ḿnh. Ta đă sống sót. Ta c̣n
trẻ và khỏe mạnh và sẽ có nhiều điều tốt đẹp xảy ra.
Ngày thứ hai, nàng trở về làm việc. Trở về với Evenlyn, các cô
gái và Wim Vandeen.
Wim Vandeen là một điều bí ẩn.
Catherine chưa bao giờ gặp một người nào như anh ta. Có hai mươi
nhân viên trong văn pḥng, và không cần phải dùng đến máy tính,
Wim Vandeen có thể nhớ lương, số bảo hiểm và những khoản khấu
trừ vào lương của từng nhân viên. Tuy vậy, tất cả những số liệu
đó đều có hồ sơ lưu trữ, anh c̣n giữ các số liệu ghi chép của
công ty trong đầu anh. Anh c̣n nhớ cả lưu lượng tiền mặt hàng
tháng của các ngành sản xuất kinh doanh trong công ty, so sánh
với các tháng trước hoặc hồi cố lại tới 5 năm trước khi anh bắt
đầu làm cho công ty.
Wim Vandeen nhớ được mọi cái anh đă được nh́n thấy, nghe được
hay đọc qua. Khả năng trí nhớ của anh không thể tưởng tượng nổi.
Những câu hỏi đơn giản bất cứ chủ đề nào cũng nảy ra hàng loạt
thông tin, nhưng anh lại là người chống tư tưởng xă hội.
Catherine trao đổi với Evenlyn về anh.
- Tôi không hiểu Wim tư nào cả.
- Wim là một con người lập dị, - Evenlyn nói. - Chị phải hiểu
anh ta đúng như bản chất anh ta. Những ǵ anh ta quan tâm chỉ là
những con số. Tôi không cho rằng anh ta có quan tâm đến con
người.
- Thế anh ta có bạn bè ǵ không?
- Không!
- Thế anh ta có hẹn ḥ ǵ không - ư tôi muốn nói là đi với các
bạn gái?
- Không!
Theo Catherine th́ Wim bị cách ly và bị cô đơn, và nàng cảm thấy
nàng có một cái ǵ đó giống với anh ta.
Khả năng trí nhớ của Wim làm kinh ngạc Catherine.
Một buổi sáng, nàng bị nhức đầu. Wim nói một cách cộc lốc:
- Thời tiết này không giúp ǵ cho các bệnh đó lắm. Chị nên đi và
khám ở bác sĩ tai!-
- Cám ơn, Wim. Tôi…
- Các bộ phận của tai gồm có tai ngoài, tai giữa và tai trong,
giữa tai ngoài và tai giữa là màng nhĩ và một hệ thống xương nhỏ
- xương búa, xương đe và xương bàn đạp. Tai trong có ống dẫn
h́nh bán nguyệt, cửa sổ h́nh ovan, ống eustache, dây thần kinh
thính giác và ốc tai. - Và rồi anh bỏ đi.
Lại có hôm khác, Catherine và Evenlyn đưa Wim đi ăn trưa ở Ram s
Head, một nhà hàng b́nh dân trong khu vực đó. Trong pḥng cuối,
các khách hàng đang chơi tṛ ném phi tiêu.
- Wim, anh có quan tâm đến thể thao không? - Catherine hỏi. -
Anh có bao giờ đi xem bóng chày không?
- Bóng chày ấy à, - Wim nói. - Quả bóng chày có chu vi là chín
inch một phần tư, làm bằng sợi cuốn vào một lơi bằng cao su cứng
và bọc ngoài bằng da trắng. Cái gậy thường làm bằng gỗ cây tần
b́, đường kính chỗ lớn nhất từ hai đến ba phần tư inch và chiều
dài không lớn hơn bốn mươi hai inch.
Anh ấy biết hết các số liệu thống kê, Catherine nghĩ, nhưng lại
chẳng thích thú ǵ việc đang làm cả?
- Anh đă từng chơi thể thao không? Bóng rổ chẳng hạn?
- Bóng rổ thường chơi trên nền sàn gỗ hay sân xi măng. Quả bóng
làm bằng da, h́nh cầu, chu vi ba mươi mốt inch, bên trong có
vét-xi bằng cao su bơm hơi tới áp lực mười ba pound, Nặng hai
mươi đến hai mươi hai ounce. Bóng rổ do James Naismish phát minh
ra vào năm một ngh́n tám trăm chín mốt.
Catherine đă được trả lời như vậy.
Đôi khi Wim tỏ ra lúng túng trước mọi người. Vào một ngày chủ
nhật, Catherine và Evenlyn đưa Wim đi Maidenhead trên sông
Thames. Họ dừng ở Compleat Angler để ăn trưa.
Người hầu bàn tới bàn của họ:
- Chúng tôi hôm nay có những kẹp thịt.
Catherine quay lại Wim.
- Anh thích món kẹp thịt à?
Wim nói:
- Có những loại kẹp dài, kẹp kiểu con trai ở sông, hay kẹp tṛn,
kẹp cạo râu, kẹp lướt vát, kẹp đơn, và những kẹp mạch máu.
Người hầu bàn trố mắt nh́n anh ta.
- Ngài có muốn đặt món ǵ không ạ, thưa ngài.
- Tôi không thích kẹp, - Wim nói cáu kỉnh.
Catherine yêu mến những người làm việc với nàng, nhưng Wim là
trường hợp ngoại lệ. Anh ta nổi bật trên cả sự hiểu biết của
nàng, và cùng lúc đó, anh càng tỏ ra là đă bị loại bỏ và cô đơn.
Một hôm Catherine lại nói với Evenlyn:
- Liệu có cơ may nào để Wim trở thành con người b́nh thường
không? Phải ḷng ai và lấy người ta chẳng hạn?
Evenlyn thở dài.
- Tôi đă nói với cô. Anh ta không có xúc cảm. Anh ta chưa hề gắn
bó với bất kỳ ai cả.
Nhưng Catherine không tin điều ấy. Một đôi lần, nàng đă bắt gặp
có một nét thoáng qua về sự quan tâm - một t́nh cảm - hay một
tiếng cười - trong con mắt Wim, và nàng muốn kéo Wim ra ngoài
t́nh trạng đó, giúp anh. Hay đó chỉ là sự tưởng tượng của nàng
thôi.
Có một hôm, các nhân viên, văn pḥng nhận được giấy mời tham gia
buổi khiêu vũ từ thiện tổ chức ở Savoy.
Catherine vào pḥng làm việc của Wim.
- Wim, anh có đi nhảy không?
Anh nh́n chăm chắm vào nàng.
- Một gạch trắng và một nửa nhịp bốn bốn là một khoảng của điệu
Foxtrot. Người đàn ông bắt đầu nhịp mạnh bằng chân trái và tiến
lên hai bước. Người phụ nữ bắt đầu bằng chân phải và lùi hai
bước. Cả hai bước chậm, tiếp đến là một bước nhanh theo góc phải
rồi tới các bước chậm. Để nhún, người đàn ông bước lên, trên
chân trái và nhún - chậm - rồi chuyển lên sang chân phải - chậm.
Rồi người đàn ông chuyển sang trái bằng chân trái - nhanh. Rồi
khép chân phải và chân trái của anh ta lại - nhanh! -
Catherine đứng đó, không biết nói ǵ nữa. Anh ta biết tất cả các
từ nhưng anh ta không hiểu ư nghĩa các từ đó.
Constantin Denmiris gọi điện đến. Đă khuya rồi và Catherine đang
chuẩn bị đi ngủ.
- Tôi hy vọng tôi không làm phiền cô. Constantin đây.
- Không, trái lại. - Nàng rất mừng được nghe tiếng ông.
Nàng đă không được nói chuyện với ông từ lâu và đang muốn hỏi ư
kiến ông. Sau nữa, ông là người duy nhất trên thế giới này thực
sự biết về quá khứ của nàng.
Nàng cảm thấy ông như là người bạn cũ của nàng.
- Tôi đă nghĩ nhiều về cô, Catherine ạ. Tôi lo rằng, cô có thể
cảm thấy London là một nơi hiu quạnh. Sau nữa là cô không quen
biết ai ở đấy!
- Đôi khi tôi cũng thấy cô đơn, - Catherine thú nhận. - Nhưng,
tôi cũng quen dần. Tôi nhớ lời ông nói. Hăy quên quá khứ, hăy
sống v́ tương lai.
- Phải đấy. Hăy nói về tương lai, tôi sẽ đến London ngày mai.
Tôi muốn mời cô cùng đi ăn tối đấy.
- Tôi sẽ rất lấy làm thích điều đó, - Catherine nói nồng nhiệt.
Nàng đang mong đợi. Nàng sẽ có dịp nói với ông rằng nàng vô cùng
biết ơn ông.
Khi Constantin Denmiris đặt ống nghe xuống, ông đă cười một
ḿnh. Cuộc săn đuổi vẫn tiếp tục.
Họ ăn tối ở nhà hàng Ritz. Pḥng ăn lịch sự và các món ăn lại
rất thú vị. Nhưng Catherine quá phấn khích nên không chú ư ǵ cả
mà chỉ chú ư con người đang ngồi đối diện với cô. Có nhiều điều
cô phải nói với ông.
- Ông có các nhân viên tuyệt vời! - Catherine nói - Wim th́ đáng
kinh ngạc. Tôi không thấy ai có thể…
Nhưng Denmiris lại không lắng nghe những từ đó.
- Ông đang theo dơi cô, nghĩ sao nàng lại đẹp như vậy, và nàng
bị tổn thương như thế nào. Nhưng ta không được vội vàng với
nàng. Denmiris quyết định. Không, ta phải chơi tṛ này từ từ và
chiến thắng từng bước một, cái con người này sẽ v́ em, Noelle ạ,
và cho người yêu của em.
- Ông sẽ ở London có lâu không?. - Catherine hỏi.
- Độ một hay hai ngày. Tôi có một số công việc để giải quyết.
Đó là sự thật. Nhưng ông biết ông có thể giải quyết các công
việc đó qua điện thoại. Không, ông phải đến London để bắt đầu
một chiến dịch làm cho Catherine gần ông hơn, để làm cho phụ
thuộc vào ông thực sự bằng t́nh cảm.
Ông nghiêng người về phía trước.
- Catherine, tôi đă nói với cô về cái quăng thời gian tôi đă làm
việc ở vùng Ả-rập Saudi chưa nhỉ?
Hôm sau, Denmiris lại đưa Catherine đi ăn tối.
- Evenlyn nói với tôi cô đang làm một việc tuyệt vời ở văn pḥng
của tôi. Tôi sẽ phải nâng lương cho cô.
- Th́ ông quá độ lượng với tôi c̣n ǵ nữa, - Catherine phản đối.
- Tôi…
Denmiris nh́n vào mắt nàng.
- Cô không biết tôi rộng lượng đến thế nào ư.
Catherine bối rối. Anh ấy chỉ có tốt, nàng nghĩ. Tôi không h́nh
dung những nổi sự việc.
Ngày hôm sau. Catherine chuẩn bị đi.
- Cô có muốn đi ra sân bay với tôi không, Catherine?
- Vâng! - Nàng cảm thấy ông rất quyến rũ, gần như gắn bó. Ông là
người vui tính có nhiều phẩm chất nổi bật và nàng đă được sung
sướng bởi sự quan tâm của ông.
Tại sân bay, Denmiris đă hôn Catherine nhẹ nhàng lên má.
- Tôi rất sung sướng được có thời gian gần nhau như thế nào,
Catherine ạ!
- Tôi cũng vậy cám ơn ông, Costa.
Nàng đứng đó ngắm nh́n máy bay của ông cất cánh.
Ông ta là con người đặc biệt, Catherine nghĩ. Ta sắp phải thiếu
ông!
Chương 6
Mọi người thường ngạc nhiên về t́nh bạn bên ngoài rất
thân thiết giữa Constantin Denmiris và người anh vợ của của ông
Spyros Lambrous.
Spyros Lambrous cũng giàu có và đầy sức mạnh gần như Denmiris.
Denmiris là chủ của một đội tàu vận tải lớn nhất trên thế giới,
Spyros Lambrous cũng là chủ nhân một đội tàu lớn thứ nh́.
Constantin Denmiris kiểm soát hàng loạt các tời báo, hăng - hàng
không, mỏ dầu và nhà máy cán thép, và cả mỏ vàng, Spyros
Lambrous lại có các công ty bảo hiểm, các ngân hàng, một số lớn
đất đai bất động sản và cả các nhà máy hoá chất. Họ như là các
đối thủ cạnh tranh những thân hữu, hơn thế nữa, họ c̣n như những
người cùng chí hướng.
- Thật tuyệt vời, người ta nói rằng hai trong các người có thế
lực nhất trên thế giới lại là những người bạn lớn như vậy?
Trong thực thế, họ là các đối thủ không thay thế được mà c̣n coi
thường nhau. Khi Spyros Lambrous mua một con tàu thủy dài 100
bộ(1) th́ Constantin Denmiris lập tức lại mua một con tàu thủy
dài 150 bộ(2), có bốn động cơ diesel GM, một đoàn thủy thủ gồm
13 người, cuộc sống trên thuyền có mức cao và một bể bơi nước
ngọt trên đó.
