áo vét t́m tiền lẽ, anh lấy ra tờ khăn giấy anh đă đưa
cho Clara hôm nọ gặp nhau lần đầu tiên. Anh ngửi thấy mùi xạ hương vẫn c̣n tỏa
ra từ chiếc khăn. Anh đi bọ về khách sạn. Peter đến t́m anh vào đầu giờ tối.
Suốt cả buổi tối, họ trao đổi với nhau rất ít. Cả hai đều ch́m đắm trong ḍng
suy tưởng riêng của ḿnh. Kiệt sức và đầu đau như búa bổ, Peter lên pḥng ngủ từ
rất sớm.
Về đến pḥng ḿnh, Jonathan để một tin nhắn cho Anna qua điện thoại, rồi nằm dài
ra giường để soát lại những ǵ anh đă ghi chép được trong ngày.
Clara kéo rèm che kín pḥng tranh Soho sau một ngày làm việc mệt nhoài. Đúng với
giờ tan rạp, cô thay đổi hành tŕnh để tránh bị tắc đường.
Jonathan bật vô tuyến. Sau khi chuyển hết một ṿng các kênh, anh đứng lên và
bước lại gần cửa sổ. Một vài chiếc xe vun vút trên đại lộ Park Lane. Anh nh́n
những dải sáng dài do đèn xe tạo ra cho tới hút tầm mắt. Một chiếc Cooper màu đỏ
đi chậm dần tới ngă tư và lăn bánh về phía Notting Hill.
° ° °
Ngày thứ 6 đầu tháng ấy có thể sẽ là một trong những ngày quan trọng nhất đời
anh. Jonathan đă dậy từ lâu. Con đường vắng vẻ phía dưới cửa sổ pḥng anh cho
thấy vẫn c̣n rất sớm. Anh ngồi vào bàn làm việc kê ở góc pḥng và viết vài chữ
để fax cho Anna trước khi đi.
Clara,
Tối nào anh cũng t́m cách gọi cho em mà không được. Lẽ ra em phải ghi lại lời
chào trên máy nhắn tin để ít nhất anh cũng nghe được tiếng em khi anh gọi về nhà. Khi anh viết những ḍng này cho em chắc em vẫn đang đây mặt trời bắt đầu lên, anh
vẫn ước giá có em ở đây, nhất là ngày hôm nay. Sáng
nay, có lẽ cuối cùng th́ anh
cũng được ngắm bức tranh mà anh vẫn ao ước được nh́n từ rất nhiều năm rồi. Anh
không muốn ḿnh quá lạc quan song những ngày dài đăng đẳng vừa qua ở Luân Đôn đă
khiến cho anh chấp nhận tin vào điều đó. Phải chăng cuối cùng anh đă tới chặng
cuối cùng của cuộc t́m kiếm kéo dài gần hai mươi năm ?
Anh nhớ lại thời sinh viên, những buổi tối ngồi một ḿnh trong căn nhà nhỏ, anh
đọc đi đọc lại hàng giờ liền nhừng công tŕnh nghiên cứu hiếm hoi nhắc tới sự
tồn tại của kiệt tác độc nhất ấy. Bức hoạ cuối cùng của Vladimir sẽ là công
tŕnh thẩm định tuyệt vời nhất của anh. Anh đă chờ đợi nó từ bao lâu nay rồi.
Anh vẫn muốn giá mà sự kiện trọng đại khiến chúng ta phải xa nhau này không rơi
vào lúc chúng ta phải chuẩn bị cho lễ cưới. Song biết đâu những ngày này sẽ mang
lại những điều tốt đẹp cho cả hai chúng ta. Anh muốn quay trở về Boston để chúng
ta được gặp lại nhau, quên đi tất cả những áp lực đă chia rẽ chúng ta trong
những tuần gần đây.
Anh nghĩ tới em rất nhiều, mong em khoẻ, hăy cho anh biết tin tức của em
Jonathan
Anh gấp lá thư lại, nhét nó vào trong túi áo vét và quyết định sẽ đi bộ đẻ
thưởng thức làn không khí sớm mai ấm áp. Khi đi qua quầy tiếp tân, anh đưa bức
thư nhờ người trực quầy gửi giúp rồi bước ra phố bên kia đại lộ, công viên bắt
đầu mở cửa đón khách vào dạo chơi. Cây cối đă phủ xanh lá và những bồn hoa rực
rỡ đua sắc thắm. Jonathan đi tới tận cây cầu nhỏ bắc qua chiếc hồ ở giữa công
viên. Anh ngắm nh́n những chú bồ nông khổng lồ đang bồng bềnh trên mặt nước
phẳng lặng. Vừa bước tới dọc theo lối đi dạo, anh vừa tự nhủ có lẽ anh sẽ rất
thích được sống tại thành phố này, anh có cảm giác nó vô cùng thân thuộc đối
với ḿnh. Một giờ trôi qua, anh quay trở lại con đường cũ và đi bộ tới
pḥng tranh. Anh vào ngồi trong quán cà phê chờ Clara tới. Chiếc xe Austin đậu
trước cánh cửa màu xanh lơ. Clara tra ch́a khoá vào chiếc hộp báo động gắn trên
mặt tường và tấm màn sắt từ từ kéo lên. Clara tỏ ra ngập ngừng, tấm màn sắt dừng
lại giữa chừng rồi hạ xuống. Cô quay gót và băng qua đường.
Cô bước vào với vẻ dứt khoát và vài phút sau tiến về phía anh, trong tay cầm hai
chiếc tách.
- Cppucino không đường! Coi chừng, c̣n nóng bỏng đấy.
Jonathan nh́n cô ngạc nhiên.
- Nếu muốn biết thói quen của ai đó, chỉ cần anh dành chút thời gian quan sát
cách sống của họ, cô nói và đẩy một chiếc tách về phía anh.
Cô đưa ly nước lên môi.
- Tôi thích trời như thế này, cô nói, thành phố này thật khác xa mỗi khi trời
đẹp.
- Bố tôi nói rằng, khi một phụ nữ nói về thời tiết, cô ta đang t́m cách tránh
những chủ đề khác, Jonathan trả lời.
- Thế mẹ anh nói ǵ ?
Nếu gặp trường hợp ấy, tốt nhất là không nên nói điều đó cho cô ta biết.
- Mẹ anh nói rất đúng!
Họ nh́n anh hồi lâu và Clara cười thật tươi.
- Chắc chắnanh đă lập gia đ́nh rồi, đúng không ?
Đúng lúc đó Peter bước vào quán cà phê. Anh chào Clara và quay ngay sang nói với
Jonathan.
- Tớ có chuyện muốn nói với cậu.
Clara cầm túi lên, cô chăm chú nh́n Jonathan và tuyên bố cô phải đi mở cửa pḥng
tranh, rồi cô để họ nói chuyện với nhau.
- Hy vọng là tớ đă không cắt ngang câu chuyện chứ? Peter hỏi và cầm lấy tách của
Clara.
- Vẻ mặt cậu trông thật lạ, có chuyện ǵ thế ? Jonathan hỏi
- Cậu biết không, khi người ta nhắc đến cái chết với những kẻ ngu, cần phải cẩn
thận, nguy cơ xảy ra thảm sát chứ chẳng chơi đâu ! Các cộng tác viên người Anh
của tớ đang muốn thay đổi quyết định.
Họ cho rằng Radskin đă vè phần lớn các tác phẩm của ông tại
Anh, v́ vậy các bức
tranh của ông ta phải được đưa ra đấu giá tại Luân Đôn.
- Vladimir là người Nga chứ không phải người Anh !
- Đấy, cảm ơn cậu, tớ cũng bảo với họ đúng như vậy.
- Thế cậu định làm ǵ bây giờ ?
- Cậu muốn nói tớ đă làm được ǵ rồi hả ? Tớ đă quyết định buổi đấu giá ấy phải
được tiến hành ở nơi nào có nhà thẩm định danh tiếng nhất trong lĩnh vực này.
- Thế nghĩa là sao ?
- Là cậu chứ ai, đồ ngốc, cậu chính là nhà thẩm định danh tiếng nhất trong lĩnh
vực này.
- Tớ rất thích nghe cậu nói như thế.
- Vấn đề là hội đồng thẩm định không hề từ chối việc chi trả các khoản chi phí
trong thời gian cậu ở Luân Đôn, bao lâu cũng được.
- Nếu vận may mỉm cười với chúng ta, chúng ta có thể sẽ tổ chức một buổi đấu
giá lừng lẫy nhất trong ṿng mười năm trở lại đây. Thôi tớ đi đây, cậu phải làm
sao để tới thứ hai chúng ta được hợp đồng với gái xinh đẹp làm việc bên kia
đường. Nếu cuộc đấu giá này tuột khỏi tay tớ, sự nghiệp của tớ coi như chấm dứt
tại đây, tớ trông cậy cả vào cậu đấy!
- Tớ sẽ cố gắng hết sức.
- Ừ, cũng đừng cố quá, cậu nên nhớ tớ là người làm chứng của cậu đấy ! Cậu có
nhớ được điều đó không ?
- Đôi lúc cậu thật là thô thiển.
- Có thể, nhưng tớ cũng thích nghe cậu nói như vậy.
Peter vỗ vai bạn rồi bước ra khỏi quán cà phê. Jonathan trông theo bạn nhảy lên
một chiếc ta- xi, rồi anh cũng rời khỏi quán.
Jonathan dừng lại trên vỉa hè và quan sát Clara qua lớp kính. Cô đang điều chỉnh
lại đèn chiếu cho bức tranh được mang tới ngày hôm qua.
Cô có vẻ hơi áy náy, bước xuống thang và ra mở của cho anh. Anh anh đă lên đến
đỉnh điểm. Cả buổi sáng anh đi lại trước bốn bức tranh. Cứ mười lăm phút một,
anh lại đứng lên và kín đáo nh́n ra đường. Từ sau bàn làm việc, Clara liếc nh́n
anh. Anh lại bước tới bức tường kính một lần nữa và ngước mắt ngắm bầu trời.
Trời có vẻ như đang kéo mây, anh nói.
- Điều đó có đúng với đàn ông không ? Clara ngước mắt lên hỏi.
Những câu chuyện về thời tiết !
Tôi nghĩ cũng có thể, Jonathan lúng túng trả lời.
- Anh có nhận ra đường phố rất vắng vẻ không ? Hôm nay là ngày lễ của
Anh, chẳng
ai làm việc ngày hôm nay. ..trừ chúng ta. Và v́ hôm nay là thứ sáu, đa số mọi
người đều đă tận dụng kỳ nghỉ cuối tuần. Dân Luân Đôn rất thích về nghỉ ở nông
thôn. Chiều nay tôi cũng sẽ về nhà.
Jonathan nh́n Clara, rồi không nói một lời, anh tức giận quay đi. Lúc này đă là
giữa trưa, các tiệm bán hàng trên phố đều đóng cửa. Jonathan đứng dậy và thông
báo với Clara anh sẽ sang uống cà phê ở quán bên kia đường. Khi anh ra tới
ngưỡng cửa, cô vơ vội chiếc áo khoác trên ghế và bước theo anh. Ra đến vỉa hè, cô kéo cánh tay anh lại.
- Anh đừng quá sốt ruột như thế, vẻ mặt đó không thích hợp với anh chút nào. Tôi sẽ thay đổi kế hoạch, đêm nay tôi ở lại Luân Đôn. V́ trời tối, chúng ta sẽ
không thể nói chuyện thời tiết, hơn nữa tôi đă biết trước thời tiết cuối tuần
này ra sao rồi, mưa thứ bảy, nắng chủ nhật, hoặc là ngược lại, ở đây th́
không bao giờ có thể biết chính xác được !
Họ bước vào quán cà phê. Cả buổi chiều, cô giao pḥng tranh cho anh và để anh
làm việc một ḿnh. Jonathan cứ quay ṿng ṿng, Peter gọi anh khoảng
năm giờ chiều.
- Thế nào rồi ? Cậu ta hỏi giọng sốt ruột.
- Chẳng thế nào cả, Jonathan gắt gỏng trả lời.
- Chẳng thế nào là thế nào ?
- Là như thế ! Tớ chẳng thể làm ǵ hơn được.
- Khỉ gió !
- Dù sao đi nữa, tớ cũng đồng ư với cậu.
- Thế nghĩa là chúng ta đi toi rồi, Peter lầm bầm.
- Chưa chắc, ai mà biết trước, nhỡ đâu chúng ta vẫn chưa hẳn tuyệt vọng, tin mừng có thể vẫn c̣n đó th́ sao.
- Đó là trực giác của cậu hay cậu hy vọng thế ? Peter hỏi.
- Có thể cả hai, Jonathan rụt rè thú nhận.
- Đúng như tớ lo sợ, tớ chờ điện thoại của cậu đấy nhé ! Peter kết thúc và bỏ
máy.
Anh chàng Frank điềm tĩnh ghé qua pḥng tranh vào cuối buổi chiều để đóng cửa. Clara có việc bận, cô hẹn gặp Jonathan ở địa chỉ ghi vội trên một mẩu giấy do
ngưỡi cộng sự trẻ tuổi của cô chuyển cho anh.
Khi quay về khách sạn, Jonathan không nhận được tin nhắn trả lời nào cho bức thư
anh gửi Anna. Thay quần áo xong, anh lại bấm số Bonston một lần nữa. Vẫn là
tiếng nói của chính anh vang lên trong máy nhắn. Anh thở dài
và bỏ máy mà không nhắn lại ǵ.
° ° °
Clara đă hẹn anh trong một quầy bar khá sang trọng nằm trong khu
Nothing Hill. Ánh đèn sáng dịu và âm nhạc khiến khung cảnh khá dễ chịu. Cô vẫn chưa tới, anh ngồi chờ cô tại quầy bar. Anh đă di chuyển chiếc cốc đựng hạt hanh nhân đến lần
thứ mười th́ thấy cô xuất hiện ngoài cửa, anh vội đứng dậy. Cô khoác chiếc áo
nhẹ, bên trong mặc một chiếc váy dài màu đen ôm sát người. Cô nh́n thấy
Jonathan.
- Xin lỗi anh, tôi đến muộn quá. Xe của tôi bị thủng một chỗ khá to dưới lốp
phải, mà ta- xi th́ ngày càng khan hiếm.
Jonathan nhận thấy những ánh mắt dơi theo bóng Clara khi cô đi ngang qua. Anh chăm chú nh́n cô trong khi cô chọn đồ uống. Trong ánh nến quầy
bar, đôi g̣ mà cô
hiện lên cùng với những đường nét rơ ràng của khuôn miệng. Jonathan đợi người
phục vụ đi khuất và rụt rè nghiêng người về phía Clara.
Họ cùng cất tiếng tiếng một lúc và giọng nói của họ hoà lẫn vào nhau.
- Anh nói trước đi, Clara vừa cười vừa nói.
- Chiếc váy này rất hợp với cô
- Tôi đă thử sáu chiếc liền, mà đến lúc ngồi vào ta- xi rồi tôi c̣n muốn đổi ư.
- C̣n tôi th́ là cà - vạt, bốn lần.
- Nhưng anh mặc áo cổ tṛn kia mà.
- V́ cuối cùng tôi vẫn không thể quyết định.
- Tôi rất mừng v́ có dịp dùng bữa tối với anh, Clara nói và đến lượt cô ngồi
nghịch những hạt hạnh nhân.
- Tôi cũng vậy, Jonathan nói.
Clara nhờ người phục vụ quầy bar chọn rượu giúp. Anh ta đề nghị cô nếm thử một
ly sancerre, nhưng cô không thích lắm. Khuôn mặt Jonathan chợt bừng sáng, anh nói với người phục vụ quầy bar bằng giọng hóm hỉnh :
- Vợ tôi thích vang đỏ hơn.
Clara mở to mắt nh́n anh, nhanh chóng thay đổi thái độ, cô đưa bảng danh mục
rượu cho Jonathan và tuyên bố chồng cô sẽ giúp cô lựa chọn. Anh không hề nhầm
lẫn về sở thích của cô. Jonathan gọi hai ly Pomerol. Người phục vụ bỏ đi, để
hai người ngồi nói chuyện với nhau.
- Khi anh thư giăn, trông anh thật giống một cậu thiếu niên. Vẻ hài hước rất
hợp với anh.
- Nếu cô biết tôi lúc c̣n thiếu niên, có lẽ cô sẽ không nói như vậy.
- Hồi đó trông anh thế nào ?
- Để tỏ ra hài hước trước mặt một người phụ nữ, có lẽ tôi phải mất khoảng sáu
tháng.
- Thế giờ th́ sao ?
Giờ th́ khá hơn nhiều rồi, càng lớn tuổi tôi càng tự tin hơn, có lẽ chỉ ba tháng
là đủ ! Tôi nghĩ có lẽ tôi thấy thoải mái hơn khi bàn về thời tiết, Jonathan th́
thầm.
- Nếu như điều này có thể giúp anh, th́ tôi muốn nói để anh biết tôi cảm thấy
rất thoải mái khi ở bên anh, Clara nói, hai má ửng hồng.
Không gian bên trong mù mịt khói, Clara muốn hít thở không khí trong lành, họ
liền rời khỏi quán. Jonathan vẫy một chiếc ta- xi rồi yêu cầu chạy dọc theo bờ
sông Tamise. Họ thả bộ trên vỉa hè uốn quanh con sông lững lờ trôi. Ánh trăng
phản chiếu trên mặt nước phẳng lặng. Một làn gió nhẹ lướt trên những cánh lá.
Jonathan hỏi về thời thơ ấu của cô. V́ những nguyên nhân mà chưa bao giờ có ai
giải thích cho cô nghe, cô đă được bà ngoại nhận nuôi từ năm bốn tuổi và năm lên
tám bắt đầu theo học tại một trường nội trú của
Anh. Cô chưa bao giờ bị thiếu
thốn ǵ, bà cô là một người giàu có và mỗi năm đều đến thăm cô vào ngày sinh
nhật. Clara c̣n giữ măi h́nh ảnh lần cuối cùng cô nh́n thấy bà khuất dần
sau những bức tường của trường nội trú. Đó là vào ngày sinh nhật lần thứ mười
sáu của cô.
Thật kỳ lạ, cô nói thêm, người ta vẫn nói rằng trong ba năm đầu tiên của cuộc
đời không ai có thể nhớ được điều ǵ đă từng xảy ra, vậy mà h́nh ảnh bố tôi
đứng ở đầu con phố nơi chúng tôi từng sinh c̣n đọng lại măi trong tôi.
Nói đúng hơn, tôi nghĩ rằng đó là bố tôi. Ông vụng về đưa tay vẫy, như để chào
tạm biệt, rồi ông ngồi vào một chiếc xe và đi mất.
- Có thể đó chỉ là một giấc mơ của cô ? Jonathan nói.
- Cũng có thể, dù sao th́ tôi cũng chẳng bao giờ biết được ông đă đi đâu
Và cô chưa bao giờ gặp lại ông ?
- Chưa bao giờ, mỗi năm tôi đều hy vọng ḿnh sẽ gặp bố.
Kỳ nghỉ Noel bao giờ cũng là một chuỗi thời gian lạ lùng. Đa số các nữ sinh
trong trường đều về nghỉ cùng gia đ́nh, c̣n tôi, cho đến năm mười ba tôi vẫn
thường cầu xin Chúa để bố mẹ đến thăm tôi.
- Sau đó th́ sao ?
- Tôi cầu xin điều ngược lại, mong sao họ đừng tới lôi tôi ra khỏi nơi mà cuối
cùng th́ tôi cũng đă coi như là nhà. Tôi biết, điều đó quả thật khó hiểu. Khi
c̣n nhỏ, tôi đau khổ v́ không bao giờ được ở lâu tại nơi đâu, khi c̣n sống với
bố mẹ, không bao giờ tôi ở dưới mái nhà quá một tháng.
- Tại sao gia đ́nh cô lại phải liên tục chuyển chỗ ở ?
- Tôi không biết, bà tôi không bao giờ muốn nói cho tôi v́ sao. Mà cũng chẳng ai
khác nói cho tôi biết điều đó.
- Thế cô đă làm ǵ vào ngày sinh nhật mười sáu tuổi ?
- Người bảo trợ của tôi, tôi vẫn thường gọi bà tôi như thế, đă lái một chiếc
xe tuyệt đẹp tới đón tôi tại trường nội trú. Thật ngốc, nhưng nếu anh biết được
tôi đă tự hào như thế nào trước những người bạn gái cùng trường. Không phải chỉ
v́ đó là một chiếc xe Bencley tuyệt vời, mà đúng hơi v́ bà đă đích thân lái xe
tới. Chúng tôi đă chạy xe khắp Luân-Đôn, và mặc cho tôi ra sức năn nỉ, bà
vẫn không chịu ngừng xe lại. Tôi đành phải hài ḷng ngắm nh́n những bức tường
nhà thờ cổ kính, những mặt tiền quán rượu và những con phố nhộn nhịp dành riêng
cho người đi bộ, tất cả những ǵ trôi qua ngoài cửa kính, nhất là những nẻo
đường dọc bờ sông Tamise.
Và kể từ ấy, Clara luôn như có lời hẹn ước với ḍng sông ở đâu đó. Trong mỗi
chuyến du lịch, cô luôn t́m được cách để thoát ra khỏi mọi ràng buộc và đến dạo
bộ bên một ḍng nước, ngước nh́n những nhịp cầu cao nối liền hai bờ của một
thành phố. Không một bến sông nào c̣n giữ nổi vẻ bí ẩn đối với cô.
Vừa đi dạo dọc con sông Vltara ở Praha, ḍng Danube
ở Budapest, sông Arno ở
Florence, con sông Seine ở Paris hay ḍng sông Hoàng Phố ở Thượng Hải, con sông
nổi tiếng chứa đựng nhiều bí ẩn nhất, cô vừa t́m hiểu về lịch sử và con người
của thành phố đó. Jonathan kế cho cô nghe về bờ sông
Charles, về bến cảng cũ ở
Boston mà anh rất thích thả bộ lang thang. Anh hứa sẽ đưa cô đi thăm những con
đường rải đá nơi phố chợ không có mái che.
Thế hôm ấy hai người đă đi đâu ?Jonathan hỏi tiếp.
- Về nông thôn ! Tôi vô cùng giận dữ, tôi vừa trở về từ một vùng quê khác !
Chúng tôi ngủ trọ trong một pḥng khách sạn mà cho tới bây giờ tôi vẫn c̣n có
thể tả cho anh nghe từng chi tiết. Tôi vẫn c̣n vải bọc tường, cánh cửa tủ kêu
cót két, mùi gỗ toả ra từ chiếc tủ giường nơi tôi gục đầu thiếp đi sau khi mệt
mỏi chống đối cơn buồn ngủ. Tôi muốn nghe tiếng bà thở đều đặn bên cạnh tôi, cảm nhận được bà ngay bên cạnh tôi.
Ngày hôm sau, trước khi đưa tôi quay lại trường nội trú, bà đă đưa tôi tới xem
trang viên của bà.
- Trang viên có đẹp không ??
- Nếu xét theo hiện trạng khi đó th́ không thể gọi là đẹp được.
- Vậy tại sao bà lại phải đưa cô đi từng ấy quăng đường để chỉ nó cho cô xem ?
Bà tôi là một người kỳ lạ. Bà đă đưa tôi đến tận đó bắt tôi cam kết một vài
chuyện. Chúng tôi ngồi trong xe, dừng trước cánh cổng sắt khép kín, bà nói với
tôi rằng, đến tuổi mười sáu, con người ta đă đủ trưởng thành để có thể giữ lời
hứa.
