bởi người Hồi giáo: những yalis và
những khu chợ nhỏ nép mình sau những Souks và Teli Baba, nghĩa
trang chôn một người duy nhất, rồi có rất nhiều người hàng ngày
đến cầu nguyện cho linh hồn đã yên nghỉ nầy.
Anh ngồi chờ đợi bằng sự nhẫn nại của một tay thợ săn, sự trầm
tĩnh của người có đủ nghị lực để kiềm chế được thể xác và cảm
xúc của mình. Anh vốn là dân xứ Welsh, mang vẻ đẹp mạnh mẽ nhưng
cũng hết sức thâm trầm, một vẻ đẹp đặc trưng của dân xứ nầy. Tóc
anh đen, khuôn mặt rắn rỏi, cặp mắt thông minh màu xanh sẫm. Anh
cao trên 1m80 với thân hình vạm vỡ rắn chắc chỉ có được ở những
người chịu khó chăm sóc cho sức khoẻ của mình. Cả văn phòng ngập
ngụa mùi mồ hôi dầu chua loét của Hajib Kafir, mùi thuốc lá thơm
sực nức, mùi cà phê Thổ hăng hăng.
Rhys Williams không hề để ý những thứ đó. Anh đang nghĩ đến cú
điện thoại từ Chamonix cách đó một giờ.
- Một tai nạn khủng khiếp! Tin tôi đi, ông Williams, tất cả
chúng tôi đều lâm nạn. Chuyện xảy ra nhanh đến độ không ai kịp
trở tay để cứu ông ấy cả. Ông Roffe đã chết ngay lập tức…
Sam Roffe, chủ tịch tập đoàn Roffe và các con, tập đoàn dược
phẩm lớn thứ hai trên thế giới, một giang sơn trị giá nhiều tỉ
dollar trải rộng khắp toàn cầu. Thật không thể tưởng tượng là
Sam Roffe đã chết.
Ông vẫn luôn tràn đầy sinh lực, nhanh nhẹn, hoạt bát, một người
đàn ông năng động, thường xuyên phải sống trên máy bay đưa ông
tới các nhà máy, văn phòng của công ty trên khắp thế giới, những
nơi mà ông đã giải quyết những công việc tưởng chừng như không
ai làm nổi, xây dựng những ý tưởng mới, thúc đẩy mọi người làm
việc nhiều hơn và hiệu quả hơn. Dù đã có gia đình, đã trở thành
ông bố, thú vui duy nhất của ông vẫn là kinh doanh. Sam Roffe là
một nhân vật vô cùng lỗi lạc. Ai có thể thay thế ông đây? Ai có
đủ khả năng điều hành cái giang sơn khổng lồ ông để lại? Sam
Roffe đã không kịp chọn người kế vị mình. Bởi vì, ông đâu có
biết là mình sẽ không sống quá tuổi năm mươi hai? Ông vẫn luôn
nghĩ rằng mình còn khối thời gian.
Và giờ đây, thời gian của ông đã hết.
Đèn trong phòng bỗng bật sáng và Rhys Williams nhìn về phía cửa,
không nhận ra ai bởi loá mắt.
- Ông Williams! Tôi không biết là trong phòng vẫn còn người.
Đó là Sophie, một trong những nữ thư ký của công ty người được
giao việc phụ giúp Rhys Williams mỗi khi anh đến Istanbul. Cô ta
là người Thổ Nhĩ Kỳ, khoảng hai mươi tư, hai mươi lăm, gương mặt
xinh đẹp, thân hình mềm mại đầy quyến rũ, hứa hẹn. Cô ta đã khôn
khéo ngỏ ý với Rhys, rằng lúc nào cũng sẵn sàng chiều lòng anh
nếu anh muốn, nhưng Rhys chẳng hề để tâm.
- Tôi quay lại để làm mấy bức tlìư cho ông Kafir. - Và cô ta dịu
dàng nói thêm, - Có lẽ tôi giúp được cho ông việc gì chăng?
Khi cô ta tiến lại gần cái bàn, Rhys nhận thấy mùi như mùi xạ
hương của con thú hoang trong mùa giao phối.
- Ông Kafir đâu?
Sophie lắc đầu nói vẻ tiếc nuối.
- Ông ta đã rời khỏi từ lâu rồi. - Cô ta nhẹ nhàng vuốt mặt
trước của chiếc váy bằng bàn tay điêu luyện. - Tôi có thể giúp
ông việc gì chứ? - Cặp mắt cô ta đen láy và ướt át.
- Có. - Rhys đáp. - Tìm ông ta về đây.
Cô ta cau mày.
- Tôi không thể biết giờ nầy ông ta ở đâu…
- Hãy thử chỗ Kervansaray hoặc Mermara xem.
Có thể đây là nơi một trong số các cô bồ của Hajib Kafir làm vũ
nữ múa bụng. Khó mà biết được với Kafir, Rhys nghĩ. Cũng rất có
thể ông ta đang ở cùng với vợ.
Sophie tỏ ra hối lỗi.
- Tôi sẽ cố gắng, nhưng… tôi e là…
- Cho ông ta biết rằng nếu một giờ nửa không có mặt ở đây ông ta
sẽ bị sa thải.
Sắc mặt cô ta thay đổi.
- Tôi sẽ thử xem mình làm được gì ông Williams. - Và cô ta bước
về phía cửa.
- Tắt đèn cho tôi.
Dù sao, ngồi suy nghĩ trong bóng tối vẫn dễ dàng hơn. Hình ảnh
của Sam Roffe vẫn luẩn quẩn trong đầu Rhys. Vào khoảng thời gian
nầy trong năm, những ngày đầu tháng Chín, núi Mont Blanc rất dễ
trèo. Trước kia Sam đã một lần thứ trèo ở đây nhưng ông không
thể vượt qua bão tố để lên đến đỉnh núi. "Nhưng lần nầy tôi sẽ
cắm được cờ của công ty lên đó", ông hứa với Rhys bằng giọng bỡn
cợt.
Và cách đây một lát, khi Rhys đang làm thủ tục trả phòng tại
khách sạn Pera Palace thì điện thoại gọi cho anh. Rhys có thể
nghe được giọng nói thổn thức trong máy. "Mọi người đang vượt
qua dòng sông băng… ông Roffe bị trượt chân và sợi dây cáp của
ông ấy đứt ông ấy rơi xuống một kẽ nứt sâu thăm thẳm…"
Rhys hình dung ra thân hình của Sam đập mạnh vào tảng băng ác
nghiệt và lăn nhanh xuống kẽ nứt.
Anh cố ép mình quên đi cảnh tượng khủng khiếp đó.
Dù sao cũng là quá khứ rồi. Hiện tại còn quá nhiều điều khiến
anh phải lo nghĩ. Các thành viên trong gia đình Sam Roffe hiện
đang ở khắp nơi trên thế giới cần phải được thông báo về cái
chết của ông. Và bản thông cáo cho báo chí cũng cần phải chuẩn
bị.
Cái tin nầy hiện đã như một đợt sóng thần lan khắp giới tài
chính quốc tế. Giữa lúc công ty đang lâm vào tình trạng khủng
hoảng tài chính thì ảnh hưởng do cái chết của Sam Roffe gây ra
phải được giảm đến mức thấp nhất có thể. Đây chính là công việc
của Rhys.
o0o
Lần đầu tiên Rhys Williams gặp Sam Roffe đã cách đây chín năm.
Rhys lúc đó hai mươi lăm tuổi và đang giữ chức cố vấn thương mại
cho một công ty dược phẩm nhỏ. Anh năng động, thông minh và khi
hãng nầy mở rộng thì danh tiếng của Rhys theo đó mà nổi lên như
cồn. Anh được đề nghị làm việc tại tập đoàn Roffe và các con và
khi anh rời bỏ công ty cũ, Sam Roffe đã mua lại công ty ấy và
giao nó cho anh. Cho đến tận bây giờ anh vẫn không thể quên được
mãnh lực khó cưỡng được của Sam Roffe trong lần đầu tiên hai
người gặp mặt.
- Ở đây anh là người của Roffe và các con, - Sam Roffe cho anh
biết. - Thế nên tôi đã mua lại cái công ty lạc hậu cũ của anh.
Rhys thấy vừa tự hào vừa hơi bực tức.
- Nếu tôi không ở lại thì sao?
Sam Roffe mỉm cười và trả lời một cách tự tin:
- Anh sẽ ở lại. Anh và tôi đều có điểm chung, Rhys. Đó là nhiều
hoài bão: Chúng ta muốn làm chủ thế giới Và tôi sẽ cho anh biết
phải làm như thế nào.
Những lời nói như có ma lực, một bữa tiệc đầy hứa hẹn cho nỗi
khát khao mãnh liệt đang bùng cháy trong lòng anh, bởi vì anh
biết một điều mà Sam Roffe không biết: Chẳng có Rhys Williams
nào cả. Anh chỉ là một sự tưởng tượng được tạo ra từ sự liều
lĩnh, nghèo nàn và tuyệt vọng.
o0o
Anh ra đời gần khu mỏ Gwent và Carmarthen, những thung lũng đầy
những vết nứt nẻ mầu đỏ của xứ Wales, nơi những lớp sa thạch, đá
vôi và than đá rạch nát mặt đất xanh tươi. Anh lớn lên cùng mảnh
đất có vô số các truyền thuyết, mà ngay đến những cái tên thôi
cũng tràn đầy thi vị như: Brecon và Peny Fan, Penderyn và
Glyncorrwg hay Maesteg. Đây là mảnh đất huyền thoại với than đá
ngập sâu dưới lòng đất được tạo thành từ hai trăm tám mươi triệu
năm trước, với phong cảnh đã từng bị bao phủ bởi quá nhiều cây
cối, nhiều đến nỗi một con sóc cũng có thể đi từ vùng đồi Brecon
đến tận bờ biển mà chân không hề chạm đất. Nhưng rồi cuộc cách
mạng công nghiệp cũng đã tìm đến đây và những thân cây xinh đẹp
kia lần lượt gục ngã trước bàn tay của đám thợ đốt than để trở
thành nguyên liệu cho những lò lửa tham lam của ngành luyện
thép.
Cậu bé lớn lên cùng những vị anh hùng thuộc về một thế giới
khác, một thời gian khác. Robert Farren bị đưa lên giàn hoả của
Nhà thờ Thiên chúa giáo La mã vì ông không chịu thề sống độc
thân và bỏ rơi bà vợ; Vua Hywel the Good, người mang pháp luật
đến cho xứ Wales ở thế kỷ thứ 10; chiến binh dũng cảm Brychen,
bố của mười hai con trai và hai mươi tư con gái, người đã đập
tan tất cả các cuộc tấn công vào vương quốc của mình. Đó là mảnh
đất của những trang sử vẻ vang, nơi cậu bé được nuôi nấng. Nhưng
cũng không phải bất cứ thứ gì ở đây cũng vẻ vang.
Tổ tiên của Rhys đều là thợ mỏ và cậu bé thường được nghe những
câu chuyện chi tiết về địa ngục do bố cậu và các bậc chú bác kể
lại. Họ nói về những thời gian khủng khiếp khi không có việc
làm, khi những mỏ than giàu có của Gwent và Carmarthen bị đóng
cửa do xảy ra những cuộc chiến quyết liệt giữa đám thợ mỏ và các
công ty chủ mỏ, mà cuối cùng, những người thợ mỏ vì cảnh bần
cùng đã đánh mất cả phẩm cách, cả hoài bão, niềm kiêu hãnh bị
xói mòn, đã phải đầu hàng.
Khi các khu mỏ được mở cửa lại thì một kiểu địa ngục khác cũng
xuất hiện.
Hầu hết các thành viên trong gia đình Rhys đã bỏ mạng trong khu
mỏ. Một số khác thì chết trong các hầm mỏ dưới lòng đất hoặc rồi
cũng qua đời với bệnh ho hen do hai lá phổi đã đen kịt bụi than.
Chỉ có một số rất ít là vượt qua được tuổi ba mươi.
Rhys thường lắng nghe bố và các bác tranh luận về quá khứ, về
những sự khuất phục, sự lụn bại và những cuộc đình công, hoặc về
những thời kỳ tươi sáng cũng như đen tối, và đối với cậu bé thì
tất cả xem ra đều như nhau. Đều tồi tệ cả: Ý nghĩ về việc phí
hoài những năm tháng cuộc đời trong bóng tối của lòng đất đã làm
cho Rhys kinh hãi. Cậu bé hiểu rằng mình phải trốn đi.
Cậu bé bỏ nhà đi khi mới lên mười hai. Cậu rời khỏi thung lũng
than và đi về phía bờ biển, tới vịnh Sunny Ranny và Lavernock,
nơi tràn ngập đám du khách giàu có, và cậu bé cố gắng tỏ ra mình
là người hữu ích, dìu các quý bà sang trọng tuột xuống vách đá
tới bãi biển, mang vác các giỏ hành lý nặng cho các cuộc cắm
trại, đánh xe ngựa ở Pernarth và làm việc ở khu giải trí tại
vịnh Whitmore.
Cậu chỉ ở cách xa nhà có mấy giờ đường nhưng sự xa cách thì
không thể nào đo lường được. Mọi người ở đây như thể đến từ một
thế giới khác vậy. Rhys Williams chưa bao giờ tưởng tượng được
lại có những người đẹp đến thế, những bộ trang phục đẹp đến thế.
Người phụ nữ nào nhìn cũng như nữ hoàng còn đám đàn ông thì ai
cũng thanh lịch đến tuyệt vời. Đây mới là thế giới của cậu và
không có gì mà cậu không thể chiếm về cho mình.
Lúc đó Rhys được mười bốn tuổi, và cậu đã dành dụm đủ tiền cho
cuộc hành trình đến London. Cậu bỏ ra ba ngày đầu tiên chỉ để đi
dạo trong thành phố đồ sộ nhìn ngắm mọi thứ, tận hưởng bằng hết
những cảnh tượng kỳ lạ, những âm thanh và những mùi vị khác
nhau.