Khi đội tàu của Spyros Lambrous đạt tới sức chở tổng cộng
200.000 tấn, gồm mười hai tàu chở dầu, th́ Constantin Denmiris
lại tăng đội tàu của ḿnh lên hai mươi ba tàu chở dầu, với sức
chở tổng là 650.000 tấn.
Spyros Lambrous có một tàu ngựa đua, th́ Denmiris mua luôn một
trong huấn luyện ngựa đua rất lớn để đối chọi lại ông anh vợ và
tất nhiên là thắng.
Cả hai đều thường xuyên gặp nhau, v́ họ thường cùng tham gia vào
các ủy hội từ thiện, ngồi cùng ban điều hành của hàng loạt các
công ty khác nhau, và thỉnh thoảng cũng cùng có mặt trong các
cuộc tụ họp gia đ́nh.
Về tính khí th́ chính xác là họ đối nghịch hẳn nhau. Nếu như
Constantin Denmiris xuất thân từ một đứa trẻ lang thang, tự ḿnh
tiến thân lên cao, th́ Spyros Lambrous lại sinh ra trong một gia
đ́nh quư tộc. Ông ta là một người đàn ông gầy và lịch thiệp luôn
ăn mặc nghiêm chỉnh, nhă nhặn có phong cách của thế giới cổ. Ông
ta là h́nh ảnh của cả ḍng dơi gia đ́nh kể từ thời Otto ở
Bavaria, đă có một lần trị v́, làm vua nước Hy Lạp, một bộ phận
nhỏ, nhưng người cầm đầu, thu thập các của cải để buôn bán, đóng
tàu và mua đất. Cha của Spyros Lambrous là một trong những người
đó, và Spyros đă được thừa hưởng vương quốc của ông.
Đă nhiều năm, Spyros Lambrous và Constantin Denmiris đă thực
hiện một tṛ chơi chữ về t́nh bạn.
Nhưng mỗi người đều khẳng định rằng, cuối cùng, ḿnh sẽ tiêu
diệt đối phương, Denmiris th́ lấy lư do là bản năng phải tồn
tại, c̣n Lambrous th́ v́ cách đối xử tàn tệ của ông em rể với
Melina.
Spyros Lambrous là một người mê tín. Ông cho rằng cái mệnh của
ông rất tốt, và ông chỉ lo lắng sao cho không làm sai ư Chúa.
Đôi khi ông cũng hỏi ư kiến các nhà tâm lư học để được chỉ bảo.
Ông ta có đủ thông minh để nhận ra những gian trá, nhưng có một
nhà tâm lư học mà ông đă t́m thấy ở vị này là tính không ngay
thẳng. Bà đă tiên đoán việc sẩy thai của cô em Melina của ông và
bà c̣n đoán sau đám cưới sẽ xảy ra điều ǵ và hàng tá chuyện đă
qua đi không sao cả. Bà ta sống ở Anthens.
Tên bà ta là Pins.
Constantin Denmiris có một thói quen là ông đến văn pḥng làm
việc ở phố Aghion Geronda sáng nào cũng vậy đúng sáu giờ. Vào
thời gian mà những đối thủ của ông đă đi làm việc, Denmiris đă
điều khiển xong các nhân viên của ông ở hàng chục nước mất hàng
giờ đồng hồ. Pḥng làm việc riêng của Denmiris rất đặc biệt. Từ
đó, nh́n xuống một quang cảnh rất đẹp, những cửa sổ như những
bức tranh mà thành phố Anthens như ở dưới chân ḿnh.
Sàn nhà bằng đá granite đen. Đồ đạc toàn bằng thép và da. Trên
các bức tường là cả một bộ sưu tập về nghệ thuật lập thể, với
Légers, Braques và khoảng nửa tá tranh của Picasso. Có một gương
lớn, một bàn làm việc bằng thép và một ghế bành - ngai vua bằng
da. Trên bàn có một phù điêu pha lê mặt Alexander Đại đế. Chữ đề
ở dưới đọc được là: "Alexandros. Người bảo vệ con người".
Vào một buổi sáng đặc biệt, điện thoại riêng của Constantin
Denmiris réo lên khi ông bước vào pḥng. Có khoảng độ nửa tá
người đă được phép gọi trực tiếp đến số điện thoại này.
Denmiris nhấc ống nghe lên.
- Kalimelira.
- Kalimelira. - Tiếng nói ở đầu kia là tiếng của người thư kư
riêng của Spyros Lambrous, Nikos Ventos. Hắn nói rất rắn rỏi. -
Bỏ qua cho tôi đă làm phiền ông, ông Denmiris ạ. Ông đă nói với
tôi là cứ gọi khi có tin ǵ mà ông cán…
- Ừ. Tin ǵ thế?
- Ông Lambrous đang có kế hoạch lấy một công ty tên gọi là
Aurora International. Trong trao đổi chứng khoán New York có
đăng kư tên công ty này. Ông Lambrous có một người bạn trong ban
giám đốc, tay này nói với ông ấy có một hợp đồng rất lớn của
chính phủ đang chuẩn bị giao cho công ty này chế tạo máy bay ném
bom. Đây là một việc rất bí mật, tất nhiên. Chứng khoáng sẽ tăng
giá rất nhanh khi người ta công bố tin này…
- Tôi không quan tâm đến thị trường chứng khoán, - Denmiris ngắt
giọng. - Đừng quấy rầy tôi nữa trừ phi anh có điều ǵ quan trọng
muốn nới với tôi.
- Xin lỗi, ông Denmiris. Tôi nghĩ…
Nhưng Denmiris đă đặt ống nghe xuống.
Vào khoảng 8 giờ sáng, khi trợ lư của Denmiris, Giannis Tcharos,
đi vào Constantin Denmiris đang ngồi ở bàn, ngước nh́n lên.
- Có một công ty ở Trao đổi chứng khoán New York, Aurora
International, báo cáo cho tất cả các tờ báo của ta rằng công ty
này đang bị điều tra về làm ăn gian dối. Sử dụng nguồn tin không
tên, những lời lẽ hàm ư, hiểu rộng ra được. Tôi muốn bọn nó gh́m
chuyện này lại khi chứng khoáng tụt xuống. Rồi bắt đầu mua khi
tôi kiểm soát được nó.
- Dạ, thưa ngài. Có thể thôi ạ?
- Không. Sau khi tôi đă kiểm soát được rồi, thông báo rằng tin
đồn đó không có cơ sở. Ồ, được. Cho người ta thấy rằng Trao đổi
chứng khoáng New York được thông báo rằng Spyros Lambrous mua
chứng khoán của ông, là một thông tin nội bộ.
Giannis Tcharos nói rất tế nhị:
- Thưa ông Denmiris, ở Hợp chủng Quốc, đó là một tội h́nh sự.
- Tôi biết.
o0o
Cách một dặm, ở Quảng trường Syntagama, Spyros Lambrous đang làm
việc trong văn pḥng của ông. Nơi làm việc phản ánh cái sở thích
triết trung của ông. Đồ đạc ít có đồ cổ đó là một hỗn hợp giữa
kiểu dáng Pháp và Ư. Ba bức tường đều có treo các tác phẩm của
các hoạ sĩ theo trường phái ấn tượng Pháp. Bức tường thứ tư dành
cho một số hoạ sĩ Bỉ, từ Van Rysselberghe đến De Smit.
Biển đề ở cửa ngoài pḥng đọc được là: Spyros Lambrous và các
cộng tác viên, - nhưng chưa bao giờ có một cộng tác viên nào cả.
Spyros Lambrous được thừa kế từ người cho ông một dịch vụ buôn
bán rất kết quả, và qua nhiều năm ông đă xây dựng nơi đây thành
một tổ hợp hoạt động khắp thế giới.
Spyros Lambrous phải là một con người hạnh phúc. Ông rất giàu có
và thành đạt, và ông vui thích với sức khỏe tuyệt vời của ông.
Nhưng đối với ông không thể có hạnh phúc thực sự chừng nào mà
Constantin Denmiris c̣n sống. Người em rể ông là người ông ghét
cay ghét đắng. Lambrous coi thường người này. Đối với Lambrous,
Denmiris là một tên đa mưu kế, một con người rất có nhiều phương
sách, một tên du thủ du thực vô đạo đức.
Lambrous luôn luôn oán hận Denmiris v́ đă đối xừ tệ bạc với
Melina, nhưng sự đối địch tàn bạo giữa hai người có cái liên hệ
khủng khiếp riêng của họ.
Điều đó bắt đầu từ mười năm trước, trong một bữa ăn trưa của
Spyros với em gái của ông, chưa bao giờ cô thấy anh ḿnh bị kích
động như vậy.
- Melina, em có biết rằng cứ trong một ngày thôi, cả thế giới
tiêu dùng số nhiên liệu dưới ḷng đất mà phải mất một ngh́n năm
mới tạo ra được.
- Không, anh Spyros ạ.
- Càng có yêu cầu nhiều về dầu trong tương lai, th́ càng phải có
đủ tàu chở dầu để chuyên chở số lượng đó.
- Anh sắp đóng một số tàu ấy à?
Ông gật đầu.
- Nhưng không phải loại chở dầu thông thường. Anh dự định chế
tạo một đội tàu chở dầu đầu tiên gồm các tàu rất lớn. Lớn gấp ba
lần các tàu hiện có. - Lời nói của ông đầy nhiệt huyết. - Anh đă
mất nhiều tháng để xem xét các h́nh vẽ. Em hăy nghe nhé. Một
gallon dầu thô chở từ vịnh Péc-xích đến các cảng miền Đông nước
Mỹ chi phí mất bẩy xu. Nhưng với tàu lớn, chi phí giảm đi chỉ
c̣n ba xu cho một gallon. Em có hiểu nó có ư nghĩa ǵ không?
- Anh Spyros - thế anh định lấy tiền ở đâu để đóng một đội tàu
như vậy?
Ông cười:
- Đó là cái hay nhất trong kế hoạch của anh. Kế hoạch đó không
tốn của anh lấy một xu.
- Kế hoạch ǵ?
Ông dướn người về phía trước:
- Anh sẽ đi Mỹ trong tháng tới để nói chuyện với người cầm đầu
các công ty lớn. Với những tàu chở dầu này, anh có thể chở cho
họ với giá bằng một nửa giá họ phải trả để chuyên chở hiện nay!
- Nhưng… anh hiện nay chưa có cái tàu to nào cả.
Nụ cười của ông phá lên ngạo nghễ.
- Không, khi mà anh có được các hợp đồng vận chuyển dài chẳng
hạn của các công ty dầu mỏ, th́ ngân hàng sẽ cho anh vay tiền để
đóng những con tàu đó. Em nghĩ thế nào?
- Em nghĩ anh giỏi quá. Đó là một kế hoạch kiệt xuất.
Melina đă bị kích động bởi những ư đồ của ông anh đến độ cô đă
nói điều đó với Denmiris ngay tối hôm đó trong bữa ăn.
Khi đă giải thích xong, Melina c̣n nói:
- Đó có phải là một ư đồ tuyệt vời không anh?
Constantin yên lặng một lát.
- Anh cô là người hay mơ mộng. Điều đó không bao giờ thực hiện
được.
Melina nh́n ông sửng sốt:
- Sao không, Costa?
- Bởi đó là một ư đồ lỉều lĩnh. Trước hết là hiện chưa có một
đ̣i hỏi lớn như vậy về dầu hoả, do vậy những tàu chở dầu thần
thoại đó theo ư anh ấy sẽ trống rỗng. Hai là, các công ty dầu mỏ
sẽ không mặn mà để đổ những thùng dầu quư hoá của họ lên cái hạm
đội mà ngay cả việc tồn tại cũng không có được. Và thứ ba là,
những ngân hàng mà anh ấy sẽ làm việc, họ sẽ chế nhạo và đuổi
anh ấy ra khỏi văn pḥng của họ.
Vẻ mặt Melina đầy chán ngán.
- Spyros quá nhiệt t́nh. Anh có nên trao đổi điều đó với anh ấy
không?
Denmiris lắc đầu.
- Cứ để cho anh ấy mơ mộng, Melina ạ. Tốt hơn hết là anh ấy
không nên biết về cuộc tṛ chuyện của chúng ta.
- Được Costa. Anh nói thế nào, em sẽ làm thế.
Sáng sớm hôm sau Constantin Denmiris lên đường sang Mỹ để thảo
luận về các tàu chở dầu lớn. Ông biết rằng dự trữ dầu hoả trên
thế giới bên ngoài nước Mỹ là các lănh thổ thuộc khối Liên Xô do
bảy anh em quản lư: Srandra Oli Company ở New Jersey, Standard
Oil Company ở California, Gulf Oil, The Texas Company, Socony -
Vacunm, Royal Dutch - Shell và Auglo - Iranian. Ông c̣n biết nếu
ông có thể làm việc được với một công ty, các công ty khác chắc
chắn cứ thế theo.