- Thế cô đă hứa ǵ ?
- Tôi có làm anh buồn chán v́ những câu chuyện của tôi không ? Clara hỏi.
Họ ngồi xuống một chiếc ghế đá. Chiếc đèn trên cột phía sau lưng họ rọi ánh sáng
xuống màn đêm bắt đầu buông. Jonathan đề nghị cô kể tiếp.
Có tất cả ba lời hứa. Tôi phải thề với bà rằng ngay sau khi bà qua đời, tôi sẽ
rao bán trang viên đó và tôi sẽ không bao giờ bước chân vào bên trong.
- V́ sao?
- Hăy nghe nốt hai lời hứa c̣n lại. Bà là một người rất quả quyết trong thương
lượng. Bà muốn tôi muốn tôi đi theo con đường khoa học, muốn tôi trở thành một
nhà hoá học. Có lẽ bà nghĩ tôi có thể trở thành một Marie Curie thứ hai !
- Tôi có cảm giác về điểm này cô đă không giữ lời.
- C̣n chưa thấm vào đâu so với điều ràng buộc cuối cùng. Tôi đă phải hứa sẽ
không bao giờ được đến gần hoặc tiếp cận bất cứ điều ǵ có liên quan tới thế
giới hội hoạ.
- Đúng vậy, Jonathan nói vẻ băn khoăn, nhưng tại sao, cô được ǵ để đổi lại
những lời hứa ấy.
- Bà để lại cho tôi toàn bộ gia tài, và hăy tin tôi, gia tài của bà khá đồ sộ.
Ngay sau khi sau khi tôi hứa, chúng tôi liền quay xe.
- Ngày hôm đó cô cũng không được bước chân vào trang viên ư ?
- Thậm chí chúng tôi c̣n không bước xuống khỏi xe.
- Thế cô đă bán trang viên đó chưa ?
- Bà tôi qua đời năm tôi hai mươi hai tuổi, khi đó bản thân tôi đang ngồi héo
hắt trên giảng đường đại học chuyên ngành năm hoá thứ ba.Tôi đă tự bỏ ngành tự
nhiên ngay ngày hôm ấy. Chẳng hề có một buổi lề nào cho đám tang, trong tất cả
những điều khoản kỳ quặc của bản di chúc, bà đă ghi chú thêm một điều : công
chứng viên thừa hành di chúc không có quyền được cho tôi biết nơi bà yên nghỉ.
Thế rồi Clara, sau khi tự hứa với ḿnh rằng cả đời sẽ không bao giờ đụng tới một
ống nghiệm nào nữa, đă chuyển tới sống ở
Luân-Đôn để theo học khoá lịch sử nghệ
thuật ở bảo tàng Quốc gia. Sau đó cô sang Florence một năm và cùng lúc kết thúc
khoá học của ḿnh tại trường Nghệ thuật Paris.
- Tôi cũng học ở đó, Jonathan hào hứng, có lẽ chúng ta đă cùng ở trường trong
một thời gian chăng ?
- Không thể nào, Clara bĩu môi đáp. Tôi rất tiếc nếu anh không nhận ra điều này, chúng ta chắc chắn phải học cách nhau vài khoá !
Jonathan ngồi thẳng người lên, vẻ lúng túng.
- Tôi muốn nói là tôi cũng từng tổ chức vài hội thảo tại đó.
- Anh c̣n cố biện minh nữa à! Cô vừa nói vừa không giấu được nụ cười.
Thời gian trôi qua mà cả hai người đều không nhận ra. Ánh mắt họ nh́n nhau hoà
điệu.
- Anh cũng có cảm giác đă từng thấy phải không?
- Phải, tôi thường xuyên cảm thấy vậy, song điều đó chẳng có ǵ lạ cả, hôm qua
chúng ta cũng đi dạo ở đây.
- Tôi không nói về điều này, Clara nói.
- Thú thật, tôi không muốn thể hiện là một người vô duyên, song tôi vẫn tự hỏi
không biết chúng ta đă bao giờ gặp nhau chưa, trước cả lần đầu tiên tôi gặp cô
trong quán cà phê ?
- Tôi cùng không biết đường đời của chúng ta có từng giao nhau không, cô nh́n
anh không chớp mắt, song đôi lúc tôi cảm thấy như đă biết anh từ trước đó.
Cô đứng lên và họ rời khỏi bờ sông, sóng bước trên những nẻo đường ngoại ô thành
phố. Tiếng kim đồng hồ vang to, rành rọt nhịp nhàng trong màn đêm yên tĩnh, như
muốn giữ lại măi khoảnh khắc kỳ diệu này, khi họ đứng trên hè đường lát đá,
trong một cơi vô h́nh mà không một ai khác ngoài hai người cảm nhận được. Giữa
hai con người đi sát cạnh nhau như hiện lên một thế giới khác, lặng lẽ, vô h́nh
trôi theo nhịp bước của họ. Một chiếc ta-xi màu đen đi cùng chiều với họ. Jonathan nh́n
Clara, một nụ cười buồn bă nở trên môi. Anh đưa tay lên và chiếc
xe dừng lại bên lề đường. Anh mở cửa xe. Khi Clara bước lên xe, cô quay lại và
nhẹ nhàng nói với anh rằng cô đă có một buổi tối thật thú vị.
- Tôi cũng vậy, Jonathan nói, mắt nh́n xuống mũi giày dưới chân.
- Khi nào anh quay về Boston ?
- Ngàymai Peter sẽ đi về. ...tôi c̣n chưa biết.
Cô bước nhẹ về phía anh
- Nếu vậy, hẹn sớm gặp lại anh.
Cô đặt lên má anh một nụ hôn
Đó là lần đầu tiên da họ chạm vào nhau và cũng là lần đầu tiên điều kỳ lạ đă xảy
ra.
Thoạt tiên Jonathan cảm thấy đầu óc quay cuồng, mặt đất sụp dưới chân anh. Anh nhắm mắt, tưởng như phía trước có hàng ngh́n ngôi sao chợt ùa tới. Một cơn chóng
mặt kỳ lạ cuốn phăng anh tới một nơi lạ lẫm. Các van tim của anh mở căng ra cho
máu tràn đầy trong các huyết quản ào ạt dồn về. Hai thái dương anh ong ong. Dần
dần, khung cảnh con phố xung quanh anh bắt đầu biến đổi. Trên bầu trời, các đám
mây cuồn cuộn trôi về phía tây, để lộ ra vầng trăng tṛn vạnh sáng loà. Các vỉa
hè tràn phủ bởi một làn sương là là, dưới bóng thuỷ tinh của chiếc cột đèn cổ
kính, vụt hiện ánh nến thay cho cho ánh điện. Nhựa đường tiêu tan dần dưới ḷng
phố, để lộ mặt gỗ lát đường trong tiếng ầm vang như sóng biển ràn rạt trút trên
một băi sỏi. Lớp trát trên tường các ngôi nhà dần dần rụng xuống từng chỗ một, để lộo những mặt gạch trần trụi hoặc những lớp vôi sần sùi. Từ phía bên phải của
Jonanthan, cách cửa sắt dẫn vào một ngơ cụt chợt hiện lên, kêu rin rít trên
nhừng tấm bản lề đă gỉ sét.
Từ sau lưng, anh nghe thấy tiếng vó ngựa đang phi nước kiệu về phía ḿnh. Anh
rất muốn quay đầu lại nhưng chẳng một cơ bắp nào chịu tuân theo sự điều khiển
của anh. Một giọng nói mà anh không thể nhận ra đang th́ thầm vào tai anh "nhanh, nhanh, nhanh lên, tôi xin anh". Jonathan hai màng nhĩ như muốn nố tung. Con vật đă tiến đến rất gần, anh không nh́n thấy nhưng có thể cảm nhận được
tiếng thở của nó, làn hơi ph́ pḥ từ mũi phả lên vai
anh. Cảm giác chóng mặt vẫn
tăng lên, hai lá phổi căng tức và tim anh như bị bóp nghẹt.
Anh gắng hết sức lấy lại hơi thở. Anh nghe thấy tiếng gọi của Clara từ xa xăm
vọng lại; tất cả trở nên bất động.
Rồi, chầm chậm, các đám mây dần dần che khuâtmặt trăng, lớp nhựa đường lại tràn
lên mặt lát gỗ, những mảng tường lộn xộn được thay thế bằng loạt tường phẳng
phiu. Jonathan mở choàng mắt. Trên cột điện, bóng đèn lại xuất hiện thay vào chỗ
ngọn nến lập loè, và tiếng động cơ của tiếng ta- xi kêu ro ro thay thế cho tiếng
thở pḥ pḥ của con ngựa trong khi anh vẫn c̣n choáng váng.
- Jonathan, anh vẫn khoẻ chứ? Giọng của Clara nhắc tới lần thứ ba.
- Ổn cả, tôi nghĩ vậy, anh nói và lấy lại b́nh tĩnh, tôi chỉ hơi chóng mặt một
chút.
- Anh lên xe với tôi, tôi sẽ đưa anh về.
Jonathan cảm ơn cô. Khách sạn của anh nằm ở gần đây, đi bộ sẽ khiến anh thoải
mái hơn và không khí tối nay cũng thật dễ chịu.
- Anh bắt đầu tươi tỉnh lại rồi đấy, Clara dịu giọng nói.
- Vâng, mọi chuyện sẽ ổn cả thôi, chắc chắn đó chỉ là một cơn váng vất, chẳng có
ǵ đáng ngại cả. Cô về đi, đă muộn rồi đấy.
Clara ngập ngừng đôi chút trước khi chịu vào trong xe. Cô đóng cửa lại và
Jonathan nh́n theo chiếc xe đi xa dần. Qua lớp kính phía sau xe, Clara cũng nh́n
anh. Khuôn mặt của cô biến mất trong anh đèn nhấp nháy của chiếc ta- xi vừa rẽ ở
cuối đường. Jonathan bắt đầu bước đi.
Anh đă hoàn toàn b́nh tĩnh trở lại, nhưng có điều ǵ đó vẫn khiến anh bị xáo
trộn. Khung cảnh hiện ra trong cơn choáng không hoàn toàn xa lạ đối với
anh. Có
điều ǵ đă trỗi lên từ tiềm thức khiến anh gần như chắc chắn về nó. Một cơn mưa
nhẹ bắt đầu rơi, anh dừng lại, ngước nh́n và ngẩng mặt đón những hạt mưa. Lần
này, dưới làn mi trầm tư anh như sống lại thời khắc Clara bước chân vào quán rượu, giây phút tuyệt vời khi cô bỏ chiếc áo ngoài, và nụ cười lúc cô nhận ra anh đang
ngồi bên quầy bar. Vào chính giây phút đó, anh muốn vặn ngược kim đồng hồ. Anh mở
mắt ra và thọc tay vào sâu trong túi. Tiếp tục bước đi, anh cảm thấy đôi vai
bồng nặng trĩu.
Trong sảnh khách sạn Dorchester, anh vẫy tay chào người gác cửa và đi về phía
thang máy. Đến chân cầu thang, anh đổi ư và quyết định đi bộ lên tầng. Khi vào
pḥng, anh nh́n thấy một chiếc phong b́ nằm dưới khe cửa, rất có thể đó là giấy
biên nhận bức thư anh đă gửi qua fax cho Anna. Anh nhặt nó lên và để lên mặt bàn
viết. Rồi anh thả chiếc áo vét sũng nước xuống chân giá treo quần áo và bước vào
buồng tắm. Trên tấm gương hiện lên nét mặt nhợt nhạt của anh. Anh với một chiếc
khăn và bắt đầu lau tóc. Quay trở lại giường, anh đặt tay lên điện thoại và quay
số về nhà ḿnh ở Boston. Một lần nữa hộp thư thoại lại ghi lời nhắn của anh. Jonathan đề nghị Anna hăy gọi ngay cho
anh, nỗi lo lắng của anh bắt đầu gợn lên
v́ không có tin tức ǵ của cô. Một vài giây sau, chuông điện thoại reo
vang, Jonathan vội vàng chạy lại nhấc máy.
- Em đi đâu thế, Anna? Anh nói ngay lập tức. Anh đă gọi em cả chục lần, thực sự
anh đă bắt đầu thấy lo rồi đây.
Một vài giây yên lặng trôi qua, rồi tiếng Clara trả lời.
- Chính tôi mói lo lắng, tôi chỉ muốn biết chắc là anh đă về rồi thôi
- Cô thật tốt. Tôi đă về cùng với cơn mưa.
- Tôi cũng thấy trời mưa và nghĩ anh đến anh chẳng có ô lẫn áo mưa.
- Cô đă nghĩ tới điều đó ư ?
- Phải.
- Tôi không biết phải nói thế nào, song điều đó khiến tôi cảm thấy dễ chịu, thật
sự rất dễ chịu.
Cô ngừng lại một lúc.
- Jonathan, buổi tối hôm nay của chúng ta, tôi muốn nói với anh một điều quan
trọng.
Anh ngồi thẳng người dậy trên giường, hơi áp chiếc điện thoại sát vào tai hơn
một chút và cố nén hơi thở.
- Tôi cũng vậy, anh nói.
- Tôi biết anh đă cố kiềm chế để không nói với tôi, đừng nói điều ǵ cả, điều đó
rất chính đáng trong hoàn cảnh của anh và tôi thông cảm với sự thận trọng
đó, thậm chí tôi c̣n ngưỡng mộ nữa. Cũng phải thừa nhận rằng tôi đă chẳng làm ǵ
để khiến cho t́nh thế của anh khá hơn, đúng hơn cả là theo tôi th́ chúng ta đă
quá ṿng vo vấn đề này ngay từ lần nói chuyện đầu tiên tại pḥng tranh. Khi nghe
anh nói chuyện tối nay, tôi đă tin chắc một điều và tôi nghĩ Vladimir cũng sẽ
đồng t́nh với nhận định của tôi. Thậm chí tôi c̣n dám chắc rằng ông ấy cũng sẽ
tin cậy anh, dù sao th́ bản thân tôi cũng đă quyết định đặt ḷng tin nơi
anh. Có
lẽ anh đă nhận được một chiếc phong b́, tôi đă gửi nó tại quầy tiếp tân sau khi
chia tay anh. Trong phong b́ có vẽ đường đi. Anh hăy thuê một chiếc xe và tới
gặp tôi trong ngày mai.Tôi có một thứ rất quan trọng muốn cho anh xem, một thứ
chắc anh sẽ rất muốn được nh́n tận mắt. Tôi sẽ chờ anh vào buổi trưa, hăy đến
đúng hẹn. Chào anh, hẹn gặp ngày mai.
Cô bỏ máy mà không để cho anh kịp có thời gian trả lời. Jonathan bước lại gần
chiếc bàn nhỏ, cầm phong b́ lên và mở tấm bản đồ ra. Anh gọi điện cho quầy tiếp
tân đặt một chiếc xe cho ngày mai, đồng thời hỏi luôn xem có một lá thư nào gửi
qua cho fax cho anh không. Người gác cổng trả lời có một cô gái tên Anna Valton
đă t́m cách gọi điện cho anh vào buổi chiều, cô chỉ nhắn lại rằng hăy nói cho
anh biết cô đă gọi điện t́m anh. Jonathan nhún vai và gác máy.
Giấc ngủ đă cuốn anh đi ngay khi vừa đặt ḿnh xuống giường và suốt đem anh bị ám
ảnh bởi một giấc mơ kỳ lạ. Anh rong ruổi trên yên ngựa theo những nẻo đường trơn
nhẫy của Luân Đôn cổ kính. Vừa dong ngựa đi từng bước, anh chăm chú quan sát
những người đi đường đang chen chúc nhốn nháo trước một ngôi nhà. Tất cả mọi
người đều mặc trang phục cổ xưa. Để thoát khỏi đám đông vây quanh ḿnh, anh thúc
ngựa chạy thật nhanh.
Đến cuối con đường nhỏ, khung cảnh thôn quê hiện ra trước mắt. Anh ǵm cương cho
ngựa đi chậm lại và tiến vào một lối đi có hai hàng cây mọc bên đường. Một người
phụ nữ cưỡi ngựa vượt lên anh từ phía bên phải. Một làn mưa nhẹ bắt đầu lất phất.
"Nhanh, nhanh, khẩn trương lên"; cô giục giă và bắt đầu cho ngựa phi nước đại.
° ° °
Tiếng chuông điện thoại báo thức anh hẹn đặt từ hôm trước vang lên kéo theo
anh khỏi giấc mộng. Anh lái chiếc xe đă thuê rời khách sạn Dorchester và đi theo
đường cao tốc phía đông thành phố. Theo đúng hành tŕnh đă được vạch trên bản đồ
của Clara, anh rẽ sang đường vành đai ra sau khi chạy được khoảng một trăm cây số. Nửa giờ sau, anh lái xe ṿng vèo theo con đường quê nhỏ, trong đầu luôn tự nhắc
ḿnh rằng ở Anh khi lái xe phải đi sát lề bên trái. Dăy hàng rào gỗ dài dằng dặc
bao bọc những cánh đồng cỏ rộng mênh mông. Anh nhận ra ngă ba đúng như được đánh
dấu trên bản đồ, rồi tới quán trọ bên đường như cô đă chỉ dần. Bỏ qua hai ngă
rẽ, anh ngoặt xe theo mối ṃn nhỏ đi vào một khu rừng rậm rạp. Bánh xe anh nảy
tung như bóng v́ những ổ gà trên đường, anh cho xe chạy chậm lại. Xe chạy đến
đâu, từng lớp bùn bắn tung téo sang hai bên đường đến đó khiến anh không ngăn
được cảm giác thích thú. Rồi con đường nhỏ sáng dần lên dưới hàng cây cao. Anh
dừng lại trước một cánh cửa song sắt lớn. Phía bên kia cánh cửa uy nghi, một con
đường rài sỏi uốn lượn kéo dài khoảng trăm mét dẫn đến một trang viên xinh đẹp
kiểu Anh. Ba bậc thang rộng bằng đá chạy viền theo chân tường ở mặt trước toà
nhà. Hai cánh cửa kính lớn được lắp hai bên lối ra vào chính.
Clara, khoác trên
người một chiếc áo mưa mỏng, đang cầm trong tay một chiếc kéo xén cây. Cô bước
lại gần một cây hoa hồng leo bám dọc bờ tường và cắt một vài bông hoa màu trắng. Cô tỉa bớt cành, đưa những bông hoa lên ngửi, rồi sắp thành một bó. Trông cô
đẹp rạng rỡ. Ánh mặt trời lúc ẩn lúc hiện qua làn mây mỏng. Clara thả chiếc áo
mưa rơi xuống đất. Chiếc áo phông trắng bó sát thân thể để lộ hai bờ vai, khiến
thân h́nh cô càng trở lên nổi bật.
Jonathan bước ra khỏi xe. Khi anh tiến gần tới cổng sắt, Clara đă vào bên trong
toà nhà. Khi dùng tay trái đẩy cánh cổng, anh chợt nh́n thấy trên cổ tay chiếc
đồng hồ mà Anna đă tặng anh trong ngày lễ đính hôn của họ. Trước mắt
anh, một
làn ánh sáng vàng chói xuyên qua kính cửa sổ toà nhà rọi lên lớp thảm màu vàng
rơm của gian pḥng khách. Jonathan đứng bất động hồi lâu trước khi đi đến một
quyết định mà anh biết trước ḿnh sẽ phải trả giá rất đắt. Anh quay bước, lại
ngồi vào xe và cho xe chạy lùi. Trên đường quay lại Luân Đôn, anh cáu kỉnh gơ
mạnh lên tay lái. Anh nh́n giờ trên tấm bảng điều khiển, với lấy chiếc điện
thoại di động và gọi Peter. Anh thông báo với bạn ḿnh sẽ tới thẳng sân bay và
nhờ bạn lấy giúp hành lư trong pḥng, rồi gọi điện cho hăng hàng không British
Airways để xác nhận vẽ đă đặt.
Suốt dọc đường, ḷng anh vô cùng buồn bă, không phải v́ giấc mơ được nh́n bức
tranh đă không thành, mà bởi một ư nghĩ cứ ám ảnh trong đầu. Xe càng chạy xa
khỏi khu trang viên, h́nh anh Clara lại càng hiện lên rơ nét trong tâm trí anh. Khi
chạy tới Heathrow, anh đành phải tự thú nhận với ḿnh một sự thật duy nhất vẫn
ám ảnh anh. Anh cảm thấy nhớ Clara.
Chương 6
Peter giậm chân đi lại trong pḥng chờ. Nếu như chuyến bay
đi Boston không bị hoăn lại, có lẽ vào cuối giờ chiều Jonathan đă có mặt ở nhà.
- Cậu vẫn chưa hiểu điều ǵ ? Jonathan hỏi
- Sau hai mươi năm tớ theo cậu đi dự các buổi hội thảo, rồi hai đứa
ḿnh lang thang khắp những dăy hành lang các thư viện lớn nhỏ, lục
hàng tấn tài liệu lưu trữ để t́m những dấu hiệu dù nhỏ nhất để cậu
có thể khám phá bí ẩn về nhà danh hoạ của cậu, từ hai mươi năm nay
hầu như ngày nào chúng ta cũng bàn luận về vấn đề này, vậy mà cuối
cùng cậu lại từ chối không muốn biết bức tranh đó có tồn tại hay
không ư ?
- Có thể chẳng hề tồn tại bức tranh thứ năm nào cả, Peter ạ.
- Làm sao cậu biết được nếu như cậu chưa hề đặt chân vào toà lâu đài
ấy ? Tớ cần nó, Jonathan, tớ cần nó để không bị các đồng sự của tớ
sa thải.Tớ có cảm giác như đang bị giam trong một bể cá mà nước
Ở Luân Đôn, Peter đă hành động vô cùng liều lĩnh. Anh thành công
trong việc thuyết phục hội đồng tạm hoăn in ấn cuốn Catalogue trứ danh của công
ty, điều ấy ngang với việc phát một tín hiệu quan trọng trong giới nghệ thuật, giống như báo trước sự bùng nổ của sấm sét. Những cuốn Catalogue này thường được
phát hành đều đặn và nội dung của nó góp phần không nhỏ đem lại danh tiếng cho
công ty nơi anh làm việc.
- Nói cho tớ biết cậu vẫn chưa hề liên lạc lại với họ chứ ?
- Sau cú điện thoại của cậu sáng hôm
qua, nghe cậu kể lại cuộc nói
chuyện giữa cậu với Clara và việc cậu vội vàng đi về nông thôn, tớ đă gọi điện
cho giám đốc văn pḥng công ty tại Luân Đôn.
- Cậu không làm thế thật chứ ?Jonathan hỏi thật sự lo lắng.
- Hôm nay là thứ bảy, tớ đă gọi điện đến nhà ông ấy !Peter rên rỉ và
vùi đầu vào giữa hai ḷng bàn tay.
- Thế cậu đă nói ǵ với ông ta ?
- Tớ nói rằng tớ lấy danh dự cá nhân ra đảm bảo, nếu ông ấy dám tin
tưởng ở tớ, buổi đấu giá này sẽ trở thành một trong những buổi đấu giá lớn lao
nhất thập kỷ.