Công việc đầu tiên của cậu là làm nhân viên giao hàng cho một
cửa hiệu bán vải. Ở đó có hai nam thư ký, trịch thượng như nhau,
và một nữ thư ký, người đã làm trái tim cậu bé xao xuyến mỗi khi
nhìn cô ta.
Hai gã kia đối xử với Rhys như thể chẳng còn cách đối xử nào
khác với một kẻ rác rưởi. Cậu bé đúng là kỳ lạ. Cậu ăn mặc khác
người, điệu bộ chẳng giống ai và nói năng bằng một giọng rất khó
nghe. Bọn họ còn không phát âm đúng cả tên của cậu. Họ gọi cậu
là Rice, rồi Rye và Rise "Phải gọi là Roffe mới đúng", Rhys luôn
bảo họ như vậy.
Còn cô gái thì tỏ ra thương hại cậu. Tên cô ta là Gladys
Simpkins và cô ta sống cùng 3 người bạn gái khác trong một căn
nhà bé tí ở Tooting. Một hôm, cô cho phép cậu đưa về sau giờ làm
việc và mời cậu lên nhà uống trà. Rhys đã trở nên hồi hộp quá
mức.
Cậu đã vội nghĩ đây sẽ là kinh nghiệm yêu đương đầu tiên trong
đời, nhưng khi choàng tay qua người Gladys, cô nhìn sững cậu rồi
cười phá lên.
- Tôi sẽ chẳng cho cậu cái đó đâu. - Cô nói. - Nhưng tôi sẽ cho
cậu một lời khuyên. Nếu cậu muốn làm chuyện gì đó cho bản thân
mình, đầu tiên phải biết ăn mặc quần áo sạch sẽ, có một chút văn
hoá tối thiểu và phải tự học cách xử sự đi. - Rồi cô ngắm nhìn
gương mặt gầy gò nhưng đầy vẻ thiết tha của chàng trai trẻ và
nhẹ nhàng nói tiếp, - Nhất định cậu sẽ khá hơn khi lớn lên đấy.
o0o
Nếu cậu muốn làm chuyện gì đó cho bản thân mình… Đó chính là
giây phút để anh chàng Rhys Williams giả hiệu ra đời. Rhys
Wllliams thật vốn là một người vô giáo dục, dốt nát, không có cả
quá khứ lẫn tương lai. Nhưng anh có trí tưởng tượng, sự thông
minh và cả một hoài bão lớn đang bùng cháy. Như thế là quá đủ.
Anh đã bắt đầu với hình ảnh của con người mà anh muốn trở thành,
có ý định trở thành. Khi nhìn vào gương anh không còn thấy một
cậu bé vụng về, bẩn thỉu với giọng nói buồn cười mà thay vào đó
là một chàng trai khéo léo, lịch thiệp và thành công. Từng bước
từng bước một, Rhys khớp mình với các hình ảnh đó trong đầu. Anh
theo học các lớp buổi tối, trải qua những ngày nghỉ cuối tuần
trong các gallery nghệ thuật.
Anh cũng thường ra vào các thư viện công cộng, đến nhà hát, ngồi
ngoài hành lang nghiên cứu những bộ quần áo đắt tiền của cánh
đàn ông trước sân khấu.
Anh dè xẻn đối với việc ăn uống sao cho cứ một tháng một lần lại
đủ tiền để vào nhà hàng sang trọng, nơi mà anh có thể học được
cách xử sự trên bàn ăn của những người khác. Anh quan sát, học
hỏi và ghi nhớ.
Anh giống hệt một miếng bọt biển, từ từ xoá bỏ quá khứ và hút
lấy tương lai.
Chỉ trong một năm ngắn ngủi Rhys đã học đủ để nhận ra nữ hoàng
Gladys Simpkins của anh chỉ là một cô gái thành thị rẻ tiền, làm
cho anh chán ngấy.
Anh bỏ tiệm bán vải và vào làm chân thư ký cho một hiệu thuốc
thuộc một mạng lưới lớn. Lúc đó trông anh đã già hơn rất nhiều
so với tuổi 16 của mình. Anh đã đầy đặn hơn và cao hơn. Đám đàn
bà đã dần chú ý đến vẻ đẹp xứ Wales trầm tĩnh và miệng lưỡi lanh
lẹ của anh. Anh đã nhanh chóng thành công ở cửa hàng. Nhiều
khách hàng nữ sẵn sàng chờ cho đến khi Rhys rảnh rỗi để săn sóc
họ. Anh ăn mặc lịch sự, nói năng đúng mức và anh biết mình đã đi
vượt khỏi Gwent và Carmarthen một quãng đường dài nhưng mỗi khi
nhìn vào gương, anh vẫn chưa hoàn toàn thoả mãn.
Cuộc hành trình mà anh định thực hiện vẫn còn ở phía trước.
Trong vòng hai năm Rhys đã lên đến chức quản lý cửa hàng nơi anh
làm việc. Vị giám đốc khu vực của mạng lưới nói với anh:
- Đây mới là sự khởi đầu thôi, Williams. Hãy cố gắng làm việc và
một ngày kia anh sẽ thấy mình trở thành quản lý của cả nửa tá
cửa hàng ấy chứ.
Rhys suýt nữa thì cười to. Tưởng rằng thế đã là đỉnh cao của một
hoài bão lớn hay sao? Rhys không hề gián đoạn việc học hành. Anh
tiếp tục theo học ngành hành chính kinh doanh, tiếp thị thị
trường và luật thương mại. Anh muốn vươn cao hơn nữa. Hình ảnh
của anh trong gương là ở đỉnh thang, còn Rhys cảm thấy mình mới
đang đứng ở bậc thấp nhất. Cơ hội tiến thân của anh đã đến khi
một hôm, một người bán hàng dược phẩm bước vào và quan sát Rhys
dụ dỗ các bà các cô mua những thứ mà họ không cần dùng tới. Ông
ta nói:
- Anh đang lãng phí thời gian ở đây. Lẽ ra vị trí của anh phải ở
trong một cửa hàng lớn hơn.
- Ý định của ông là sao? - Rhys hỏi.
- Để tôi nói chuyện với ông chủ của anh đã.
Hai tuần sau Rhys đã làm bán hàng tại một công ty dược phẩm nhỏ.
Anh chỉ là một trong năm mươi nhân viên bán hàng, nhưng khi anh
nhìn vào tấm gương đặc biệt của mình thì, anh biết đó không phải
là sự thực. Đối thủ cạnh tranh duy nhất của anh chính là bản
thân anh. Anh đang tiến gần hơn đến hình ảnh của mình, với nhân
vật giả hiệu do anh tạo ra. Một người thông minh, có văn hoá,
sành điệu và quyến rũ. Những gì anh đang cố đạt tới là rất khó
khăn.
Ai cũng biết rằng con người được sinh ra với những đặc tính có
sẵn, chúng không thể bị tạo ra sau nầy. Nhưng Rhys đã tự tạo ra.
Anh đã trở thành cái hình ảnh mà anh đã tưởng tượng ra.
Anh đi chào bán sản phẩm trên khắp đất nước, trò chuyện và lắng
nghe. Anh trở lại London với rất nhiều những đề nghị khả thi và
anh bắt đầu leo lên các bậc thang. Ba năm sau ngày gia nhập công
ty, Rhys đã trở thành giám đốc thương mại. Dưới sự lãnh đạo khéo
léo của anh, công ty bắt đầu mở rộng phạm vi thế lực.
o0o
Và bốn năm sau, Sam Roffe đã bước vào cuộc đời anh. Ông đã nhận
ra hoài bão trong con người anh.
- Anh giống tôi, - Sam Roffe nói. - Chúng ta muốn làm chủ thế
giới. Tôi sẽ cho anh biết phải làm như thế nào.
Sam Roffe là một nhà cố vấn đầy kinh nghiệm.
Trong vòng chín năm sau đó dưới dự chỉ dẫn của ông, Rhys
Williams đã trở thành tài sản vô giá của tập đoàn. Thời gian
tiếp tục trôi qua, anh càng ngày càng được giao nhiều trách
nhiệm hơn, tổ chức lại nhiều khu vực, dàn xếp những vụ rắc rối ở
khắp mọi nơi trên thế giới, phối hợp nhiều chi nhánh khác nhau
của tập đoàn, sáng tạo ra nhiều khái niệm mới. Cuối cùng thì
ngoài Sam Roffe ra, Rhys là người hiểu biết về việc điều hành
công ty nhiều hơn cả. Rhys Williams được coi là người kế vị chức
vụ chủ tịch hợp lý nhất.
Một buổi sáng, khi Rhys và Sam Roffe từ Caracas trở về trên máy
bay riêng của công ty, một chiếc Boeing 707-320 sang trọng lộng
lẫy trong đội máy bay tám chiếc, Sam Roffe đã khen ngợi Rhys về
một vụ giao dịch có lời mà anh đạt được với chính phủ Venezuela.
- Sẽ có một phần thưởng lớn cho anh trong vụ nầy, Rhys.
Và Rhys đã trầm ngâm trả lời:
- Tôi không muốn nhận phần thưởng, Sam. Tôi sẽ thích hơn nếu có
một chân trong Hội đồng quản trị và một số cổ phần.
Anh đã kiếm được nó, và cả hai người đều hiểu điều đó Nhưng Sam
trả lời:
- Tôi xin lỗi. Tôi không thể phá bỏ quy luật, dù là vì anh.
Roffe và các con là tập đoàn gia đình trị. Không một ai khác
ngoài các thành viên trong gia đình được có mặt trong Hội đồng
quản trị hay nắm giữ cổ phần cả.
Dĩ nhiên là Rhys biết điều đó. Anh được tham gia tất cả các buổi
họp của Hội đồng quản trị, nhưng không phải với tư cách thành
viên. Anh vẫn chỉ là người ngoài. Sam Roffe là người đàn ông
cuối cùng trong dòng họ Roffe. Những người khác trong dòng họ,
các em họ của Sam, đều là phụ nữ. Và các ông chồng của họ nghiễm
nhiên trở thành thành viên Hội đồng quản trị. Walther Gassner
lấy Anna Roffe; Ivo Palazzi lấy Simonetta Roffe, Charles Martel
lấy Helene Roffe và Sir Alec Nichols có mẹ là một người mang họ
Roffe.
Thế nên Rhys buộc phải đi đến quyết định. Anh thừa biết rằng
mình xứng đáng có chân trong Hội động quản trị, rằng một ngày
nào đó anh sẽ điều hành tập đoàn. Tình thế hiện tại không cho
anh làm điều đó, nhưng tình thế lại có cách thay đổi. Rhys quyết
định hoãn binh, chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra. Sam đã dạy anh phải
kiên nhẫn. Và bây giờ Sam đã chết.
o0o
Đèn trong văn phòng lại bật sáng và Hajib Kafir đứng ở ngưỡng
cửa. Kafir là giám đốc thương mại của Roffe và các con ở Thổ Nhĩ
Kỳ. Ông ta thấp, mập, nước da ngăm đen, bụng phệ, tay đeo nhẫn
kim cương và tỏ ra tự hào về chúng. Ông ta có vẻ xộc xệch của
một người phải vội vã mặc quần áo. Như vậy là Sophie đã không
tìm thấy ông ta trong hộp đêm. Vậy cũng tốt Rhys nghĩ. Một tác
dụng phụ của cái chết của Sam Roffe.
- Rhys! - Kafir thốt lên. - Đồng nghiệp thân mến, tha lỗi cho
tôi. Tôi không biết rằng anh vẫn còn ở Istanbul. Khi anh vừa lên
đường ra phi trường thì tôi cũng có một công việc khẩn cấp phải…
- Ngồi xuống, Hajib. Và ông nghe cho rõ đây. Tôi muốn ông gửi
bốn bức điện bằng mật mã của tập đoàn. Chúng sẽ được chuyển tới
các nước khác nhau. Tôi muốn chúng được tận tay đánh đi bởi
người của chúng ta. Ông hiểu chứ?
- Dĩ nhiên, - Kafir bối rối trả lời. - Rất hiểu.
Rhys liếc nhìn chiếc đồng hồ vàng mỏng dính hiệu Baume & Mercier
nơi cổ tay ông ta.
- Bưu điện New City sắp đóng cửa. Hãy gửi chúng từ Yeni Posthane
Cad. Tôi muốn chúng được đánh đi trong vòng 30 phút nữa.
Anh trao cho ông ta bản copy bức điện tín anh đã viết. Bất kỳ ai
thảo luận về chuyện nầy sẽ lập tức bị đuổi việc.
Kafir liếc qua mảnh giấy và đôi mắt ông ta mở to.
- Chúa ơi! - ông ta nói. - Lạy Chúa! - Ông ta ngước mắt lên nhìn
vào gương mặt rầu rĩ của Rhys. - Chuyện… chuyện khủng khiếp nầy
đã xảy ra như thế nào?
- Sam Roffe chết trong một tai nạn. - Rhys trả lời.
Bây giờ, lần đầu tiên Rhys cho phép ý nghĩ của mình hướng về
điều mà anh đã cố xua đuổi khỏi tâm trí: Elizabeth, con gái của
Sam. Năm nay nàng đã hai mươi tư tuổi. Lần đầu tiên Rhys gặp
nàng là năm nàng lên mười lăm, miệng ngậm dây đeo quần, nhút
nhát và phục phịch. Nhiều năm trôi qua, Rhys đã chứng kiến
Elizabeth phát triển thành một thiếu nữ đặc biệt với sắc đẹp của
mẹ, trí thông minh và nghị lực của bố. Nàng đã trở nên gần gũi
với Sam. Rhys biết cái tin nầy sẽ ảnh hưởng mạnh đến nàng như
thế nào. Anh sẽ phải tự mình báo tin cho nàng.