Trước hết Constantin Denmiris đến thăm văn pḥng điều hành của
Standar Oil ở New Jersey. Ông được hẹn làm việc với Owen Curtis,
Phó chủ tịch thứ tư.
- Tôi có thể làm ǵ giúp ông, ông Denmiris?
- Tôi có một suy nghĩ rằng tôi có thể mang lại lợi ích lớn về
tài chính cho công ty của ông.
- Vâng, ông có thể nói điều đó qua điện thoại nhé. - Curtiss
liếc nh́n vào đồng hồ đeo tay - Tôi có cuộc họp sau đây mấy
phút. Nếu ông có thể nói gọn…
- Tôi sẽ nói vắn tắt. Để chuyên chở một gallon dầu thô từ vịnh
Percik tới bờ biển phía Đông hợp chủng Quốc, các ông phải chi
bẩy xu!.
- Đúng thế.
- Ông có ư kiến ǵ nếu tôi nói với ông tôi đảm bảo chuyên chở
toàn bộ dầu của ông chỉ có ba xu một gallon?
Curtiss cười với thái độ kẻ cả:
- Làm thế nào mà ông lại có thể làm được điều lạ lùng đó?
Denmiris nói nhẹ nhàng:
- Với một đội tàu gồm các tàu chở dầu lớn có sức chứa vận chuyển
gấp ba lần tàu hiện nay. Tôi có thể chuyên chở dầu của các ông
nhanh bằng các ông hút lên khỏi mặt đất.
Curtiss đang t́m hiểu ông, mặt ông ta đầy vẻ suy nghĩ.
- Ông sẽ lấy đội tàu chở dầu to lớn đó ở đâu?
- Tôi sắp đóng!
- Xin lỗi. Chúng tôi muốn quan tâm đến vấn đề đẩu tư…
Denmiris ngừng lại.
Sẽ không tiêu đến của các ông một xu. Tất cả các vấn đề mà tôi
đang muốn hỏi ông về các hợp đồng dài hạn để chuyên chở dầu của
ông bằng nữa các giá mà ông đang phải trả. Tôi sẽ giải quyết vấn
đề tài chính của tôi với các ngân hàng.
Sau đó là im lặng khá lâu và nặng nề. Owen Curtiss đằng hắng lấy
giọng.
- Tôi nghĩ rằng tốt hơn hết là tôi đưa ông lên trên gặp ông chủ
tịch của chúng tôi!
Đó là bước đầu. Các công ty dầu khác rất nóng ḷng muốn làm ăn
với Constantin Denmiris về các tàu chở dầu mới. Vào lúc mà
Spyros Lambrous biết được điều ǵ đă xảy ra th́ quá muộn. Ông ta
cũng bay sang Hợp Chủng Quốc và đă làm việc được về tàu chở dầu
lớn với một vài công ty độc lập, nhưng Denmiris đă hớt được hết
váng crem ở ngoài chợ rồi.
- Nó là chồng cô, - Lambrous gầm lên, - nhưng tôi thề với cô
Melina, một ngày nào đó tôi sẽ bắt nó phải trả giá về những ǵ
nó đă làm.
Melina cảm thấy vô cùng khổ tâm về những điều đó. Cô cảm thấy cô
đă phản bội người anh của ḿnh.
Nhưng khi cô cự lại chồng ḿnh, ông ta nhún vai.
- Anh không đến với họ, Melina ạ. Họ đến với anh. Làm sao anh từ
chối họ được?
Và thế là kết thúc cuộc trao đổi.
Nhưng những cách thức làm ăn th́ không quan trọng khi cảm nghĩ
của Lambrous nếu so sánh với cách đối xử của Denmiris với
Melina.
Ông cũng có thể nhún vai về việc Constantin Denmiris là một đứa
tán gái nổi tiếng - sau hết, là một con người phải có sở thích
riêng của ḿnh. Nhưng điều đáng phàn nàn về Denmiris, đó lại là
sự nhục nhă không chỉ đối với Melina mà c̣n đối với cả gia đ́nh
Lambrous. Cái việc mờ ám của Denmiris với diễn viên điện ảnh,
Noelle Page, đă là một ví dụ quá xa rồi. Việc đó đă gây ra các
hàng chữ lớn trên các báo chí khắp thế giới. Một ngày, Spyros
Lambrous nghĩ. Một ngày kia…
Nikos Veritos, trợ lư của Lambrous, đi vào pḥng làm việc,
Veritos làm việc với Spyros Lambrous đă mười lăm năm. Anh ta có
năng lực, nhưng ít chịu động năo, một con người không chú ư tới
tương lai, tóc đă hoa râm và không sĩ diện. Sự đối đầu giữa hai
anh em rể đă tạo cho Veritos cái mà anh coi là cơ hội vàng son.
Anh đă cá cược là Constantin Denmiris sẽ thắng, và thỉnh thoảng
anh lại đưa những tin mật cho ông này, hy vọng sẽ được ban
thưởng thích đáng.
Veritos tiến lại gần Lambrous:
- Xin lỗi. Có ông Anthony Rizzoli đến gặp ông.
Lambrous thở dài:
- Hăy để cho việc đó qua đi, - Ông nói. - Mời ông ấy vào.
Ông Anthony Rizzoli mới độ khoảng bốn nhăm. Ông ta tóc đen, có
mũi quặp mảnh, và đôi mắt nâu sâu thẳm.
Ông ta đi lại như dáng vơ sĩ quyền anh đă được huấn luyện. Ông
ta mặc bộ đồ cắt may màu hạt dẻ đắt tiền, một áo sơ mi lụa và đi
một đôi giày mềm mại. Ông ta nói năng nhỏ nhẹ mà lịch sự, và
đúng vậy có một điều kỳ quặc như đe doạ ở ông.
- Rất vui sướng được gặp ông, ông Lambrous ạ.
- Mời ngồi, ông Rizzoli.
Rizzoli ngồi xuống một chiếc ghế.
- Tôi có thể làm ǵ giúp ông.
- Tốt quá, như tôi đă giải thích với ông Veritos đây, tôi muốn
thuê một trong những tàu chở hàng của ông. Ông thấy đấy, tôi có
một số nhà máy ở Marseilles và tôi muốn chở một số máy móc sang
Mỹ. Nếu ông và tôi có thể làm việc được, tôi có thể chuyển một
số dịch vụ sang cho ông trong tương lai.
Spyros Lambrous ngả người vào lưng ghế và nghiên cứu con người
đang ngồi trước mắt ông. Không ngon lành.
- Nghĩa là ông chỉ muốn chở hàng, ông Rizzoli? - Ông hỏi.
Tony Rizzoli cau mày:
- Thế nào? Tôi không hiểu.
- Tôi nghĩ ông hiểu! - Lambrous nói. - Tàu của chúng tôi không
đủ để cho ông thuê.
- Tại sao không? Ông nói về cái ǵ hở?
- Thuốc, ông Rizzoli ạ. Ông là người chuyên buôn bán thuốc.
Đôi mắt của Rizzoli co hẹp lại.
- Ông điên à? Ông đă nghe nhiều các lờ́ đồn đại.
Nhưng những điều đó c̣n hơn cả những lời đồn đại.
Spyros Lambrous đă kiểm tra cẩn thận người này. Tony Rizzoli là
một trong các tay buôn lậu thuốc phiện hàng đầu thế giới. Ông ta
là Mafia, một bộ phận của tổ chức này, và người ta có nói là các
nguồn vận chuyển của Rizzoli đă bị kiệt quệ rồi. Và đó là lí do
v́ sao hắn rất lo lắng để giải quyết việc này.
- Tôi e rằng ông phải đi một nơi nào đó để giải quyết.
Tony Rizzoli ngồi đó nh́n chằm chằm vào ông, đôi mắt hắn lạnh
giá. Cuối cùng, hắn gật đầu.
- Ô kê! - Hắn lấy một danh thiếp từ túi ra và ném cái đó lên bàn
làm việc. - Nếu ông thay đổi ư kiến, ông có thể báo cho tôi theo
địa chỉ này! - Hắn đứng dậy và một lát sau, hắn đi ra.
Spyros Lambrous cầm tấm thiếp lên. "Anthony Rizzoli - Xuất nhập
khẩu" ghi trên tấm thiếp. Có địa chỉ một khách sạn ở Anthens và
cả số điện thoại ở phía dưới thiếp.
Nikos Veritos ngồi ngay đó, mắt mở to, nghe câu chuyện giữa hai
người. Khi Tony Rizzoli đi ra cửa, anh nói:
- Hắn thực là thế ư?
- Ừ. Tay Rizzoli này chuyên buôn bạch phiến. Nếu chúng ta mà cho
hắn dùng một trong những con bài của chúng ta, chính phủ sẽ loại
tất cả con tàu của chúng ta không cho làm ăn ǵ nữa.
Tony Rizzoli ra khỏi pḥng làm việc của Lambrous với vẻ mặt tức
giận. Cái tay Hy Lạp khôn ngoan này đối xử với ta như là một
nông dân ngoài phố! Và làm sao hắn lại biết về thuốc phiện?
Chuyến hàng lớn lắm, với giá trị ngoài thị trường ít nhất cũng
tới chục triệu đô la. Nhưng vấn đề là phải làm sao để đưa vào
New York. Món bạch phiến chết tiệt này đang được thu gom khắp
Anthens. Ta phải gọi dây nói cho Sicily và ban chỉ huy. Tony
Rizzoli chưa bao giờ bị mất một chuyến hàng nào, và hắn không có
ư định để mất món hàng này…
Hắn nghĩ về bản thân hắn chưa bao giờ thua cả.
Hắn đă lớn lên ở Hell s Kitchen, New York. Về mặt địa lư, th́ nó
ở giữa khu phía tây Manhattan, giữa Đại lộ số 8 và sông Hudson,
và phía Bắc và phía Nam là các phố thứ 23 và 59. Nhưn g về mặt
tâm lư và cảm xúc th́ Hell s Kitchen là một thành phố trong một
khu vực có vũ trang.
Các phố này do các toán cướp cai quản. Đó là các toán Gophers,
toán Parlor Mob, toán Golrillas Rhodes. Các hợp đồng giết thuê
mỗi cái đă lên đến hàng trăm đô la, và hợp đồng trả thù bằng vũ
lực th́ ít hơn.
Bọn chủ Hell s Kitchen sống trong các căn nhà bẩn thỉu, cho
thuê, đầy những chấy rận, chuột và bọ. Không có thùng tắm và bọn
thanh niên giải quyết những cái thiếu thốn đó theo cách riêng
của chung, chúng cởi quần áo nhảy xuống nước bên ngoài các cảng
sông Hudson, ở đó các cống nước thải của các phố Kitchen đổ ra
sông. Cái cảnh ngập ngụa các xác chó mèo chết trương lên.
Quang cảnh phố xá cho thấy có nhiều hoạt động không ngớt và đa
dạng. Các xe cứu hoả rú c̣i báo động… các toán cướp đánh nhau
trên các mái nhà… một buổi lễ cưới trên hè phố bọn trẻ chơi bóng
gậy… một cuộc rượt đuổi sau con ngựa đang chạy… súng bắn… chỉ có
một sân chơi cho bọn trẻ là hè phố, mái nhà tập thể, và những
căn buồng đầy rác rưởi và - vào mùa hè nước bẩn từ những ḍng
sông. Trên hết cả, đó là cái mùi hăng hăng cay của sự nghèo khổ.
Đó là bầu không khí, ở đó Tony Rizzoli đă trưởng thành.
Kỷ niệm xa xưa nhất của Tony Rizzoli là đă một lần bị đánh ngă
gục và tiền mua sữa trong túi bị đánh cắp. Khi đó hắn chỉ có bảy
tuổi. Những thằng con trai nhiều tuổi hơn và to lớn hơn là những
mối đe doạ thường xuyên của hắn. Con đường đi đến trường th́ là
khu đất rộng không có người ở và ngay cả trường học cũng là băi
chiến trường.
Khi mà Rizzoli được mười lăm tuổi, nó đă trở thành một thằng con
trai khỏe mạnh và có nghề đáng kể đó là đánh nhau. Nó thích thú
với việc đánh nhau v́ nó rất giỏi trong việc này, và những trận
đánh nhau đó đă làm nó có cảm tưởng nó là siêu nhân ở đây. Nó và
các bạn nó đă tham gia các trận thi đấu quyền anh ở nhà thể thao
Stillman.
Đôi lúc, một số bọn trùm găng tơ đă bất chợt đến để xem xét và
để mắt đến các tay chuyên đánh thuê mà họ là trùm. Frank
Costello xuất hiện ở đây hai hay ba lần trong tháng, cùng với
Joe Adonis và Lueky Luciano. Bọn chúng đều vui thích với các
trận quyền anh mà người trẻ hơn bao giờ cũng được diễn, và như
một h́nh thức đa dạng, họ bắt đầu cá cược về các trận đấu. Tony
Rizzoh th́ luôn luôn là kẻ chiến thắng, và hắn nhanh chóng được
các ông trùm ưa thích. Một hôm, Rizzoli đang thay quần áo trong
một buồng có khoá. Thằng bé nghe lỏm được câu chuyện giữa Frankl
Costello và Lucky Luciano:
- Một mỏ vàng…- Lucian đă nói. - Tôi đă thắng hắn năm lần tuần
qua.