Peter không hề nhầm lẫn. Nếu Jonathan và anh có thể đưa ra công bố
tác phẩm? cuối cùng của Vladimir Radskin, những người mua từ các bảo tàng lớn
nhất thế giới sẽ đổ xô tới buổi đấu giá, bất kể các nhà sưu tầm lớn xướng giá
tới đâu. Jonathan sẽ đủ sức tặng cho nhà danh hoạ già của anh một tên tuổi lẫy
lừng như anh vẫn hằng ao ước và Peter sẽ trở thành một trong những chuyên gia
đấu giá " có hạng" nhất thời đại.
- Vẫn c̣n thiếu một chi tiết quan trọng trong bức tranh mơ ước của
cậu, thế cậu đă chuẩn bị một giải pháp thay thế chưa ?
- Có chứ, cậu chuyển giúp tớ thư từ tới ḥn đảo hoang nơi cậu đă đày
ải tớ sau khi bắt tớ phải hứa sẽ không tự tử vị bị cả giới chuyên
môn tẩy chay.
° ° °
Dải bờ biển nước Mỹ dần hiện ra trước mắt và cuộc tranh luận giữa
hai người bạn thân vẫn tiếp tục trong suốt chuyến bay, mặc cho những
hành khách xung quanh không tài nào chợp mắt nổi. Khi cô tiếp viên
đưa cho họ hai khay thức ăn, Peter lơ đăng kéo lá cửa rập ở máy bay
lên và nh́n những đám mây bên ngoài để tránh cái nh́n của Jonathan. Rồi anh quay lại nhanh như chớp, chộp lấy mẩu bánh sô- cô- la trên
khay của Jonathan và nhét ngay vào miệng.
- Cậu sẽ phải công nhận với tớ là thức ăn này thật không thể nuốt
nổi.
- Chúng ta đang ở độ cao ba mươi ngh́n dặm với mặt nước biển, chúng
ta có thể đi từ lục địa này sang lục địa khác trong ṿng 8 tiếng mà
không hề sợ say sóng, cậu cũng đừng nên than phiền chỉ v́ món gà
không hợp khẩu vị của cậu chứ.
- Giá như trong miếng bánh ḿ kẹp này có thịt gà thật th́ c̣n đỡ !
- Th́ cậu cứ coi đó là thịt gà đi !
Peter nh́n chằm chằm vào Jonathan, cho tới khi anh ta phải chú ư.
- Cậu làm ǵ thế? Jonathan hỏi.
- Khi vào pḥng cậu lấy hành lư sáng nay, tớ đă t́m thấy tờ giấy biên
nhận bức thư cậu fax cho Anna. Lẽ ra tớ không nên đọc, nhưng những
hàng chữ đập vào mắt tớ, cho nên. ...
- Thế th́ sao? Jonathan khô khốc cắt lời.
- Cậu đă viết tên Clara thay v́ Anna! Tớ muốn nói cho cậu biết trước
khi cậu được vị hôn thê thông báo điều đó.
Ánh mắt hai người giao nhau cảm thông, rồi Peter phá lên cười.
- Thật thế, tớ đang băn khoăn đây ! Anh vừa nói vừa lấy lại hơi thở.
- Cậu băn khoăn ǵ cơ ?
- Tớ tự hỏi không biết cậu ngồi trong máy bay này với tớ để làm ǵ ?
- Tớ về nhà !
- Tớ sẽ đặt câu hỏi theo cách khác, cậu sẽ thấy rơ là chính bản thân
cậu đă hiểu ! Tớ đang tự hỏi cậu sợ hăi điều ǵ ?
Jonathan suy nghĩ thật lâu trước khi trả lời.
- Chính tớ! Tớ sợ chính bản thân ḿnh.
Peter lắc đầu và nh́n qua khung cửa, bán đảo Manhattan hiện ra ở xa
xa.
- Chính tớ nhiều lúc cũng thấy sợ cậu, song điều đó chẳng ngăn trở
thành bạn thân nhất của cậu ! Hăy tự tạo cho ḿnh nhiều cơ hội hơn
nữa, rồi cậu cũng sẽ quen dần với những ư nghĩ ngông cuồng của bản
thân, rồi cậu sẽ cảm thấy như tớ, lúc say mê một danh hoạ người
Nga sau bao ngày tháng đằng đẵng ngồi nghe cậu ca ngợi về ông ta. Cậu
đang tiếc công sức bỏ ra để chuẩn bị cho hôn lễ chứ ǵ. Không, tớ
cam đoan với cậu, rồi cậu sẽ trở nên thân thiện với bản thân ḿnh
hơn, cậu sẽ nhận ra bao nhiêu biến động trong cuộc sống của chính
cậu !
Jonathan không trả lời, anh nhặt lấy cuốn tạp chí của hăng hàng
không được gài trong chiếc túi ở lưng ghế trước mặt. Sự t́nh cờ đôi
khi chứa đựng đầy khiêu khích. Khi máy bay cất cánh, trong lúc lật
một vài trang của cuốn nguyệt san này, anh ngẫu nhiên dừng lại trước
một bài phỏng vấn ngắn một nữ chủ pḥng tranh đang rất nổi danh ở
Luân Đôn. Một tấm ảnh của Clara minh hoạ cho bài báo, cô đang đứng
trước trang viên của ḿnh. Jonathan cúi người, nhét cuốn tạp chí vào
túi. Peter liếc mắt dơi theo cử chỉ của anh.
- Cậu đồng ư chứ, Peter nói tiếp, cho dù có bị đày lên đảo hoang,
th́ nhất định phải để cho tớ đến đó một ḿnh.
- Vậy à, sao lại thế ?
- Bởi v́ nếu cậu nhất định theo tớ, th́ ở đó sẽ chẳng c̣n là đảo
hoang nữa !
- Tại sao tớ lại nhất định phải theo cậu ?
- V́ cậu đă hoàn toàn chọn nhầm cuộc sống ở Boston, và cậu đă nhận
ra điều đó quá muộn !
- Cậu đang ám chỉ ǵ thế Peter ?Jonathan tức tối hỏi.
- Có ǵ đâu ! Peter ranh mănh đáp và tảng lờ cầm lấy cuốn tạp chí
hàng không của ḿnh.
Sau khi qua cửa hải quan, Peter và Jonathan cùng đi tới khu để xe. Họ đi theo hành lang có mái che cắt ngang qua những dẫn đi vào các
pḥng chờ máy bay, Peter nhoài người qua lan can.
- Cậu có thấy những người xếp hàng dài chờ ta- xi không ? Phải cảm
ơn ai đă nhanh trí tự ḿnh lái xe tới đây ?
Trong hàng dài những hành khách đang chờ tới lượt trên vỉa hè, Jonathan không nhận thấy một người đàn bà có mái tóc màu trắng bước
lên chiếc xe đầu tiên.
Con đường ngoại vi thành phố bị tắc nghẽn, Peter phải mất hơn một
tiếng mới chở được bạn về tới nhà. Jonathan đặt chiếc va- li xuống
và treo áo mưa lên móc. Đèn trong nhà bếp đều tắt hết. Anh đứng ở
cầu thang cất tiếng gọi Anna nhưng không thấy ai trả lời. Pḥng ngủ
ch́m trong bóng tối, chăn gối trên giường vẫn được xếp gọn gàng. Nghe có tiếng cót két phía trên đầu, anh liền bước lên tầng trên. Anh đẩy nhẹ cánh cửa khép hờ của xưởng vẽ. Căn pḥng cũng trống
trơn. Một bước tranh mới của Anna gác trên giá, Jonathan bước lại
gần và chăm chú ngắm nh́n. Bức tranh vẽ phong cảnh từ xưởng vẽ trông
ra song lại lấy không gian của thế kỷ trước. Anh nhận ra trên bức
tranh một vài toà nhà tồn tại bất chấp thời gian và đến giờ vẫn trơ
gan dưới cửa sổ căn nhà của họ. Ở chính giữa bức tranh, một chiếc
thuyền buồm hai cột đang cập bến cảng cũ. Vài hành khách đang hối hả
trên cầu tàu. Một gia đ́nh đang bước đi trên lối dẫn ra bến tàu. Nếu
như Jonathan tiến gần hơn chút nữa, anh đă có thể chiêm ngưỡng sự
chân thực trong từng nét vẽ của Anna. Đường nét mờ tỏ của những
thanh ván gỗ trên nền vỏ con thuyền. Một người đàn ông vóc dáng cao
lớn dắt tay đứa con gái nhỏ, chiếc mũ trùm đầu che khuất gương mặt
ông ta có màu xám hạt tai rất đẹp. Trên bàn tay đang bám vào lan can
cầu tàu của người đàn bà có đeo một chiếc nhẫn rất lớn.
Jonathan nghĩ đến người bạn cố tri, giờ đang ở nhà một ḿnh. Mặc dù
Peter đă cố tỏ ra b́nh thản, song Jonathan hiểu bạn quá rơ để thờ ơ
với nỗi lo lắng đang gặm nhấm tâm hồn Peter, và anh tự cảm thấy dằn
vặt. Anh tiến lại gần bàn làm việc của Anna và nhấc điện thoại lên. Peter đang gọi điện. Jonathan nh́n quanh, căn pḥng tràn ngập những
tia nắng cuối ngày xuyên qua lớp cửa kính. Ánh sáng nhuốm lên những
lá rèm vàng ruộm như màu những tấm thảm phủ trong một toà dinh thự
kiểu anh. Trái tim anh th́nh ĺnh rộn lên một ước muốn khiến tâm
hồn anh bỗng như tràn ngập hạnh phúc. Anh bỏ máy, bước ra khỏi
xưởng vẽ và lao nhanh xuống cầu thang. Anh chộp lấy chiếc va- li nhỏ
để trên ghế ngoài cửa ra vào và đóng cửa lại phía sau lưng. Anh leo
lên một chiếc ta- xi và nói với người lái xe :
- Sân bay Logan, làm ơn chạy càng nhanh càng tốt !
Người lái xe nh́n gương mặt của vị khách qua kính chiếu hậu và những
bánh xe của chiếc Ford nghiến sin sít xuống mặt đường rải nhựa.
° ° °
Khi chiếc ta- xi đă rẽ ở đầu phố, bàn tay Anna buông các lá gỗ
của tấm rèm cửa sổ xuống. Từ sau lớp kính của xưởng vẽ, cô mỉm cười. Anna bước xuống cầu thang, bật nút tự động trả lời trên điện thoại
trong bếp và nhặt chùm ch́a khoá để vào một chiếc cốc nhỏ. Tới cửa
ra vào, cô thấy chiếc áo mưa Jonathan đă để quên trên mắc áo khoát. Cô nhún vai, ra khỏi nhà và đi bộ tới đầu phố. Đi được một quăng,
cô lấy xe của ḿnh và lái về phía Bắc. Cô đi qua cầu Harvard bắc
ngang ḍng sông Charles và tiếp tục chạy xe tới tận Cambrigde. Ḍng
xe tren đường chen chúc dày đặc. Cô lái xe xuyên đại lộ Mass, ṿng
qua khu học xá của trường đại học và rẽ ngang sang phố Garden.
Anna đậu xe không xa số nhà 27.Cô bước lên bậc tam cấp ở thềm cửa và
nhấn chuông. Tiếng khoá điện tử reo lên và cánh cửa mở ra. Cô đi
thang máy lên tận tầng cuối cùng. Cánh cửa cuối hành lang hé mở sẵn.
- Cửa mở đấy, tiếng một người đàn bà từ bên trong nói vọng ra.
Căn hộ trông thật trang nhă. Trong pḥng khách, đồ gỗ được đánh vec-
ni kỳ công rất đúng mốt và được tô điểm bởi những đồ trang trí bằng
bạc. Những tấm màn cửa bằng vải mỏng che lớp kính đung đưa nhè nhẹ
trên những thanh kim loại.
- Mẹ ở trong buồng tắm, mẹ sẽ ra ngay đây, giọng nói lại cất lên. Anna ngồi vào một chiếc ghế salon bọc nhung màu nâu. Từ chỗ đó, cô
có thể nh́n bao quát quanh cảnh công viên Danehy.
Người đàn bà mà cô đến thăm, bước vào pḥng, vắt chiếc khăn bà vừa
dùng để lau tay lên thành một chiếc ghế tựa.
- Những chuyến đi này làm mẹ mệt mỏi quá, bà ta nói và ôm Anna trong
ṿng tay.
Rồi bà lấy ra từ trong chiếc cốc nhỏ chạm trổ tinh tế, một chiếc
nhẫn có đính viên kim cương tuyệt đẹp được mài theo kiểu cổ xưa và
đeo nó vào ngón tay.
° ° °
Jonathan đă lại sức trong thời gian bay. Anh nhắm mắt ngay sau
khi máy bay vừa rời khỏi đường băng và chỉ mở mắt khi những bánh xe
được nhả từ bụng chiếc máy bay của hăng British Airways để chuẩn bị
hạ cánh. Anh thuê một chiếc xe và chạy tới Heathrow để ra đường cao
tốc. Cho tới khi nh́n thấy một quán rượu trước mặt, anh nhấn bàn đạp
tăng ga. Một lát sau, cổng sắt uy nghi của khu trang viên đă hiện ra
trước mũi xe, hai cánh cổng mở rộng. Anh lái xe vào trong trang
viên, xe lăn bánh chậm dần và dừng lại trước sân.
Mặt trước toà nhà nhuộm ánh mặt trời. Những nhánh hồng dại quấn quưt
suốt dọc bờ tường màu hồng phấn. Ở chính giữa băi cỏ h́nh tṛn, một
cây dương đu đưa trong gió, những cành cao mềm mại xoà trên mái nhà. Clara hiện ra trước bậc thềm và bước xuống.
- Đúng giữa trưa, cô vừa nói vừa đi đến chỗ
anh, nếu như không chậm
mất một ngày th́ anh thật đúng hẹn - Tôi thật ḷng xin lỗi, đây là
một câu chuyện hơi dài, anh lúng túng đáp.
Cô quay bước vào trong dinh thự. Jonathan bối rối giây lát rồi đi
theo cô.Trong trang viên này, mọi thứ dường như đều không được chủ ư
sắp đặt, nhưng lại rất đúng chỗ. Có những nơi, ngẫu nhiên, luôn tạo
cho người ta cảm giác sảng khoái khi bước vào. Ngôi nhà mà Clara
sống phần lớn cuộc sống của cô cũng là một nơi như vậy. Khung cảnh
bên trong thật thân thiện, dường như theo năm tháng, cô đă truyền
cho toà nhà những làn sóng t́nh cảm.
- Hăy đi theo tôi, cô nói.
Họ bước vào một gian bếp rộng có sàn lát gạch nâu. Thời gian dường
như chẳng có chút dấu ấn tại nơi này. Một vài mẩu than cháy dở vẫn
hồng lên trong ḷ sưởi. Clara cúi xuống nhặt một chiếc giỏ lớn đan
bằng cành liễu, nhặt lên một nhánh củi và ném vào giữa đám tro. Ngọn
lửa bùng lên ngay tức khắc.
- Các bức tường ở đây dày tới mức bất kể mùa đông hay mùa hè, căn
pḥng này luôn luôn phải để ḷ sưởi. Buổi sáng mà bước vào đây, anh sẽ phải ngạc nhiên v́ cái lạnh ngự trị trong này.
Cô đặt vài chiếc đĩa lên một cái bàn lớn.
- Anh có muốn dùng một tách trà không ?
Jonathan tựa lưng vào tường và nh́n cô. Ngay cả trong những cử chỉ
b́nh thường nhất, Clara vẫn mang dáng vẻ cao sang.
- Thế là cô đă không tôn trọng bất cứ nguyện vọng nào của bà cô lúc
sinh thời phải không? Jonathan nói.
- Ngược lại th́ có.
- Chúng ta chẳng phải đang ở trong trang viên của bà sao ?
- Bà là một nhà tâm lư học tinh tế. Cách tốt nhất để khiến tôi thực
hiện những điều bà muốn là bắt tôi cam kết những ǵ ngược lại.
Nước bắt đầu reo trong ấm. Clara rót trà c̣n Jonathan ngồi vào chiếc
bàn lớn bằng gỗ.
- Trước khi tôi quay trở lại trường nội trú, bà đă hỏi tôi có nhớ
đan các ngón tay vào nhau khi hứa không ?
- Tôi nghĩ đó cũng là một cách để nh́n nhận sự việc.
Clara ngồi xuống đối diện với anh.
- Anh đă nghe chuyện Vladimir và người bảo trợ của ông ấy, Ngài
Edward chưa?Clara hỏi. Ngày lại ngày, họ đă không thể tách rời nhau
và thân thiết gần như anh em. Người ta c̣n kể rằng Vladimir đă qua
đời trong ṿng tay của ngài Edward.
Giọng cô đầy háo hức và phấn khích. Jonathan cảm thấy thực sự thoải
mái và Clara bắt đầu kể.
Sau khi đă bỏ trốn khỏi Nga vào những năm 1860, Radskin đến Anh quốc. Luân Đôn vẫn luôn là nơi trú thân tám thời của tất cả những kẻ tha
hương, ở đó người ta gặp những người Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Thuỵ Điển, Pháp, Tây Ban Nha, thậm chí cả những lữ khách tới từ Trung Hoa. Đô
thị già nua này đông đầy những người từ mọi nơi đổ đến mức loại rượu
thịnh hành nhất cũng được mang tên " thức uống cho mọi dân tộc
", nhưng Vladimir không uống rượu, ông không có tiền. Ông nương náu
trong một căn pḥng bẩn thỉu ở khu phố Lambeth gớm ghiếc. Radskin là
một người đàn ông tự trọng và dũng cảm, và cho dù nghèo kiết xác, ông thà chết chứ không chịu ngửa tay xin.
Ban ngày, đem theo những mẩu than được vót nhọn như đầu bút ch́, ông
ra khu chợ Covent Garden, rồi với những mẩu giấy cũ nhặt nhạnh được, ông phác hoạ khuôn mặt của những người qua đường.
Ông cố sức đẩy lùi sự cùng quẫn bằng cách bán những bức vẽ bằng lấy
một v́ đồng xu trong những ngày may mắn. Chính trong cảnh ngộ ấy ông
đă gặp được ngài Edward. Đó chỉ có thể là bàn tay tài t́nh của định
mệnh dàn xếp, vào buổi sáng mùa thu năm ấy, trên những con phố lộ
thiên của khu Covent Garden.
Ngài Edward là một nhà kinh doanh nghệ thuật giàu có và nổi danh.
Lẽ ra ngài sẽ chẳng bao giờ phải đặt chân tới khu chợ, song bệnh tật
đă cướp đi một trong những người giúp việc của gia đ́nh và phu nhân
muốn ngài phải t́m ra được người thay thế ngay lập tức. Khi Vladimir
Radskin giơ ra trước mặt ngài Edwar d bức kư hoạ ngài mà ông vừa
hoàn thành khi ngài mới chỉ dừng chân trước một quầy rau, th́ nhà
sưu tầm lớn này đă nhận ra ngay tài năng của người đàn ông khốn khổ. Ngày hôm sau, ngài quay lại bằng xe ngựa, đi cùng tiểu thư, và yêu
cầu người đàn ông vẽ cô. Vladimir từ chối. Ông không vẽ khuôn mặt
phụ nữ. Vốn tiếng Anh c̣m cơi đă không cho phép ông có thể giải
thích rơ ràng. Ngài Edward nổi giận. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của hai
người đàn ông mà sau này không thể rời nhau nửa bước thiếu chút nữa
đă kết thúc bằng đụng độ. Song Vladimir b́nh tĩnh ch́a ra cho ngài
Edward xem một bức vẽ khác. Lại là một bức chân dung ngài, lần này
là một bức tranh nhỏ hoàn thiện miêu tả ngài trong tư thế đứng, ông
đă hoàn thành hôm trước hoàn toàn dựa vào trí nhớ ngay sau khi ngài
rời bước. Bức chân dung sống động đến bất ngờ.
- Chính là bức chân dung của Sir Edward đang được trung bày tại San
Francisco phải không ?
- Nói cho chính xác hơn, bức hoạ hôm đó chính là bản phác thảo của
bức chân dung ấy.
Clara nhíu mày.
- Anh đă biết tất cả những câu chuyện đó rồi, tôi đang tự biến ḿnh
thành tṛ cười, anh là chuyên gia thông thạo nhất về danh hoạ này, vậy mà tôi lại kể cho anh nghe những giai thoại mà ngươi ta có thể
dễ dàng t́m thấy trong bất cứ cuốn sách nào viết về ông.
Bàn tay của Jonathan nhích lại gần bàn tay Clara. Anh vô cùng muốn
nó đặt lên tay cô, song anh ḱm lại.
- Trước tiên, có rất ít sách viết về Radskin, và tôi cam đoan với cô
rằng tôi chưa hề nghe nhắc tới giai thoại này.
- Anh lại giễu tôi phải không ?
- Không hề, và có lẽ cô phải cho tôi biết làm thế nào những chi tiết
quư giá ấy lại đến được với cô, tôi sẽ công bố chúng trong bản
chuyên khảo sắp tới của tôi.
Clara ngập ngừng một chút trước khi tiếp tục câu chuyện của ḿnh.
- Thôi được, tôi tin anh, cô nói và rót trà vào tách của Jonathan. Là một người đa nghi, ngài Edward đă yêu cầu Vladimir phải lập tức
vẽ một bức chân dung cho người đánh xe của ngài.
- Và bản phác hoạ đó đă tạo cảm hứng cho bức tranh mà chúng ta vừa
nhận được hôm thứ tư vừa rồi phải không? Jonanthan phấn khích hỏi.
- Đúng như vậy, Vladimir và người đánh xe đă trở thành bạn của nhau, cùng gắn bó bởi một niềm đam mê. Nếu như anh đang giễu cợt tôi và
nếu anh đă biết tất cả rồi, th́ tôi cam đoan với anh. ....
- Đừng cam đoan ǵ cả, cô hăy kể tiếp đi.
Vladimir lúc c̣n trẻ từng là một kỵ sĩ giỏi. Nhiều năm sau, khi con
ngựa cưng của người đánh xe chết gục trong lúc đang đi trên
đường, Vladimir an ủi nỗi đau ấy bằng cách vẽ tặng ông một bức chân
dung đứng trước chuồng ngựa. Lúc này người đánh xe đă già đi nhiều
nên Vladimir đă vẽ khuôn mặt ông dựa vào bức kư hoạ nhanh của buổi
sáng mùa thu ẩm ướt năm xưa trong khu chợ lộ thiên ở Covent Garden.
Jonathan không thể không nói cho Clara biết câu chuyện này đă nhân
thêm một giá trị lớn cho bức tranh sẽ được đưa ra đấu giá. Máu nghề
nghiệp nổi lên, anh nhiều lần thử t́m hiểu xem cô đă lấy thông tin
từ đâu. Anh t́m cách sàng lọc hiện thực từ mông lung trong những câu
chuyện của Clara. Suốt buổi chiều hôm đó, cô tiếp tục kể về Vladimir
và ngài Edward.
Nhà sưu tầm nghệ thuật hầu như ngày nào cũng tới thăm
Vladimir, cố
t́m cách gây thiện cảm bằng cách quan tâm chăm sóc. Sau một vài
tuần, ngài đề nghị hoạ sĩ dọn tới ở trong căn pḥng có ḷ sưởi đàng
hoàng trên gác xép của một trong những ngôi nhà quư phái mà ngài sở
hữu gần khu chợ, mà không đ̣i hỏi bất cứ điều kiện nào.