Hai giờ sau Rhys Williams đã ngồi trong phi cơ của tập đoàn bay
trên bầu trời Địa Trung Hải, nhắm thẳng về hướng New York.
Chương 2
BERLIN
Thứ 2, ngày 7 tháng Chín, 10 giờ sáng
Anna Roffe Gassner biết rằng mình không thể hét lên lần nữa nếu
không muốn Walther quay lại và giết chết mình. Bà nằm co ro
trong phòng ngủ, người run lên không kiềm chế được, và chờ chết.
Câu chuyện bắt đầu từ cảnh thần tiên lãng mạn đã chấm dứt trong
sự ghê rợn khủng khiếp, ghê rợn đến khó nói thành lời. Bà đã mất
rất nhiều thời gian mới đương đầu được với sự thật. Người mà bà
lấy làm chồng là một tên sát nhân cuồng loạn.
Anna Roffe chưa hề biết yêu ai trước khi cô gặp Walther Gassner,
kể cả cha, mẹ và bản thân cô. Anna vốn yếu ớt bệnh hoạn và
thường xuyên phải chịu đau đớn do các cơn choáng váng ngất xỉu.
Cô cũng không nhớ nổi quãng thời gian ra khỏi bệnh viện hay các
nữ y tá hoặc các chuyên gia bay đến từ các miền đất xa xôi. Bởi
vì cha cô là Anton Roffe, thuộc tập đoàn Roffe và các con, nên
những chuyên gia y khoa hàng đầu đã đến bên giường bệnh của Anna
ở Berlin. Nhưng họ đã khám, đã kiểm tra và đã ra đi mà không
biết gì hơn những gì họ đã biết. Họ không thể chẩn đoán được căn
bệnh của cô.
Anna không thể đến trường như những đứa trẻ khác và càng ngày cô
càng trở thành ít nói, tự tạo cho mình một thế giới riêng, đầy
những mộng tưởng kỳ diệu, nơi mà không một ai được phép bước
vào.
Cô tự vẽ ra bức tranh cuộc đời mình bởi vì những màu sắc của
thực tại quá gay gắt khiến cô không sao chấp nhận nổi. Khi Anna
lên mười tám, những cơn choáng váng, ngất xỉu đột nhiên biến mất
một cách khó hiểu như khi chúng xuất hiện. Nhưng chúng cũng kịp
phá hỏng cuộc đời cô. Ở vào lứa tuổi mà phần đông các cô gái đã
đính ước hoặc kết hôn thì Anna vẫn chưa hề biết đến một nụ hôn
của các chàng trai.
Cô cố tự khẳng định rằng mình chẳng hề quan tâm.
Cô bằng lòng sống cuộc sống mơ mộng của mình, xa lánh mọi việc
và mọi người. Năm cô hai mươi lăm tuổi có nhiều người ngỏ lời
cầu hôn cô, bởi vì Anna là cô gái có món hồi môn vô cùng lớn và
lại là người của một trong những dòng họ danh giá nhất thế giới.
Rất nhiều người muốn được chung hưởng tài sản của cô. Cô đã nhận
được lời cầu hôn của một bá tước Thuy Điển, một nhà thơ Italia
và năm, sáu hoàng thân từ các quốc gia khác nhau. Nhưng Anna từ
chối tất cả.
Anton Roffe đã rên lên trong lễ sinh nhật lần thứ ba mươi của
cô. "Rồi tôi sẽ chết mà chẳng có đứa cháu ngoại nào mất".
Trong ngày sinh lần thứ ba nhăm, Anna đến Kitzbuhel ở Áo và cô
đã gặp Walther Gassner, huấn luyện viên trượt tuyết, trẻ hơn cô
mười ba tuổi.
Lần đầu tiên trông thấy Walther, Anna như mụ mẫm cả người đi.
Anh ta đang trượt xuống đường dốc đua Hahnekamm và đó là cảnh
tượng đẹp nhất mà cô đã từng thấy. Cô đi đến gần cuối đường
trượt để nhìn anh ta rõ ràng hơn.
Trông anh ta như một thiên thần trẻ trung và Anna cảm thấy việc
nhìn anh ta cũng đủ khiến cho cô cảm thấy vô cùng thoả mãn. Và
anh ta chợt thấy ánh mắt của cô đang nhìn mình.
- Cô không trượt tuyết sao, thưa cô?
Cô lắc đầu cảm thấy không còn tin vào giọng nói của mình nữa và
anh ta mỉm cười.
- Vậy cho phép tôi mời cô dùng bữa trưa.
Anna chạy vụt đi trong sự sợ hãi, như một nữ học sinh vậy. Kể từ
đó, Walther Gassner ra sức theo đuổi cô Anna Roffe đâu phải khờ
dại gì. Cô thừa biết mình không đẹp mà cũng chẳng tài giỏi, cô
chỉ là một phụ nữ bình thường, ngoài sự nổi tiếng của dòng họ ra
thì chẳng còn gì để dâng hiến cho một người đàn ông. Nhưng Anna
cũng biết rằng bên trong vẻ ngoài tầm thường đó cô vẫn là một cô
gái nhạy cảm, tràn ngập tình yêu, thơ và nhạc.
Có lẽ vì Anna không đẹp nên cô luôn tỏ ra sùng kính cái đẹp. Cô
thường đến các viện bảo tàng lớn và bỏ ra hàng giờ để chiêm
ngưỡng các bức tranh và các pho tượng.
Khi cô trông thấy Walther Gassner, cô có cảm giác như tất cả các
vị thần đã bừng tỉnh vì cô.
Walther Gassner đến gặp Anna ngay ngày hôm sau khi cô đang ngồi
ăn sáng trên sân thượng của khách sạn Tenerhof. Trông anh ta
đúng là giống một thiên thần trẻ tuổi. Anh ta nhìn nghiêng trông
rất cân đối, nét mặt thanh nhã, nhạy cảm, sinh động. Khuôn mặt
anh ta rám nắng và hàm răng trắng tinh đều đặn. Anh ta có mái
tóc vàng hoe và cặp mắt xám đen.
Anna có thể cảm nhận được cử động của các bắp thịt trên cánh tay
và đùi anh ta đằng sau bộ quần áo trượt tuyết và cô cảm thấy bị
kích thích dữ dội. Cô giấu đôi bàn tay vào vạt áo để anh ta
không trông thấy sự rung động của cô.
- Tôi đã đi tìm cô trên các đường trượt suốt buổi chiều hôm qua,
- Walther lên tiếng. Còn Anna không thể nói được gì. - Nếu cô
chưa biết trượt tuyết, tôi sẽ chỉ bảo cho cô. - Anh ta mỉm cười
và nói thêm, - Không cần thù lao.
Anh ta đưa cô đến Hausberg, dốc trượt dễ nhất để học bài học đầu
tiên. Cả hai đều lập tức nhận ra rằng Anna không hề có khiếu
trượt tuyết. Cô liên tục mất thăng bằng và bị ngã, nhưng cô vẫn
cố gắng tập tiếp vì cô sợ Walther sẽ tỏ ra coi thường nếu cô bỏ
cuộc. Rốt cuộc, sau khi đỡ cô dậy lần thứ mười, anh ta dịu dàng
nói:
- Có lẽ cô thích hợp với những việc khác hơn là việc nầy.
- Việc gì? - Anna khổ sở hỏi.
- Tôi sẽ cho cô biết vào bữa ăn tối nay.
Họ đã cùng nhau ăn bữa tối hôm đó và bữa sáng hôm sau, rồi lại
bữa trưa và bữa tối. Walther đã bỏ rơi các khách hàng khác. Anh
ta đưa Anna vào làng thay vì dạy cô trượt tuyết, dẫn cô đến sòng
bạc ở Der Goldene Greif, đi mua sắm, đi xe trượt, đi tản bộ hoặc
ngồi nói chuyện hàng giờ trên sân thượng của khách sạn. Đối với
Anna, đây quả thực là quãng thời gian tuyệt diệu.
Năm ngày sau khi họ gặp nhau, Walther cầm lấy bàn tay cô và nói:
- Anna, em yêu, anh muốn kết hôn cùng em.
Anh ta đã làm hỏng mọi chuyện. Anh ta lôi cô ra khỏi thế giới
thần tiên tuyệt diệu và đưa cô trở về với hiện thực phũ phàng về
con người cô. Một chiến lợi phẩm chẳng có gì hấp dẫn và đã ba
mươi lăm tuổi tuy vẫn còn trinh trắng dành cho kẻ đào mỏ.
Cô cố bỏ đi nhưng Walther đã ngăn lại.
- Chúng ta yêu nhau, Anna. Em không thể tránh né điều đó.
Cô lắng nghe anh ta nói dối, nghe những gì anh ta nói "Từ trước
đến giờ anh chưa hề yêu bất cứ một ai", và cô cố làm cho anh ta
cảm thấy thoải mái vì thực ra cô cũng rất muốn tin anh ta. Cô
đưa anh ta về phòng mình, họ ngồi xuống nói chuyện và khi
Walther kể cho Anna nghe câu chuyện của anh ta, bỗng nhiên cô
bắt đầu tin tưởng với một niềm tin kỳ lạ rằng đó cũng là câu
chuyện đời mình.
Cũng như cô, Walther chưa hề biết yêu ai. Anh ta bị mọi người xa
lánh vì đã có mặt trên đời với tư cách là một đứa con hoang,
giống như Anna bị xa lánh bởi bệnh tật của mình. Cũng như cô,
Walther tha thiết được dâng hiến tình yêu của mình. Anh ta sống
trong cô nhi viện và đến năm mười ba tuổi, khi vẻ đẹp khác
thường xuất hiện, đám đàn bà trong đó bắt đầu lợi dụng anh, đưa
anh về phòng họ hàng đêm, lên giường cùng anh và chỉ bảo cho anh
cách đem lại cho họ nhiều lạc thú. Và bù lại, họ thưởng cho anh
đồ ăn, những miếng thịt ngon, những món tráng miệng. Anh ta nhận
được mọi thứ, ngoại trừ tình yêu.
Khi Walther đủ tuổi rời khỏi cô nhi viện, anh nhận thấy cuộc đời
bên ngoài cũng không có gì khác. Đàn bà muốn lợi dụng vẻ đẹp của
anh ta, coi anh ta như món đồ trang sức, nhưng sự việc chỉ dừng
lại đến thế.
Họ tặng anh ta tiền bạc, quần áo, vàng bạc đủ loại nhưng chưa
bao giờ là chính bản thân họ.
Anna nhận ra Walther chính là người bạn đời của mình, một người
giống hệt với mình. Họ kín đáo tổ chức lễ thành hôn ở toà thị
chính thành phố.
Anna cứ tưởng rằng bố cô sẽ vui mừng khôn xiết. Nhưng không, ông
đã nổi cơn điên khi biết chuyện nầy.
- Sao mày ngốc thế hả con, - Anton Roffe quát vào mặt cô. Mày
muốn lấy một thằng đào mỏ chẳng ra gì. Bố đã kiểm tra nó kỹ
lưỡng rồi. Cả đời nó chỉ bám váy đàn bà, nhưng cũng chưa kiếm
được con nào ngu đến mức chịu lấy nó cả.
- Thôi đi, - Anna thổn thức, - Bố chẳng hiểu gì về anh ấy cả.
Nhưng Anton Roffe biết chắc rằng mình hiểu rất rõ về Walther
Gassner. Ông cho mời chàng rể đến văn phòng của mình.
Anh ta nhìn quanh căn phòng có lớp ván lót tường mầu sẫm và treo
đầy tranh cổ với vẻ hài lòng rồi nói:
- Con thích chỗ nầy.
- Đúng. Tôi chắc rằng nó đẹp hơn hẳn cô nhi viện.
Walther ranh mãnh nhìn ông, ánh mắt đột nhiên trở nên đề phòng.
- Bố nói gì cơ ạ?
Anton trả lời:
- Bỏ cái giọng ỡm ờ đó đi. Anh đã phạm phải một sai lầm. Con gái
tôi không có tiền đâu.
Cặp mắt xám của Walther dường như hoá đá.
- Bố định nói gì đấy ạ?
- Tôi chẳng định nói gì với anh cả. Tôi đang nói thẳng ra đây.
Anh sẽ chẳng lấy được gì của Anna đâu, vì nó vốn cũng chẳng có
gì cả. Nếu anh tìm hiểu tường tận hơn thì nhất định anh sẽ biết
rằng Roffe và các con có tổ chức rất chặt chẽ. Điều đó có nghĩa
là không có cổ phần bán ra ngoài. Chúng tôi sống rất thoải mái
nhưng chỉ đến thế thôi. Không có tài sản nào được phép bị thất
thoát cả.
Ông lục túi, lôi ra một phong bì và ném nó lên bàn, trước mặt
Walther.
- Đây là phần đền bù cho những khó nhọc của anh. Tôi cũng hy
vọng rằng anh sẽ rời khỏi Berlin lúc sáu giờ. Tôi không muốn
Anna nghe thấy tin tức gì của anh nữa.
Walther điềm tĩnh trả lời.
- Chẳng lẽ bố không nghĩ rằng con lấy Anna đơn giản là vì con
yêu cô ấy?
- Không. - Anton chua chát trả lời. - Thế anh đã từng nghĩ thế
sao?
Walther nhìn ông một lát.
- Để xem con đáng giá bao nhiêu.
Anh ta xé phong bì và đếm tiền. Ngước mắt nhìn lên Anton Roffe,
anh ta nói:
- Thế mà con cứ tự cho là mình đáng giá hơn hai mươi nghìn mác
nhiều.
- Đó là tất cả những gì anh có. Như thế là đã may mắn lắm rồi
đấy.
- Vâng. - Walther nói. - Nếu bố muốn biết sự thật, con nghĩ là
con đã rất may mắn. Cám ơn bố.