- Mày sắp đặt cược về cuộc đánh của hắn với Lou Domstic?
- Chắc chắn rồi. Tôi đánh mười một to!
- Mày phải đặt lẻ là bao nhiêu?
- Mười trên một. Nhưng địa ngục là bao nhiêu? Cứ vào của
Rizzoli?
Tony Rizzoli không chắc chắn rằng cuộc đối thoại đó nghĩa là thế
nào. Hắn đến gặp anh trai ḿnh là Gino và nói về điều đó.
- Lạy chúa Jesus! - anh hắn cầu xin. - Bọn nó đă cướp tiền cược
của mày à.
- Nhưng v́ sao? Em không phải là chuyên nghiệp.
Gino nghĩ một lúc:
- Mày chưa bao giờ thua cả phải không Tony?
- Không!
- Khả năng nào xảy ra nếu bọn chúng chỉ cá rất nhỏ để nhử, và
rồi chúng thấy mày có thể làm ǵ, chúng bắt đầu cá lớn!
Thằng cu con nhún vai.
- Điều đó chẳng là cái cóc khô ǵ với em cả.
Gino cầm cánh tay thằng em và nói rất nghiêm túc:
- Cái đó có ư nghĩa rất lớn đối với mày đấy. Đối với cả bọn
chúng tao nữa. Nghe tao đây, thằng nhóc…
Trận đánh với Lou Domenic tổ chức tại sân vận động Stillman vào
chiều thứ sáu và tất cả các bọn lớn đều đến đó - Frank Costells,
Joe Adonis, Albert Anastasia, Lucky Luciano và Meyer Lausky.
Chúng vui thích cho bọn trẻ đánh nhau, nhưng cái mà chúng c̣n
thích hơn là chúng t́m cách móc tiền của bọn nhóc.
Lou Domenic mới có mười bảy tuổi, lớn hơn Tony một tuổi và nặng
hơn năm pound(3) nhưng chưa đủ sức với tay nghề quyền anh và bản
chất giết người của Tony Rizzoli.
Trận đấu có năm hiệp. Hiệp một Tony rất thuận lợi. Hiệp hai cũng
thiên về nó. Và hiệp ba. Bọn trùm đă sẵn sàng đếm tiền.
- Bọn nhóc sắp nhớn để trở thành vô địch thế giới, - Lucky lầu
bầu. - Mày đă cá với hắn bao nhiêu?
- Mười lớn, - Frank Costello nhắc lại. - Số lẻ đẹp nhất tao muốn
đánh là mười năm một. Bọn nhóc đă nổi tiếng.
Và bất ngờ, điều không mong đợi đă đến. Ở giữa hiệp năm, Lou
Domenic đánh nốc-ao Rizzoli với cú móc trên.
Trọng tài bắt đầu đếm… rất chậm, nh́n thăm ḍ các khán giả mặt
trơ ra như đá.
- Đứng thẳng lên, thằng con hoang, - Joy Adonis hét lên. - Đứng
dậy và đánh đi!
Tiếp tục đếm, và mặc dù đếm chậm thế mà cuối cùng vẫn tới số
mười. Tony Rizzoli vẫn c̣n ngă trên dây, im lặng.
- Đồ chó đẻ. Một cú đấm may mắn?
Nhiều người bắt đầu cộng các khoản mất mát của ḿnh. Đó là cái
chính. Tony Rizzoh được Gino đưa vào buồng thay quần áo. Tony
nhắm nghiền mắt, sợ rằng họ không thấy được nó đă mê man và có
thể xảy ra điều ǵ khủng khiếp cho hắn.
Tony bắt đầu lấy lại sức, không đợi đến khi phải đưa về nhà an
toàn.
- Chúng ta đă được! - anh hắn kêu lên. - Mày có biết chúng ta
kiếm được bao nhiêu tiền không? Gần một ngàn đô la.
- Tôi không hiểu. Tôi…
- Tao đă vay tiền của bọn cho vay lăi để cá cho Domenic, và được
mười lăm một. Chúng ta giàu rồi.
- Chúng có bị điên không? - Tony hỏi.
Gino cười:
- Chúng không bao giờ biết.
Ngày hôm sau khi Tony Rizzoli vừa ở trường đi ra, có một chiếc
limousine dài đen đang đợi chỗ đường rẽ. Lucky Luciano ngồi sau
ghế. Hắn khoát tay ra hiệu cho thằng bé qua kính cửa xe:
- Lên xe đi.
Tim Tony Rizzoli bắt đầu đập.
- Tôi không thể. Ông Luciano, tôi đánh chậm quá…
- Lên xe đi.
Tony Rizzoli chui vào chiếc limousine. Lucky Luciano nói với
thằng lái xe:
- Đi quanh khu nhà này.
Lạy chúa nó không bị đưa đi bắn chết?
Luciano quay về phía thằng bé.
- Mày lặn ấy à, - hắn nói lạnh lùng.
Rizzoli chối.
- Không, thưa ngài. Tôi…
- Đừng có úm tao. Mày được bao nhiêu trong trận này?
- Chẳng được ǵ ạ, ông Luciano. Tôi…
- Tao muốn hỏi mày một lần nữa. Mày được bao nhiêu bằng cách lặn
đó?
Thằng bé do dự.
- Một ngh́n đô la.
Lucky Luciano cười.
- Đó chỉ để nuôi gà. Nhưng tao lại đoán là… mày bao nhiêu tuổi?
- Gần mười sáu ạ!
- Tao cho rằng một thằng mười sáu tuổi, như vậy không tồi đâu.
Mày biết mày đă làm tao và bạn tao mất nhiều tiền không.
- Tôi xin lỗi. Tôi!
- Thôi, quên đi. Mày là thằng bé can đảm đấy. Mày sẽ có tương
lai tốt.
- Xin cám ơn ông!
- Tao sẽ giữ kín chuyện này, Tony, hoặc bọn tao sẽ cắt hột của
mày và bắt mày ăn. Nhưng tao muốn mày đến gặp tao thứ hai này.
Mày và tao sẽ cùng làm việc.
Một tuần lễ sau, Tony Rizzoh đă làm việc cho Lucky Luciano.
Rizzoli bắt đầu bằng việc chạy số và rồi trở thành một thằng c̣
mồi. Nó rất lanh lợi và nhanh nhẹn và lúc này nó làm việc và
được nâng lên hàng thiếu uư của Luciano.
Khi Luciano bị bắt, bị kết án và bị bỏ tù, Tony vẫn c̣n ở trong
tổ chức của Luciano.
Các gia đ́nh đă đi vào con đường cờ bạc, cho vay nặng lăi đĩ
điếm hay bất cứ việc làm ăn ǵ để kiếm lời bất hợp pháp. Buôn
bán ma tuư thường là rất vất vả nhưng một số người vẫn cứ tham
gia, và các gia đ́nh bất đắc dĩ phải cho phép họ lập đường dây
buôn bán thuốc phiện của riêng họ.
Ư nghĩ đó trở thành một điều ám ảnh đối với Tony Rizzoh. Từ đó,
cái mà hắn đă thấy, những người buôn bán thuốc phiện th́ hoàn
toàn không có tổ chức. Tụi nó phải làm cho công việc của họ phải
chạy. Với trí óc suy xét và với sức lực của họ.
Hắn quyết định.
Tony Rizzoh không phải là một người lao vào việc ǵ cũng may
rủi. Hắn đă bắt đầu mọi việc bằng các kiến thức hắn có thể biết
được về heroin do đọc sách.
Heroin đă nhanh chóng trở thành vua của - các loại ma tuư.
Marifuana và cocain cũng là chất ma tuư mạnh, nhưng heroin tạo
một khoái cảm hoàn toàn, không đau đớn không nảy sinh vấn đề ǵ,
và không phải chữa chạy bệnh tật ǵ. Kẻ nào đă là nô lệ heroin
th́ chỉ muốn bán hết cái ǵ họ có, ăn cắp tất cả cái ǵ có thể
ăn cắp được và sẵn sàng phạm các tội ác. Heroin đă trở nên một
tôn giáo của họ, một lư lẽ cho sự tồn tại trên đời này của họ.
Thổ Nhĩ Kỳ là một trong những nơi trồng cây thuốc phiện lớn
nhất, từ cây đó lấy ra chất heroin.
Các Gia đ́nh này có quan hệ ở Thổ Nhĩ Kỳ do vậy Tony Rizzoli đă
có cuộc nói chuyện với Pete Lucca, một trong những tên cầm đầu.
- Tôi sẽ tham gia, - Rizzoli nói. Nhưng bất cứ việc ǵ tôi làm
đều là v́ Gia đ́nh. Tôi muốn ông biết vậy.
- Ông là một người giỏi, Tony.
- Tôi muốn sang Thổ Nhĩ Kỳ để xem việc đă xong chưa. Ông có thể
bố trí việc đó không?
- Ông già do dự. - Tôi sẽ nhắn họ. Nhưng họ không giống chúng
tôi, Tony ạ. Họ không có đạo đức ǵ cả. Họ là những con vật. Nếu
họ không tin ông, họ sẽ giết ông!
- Tôi sẽ phải thận trọng.
- Ông làm thế nhé.
Hai tuần sau, Tony Rizzói đă lên đường đi Thổ Nhĩ Kỳ.
Hắn đă đi đến các vùng Izmir, Afyon và Eskischir, các vùng trồng
cây thuốc phiện, và những phút đầu, hắn được chào mừng đầy vẻ
nghi ngờ. Hắn là người lạ, và những người lạ th́ không được đón
chào.
- Chúng ta sẽ có nhiều công việc làm ăn cùng nhau. - Rizzoli nói
vậy. - Tôi muốn xem qua một tư các cánh đồng thuốc phiện.
- Tôi chẳng biết ǵ cả, không thấy các ruộng trồng.
- Các anh đang lăng phí thời gian của các anh.
- Cút đi.
Nhưng Rizzoli đă quyết định. Gần sáu cú điện thoại và các điện
tín bằng cáp đă đánh đi để trao đổi. Cuối cùng, ở Kilis, biên
giới giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Sifei, hắn đă được phép xem các cây
thuốc phiện gặt về trại của Carella, một trong những tên chúa
đất lớn nhất.
- Tôi không hiểu ǵ, - Tony nói. - Làm sao các ông lấy được
heroin từ hoa thuốc phiện?
Một nhà khoa học mặc áo trắng giải thích cho anh về việc đó:
- Có mấy bước, ông Rozzoli ạ. Heroin được tổng hợp từ thuốc
phiện, bằng cách xử lư moóc-phin với axit axetic. Heroin lại lấy
từ mủ đặc biệt của cây thuốc phiện (poppy) gọi là Papaver
Sommferam, hoa của những giấc ngủ. Opium là tên từ tiếng Hy Lạp
là Opos, có nghĩa là nước quả.
- Rất hiểu ông!
Vào vụ thu hoạch, Tony lại được mời đến thăm lănh địa của
Carella. Mỗi một người trong họ Carella phải trang bị một "cozzi
licak" - dao cắt h́nh con dao mổ, để rạch một đường chính xác
vào cây.
Carella giải thích:
- Cây thuốc phải thu hoạch rất nhanh trong hai mươi bốn giờ đồng
hồ, nếu không cả vụ coi như vứt đi.
Có chín người trong gia đ́nh và mỗi người phải làm việc cật lực
mới đảm bảo đúng thời vụ được. Không khí ở đây chứa đầy khói gây
nên bệnh say ngủ.
Rizzoli cảm thấy người như ngây ngất.
- Cẩn thận! - Carella cảnh giác. - ông phải tỉnh táo. Nếu ông
nằm ở đây trên cánh đồng này, ông sẽ không bao giờ dậy được nữa.
V́ vậy ở đây các cửa sổ và cửa ra vào của các ngôi nhà được khép
rất kín hoặc đóng lại trong hai mươi bốn giờ một ngày, trong
suốt mùa thu hoạch.
Các cây thuốc phiện đă cắt về, Rizzoli xem, khi những nhựa trắng
nhờn nhờn được chuyển hoá từ moóc-phin thành heroin ở "pḥng thí
nghiệm" trên đồi.
- Thế, chính đây đấy à?
Carella lắc đầu.
- Không, ông bạn ạ. Đây chỉ là bước đầu Làm ra heroin là khâu dễ
nhất. Cái bí quyết là vận chuyển nó mà không bị bắt.
Tony Rizzoli cảm thấy trong người hắn như có một điều kích
thích. Đó là làm sao hắn lấy được cái kỹ thuật chuyên môn này.