Vậy là từ đó, Radskin không c̣n phải lang thang trên những đường phố
lầy lội và bất an của Luân Đôn vào những buổi sáng mờ sương hay
những lúc bóng chiều chập choạng. Hoạ sĩ không chấp nhận ở trọ không
trả tiền. Ông bắt đầu vẽ tranh để thay tiền trọ. Ngay sau khi
Radskin ổn định nơi ở, Ngài Edward cho người mang tới chỗ ông dầu và
bột màu loại hảo hạng mà ngài đă mua từ tận Florence về. Vladimir
đích thân pha màu và ngay khi vừa nhận được những khung tranh đầu
tiêncho Ngài Edward gửi tới, ông liền thôi vẽ bằng than và chuyển
sang vẽtranh sơn dầu. Thế là bắt đầu giai thoại vẽ tranh tại nước
Anh kéo dài tám năm, cho tới tận khi ông qua đời. Sống trong căn
pḥng dành cho ḿnh ở gần khu Covent Garden, danh hoạ vẽ tranh theo
đặt hàng của nhà sưu tầm. Ngài Edward đích thân mang nguyên liệu tới
cho ông. Mỗi lần tới, ngài đều nán lại hồi lâu để tṛ chuyện cùng
danh hoạ. Cứ như thế, sau nhiều tuần lễ, ngài đă dần chiếm được cảm
t́nh của người hoạ sĩ mà ngài muốn làm Mạnh Thường Quân. Trong ṿng
một năm, người mà ngài vẫn thường gọi là " người bạn Nga của ta " đă
vẽ sáu bức tranh lớn. Clara kể tên từng bức :Jonathan biết rơ tất cả
những bức tranh đó và nói cho cô mỗi bức hiện đang được cất giữ ở
nơi nào trên thế giới
Thế nhưng chuyến di tản và những ngày sống khốn khổ trong khu phố
Lambeth đă làm sức khoẻ của Vladimir dần suy kiệt. Ông thường xuyên
bị hành hạ bởi những con ho xé phổi, các khớp xương trở mặt khiến
ông mỗi ngày một thêm đau đớn. Một buổi
sáng ghé tham Radskin, Ngài Edward đă bắt gặp ông nằm sơng soài trên
nền nhà. Bệnh thấp khớp đă làm ông tê liệt, không đủ sức để tự ḿnh
gượng dậy sau cú ngă.
Ngay lập tức Vladimir được chuyển ngay đến ngôi nhà trong thành phố
của ngài Edward để hàng ngày ngài có thể đích thân theo dơi việc
chăm sóc ông. Cho tới khi bác sĩ riêng của ngài Edward khẳng định
danh hoạ đă b́nh phục, ngài liền ra lệnh đưa ông tới khu trang viên
ngoại ô của ngài để ông tiện bề dưỡng bệnh. Ở đây, Vladimir đă hoàn
toàn b́nh phục. Nhờ có ngài Edward, ông đă vài lần tự ḿnh du hành
sang Florence mua bột màu để có thể tự pha chế những màu vẽ vô cùng
tinh tuư. Ngài Edward đối với ông như một người anh em. Trong suốt
những năm tháng đó, t́nh cảm của hai người trở nên say nặng. Những
khi không đi du lịch, Vladimir tập trung vào việc vẽ tranh. Ngài
Edward tổ chức triển lăm cho ông tại pḥng tranh của ḿnh ở Luân
Đôn, và mỗi khi có một bức tranh nào không t́m được người mua, ngài
liền giữ lại treo tại một trong những toà nhà của ḿnh và trả tiền
cho danh hoạ, coi như bức tranh đă có chủ. Tám năm sau, Vladimir lại
ngă bệnh và lần này cơ thể của ông suy yếu rất nhanh.
- Ông qua đời vào một ngày đầu tháng sáu, trong khi ngài Edward để
ông ngồi nghỉ trên một chiếc ghế bành dưới bóng cây râm mát.
Giọng Clara trở nên buồn bă khi kết thúc câu chuyện. Cô đứng lên dọn
bàn và Jonathan liền tự ư giúp một tay. Clara thu những tách trà, Jonathan cầm lấy ấm và hia người mang tất cả tới hai bồn rửa men
rạn, phía trên ch́a ra một ṿi nước khá to bằng đồng. Từ đầu ṿi
nước tuôn dài thành ḍng chảy. Jonathan thú thật với Clara anh chưa
hề được biết những t́nh tiết về quăng đời của Vladimir ở đồng quê và
kể cho cô nghe một vài chuyện đời khác của ông mà anh đă thu thập
được trong quá tŕnh nghiên cứu.
Đă đến cuối buổi chiều. Clara và Jonathan cùng nhau ngắm màn sương
dày đặc của thành Luân Đôn cổ kính, cùng h́nh dung về ngôi nhà nơi
Vladimir đă sống gần khi Covent Garden, thăm vườn hồng nơi ông thích
dạo chơi trong quăng thời gian ông sống tại đồng quê. Họ nói về danh
hoạ nhiều tới mức gần như tưởng thấy tiếng chân của ông đao lạo xạo
bước trên lối đi trải rơm của chuồng ngựa mỗi khi tới thăm người bạn
đánh xe. Jonathan rửa tách, Clara đứng bên cạnh giúp anh lau khô. Cô
đứng nhón trên đầu ngón chân để xếp bát đĩa trên một chiếc giá bằng
gỗ treo cao phía trên đầu. Hàng trăm lần anh muốn ôm cô trong ṿng
tay, bấy nhiêu lần anh đều phải gh́m ḿnh lại. Clara đóng ṿi nước
lại. Co lau tay vào tạp dề, tháo nó ra khỏi người và để bên cạnh
chiếc bếp nấu ăn bằng gỗ kiểu cổ. Cô bước lại gần
anh, căng tràn sức
sống.
- Nào, bây giờ th́ đi theo tôi, cô nói.
Cô dẫn anh theo cửa bếp ra phía sau toà lâu đài. Họ đi ngang qua sân
và dừng lại trước một nhà chứa đồ rất rộng. Trong lúc co xoay ch́a
khoá, Jonathan thấy tim đập rộn ràng. Cô đẩy hai cánh cửa lớn thật
mạnh. Phía trong nhà kho, cột chiếc Morgan cổ có mũi xe bằng thép
bóng láng đứng sừng sững. Clara ngồi vào sau tay lái cũ bằng gỗ rồi
nổ máy.
- Anh đừng xịu mặt như thế, lên xe đi ! Tôi phải vào mua một ít đồ
trong làng. Khi quay lại, anh sẽ được xem thứ đă khiến anh phải lặn
lội tới nơi này. Suy cho cùng, ai là người đă đến chậm 24 giờ đồng hồ
cơ chứ ? Cô nói, mắt lấp lánh vẻ ranh mănh.
Jonathan ngồi vào cạnh cô và Clara cho xe lăn bánh.
Chiếc xe mui trần lao trên đường quê. Họ dừng lại trước cửa hàng
thực phẩm. Clara mua thức ăn cho bữa tối. Jonathan hai tay bê sọt
thức ăn bước ra để lên băng ghế nhỏ phía sau. Chặng đường về, Clara
để anh cầm lái.Tâm trạng căng thẳng, anh cài số một khiến động cơ
khựng lại.
- Bộ ly hợp hơi cứng nếu không quen xe ! cô nói.
Jonathan cố nén tự ái và đánh lảng che giấu sự hồi hộp của ḿnh. Khi
đến trang viên, anh đă lấy lại b́nh tĩnh. Clara để đồ ăn trong bếp
rồi dẫn anh vào trong trang viên. Cô đưa anh đi theo một hành lang
dài dẫn tới một pḥng sách lớn. Những bậu cửa sổ bằng gỗ đă sói lở
bởi thời gian được bọc lại bởi giấy gián tường kiểu cổ. Phía trên ḷ
sưởi, một chiếc đồng hồ treo tường lớn chỉ 6 giờ, không ai biết đó là
giờ buổi chiều hay buổi sáng. Một vài cuốn sách b́a bọc cũ kỹ nằm
rải rác trên chiếc bàn gỗ gụ ở chính giữa pḥng. Qua những khung cửa
sổ khung nhỏ, có thể nh́n thấy nắng chiều đang tà dần trên các ngọn
đồi. Jonathan thấy Clara tiến về phía cánh cửa nhỏ nằm khuất trong
một hốc tường. Lối vào khá hẹp, anh định lùi bước để nhường đường
cho cô. Khi cô đặt tay trên nắm đấm cửa, họ vô t́nh chạm nhẹ vào
nhau, và thế là cơn chóng mặt kỳ lạ lại tái diễn.
Những đụn mây trĩu nặng ùn ùn kéo tới khiến bầu trời tối sầm. Ánh
sáng ban ngày tan biến và trận mưa đêm chợt đổ xuống. Một cơn lốc
ập vào qua cửa sổ pḥng sách. Jonathan chạy băng tới và muốn đóng nó
lại, nhưng cánh tay dường như không muốn tuân theo sự điều khiển của
anh. Anh muốn cất tiếng gọi Clara nhưng miệng không thể thốt thành
lời. Bên ngoài, mọi vật đều biến đổi, nhừng cành hồng tươi tốt bám
trên của toà lâu đài giờ bỗng lan khắp nơi hoang dă. Những cũ kỹ rít
lên trên các tầng gác dưới những đợt tấn công của gió. một vài mảnh
ngói lao từ trên xuống vỡ vụn giữa sân. Jonathan cảm thấy nghẹt thở, phổi đau như xé. Cơn mưa rào táp ướt mặt anh, Trước cửa trang
viên, một cỗ xe tồi tàn đă được đóng ngựa đứng chờ. Những tiếng vó
đập th́nh thịch xuống nền đất cho thấy lũ ngựa rất bồn chồn, một
người đánh xe đội mũ cao thành đang cố hết sức gh́m dây cương. Phía
trong khoang xe, lấp ló bóng một người trẻ tuổi trong bộ áo choàng
màu xám với chiếc mũ rộng trùm kín trên đầu. Một cặp vợ chồng đă
đứng tuổi vội vă chạy từ trong lâu đài ra. Người đàn ông vóc dáng
cao lớn dùng cánh tay che người đàn bà bà giúp bà ta trèo lên xe. Ông đóng của khoang xe lại, nhỏ dần ra cửa sổ và hét lên: "Chạy
vào rừng, nhanh lên, họ sắp đuổi tới rồi!"
Người đánh xe quất roi và chiếc xe chạy ṿng qua thân cây to. Cây
mọc trong vườn giờ đă rụng trụi lá. Mùa hè vừa mới bắt đầu giờ đă
như sắp tàn.Gọng nói xa lạ lại vang lên bên tai
anh: "Nhanh, nhanh, khẩn trương lên!" Tiếng nói th́ thầm lẫn trong
tiếng gào thét của gió.
Khó nhọc lắm Jonathan mới có thể quay lại nh́n vào trong pḥng khách. Khung cảnh bên trong cũng biến đổi. Ở đầu kia căn pḥng, cánh cửa ra
hành lang đột ngột mở toang. Jonathan nh́n thấy hai bóng người chạy
lên cầu thang. Một trong hai bóng người cắp dưới nách một gói lớn
bọc trong tấm chăn. Jonathan biết chi? trong vài giây nữa anh sẽ
không c̣n không khí để thở. Anh hít thật sâu và dùng hết sức chống
lại sự rệu ră của cơ thể, anh lùi lại một bước và cơn chóng mặt tan
biến ngay lập tức. Clara vẫn đứng trước mặt anh. Anh lại đang đứng
bên hốc cửa.
- Mọi thứ lại tái diễn phải không ? Cô hỏi.
- Đúng vậy, Jonathan vừa đáp vừa lấy lại b́nh tĩnh.
Mọi việc dường như trở nên kỳ quái hơn khi họ thú nhận điều này với
nhau. Cô nh́n anh chăm chăm và không nói thêm một lời, cô bước vào
trong căn pḥng làm việc nhỏ.
Cái giá được đặt giữa pḥng. Khi Clara nhấc tấm vải phủ trên bức
tranh, cô đă trao cho anh giây phút vô song mà anh vẫn hằng mơ tưởng. Anh nh́n bức tranh mà không thể tin vào đôi mắt ḿnh.
Đứng quay lưng lại, bất động trong sự vĩnh viễn của bức tranh, cô
gái khoác trên người chiếc váy xếp ly màu đỏ đậm và sâu lắng, một
màu đỏ mà Jonathan chưa từng nh́n thấy. Anh lướt hờ ngón tay trên
mặt tranh. Tác phẩm đẹp hơn cả những ǵ anh có thể tưởng tượng.
Trước hết là chủ đề bức tranh đă vượt lên mọi quy tắc mà Vladimir tự
đặt ra, rồi sắc đỏ đến khôn tả khiến anh nh́n ra đích thân Vladimir
đă tự nghiền và pha chế những màu sắc mà ông sử dụng theo lối cổ
xưa.
Anh chuếnh choáng ngây ngất. Cách bố trí ngược sáng mà danh họa sử
dụng trong bức tranh là của khuynh hướng cận đại. Đó không chỉ đơn
thuần là những xung động mà c̣n là sự hiện hữu của ánh sáng, một
tiến bộ vượt bậc báo hiệu xu thế hội họa cuả thế kỷ XX. Ở phần bối
cảnh, một cây dương phơn phớt xanh hiện lên trên, một bầu trời xanh
ngọc là bước tiên phong cho lối vẽ trước phái fô- vít (một trường
phái hội họa ra đời năm 1905, do một số nghệ sĩ hiện đại thể hiện, điển h́nh sử dụng màu sắc trong sáng và ngược với tự nhiên, đă gây
được ảnh hưởng tới những phái nghệ thuật ấn tượng). Jonathan càng ư
thức rơ rệt về tầm vóc của nhà danh họa. Vladimir đă vượt lên mọi
thời đại. Từ trước tới nay, và có lẽ sẽ chẳng bao giờ có bức tranh
nào sánh được với tác phẩm này. - Nghĩa là ông đă làm được điều đó, ông bạn già thân mến! Anh th́ thào. Ông đă hoàn thành một tác phẩm
bất hủ. Anh cứ đứng như vậy hàng giờ liền ngắm bức tranh Thiếu nữ áo
đỏ, và Clara sau khi đă rời khỏi căn pḥng, đến hết đêm cũng không
hề quay lại khuấy động sự yên tĩnh vây bọc quanh nhà danh họa và
người viết sử của ông.
Chỉ tới rạng sáng hôm sau cô mới bước chân vào pḥng làm việc. Cô
đặt khay lên bàn viết, kéo rèm để ánh sáng lùa vào trong pḥng qua
cửa sổ mở hé. Jonathan nheo mắt rồi vươn vai. Anh ngồi xuống đối
diện cô bên bàn và rót trà. Họ nh́n nhau hồi lâu không nói ǵ, rồi
anh phá vỡ sự yên lặng đồng cảm giữa hai người.
- Cô định thế nào?
Chủ yếu là tùy vào anh, cô nói trước khi bước ra khỏi pḥng.
Jonathan nán lại một ḿnh trong chốc lát. Giờ th́ anh biết bức tranh
mà anh nghiền ngẫm suố đêm rốt cuộc trả lại cho Radskin sự lẫy lừng
mà ông đáng được hưởng. Bức tranh Thiếu nữ áo đỏ sẽ đưa ông vào hàng
ngũ những danh họa cùng thời với ông. Các quản đốc của những bảo
tàng lớn như Metropolitan tại New York, Tare Galeric tại
Luân-Đôn, Orsay tại Paris, Prado tại Madrid, Offices tại Florence, Bridgestone tại Tokyo. Jonathan thoáng nghĩ tới Peter sẽ rất lúng túng khi đoán
xem ai trong số họ sẽ ra giá cao nhất để giành quyền treo bức tranh
này trên tường bảo tàng của ḿnh. Anh lấy điện thoại di động trong
túi áo vest, bấm số của Peter và để cho thằng bạn một tin nhắn.
- Tớ đây, anh nói, tớ có tin muốn chia sẻ với cậu. Tớ đang đứng
trước một bức tranh mà chúng ta đă t́m kiếm bấy lâu
nay, và cậu có
thể tin là nó vượt lên mọi mong đợi của chúng ta. Nó sẽ làm cậu trở
thành hạnh phúc nhất và bị ghen tị nhiều nhất trong các chuyên gia
đấu giá.
- Trừ một chi tiết nhỏ, Clara nói sau lưng anh.
- Chi tiết nào? Jonathan nói và cất điện thoại lại vào túi.
Rơ ràng anh đă quá sốc nên mới bỏ qua chi tiết này.
Cô đứng lên và ch́a tay muốn kéo anh lại gần bức tranh. Họ lúng túng
đưa mắt nh́n nhau rồi cô lập tức rút tay lại giấu ra sau lưng. Họ
bước đến bên giá tranh. Jonathan lại xem xét bức tranh của Vladimir.
Khi nhận ra sai sót của ḿnh, anh mở to mắt, nhấc bức tranh lên khỏi
giá và nh́n mặt sau. Trong giây lát anh chợt nhận ra một điều vô
cùng hệ trọng mà ḿnh đă không hề để ư tới: Vladimir Radskin đă
không để lại chữ kư trên tác phẩm cuối cùng của ông.
Clara bước lại gần anh và định đặt tay lên vai anh để trấn
an, nhưng
cô ḱm lại.
- Anh đừng tự trách ḿnh, anh không phải là người đầu tiên bị bức
tranh đánh lừa như vậy. Chính ngài Edward cũng hoàn toàn bị chinh
phục như anh và cũng không nhận ra điều này. Thôi, đừng đứng đây
nữa. Tôi nghĩ ra ngoài đi dạo một lát sẽ giúp anh nhẹ nhơm hơn.
Trong khi đi dạo ngoài vườn, cô kể tiếp câu chuyện của danh họa và
vị Mạnh Thường Quân.
Vladimir đă bị căn bệnh cướp đi quá bất ngờ, ông qua đời ngay khi
vừa hoàn thành bức tranh Thiếu nữ áo đỏ. Ngài Edward không thể chấp
nhận cái chết của người bạn. Đau đớn và khủng hoảng v́ sự nghiệp của
danh họa vẫn chưa được thừa nhận một cách xứng đáng, một năm sau đó, ông đă bảo đảm bằng chính danh tiếng của ḿnh, bức tranh cuối cùng
của Vladimir Radskin là một trong những tác phẩm lớn nhất thế kỷ.
Nhân kỉ niệm một năm ngày mất của danh họa, ông tổ chức một buổi đấu
giá rất lớn với mục đích công bố bức tranh. Rất nhiều nhà sưu tầm
lớn trên thế giới đă đổ xô tới. Trước ngày hôm đó, ông lấy bức tranh
ra khỏi két nơi vẫn được cất giữ và chuẩn bị mang tới pḥng đấu giá.
Khi ông chợt nhận ra bức tranh không hề có chữ kư, tất cả đă quá
muộn. Điều kỳ diệu mà ông chờ đợi trong buổi đại lễ được cử hành để
vinh danh cho tác phẩm của nhà danh họa đă phản lại ông. Tất cả
những nhà kinh doanh và các nhà phê b́nh của thời ấy đă dùng chính
điểm này để công kích ông. Toàn bộ giới nghệ thuật thời đó chế nhạo
ông. Ngài Edward bị kết tội đă mưu đồ trưng bày tác phẩm giả mạo một
cách vụng về. Mất danh dự, khánh kiệt, ông bỏ lại các dinh thự cuả
ḿnh và rời khỏi nước Anh ngay lập tức. Ông đă cùng vợ và con gái
sang Mỹ sinh sống và qua đời sau đó một vài năm, không c̣n được biết
đến.
- Nhưng làm thế nào mà cô biết được tất cả những điều đó? Jonathan
hỏi.
- Anh vẫn chưa hiểu ra hiện giờ anh đang đứng ở đâu ư?
Nh́n vẻ bối rối của Jonathan, Clara không thể nhịn được và bật cười.
- Anh đang đứng ở trong dinh thự của ngài Edward. Chính tại nơi đây
nhà danh họa của anh đă sống những năm tháng cuối cùng của cuộc đời, tại đây ông đă vẽ phần lớn các tác phẩm của ḿnh.
Lúc này Jonathan mới nh́n quanh và nhận ra ṭa lâu đài dường như
khác hẳn so với trước. Khi họ đi ngang qua cây dương, anh thử h́nh
dung danh họa đang làm việc dưới gốc cây. Anh t́m cách đoán vị trí
mà Vladimir đă đặt giá vẽ để vẽ một trong những bức tranh mà anh tâm
đắc nhất. Tác phẩm lấy chủ đề là phong cảnh đang hiện ra trước mắt
anh, theo anh biết, hiện đang được trưng bày trong một bảo tàng nhỏ
tại New England.
Jonathan nh́n bờ rào sơn màu trắng bao quanh ṭa lâu đài tới tận hút
tầm mắt. Ngọn đồi hiện lên trong bức tranh có vẻ như cao hơn so với
thực tế. Nghĩ vậy, Jonathan quỳ gối xuống và hiểu ra Vladimir đă vẽ
bức tranh trong tư thế ngồi chứ không phải đứng. Clara có lẽ đă nhầm
lẫn về khoảng cách thời gian trong câu chuyện của cô. Hai năm sau
khi chuyển tới đây có lẽ Vladimir đă yếu đi rất nhiều. Họ quay trở
vào trong ánh nắng chiều hè rực rỡ.
Suốt buổi chiều Jonathan ở trong pḥng làm việc. Khi trời vừa tối,
anh tới t́m Clara, cô đang hát khe khẽ trong nhà bếp. Anh lặng lẽ
bước vào, đứng tựa lưng vào khung cửa nh́n cô.
- Lạ thật, anh lúc nào cũng chắp tay sau lưng và hễ cứ nghĩ ǵ lại
nheo mắt. Anh đang băn khoăn điều ǵ chăng? Cô hỏi.
- Rất nhiều điều! Ở trong làng có quán ăn nào khả dĩ để rồi có thể
mời cô tới dùng bữa không, tôi muốn rèn luyện tay lái với chiếc
Morgan của cô, hơn nữa tôi bắt đầu đói, cô có đói không?
- Tôi sắp chết đói tới nơi rồi!_Cô nói và thả nắm dao nĩa đang cầm
trong tay vào bồn rửa. Tôi lên gác thay đồ, hai phút nữa sẽ sẵn
sàng.
Cô nói không sai. Jonathan chỉ kịp bấm số thử gọi Peter nhưng không
có ai bắt máy, và kịp nhận ra điện thoại di động vừa hết
pin, th́
nghe tiếng Clara gọi anh từ tầng sảnh tầng dưới.
- Tôi xong rồi đây!
Chiếc xe lăn bánh trong ánh sáng nhàn nhạt của vầng trăng h́nh lưỡi
liềm. Clara đă trùm lên tóc một chiếc khăn mỏng để gió khỏi thổi
tung. Jonathan nghĩ không biết đă bao lâu rồi anh chưa cảm thấy trái
tim ḿnh ngập tràn cảm xúc rạo rực như lúc này. Anh lại nghĩ tới
Peter, anh cần phải báo để bạn ḿnh biết bức tranh Thiếu nữ áo đỏ
không có chữ kư. Anh h́nh dung ra vẻ mặt của Peter cũng như những
việc mà anh phải hoàn thành để khả dĩ cứu được bạn ḿnh. Nội trong
một vài ngày, anh phải t́m cho ra những cách thức có thể xác thực
một bức tranh có rất nhiều điểm khác biệt với khuynh hướng sáng tạo
của nhà danh họa.