Anh ta lãnh đạm bỏ phong bì vào túi và bước ra cửa.
Anton Roffe thấy nhẹ nhõm hẳn đi. Ông vừa trải qua cảm giác tội
lỗi và ghê tởm về việc mình đã làm nhưng ông biết rằng đây là
giải pháp duy nhất. Anna sẽ đau khổ khi bị chú rể bỏ rơi, nhưng
như thế còn tốt hơn là để chuyện đó xảy ra sau nầy. Ông sẽ cố
tạo cơ hội cho cô gặp gỡ những người đàn ông đầy đủ tư cách và
phù hợp với lứa tuổi của cô, ít nhất cũng là những người biết
tôn trọng cô nếu như không yêu cô. Một người quan tâm đến bản
thân cô chứ không phải là danh tiếng hay tiền bạc của gia đình
cô. Người mà không bị mua chuộc bằng hai mươi nghìn mác.
o0o
Khi Anton Roffe về đến nhà, Anna chạy ra chào đón ông, mắt vẫn
còn ngấn lệ. Ông ôm chặt cô và nói:
- Anna, con yêu, mọi việc rồi sẽ ổn thôi. Rồi con sẽ quên anh
ta…
Và qua vai cô, Anton nhìn thấy Walther Gassner đứng trên ngưỡng
cửa. Anna giơ cao ngón tay, nói:
- Bố hãy xem món quà của Walther cho con. Chắc đây là chiếc nhẫn
đẹp nhất mà bố từng thấy phải không? Nó trị giá đến hai mươi
nghìn mác.
Cuối cùng thì bố mẹ Anna cũng phải chấp nhận Walther Gassner. Để
làm quà cưới, họ đã mua tặng đôi vợ chồng một toà nhà có vườn
xinh đẹp ở Wannsee với đồ đạc kiểu Pháp, trang trí bằng nhiều
tác phẩm mỹ thuật cổ, đi văng và những chiếc ghế êm ái, bàn làm
việc kiểu Roentgen đặt trong thư viện và nhiều tủ sách dựng dọc
theo tường. Tầng hầm được trang bị nhiều đồ đạc thuộc thế kỷ
mười tám mua từ Đan Mạch và Thuy Điển.
- Như thế là quá nhiều rồi, - Walther nói với Anna. - Anh không
muốn lấy thêm bất cứ thứ gì từ bố mẹ em hoặc từ em nữa. Anh muốn
tự mình mua cho em những thứ tuyệt đẹp khác, em yêu. - Anh ta
cười to và nói, - nhưng anh lại không có tiền.
- Dĩ nhiên là anh có. - Anna trả lời. - Cái gì của em cũng là
của anh.
Walther mỉm cười với cô và nói:
- Thế à?
Với sự khẩn khoản của Anna, vì Walther có vẻ miễn cưỡng khi nói
chuyện tiền bạc, cô giải thích cho anh ta nghe về tình trạng tài
chính của mình. Cô có một khoản tiền uỷ thác đủ giúp cô sống
thoải mái trọn đời, còn phần lớn tài sản của cô là những cổ phần
trong tập đoàn Roffe và các con. Các cổ phần nầy sẽ không được
bán ra ngoài nếu không có sự đồng ý của hội đồng quản trị.
- Số cổ phần của em trị giá bao nhiêu? - Walther hỏi.
Anna nói với anh ta, Walther hầu như không tin nổi vào tai mình.
Anh ta bảo cô nhắc lại tổng số.
- Vâng. Anh họ Sam của em sẽ không cho ai bán ra cả. Anh ấy nắm
giữ những cổ phần có tính quyết định. Một ngày…
Walther bày tỏ sự quan tâm của mình với công việc kinh doanh của
gia đình vợ. Nhưng Anton Roffe phản đối quyết liệt.
- Một tay trượt tuyết vô công rỗi nghề có thể làm gì cho Roffe
và các con? - ông hỏi.
Nhưng cuối cùng thì ông cũng phải nhượng bộ con gái và Walther
được vào làm ở bộ phận hành chính của tập đoàn. Anh ta càng ngày
càng tỏ ra xuất sắc trong công việc và thăng tiến nhanh chóng.
Hai năm sau đó, khi bố của Anna qua đời, Walther Gassner đã trở
thành thành viên của hội đồng quản trị. Anna rất tự hào về chồng
mình. Anh ta quả là người chồng và người tình tuyệt vời. Anh ta
thường tặng cô hoa và những món quà nhỏ, anh ta luôn tỏ ra thích
thú khi được ở nhà cùng cô vào những buổi tối, khi chỉ có hai
người bên nhau. Hạnh phúc của Anna dường như quá lớn so với sự
tưởng tượng của cô. "Tạ ơn Chúa kính yêu", cô thường tự nhủ như
vậy.
Anna học nấu ăn để cô có thể làm cho Walther những món ăn mà anh
ta ưa thích. Cô biết làm món Choucroute, một lớp dưa bắp cải
giòn và khoai tây nghiền nát như kem phủ lên trên với một miếng
sườn hun khói, thêm một khúc xúc xích Frankfork và một khúc xúc
xích Nuremberg. Cô nấu món thịt bê bằng bia và gia giảm bằng
thìa là Ai Cập, rồi dọn ra với một quả táo nướng đã được bỏ vỏ
và hột, bên trong nhồi đầy quả airelle màu đỏ.
"Em là đầu bếp cừ nhất thế giới, em yêu" Walther sẽ nói vậy và
mặt Anna sẽ đỏ bừng vì kiêu hãnh.
Ba năm sau ngày cưới, Anna có mang.
Cơn đau kéo dài trong tám tháng đầu tiên, nhưng Anna vẫn sung
sướng chịu đựng. Chỉ có một việc khiến cô phải bận tâm.
Nó bắt đầu vào một ngày, sau bữa ăn trưa. Cô vừa ngồi mơ màng
vừa đan cho Walther một chiếc áo len thì nghe thấy giọng nói của
anh ta:
- Lạy Chúa, Anna, em làm gì mà ngồi trong bóng tối vậy?
Hoàng hôn đã buông xuống và cô nhìn chiếc áo len chưa hề đụng
tới trên lòng. Ngày đã trôi qua từ lúc nào? Tâm trí của cô đang
trôi về đâu? Sau đó, Anna đã nhiều lần trải qua tình trạng tương
tự như vậy và cô bắt đầu tự hỏi liệu có phải việc rơi vào cõi hư
vô nầy một điềm báo hiệu cô sắp chết. Cô không nghĩ rằng mình sợ
chết, nhưng cô không thể chịu được ý nghĩ phải xa Walther.
Bốn tuần trước ngày em bé ra đời, Anna lại sa vào chốn hư vô và
bị trượt trên bậc thang rồi ngã xuống.
Cô tỉnh dậy trong bệnh viện.
Walther đang ngồi bên giường, nắm chặt lấy tay cô.
- Em làm anh lo sợ quá.
Trong cơn hoảng hốt bất ngờ, cô chợt nghĩ "Con mình! Mình không
hề cảm thấy nó". Ruột gan cô thắt lại.
- Con em đâu? - Cô hỏi.
Walther ôm chặt lấy cô.
Ông bác sĩ nói:
- Bà đã sinh đôi, bà Gassner.
Anna quay sang Walther, cặp mắt anh ta đẫm lệ.
- Một trai một gái, em yêu.
Cô thấy mình chết ngất vì sung sướng. Cô bỗng khát khao được ôm
các con vào lòng. Cô phải nhìn thấy chúng, sờ chúng, ôm ấp
chúng.
- Chúng ta sẽ nói về chuyện đó khi nào bà thấy khoẻ hơn, - Ông
bác sĩ nói. - Cho đến khi bà khoẻ hơn.
Mọi người tin rằng Anna sẽ bình phục nhanh chóng, nhưng cô lại
trở nên sợ hãi. Có cái gì đó đang xảy ra với cô mà cô không thể
hiểu nổi. Walther đến, cầm tay cô và chào tạm biệt, còn cô thì
ngạc nhiên nhìn anh ta và nói, "Nhưng anh mới ở đây…". Sau đó cô
nhìn đồng hồ và thấy rằng đã ba, bốn tiếng đồng hồ trôi qua. Cô
không biết thời gian đã trôi đi đâu.
Cô cũng lờ mờ nhận ra rằng họ cỏ mang hai đứa con đến cho cô vào
ban đêm và cô đã nhanh chóng thấy buồn ngủ. Cô không thể nhớ rõ
ràng, và cô đâm ra ngại hỏi han. Cũng không làm sao cả. Cô sẽ có
chúng khi Walther đưa cô về nhà.
Rồi cái ngày tuyệt vời đó cũng đến. Anna xuất viện trên một
chiếc xe đẩy, dù cô nhất định bảo rằng mình đã đủ sức để tự bước
đi. Quả thật là cô cảm thấy mình còn rất yếu, nhưng cô đã quá
hồi hộp được trông thấy các con nên không còn việc gì là quan
trọng với cô nữa. Walther đẩy cô vào nhà rồi đưa thẳng cô lên
buồng ngủ của họ.
- Không, không! - Cô nói. - Cho em đến phòng các con.
- Đây là lúc em cần nghỉ ngơi, em yêu. Em vẫn còn yếu…
Cô không nghe anh ta nói gì nữa. Cô vùng khỏi tay anh ta và chạy
sang phòng bọn trẻ.
Anna phải mất một lúc mới điều chỉnh được mắt do căn phòng chìm
trong bóng tối vì các rèm cửa đều đã buông xuống. Lòng cô tràn
ngập hồi hộp nên cô càng cảm thấy choáng váng. Cô chỉ lo mình sẽ
ngất xỉu.
Walther đi vào sau cô, anh ta đang nói, đang cố giải thích điều
gì đó nhưng chẳng còn gì quan trọng nữa.
Vì các con cô ở đó. Chúng đang ngủ trong nôi và Anna nhẹ nhàng
bước tới, cố gắng không quấy rầy chúng. Cô đứng đó, chăm chú
ngắm nhìn các con. Chúng là những đứa trẻ đẹp nhất mà cô từng
thấy. Ngay lúc nầy đây, cô đã thấy đứa con trai có gương mặt đẹp
trai và mái tóc hoe của bố. Còn con gái giống hệt một con búp bê
với mái tóc vàng mượt như nhung và khuôn mặt nhỏ xinh hình tam
giác.
Anna quay sang Walther, giọng nghẹn ngào:
- Chúng đẹp quá! Em… thật hạnh phúc quá.
- Nào, Anna - Walther thì thầm. Anh ta choàng tay qua người Anna
và ghì chặt lấy cô, một sự ham muốn mãnh liệt dâng lên trong
người. Anna bắt đầu cảm thấy khao khát. Đã lâu rồi họ không làm
tình với nhau. Walther nói đúng. Cô còn nhiều thời gian để lo
cho bọn trẻ.
Cô đặt tên cho con trai là Peter còn con gái là Brigitta. Chúng
là hai điều kỳ diệu tuyệt vời mà cô và Walther đã tạo nên, và
Anna thường ở lỳ hàng giờ trong phòng hai con để nô đùa với
chúng, chuyện trò với chúng. Mặc dù chúng còn chưa hiểu được cô,
nhưng cô cũng biết rằng chúng cảm nhận được tình yêu của cô. Đôi
khi, trong lúc nô đùa, cô quay lại và thấy Walther đứng ở ngưỡng
cửa, vừa từ nhiệm sở về nhà và Anna nhận ra một ngày đã qua.
- Đến đây với mẹ con em đi, - Cô thường nói. - Chúng em đang nô
đùa vui lắm. - Em chưa chuẩn bị bữa tối phải không? - Walther
hỏi, và cô chợt cảm thấy có lỗi. Cô định bụng sẽ để ý đến chồng
nhiều hơn, bớt chăm lo các con, nhưng rồi sự việc đó lại tái
hiện vào ngày hôm sau. Hai đứa bé cứ như những cục nam châm hút
chặt lấy cô. Anna vẫn còn yêu Walther rất nhiều và cô cố che
giấu mặc cảm tội lỗi bằng cách tự nhủ rằng các con cũng là một
phần của anh ta. Đêm nào cũng vậy, khi Walther vừa ngủ say là cô
rời khỏi giường và chạy sang phòng bọn trẻ, mải mê ngắm nghía
chúng cho đến khi ánh sáng ban ngày lọt vào phòng. Rồi cô lại
vội vã quay trở lại giường trước khi Walther kịp thức giấc.
Một lần, giữa đêm khuya, Walther bước vào phòng nuôi trẻ và bắt
gặp cô.
- Em đang làm gì ở đây vậy? - Anh ta hỏi.
- Không, anh yêu. Em chỉ…
- Về giường ngủ đi!
Đó là lần đầu tiên anh ta nói với cô như vậy.
Vào bữa điểm tâm, Walther nói:
- Anh nghĩ chúng ta nên đi nghỉ mát một chuyến. Đi xa sẽ tốt cho
chúng ta.
- Nhưng, Walther, các con còn quá bé, làm sao đi được?
- Anh chỉ nói là hai chúng ta thôi.
- Em không thể rời chúng được. - Cô lắc đầu
Anh ta cầm tay cô và nói:
- Anh muốn em tạm quên các con đi.
- Quên các con ư? - Giọng nàng sửng sốt.
Anh ta nhìn vào cặp mắt cô và nói:
- Anna, hãy nhớ xem chúng ta đã vui vẻ bao nhiêu trước khi em có
mang? Lúc đó hạnh phúc biết bao? Thật tuyệt diệu khi chúng ta
được ở bên nhau, chỉ có hai chúng ta, không có ai khác xen vào.
Bấy giờ thì cô đã hiểu. Walther ghen ngay với cả các con của
mình.
Thời gian cứ vùn vụt trôi qua. Giờ đây thì Walther không bao giờ
chịu đến gần bọn trẻ. Anna đã mua rất nhiều món quà tuyệt vời
mừng sinh nhật chúng.