Đến bây giờ, việc làm ăn này đều do bọn không có tŕnh độ làm.
Nay, hắn sẽ cho bọn chúng thấy một tay chuyên môn làm như thế
nào.
- Thế anh vận chuyển loại hàng này thế nào?
- Có nhiều cách. Xe tải, xe đ̣, tàu hoả, ô tô, ngựa lừa, lạc đà.
- Cả lạc đà?
- Chúng tôi tuồn heroin vào trong những cái túi tọng vào bụng
các con lạc đà - bọn kiểm soát chỉ có thể dùng máy ḍ kim loại
mới phát hiện ra được. V́ vậy chúng tôi đóng vào các túi cao su.
Đi đến đích chúng tôi sẽ mổ bụng con lạc đà. Vấn đề là đôi khi,
túi vỡ trong bụng lạc đà, khi ấy con vật lê được đến biên giới
như một tên say rượu. Nếu thế bọn kiểm soát có thể phát hiện ra!
- Các ông đi đường nào?
- Đôi khi heroin đi đường Aleppo, Beviut và Istanbul, và đưa đi
Marseilles. Đôi khi thuốc đi từ Istanbul tới Hy Lạp rồi chuyển
đi Sicita qua đảo Corsica, Morocco và qua Đại Tây Dương.
- Tôi đánh giá cao sự hợp tác của ông! - Rizzoli nói. - Tôi sẽ
bảo thằng bé của tôi. Tôi có một vấn đề khác muốn hỏi ông.
- Vâng!
- Tôi muốn được đi theo chuyến hàng tới.
Yên lặng một lúc lâu.
- Như thế sẽ rất nguy hiểm!
- Tôi coi đó là điều may mắn của tôi.
Trưa hôm sau, Tony Rizzoli được giới thiệu với một tên cướp
người to lớn, cồng kềnh, có bộ râu mượt và rậm, thân h́nh như
một cái thùng. Đây là ông Mustapha ở Afvon. Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ,
Afvon nghĩa là thuốc phiện. Mustapha là một trong những tay buôn
lậu khéo léo nhất của chúng tôi!
- Con người ta phải khéo léo. - Mustapha nói rất khiêm tốn - Có
nhiều nguy hiểm lắm.
- Nhưng đáng giá nhất là rủi ro, ề! - Tony Rizzoli ngắt lời
- Ông đang nói về tiền. - Mustapha nói vẻ trịnh trọng - Đối với
chúng tôi thuốc phiện c̣n hơn là tiền thu hoạch được.Có một điều
thần bí về cái đó. Thuốc phiện là một loại cây hơn cả lương thực
nữa. Nhựa trắng của cây này là thứ trời cho, nó là một thứ thuốc
thiên nhiên nếu dùng với liều lượng nhỏ. Thuốc có thể ăn được
hay trực tiếp bôi lên da, và nó sẽ chữa hầu hết các chứng bệnh
đau thông thường như đau dạ dày, cảm lạnh, sốt, đau đầu, vết
thương, bong gân. Nhưng phải rất cẩn thận. Nếu anh uống liều
cao, không những nó làm cảm giác của anh bị mờ, mà nó c̣n làm
anh mất hết năng lực về t́nh dục, và ở Thổ Nhĩ Kỳ, th́ không có
ǵ có thể phá hoại phẩm giá của họ mạnh hơn là sự bất lực của
họ.
- Đúng thế. Điều ǵ ông nói cũng đúng.
Hành tŕnh từ Afyon bắt đầu lúc nửa đêm. Một nhóm nông dân, đi
dọc theo hàng một qua đêm tối để hẹn gặp Mustapha. Các con la
chất đầy thuốc phiện, tới 350 kg, trên 700 pound buộc lên lưng
bảy con la lùn tịt. Mùi hăng hăng ngọt ngọt của thuốc phiện, như
là cỏ khô bị ẩm, bốc lên xung quanh những người đi theo. Đó là
mười hai nông dân đi để bảo vệ thuốc phiện khi vận chuyển cùng
Mustapha. Mỗi nông dân trang bị súng trường.
- Những ngày này chúng ta phải cẩn thận. - Mustapha nói với
Rizzoli. - Chúng tôi có Cảnh sát quốc tế và nhiều cảnh binh bảo
vệ. Ngày trước c̣n nực cười hơn. Chúng tôi thường xuyên chở
thuốc phiện qua làng xóm hay thành phố trong các ḥm phủ vải
đen. Nó làm động ḷng khi gặp nhân dân và cảnh sát trên đường
phố, làm họ phải bỏ mũ và chào rất kính cẩn một quan tài thuốc
phiện đi qua!
Tỉnh Afyon nằm ở giữa phần ba miền tây của Thổ Nhĩ Kỳ dưới chân
núi Sultan, trên một cao nguyên, xa lánh và cách ly hẳn với
thành phố của nước này.
- Mảnh đất này rất tốt cho công việc của chúng tôi! - Mustapha
nói - Chúng tôi t́m ra nó không dễ dàng ǵ.
Các con la di chuyển chậm chạp qua những ngọn núi hoang vu, vào
lúc nửa đêm, ba ngày sau, đă tới biên giới Thổ Nhĩ Kỳ và Syri. Ở
đó họ gặp một người đàn bà mặc đồ đen. Bà ta đang dắt một con
ngựa chở một túi vôi bột vô hại, và một sợi dây gai, buộc rất
lỏng vào yên ngựa. Sợi dây ḷng tḥng sau con ngựa, nhưng không
chạm mặt đất.
Đó là một sợi dây dài khoảng 200 feet. Đầu dây do Mustapha cầm
và tiếp theo là mười lăm người ông thuê đi sau ông ta. Họ như
thu ḿnh lại, lưng uốn gập gần mặt đất một tay cầm sợi dây, tay
kia giữ chặt lấy túi vải đầy thuốc phiện. Mỗi túi nặng ba mươi
nhăm pound.
Người đàn bà và con ngựa đi dọc theo một con đường gài bẫy vụng
về bằng ḿn chống - cá nhân, nhưng đó là một con đường đă được
dọn sạch ḿn bởi một đàn cừu đă đi qua khu vực này trước đây.
Nếu sợi dây rơi xuống đất, dây chùng xuống làm tín hiệu cho
Mustapha và các người khác là có lính ở đằng trước. Nếu người
đàn bà bị bắt giữ để hỏi han ǵ đó, th́ những tay buôn lậu sẽ an
toàn đi lên phía trước vượt qua biên giới.
Họ đă đi qua Kilis, điểm biên giới, chỗ này ḿn rất dày đặc. Một
khi đă đi qua được khu vực có lính kiểm soát, những tay buôn lậu
sẽ đi tới khu vực ba dặm vuông, đến khi tới nơi hẹn, ở đó họ
được một tay buôn lậu ở Siry đón.
Họ để các túi thuốc phiện xuống đất, và được tặng một chai rượu
raki và những người này chuyền tay nhau uống.
Rizzoli nh́n kỹ họ cân, xếp lại và buộc an toàn lên những cái
lưng vơng của mười hai con lừa Syri bẩn thỉu. Công việc thế là
xong.
- Được Rizzoli nghĩ, bây giờ ta hăy xem bọn Thailand làm cái đó
như thế nào.
Chặng đường tới của Rizzoli là Bangkoc, khi người ta đă biết anh
thành thật, anh được phép xuống một tàu đánh cá Thái, tàu này
chở những thuốc phiện gói trong những túi polyethylen, rồi đút
vào những thùng xăng trống rỗng có những ṿng đai gắn trên nắp.
Khi tàu đến gần Hongkong, nọ ném những thùng này theo hàng lối
gọn gàng ở chỗ nước nông quanh Lima và các ḥn đảo Ladrone, ở đó
đối với các tàu đánh cá Hongkong th́ rất đơn giản là nhặt lên
bằng những cái móc.
- Không tồi - Rizzoli nói - nhưng có cách khác hay hơn.
Các người trổng cây thuốc phiện gọi là heroin là - H - và Ngựa,
- nhưng đối với Tony Rizzoh, heroin là vàng.
Lợi nhuận thu được làm choáng váng con người. Người nông dân
trồng cây thuốc phiện làm nguyên liệu, được trả ba trăm năm mươi
đô la cho mười cân, nhưng vào thời gian thuốc phiện được chế
biến và bán trên các đường phố New York, giá trị nó được tăng
lên thêm hai trăm năm mươi đô la.
Điều đó dễ quá, Rizzoli nghĩ Carella đúng. Cái chính là làm sao
không bị bắt.
Điều đó đă xảy ra ở giai đoạn đầu, mười năm trước đây Nhưng bây
giờ, khó khăn hơn nhiều. Interpol, lực lượng cảnh sát quốc tế,
vừa qua đă coi buôn lậu thuốc phiện là loại tội phạm đứng đầu
bảng của họ. Tất cả các loại tàu rồi các cảng chính có buôn lậu,
ngay cả khi có người chỉ bị nghi ngờ rất ít cũng bị cho lên bờ
và khám xét.
Chính v́ vậy nên Rizzoli đến gặp Spyros Lambrous. Đội tàu của
ông lúc này chưa bị nghi ngờ. Chẳng lẽ cảnh sát lại khám mỗi một
cái trong các tàu chở hàng này. Nhưng cái thằng con hoang lại
quật hắn xuống. Ta phải t́m cách khác, Tony Rizzoli nghĩ. Nhưng
phải làm nhanh.
- Catherine - Tôi có làm phiền cô không?
Lúc đó là nửa đêm.
- Không - Costa. Nghe tiếng nói của ông rất thích.
- Mọi việc tốt đẹp cả chứ?
- Vâng ạ, cám ơn ông. Tôi thực rất thích công việc của tôi.
- Tốt. Tôi sẽ sang London sau mấy tuần nữa. Tôi mong được gặp
cô.
Cẩn thận đấy. Đừng đẩy quá nhanh.
- Tôi muốn trao đổi với một số người của Công ty.
- Tốt quá!
- Ngủ ngon nhé.
- Chúc ông ngủ ngon.
Lần này nàng gọi điện cho ông.
- Costa - Tôi không biết nói thế nào. Cái ṿng đó rất đẹp. Ông
không nên…
- Đó chỉ là một kỷ niệm nhỏ thôi, Catherine à. Evenlyn nói với
tôi cô đă giúp bà ta nhiều lắm. Tôi chỉ muốn thể hiện sự đánh
giá của tôi.
Dễ thôi, Denmiris nghĩ. Quà tặng nhỏ và có chút nịnh nọt.
Sau đó: Vợ tôi và tôi sẽ ly thân.
Rồi đến một giai đoạn - tôi sẽ ở một ḿnh!
Một cuộc nói chuyện bóng gió về cưới xin và mời đi thuyền ra đảo
của ông. Các công việc theo lề lối đó không bao giờ bị thất bại.
Nó sẽ đặc biệt khêu gợi. Denmiris nghĩ, bởi sẽ kết thúc khác
nhau. Cô ta sẽ phải chết.
Ông gọi điện cho Napoleon Chotas. Luật sư rất vui vẻ nghe ông
nói.
- Đợi một tư, Costa. Mọi việc đều tốt đẹp cả chứ?
- Vâng, cám ơn. Tôi cần một đặc ân đây!
- Tất nhiên.
- Noelle Page có một cái vi la nhỏ ở Rafina. Tôi muốn ông mua
cho tôi cái đó, dưới tên một người nào đó.
- Nhất định phải thế. Tôi sẽ cho một trong các luật sư ở văn
pḥng của tôi…
- Tôi muốn ông giải quyết việc đó chỉ có tính chất cá nhân.
Napoleon Chotas ngồi đó, nh́n chăm chăm vào máy điện thoại. Cái
villa là tổ ấm đáng yêu nhất mà Noelle Page và Larry Douglas đă
thực hiện các việc của họ. Sao Constantin Denmiris lại muốn cái
villa này?
----------------
Chú thích:
(1) 100 ft = 30,48 m
(2) 150 ft = 45,72 m
(3) 1 pound = 0,4536 kg
Chương 7
Toà án Asakion ở giữa Anthens là một building lớn xây
bằng đá màu xám, chiếm cả một khu ô vuông ở giữa phố Đại học và
phố Strada, Ngoài ba mươi pḥng xử án trong building, chỉ có ba
pḥng dành cho các vụ xử h́nh sự: đó là pḥng 21, 30 và 33.
V́ vụ án giết người của Anastasia Savalas đă gây ra sự chú ư quá
lớn, nên phải làm ở pḥng 33. Pḥng xử án này rộng mươi bộ, dài
ba trăm bộ, và các ghế ngồi chia làm ba khu vực cách nhau sáu
bộ, mỗi hàng ghế có chín ghế dài bằng gỗ.
Phía trước pḥng xử là một cái bục cao, trên là bàn của các vị
quan toà chủ toạ bằng gỗ dán nhựa cao su sáu bộ, với những ghế
có tựa cao cho ba quan toà chủ toạ.