Cho dù đối với anh, mỗi nét vẽ trên bức tranh c̣n có giá trị thực tế
hơn rất nhiều so với một chữ kư, việc thiếu một nét kư trên tác phẩm
sẽ gây nhiều nghi vấn trong giới hội họa. Trước hết, cần phải t́m ra
nguyên do v́ đâu Vladimir đă không đề tên ḿnh trên bức tranh. Phải
chăng là do ông đă phản lại hai quy tắc bất di bất dịch của chính
ḿnh: không bao giờ dùng màu đỏ và không bao giờ vẽ phụ nữ? Nếu như
đó là hai đáp án duy nhất giải thích cho sự vô danh của bức tranh, th́ vô t́nh ông đă đặt ra thách thức lớn nhất đối với nhà thẩm định, hơn một thế kỷ cộng vài thập kỷ sau, vốn mang trong tâm trí ước vọng
trả lại cho ông một vị trí và danh tiếng xứng đáng.
"Tại sao ông lại làm như vậy, Vladimir?" Jonathan nghĩ thầm.
- Đó chính là câu hỏi mà tôi vẫn thường xuyên đặt ra, Clara nói.
Chiếc đèn bàn nhỏ mà người chủ quán trọ mang tới cho họ kín đáo hắt
ánh sáng lên khuôn mặt Clara. Jonathan ngẩng đầu lên và không thể
kiềm chế nổi khát khao muốn nh́n thẳng vào mắt cô.
- Cô đọc được ư nghĩ của tôi sao?
- Tôi chia sẻ với anh những ư nghĩ đó! Hơn nữa cũng chẳng có ǵ khó
khăn cả, có lẽ anh đă không nhận thấy môi ḿnh mấp máy khi th́ thầm
những lời đó.
- Không có chữ kư, bức tranh sẽ gây rất nhiều tranh căi. Chúng ta sẽ
cần những bằng chứng cụ thể để chứng minh Radskin chính là tác giả
của bức tranh.
- Anh định sẽ bắt đầu như thế nào?
- Tôi sẽ bắt đầu từ sự cấu thành của màu vẽ, và tôi sẽ phải t́m được
xuất xứ của những màu được dùng trong Thiếu nữ áo đỏ để có thể so
sánh với những loại màu mà ông sử dụng trong các bức tranh khác của
ḿnh. Điều này sẽ cho chúng ta những manh mối đầu tiên.
Bàn tay của họ để gần nhau tới mức tưởng chỉ cần vượt qua được vài
xăng- ti- mét ngượng ngùng hay sợ hăi, chúng sẽ quyện làm một. Và ai
biết được, nếu chạm vào nhau, chúng sẽ chẳng hé mở lời giải đáp cho
những băn khoăn cả hai người cùng trăn trở mà không dám cùng thổ lộ.
° ° °
Tại dinh thự, Jonathan được bố trí ở một căn
pḥng dành cho khách tới thăm. Anh đặt túi của ḿnh lên một chiếc
ghế bành và ngồi chống tay trên giường có lọng che bằng vải mộc. Rồi
anh tiến tới một trong hai cửa sổ trông ra vườn và dường như cảm
thấy mùi hương tỏa ra từ cây dương đang neo ḿnh trong bóng đêm. Anh
rùng ḿnh, đóng hai cánh cửa sổ phía trong và bước vào buồng tắm.
Clara đi ngang ngoài hành lang, cô dừng lại giây lát trước cửa pḥng
anh, rồi về pḥng cô nằm ở cuối dăy.
Anh dậy từ rất sớm. Chuẩn bị xong, anh xuống bếp. Khắp pḥng thơm
mùi gỗ cháy dở. Clara đă không hề nói quá, căn pḥng buổi sáng sớm
thật giá lạnh. Hai chiếc bát to được đặt trên bàn, cạnh một cái giỏ
lớn. Jonathan viết vài chữ để vào giỏ. Anh thổi cho lửa bùng lên rồi
đi ra bằng lối sau, khép cửa và cố không gây tiếng động. Cả khu vườn
như ch́m trong giấc ngủ dưới một màn sương mai. Jonathan hít đầy
phổi làn không khí mát lạnh của buổi sớm, anh thích nhất thời điểm
này trong mối ngày, khi hai thế giới hoàn toàn khác biệt gần như nối
vào nhau trong giây lát. Không một cành cây, không một ngọn hồng dại
nào bám trên tường lay động. Những viên sỏi lạo xạo dưới chân anh.
Anh lên xe, nổ máy và ra khỏi trang viên. Ra tới con đường nhỏ có
hai hàng cây cao, anh nh́n lại ṭa nhà đang thu ḿnh dần trong kính
chiếu hậu. Khi xe anh tới khúc quanh của con đường cũng là lúc Clara
mở toang các cửa sổ tầng trên.
Một làn mưa rơi nhẹ trên sân bay Heathrow. Jonathan trả chiếc xe và
lên xe buưt đi tới khu có các quầy vé của hăng hàng không Italia.
Chuyến bay đi Florence sẽ cất cánh trong hai giờ nữa, anh liền đi
lang thang khắp các quầy hàng.
Clara bước vào bếp, cô tới bên ngọn lửa đang nổ lốp đốp trong ḷ
sưởi và mỉm cười. Rồi cô lại gần bếp ga, đặt ấm đun trà lên một ngăn
bếp và ngồi vào bàn. Bà quản gia hàng ngày vẫn lo việc chăm sóc
trang viên đă mang báo và bánh ḿ tới. Cô có thể nghe thấy tiếng
bước đi tự tin của bà ở tầng trên. Clara nh́n thấy lá thư mà
Jonathan đă để lại cho cô. Cô bỏ tờ báo xuống và bóc phong b́.
Clara
Sớm nay tôi phải đi. Tôi đă định gơ cửa để chào cô, nhưng cô vẫn c̣n
đang ngủ. Khi cô đọc được những ḍng này, tôi đang trên đường đi
Florence, lần theo dấu nhà danh họa của chúng ta. Thật lạ, tôi đă
phải chờ chừng ấy thời gian để có được khám phá quan trọng nhất mà
cuộc đời dành tặng. Tôi muốn chia sẻ với cô một ư nghĩ đă xuất hiện
trong tâm trí tôi ngay khi vừa tỉnh giấc. Khám phá này cũng giống
như một chuyến du khảo, tôi nghĩ nó sẽ xảy đến từ giây phút đầu tiên
khi tôi gặp cô. Song thực chất giây phút đó là từ lúc nào? Cô có biết
không?
Tôi sẽ điện cho cô vào tối nay, hy vọng cô có một ngày tốt đẹp. Tôi
thực ḷng muốn được ở bên cô ngày hôm nay, tôi biết ḿnh sẽ nhớ cô
nhiều.
Chúc mọi điều tốt lành,
Jonathan
Clara gấp lá thư lại và chậm răi cất nó vào túi áo khoác dài. Cô hít
một hơi thật sâu, b́nh thản ngước nh́n chùm đèn treo trần, rồi đưa
hai tay lên trời và thốt kêu lên vui sướng.
Gương mặt ngạc nhiên của Dorothy Blaxton, bà quản gia, ngó vào qua
cánh cửa hé mở.
- Cô gọi tôi phải không, thưa cô chủ?
Clara lấy tay che miệng giả vờ ho.
- Không, Dorothy, có lẽ đó là tiếng nước sôi tôi đun để pha trà
thôi.
- Có lẽ thế - bà trả lời, và nh́n sang ngăn bếp ga để ấm nước mà
Clara đă quên không bật lửa. Clara đứng dậy và quay một ṿng mà hoàn
toàn không để ư ḿnh đang làm ǵ.
Cô bảo bà Blaxton dọn nhà sạch sẽ và cắm vài bông hoa trong pḥng
dành cho khách, cô ra Luân-Đôn nhưng sẽ về ngay.
-
Vâng, thưa cô chủ - bà quản gia trả lời và đi lên cầu thang.
Ngay khi Dorothy Blaxton khuất bên ngoài hành lang, cô ngước mắt lên
trời rồi cũng đi lên tầng.
Đúng vào lúc máy bay của Jonathan rời đường băng, Clara lái chiếc
Morgan rời khỏi trang viên. Mặt trời tṛn vạnh và nóng bỏng tỏa sáng
trên bầu trời.
Hai tiếng sau, cô đậu xe trước cửa pḥng tranh.
° ° °
Ở cách đó vài ngàn cây số, một chiếc ta- xi thả
Jonathan xuống trước Piazza della Repubblica (Quảng trường Cộng ḥa
nằm ở trung tâm thành phố Florence và là một trong những khu thương
mại lớn cuả thành phố), trước cửa khách sạn Savoy. Anh lên ngay
pḥng và ngay lập tức gọi cho người bạn đă lâu không gặp. Lorenzo
nhấc máy sau hồi chuông đầu tiên và nhận ngay ra giọng anh.
- Cơn gió nào đă mang cậu tới đây? Lorenzo hỏi bằng giọng Toscane.
- Cậu có rỗi để ăn trưa cùng tớ không? Jonathan hỏi lại
- Với cậu th́ lúc nào tớ cũng rỗi! Thế cậu ở khách sạn nào, sao
không tới nhà tớ?
- Khách sạn Savoy.
- Vậy th́ tớ sẽ gặp cậu ở quán cà phê Gilli trong nửa giờ nữa nhé.
Đa số các bàn ngoài sân đều đă có người ngồi nhưng Lorenzo là khách
quen của tất cả các quán đông người lui tới. Người phục vụ bàn thân
mật ôm vai anh, bắt tay Jonathan rồi dọn ngay cho họ một bàn trước
ánh mắt giận dữ của đám khách du lịch đang đứng xếp hàng chờ trước
cửa. Jonathan nhă nhặn từ chối thực đơn mà người phục vụ đă đưa cho
anh.
- Tôi cũng dùng như Lorenzo.
Những câu chuyện liên miên không dứt quanh chiếc bàn, nơi hai người
bạn tận hưởng niềm vui hội ngộ.
- Thế nào, cậu tin là cậu đă t́m thấy bức tranh trứ danh của ḿnh
rồi phải không?
- Tớ chắc chắn, nhưng tớ rất cần sự giúp đỡ của cậu để cả thế giới
có thể đồng t́nh với tớ.
- Nhưng tại sao ông ta không để lại chữ kư trên bức tranh, cái ông
họa sĩ chết tiệt của cậu?
Tớ c̣n chưa biết, mà chính v́ thế nên tớ mới cần đến cậu.
- Cậu chẳng thay đổi chút nào! Lúc nào cậu cũng điên rồ. Từ lúc c̣n
ngồi trên ghế trường mỹ thuật, rồi lúc chúng ḿnh thực tập tại
Paris, cậu đă nói măi với tớ đến nhàm tai về Vladimir Radskin của
cậu.
- Cậu th́ hơn ǵ, cậu cũng chẳng thay đối chút nào, Lorenzo.
- Tớ đă già đi hai mươi tuổi, như thế cũng đă là thay đổi rồi.
- Thế c̣n Luciana?
- Vẫn là vợ tớ, kiêm mẹ của những đứa con tớ, cậu biết rồi đấy, ở
nước Ư này gia đ́nh là cả một thể chế. Thế cậu lập gia đ́nh chưa?
- Sắp.
- Tớ cũng đoán như vậy, cậu vẫn chẳng thay đổi ǵ.
Người phục vụ đặt phiếu tính tiền và hai ly cà phê đậm đặc lên bàn.
Jonathan rút ví ra nhưng Lorenzo lập tức chụp lấy tay anh.
- Cậu cất ngay đi cho tớ, tiền đô-la của cậu chẳng c̣n chút giá trị
nào ở Châu Âu nữa, cậu không biết sao? Được rồi, tớ sẽ đưa cậu đến
chỗ gia đ́nh Zecchi, xưởng của họ nằm ngay gần đây. Có thể ở đó
chúng ta sẽ biết được thêm tin tức ǵ về những loại bột màu mà ông
người Nga của cậu đă sử dụng. Họ c̣n giữ lại những loại xuất hiện từ
thế kỷ trước. Cửa hiệu này chính là kư ức của nền hội họa đương đại.
Tớ cũng biết chỗ của gia đ́nh Zecchi rồi, Lorenzo!
- Đúng thế, nhưng cậu chẳng quen biết ai làm việc ở đó, c̣n tớ th́
có!
Họ rời khỏi Pizza della Republica. Chiếc ta-xi chở họ tới số 19 via
della Studio. Lorenzo đến trước quầy tiếp tân. Một người phụ nữ tóc
nâu tươi tắn tên Grazilla dang rộng hai tay chào đón họ. Lorenzo th́
thầm vào tai cô, cô liên tục đáp "Vâng" và dường như có vẻ thích
thú. Cô nháy mắt với anh và kéo hai người ra phía sau quầy. Ở đó, họ
đi lên một cầu thang cũ kỹ bằng gỗ kêu cót két theo mỗi bước chân.
Graziella cầm theo một chiếc ch́a khóa có h́nh thù rất kỳ quặc. Cô
tra ch́a vào ổ khóa của cánh cửa dẫn vào một gian pḥng xép rộng
mênh mông không có chút ánh sáng nào lọt tới. Dưới những thanh rầm,
dăy giá sách như kéo dài vô tận, trên đó hàng ngàn cuốn sách đứng
thẳng hàng dưới một lớp bụi mỏng. Graziella quay về phía Jonathan và
nói với anh bằng giọng gần như không có trọng âm:
- Nhà danh họa của anh đă đến đây vào năm nào?
- Khoảng từ 1862 đến 1865.
- Nếu vậy th́ đi theo tôi, những cuốn sổ ghi chép của thời kỳ đó nằm
hơi sâu phía trong kia.
Cô lướt các ngón tay trên giá và dừng lại trước những cuốn sổ có gáy
đóng bằng da rạn nứt rồi rút ra năm cuốn.
Cô đặt những cuốn sổ to kềnh lên trên một chiếc bàn trống. Tất cả
đơn đặt hàng gửi tới các cửa hiệu của gia đ́nh Zecchi trong ṿng bốn
thế kỷ qua đều được ghi chép trong những cuốn sổ này.
- Trước kia, đây là nơi người ta chuẩn bị bột màu và các loại dầu
tinh khiết, Graziella nói. Những bậc thầy nổi danh nhất đều đặt chân
tới đây. Giờ nơi này trở thành pḥng lưu trữ tài liệu trực thuộc bảo
tàng Florence. Lẽ ra phải có giấy phép của quân đốc bảo tàng, anh
mới được vào trong này. Nếu bố tôi biết, thế nào ông cũng sẽ nổi
cáu. Nhưng anh là bạn của Lorenzo, thành ra anh cứ coi đây là nhà
của ḿnh. Tôi sẽ cùng t́m giúp anh.
Jonathan, Lorenzo và Graziella ngồi xuống quanh bàn. Vừa lần theo
những trang giấy viết tay, Jonathan vừa h́nh dung Vladimir đi đi lại
lại nơi gian pḥng này, trong lúc chờ người ta chuẩn bị cho các đơn
hàng của ông. Radskin cho rằng trách nhiệm của một ông họa sĩ không
chỉ dừng lại ở chất lượng tuyệt hảo cũng như nghệ thuật pha chế màu,
mà c̣n phải biết bảo tồn sắc màu trước sự tàn phá của thời gian. Khi
c̣n dạy học ở Nga, bao lần ông luôn phải luyến tiếc trước những tổn
thất do việc phục chế vụng về trên những bức tranh của các nhà danh
họa yêu thích. Jonathan biết có nhiều nhà phục chế ở Paris sẵn sàng
chia sẻ quan điểm với Radskin. Chợt họ nghe tiếng cầu thang kêu cọt
kẹt, ai nấy đều cảm thấy máu trong người đông cứng lại, có ai đó
đang đi lên. Graziella chộp lấy những cuốn sổ và chạy vội đi xếp
chúng lại chỗ cũ. Tiếng nắm đấm cửa rít lên, Graziella chỉ kịp làm
ra vẻ ngây thơ trước khi cha cô bước vào pḥng, nét mặt sa sầm.
Giovanni đưa tay vuốt bộ râu quai nón và lên tiếng quở mắng Lorenzo.
- Cậu làm ǵ ở đây thế này? Chúng ta có hẹn nhau đâu nhỉ.
- Giovanni, lúc nào tôi cũng cảm thấy vui mừng khi được gặp ông,
Lorenzo đáp và vui vẻ tiến lại gần ông.
Anh giới thiệu Jonathan với ông. Các nếp nhăn trên mặt người cha của
Graziella giăn dần khi ông nhận ra, không chỉ có con gái ḿnh với
Lorenzo trong căn pḥng xép.
- Đừng trách cô con gái của ông, chính tôi đă năn nỉ cô bé cho một
trong những người bạn thân nhất cuả tôi xem chốn độc nhất vô nhị này
của Florence. Cậu ta từ Mỹ tới, thành phố Boston. Giới thiệu với
ông, Jonathan Gardner, chúng tôi biết nhau từ khi c̣n ngồi trên ghế
đại học ở Paris. Anh ta là một trong những chuyên gia có tiếng nhất
trên thế giới.
- Thói quen phóng đại không phải là một tính cách cố hữu của dân tộc
ta, Lorenzo, cậu đừng quá lời như thế! Cha của Graziellla đáp.
- Ḱa bố! Cô con gái nói giọng hơi trách móc.
Giovanni nh́n Jonathan ḍ xét, ông đưa tay vuốt lên bộ râu quai nón,
nhíu mày và cuối cùng ch́a tay ra.
- Chào mừng anh đến chỗ chúng tôi, nếu như anh là bạn của Lorenzo,
th́ chúng tôi cũng sẽ coi anh là bạn. Bây giờ, tốt nhất là chúng ta
xuống nhà tiếp tục câu chuyện. Các chủ nhân của gian pḥng này sẽ
không Các chủ nhân của gian pḥng này sẽ không thích thú chút nào
nếu có gió lùa vào đây. Đi theo tôi.
Ông dẫn họ vào trong một gian bếp rất rộng. Một người phụ nữ có mái
tóc được buộc túm bên dưới chiếc khăn mỏng, đang đứng trước các bếp
ḷ. Bà thắt chặt dây buộc tạp dề và quay lại, dang rộng tay đón chào
những vị khách của cô con gái. Jonathan nh́n bà và chớp mi mắt, anh
ngạc nhiên khi nhận ra ḿnh bỗng cảm thấy nhớ Clara. Một tiếng sau,
Lorenzo và Jonathan rời khỏi nhà Giovanni.
- Cậu sẽ ở lại tối nay chứ? Lorenzo hỏi trong lúc tiễn anh qua những
con phố.
- Ừ, tớ muốn chờ kết quả t́m kiếm mà tớ đă nhờ cô bạn của cậu giúp.
- Graziella sẽ t́m ra, cậu yên tâm đi.
- Nếu như bố cô ấy để cho cô ấy được vào khu lưu trữ.
- Cậu đừng lo, tớ biết ông ấy rất rơ, thoạt nh́n ông có vẻ đáng sợ
vậy thôi, song đối với cô con gái, ông ấy mềm như tuyết.
- Tớ không biết phải làm ǵ để cám ơn cậu, Lorenzo.
- Nếu vậy th́ hăy tới nhà tớ dùng bữa, Luciana rất vui nếu được gặp
cậu, mà chúng ḿnh lại có thêm thời gian bàn công việc.
Lorenzo chia tay Jonathan ở trước cửa khách sạn và quay lại tiếp tục
công việc ở viện hàn lâm nghệ thuật, nơi anh phụ trách một pḥng
nghiên cứu. Thoạt tiên, Jonathan muốn đi tới Offices song bảo tàng
lại đóng cửa. Bồn chồn v́ phải chờ đợi lâu, anh bèn đi dạo qua Ponte
Vecchio và thả bộ tới tận Piazza Pitti. Anh mua vé vào công viên
Boboli.
Anh đi ngang qua khoảng sân trong và leo lên những bận thang dẫn tới
sân thượng được ngăn cách với ṭa lâu đài bằng đài phun nước
Carciofo. Khung cảnh Florence thấy được chốn này thật dễ khiến cho
người ta xúc động. Nóc nhà thờ lớn và gác chuông nhô lên giữa những
mái nhà như trải dài không cùng. Anh chợt nhớ tới bức tranh được
trưng bày tại Louvre mà Camille Coror (Họa sĩ Pháp (1798- 1875), một
trong những họa sĩ tiên phong của trường phái nghệ thuật ấn tượng)
đă vẽ năm 1840. Công viên mở ra ṭa khán đài ṿng cung được xây từ
thế kỷ thứ XV. Anh say mê chiêm ngưỡng đài phun nước La Mă và cột đá
Ai Cập nằm ở trung tâm. Anh đi dần lên đỉnh đồi. Phía bên phải, một
lối ṃn dốc lên dẫn tới chiếc bồn hoa tṛn. Anh ngồi xuống một gốc
cây để nghỉ trong ánh chiều d́u dịu của thành phố Florence. Trên
chiếc ghế đá bên cạnh, một đôi trai gái đang nắm tay nhau. Họ lặng
lẽ chiêm ngưỡng vẻ hùng vĩ của những công tŕnh xung quanh. Bầu
không khí ngự trị khu vườn Boboli mang dấu ấn tĩnh lặng nhiều thế kỷ
đă trôi qua. Tâm trí xao động. Jonathan khép mắt để tôn trọng sự
riêng tư của đôi trai gái rồi đi dần về phía Viottolone.
Lối đi dài có hai hàng bách cổ thụ rợp bóng chạy dốc thẳng xuống
Piazza dell’Isolotto, nơi ngự một bồn nước được trang trí bằng những
bức tượng. Chính giữa là một ốc đảo với những cây cam và chanh.
Jonathan bước đến gần đài phun nước Đại dương. Giữa các nhân vật
huyền thoại, khuôn mặt Vladimir chợt hiện lên dưới làn nước phẳng
lặng, tưởng như là nhà danh họa đă bước tới sau lưng anh mà không hề
gây tiếng động. Jonathan quay người lại. Anh cảm giác như nh́n thấy
bóng của Vladimir vừa khuất sau gốc cây. Nhà danh hoạ già uể oải thơ
thẩn dạo bước giữa dấu tích những nền văn hóa cổ mà hơi hướng thầm
lặng của chúng in đậm ở nơi này. Ṭ ṃ, Jonathan theo bước ông tới
tận đài phun nước Neptune; Vladimir dừng lại trước pho tượng thần
ph́ nhiêu rồi đến gần anh. Ngón tay trỏ đưa lên môi, ông ra hiệu cho
anh đừng nói ǵ rồi đặt một bàn tay lên vai và kéo anh đi.
Họ bước cạnh nhau trên lối đi dẫn xuống chân thành Belvédere. Rồi
cùng đi theo một con dốc nằm phía bên phải ṭa lâu đài đưa đến những
hầm đă. "Đây là một tác phẩm do Buontalenti (nhà họa sĩ và kiến trúc
sư người Ư sống vào thời kỳ Phục Hưng. Ông đă thực hiện nhiều công
tŕnh nổi tiếng trong đó có việc thiết kế khu mộ Basilica cho ḍng
họ Medici) thể hiện, bao gồm rất nhiều gian được trang trí bằng các
bồn nước, những thạch nhũ và một khối điêu khắc đá", nhà danh họa
th́ thầm vào tai anh. "Hăy nh́n xem, mọi thứ ở đây đẹp quá phải
không", ông lại th́ thầm. Rồi ông từ biệt anh và biến mất trong cảm
giác mơ hồ ảo ảnh. Jonathan đứng dậy rời chiếc ghế đá nơi anh vừa
thiếp đi.