Walther thì luôn cố gắng thu xếp để vắng nhà vì lý do công việc.
Anna không thể cứ tiếp tục lừa dối bản thân mãi. Sự thật là
Walther không hề thích bọn trẻ chút nào. Anna cảm thấy đây có
thể là lỗi của cô, bởi vì cô quá quan tâm đến chúng. Bị ám ảnh
là cụm từ mà Walther hay dùng. Anh ta đã đề nghị cô đi khám bác
sĩ, và cô đã đi để làm vui lòng anh ta. Những bác sĩ là một gã
khờ. Nhưng Anna để mặc cho tâm trí buông trôi, chẳng thèm nghe
từ khi ông ta bắt đầu nói chuyện cho đến khi cô nghe thấy.
- Hết giờ rồi, bà Gassner. Chúng ta sẽ gặp lại vào tuần tới chứ?
- Dĩ nhiên.
Nhưng cô chẳng bao giờ quay lại cả.
Anna cảm thấy vấn đề chính vẫn là cả Walther và cô. Nếu lỗi của
cô là quá yêu thương các con thì lỗi của Walther lại là không
hết lòng yêu thương chúng.
Anna cố tìm cách không đề cập đến các con trước mặt Walther,
nhưng cô gần như không thể chờ cho tới lúc anh ta đi làm mới có
thể vội vàng chạy vào phòng nuôi trẻ để gần gũi chúng. Hai đứa
đã qua sinh nhật thứ ba và Anna có thể thấy chúng thật giống
người lớn. Peter trông cao hơn so với tuổi, thân hình rắn chắc
khoẻ mạnh như bố nó vậy. Anna thường ôm nó vào lòng và lẩm bẩm:
- Nầy Peter, con sẽ đối xử với các cô gái đáng thương ra sao
đây? Hãy dịu dàng với họ, con yêu của mẹ. Họ sẽ không có cơ hội.
Peter mỉm cười bẽn lẽn và ôm chặt lấy mẹ.
Rồi Anna quay sang Brigitta. Cô bé ngày càng xinh đẹp hơn. Nó
không giống cả Anna và Peter. Brigitta có mái tóc vàng óng ả và
làn da mịn màng như làm bằng sứ vậy. Tính khí Peter nóng nảy như
bố và điều đó làm Anna đôi khi phải đánh nhẹ vào mông nó, còn
Brigitta thì trái lại, có tính khí như của một thiên thần. Những
khi Walther vắng nhà, Anna thường nghe nhạc hoặc đọc truyện cho
các con nghe. Cuốn sách mà chúng thích nhất là 10 truyện cổ
tích. Chúng thường năn nỉ Anna đọc đi đọc lại cho chúng nghe
những câu chuyện ma quái, yêu tinh, phù thuỷ và mỗi đêm, Anna
thường đặt chúng vào giường, hát bài hát ru:
Ngủ đi con, ngủ đi
Bố đang chăn cừu…
Anna đã cầu nguyện, mong rằng thời gian sẽ làm dịu bớt đi thái
độ của Walther, rằng anh ta sẽ thay đổi. Nhưng không, anh ta đã
thay đổi theo chiều hướng còn tồi tệ hơn. Anh ta căm ghét các
con. Lúc đầu Anna tự bảo rằng như thế là Walther muốn cô dành
tất cả tình yêu cho anh ta, rằng anh ta không muốn chia sẻ tình
yêu đó cho ai. Nhưng rồi cô dần nhận ra chuyện đó chẳng liên
quan gì đến tình yêu của mình. Anh ta ghét cả cô nữa. Bố cô đã
nói đúng. Walther cưới cô chỉ vì tiền. Hai đứa con là nỗi lo
ngại của anh ta. Anh ta muốn tống khứ chúng đi. Càng ngày anh ta
càng nói nhiều đến chuyện bán cổ phần.
- Sam không có quyền ngăn chặn chúng ta! Chúng ta có thể lấy tất
cả tiền và đi thật xa. Chỉ hai chúng ta thôi.
Cô nhìn anh ta:
- Thế còn các con?
Cặp mắt anh ta trở nên háo hức.
- Không. Hãy nghe anh nói đây. Vì lợi ích của đôi ta, phải tống
khứ chúng đi. Vậy thôi.
Đến lúc đó thì Anna đã nhận ra rằng anh ta bị điên. Và cô vô
cùng hoảng sợ. Walther đã đuổi hết tất cả gia nhân trong nhà,
ngoại trừ một người đàn bà đến quét dọn mỗi tuần một lần. Anna
và bọn trẻ ở nhà một mình với anh ta, nằm đưới sự khống chế của
anh ta. Anh ta cần được giúp đỡ. Có lẽ cũng còn chưa quá muộn để
cứu anh ta. Vào thế kỷ mười lăm, những người điên bị bắt và nhốt
trọn đời trên những nhà thuyền Narrenschiffe, tàu giam người
điên, nhưng ngày nay, với nền y học tiến bộ, cô cảm thấy người
ta có thể làm được điều gì đó để giúp Walther.
o0o
Giờ đây, vào ngày nầy của tháng chín, Anna ngồi co ro trên sàn
phòng ngủ mà Walther đã khoá ngoài đợi ông ta trở về. Bà biết bà
phải làm gì. Vì lợi ích của ông ta, cũng như của bà và các con.
Anna loạng choạng đứng lên và đi về phía điện thoại. Bà lưỡng lự
một lát rồi cầm máy lên và quay số 110, số điện thoại khẩn cấp
của cảnh sát.
Một giọng nói xa lạ vang lên trong tai bà:
- A lô, đây là phòng cấp cứu sở cảnh sát. Tôi có thể giúp gì cho
bà?
- Xin ông làm ơn! - Giọng bà nghẹn ngào. - Tôi…
Một bàn tay chợt từ đâu thò ra giật lấy ống nghe của bà và quật
mạnh lên giá.
Anna lùi lại.
- Ôi, em van anh, - Bà thổn thức, - đừng đánh em.
Walther tiến lại phía bà, cặp mắt sáng rực, giọng nói dịu dàng
đến mức không thể tin nổi.
- Em yêu, anh sẽ không làm em đau đâu. Anh yêu em mà, bộ em
không biết thế sao? - ông ta chạm vào người bà và bà cảm thấy
sởn cả gai ốc. - Và chúng ta cũng không muốn cảnh sát tới đây,
phải không nào? - Bà lắc đầu lia lịa, không cất nên lời vì quá
sợ hãi. - Chính bọn trẻ gây ra chuyện nầy, Anna. Chúng ta sẽ
tống khứ chúng đi. Anh…
Chuông cửa bỗng reo vang dưới lầu. Walther lưỡng lự đứng yên tại
chỗ. Tiếng chuông lại vang lên.
- Ở lại đây - ông ta ra lệnh. - Anh sẽ quay lên ngay.
Anna đờ người ra nhìn ông ta bước ra ngoài phòng ngủ. Walther
dập cửa đánh sầm và bà nghe rõ tiếng khoá lách cách bên ngoài.
- Anh sẽ quay lên ngay.
Walther Gassner vội vã chạy xuống nhà, đi ra mở cửa. Một người
đàn ông trong bộ đồng phục bưu điện màu xám đứng đó, trong tay
cầm một phong bì dán kín.
- Tôi có bức điện tối khẩn gửi cho ông bà Walther Gassner.
- Vâng. - Walther trả lời. - Anh cứ đưa cho tôi.
- Ông ta đóng cửa lại, nhìn chiếc phong bì trong tay và mở nó ra
xem. Rất từ từ, ông ta đọc từng chữ trong bức điện.
VÔ CÙNG ĐAU ĐỚN BÁO TIN CHO ÔNG BIẾT, SAM ROFFE ĐÃ CHẾT TRONG VỤ
TAI NẠN LEO NÚI.
YÊU CẦU ÔNG CÓ MẶT Ở ZURICH VÀO CHIỀU THỨ SÁU ĐỂ THAM DỰ PHIÊN
HỌP KHẨN CẤP CỦA HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ.
Bức điện được ký tên "Rhys Williams!"
Chương 3
ROMA
Thứ hai, mồng 7 tháng Chín, 6 giờ chiều
Ivo Palazzi đứng giữa phòng ngủ, máu cháy đầm đìa trên mặt.
- Cha mẹ ơi. Chết con rồi?
- Tôi vẫn chưa bắt đầu tiêu diệt anh đâu, đồ con hoang khốn nạn!
- Donatella quát lên với ông ta.
Cả hai đều trần truồng trong căn phòng ngủ rộng lớn thuộc căn hộ
của họ ở đường Montemignaio.
Donatella có thân hình hấp dẫn, quyến rũ nhất mà Ivo Palazzi
từng thấy, và ngay cả lúc nầy, khi máu me đang ròng ròng trên
mặt vì những vết cào cấu của cô ta thì ông vẫn cứ cảm thấy bị
kích thích đến tột độ Chúa ơi, cô ta đẹp thật. Vẻ đẹp vừa ngây
thơ vừa dung tục luôn khiến ông phát điên lên được. Cô ta có
khuôn mặt của một con báo, đôi gò má cao, cặp gặm, mút ông và… -
nhưng đây không phải là lúc ông nghĩ đến chuyện đó. Ông nhặt một
mảnh vải trắng trên ghế để cầm máu và khi nhận ra đó là chiếc sơ
mi của mình thì đã quá muộn. Donatella đứng giữa chiếc giường
đôi vĩ đại của họ, gào lên:
- Ước gì anh chảy máu đến chết luôn. Khi tôi giải quyết anh
xong, đồ háu gái bẩn thỉu, thì anh cũng đáng để cho bọn gái điếm
la vào người!
Ivo Palazzi đã tự hỏi mình cả trăm lần rằng làm sao mà ông lại
cứ bị rơi vào tình trạng khổ sở thế nầy. Ông vẫn luôn tự hào
rằng mình là người đàn ông hạnh phúc nhất và tất cả bạn bè đã
đồng ý điều đó. Bạn bè của ông? Tất cả mọi người thì đúng hơn.
Bởi vì Ivo không có kẻ thù. Hồi còn độc thân, ông là một anh
chàng La Mã vô tư lự, bất cần đời, một Don Giovani làm cho một
nửa đàn ông Italia ghen tị. Triết lý của ông được tóm gọn trong
câu ngạn ngữ "Tự lấy làm vinh dự với một người đàn bà". Chuyện
đó làm Ivo luôn bận rộn. Ông là người thật sự lãng mạn. Ông yêu
liên tục, và mỗi lần yêu ông lại dùng mối tình mới để giúp mình
quên đi mối tình cũ. Ivo sùng bái đàn bà và với ông, tất cả bọn
họ đều đẹp, từ những cô gái điếm miệt mài kiếm ăn dọc đường
Alpha đến những siêu người mẫu bước đi khệnh khạng trên đường
Condotti. Ivo chỉ không ưa gái Mỹ. Họ quá khác với sở thích của
ông. Vả lại, cũng chả hy vọng gì ở một đất nước với ngôn ngữ tầm
thường đến mức đi dịch cái tên Giuseppe Verdi (1) vĩ đại thành
Joe Gren.
Ivo luôn thu xếp để có trong tay khoảng một tá gái với nhiều cấp
khác nhau. Cấp một là các cô mà ông mới quen. Hàng ngày họ sẽ
nhận được điện thoại, hoa và một tập thơ tình mỏng. Cấp hai là
những người mà ông sẽ tặng một vài món đồ hiệu Gucci và sôcôla
Perugina đựng trong các hộp sứ. Những người ở cấp ba sẽ được
nhận kim cương, quần áo đắt tiền và lời mời đi ăn tối ở El Toula
hoặc Taverna Flavia. Ngủ chung giường với Ivo là những người cấp
bốn và họ sẽ được thưởng thức những tuyệt kỹ chăn gối của ông
như một người tình. Mỗi cuộc hẹn hò của Ivo là cả một tác phẩm
hoàn hảo. Căn hộ nhỏ của ông trên đường Margutta sẽ có đầy hoa,
thường là cẩm chướng hoặc anh túc, nhạc thì là opera, cổ điển
hoặc rock tuỳ theo sở thích của cô gái. Ivo là một đầu bếp tuyệt
vời và một trong những món "độc chiêu" của ông là pollo alla
cacciatora, gà của thợ săn. Sau bữa tối sẽ là một chai sâm banh
ngâm đá để uống trên giường.
Vâng, Ivo rất khoái cấp bốn. Nhưng cấp năm có lẽ mới là cấp tinh
tế hơn tất cả. Đó là một lời từ giã não nuột, một món quà chia
tay đáng giá và một cuộc chia ly đầy nước mắt.
Nhưng tất cả đã lùi về quá khứ. Giờ đây Ivo Palazzi liếc nhanh
gương mặt máu me sướt sát của mình qua tấm gương. Phía bên kia
giường ngủ và cảm thấy kinh bãi. Trông ông cứ như là đang vừa bị
một cái máy gặt đập tấn công vậy.
- Hãy xem em đã làm gì anh đây nầy! - ông kêu lên, - Cara, anh
biết là em không định làm như thế mà.
Ông đi sang phía bên kia giường để ôm Donatella vào lòng. Cánh
tay mềm mại của cô ta vòng qua người ông và khi ông vừa mới ghì
chặt cô ta thì cô ta chợt cắm những móng tay đài nhọn vào lưng
ông và cào mạnh như một con thú hoang. Ivo đau đớn rú lên.
- Cứ kêu đi? - Donatella quát. - Nếu có dao ở đây tôi sẽ cắt
phăng cái của quý của anh đi rồi chọc vào cái cổ họng khốn nạn
kia!
- Thôi mà! - Ivo van vỉ. - Các con nghe thấy hết bây giờ.