Phía trước là chỗ đứng của các người làm chứng, đặt trên một cái
bục thấp hơn, có gắn một cái đèn đọc sách, phía bên kia sát
tường là chỗ của đoàn hội thẩm hiện có mười thẩm phán. Trước chỗ
ngồi của các bị cáo là bàn của các luật sư.
Vụ án giết người với tính chất của nó, đă là đủ đặc biệt, nhưng
pḥng kháng án mà công việc là bảo vệ bị cáo do Napoleon Chotas
điều khiển, Napoleon Chotas là một trong những luật sư h́nh sự
nổi tiếng trên thế giới. Chotas chỉ tham gia xét sử các vụ giết
người, và ông đă có những thành tích đáng kể về thành công. Các
chi phí ông lấy, người ta đồn là hàng triệu đô la. Napoleon
Chotas là một người gầy, trông hốc hác, với đôi mắt to và buồn
như đôi mắt mật thám trên một khuôn mặt nhăn nheo. Ông ăn mặc
xuềng xoàng, dáng vẻ bề ngoài của ông không gây cho người khác
một chút ǵ là tin tưởng. Nhưng đằng sau cái vẻ lờ mờ đó là một
trí thông minh, sắc sảo nổi bật.
Báo chí đă đưa ra những ư kiến tỏ ư ngạc nhiên v́ sao Napoleon
Chotas lại đồng ư bảo vệ người đàn bà trong vụ án này. Không thể
có cách nào, ông khó có thể thắng được trong vụ này. Người ta
cũng đánh cuộc nhau rằng đây sẽ là thất bại đầu tiên của Chotas.
Peter Demomdes, công tố ủy viên, trước đây cũng đă có lần chống
lại Chotas, và do vậy, ông ta không bao giờ chấp nhận việc ấy,
ngay cả đối với bản thân ḿnh, ông lại rất ngại tŕnh độ của
Chotas. Tuy vậy, lần này Demonides cảm thấy rằng ông chẳng phải
lo lắng ǵ cả. V́ đă từng có vụ giết người cổ điển rơ rành rành,
th́ vụ Anastasia Savalas là một vụ như vậy.
Các sự việc như sau: Anastasia Savalas là một phụ nữ trẻ xinh
đẹp, đă có chồng là một người đàn ông giàu có - Georges Savalas,
ông này hơn vợ ba mươi tuổi. Anastasia đă có dính líu với người
lái xe trẻ, Josef Pappas, và theo người làm chứng cho biết,
chồng cô đă quyết định ly dị Anastasia và đă viết di chúc nhưng
lại gạt cô ra. Vào đêm án mạng, cô đă cho các đầy tớ nghỉ việc
để chuẩn bị cơm tối cho chồng.
Georges Savalas lại bị cảm lạnh từ trước đó. Khi ăn tối, ông đă
bị một cơn ho. Vợ ông đă mang cho ông chai thuốc ho của ông.
Savalas đă uống hết một ngụm và chết.
Một vụ rơ rành rành.
Từ sáng sớm, pḥng xử số 33 chật ních khán giả.
Anastasia Savalas ngồi ở bàn bị cáo, mặc một cái váy đen đơn
giản và mặc một cái áo bờ lu, không đeo trang sức và rất ít phấn
sáp. Cô ta đẹp đến mức có thể làm choáng váng người khác.
Công tố viên, Peter Demonides phát biểu trước đoàn hội thẩm:
- Thưa quư ông, quư bà. Đôi khi trong một vụ giết người, việc
xét xử phải mất hai hay ba bốn tháng. Nhưng tôi nghĩ rằng các
quí vị sẽ phải phiền ḷng nếu lưu tại đây một thời gian lâu như
vậy. Khi quư vị nghe các sự việc trong vụ này, tôi chắc chắn các
vị cũng đồng ư không cần hỏi han ǵ và chỉ cần một lời phán
quyết - giết người ở mức độ sơ đẳng. Nhà nước sẽ chuẩn y bị cáo
cố t́nh giết chồng ḿnh bởi v́ người chồng đe doạ ly dị vợ khi
ông phát hiện người vợ có ngoại t́nh với người lái xe riêng của
gia đ́nh. Chúng tôi cũng xét thấy bị cáo có động cơ, có cơ hội
và phương tiện để thực hiện ư đồ tàn ác của ḿnh. Xin cám ơn. -
Ông trở về chỗ ngồi.
Chánh án quay về phía Chotas.
- Bào chữa có chuẩn bị bài diễn văn khai mạc cho buổi xử án này
không đấy?
Napoleon Chotas đứng lên từ từ:
- Vâng, thưa ngài đáng kính. - Ông tiến đến gần chỗ ngồi của
đoàn hội thẩm với dáng đi không chắc chắn và lờ đờ. Ông cứ đứng
đó, lim dim mắt nh́n họ, và khi ông nói, cứ như là ông nói với
chính ḿnh. - Tôi đă sống khá lâu rồi, tôi đă thấy rằng không có
ai kể cả đàn ông và đàn bà có thể giấu được tính độc ác của
ḿnh. Điều đó thể hiện rất rơ. Một nhà thơ có lần nói rằng con
mắt là cửa sổ của tâm hồn. Tôi cho rằng câu đó đúng. Tôi muốn
quư vị, quư ông và quư bà hăy nh́n vào con mắt của bị cáo. Trong
trái tim của bà ta, bà ta không thể t́m ra cách nào đó để giết
một ai. - Napoleon Chotas đứng đó một lát như thế để cố nghĩ ra
cách nói, nhưng rồi lại ngồi xuống.
Peter Demonides, một ư nghĩ chiến thắng chợt nẩy ra trong đầu.
Lạy chúa. Đây là câu mở đầu ư tứ nhất trong đời mà tôi được nghe
thấy! Ông già này để mất hết rồi.
- Công tố ủy viên có chuẩn bị ǵ để gọi người làm chứng thứ nhất
không?
- Vâng, thưa ngài đáng kính. Tôi xin gọi Rosa Lykourgos!
Một người phụ nữ đă đứng tuổi, dáng vẻ nặng nề đứng lên ở bàn
khán giả và đi nhanh có vẻ quả quyết lên trước pḥng xử án. Bà
đă thề.
- Bà Lykourgos, bà làm nghề ǵ?
- Tôi làm quản gia… - Tiếng bà bị nghẹn lại - Tôi làm quản gia
cho ông Savalas!
- Vâng, thưa ngài.
- Và xin bà nói cho biết đă làm cho ông Savalas được bao lâu
rồi?
- Hai mươi lăm năm.
- Ái chà, lâu đấy. Bà có quư ông chủ của bà không?
- Ông ta là thánh.
- Thế khi ông Savalas lấy vợ lần thứ nhất, bà đă làm cho ông ấy
rồi chứ?
- Vâng, thưa ngài, khi vợ ông ấy chết, tôi đă ở bên mộ cùng ông
ấy.
- Nếu nói rằng họ có quan hệ với nhau rất tốt, có đúng không?
- Họ đă yêu nhau say đắm.
Peter Demonides nh́n về phía Napoleon Chotas, xem ông có phản
đối ǵ không khi thẩm vấn. Nhưng Chotas vẫn ngồi yên trên ghế,
trông như chẳng có ǵ nghĩ ngợi.
- Bà có làm việc cho ông Savalas trong thời gian ông đă lấy vợ
thứ hai, Anastasia Savalas? - Peter Demonides tiếp tục.
- Ồ, có thưa ngài. Chắc chắn là có. - Bà bật những lời nói đó
như không cần suy nghĩ.
- Có phải bà muốn nói rằng đó là cuộc hôn nhân hạnh phúc?
Lại một lần nữa, ông nh́n sang Napoleon Chotas, nhưng không thấy
phản ứng.
- Hạnh phúc à? Không thưa ngài. Họ đánh nhau như chó với mèo.
- Bà có làm chứng lần nào họ đánh nhau không?
- Một người như tôi chẳng có thể làm chứng ǵ được. Các ông có
thể nghe thấy họ căi nhau, cả nhà nghe thấy - và nhà th́ to lắm.
- Tôi cho rằng những xô xát đó chỉ là lời ra tiếng vào, hơn là
những xô xát thể xác? Có nghĩa là ông Savalas có bao giờ đánh vợ
không?
- Ồ, xô xát đánh nhau đấy chứ. Nhưng không như ông nói, chính bà
ấy đánh ông ấy. Ông Savalas phải đi làm ăn suốt năm, và con
người tội nghiệp đó ngày càng yếu đuối.
- Bà đă nh́n thấy bà Savalas đánh chồng chưa?
- Nhiều lần rồi chứ. - Người làm chứng nh́n sang bà Anastasia
Savalas và trong giọng nói của bà tỏ ra thoả măn lắm.
- Bà Lykourgis, vào cái đêm ông Savalas chết, có những người nào
trong số các người giúp việc đang làm việc trong nhà?
- Trong chúng tôi chẳng có ai cả?
Peter Demonides làm cho giọng nói tỏ ra sửng sốt.
- Ư bà nói trong một ngôi nhà mà theo bà rất rộng, lúc đó lại
không có ai cả sao? Thế ông Savalas có người đầu bếp, hay người
đầy tớ… hầu bàn chẳng hạn…?
- Ồ, vâng, thưa ông. Ở nhà có đủ cả những người đó.
- Nhưng bà đă nói với mọi người đêm nay cho mọi người nghỉ. Bà
ấy đă nói bà muốn nấu ăn cho chồng bà. Cứ như tuần trăng mật thứ
hai. - Nhận xét cuối cùng bà vừa nói vừa x́ mũi.
- Thế là Bà Savalas đă đuổi mọi người?
Lần này ông chánh án nh́n sang Napoleon Chotas, đợi xem ông này
có phản đối không? Nhưng vị luật sư ngồi đó như bận rộn cái ǵ
không để ư.
Ông chánh án quay sang Demonides:
- Công tố ủy viên không nên gợi ư cho người làm chứng.
- Tôi xin lỗi, thưa Ngài. Tôi xin lặp lại câu hỏi.
Demonides đến gẩn bà Lykourgos.
- Điều bà đă nói tức là vào đêm mà mọi người là những người giúp
việc đến nhà, bà Savalas ra lệnh cho mọi người về để bà có thể ở
với chồng một ḿnh?
- Vâng, thưa ngài. Và người đàn ông đáng thương đó bị cảm lạnh.
- Thế bà Savalas có thường hay nấu ăn tối cho chồng bà không?
Bà Lykourgos xỉ mũi.
- Ê. Không, thưa ngài. Không phải là bà thường nấu ăn. Bà ta
chẳng bao giờ nhúng tay vào việc nhà bao giờ!
Và Napoleon vẫn ngồi đó, lắng nghe như thể ông chỉ là khán giả
thôi.
- Cám ơn, Bà Lykourgos. Những lời bà nói giúp chúng tôi rất
nhiều.
Peter Demomdes quay sang Chotas, cố giấu sự thoả măn của ḿnh.
Những lời làm chứng của bà Lykourgos đă có tác dụng rơ rệt với
bồi thẩm đoàn. Họ đang đưa mắt nh́n vẻ không tán thành bị cáo.
Để xem lăo già cố xoay sở thế nào về những lời đó.
- Chứng cứ của ông.
Napoleon ngước nh́n lên.
- Cái ǵ? Ồ. Không có câu hỏi.
Chánh án nh́n ông tỏ ngạc nhiên.
- Ông Chotas… ông không muốn lật ngược những chứng cứ này?
Napoleon Chotas đứng lên.
- Không, thưa Ngài đáng kính. Bà ta dường như là một người phụ
nữ ttung thực hoàn toàn. - Ông lại ngồi xuống.
Peter Demonides không thể tin được cái may mắn tốt đẹp cho ḿnh.
Lạy chúa, ông nghĩ hắn cũng không gây ra tranh luận ǵ. Lăo già
như thế là hết nước. Demomdes đang tận hưởng thắng lợi của ḿnh.
Chánh án quay sang công tố viên.
- Ông có thể gọi người làm chứng tiếp.
- Nhà nước muốn gọi Josef Pappas.
Một thanh niên cao, đẹp trai, tóc màu sẫm đứng dậy khỏi ghế khán
giả và đi về phía bục người làm chứng.
Anh ta đă thề.
Peter Demonides bắt đầu.
- Ông Pappas, xin ông nói cho toà biết nghề của ông?
- Tôi là tài xế.
- Ông có được mướn làm việc lúc đó không?
- Không?
- Nhưng ông vẫn mướn đến gần đây cơ mà. Nghĩa là, ông vẫn được
mướn cho đến lúc xảy ra cái chết của ông Georges Savalas?
- Đúng thế ạ!
- Ông đă làm việc cho gia đ́nh Savalas bao lâu rồi?
- Hơn một năm một chút ạ!
- Thế công việc có dễ chịu không?
Josef Pappas để mắt nh́n ông Chotas, đợi ông đến cứu anh ta. Chỉ
thấy yên lặng.
- Công việc có dễ chịu không, ông Pappas?
- Cũng được ạ, tôi cho là thế.