Trên đường ra khỏi công viên, đi ngang qua đài phun nước Bacchus,
anh đưa tay vẫy một chú lùn đang cưỡi trên lưng con rùa đá.
° ° °
Grazilla chạy những bước dài lên cầu thang dẫn
tới gian pḥn xép. Cô xoay nhẹ nắm đấm cửa, đi dọc theo dăy giá sách
và nhẹ nhàng rút cuốn sổ ghi chép ra. Cô đặt nó lên bàn dưới ánh
sáng của một ngọn đèn nhỏ, cô bắt đầu t́m kiếm theo yêu cầu của
Lorenzo. Bị cuốn hút bởi những trang sách, cô giật nảy người khi ông
bố ngồi xuống bên cạnh. Ông choàng tay qua vai cô kéo nhẹ về phía
ông.
- Thế nào, chúng ta t́m kiếm ǵ cho những người bạn của con đấy, con gái?
Cô nhoẻn miệng cười và hôn nhẹ lên má ông. Từng trang giấy của cuốn
sổ cũ được lật ra, những hạt bụi mỏng ánh lên dưới những tia sáng
của ngọn đèn bàn tái hiện tất cả những ḍng ghi chép của gian pḥng
chứa đầy những bí ẩn Grazilla và Giovanni làm việc cho tới tận cuối
ngày.
° ° °
Màn đêm buông dần trên thành phố Florence,
Jonathan đến trước mặt tiền của ṭa nhà từ thế kỷ XVI nơi có căn hộ
của gia đ́nh Lorenzo. Cũng vào lúc đó, Grazilla bước ra sân nhà
Zecchi. Cô choàng trên người một chiếc khăn rộng song không phải để
giấu ḿnh trước những cơn gió mát buổi đêm miền Toscan. Cô khéo léo
gh́ chặt vào người một cuốn sổ có gáy bọc bằng da rạn. Grazella
ngước mắt nh́n lên những khung cửa sổ tầng trên, nơi bố mẹ cô đang
ngồi xem truyền h́nh, rồi lén đi qua cánh cổng và biến mất trong
những con đường của thành phố cổ kính.
° ° °
Ở Luân -đôn, Clara đang tiếp một chuyên gia đấu
giá người Anh và nhà thẩm định đi cùng ông ta. Cô kín đáo nh́n đồng
hồ. Các đối thủ của Jonathan và Peter được biết rằng, cô đă có quyết
định và họ không được chọn. Cô bước ra khỏi căn pḥng. Trước khi
khép cửa lại, cô nh́n bức tranh chép tác phẩm của Camille Corot treo
trên tường pḥng họp. Bức tranh trông thật sống động. Cô đắm ḿnh
vào khung cảnh ấy, để tâm trí phiêu du trên những nóc nhà của thành
phố Florence. (Florence là một tỉnh ở miền Nam ở xứ Ư)
° ° °
Anna đi bộ theo những con đường quanh co của khu
chợ lộ thiên nằm bên cảng cũ Boston. Cô ngồi xuống một bàn ngoài
trời của một trong vô số những quán cà phê nằm dọc bên đường. Anna
mở tờ báo mang theo ra xem. Sau đó chừng 10 phút, một người đàn bà
có mái tóc trắng đến và ngồi xuống đối diện với cô.
- Xin lỗi v́ mẹ đă đến muộn, đường phố lắm xe cộ quá.
- Thế nào mẹ? Anna hỏi và đặt tờ nhật báo xuống.
- Mọi chuyện diễn ra tốt hơn cả mong muốn của mẹ. Nếu một ngày nào
đo, mẹ quyết định công bố các công tŕnh nghiên cứu của ḿnh, chắc
chắn mẹ sẽ giành được giải Nobel.
- Nếu một ngày nào đó, mẹ quyết định công bố các công tŕnh ấy, có
lẽ người ta đưa mẹ vào ngay nhà thương điên.
- Có thể con nói đúng, nhân loại vẫn luôn chối bỏ những phát minh
làm khuynh đảo mọi thứ. Thế nhưng, như một người bạn già của mẹ từng
nói, trái đất vẫn quay.
- Mẹ có mang những tấm ảnh theo không?
- Tất nhiên là mẹ có mang chúng tới.
- Như vậy là tất cả đều diễn ra tốt đẹp. Con muốn kết thúc mọi
chuyện càng nhanh càng tốt, Anna nói.
- Hăy kiên nhẫn, con gái yêu quư, người đàn bà tóc trắng tiếp lời,
chúng ta đă chờ đợi những giờ phút này từ biết bao lâu nay, v́ vậy
hăy tận hưởng những tuần lễ sắp tới. Chúng sẽ trôi qua nhanh hơn con
tưởng, hăy tin mẹ.
- Từ trước tới nay con vẫn tin tưởng mẹ, Anna nói và đưa tay vẫy
người phục vụ bàn.
° ° °
Luciana đă chuẩn bị một bữa tối rất thịnh soạn.
Hai nhóc con của Lozenro tới chào Jonathan. Grazilla đến đúng lúc họ
chuẩn bị ngồi vào bàn.
- Tôi nghĩ ḿnh đă t́m được điều ǵ đó, Graziella nói, nhưng lát nữa
chúng ta sẽ cùng xem.
Ngay sau khi bữa tối kết thúc, cô chạy ra pḥng ngoài t́m cái gối
đầu dưới chiếc chăn choàng mang tới đây.
Cô để cuốn sổ lên chiếc bàn trong pḥng khách và mở ra. Jonathan và
Lozenro ngồi xuống bên cạnh cô.
- Vladimir của anh chưa hề tới Florence, hoặc ít nhất th́ ông ta
cũng chưa bao giờ đặt chân tới cửa hàng nhà Zecchi.
- Không thể thế được! Jonathan nói.
Lorenzo ra hiệu cho anh để Graziella lật một trang, rồi một trang
tiếp theo trựớc khi giở ngược lại.
- Các anh nh́n đây, chỗ này, cô nói và chỉ vào những ḍng chữ thanh
mảnh được viết bằng mực xanh.
Cô chỉ ngón tay vào cột đầu tiên có ghi tên những thữ được đặt hàng
như bột màu, dầu bút vẽ, dung môi, chất bảo quản, cột thứ hai ghi
ngày pha chế, cột thứ ba ghi giá tiền, và cột cuối cùng ghi tên
người đặg hàng. Ở ḍng cuối cùng có một ḍng chữ viết tay tên ngài
Edward.
- Không phải ông ta đích thân tới đó, cô nói thêm.
Bí ẩn mà Jonathan đang t́m cách hóa giải lại càng trở nên phức tạp.
- Tôi đă chuẩn bị cho anh một danh sách liệt kê tất cả những ǵ ông
ấy mua. Có một chi tiết chắc chắn rằng anh ta sẽ lưu tâm. Phải thừa
nhận rằng ngài chủ pḥng tranh đă không hề tính toán khi chi tiêu.
Các loại dầu mà ông ta chọn đánh giá cả một gia tài vào thời ấy.
Cô đă giải thích cho Jonathan rằng, để gia tăng độ tinh khiết, các
nhà sản xuất đă thuôn dầu vào những thùng to đem phơi trên những nóc
nhà cháy nắng của các cửa hàng Zecchi. Đến tối, họ chỉ gạn lấy phần
dầu nổi trên bề mặt.
- Chưa hết đâu, tôi c̣n t́m thấy thông tin về loại bút vẽ mà ông ta
mua về. Đó là bút hiệu Majolicas, rất quư hiếm, được chế từ cùng một
loại lông mà người ta dùng để làm chổi cạo râu. Loại lông này đắt
giá vô cùng, song nếu được dùng để pha màu, sẽ cho các sắc độ rất
chính xác và mượt mà.
Luciana mang cà phê đến. Họ ra uống cà phê, sau khi Graziella đă cẩn
thận đóng những cuốn sổ lại.
- Nếu bố cô bắt được th́ chắc chắn tôi sẽ phải nghe tên ḿnh bị réo
ầm ĩ khắp nơi trong thành phố, Lorenzo vừa nói vừa nh́n cô.
- Chính bố tôi đă giúp tôi bọc chúng lại. Anh cũng biết tính bố tôi
c̣n ǵ.
Lorenzo từng là học tṛ của Giovanni, một học tṛ ngang ngạnh, như
bố của Graziella đă từng nhận xét về anh, song cũng là một trong
những học tṛ được ông ưu ái nhất, v́ đức tính ham hiểu biết không
giới hạn của anh.
- Ngược lại, nếu bố tôi biết được tôi đă làm ǵ, th́ tôi ước sao
ḿnh đang nghỉ hè ở Rome chứ không phải ở nhà trong lúc này.
Graziella rút trong túi áo ra một tờ giấy, trên đó cô ghi lại tất
cả những thành phần màu vẽ mà Ngài Edward đă mua ở Florence.
- Tôi đă lấy cho anh mỗi lọai một chút mẫu. Anh có thể so sánh chúng
với các mău vẽ trên bức tranh của anh, tôi không biết những thứ này
có đủ để anh chứng thực cho bức tranh không, nhưng đó là tất cả
những ǵ tôi có thể làm được.
Jonathan đứng dậy và dang tay ôm lấy Graziella.
- Tôi không biết phải cảm ơn cô thế nào, anh nói với cô.Đó chính là
những ǵ mà tôi cần đến.
Hai má đỏ bừng, Graziella t́m cách thoát khỏi ṿng vây của anh và
giả vờ ho nhẹ.
- Hăy trả lại sự thật cho nhà danh họa của anh, bản thân tôi cũng
rất yêu thích Vladimir.
Trời đă tối muộn. Lorenzo muốn đưa Graziella và cuốn sổ quư báu của
cô về nhà. Vừa đến cửa nhà Zecchi, cô hỏi anh, Jonathan có c̣n độc
thân không. Lorenzo mỉm cười và giải thích với cô rằng anh có cảm
giác cuộc sống t́nh cảm của bạn ḿnh hiện đang rơi vào một giai đoạn
khá phức tạp. Graziella nhún vai cười.
- Hễ cứ có anh chàng nào vừa ư tôi là y như rằng, lần nào cũng vậy.
Dù sao đi nữa, như bà tôi vẫn nói, một mối duyên đẹp đẽ bao giờ cũng
cần có hai người ư hợp tâm đầu gặp nhau vào một thời điểm nào đó. Dù
thế nào tôi cũng rất cảm ơn anh đă giới thiệu anh ấy với tôi. Hăy
gửi lời chào của tôi tới anh ấy, và nói với anh ấy nếu có lúc nào
quay lại Florence một ḿnh, tôi sẽ rất vui nếu được mời anh ấy đi ăn
trưa.
Lorenzo hứa sẽ thực hiện lời yêu cầu của cô và ngay sau khi cánh cửa
nhà Graziella khép lại, anh liền quay trở về. Trong lúc Lorenzo đưa
Graziella về, Lucian ngồi nói chuyện với Jonathan.
- Như vậy là cuối cùng anh cũng đă quyết định, Lorenzo kể cho tôi
nghe, anh sắp cưới vợ phải không?
- Ngày 19 tháng 6 tới, nếu cô có thể đi dự th́ thật là tuyệt vời.
- Nhưng điều đó hơi khó với điều kiện của chúng tôi. Công việc của
chồng tôi thật thú vị và ngắm anh ấy say mê làm việc mỗi ngày, tôi
cảm thấy thật hạnh phúc.
Thế nhưng một nhà nghiên cứu cũng phải đối mặt với cơm áo gạo tiền.
Anh cũng biết là chúng tôi hạnh phúc, chưa bao giờ chúng tôi cảm
thấy niềm hạnh phúc đó vơi cạn. Chúng tôi đă có những ǵ ḿnh cần,
và ngôi nhà này lúc nào cũng tràn ngập t́nh yêu.
- Tôi biết, Luciana, hai bạn khiến cho tôi thật ngưỡng mộ.
Luciana nghiêng người về phía Jonathan và cầm lấy tay anh.
- Anh có chuẩn bị cho ḿnh một tương lai tươi sáng như vậy với người
sắp là bạn đời không?
- Tại sao cô lại hỏi tôi với ánh mắt ngờ vực như vậy?
- V́ tôi thấy anh không có vẻ tràn ngập hạnh phúc như một người vài
tuần nữa sẽ là chú rể.
- Gần đây tôi hơi bối rối, lẽ ra lúc này tôi phải ở bên cô ấy để
cùng chuẩn bị cho lễ cưới, nhưng tôi lại ở Florence để đeo đuổi
những bí ẩn đă tồn tại từ hơn một thế kỷ và hoàn toàn có thể chờ
thêm một vài tháng nữa.
- Nếu thế th́ tại sao anh lại làm như vậy? - Tôi không biết. - Theo
tôi th́ anh biết rất rơ, anh là một người đàn ông thông minh. Bức
tranh ấy có phải là điều duy nhất vừa xuất hiên trong cuộc đời anh
không?
Jonathan ngạc nhiên nh́n Luciana.
- Dạo này cô c̣n có biệt tài xem bói nữa hay sao?
- Tôi chỉ có biệt tài duy nhất, Luciana nói, là dành thời gian để
chăm sóc chồng con và quan tâm đến bạn bè, đó là cách riêng của tôi
để thông cảm và thương yêu họ.
- Thế khi nh́n tôi, cô thấy ǵ ?
- Tôi thấy có hai đốm sáng trong mắt anh, Jonathan ạ. Đó là một dấu
hiệu không thể nhầm lẫn được. Đốm sáng thứ nhất soi tỏ lư trí của
anh, c̣n đốm thứ hai dành cho t́nh cảm. Đàn ông bao giờ cũng làm cho
mọi sự trở nên phức tạp. Anh phải coi chừng đấy, trái tim sẽ rất dễ
tan nát khi bị giày ṿ quá nhiều. Để hiểu được trái tim muốn nói ǵ,
cần phải lắng nghe nó. Tôi biết có một cách rất đơn giản...
- Lorenzo nhấn chuông cửa. Luciana đứng dậy và mỉm cười với
Jonathan.
- Anh ấy lại quên ch́a khoá rồi!
- Cái nào đơn giản, Luciana?
- Sau khi ăn những món ăn tối nay, anh sẽ ngủ một giấc thật ngon,
tôi đă đích thân chuẩn bị những món ăn đó và tôi biết rơ hiệu quả
của chúng. Sáng ngày mai, khi tỉnh dậy, hăy ghi nhớ khuôn mặt dần
hiện ra đâu tiên trong tâm trí anh, nếu đó cũng là những gương mặt
mà anh nghĩ tới trước khi thiếp đi, th́ anh sẽ t́m được đáp án cho
câu hỏi từng trăn trở.
Lorenzo bước vào pḥng và vỗ vai bạn. Jonathan đứng dậy, nhẹ nhàng
chào tạm biệt chủ nhà. Anh hứa sẽ thu xếp để quay lại thăm họ trong
thời gian gần nhất cho phép. Đôi vợ chồng tiễn anh ra tận đầu phố và
Jonathan tiếp tục đi một ḿnh đến Piaza della Repubbica. Quán cà phê
Gilli đang chuẩn bị đóng cửa, các nhân viên đang don dẹp bàn ghế
ngoài sân. Một người phục vụ giơ tay thân thiện chào anh.Jonathan
vẫy tay chào lại anh ta và băng qua quảng trường thưa thớt người qua
lại. Suốt dọc đường đi, anh không ngừng nghĩ tới Clara.
° ° °
Clara bước vào căn hộ của cô nằm trong khu
Notting Hill. Cô không bật đèn lên mà lặng lẽ đi dạo trong bóng tối.
Cô đưa tay khẽ lướt trên khung cửa ra vào, thả nhẹ trên thành chiếc
tràng kỉ, se sẽ vuốt ŕa chiếc chụp đèn phố vắng vẻ trong ánh đèn mờ
và thả áo khóac rơi xuống sàn. Cô gỡ dây buộc chiếc váy ngắn và cởi
áo. Trên ḿnh không c̣n một mảnh vải, cô với tay lấy chiếc khăn
choàng vắt trên thành chiếc ghế bành rồi quấn vào người. Cô liếc
nhanh về phía điện thoại, thở dài rồi đi vào pḥng ngủ.
° ° °
Jonathan rời khỏi khách sạn Savoy từ sớm tinh mơ.
Anh đáp chuyến bay đầu tiên đi Luân-Đôn. Ngay khi máy bay vừa hạ
cánh, anh chạy thật nhanh trong hành lang dài vô tận của sân bay
Heathrow, vội vă đi qua cửa hải quan và lại tiếp tục chạy. Ra đến
thềm pḥng chờ, anh nh́n hàng người đợi taxi dài dằng dặc, quay lại
và lao về phía ga tàu tốc hành. Chuyến tàu tốc hành Heathrow sẽ tới
trung tâm thành phố sau khoảng 15 phút nếu như anh bắt kịp chuyến
sắp tới, anh sẽ có đủ thời gian để biến ước muốn đầu tiên hiện ra
trong tâm trí ḿnh khi thức dậy thành hiện thực.
Anh thở hổn hển khi chạy đến cầu thang máy sâu hun hút dẫn vào ḷng
đất. Jonathan nhảy xuống bốn bậc một, trượt cả đoạn dài trên nền
sàn lát đá hoa khi đến một lối rẽ và chạy vào dăy hành lang dài gần
như không thấy lối ra. Những tấm biển báo bằng đèn điện treo gần
trên trần ở những khoảng cách đều đặn thông báo chuyến tàu sắp tới
đi Luân-Đôn sẽ khởi hành trong 2 phút và 27 giây nữa. Vẫn chưa nh́n
thấy thềm đợi tàu, Jonathan tăng tốc chạy thật lực.
Dăy hành lang kéo dài như vô tận, một hồi chuông dài đổ dồn, đồng
hồ bắt đầu đếm ngược những giây cuối cùng, đèn báo hiệu nhấp nháy
liên hồi trên những tấm biển sáng điện. Anh vét cạn những nỗ lực
cuối cùng. Cánh cửa toa tàu bắt đầu khép lại khi anh chạy tới thềm
ga, Jonathan vung tay về phía trướcvà lao ḿnh vào trong toa. Chuyến
tàu tốc hành Heathrow lúc 8 giờ 45 phút sáng bắt đầu chuyển bánh. 15
phút hành tŕnh cho phép anh dần lấy lại hơi thở bị đứt quăng. Ngay
khi tàu vừa dừng máy, Jonathan chạy băng qua ga Paddington và nhảy
vội lên một chiếc ta- xi. Đúng 9 giờ10 phút sáng, anh ngồi vào bàn
trong quán cà phê đối diện nhà số 10 phố Albernarle, 5 phút sau
Clara tới. Ai đó đă từng nói, để biết được thói quen của một người,
chỉ cần bỏ thời gian quan sát sinh hoạt của người ấy?
Không thể dứt khỏi một bài báo đang đọc dở, Clara đi về phía quầy
bar theo thói quen. Cô gọi một cốc capuccino mà không hề ngước mắt
nh́n lên, để một đồng xu lên quầy tính tiền, cầm lấy cốc nước của
ḿnh và đến ngồi trên chiếc ghế quầy bar nằm sát cửa kính.
Cô đưa cà phê lên miệng đúng lúc một chiếc khăn mùi xoa trắng hiện
ra trước mắt. Cô không ngẩng lên nh́n ngay, rồi chợt cảm thấy thật
đáng tiếc nếu phải ḱm ḿnh không bày tỏ niềm vui, cô quay lại và đă
muốn ôm chầm lấy Jonathan. Rồi ngay lập tức ngồi lại ngay ngắn trên
ghế t́m cách giấu khuôn mặt và sự lúng túng của ḿnh sau tách cà
phê.
- Tôi có rất nhiều tin vui, Jonathan nói.
Họ đi về pḥng tranh và Jonathan kể cho cô nghe gần như mọi chi tiết
về chuyến đi của anh đến nước Ư.
- Tôi không hiểu, Clara nói, vẻ nghĩ ngợi. Trong lá thư viết cho một
vị khách hàng, Ngài Edward đă tự khen ngợi ḿnh về việc gửi Vladimir
đi Florence, vậy th́ tại sao ông ta phải nói dối?
- Tôi cũng đă tự ḿnh đặt cho ḿnh câu hỏi đó.
- Khi nào th́ anh có thể tiến hành so sánh những mẫu đă t́m được với
bức tranh?
- Tôi phải liên lạc với Peter, để cậu ta giới thiệu tôi với một
pḥng thí nghiệm nào đó ở Anh.
Jonathan nh́n đồng hồ đeo tay, đă gần giữa trưa theo giờ
Luân-Đôn
và gần 7 giờ sáng bên bờ biển phía đông nước Mỹ.
- Có thể giờ này cậu ấy c̣n chưa dậy !
° ° °
Peter quờ tay t́m xem từ đâu phát ra tràng âm
thanh khó chịu khiến anh không thể tiếp tục giấc ngủ. Anh gỡ băng
che ánh sáng ra khỏi mắt, với cánh tay qua khuôn mặt ngái ngủ của cô
gái tên là Anita, nhấc điện thoại lên và gầm gừ:
- Cho dù là anh có là ai đi chăng nữa, th́ anh cũng vừa để mất một
người thân!
Rồi anh dập máy.
Một vài giây sau, chuông điện thoại lại reo vang, Peter chui ḿnh ra
khỏi lớp chăn dày.
- Đồ quấy rầy bướng bỉnh! Ai ở đầu dây thế?
- Tớ đây, Jonathan b́nh thản đáp.
- Cậu có biết bây giờ là mấy giờ không, hơn nữa hôm nay lại là chủ
nhật đấy.
- Thứ 3, Peter, hôm nay là thứ 3!
- Khỉ thật, tớ chẳng c̣n biết ǵ về thời gian nữa.
Trong khi Jonathan giải thích yêu cầu của anh, Peter nhẹ nhàng lay
cô gái nằm bên cạnh. Anh th́ thầm vào tai Anita rằng cô phải chuẩn
bị thật nhanh, anh đă bị muộn lắm rồi.
Anita nhún vai và ngồi dậy, Peter kéo lấy cánh tay cô và hôn nhẹ lên
trán.
- Anh sẽ chở em về nhà nếu em sẵn sàng sau 10 phút nữa.
- Cậu có nghe tớ nói không? Jonathan hỏi từ đầu dây bên kia.
- Thế cậu c̣n muốn tớ nghe ai nữa đây? Nhưng thôi cứ nhắc lại điều
cậu vừa nói đi, ở đây vẫn c̣n sớm lắm.
Jonathan đề nghị bạn giới thiệu ḿnh với một pḥng thí nghiệm tại
Anh.
- Muốn soi bức tranh bằng X-quang, tớ có một người bạn, cậu có thể
gọi anh ta và tự giới thiệu là bạn của tớ, pḥng thí nghiệm của anh
ấy ở khá gần khách sạn.
Jonathan ghi vội lên giấy địa chỉ mà Peter đọc cho anh.
- C̣n muốn làm các xét nghiệm hữu cơ, Peter nói tiếp, để tó gọi vài
cuộc điện thoại đă.