- Kệ chúng! - Cô ta rít lên. - Đã đến lúc phải cho chúng biết bố
chúng là loại quái vật gì.
Ông bước một bước về phía cô ta.
- Đừng đụng vào tôi! Tôi sẽ hiến thân cho tên thuỷ thủ say rượu
giang mai đầu tiên mà tôi gặp ngoài đường trước khi để cho anh
đến gần lại.
Ivo đứng sững, cảm thấy niềm kiêu hãnh bị tổn thương. Anh không
hy vọng đây là cách mà mẹ của các con anh nói chuyện với anh.
- Anh muốn tôi dịu dàng với anh à? Anh muốn tôi thôi không đối
xử với anh như với một tên vô lại à?, - Giọng của Donatella cao
dần lên thành một tiếng gào. - Thế thì hãy đưa ra đây những gì
tôi muốn đi.
Ivo bồn chồn nhìn ra cửa.
- Carissima… anh không thể. Anh không có cái đó.
- Thế thì cố lấy cho tôi đi. - Cô ta hét lên. - Anh đã hứa rồi
mà.
- Cô ta bắt đầu lên cơn kích động, và Ivo quyết định tốt nhất là
nên nhanh chóng rời khỏi trước khi đám hàng xóm kịp gọi cảnh
sát.
- Muốn lấy được một triệu đô la cần có nhiều thời gian. - ông
nói bằng giọng dỗ dành. - Nhưng anh… anh sẽ có cách.
Ông vội vã mặc quần lót rồi quần dài, đi tất rồi xỏ giầy trong
lúc Donatella lăn lộn trong phòng, bộ ngực rắn chắc, đầy đặn
nhấp nhô trong không khí.
Ivo tự nhủ, Chúa ơi, đàn bà! Thế mà mình vẫn cứ mê mệt mới lạ
chứ? Ông với lấy cái áo sơ mi dính đầy máu. Thật là hết cách.
Ông mặc nó vào người, cảm thấy lành lạnh ở phía lưng và ngực.
Ivo nhìn lại mình lần cuối trong gương. Máu vẫn còn rỉ ra từ
những vết cào dài mà móng tay của Donatella để lại trên mặt.
- Carissima, - Ivo rên rỉ, - Mình phải giải thích sao với vợ
đây?
Vợ của Ivo Palazzi là Simonetta Roffe, người thừa kế chi nhánh
Italia của dòng họ Roffe. Lúc gặp Simonetta, Ivo còn đang là một
kiến trúc sư trẻ.
Hãng của ông đã phái ông đi giám sát một số việc sửa chữa trong
căn biệt thự Roffe ở Porto Ercole. Ngay từ cái nhìn đầu tiên của
Simonetta vào Ivo, quãng thời gian độc thân của ông chỉ còn đếm
được từng ngày. Ngay trong đêm đầu tiên Ivo đã cùng cô lên tầng
bốn và sa vào vòng hôn nhân với cô chỉ sau đó một thời gian
ngắn. Simonetta là người xinh đẹp và có đầu óc quyết đoán, vì
vậy cô biết mình muốn gì: đó là Ivo Palazzi. Vì thế Ivo đã biến
mình từ một chàng độc thân bất cần đời thành người chồng của một
nữ thừa kế trẻ đẹp. Ông từ bỏ không một chút hối tiếc các ao ước
về nghề kiến trúc và gia nhập tập đoàn Roffe và các con, với một
văn phòng nguy nga tráng lệ ở châu Âu, khu vực Italia, được
người tiền nhiệm bất hạnh Duce mở ra với rất nhiều hy vọng.
Ngay từ lúc mới gia nhập, Ivo đã mang lại cho tập đoàn nhiều
thành công đánh kể. Ông thông minh, học hỏi nhanh và được tất cả
mọi người quý mến. Thật khó có thể không quý mến Ivo. Ông luôn
luôn tươi cười luôn luôn quyến rũ. Bạn bè ông thường ghen tức
với địa vị tuyệt diệu của ông và tự hỏi ông đã làm thế nào để
đạt được nó. Câu trả lời rất đơn giản. Ivo biết cách che giấu
mặt trái con người mình. Thực ra ông là một con người đầy cảm
xúc, có khả năng căm thù sâu sắc, có khả năng giết người.
Cuộc hôn nhân của Ivo và Simonetta khá thành công. Đầu tiên ông
lo ngại rằng hôn nhân sẽ bó buộc dũng khí của ông cho đến chết,
nhưng rồi ông nhận ra rằng mình đã lầm. Ông chỉ cần đặt lại cho
mình một chương trình chặt chẽ hơn, giảm bớt số bạn gái và mọi
việc lại tiếp tục như cũ.
Bố của Simonetta mua cho hai người một căn nhà rộng lớn ở
Olgianta, một thế giới riêng rộng lớn cách Rome hai mươi lăm km
về phía bắc, được bảo vệ bởi vô số cánh cổng kín và cả một đội
bảo vệ mặc quân phục đứng gác.
Simonetta là một người vợ tuyệt vời. Bà yêu Ivo và đối xử với
ông như một ông hoàng khiến ông cảm thấy không còn gì tuyệt diệu
hơn thế. Simonetta chỉ có một khuyết điểm nhỏ. Đó là khi ghen
tuông, bà trở nên vô cùng hung dữ. Một lần bà đã nghi ngờ ông
đưa một nữ khách hàng đi công du Brazil. Và ông đã tỏ ra giận dữ
một cách chính đáng trước lời buộc tội đó. Trước khi cuộc tranh
cãi chấm dứt thì tổ ấm của họ đã kịp biến thành bãi chiến
trường. Không một thứ đồ đạc nào còn nguyên vẹn và đa số chúng
đều bị vỡ vụn xung quanh đầu Ivo. Simonetta với con dao phay
trên tay đuổi theo ông bén gót, đe doạ sẽ giết chết ông rồi tự
tử theo và Ivo phải dùng toàn lực mới đoạt được con dao trong
tay bà. Họ vật lộn dữ dội trên sàn nhà và cuối cùng Ivo phải xé
tan quần áo của bà mới làm cho bà nguôi đi cơn giận. Nhưng sau
vụ đó Ivo trở nên vô cùng thận trọng. Ông bảo với cô khách hàng
rằng ông sẽ không đi đâu cùng cô ta nữa và ông không bao giờ để
mình bị bất kỳ một mảy may nghi ngờ. Ông biết mình là người đàn
ông may mắn nhất trên đời. Simonetta vừa trẻ, đẹp, thông minh
lại vừa giàu có. Họ có chung các sở thích và bạn bè. Đây là một
cuộc hôn nhân hoàn hảo, và khi ông chuyển các cô gái từ cấp hai
sang cấp ba, các cô khác từ cấp ba sang cấp bốn, ông tự hỏi mình
tại sao lại cứ thích phản bội vợ như vậy. Rồi ông nhún vai như
một triết gia và tự nhủ "Vậy ai đó phải làm cho đám đàn bà ấy
hạnh phúc chứ".
Ba năm sau lễ thành hôn với Simonetta, Ivo gặp Donatella Spolini
trong một chuyến công cán tới Sicily. Phải nói đó là một vụ nổ
chứ không phải một cuộc gặp, nó chẳng khác nào hai hành tinh va
vào nhau. Simonetta có thân hình mảnh dẻ, uyển chuyển của một
phụ nữ trẻ do Manzu tạo thành còn Donatella lại có thân hình đầy
đặn, khêu gợi như bức tranh của Rubens. Khuôn mặt cô ta thanh tú
và cặp mắt nung nấu màu lục làm Ivo thấy bốc lửa trong lòng.
Họ đã lên giường cùng nhau chỉ một giờ sau khi gặp mặt và Ivo,
luôn tự hào về sức lực kỳ diệu của mình với tư cách là một người
tình, đã thấy ngay rằng mình chỉ đáng là học trò của cô giáo
Donatella. Cô ta đưa ông lên những đỉnh cao mà ông chưa bao giờ
đạt tới, và thân hình cô ta đem lại cho ông những cảm giác mà
ông chưa từng mơ có được. Cô ta là cả một kho lạc thú vô tận, và
khi Ivo nằm trên giường, mắt nhắm nghiền, tận hưởng những khoái
cảm kỳ lạ, ông biết rằng mình sẽ là một kẻ ngu ngốc nếu để
Donatella đi.
Và như thế, Donatella đã thành tình nhân của Ivo.
Điều kiện duy nhất mà cô ta đưa ra là ông phải rời bỏ tất cả
những người đàn bà khác, ngoại trừ vợ của mình. Ivo đã sung
sướng tán thành. Tám năm trôi qua và trong suốt quãng thời gian
đó Ivo đã không hề phản bội vợ và tình nhân của mình. Đáp ứng
một lúc cho cả hai người đàn bà đa tình chắc chắn sẽ làm kiệt
sức một người đàn ông bình thường nhưng với Ivo thì hoàn toàn
ngược lại. Khi ông làm tình với Simonetta, ông nghĩ đến
Donatella cùng thân hình đầy đặn quyến rũ của cô ta và ông cảm
thấy mình tràn đầy sự thèm khát. Còn khi ông trên giường cùng
Donatella, ông lại nghĩ về bộ ngực trẻ trung mềm mại cùng cặp
mông nhỏ nhắn của Simonetta và ông cảm thấy sức lực được tăng
lên rất nhiều. Tóm lại là khi ông chăn gối cùng người nầy thì
ông lại có cảm giác là mình đang lừa gạt người kia. Điều đó làm
tăng hứng thú của ông lên gấp bội.
Ivo mua cho Donatella một căn hộ đẹp ở đường Montemignaio để ông
đến với cô ta bất cứ lúc nào có thể. Thỉnh thoảng ông lại sắp
xếp một chuyến công cán đột xuất và thay vì lên đường, ông dùng
thời gian đó để làm tình với Donatella. Ông cũng thường ghé đến
cô ta trên đường đến văn phòng và ngủ trưa ở nhà cô ta. Có một
lần, Ivo và Simonetta đến New York trên chiếc tàu thuỷ QE2, ông
đã liều lĩnh để Donatella trong một cabin ở boong dưới: Đó là
năm ngày thú vị nhất trong đời Ivo.
Vào cái buổi tối khi Simonetta báo cho Ivo biết bà có mang, ông
đã vui mừng khôn xiết. Và một tuần sau đó Donatella cũng thông
báo rằng cô ta có mang, và lại thêm một lần nữa lòng Ivo tràn
ngập hạnh phúc.
Ông tự hỏi tại sao các vị thần lại tốt với mình đến như vậy. Với
tất cả sự khiêm nhường, Ivo đôi khi cảm thấy mình không xứng
đáng với những lạc thú tuyệt vời mà bề trên đã ban cho.
Theo đúng trình tự, Simonetta sinh hạ một bé gái và một tuần sau
đến lượt Donatella với một bé trai.
Nhưng các vị thần vẫn chưa ngừng lại với Ivo. Một thời gian ngắn
sau, Donatella thông báo với Ivo rằng cô ta lại mang bầu và đến
lượt Simonetta cũng nói như vậy vào tuần lễ kế tiếp. Chín tháng
sau, Donatella cho ông một cậu con trai và Simonetta cho ông một
cô con gái. Bốn tháng sau, cả hai người đàn bà cùng mang bầu và
lần nầy họ sinh cùng ngày. Ivo đã chạy như điên từ Salvador
Mundi là nơi Simonetta sinh đến Clinia Santa Chiara, nơi mà ông
đã đưa Donatella vào.
- Ông chạy như con thoi giữa hai bệnh viện, vừa lái chiếc
Raccordo Anulare vừa vẫy tay với dám con gái ngồi trước những
căn lều nhỏ, dọc theo con đường, dưới những chiếc ô màu hồng,
đợi khách. Ivo lái xe quá nhanh nên không kịp nhìn họ nhưng ông
rất yêu họ và muốn tất cả bọn họ.
Donatella lại sinh một bé trai và phần của Simonetta lại là một
bé gái.
Đôi lần Ivo mong ước sự việc được đảo ngược lại.
Thật là trớ trêu khi vợ ông sinh toàn con gái và người tình thì
sinh toàn con trai, bởi vì ông vẫn thích có người thừa kế là đàn
ông, mang họ của mình. Nhưng dù sao ông vẫn là người mãn nguyện.
Ông có ba đứa con ngoài nhà và ba đứa con trong nhà. Ông yêu
thương tất cả luôn tỏ ra là một người cha tuyệt vời, nhớ hết
ngày sinh, ngày lễ thánh và tên của chúng. Ba đứa con gái tên là
Isabella, Benedetta và Camilla còn lũ con trai là Francesco,
Carlo và Luca.
Khi bọn trẻ lớn dần lên thì cuộc sống cũng dần trở nên phức tạp
hơn với Ivo. Kể cả vợ, người tình và sáu đứa con. Ivo phải lo
đến tám buổi sinh nhật, tám ngày lễ thánh và hai kỳ nghỉ trong
mỗi vụ hè.
Ông phải chắc chắn rằng trường của bọn trẻ ở cách xa nhau. Lũ
con gái học ở Saint-Dominique, tu viện Pháp ở đường Cassia, còn
bọn con trai thì ở trường dòng tên Massimo ở EUR. Ivo gặp gỡ và
tranh thủ cảm tình tất cả các thầy cô giáo của bọn chúng, giúp
đỡ các con làm bài tập ở nhà, chơi đùa với chúng, sửa chữa những
đồ chơi mà chúng làm hỏng. Ivo phải sử dụng tất cả tài năng và
sự khéo léo để quản lý hai gia đình và giữ cho họ cách xa nhau.
Ông đúng là một người cha, người chồng gương mẫu và là một người
tình lý tưởng. Vào ngày lễ Noel, ông ở nhà với Simonetta và bọn
con gái. Còn trong ngày lễ Befama mồng sáu tháng giêng, Ivo ăn
mặc y hệt phù thuỷ Befama, tặng cho lũ con trai nhiều món quà
cùng Carbone, thứ kẹo cứng mà chúng rất thích.