- Lương có khá không?
- Có ạ!
- Rồi, ư ông muốn nói việc làm cũng được phải không? Nghĩa là có
thêm những khoản ngoài lương không? Ông có ăn nằm thường xuyên
với và Savalas không?
Josef Pappas nh́n về phía Napoleon nhờ giúp đỡ. Nhưng không có ư
kiến ǵ của ông ta cả.
- Tôi… Vâng, thưa ngài. Tôi cho là có ạ!
Peter Demonides thản nhiên với việc Pappas thừa nhận cái xấu xa
đó cho ḿnh.
- Anh cho là có? Anh đă thề. Hoặc là anh đă tằng tịu với bà ấy
hay là anh không. Một trong hai cái?
Pappas, đứng cựa quậy khó nói:
- Chúng tôi đă có tằng tịu!
- Vậy ngay khi anh nói anh đang làm việc cho chồng bà ta - được
trả lương hậu hĩnh, và cũng sống dưới mái nhà ông ấy?
- Vâng, thưa ngài.
- Điều đó không làm anh phiền ḷng à, nhận được lương của ông ta
trả hàng tuần, trong khi đó anh vẫn tằng tịu với vợ ông ta?
- Dạ, đó không phải là tằng tịu.
Peter Demonides giương cái bẫy rất cẩn thận:
- Đó không phải là sự tằng tịu? Thế anh cho là cái ǵ. Tôi e
rằng anh không hiểu.
- Tôi cho rằng - tôi và Anastasia đang chuẩn bị kết hôn!
Trong pḥng xử án có tiếng x́ xào ngạc nhiên.
Các thẩm phán đang nh́n về phía bị cáo.
- Cái việc kết hôn là ư anh hay ư bà Savalas?
- Dạ, cả hai chúng tôi đều muốn thế ạ.
- Ai đề xuất điều đó?
- Tôi cho rằng bà ấy ạ. - Anh ta quay sang xem Anastasia Savalas
ngồi ở chỗ nào. Khỉ quay lại anh ta chẳng có biểu hiện ǵ là xót
xa cả.
- Nói thật, ông Pappas, tôi rối cả đầu lên. Sao anh lại mong đợi
kết hôn? Bà Savalas đă có chồng, có phải không nhỉ? Vậy anh định
đợi ông ta chết già à? Hay đợi ông ta bị tai nạn chết hay đại
loại như thế? Chính xác trong đầu anh, anh có ư định ǵ?
Các câu hỏi này quá khích nên công tố ủy viên, ba luật sư nh́n
về phía ông Napoleon Chotas, đợi ông nổ ra lời phản đối. Nhưng
vị luật sư bào chữa này đang c̣n bận rộn ghi chép vớ vẩn, chẳng
chú ư ǵ cả.
Anastasia Savalas cũng thế, bắt đầu nh́n có vẻ quan tâm.
Peter Demonides nhấn mạnh lợi thế của ông:
- Ông không trả lời câu hỏi của tôi à, ông Josef Pappas?
Josef Pappas cử động tỏ vẻ khó chịu.
- Tôi không biết chính xác như vậy.
Giọng nói của Peter Demonides cứ như sợi dây thắt lại.
- Để tôi nói với anh, một cách chính xác. Bà Savalas định giết
chồng bà để đưa ông ta ra ngoài cuộc. Bà ta đă biết rằng ông ấy
chuẩn bị ly dị bà và không đưa bà vào di chúc của ông, và như
vậy bà bị bỏ rơi chẳng được ǵ cả. Bà…
- Phản đối! -Tiếng đó không phải do Napoleon Chotas nói mà là
chánh án. - Ông đang hỏi các người làm chứng để quyết định à?
Ông chánh án nh́n về phía Napoleon Chotas, sửng sốt về sự im
lặng của ông luật sư này. Ông đang ngồi lùi ra sau ghế, đôi mắt
như nửa nhắm nửa mở.
- Xin lỗi, thưa ngài đáng kính. - Nhưng anh ta đă biết anh làm
điều đó. Peter Demonides quay về phía Chotas.
- Chứng cứ của ông.
Napoleon đứng dậy.
- Xin cám ơn, ông Demonides, không có câu hỏi.
Cả ba quan toà quay nh́n nhau, đều không hiểu nổi.
Một người nói to lên:
- Ông Chotas, ông biết rằng đó là cơ hội của ông để kiểm tra
chéo lời làm chứng này?
Napoleon Chotas cứ như không biết.
- Vâng, thưa ngài đáng kính.
- Về mặt làm chứng, ông không muốn hỏi anh ta câu hỏi nào cả à?
Napoleon Chotas khoát tay lên không khí và nói lờ mờ:
- Không, thưa ngài đáng kính!
Vị quan toà thở dài:
- Thôi được. Đề nghị công tố ủy viên gọi người làm chứng tiếp.
Người làm chứng tiếp là Mihahs Haritonides đă thề xong, công tố
ủy viên hỏi:
- Xin ông cho toà biết nghề nghiệp của ông, xin mời?
- Vâng, thưa ngài. Tôi là quản lư khách sạn.
- Xin ông nói cho chúng tôi biết tên khách sạn?
- The Argos.
- Và khách sạn có địa điểm ở đâu?
- Ở Corfu.
- Tôi sắp hỏi ông, ông Haritonides, có ai trong pḥng xử này đă
có lần lưu tại khách sạn của ông không?
Haritonides nh́n xung quanh và nói:
- Vâng, thưa ngài. Nó và bà ấy.
- Và họ ở lại đêm, cả hai trong cùng một buồng chứ?
- Vâng, thưa ngài. Họ thường đến vào cuối tuần.
- Cám ơn, ông Haritomdes. - Ông nh́n Napoleon Chotas. - Chứng cứ
của ông.
- Không có câu hỏi!
Chánh án quay lại hai vị quan toà, và họ th́ thầm với nhau một
lát.
Chánh án nh́n về Napoleon Chotas.
- Ông không có câu hỏi đối với người làm chứng này, ông Chotas?
- Không thưa ngài đáng kính. Tôi tin những lời làm chứng này. Đó
là một khách sạn đẹp. Bản thân tôi đă ở đấy.
Chánh án lại nh́n chằm chằm vào Napoleon Chotas một lúc lâu. Rồi
ông quay sang công tố ủy viên.
- Nhà nước muốn gọi người làm chứng tiếp. Nhà nước muốn gọi bác
sĩ Vamilis Frangescos!
Một người đàn ông cao, dáng vẻ đặc biệt, đứng dậy và đi về phía
bàn nhân chứng. Ông đă thề xong.
- Bác sĩ Frangescos, xin ông làm ơn nói với Toà ông làm nghề
thầy thuốc về ǵ?
- Tôi là người hành nghề bác sĩ đa khoa.
- Có phải tương đương với bác sĩ gia đ́nh?
- Đó là cách gọi khác, vâng.
- Ông đă hành nghề được bao lâu rồi, bác sĩ?
- Gần ba mươi năm.
- Tất nhiên, ông được nhà nước cấp bằng chứ?
- Tất nhiên!
- Bác sĩ Frangescos, Georges Savalas có phải là bệnh nhân của
ông?
- Vâng, đúng thế ạ!
- Khoảng thời gian nào?
- Hơn mười năm một chút!
- Và ông có chữa cho ông Savalas về một bệnh ǵ đặc biệt không?
- Vâng ạ, lần đầu tiên, ông đến tôi v́ có bệnh huyết áp.
- Và ông đă chữa bệnh đó.
- Vâng!
- Nhưng sau đó, ông có gặp ông ta không?
- Có ạ. Đôi lúc, ông ấy có đến gặp tôi - khi ông bị viêm cuống
phổi, hay đau mật - nhưng không có ǵ là nặng cả.
- Lẩn cuối cùng, ông gặp ông Savalas là bao giờ?
- Tháng mười hai năm ngoái.
- Nghĩa là trước khi ông ấy chết không lâu.
- Đúng vậy.
Ông ta có đến văn pḥng của ông không, bác sĩ?
- Không. Tôi đến thăm ông ở nhà riêng của ông.
- Thế ông có hay gọi điện thoại không?
- Ít lắm!
- Nhưng trường hợp này là một ngoại lệ.
- Vâng!
- V́ sao?
Bác sĩ do dự.
- Vâng, ông ấy không được khỏe để đến văn pḥng của tôi.
- Thế ông ấy bị làm sao?
- Ông ấy bị mấy vết rách da, một số xương sườn bị dập, và bị
chấn thương sọ năo!
- Ông ấy có bị tai nạn ǵ không?
Bác sĩ do dự.
- Không. Ông ấy nói với tôi, ông ấy bị vợ đánh.
Trong pḥng xét xử, có tiếng ngáp nghe rất rơ.
Chánh án tức giận nói:
- Ông Chotas, ông có muốn phản đối việc ghi lại tất cả lời chứng
như đă nghe nói không?
Napoleon Chotas nh́n lên và nói rất ôn tồn.
- Ồ, cám ơn. Thưa ngài đáng kính. Vâng, tôi phản đối.
Nhưng tất nhiên, lại đă ghi cả rồi.
Các thẩm phán hiện đang nh́n bị cáo với vẻ hằn thù ra mặt.
- Cám ơn, Bác sĩ Frangescos. Không c̣n hỏi ǵ nữa chứ.
Peter Demonides quay sang Chotas và nói vẻ tự thoả măn.
- Chứng cứ của ông!
- Không có câu hỏi!
Rồi đến hàng loạt người làm chứng: một người đầy tớ chứng nhận
là bà đă trông thấy Bà Savalas nhiều lần đi vào khu ở của người
lái xe… người hầu bàn chứng nhận là đă nghe thấy Georges Savalas
đe doạ vợ ly dị, và thay đổi di chúc… Các hàng xóm đă nghe thấy
căi nhau ồn ào giữa những người trong nhà Savalas…
Và Napoleon Chotas vẫn không hỏi ǵ bất cứ người làm chứng nào.
Cái lưới đă vây chặt lấy Anastasia Savalas.
Peter Demomdes có thể cảm thấy thắng lợi đến tay rồi.
Trong đầu ông, ông có thể thấy trước được những ḍng tít trên
các báo. Vụ này là vụ xử giết người nhanh nhất trong lịch sử.
Vụ xử án này có thể kết thúc hôm nay, ông nghĩ. Luật sư nổi
tiếng Napoleon Chotas là người bị thất bại.
- Tôi xin gọi ông Niko Mentakis lên bục.
Mentakis là một người c̣n trẻ, gầy, nghiêm túc, có cách nói chậm
răi và cẩn thận.
- Ông Mentakis, xin ông cho Toà biết nghề nghiệp của ông?
- Vâng, thưa ngài. Tôi làm việc ở một trại nuôi dưỡng.
- Ông chăm sóc các cháu bé?
- Ồ không, thưa ngài. Không phải là trại nuôi dưỡng đó. Ở chỗ
chúng tôi có cây, và hoa, và tất cả các loại thảo mộc.
- Ồ, tôi hiểu. Vậy ông là chuyên gia về trồng cây chứ?
- Tôi có thể là thế. Tôi đă làm việc này từ lâu.
- Và tôi cho rằng một phần công việc của ông là phải đảm bảo
rằng các loại thảo mộc ông có thể bán phải sống xanh tốt chứ?
- Ồ vâng, thưa ngài. Chúng tôi chăm sóc những cây đó rất tốt.
Tôi không bao giờ bán các loại cây ốm yếu cho khách thường
xuyên.
- Do vậy, ư ông nói, khách hàng cũng là các khách vẫn đến mua
thường xuyên.
- Vâng thưa ngài - Giọng ông nói tỏ vẻ tự hào - chúng tôi phục
vụ rất tốt.
- Nói cho tôi biết, ông Mentakis. Bà Savalas có phải là một
trong những khách hàng thường xuyên của ông.
- Ồ, vâng, thưa ngài. Bà Savalas rất yêu cây và hoa.
Chánh án sốt ruột nói:
- Ông Demonides, toà không cảm thấy rằng cách thẩm vấn này là
thích đáng. Xin ông chuyển sang cách khác đi, hay…
- Nếu toà cho tôi kết thúc, thưa ngài đáng kính, người làm chứng
này rất quan trọng trong vụ này.
Chánh án nh́n sang Napoleon Chotas.
- Ông Chotas, ông có phản đối ǵ cách hỏi này không?
Napoleon Chotas đứng lên và nói như không để ư.
- Cái ǵ? Không, thưa ngài đáng kính.
Chánh án nh́n vào ông rơ ư thất vọng, và rồi quay sang Peter
Demonides.
- Được lắm. Ông tiếp tục đi.
- Ông Mentakis, Bà Savalas có đến chỗ ông vào một ngày trong
tháng mười hai và bảo ông rằng một số cây của bà ấy có vấn đề?
- Vâng, thưa ngài. Bà ấy có đến.
- Thực ra, bà ấy không nói rằng có sâu bệnh phá hoại các cây của
bà?
- Vâng, thưa ngài.