- Tớ có thể cho cậu cả ngày, có điều tớ phải nhắc để cậu nhớ rằng,
thời gian của cậu đang bị rút ngắn dần.
- Cám ơn cậu đă nhắc khi tớ vừa nhảy ra khỏi giường, tớ đă cảm thấy
rơ ràng c̣n thiếu thứ ǵ đó để có thể bắt đầu một ngày tốt lành!
Peter đă gần như hoàn thành việc sắp xếp mớ tài liệu mang từ
Luân-Đôn về. Sau khi ngồi hàng giờ liên trong pḥng lưu trữ của
Christie’s, anh đă chụp được rất nhiều bài báo được viết trong thời
gian Radskin sống ở nước Anh.
Sau khi đọc xong tất cả những tài liệu đó, anh sẽ viết một bài tổng
hợp tất cả những thông tin liên quan đến buổi đấu giá nổi tiếng của
Ngài Edward, đúng vào hôm bức tranh đột nhiên biến mất.
- Chúng ta phải t́m hiểu xem v́ sao nó lại mất tích.
- Cậu làm tớ vững tâm ghê, chúng ta đă t́m kiếm điều ấy từ 20 năm
nay, chắc chắn tớ sẽ thành công trong việc làm sáng tỏ bí ẩn này chỉ
trong ṿng 15 ngày tới, Peter chua chát trả lời.
- Cậu có nhớ anh bạn cảnh sát của cậu đă từng nói ǵ không? Jonathan
hỏi tiếp.
- Tớ có khối bạn làm cảnh sát, cậu thử hỏi cụ thể hơn được không?
- Cái anh chàng cảnh sát sống ở San Francisso ấy!
- À, Georges Pilguez!
- Cậu đă hàng trăm lần nhắc với tớ trong quá tŕnh chúng ḿnh điều
tra, là chỉ cần một manh mối nhỏ cũng có thể lần ra được cả một sự
kiện.
- Tớ nghĩ là Pilguez c̣n nói ǵ đó hơn thế nữa cơ, nhưng tớ hiểu ư
cậu. Tớ sẽ gọi lại cho cậu, ngay sau khi thu xếp xong việc tiến hành
các xét nghiệm.
Anita bước ra khỏi pḥng tắm đúng lúc Peter gác máy, cô mặc một
chiếc quần jean và một chiếc áo phông bó sát người, đến mức không hề
cần đến bàn là mỗi lần giặt xong. Peter ngần ngừ rồi đưa tay cho cô
gái để cô kéo anh đứng dậy. Ngay lập tức, cô bị kéo trở giường.
° ° °
Jonathan bấm số máy mà Peter vừa đọc cho anh. Vị
bác sĩ chẩn đoán h́nh ảnh hỏi anh về kích thước của bức tranh và đề
nghị anh chờ máy.
Một lát sau ông ta cầm máy lên, Jonathan đă gặp may, ông ta c̣n đúng
hai khung phim có kích cỡ phù hợp.
Buổi hẹn vào đầu giờ chiều. Clara và Jonathan nh́n nhau ngập ngừng
rồi lao vào đóng gói bức tranh. Mặc dù đă ra sức t́m, song cũng
không thể thấy cả thùng gơ lẫn xe bảo an, họ đành nhảy lên một chiếc
ta- xi, đến con phố nhỏ nằm giữa góc công viên Lane và phố Green. Họ
nhấn chuông, một giọng nói đề nghị khách đi lên tầng hai.Jonathan
lên cầu thang trong tâm trạng hồi hộp pha lẫn ṭ ṃ, Clara theo sát
sau anh.
Một nữ trợ lư khoác áp blu trắng trở ra mở cửa và dẫn họ vào pḥng
đợi. Một người phụ nữ mang thai đang chờ kết quả siêu âm tháng thứ
4, một chàng trẻ bị bó bột ở chân đang xem phim kiểm tra lần cuối
của ḿnh. Khi nữ bệnh nhân bị quấn băng một bên vai nghi ngờ hỏi
Jonathan bị đau chỗ nào, Clara trốn sau một tờ tạp chí Times mà cô
nhặt được trên chiếc bàn thấp. Bác sĩ Jack Seasel ló ra từ cánh cửa
khép hờ. Ông kín đáo ra hiệu cho Jonathan và Clara. "Một ca cấp cứu",
ông làu bàu giải thích với những bệnh nhân c̣n lại.
- Nào, hăy cho tôi xem bức tranh tuyệt vời đó! Ông vui vẻ nói trong
khi dẫn vào pḥng chụp.
Jonathan gỡ những tấm chăn bọc bên ngoài và Jack Seasal, bạn của
Peter và cũng là một người say mê hội họa, lặng người đi trước vẻ
đẹp của Thiếu nữ áo đỏ.
Peter không hề nói quá, ông vừa nói vừa hạ mặt bàn máy chụp theo
chiều ngang. Tôi đang tính sẽ sang Boston thăm cậu ta vào tháng 9
tới, chúng tôi có một hội thảo của nghành y, ông nói tiếp và giúp
Jonathan đặt bức tranh vào vị trí.
Vị bác sĩ đánh dấu khu vực chiếu bằng bút dạ. Bằng những động tác tự
tin, ông ta nhét khung phim chuẩn bị dùng xuống bên dưới mặt bàn,
điều chỉnh máy cho thẳng góc với bề mặt bức tranh và đưa cho hai vị
khách hai chiếc tạp dề dát ch́, Clara và Jonathan lùi lại sau lớp
kính bảo vệ. Bác sĩ Seasal kiểm tra lại máy móc một lần nữa rồi cũng
lùi lại bên cạnh chỗ họ đứng. Ông nhấn nút. Những chùm tia quét trên
từng lớp bề dày cuả bức tranh để tái hiện trên tấm phim phủ hóa chất
một vài bí ẩn được che giấu trong đó.
- Nín thở nhé, tôi chuẩn bị chụp lần thứ 2, ông bác sĩ vừa nói vừa
thay cuốn phim.
Ông gỡ một tấm phim chụp xương đùi và một tấm phim chụp phổi bên
phải đính trên tấm bảng lắp đèn huỳnh quang, rồi thay hai tấm vừa
tráng vào đó. Bản chụp bức tranh của Vladimir hiện lên trong suốt.
Đối với tất cả các chuyên gia hoặc các nhà phục chế, chụp một bức
tranh quả là giây phút vô cùng đặc biệt. Những tia X thể hiện thấu
cả những phần không nh́n thấy được của tác phẩm; chúng cung cấp cho
Jonathan những thông tin vô cùng quư giá về chất liệu tấm toan mà
Vladimir đă sử dụng. Bằng cách so sánh những tấm phim này với các
bức tranh khác của danh họa, anh có thể xác định tấm toan được dùng
để vẽ bức tranh Thiếu nữ áo đỏ có cùng kiểu dệt với những tấm toan
mà Radskin sử dụng trong thời gian sống ở Anh.
Nh́n kỹ tấm phim chụp, Jonathan chợt lờ mờ phát hiện ra điều ǵ đó:
- Bác sĩ có thể tắt ánh sáng trong pḥng đi được không? Anh th́ thầm.
- Đây đúng là những phim chụp duy nhất mà tôi không thể đọc kết quả,
Jack Seasal vừa nói vừa lại gần công tắc đèn, song ít nhất tôi cũng
mong anh hài ḷng về chất lượng các bản chụp.
Gian pḥng ch́m trong bóng tối, chỉ c̣n luồng ánh sáng duy nhất phát
ra từ bảng đèn huỳnh quang trên tường. Tim của Clara và Jonathan bắt
đầu đập cùng một nhịp rộn ràng. Trước cặp mắt sửng sốt của hai người,
ở mỗi bên Thiếu nữ áo đỏ hiện lên một lọat những kí tự được viết
bằng bút ch́.
- Cái ǵ thế này, ông ta muốn nói ǵ với chúng ta?
- Tôi chỉ thấy một loạt chữ số và vài chữ cái viết hoa, Clara trả
lời bằng một giọng ngạc nhiên không kém.
- Tôi cũng vậy, song nếu tôi có thể xác minh đó là chữ viết của ông
ta, th́ coi như ḿnh đă t́m được bằng chứng, Jonathan th́ thào.
Bác sĩ Seasal khẽ hắng giọng sau lưng họ. Trong pḥng đợi, số bệnh
nhân ngồi chờ thưa dần, Jonathan cất các bản chụp đi, Clara bọc lại
bức tranh lại và họ nồng nhiệt cám ơn bác sĩ. Trước khi ra về, họ
hứa sẽ gửi lời chào cuả ông tới Peter ngay khi gọi điện cho anh.
Về tới pḥng tranh, họ ngồi quanh chiếc bàn có đèn sáng mà Clara vẫn
thường dùng để xem các bản chụp phim. Clara chép lại theo mẫu những
kí tự của Vladimir vào cuốn sổ của Jonathan. Anh để cô ngồi đó một
ḿnh một lát và ra t́m vài tài liệu trong cặp.
Clara vùng về đánh rơi cuốn sổ lớn gáy ḷ xo, cô cúi xuống nhặt và
lật t́m trang đang viết dở. Chợt cô dừng lại trên một trang, ngón
tay vuốt nhẹ trên h́nh phác thảo khuôn mặt mà cô có thể dễ dàng nhận
ra. Jonathan quaytrở lại. Cô đóng nhanh cuốn sổ và đặt nó lên bàn.
Những chữ cái viết hoa mà Vladimir ghi bằng bút ch́, trên bề mặt
bức tranh không tiết lộ được ǵ về tác giả của nó. Tuy nhiên, những
nỗ lực của ngày hôm đó cũng không phải hoàn toàn vô ích. Jonathan đă
phân tích được tấm toan dùng để vẽ bức tranh. Nó hoàn toàn giống hệt
tấm toan mà trước kia anh từng nghiên cứu. Mỗi phân vuông của tấm
vải được dệt bởi 14 sợi ngang và 14 sợi dọc, tuyệt đối giống với
lọai vải mà Ngài Edward cung cấp cho Vladimir. Cả chiếc khung dùng
để căng tấm toan cũng vậy. Đến khi trời tối, Jonathan và Clara đóng
cửa pḥng tranh rồi quyết định dạo bộ trên những con đường yên tĩnh
của khu phố.
- Tôi muốn cảm ơn anh v́ những ǵ anh đă làm, Clara nói.
- Chúng ta vẫn c̣n cách đích rất xa, Jonathan trả lời, hơn nữa
chính tôi mới là người phải cám ơn cô.
Trên đường đi, qua những vỉa hè vắng vẻ, Jonathan thú nhận rằng, anh
c̣n cần rất nhiều trợ giúp mới có thể hoàn thành việc này đúng hạn.
Mặc dù anh tin chắc bức tranh này là thật, th́ cũng cần phải thực
hiện nhiều đợt kiểm tra nữa mới khả dĩ có những bằng chứng không thể
phủ nhận.
Clara dừng lại dưới ngọn đèn đường và đứng đối diện với anh. Cô
mong t́m được những lời thỏa đáng để nói với anh, song có lẽ vào
thời điểm này sự yên lặng là những ǵ thích hợp nhất với họ. Cố hít
một hơi rồi tục bước đi. Jonathan cũng lặng thinh. Thêm vài mét nữa,
họ sẽ tới trước cửa khách sạn và chia tay nhau dưới mái hiên. Trong
khoảnh khắc của đêm, anh những muốn mấy bước chân cuối cùng của họ
sẽ kéo dài măi măi. Vừa bước đi, cánh tay họ thả sát người vung lên
nhè nhẹ, bàn tay họ gần như chạm vào nhau. Ngón út của Clara mắc vào
ngón tay anh, các ngón c̣n lại đan vào với nhau. Trong màn đêm
Luân-Đôn, hai bàn tay nhập vào thành một và cơn mê lại bắt đầu tái hiện.
Những ngọn nến lung linh soi sáng pḥng đấu giá rộng mênh mông, tất
cả các ghế đều đă có người ngồi kín. Đám đàn ông đội mũ cao và đồng
phục chen chúc giữa những dăy ghế, đứng len vào mọi góc pḥng, nhiều
người trong số họ đi cùng với những phụ nữ mặc váy diêm dúa. Trên
bục, một người đàn ông đang đứng sau bàn điều khiển phiên đấu giá.
Chiếc búa đập xuống báo hiệu kết thúc đấu giá một chiếc b́nh cổ.
Phía sau ông ta, trong những cánh gà nơi Jonathan và Clara đang đứng,
mấy người đàn ông mặc áo choàng xám vội vă. Tấm bảng bọc nhung đỏ
đính trên một cái trục được quay ra và chiếc b́nh biến mất khỏi gian
pḥng. Một nhân viên lập tức nhấc nó khỏi bệ và thay vào đó bằng một
tác phẩm điêu khắc.
Người đàn ông lại quay tấm bảng khiến bức tượng đồng hiện ra trước
mắt những vị khách tới tham dự đấu giá. Jonathan và Clara nh́n nhau.
Đây là lần đầu tiên họ gặp trong cơn mê mà mỗi người đều không biết
nguyên nhân. Mặc dù cả hai đều không thể thốt ra một lời nào, song
ít nhất họ cũng không bị đau đớn như những lần trước. Trái lại, tay
vẫn nắm trong tay, cơ thể họ dường như tồn vượt qua mọi thời gian.
Jonathan bước lại gần Clara, cô nép vào anh, và anh nhận ra làn
hương của da thịt cô. Chiếc búa của người điều khiển đấu giá khiến
họ chợt giật ḿnh, một bầu không khí yên tĩnh kỳ lạ chợt trùm lên
gian pḥng. Tấm bảng lại xoay một ṿng nữa, bức tượng được lấy ra
và một người đàn ông mặc áo choàng xám treolên đó bức tranh mà cả
hai người liền nhận ra ngay tức khắc. Nhân viên chấp hành báo tin
đến lượt phiên đấu giá một bức tranh lớn của một nhà danh họa Nga.
Ông ta cũng thông báo bức tranh này đă được bảo lănh và hiện đang
thuộc bộ sưu tập cá nhân của Ngài Edward Langton, chủ pḥng tranh
nổi tiếng nhất Luân-Đôn. Một viên thư kư băng qua gian pḥng và
trèo lên các bục, anh ta đưa chiếc phong b́ đang kẹp dưới nách cho
nhân viên chấp pháp. Ông này bóc phong thư và nghiêng người chuyển
nó cho chuyên gia đấu giá khiến mặt vị này sững lạnh như đóng băng.
Ông gọi viên thư kư lại gần và hỏi khẽ vào tai:
- Đích thân ông ta đưa nó cho anh à?
Viên thư kư trịnh trọng gật đầu xác nhận. Lúc ấy, nhà đấu giá hét to
ra lệnh cho nhân viên không được bày bức tranh lên nữa, đó là một
bức tranh giả. Rồi ông chỉ tay về phía người đàn ông ngồi ở hàng ghế
cuối cùng. Tất cả các cặp mắt đều đổ dồn về phía ngài Edward lúc này
vừa đứng bật dậy. Một giọng nói thét to công phẫn, một giọng khác
gào lên là lừa đảo, thêm một giọng hỏi ầm lên rằng các chủ nợ sẽ
được thanh toán như thế nào, "tất cả chỉ là một tṛ gian trá", một
giọng nữa gào lên.
Người đàn ông có khổ vai rộng len lỏi dẹp lối giữa đám đông ngày
càng khép chặt lại. Cuối cùng ông ta cũng ra đựơc tới những cánh
cửa dẫn đến một cầu thang, cố gắng thoảt khỏi đám nhà buôn đang xô
nhau đuổi theo, và chạy ra phố. Phía sau ông, gian pḥng đấu giá dần
trở nên vắng vẻ.
"Nhanh lên, nhanh lên ", một giọng nói th́ thào bên tai Jonathan. Một
đôi trai gái chạy qua trước mặt anh, trong tay ôm tác phẩm cuối cùng
của Vladimir Radskin được bọc kín trong một tấm chăn. Khi đôi trai
gái biến mất sau khán pḥng, cơn mê vụt tắt.
Clara và Jonathan nh́n nhau sửng sốt. Trên con phố vắng vẻ, những
bóng đèn trên cột thôi không nhấp nháy nữa. Họ chậm răi ngước đầu
lên. Phía trên ṭa nhà nơi họ nắm tay nhau, tấm biển bằng đá trắng
có khắc hàng chữ "Vào thế kỷ XIX, nơi đây từng là trung tâm đấu giá
của Quận Mayfair".
Chương 7 Peter đóng cánh
cửa pḥng làm việc đúng vào lúc chuông điện thọại reo vang. Anh quay
người lại và nhấn vào nút bật loa. Tổng đài thông báo có ngài
Gardner đang chờ máy, anh lập tức tiếp điện thọai.
- Ở chỗ cậu chắc phải muộn lắm rồi, tớ đang chuẩn bị ra về, anh vừa
nói vừa đặt chiếc túi xuống chân.
Jonathan thông báo với bạn kết quả cuộc t́m kiếm của anh. Anh đă xác
định được phần nền và khung của bức tranh, song không tài nào t́m
nổi ư nghĩa những ḍng chữ mà nhà danh họa đă giấu sau lớp màu, và
anh rất tiếc v́ các chữ cái viết hoa cũng không đủ để chính thức xác
thực bức tranh. Jonathan đang cần bạn ḿnh giúp đỡ. Những xét nghiệm
anh cần thực hiện đ̣i hỏi phải có các trang thiết bị mà nhiều pḥng
thí nghiệm tư không dễ có được. Peter chợt nghĩ ra, anh quen một
người ở Paris có thể sẽ giúp được họ.
Trước khi bỏ máy, Peter kể về một khám phá của anh trong quá tŕnh
nghiên cứu các dữ liệu mang từ Lon don. Một bài báo ra vào tháng sáu
năm 1867 mà từ trước tới nay họ chưa hề được đọc, nói về vụ tai
tiếng xảy ra trong buổi đấu giá. Nhà báo đó đă không cho biết thêm
chi tiết nào khác nữa.
- Người viết có vẻ quan tâm hơn cả tới việc bôi nhọ danh tiếng nhà
sưu tầm của cậu, Peter nói.
- Tớ có nhiều lư do để tin rằng bức tranh đă bị đánh cắp đúng vào
ngày hôm đó, hay nói đúng hơn là nó bị xóay mất ngay trước khi được
người ta công bố, Jonathan trả lời.
- Do ngài Edward làm ư? Peter hỏi
- Không, không phải ông ta là người đă giấu bức tranh trong một tấm
chăn.
- Cậu nói ǵ thế? Peter hỏi.
- Vấn đề này hơi phức tạp, tớ sẽ giải thích cho cậu sau.
- Dù sao đi nữa, Peter nói tiếp, ông ta cũng chẳng được lợi ǵ nếu
làm như thế. Buổi đấu giá đă có thể gia tăng rất nhiều gía trị cho
bộ sưu tập của ông ta, tớ bảo cậu với tư cách là một chuyên gia đấu
giá đấy.
- Tớ cho rằng gia tài mà ông ta vẫn thường khoe khoan đă khánh kiệt
từ trước đó khá lâu, Jonathan kết luận.
Nhưng cậu lấy nguồn tin từ đâu thế? Peter ṭ ṃ hỏi.
- Đây là cả một câu chuyện dài, anh bạn ạ, mà tớ cũng chẳng nghĩ là
cậu sẽ muốn nghe. Ngài Edward có thể chẳng phải là một tay hào hiệp
như tớ và cậu đă từng giả định, Jonathan nói thêm. Thế cậu có t́m
được thông tin ǵ về chuyến đi vội vă của ông ta sang Mỹ không?
- Rất ít. Song cậu nói "vội vă" là đúng. Tớ không biết chuyện ǵ xảy
ra với ông ta song chính bài báo đó kể rằng rất nhiều người đă lục
tung căn nhà của ông ta ở London lên vào ngay buổi tối diễn ra cụôc
đấu giá. Cảnh sát đă phải giải tán mọi người trước khi họ kịp đốt
trụi căn nhà. C̣n về ông ta, không bao giờ thấy ông ta xuất hiện
nữa.
Ngày hôm trước, Peter đă tới t́m các dự liệu lưu trữ tại khu cảng cổ
của Boston. Anh tra danh sách hành khách di cư từ Anh sang vào thời
kỳ đó. Một chiếc tàu đi từ Manchester đă ghé Lon don trước khi vượt
biển Đại Tây Dương. Nó cập bến vào một ngày khá phù hợp với thời
điểm để Ngài Edward có thể lên tàu.
- Thật không may cho chúng ta, Peter tiếp tục, trên tàu chẳng có
hành khách nào tên Lanngton cả, tớ đă kiểm tra ba lần rồi, song tớ
lại t́m thấy một điều khá thú vị. Có một gia đ́nh khác đă xuống tàu,
đăng kư trong danh sách nhập cư vào thành phố với họ Walson.
- Vậy th́ có ǵ là thú vị? Jonathan vừa nói vừa ghi nhanh lên một tờ
giấy.Chẳng có ǵ cả! Cậu sẽ tự ḿnh nói với cô ấy rằng thật xúc động
mỗi khi t́m ra được giấu vết nguồn gốc của ḿnh cũng như của một
thành viên trong gia đ́nh Walton của Anna, vợ tương lai của cậu,
đúng từng chữ một.
Chiếc bút ch́ đen găy đôi trong tay Jonathan. Anh lặng đi hồi lâu.
Peter gọi anh mấy lần ở đầu dây bên kia, cậu ta nóng ruột nhấn liên
tiếp lên nút chuyển mạch, nhưng Jonathan vẫn không hề đáp. Vừa đặt
máy nói xuống, Peter vừa tự hỏi làm thế nào mà Jonathan có thể khằng
định, bức tranh đă được bọc ngoài bởi một tấm chăn?
° ° °
Jonathan và Clara rời London ngay sáng sớm tinh
mơ ngày hôm sau. Peter đă sắp xếp cho họ gặp người quen của anh ở
Paris vào cuối buổi chiều hôm đó. Chừng nào bức tranh c̣n chưa được
xác thực, th́ các hăng bảo hiểm chưa có quyền đ̣i hỏi nó phải được
bảo vệ kỹ càng mỗi lần di dời. Dù sao đi nữa, quăng thời gian ít ỏi
c̣n lại cũng không cho phép họ làm như vậy. Clara đă bọc bức tranh
trong một tấm chăn và bảo vệ nó khá cẩn thận bằng một chiếu túi da.
Chiếc ta- xi đưa họ tới sân bay City. Vừa theo sát bước Clara lên
cầu thang dẫn đến pḥng chờ tầng một, Jonathan vừa say sưa ngắm cô.
Trong khi chờ tới giờ máy bay cất cánh, họ ngồi ở một quán cà phê
nằm ngay phía trên đường băng. Dán mắt vào lớp kính, họ có thề nh́n
thấy những chiếc máy bay phản lực chở khách đều đặn nối đuôi nhau
cất cánh. Jonathan đi ra quầy bar lấy nước mát cho Clara. Đứng chống
khủyu tay trước quầy, anh chợt nghĩ tới Peter, rồi tới Vladimir và
cuối cùng th́ tự hỏi điều ǵ đang lôi cuốn anh trong cuộc đua này.
Anh quay trở lại ngồi vào bàn và nh́n Clara.
- Tôi đang tự đặt cho ḿnh hai câu hỏi, anh nói. C̣n cô không nhất
thiết phải trả lời tôi.