Vợ và người tình của Ivo đều đáng yêu còn lũ con của ông đều
sáng sủa, xinh đẹp và ông rất hãnh diện về họ. Đời thật là đẹp.
Và rồi các thiên thần bắt đầu trở mặt với Ivo.
o0o
Như những trường hợp bất hạnh nhất, sự việc xảy ra mà không hề
có một dấu hiệu gì báo trước.
Sáng hôm ấy, Ivo làm tình với Simonetta trước bữa sáng, rồi đi
thẳng đến văn phòng, tại đây ông đã hoàn thành tốt đẹp mọi việc.
Vào lúc 1 giờ trưa ông nói với người thư ký nam rằng buổi chiều
ông phải có mặt tại một cuộc họp - theo yêu cầu của Simonetta.
Mỉm cười với ý nghĩ về những lạc thú sắp tới, Ivo lái xe vòng
theo khu vực xây dựng chắn ngay tường dọc theo Lungo Tevere, nơi
người ta đã xây một đường xe điện ngầm vào 17 năm về trước, vượt
qua cầu tới đường Francia và 30 phút sau lái xe vào gara tại căn
hộ đường Montemiganaio. Ngay khi mở cửa bước vào nhà, Ivo đã
biết có điều gì bất ổn. Francesco, Carlo và Luca đứng xung quanh
Donatella, còn cô ta nhìn ông với nét mặt đầy căm thù đến nỗi
trong một khoảnh khắc Ivo đã tưởng mình vào nhầm nhà người khác.
- Stronzo! - Cô ta hét lớn với ông.
Ivo ngơ ngác nhìn quanh "Carissima! Các con… có chuyện gì vậy?
- Anh đã làm gì? - Donatella đứng dậy, - Đây là cái mà anh đã
làm? - Cô ta ném tờ tạp chí Oggi vào mặt ông. - Xem đi!
Vẫn ngơ ngác, Ivo cúi xuống nhặt tờ tạp chí lên.
Đập vào mắt ông trên trang bìa là hình ảnh ông, Simonetta và ba
đứa con gái. Đầu đề ghi "Ngưòi bố của gia đình".
Chúa ơi! Ông đã hoàn toàn quên chuyện đó. Nhiều tháng trước, tạp
chí nầy đã xin phép viết một bài về ông và ông đã dại dột cho
phép. Nhưng Ivo không thể tưởng tượng nổi nó lại được đăng lên
mặt báo một cách ồn ào như vậy. Ông nhìn người tình đang nức nở
khóc cùng bọn trẻ và lên tiếng:
- Anh có thể giải thích…
- Lũ bạn học của chúng đã giải thích hết rồi!
Donatella rít lên:
- Lũ con tôi khóc lóc chạy về nhà vì cả trường gọi chúng là con
hoang?
- Cara, anh…
- Bà chủ nhà và đám hàng xóm đối xứ với chúng tôi như là cùi hủi
vậy. Chúng tôi không thể ngẩng mặt lên làm người nữa. Tôi sẽ đưa
các con đi khỏi đây.
Ivo nhìn cô ta chằm chằm.
- Em nói cái gì vậy?
- Tôi sẽ rời khỏi Rome, và tôi sẽ đưa các con đi theo.
- Chúng cũng là của anh mà, - ông la lên, - Em không thể làm như
thế được.
- Tôi sẽ giết anh nếu anh ngăn cản tôi.
Quả là một cơn ác mộng. Ivo đứng đó, nhìn ba đứa con trai và cô
nhân tình đang lên cơn điên loạn, thầm nghĩ "Chuyện nầy không
thể xảy ra với mình".
Nhưng Donatella không buông tha cho ông.
- Trước khi chúng tôi đi, - Cô ta thông báo, - Tôi muốn có một
triệu đô la. Tiền mặt.
Ivo bật cười vì thấy đòi hỏi nầy quá lố bịch.
- Một triệu…
- Nếu không, tôi sẽ gọi điện cho vợ anh.
o0o
Chuyện đã xảy ra sáu tháng trước. Donatella vẫn chưa thực hiện
lời đe doạ nhưng Ivo biết cô ta hoàn toàn có thể. Hàng tuần cô
ta lại gia tăng áp lực. Cô ta gọi điện lên văn phòng của ông và
nói:
- Tôi không cần biết anh lấy tiền bằng cách nào. Hãy kiếm đi.
Chỉ có mỗi một cách giúp Ivo kiếm được số tiền lớn như thế. Ông
phải bán được số cổ phần trong Roffe và các con. Và Sam Roffe là
người ngăn chặn việc bán cổ phần, người đang đe doạ vụ hôn nhân
của Ivo và cả tương lai của ông. Ông ta phải bị chặn lại. Nếu
biết đúng người thì tất cả đều có thể được lo liệu chu tất.
Điều làm Ivo đau đớn hơn hết là Donatella, người tình của ông,
không cho ông chạm vào người cô ta.
Ivo được phép hàng ngày thăm các con, nhưng phòng ngủ thì tuyệt
đối bị cấm cửa.
- Sau khi anh đưa tiền cho tôi, - Donatella hứa, - Chúng ta sẽ
làm tình với nhau.
Vì quá đỗi tuyệt vọng, một buổi chiều, Ivo đã gọi điện cho
Donatella và nói:
- Anh đến ngày bây giờ đây. Tiền nong đã được thu xếp ổn thoả.
Ông định làm tình với cô ta trước rồi xoa dịu cô ta sau. Nhưng
mọi việc đã không tuân theo dự định của ông. Ông đã cởi được
quần áo cô ta, và khi cả hai cùng trần truồng, ông mới nói sự
thật:
- Anh vẫn chưa có tiền, Cara, nhưng một ngày gần đây…
Và thế là cô ta nhẩy bổ vào tấn công ông như một con thú dữ.
Giờ đây Ivo đang nghĩ về những việc đó, khi đang lái xe rời khỏi
căn hộ của Donatella và rẽ đường Cassia đông đúc ở phía Bắc,
hướng về phía nhà ở Olgiata. Ông liếc khuôn mặt mình trong tấm
gương chiếu hậu.
Máu đã bớt chảy nhưng những vết cào nhìn rất rõ và đã đổi màu.
Ông nhìn xuống chiếc áo sơ mi dính đầy máu. Ông sẽ phải giải
thích ra sao với Simonetta về những vết cào trên mặt và lưng
đây? Trong một phút liều lĩnh, Ivo đã định kể cho vợ nghe toàn
bộ sự thật nhưng ông đã nhanh chóng gạt bỏ ý nghĩ đó.
Ông có thể - chỉ có thể cho Simonetta biết rằng trong một giây
phút mềm lòng ông đã lên giường cùng một cô gái và làm cho cô ta
có mang, và ông có thể - chỉ có thể thoát khỏi bế tắc. Nhưng còn
ba đứa con? Trong thời gian là 3 năm? Cuộc đời ông sẽ không đáng
giá dù chỉ là đồng 5 lia. Ông không có lý do gì để không về nhà
lúc nầy vì hai vợ chồng ông mời khách đến ăn tối và Simonetta sẽ
đang chờ đợi ông. Ivo đã đến đường cùng. Hôn nhân của ông sắp
sửa tan vỡ. Chỉ có San Genaro, vị thần hộ mệnh với nhiều phép lạ
mới cứu được ông. Ivo chợt thấy một tín hiệu đèn bên lề đường
Cassia. Ông đột nhiên đạp phanh, ra khỏi xa lộ và dừng lại.
30 phút sau, Ivo lái xe qua những cánh cổng của Olgiata. Bỏ qua
những cái nhìn hiếu kỳ của đám bảo vệ lên khuôn mặt rách nát và
chiếc áo sơ mi đầy máu, Ivo lái xe dọc con đường quanh co đến
chỗ rẽ dẫn về phía cửa nhà. Ông đỗ xe lại, mở cửa trước và bước
vào phòng khách. Simonetta và con gái lớn Isabella đang ở trong
phòng. Sắc mặt của Simonetta đầy vẻ kinh hoàng khi bà trông thấy
Ivo.
- Ivo? Chuyện gì xảy ra vậy?
- Ông ngượng nghịu mỉm cười, cố giấu vẻ đau đớn và lúng túng
thừa nhận, - Anh e rằng anh đã làm một chuyện ngu xuẩn, Cara…
Simonetta đến gần hơn, xem xét kỹ các vết cào trên mặt ông và
Ivo thấy cặp mắt bà nheo lại. Và khi lên tiếng, giọng bà đã trở
nên lạnh lùng.
- Ai đã cào anh vậy?
- Tiberio, - Ivo thông báo. Từ đằng sau lưng ông đưa ra một con
mèo lớn, xấu xí với bộ lông mầu xám đang phun phì phì. Nó nhẩy
khỏi tay ông và phóng vụt đi.
- Anh mua nó cho Isabella, nhưng cái con khốn nạn ấy tấn công
anh khi anh định nhốt nó vào lồng.
- Thật tội nghiệp cho anh! - Simonetta đến gần hơn bên cạnh ông.
- Thiên thần của em! Hăy lên gác và nằm xuống. Em gọi bác sĩ. Và
em sẽ bôi thuốc cho anh. Em…
- Thôi, thôi! Anh không sao - Ivo dũng cảm nói.
Ông vẫn co rúm người lại khi bà choàng tay qua người.
- Cẩn thận! Nó cào cả lên lưng anh nữa.
- Anh yêu! Chắc là anh đau đớn lắm phải không?
- Không đau lắm, - Ivo trả lời. - Anh thấy vẫn ổn!
Quả thực là như vậy.
Chuông cửa reo vang.
- Để em ra xem. - Simonetta nói.
- Không, để anh. - Ivo nói nhanh. lAnh… anh đang chờ một số tài
liệu quan trọng từ văn phòng.
- Ông bước vội về phía cửa và mở ra.
- Ông Palazzi?
- Vâng.
Một nhân viên bưu điện trong bộ đồng phục màu xám, trao cho ông
chiếc phong bì. Bên trong là bức điện của Rhys Williams. Ivo đọc
nhanh nội dung. Và ông đứng đó một lúc lâu.
Rồi ông hít một hơi thật dài và đi lên lầu thay quần áo chuẩn bị
đón khách.
Chú thích:
(1) Nhà soạn nhạc opera vĩ đại của Italia
Chương 4
BUENOS AIRES
Thứ hai, mồng 7 tháng Chín, 3 giờ chiều
Khu trường đua ở một vùng ngoại vi hẻo lánh của thủ đô Buenos
Aires, Argentina chật ních với khoảng 50.000 khán giả đến xem
giải đua xe hơi truyền thống hàng năm. Các tay đua phải vượt qua
115 vòng đua, mỗi vòng dài khoảng bốn dặm. Cuộc đua diễn ra
trong vòng năm tiếng dưới ánh nắng mặt trời như thiêu đốt, và số
xe sót lại chỉ còn đếm trên đầu ngón tay từ vòng đua đầu tiên.
Đám đông nín thở theo dõi. Đây quả là một cuộc đua vô tiền
khoáng hậu. Tất cả các huyền thoại tốc độ trên thế giới đều tụ
họp ở đây hôm nay. Chris Amon từ New Zealand, Brian Redmad từ
Lancashire. Còn có cả tay đua Andreadi Adamici từ Italia, lái
chiếc Alpa Romeo Tipo 33, Carlos Maco từ Brazil, lái chiếc xe
Mach Fomula 1. Người đang giữ chức vô địch là tay đua Bỉ Jacky
Ickx, cùng với tay đua Thuỵ Điển Roffe Wisell lái chiếc BRM.
Đường đua trông như một chiếc cầu vồng sặc sỡ với những cơn lốc
xanh đỏ, đen, trắng, vàng của những chiếc Ferrari, McLaren M19 -
A s và Lotus Formula 3 s.
Khi các vòng đua liên tục nối tiếp nhau, các người khổng lồ bắt
đầu gục ngã. Chris Amon đang ở vị trí thứ tư thì van tiết liệu
của xe anh bỗng mở ra. Anh ta đụng mạnh vào sườn chiếc Cooper
của Brian Redman trước khi kịp khống chế xe của mình bằng cách
tắt động cơ, nhưng cả hai chiếc xe đều bị hỏng. Roffe Wisell
đang dẫn đầu trong chiếc BRM và bám sát là Jacky Ickx. Lúc vào
cua, hộp số của chiếc BRM bỗng vỡ tung và toàn bộ hệ thống điện
bị bốc cháy. Chiếc xe bắt đầu quay tròn và chiếc Ferrari của
Jacky Ickx cũng bị cuốn vào đó.
Đám đông như đang lên cơn điên cuồng.
Chỉ còn ba chiếc xe đang cố tăng tốc trên quãng đường còn lại
của cuộc đua. Đó là Jorje Amandaris từ Argentina, lái chiếc
Surtees, Nils Nilsson từ Thuỵ Điển, lái chiếc Matra, và một
chiếc Ferrari 812 B-2, người lái là Martel, đến từ Pháp. Họ đều
tỏ ra xuất sắc thách thức những đoạn đường thẳng tắp, những khúc
cua chết người, cố gắng vượt lên phía trước.
Jorje Amandaris đang dẫn đầu, và vì là một tay đua bản xứ nên
anh ta được đám đông cuồng nhiệt cổ vũ. Theo sát Amandaris là
Nils Nilsson, lái một chiếc Matra đỏ - trắng và phía sau anh ta
là chiếc Ferrari đen trắng của tay đua người Pháp Martel.
Không ai để ý đến chiếc xe Pháp cho đến 5 phút cuối cùng, khi nó
bắt đầu vượt lên trên đường đua.