- Và bà ấy có yêu cầu ông đưa một chất ǵ đó để đuổi các con sâu
đó không?
- Vâng, thưa ngài.
- Ông có thể nói cho toà biết đó là chất ǵ không?
- Tôi bán cho bà ta một ít antimoan.
- Và ông có thể nói cho toà chính xác là chất ǵ không?
- Nó là một chất độc, như arsenic.
Trong pḥng xử án có tiếng ồ rộ lên.
Chánh án gơ mạnh búa.
- Nếu c̣n có ồn ào nữa, tôi sẽ ra lệnh cho các mơ toà đ́nh chỉ
phiên toà. Ông quay sang Peter Demonides.
- Ông có thể tiếp tục thẩm vấn.
- Như vậy là ông đă bán cho bà ta một liều lượng antimoan!
- Vâng, thưa ngài!
- Và ông nói chất độc đó có thể làm chết người được không? Ông
đă so sánh chất đó với arsenic.
- Ồ, vâng, thưa ngài. Chất đó độc chết người được, thật ạ!
- Và ông có ghi vào sổ bán ra khi bán không, v́ luật yêu cầu ông
khi ông bán chất ǵ độc, ông phải ghi sổ?
- Vâng, thưa ngài.
- Thế ông có mang sổ ghi đó theo ông không ông Mentakis?
- Tôi có mang. - Ông đưa cho Peter Demonides một quyển sổ bán
hàng.
Công tố ủy viên đi qua các thẩm phán.
- Thưa quư vị, tôi muốn xem chất này có gắn nhăn loại A không?
- Ông quay sang người làm chứng. - Tôi không c̣n có câu hỏi ǵ
nữa. - Ông nh́n sang Napoleon Chotas.
Napoleon Chotas nh́n lên và lắc đầu.
- Không có câu hỏi.
Peter Demonides thở sâu một cái. Đă đến giờ cho đợt trút bom của
ông.
- Tôi xin giới thiệu chất độc bảng B. - Ông quay xuống cuối
pḥng, và nói một viên mơ toà đứng gần cửa, - Ông làm ơn mang
cái đó lên bây giờ.
Viên mơ toà vội chạy ra và một lát sau, hắn quay lại cầm chai
thuốc si-rô ho để trên một cái khay. Người ta có thể thấy rơ
chai không đầy. Các khán giả nh́n ngắm, lạ lùng khi viên mơ toà
đưa chai đó lên công tố ủy viên. Peter Demonides đặt chai lên
bàn trước các thẩm phán.
- Thưa quư ông, quư bà, quư vị đang nh́n vào vũ khí giết người.
Đây là vũ khí đă giết Georges Savalas. Đây là một loại sirô
thuốc ho mà bà Savalas đă cho chồng uống vào đêm ông chết. Thuốc
này có pha antimoan. Như các bạn thấy, nạn nhân đă uống thuốc
này - và hai mươi phút sau ông chết.
Napoleon đứng lên và nói nửa úp nửa mở:
- Phản đối. Không có cách nào vị công tố ủy viên biết được rằng
chính từ cái chai đặc biệt này mà người quá cố đă bị đầu độc
bằng thuốc.
Và Peter Demonides đă đóng cái bẫy.
- Với sự tôn trọng đúng mức các đồng nghiệp đă được học hành đầy
đủ của tôi, bà Savalas đă thừa nhận là bà ấy đă cho chồng và
uống sirô này trong khi ông bị một cơn ho nặng vào đúng cái đêm
hôm đó ông chết. Thuốc này đă được giữ trong buồng có ch́a khoá
giao cảnh sát, măi mấy phút trước đây, chiếc ch́a khoá đà được
mang đến toà án này. Quan pháp y đă chứng nhận rằng Georges
Savalas đă bị chết v́ ngộ độc antimoan. Sirô ho này có chứa
antimoan. - Ông nh́n Napoleon Chotas đầy vẻ thách thức.
Napoleon Chotas lắc đầu thất bại:
- Vậy tôi cho rằng không có ǵ nghi ngờ.
Peter Demonides nói với vẻ đắc thắng:
- Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, ông Chotas ạ. Trong vụ chỉ c̣n phải
buộc tội.
Chánh án quay sang Napoleon Chotas.
- Việc bào chữa có sẵn sàng để tóm tắt chưa?
Napoleon Chotas đứng lên:
- Vâng, thưa ngài đáng kính!
Ông đứng đó một lát. Rồi ông từ từ tiến lên phía trước. Ông đứng
trước đoàn hội thẩm, chúi đầu xuống như đang cố gắng h́nh dung
ra cái ǵ sẽ cần nói. Khi ông bắt đầu nói, ông nói rất chậm,
chọn từng từ một.
- Tôi giả dụ rằng một số vị trong các vị ở đây tự hỏi tại sao
tôi không có thẩm vấn chéo bất kỳ người làm chứng nào. Được, để
nói sự thật với các vị, tôi nghĩ ông Demonides đây đă làm việc
tốt, nên tôi không cần hỏi họ thêm làm ǵ.
Thằng già lại định mang vụ của tôi cho tôi, Peter Demonides nghĩ
vui mừng.
Napoleon Chotas quay nh́n chai sirô ho một lát, rồi quay lại với
các hội thẩm.
- Các người làm chứng tỏ rất thật thà. Nhưng thực tế, họ chả
chứng minh được điều ǵ cả, có phải thế không? Điều tôi muốn nói
là… - ông lắc đầu - Được, khi các vị thêm một số điều vào những
lời làm chứng tóm lại chỉ có một chuyện là: Một cô gái trẻ xinh
đẹp lấy một ông chồng già mà chắc chắn không thoả măn cô về t́nh
dục. - Ông gật đầu về phía Josef Pappas. - V́ vậy cô ta t́m một
thanh niên có thể đáp ứng được. Chúng ta đă biết quá nhiều
chuyện như vậy trên báo chí, có phải không ạ? Chẳng có ǵ bí mật
về các vụ tằng tịu cả. Toàn thế giới đă biết. Điều đó đă được
viết ra trong các tạp chí lá cải trên thế giới. Bây giờ, quư vị
và tôi không tán thành tư cách của cô ta, thưa quư ông, quư bà,
nhưng Anastasia Savalas không phải đến pḥng xử này v́ vi phạm
lời hứa hôn. Cô ta không phải đến toà v́ cô ta có những nhu cầu
sinh lư b́nh thường mà tất cả phụ nữ trẻ tuối nào cũng có.
Không, cô ta bị xử ở toà án này v́ tội giết người.
Ông quay sang nh́n cái chai lần nữa, cứ như là rất ngạc nhiên
với cái chai đó.
Để cho ông già tiếp tục nhiệt t́nh, Peter Demonides nghĩ. Ông
liếc nh́n đồng hồ treo trên tường pḥng xử đă mười hai giờ kém
mười lăm. Các quan toà thường nghị án vào trưa. Ông già lại
không thể kết thúc bài tổng quan của ông ấy. Ông ta cũng không
đủ khôn ngoan để đợi phiên toà họp lại. Sao ta lại sợ lăo đó nhỉ
Peter Demonides tự hỏi.
Napoleon Chotas đang thao thao bất tuyệt.
- Xin hăy cùng xem xét các chứng cứ nào? Một số cây của bà
Savalas bị bệnh và bà ấy chăm sóc các cây đó để cứu chúng. Bà ta
đến ông Mentakis một chuyên gia về cây cỏ, ông này đă khuyên bà
dùng antimoan. Nên bà đă làm theo lời khuyên của ông này. Các vị
có gọi như vậy là giết người không? Tôi nói chắc chắn rằng
không. Và rồi c̣n có lời làm chứng của người giúp việc, người
này nói rằng bà Savalas đuổi các người làm để bà ấy có thể ăn
cơm tuần trăng mật với chồng, để bà ấy đi chuẩn bị nấu ăn. Được,
tôi nghĩ sự thật người giúp việc chị ta chắc chắn cũng mến ông
Savalas các vị không thể làm việc với một người nào trong hai
mươi lăm năm mà lại không có t́nh cảm sâu lắng với người đó. Chị
ta cũng ghen tức với Anastasia Savalas. Từ cái giọng nói của chị
ta, các vị có thể thấy điều đó. - Chotas ho nhẹ và đằng hắng. -
Vậy th́, cho phép tôi giả thiết rằng bị cáo, từ trong trái tim
bà ta, bà ta yêu chồng bà cố gắng một cách tuyệt vọng để không
phải ly dị. Bất cứ một người đàn bà nào yêu một người đàn ông
cũng phải làm thế nào để thể hiện t́nh cảm đó? Đúng một trong
những cách cơ bản nhất là nấu ăn cho chồng ḿnh. Đó có phải là
một dạng của t́nh yêu không? Tôi nghĩ rằng đúng vậy. - Ông quay
lại nh́n cái chai lần nữa. - Và có phải đó cũng là một cách khác
để biểu hiện sự thương cảm với ông khi ông ốm và sức khỏe cũng
không tốt?
Đồng hồ trên tường chỉ mười hai giờ kém một phút.
- Thưa quư ông, quư bà, tôi nói với quư vị khi phiên toà bắt đầu
nh́n vào bộ mặt của người đàn bà này. Đó không phải là bộ mặt
của một phụ nữ giết người. Những con mắt đó không phải là những
con mắt của kẻ sát nhân.
Peter Demonides theo dơi các thẩm phán khi các vị này đang ngoái
cổ về bị cáo. Ông ta chẳng bao giờ thấy được sự hận thù rơ rệt.
Ông nắm chắc thẩm phán đoàn như rút họ ra từ trong túi quần ông
vậy.
- Luật pháp rất rơ ràng, thưa quư ông quư bà, như các vị đă được
luật sư đáng kính thông báo, để quay lại lời luận án tội phạm
các vị không nên nghi ngờ ǵ về tội trạng của bị cáo này. Không
có tội ǵ.
Khi Napoleon Chotas nói, ông ấy lại ho, rút một cái khăn ra và
che miệng. Ông ta đến gần cái chai sirô trên bàn trước bàn các
hội thẩm.
- Khi quư vị đi thẳng vào sự việc này, vị ủy viên công tố đă
không chứng minh được điều ǵ, phải không ạ? Loại trừ đây là cái
chai bà Savalas đă đưa cho chồng bà. Sự thật là nhà nước không
phải xét vụ này tư nào cả. - Khi ông vừa nói xong câu nói đó,
ông lên một cơn ho. Như vô t́nh, ông lấy chai thuốc ho, mở nắp,
đưa lên môi và uống một ngụm lớn. Mọi người trong pḥng xử án
nh́n thấy, như bị thôi miên, và có người há hốc mồm sợ hăi.
Cả pḥng xử án náo động cả lên.
Chánh án nói như hét:
- Ông Chotas…
Napoleon Chotas uống một ngụm nữa.
- Thưa ngài đáng kính những lời kết tội của ủy viên công tố là
một sự nhạo báng công lư. Georges Savalas không chết v́ người
đàn bà này. Trường hợp này cần phải được bảo vệ.
Chuông đánh mười hai tiếng. Một mơ toà chạy vào chỗ chánh án và
th́ thầm.
Chánh án đập mạnh búa.
- Ra lệnh! Ra lệnh! Chúng ta sẽ nghỉ. Đoàn bồi thẩm sẽ nghỉ và
cố gắng đạt được bản luận tội. Phiên toà sẽ họp lại vào hai giờ!
Peter Demonides đứng đó, ngây người ra. Có kẻ nào đó đă mở nút
chai! Nhưng không, không được. Các chứng cứ đă được bảo vệ liên
tục. Các nhà bệnh lư học có sai không? Demonides quay lại nói
với viên trợ lư của ḿnh, và khi ông nh́n quanh t́m Napoleon
Chotas th́ ông này biến đâu mất.
- Đúng hai giờ, khi phiên toà họp lại, các vị thẩm phán từ từ đi
vào pḥng xét xử và ngồi vào ghế của ḿnh.
Napoleon Chotas không thấy đâu.
Tên chó đẻ này đă chết rồi chắc, Peter Demonides nghĩ như vậy.
Và ông vừa nghĩ như vậy xong th́ Napoleon Chotas đi vào qua cửa
lớn, trông hoàn toàn khỏe mạnh. Ai ai trong pḥng xử án cũng
quay lại để nh́n ông khi ông đi về ghế của ḿnh.
Chánh án nói:
- Quư ông, quư bà của đoàn bồi thẩm, các vị đă đi tới bàn luận
tội chưa?
Vị đứng đầu Đoàn bổi thẩm đứng dậy.
- Chúng tôi đă xong, thưa ngài đáng kính. Chúng tôi thấy bị cáo
không có tội!
Đột nhiên, những tiếng vỗ tay vang lên từ các khán giả.
Peter Demomdes cảm thấy tức sôi máu lên. Thằng con hoang lại
chơi tao nữa hả, ông nghĩ. Ông ngước nh́n lên và Napoleon Chotas
đang ngắm ông và cười.
o0o
|