- Anh cứ bắt đầu hỏi câu thứ nhất đi! Cô vừa nói vừa đưa cốc lên
miệng.
- Làm thế nào mà các bức tranh ấy đă tới tay cô?
- Chúng được treo trên tường khi bà tôi mua lại trang viên, nhưng
chính tôi đă t́m thấy bức Thiếu nữ áo đỏ.
Rồi Clara kể cô đă t́m thấy bức tranh trong
hoàn cảnh nào. Vài năm
trước, cô quyết định dọn dẹp căn pḥng áp mái. V́ ṭa nhà đă được
xếp hạng nên phải chờ khá lâu mới có được giấy phép hành chính để
tiến hành công việc sửa chữa. Khi đơn xin bị từ chối và trả lại,
Clara đành bỏ lửng dự định đó. Nhưng tiếng sàn tầng trên kêu kèn kẹt
trong đêm luôn ám ảnh cô. Ông Wallace, một thợ mộc trong làng rất
quư Clara, đă đồng ư giúp cô bí mật dỡ gỗ sàn ra để thay
toàn bộ các
thanh tầm, sau đó lắp lại như cũ. Khi bụi phủ lại lên phía trên,
thanh ta các di tích lịch sử sẽ không thể nào phát hiện được. Rồi
một hôm, người thợ mộc đă tới t́m cô. Cô cần phải đến xem một thứ.
Clara đi theo ông lên gian pḥng trên tầng xếp. Ông đă t́m thấy một
thùng gỗ vuông chiều dài khỏang một mét được giấu kỹ giữa hai thanh
tầm. Clara giúp ông lôi chiếc thùng ra khỏi chỗ giấu và đặt lên trên
chân mễ. Được bọc ngoài bởi một tấm chăn màu xám, Thiếu nữ áo đỏ
hiện ra từ quá khứ và ngay lập tức Clara đă nhận ra tác giả của bức
tranh.
Giọng nói từ radio hướng dẫn đă cắt ngang câu chuyện của cô. Máy bay
bắt đầu nhận hành khách. Một đôi trai gái đứng hôn nhau ngay trước
cửa kiểm sóat. Cô gái lên máy bay một ḿnh. Khi cô đă đi qua cửa
kiểm tra an ninh, chàng trai âu yếm đưa tay lên vẫy. Cô gái biến mất
trong khung cửa tṛn phía cuối hành lang mà bàn tay vẫn c̣n giữ một
lát trên không trung. Jonathan nh́nh chàng trai đi về phía cầu thang
cuốn, đôi vai trĩu buồn. Vẽ tư lự, anh đuổi theo Clara đang đi dần
về phía cửa số 5.
° ° °
Chiếc phản lực City của hăng hàng không Air
France tới Paris sau bốn mươi lăm phút. Mọi giấy tờ của pḥng tranh
đă giúp họ nhanh chóng qua cửa hải quan mà không gặp khó khăn ǵ.
Jonathan đă đặt hai pḥng trong một khách sạn nhỏ nằm cuồi đường
Bugeaud. Họ để hành lư ở đó, gởi bức tranh vào két an
toàn của khách
sạn rồi chờ đến khi chiều xuống. Sylvie Leroy, một cộng tác viên đắt
lực của trung tâm nghiên cứu và phục chế trực thuộc các Bảo tàng
Pháp, tới gặp họ tại quầy bar của khách sạn khi trời vừa tối. Ba
người chọn chỗ ngồi kín đáo bên chiếc bàn đặt dưới gầm cấu thang gỗ.
Những bậc thang lên xóay h́nh trôn ốc dẫn tới một trong những lối
vào thư viện. Sylvie Leroy chăm chú nghe Jonathan và Clara, rồi cô
theo họ vào pḥng khách nhỏ nằm giữa hai căn pḥng mà họ đă đặt.
Clara mở phéc-mơ-tuya hiệu Tia Chớp của chiếc túi da, tháo bức
tranh ra khỏi tấm chăn bọc ngoài và gác lên bệ cửa sổ.
- Bức tranh thật tuyệt vời, nữ nhân viên giám định th́ thầm bằng một
giọng tiếng Anh rất chuẩn xác.
Sau khi quan sát kỹ bức tranh, cô quay lại ngồi vào ghế bành và nói
vẻ bất lực:
- Thật đáng tiếc, tôi không thể giúp ǵ cho hai người, tôi thành
thật xin lỗi. Hôm qua tôi đă giải thích rơ ràng với Peter qua điện
thọai. Các pḥng thí nghiệm của Louvre chỉ dành phục vụ những bức
tranh là đối tượng quan tâm của Bảo tàng Quốc gia. Chúng tôi không
bao giờ làm việc cho giới tư nhân. Không có yêu cầu khẩn thiết của
một quản đốc bảo tàng, chúng tôi không được phép sử dụng trang thiết
bị cho người ngoài.
- Tôi hiểu, Jonathan đáp.
- C̣n tôi th́ không hiểu nổi, Clara tiếp lời. Chúng tôi từ tận Lon
don tới đây, chỉ c̣n hai tuần nữa, chúng tôi sẽ phải chứng minh được
đây là một bức tranh thật, mà ở chỗ cô có mọi trang thiết bị cần
thiết.
- Chúng tôi hoàn toàn không liên quan ǵ tới những vấn đề của thị
trường, nghệ thuật, thưa cô, Sylvie nói tiếp.
Nhưng đây là một vấn đề nghệ thuật chứ không phải vấn đề thị trường,
Clara đáp, giọng cương quyết. Chúng tôi đấu tranh để một tác phẩm
lớn của một bức danh họa được công nhận, chứ không phải để phá vỡ kỷ
lục của các pḥng đấu giá.
Sylvie Leroy khẽ ho và mỉm cười.
- Cô cũng không nên đi quá xa, dù sao Peter cũng là người giới thiệu
hai người đến với tôi!
- Clara nói đúng sự thật. Tôi là một chuyên gia thẩm định chứ không
phải tay buôn, Jonatha tiếp lời.
- Tôi biết anh là ai, anh Gardner, tiếng tăm của anh thật đáng nể.
Tôi rất quan tâm tới các công tŕnh nghiên cứu của anh, một vài
trong số đó đă giúp cho tôi khá nhiều. Thậm chí tôi đă tới dự các
buổi hội thảo của anh tại Miami. Chính ở đó tôi đă làm quen và dùng
một bữa tối khá muộn với anh bạn Peter của anh, chỉ có điều tôi đă
không có may mắn gặp được anh. Anh đă về mất rồi.
Sylvie Leroy đứng lên và nắm tay Clara.
- Tôi rất vui mừng được làm quen với hai người, cô nói với Jonathan
trong lúc ra khỏi căn pḥng.
- Chúng ta làm ǵ bây giờ? Clara hỏi khi cánh cửa đă khép lại.
- V́ tôi cần phải có một chiếc máy chụp bằng tia hồng ngọai, một máy
chiếu cao áp, phổ kế plasma và kính quét hiển vi điện tử, tôi nghĩ
rắng đi dạo một ṿng Paris có lẽ là điều thích hợp nhất nên làm, tôi
biết khá rơ nơi chúng ta tới.
° ° °
Chiếc ta-xi chạy khá nhanh trên con đường dọc bờ
sông. Từ chân cầu Trocadero nh́n ra, hàng ngàn ngọn đèn nhấp nháy
trên tháp Etiffel phản chiếu xuống mặt nước sông Seine. Mái ṿm bằng
vàng của cung điện Invalides tỏa sáng trong bầu không khí d́u dịu
của cung điện Invalides tỏa sáng trong bầu không khí d́u dịu của
buổi tối mùa hè. Chíêc xe thả họ dưới chân ṭa nhà của bảo tàng
Orangerie. Trên quảng trường Concorde, một ông già cô đơn lang thang
giữa hai đài phun nước. Từng chùm tia nước phun ra từ miệng các bức
tượng. Clara và Jonathan im lặng bước dọc theo bến song. Đi dọc theo
bến song. Đi dọc theo phố Tuileries, nh́n những hàng cây hai bên các
lối đi dạo, Jonathan chợt nghĩ tới những khu vườn Boboli.
- Khi nào tới Boston, chúng ta sẽ đi dạo cùng nhau dọc theo bờ sông
Charles chứ? Clara hỏi.
- Tôi hứa với cô, Jonathan trả lời.
Hai người đi qua Cổng Sư Tử (nguyên tác tiếng Pháp: Porte des Lions). Dưới chân họ, trong tầng hầm nằm dưới sân Bảo tàng Louvre là những
pḥng thí nghiệm của trung tâm nghiên cứu và phục chế của Bảo tàng
Pháp.
° ° °
Sylvie Leroy chuẩn bị bước xuống tầng hầm của ga
tàu điện ngầm đúng lúc chuông điện thọai di động của cô reo vang. Cô
dừng lại phía trên bậc cầu thang và đưa tay vào túi xách. Khi cô bật
máy, Peter cao giọng hỏi cô đang làm ǵ khi không có anh bên cạnh
trong cái thành phố lăng mạn nhất thế giới này.
° ° °
Anna đi lại trước giá vẽ để hoàn thành nốt những
chi tiết cuối cùng của một bức tranh. Cô lùi lại để chiêm ngưỡng sự
trau chuốt trong tác phẩm của ḿnh. Một loạt tiếng bíp reo lên từ
pḥng bên. Cô đặt cây cọ vẽ xuống một chiếc cốc bằng đất nung và đi
tới ngồi nơi bàn làm việc kê sát một trong những cửa sổ nắm cuối
xưởng vẽ. Cô mở máy vi tính, gơ mă số cá nhân lên bàn phím và tra
chiếc thẻ số hóa vào một đầu từ; ngay lập tức màn h́nh hiện lên một
loạt ảnh. Tấm ảnh đầu tiên chụp từ ngoài phố cho thấy Jonathan và
Clara đang ngồi cạnh nhau ngắm một bức tranh trong pḥng tranh tại
Albermrle, trên tấm thứ hai, ánh sang yếu ớt từ cột đèn phủ một lớp
màu cam lên con phố nhỏ vắng vẻ, song ánh mắt họ nh́n nhau lại chẳng
nhợt nhạt chút nào. Trong tấm thứ ba, Jonathan và Clara đang đi dạo
trong khu vườn của một ṭa trang viên theo kiểu Anh. Những tấm khác
chop cảnh hai người đang ngồi bên chiếc bàn sau lớp kính của một
quán cà phê, rồi đứng đối diện nhau dưới mái hiên khách sạn
Dorchester. Trên tấm ảnh thứ sáu, Jonathan đang đứng chống khuỷu tay
xuống quầy bar của sân bay, Clara ngồi bên chiếc bàn sát cửa kính
phía trên đường băng. Một h́nh phong b́ nhỏ nhấp nháy ở góc dưới màn
h́nh. Anna tải xuống máy dự liệu đính kèm thư điện tử mà cô vừa nhận
được. Một lọat ảnh kỷ thuật số mới tự động chạy vào kho ảnh mở sẵn
trong máy tính của cô. Anna xem kỹ từng tấm một. Ở Paris, cuối phố
Bugeaud, Clara và Jonathan đang bước xuống bậc thang của một khách
sạn nhỏ. Tấm ảnh cuối cùng chụp họ đang bước lên xe ta- xi, trên đó
hiện con số chỉ 9 giờ 12 phút tối. Anna nhấc điện thọai và bấm số
gọi ra ngọai ô...
° ° °
Anh sẽ cứu thóat Peter khỏi một hoàn cảnh rất tế
nhị và khiến cho tài năng của Vladimir Radskin được thừa nhận xứng
đáng. Hơn thế nữa, có thể anh sẽ hiểu thêm được điều ǵ đó trong
chuỗi song kiện kỳ dị đă ngăn không cho anh được ôm Clara trong ṿng
tay. Bàn tay anh lướt nhẹ gần sát khuôn mặt Clara mà cố tránh không
chạm vào da cô.
- Nếu như em biết, anh khao khát được chạm vào em như thế nào, anh
nói.
Clara lùi lại và quay người đứng đối diện với anh. Cô tỳ tay lên lan
can. Sương đêm phủ một lớp mỏng lên tóc cô.
- Em cũng vậy, cô th́ thầm và nh́n nước chảy dưới sông Seine.
Điện thọai của Jonathan reo vang. Anh nhận ra giọng nói của Sylvie
Leroy.
- Tôi không biết ông đă thuyết phục như thế nào, thưa ông Gardner,
nhưng những người quen của ông rất có thế lực. Sáng mai tôi sẽ chờ
ông ở pḥng thí nghiệm. Cửa vào nằm ngay sau cổng Lions, trong sân
bảo tàng Louvre. Hăy đến vào lúc bảy giờ sáng, cô nói thêm trứơc khi
cúp máy.
Peter quả có những mối quan hệ đặc biệt, Jonathan nghĩ thầm khi rời
nhà hàng.
Buổi sáng sớm, Trung tâm Nghiên cứu và Phục chế cuả các Bảo tàng
Pháp vẫn c̣n đóng cửa, Jonathan và Clara bước xuống những bậc thang
dẫn tới sân của Bảo tàng Louvre. Sylvie Leroy đứng chờ họ sau cánh
cửa bọc thép của pḥng thí nghiệm. Cô quét thẻ của ḿnh qua đầu đọc
và cánh cửa lập tức trượt tự động vào trong tường. Jonathan bắt tay
cô, rồi cô mời họ đi theo.
Nơi này quả là vô cùng hiện đại. Những dăy hành lang bằng kim lọai
vắt ngang các gian pḥng rộng mênh mông, nơi rất nhiều nhà nghiên
cứu, kỹ thuật viên và nhà phục chế ngày đêm làm việc. Một trăm sáu
mươi người làm việc trong nhiều dự án khác nhau của trung tâm. Là
tác giả của những sang chế về công nghệ hiện đại nhất trong lĩnh vực
bảo tồn nghệ thuật, các nhà nghiên cứu của chương tŕnh C2RME, những
người ǵn giữ phần lớn kư ức của các nền văn minh đă cống hiến cả
cuộc đời để phân tích, xác định, phục chế, bảo quản và thống kê
những tác phẩm lớn nhất của kho tàng di sản.
Nếu không phải là con người kín đáo, th́ những ai làm việc ở Trung
tâm nghiên cứu và phục chế của các Bảo tang Pháp đă có thể rất tự
cao về tài năng của bản thân. Những ngân hàng dữ liệu mà các nhà
nghiên cứu xây dựng nên sau nhiều năm đă được thừa nhận và sử dụng
trên toàn thế giới. Rất nhiều tổ chức của Châu Âu và nhiều quốc gia
đă liên kết hợp tác với họ. Fraçois Hébrard, trưởng chi nhánh "Tranh
cỡ nhỏ" đang chờ họ ở cuối hành lang. Tới lượt ông đưa thẻ của ḿnh
lướt qua một máy kiểm tra và cánh cửa tự động nặng trịch của trung
tâm nghiên cứu liền được kéo ra. Clara và Jonathan tiến vào một
trong những pḥng thí nghiệm bí mật nhất thế giới. Rất nhiều gian
pḥng rộng mênh mông nằm san sát dọc hành lang, ở khu vực trung tâm
là một thang máy bằng thép và kính đựoc dùng để lên các văn pḥng
tầng trên. Vô số màn h́nh phát ra những quầng sang màu xanh lá cây
xuyên qua các vách ngăn kính. Jonathan và Clara bứơc vào một căn
pḥng có tầng rất cao. Một chiếc máy chụp ảnh khổng lồ đang lướt
trên các đường rănh. Các kỹ thuật viên đặt bức tranh lên một chiếc
giá và ngắm nh́n rất kỹ tác phẩm của Vladimir Radskin. Mặc dù có
trong tay đủ thiết bị hiện đại, song các nhà nghiên cứu của trung
tâm không bao giờ có thái độ coi nhẹ hay hàm hồ đối với một tác phẩm
toàn vẹn. Người kỹ thuật viên đảm nhiệm việc chụp ảnh điều chỉnh một
lọat ánh đèn chiếu từ các góc độ khác nhau xung quanh bức tranh. Bức
tranh Thiếu nữ áo đỏ được chụp dưới ánh đèn chiếu trực diện, rồi
bằng tia cực tím và tia cực tím và tia hồng ngoại.
Tất cả những tấm ảnh chụp đặc biệt này sẽ cho phép nh́n thấy những
h́nh vẽ ch́m nếu có, những dấu vết sửa chữa họăc những dấu vết phục
chế đă được thực hiện trong quá khứ. Bản phổ kế bằng tia hồng ngọai
đă không mang lại những kết quả như mong muốn. Để có thể khám phám
những bí mật của bức tranh, trước hết phải t́m cách tách rời các yếu
tố cấu thành trên nó. Đến cuối buổi sáng, một số mẫu thành phần nhỏ
li ti như đầu kim đă được trích ra và dùng hơi ga để thử nghiệm màu
sắc. Chiếc máy tối tân cho phép tách ra những phân tử nhỏ nhất cấu
thành nên chất sơn. Sau khi có được những kết quả đầu tiên, Fraçois
Hébrard gơ chúng vào một trong những máy tính được nối mạng thông
tin. Chỉ vài phút sau, máy in bắt đầu chạy.Rất nhiều các đường vạch
và sơ đồ bắt đầu được in ra trước mắt họ. Một nhà nghiên cứu bắt tay
ngay vào công việc so sánh và chuẩn bị một hệ thống cơ sở dữ liệu.
Bầu không khí nóng dần lên trong pḥng thí nghiệm. Thiếu nữ áo đỏ
đang được quay về phía bên kia mà không ai thấy được khuôn mặt, có
lẽ cũng đang mĩm cười khi thấy ḿnh đă gây được một ấn tượng lớn. Từ
lúc cô bước và nơi này, các nhà nghiên cứu tập trung mỗi lúc một
đông.
Chiếm máy kỳ lạ nhất mà bức tranh sẽ được đưa qua giúp đo được màu
sắc. Chiếc máy đo góc- màu- ảnh thô trông chẳng khác ǵ một máy
chiếu phim cũ, song nó lại là một trong những trang thiết bị tối tân
nhất và có thể cho kết quả trong ṿng chưa đầy một phút. Fraçois
Hébrard vồ ngay lấy tờ kết luận, đọc đi đọc lại hai lần rồi chuyển
cho Sylvie Leroy. Cả hai nh́n nhau ngạc nhiên. Sylvie Lery th́ thầm
vài tiếng vào tai ông. François tỏ ra ngập ngừng, rồi ông nhún vai,
nhấc điện thọai treo tường và bấm bốn chữ số.
- AGLAÈ có họat động không nhỉ? Ông hỏi bằng giọng tự tin.
Ông chờ máy bên kia trả lời và hài ḷng gác điện thọai. Ông kéo tay
Jonathan đi theo. Sau khi đă đi qua một cánh cửa an ninh nữa, họ
bước vào một khu nhà kỳ quặc. Ngay từ cửa vào, dăy hành lang bê-
tông chạy ṿng vèo như một mê cung.
- Đây là một cách để chống lại các nguyên tử, ông th́ thào. Chúng
không đủ thông minh để t́m thấy lối ra!
Đi hết dăy hành lang quanh co ấy, họ tới một căn pḥng rộng thênh
thang có đặt máy gia tốc phân tử. Hàng chục đường ống dẫn được nối
vào nhau theo một thứ logic mà chỉ có một vài nhà bác học và kỹ
thuật viên mới hiểu được. Chiếc máy Gia tốc Phân tử của Louvre, bảo
vật của ṭa nhà này, là chiếc duy nhất trên thế giới và được sử dụng
chỉ để phục vụ nghiên cứu di sản văn hóa. Sauk hi đă đặt các vật mẫu
vào vị trí, Jonathan và Clara đi sang pḥng bên cạnh, ngồi vào những
máy tính được nối mạng trên đó đang dần hiện ra tiến tŕnh chiếc máy
AGLAÉ phân tích trên bức tranh Thiếu nữ áo đỏ.
Ngày làm việc đă kết thúc. Ngồi sau bàn giấy François Hébrard đang
xem xét những tài liệu thu thập được Jonathan và Clara ngồi trước
mặt ông, hồi hộp như đôi vợ chồng đang ngồi chờ nghe chẩn đoán của
một vị bác sĩ nhi. Các kết quả thật đáng ngạc nhiên. Những chất liệu
tự nhiên mà Vladimier sử dụng vô cùng đa dạng. Dầu, sáp ong, nhựa
thông, bột màu, được pha chế bằng các công thức hóa học phức tạp một
cách đáng kinh ngạc. Cho đến thời điểm này, các kết quả phân tích
thu được vẫn chưa cho phép kỹ thuật viên của bảo tàng Louvre đưa ra
kết luận chắc chắn về thành phần cấu tạo nên màu đỏ được dung để vẽ
bộ váy áo của cô gái trong bức tranh. Màu đỏ này tươi một cách khác
thường. Điều khó tin là ở chỗ, mặc dù chưa hề phải trản qua bất cứ
một quá tŕnh phục chế nào, trông bức tranh lại có vẻ như không hề
bị tác động bởi thời gian.
- Tôi chẳng biết phải nói ǵ với hai người, Hébrard kết luận. Nếu
như tất cả chúng tôi không bị chóang ngợp bởi vô số điểm trong kỹ
thuật hội họa của Radskin, th́ chúng tôi đă cho rằng đây là tác phẩm
của một nhà hóa học tài năng.
Hébrard chưa từng gặp một trường hợp nào tương tự trong suốt nhiều
năm làm việc ở đây.
- Mặt tranh được quang một thứ dầu mà chúng tôi chưa hề biết đến, và
đặc biệt chúng tôi cũng không hiểu lớp dầu đó được dùng với mục đích
ǵ! Hébrard nói thêm.
Thiếu nữ áo đỏ hoàn toàn đi ngược lại mọi quy luật của quá tŕnh lăo
hóa. Không thể chỉ đơn thuần dựa vào điều kiện hoàn cảnh đặc biệt để
giải thích sự bảo tồn hoàn hảo cho bức tranh. Bí ẩn này đă trở thành
một thách thức đối với tất cả những nhà nghiên cứu của trung tâm.
Vladimir đă làm thời gian khiến cho bức tranh trở nên rực rỡ hơn chứ
không hề làm nó bị phai màu? Jonathan tự hỏi khi rời khỏi trung tâm.
- Tôi biết một điều có thể làm cho mọi thứ đẹp lên theo thời gian,
Clara nói trong lúc bước lên cầu thang, đó là t́nh cảm!
Họ quyết định rút ngắn thời gian lưu lại Paris và chỉ kịp ghé qua
khách sạn lấy hành lư. Trên đường ra sân bay, Jonathan gọi điện cho
Peter để kể lại cho bạn nghe về ngày làm việc của ḿnh. Khi anh tỏ
ra thán phục Peter v́ đă thu xếp được buổi hẹn gần như không tưởng
ấy với các nhà nghiên cứu của Louvre, Peter có vẻ ngạc nhiên.
- Tớ thề với cậu lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng, suốt cả đêm,
tớ đă ngủ quên với nỗi tự ái dưới làn gối êm. Sylvie đă chẳng hề đếm
xỉa khi tớ gọi điện năn nỉ tối qua. Nói rồi anh bỏ máy.
Chiếc máy bay đưa Clara và Jonathan quay trở lại London hạ cánh
xuống đường băng của sân bay City lúc vừa chập tối.
o0o
|