Đầu tiên là vị trí thứ 10, rồi thứ 7 và thứ 5 và nó càng lúc
càng chứng tỏ sức mạnh của mình. Giờ đây, tất cả đều nhìn nó khi
nó bắt đầu đe doạ vị trí số hai của Nilsson. Cả 3 chiếc xe đều
duy trì tốc độ gần 270 km/giờ. Như thế đã là quá nguy hiểm khi
chạy trên các đường đua Brands Hatch hoặc Warkin Glen, nhưng
trên đường đua còn thô sơ của Buenos Aires thì chẳng khác nào tự
sát. Viên trọng tài mặc áo choàng đỏ đứng bên lề đường đua giơ
cao bảng hiệu: "NĂM VÒNG".
Chiếc Ferrari đen trắng định vượt qua chiếc Matra của Nilsson từ
phía ngoài, và Nilsson nhích dần lên, chặn đường chiếc xe Pháp.
Và họ cùng bỏ qua một chiếc xe Đức ở phía trong đang định vượt
lên. Bây giờ nó đã ngang hàng với xe của Nilsson. Chiếc xe Pháp
tụt lại rồi đột ngột tăng tốc, lách vào khoảng giữa xe của
Nilsson và chiếc xe Đức. Với một nỗ lực tuyệt vời tay đua Pháp
đã đẩy bật hai xe sang hai bên và chiếm lấy vị trí số hai. Đám
đông nín thở chợt gào lên tán thưởng. Đó quả là một mưu mẹo
thông minh và táo bạo.
Bây giờ thì Amandaris vẫn dẫn đầu, Martel ở vị trí số hai và
Nilsson ở vị tri số ba với ba vòng còn lại Amandaris đã thấy rõ
cảnh tượng vừa rồi. Tay người Pháp cừ thật, anh ta nghĩ thầm,
nhưng chưa đủ sức đánh bại ta đâu. Amandaris đã quyết định phải
thắng trong cuộc đua nầy. Phía trước anh ta là tấm bảng báo hiệu
"HAI VÒNG". Cuộc đua đã sắp kết thúc và người chiến thắng phải
là anh ta. Amandaris đã liếc thấy chiếc Ferrari đen vàng đang cố
trồi lên bên cạnh. Anh ta nhìn lướt qua cặp mắt lồi, khuôn mặt
bẩn thỉu lem luốc của tay lái xe, căng thẳng và kiên quyết.
Amandaris thầm thở dài. Anh ta cảm thấy tiếc nuối về việc mình
sắp làm, nhưng anh ta không còn sự lựa chọn nào khác. Đua xe
không phải là trò chơi của các nhà thể thao mà nó là trò chơi
của người chiến thắng.
Hai chiếc xe sắp đến gần đầu phía bắc của đường đua, nơi có một
khúc quanh với gờ cao, là đoạn nguy hiểm nhất với khoảng một tá
xe đã đâm vào đây.
Amandaris liếc nhanh sang người lái chiếc Ferrari rồi siết chặt
tay lái. Khi hai chiếc xe đến gần khúc quanh, Amandaris khẽ nhấc
chân ra khỏi cần ga, để cho chiếc Ferrari vượt lên trước. Anh ta
thấy tay đua Pháp liếc nhanh mình với vẻ toan tính. Vậy là chiếc
Ferrari đã ở phía anh ta, đã rơi vào cạm bẫy. Đám đông đang la
hét dữ dội. Jorje Amandaris chờ cho đến khi chiếc Ferrari đen
vàng vượt hẳn qua anh ta từ phía ngoài. Đúng lúc nầy Amandaris
tăng hết ga và bắt đầu chuyển hướng sang bên phải, chặn đường
tay đua Pháp, và chiếc Ferrari chỉ còn cách đâm thẳng vào bờ
tường.
Amandaris trông thấy khuôn mặt thất thần, hoảng hốt của tay đua
Pháp và anh ta thầm nói: "Xin chào!"
Ngay lúc đó chiếc xe Pháp quay hẳn sang đâm vào chiếc Surtees
của Amandaris. Amandaris không thể tin nổi vào mắt mình. Chiếc
Ferrari sắp sửa đâm sầm vào xe của anh ta. Hai chiếc xe chỉ còn
cách nhau khoảng 1 mét và với tốc độ đó thì Amandaris phải quyết
định chớp nhoáng. Ai mà đoán được tay người Pháp đó lại là kẻ
hoàn toàn điên rồ? Trong một hành động phản xạ tức thời,
Amandaris đánh nhanh tay lái sang trái, cố tránh khối kim loại
nặng hàng tấn kia lao vào mình, và phanh gấp để cho chiếc xe
Pháp lách lên trong gang tấc và vượt qua mặt anh ta về đích.
Trong giây lát, chiếc xe của Amandaris tòe ra như đuôi cá và mất
lái, quay tròn như chong chóng vượt qua đường đua và lăn mãi,
lăn mãi cho đến khi nổ bùng thành một cột lửa khói đỏ và đen.
Nhưng đám đông vẫn không rời mắt khỏi chiếc Ferrari của tay đua
Pháp đang băng qua vạch đích.
Rồi họ rầm rập chạy thành từng đợt về phía chiếc xe, bao vây lấy
nó, nói những lời chúc mừng vô nghĩa.
Tay lái xe từ từ đứng dậy và bỏ kính mắt cùng mũ bảo vệ ra.
Đó là một người đàn bà có mái tóc cắt ngắn màu lúa mì, khuôn mặt
được cấu thành bới những đường nét khoẻ mạnh, cân đối. Bà ta đẹp
một cách lạnh lùng, theo phong cách cổ điển. Thân hình bà ta
đang run rẩy, không phải vì kiệt sức mà là vì kích động, nhớ đến
khoảnh khắc nhìn vào mắt Jorje Amandaris khi mà bà ta đưa anh ta
vào vòng tay tử thần. Thông tín viên gào vào loa đấy phấn khích:
- Người chiến thắng là Hélène Roffe - Martel, người Pháp, lái
chiếc Ferrari.
o0o
Hai giờ sau, Hélène và chồng, Charles, đã ở trong khách sạn Ritz
ở trung tâm Buenos Aires, nằm trên tấm thảm ở phía trước lò
sưởi. Helene trần truồng, cưỡi lên người chồng theo một tư thế
cổ điển tên là Chiếc xe ngựa thành Lyon, còn Charles rên rỉ:
- Ô, Chúa ơi! Xin em đừng làm thế với anh! Anh van em!
Những lời van vỉ của ông chỉ làm bà ta tăng thêm độ kích thích
và bà ta bắt đầu nhấn mạnh hơn, làm cho ông đau và nhìn những
dòng nước mắt ông tuôn ra.
Mình đang bị trừng phạt vô cớ, - Charles nghĩ. Ông khiếp sợ nghĩ
đến những hình phạt mà Hélène sẽ đem ra sử dụng với ông nếu bà
ta biết những tội lỗi mà ông đã phạm phải.
Charles Martel lấy Hélène Roffe vì dòng họ và tiền bạc của bà
ta. Sau khi thành hôn bà ta vẫn giữ họ của mình cùng với họ của
chồng, và bà ta cũng giữ luôn tài sản trong nhà. Cho tới khi
Charles phát hiện ra mỉnh đã đầu tư vào một món hàng không sinh
lợi thì đã quá muộn.
Charles Martel lần đầu tiên gặp Hélène Roffe khi ông còn là luật
sư cấp thấp trong một công ty luật lớn ở Paris. Ông được yêu cầu
mang một số tài liệu vào phòng họp, nơi buổi họp đang diễn ra.
Trong phòng là bốn thành viên cao cấp của công ty và Hélène
Roffe.
Charles đã nghe nói nhiều về bà ta. Kể cả mọi người ở châu Âu.
Bà ta là một trong những người thừa kế sản nghiệp của tập đoàn
dược phẩm Roffe; là người phóng túng và tính khí thất thường,
rất được báo chí ái mộ; là nhà vô địch môn trượt tuyết, tự lái
chiếc máy bay Learjet của mình, dẫn đầu đoàn thám hiểm leo núi ở
Nepal, đua xe và đua ngựa, thay đổi tình nhân như thay áo. Hình
ảnh của Helene thường xuất hiện trên các tờ Paris Match và Jours
de France. Bà ta đến công ty ông lúc đó để lo việc ly dị của
mình.
Lần thứ tư hoặc năm, Charles không biết chắc và cũng không buồn
quan tâm. Những người thuộc dòng họ Roffe vốn không cùng thế
giới với ông.
Charles đưa tập tài liệu cho cấp trên, bồn chồn, lo lắng không
phải vì sự hiện diện của Helene Roffe mà là vì sự có mặt của bốn
vị thành viên cấp cao.
Họ tượng trưng cho quyền lực, mà Charles Martel lại là người
kính trọng quyền lực. Về cơ bản ông là "type" người khiêm
nhường, bằng lòng với cuộc sống giản dị, cư ngụ trong một căn hộ
nhỏ ở Passy và đang hoàn thành một bộ sưu tập tem nho nhỏ.
Charles Martel không phải là một luật sư xuất sắc nhưng ông có
trình độ, cẩn thận và đáng tin cậy. Thái độ của ông luôn tỏ ra
hết sức chững chạc. Ông mới ngoài bốn mươi tuổi, dáng vẻ bề
ngoài kém hấp dẫn và ít gây được cảm tình. Có một người vào đó
đã nói rằng tính cách của ông giống như cát ướt, và sự mô tả đó
không phải là không đúng. Vì thế, thật là ngạc nhiên khi mới có
một ngày sau khi gặp Helene Roffe, Charles Martel được gọi đến
văn phòng của Michel Sachard, một thành viên cao cấp của công
ty, và tại đây ông được biết, Helene Roffe yêu cầu đích thân anh
sẽ phụ trách vụ ly hôn của bà ta. Anh phải làm việc ngay lập
tức.
Charles Martel hoàn toàn sửng sốt. Ông hỏi.
- Tại sao lại là tôi, ông Sachard?
Sacharad nhìn vào mắt ông và trả lời.
- Tôi cũng không đoán được. Có lẽ là anh hợp ý bà ta.
Vì phụ trách vụ ly dị nên Charles phải thường xuyên gặp gỡ
Hélène. Rất thường xuyên, ông cảm thấy như vậy. Bà ta không gọi
điện cho ông mà mời ông đến ăn tối tại biệt thự của bà ta ở Le
Vesinet để bàn về vụ việc rồi lại mời ông đi xem Opera và đến
nhà bà ta ở Deauville. Charles cố gắng giải thích cho bà ta rằng
đây là một vụ rất đơn giản, chắc chắn bà sẽ li dị được chồng,
nhưng Hélène - bà ta cứ khăng khăng bắt ông gọi là Hélène, trước
sự ngại ngùng đầy nhạy bén của ông - vẫn cứ bảo ông rằng bà ta
cần sự chắc chắn kiên trì của ông. Sau nầy ông vẫn thường nghĩ
lại điều nầy với một chút thích thú xen lẫn sự chua xót.
Trong những tuần lễ sau đó, Charles bắt đầu nghi ngờ rằng Hélène
Roffe bắt đầu quan tâm tới ông, theo chiều hướng lãng mạn. Ông
không thể tin nổi điều đó ông chỉ là một kẻ tầm thường, còn bà
ta là thành viên của một dòng họ vĩ đại, nhưng Hélène đã làm cho
ông mau chóng biết được ý định của bà ta.
- Charles, em sẽ lấy anh làm chồng.
Ông chưa bao giờ nghĩ đến chuyện phải kết hôn.
- Ông không khoái đàn bà cho lắm. Bên cạnh đó, ông cũng không
yêu Hélène. Thậm chí ông còn không chắc là mình có thích bà ta
không nữa. Sự ồn ào và chú ý xung quanh bà ta ở bất cứ nơi đâu
họ đến làm ông thấy mất tự nhiên. Ông bị lôi ra trước công chúng
nhờ danh tiếng của bà ta và ông thực sự không quen với vai diễn
nầy. Ông cũng đau đớn nhận ra sự tương phản giữa họ. Sự rực rỡ
của bà ta luôn gây ra nỗi bứt rức cho tính bảo thủ của ông. Bà
ta luôn chạy theo thời trang và là một hình ảnh thu nhỏ của sự
quyến rũ, trong lúc ông, vâng, chỉ là một luật sư trung niên tầm
thường, đơn điệu. Ông không thể hiểu được Hélène tìm thấy cái gì
ở mình. Không ai hiểu cả. Bởi sự nổi tiếng của bà ta trong các
môn thể thao mạo hiểm dành cho nam giới, nên người ta đồn rằng
Hélène là một trong những người chủ trương của phong trào giải
phóng phụ nữ. Thực ra thì bà ta khinh miệt phong trào nầy và
cũng chẳng tán thành chủ trương nam nữ bình đẳng. Bà ta cho rằng
đàn ông chẳng có lý do gì để được đặt ngang hàng với phụ nữ cả.
Đàn ông chỉ được xuất hiện khi cần. Họ không thông minh lắm,
nhưng họ dễ bảo để có thể mua vui, để châm lửa hút thuốc, lang
thang, mở cửa và đem lại khoái cảm trong việc chăn gối. Họ là
những "con vật cưng" tuyệt diệu, tự họ chỉ biết chưng diện và
tắm mà thôi. Tóm lại chỉ là thứ để tiêu khiển.
Helene Roffe có rất nhiều bạn bè chơi bời, những kẻ liều mạng,
những tay tài phiệt, những chàng trai quyến rũ. Nhưng chưa có ai
giống Charles Martel. Bà ta biết rõ ông chỉ là một con số không.
Một cục đất sét vô dụng.
Và đây thật sự là một thách thức. Bà ta sẽ chiếm đoạt ông, nhào
nặn ông để xem mình có thể biến ông thành cái gì. Một khi Hélène
Roffe đã quyết thì Charles Martel chẳng còn cơ hội thoát thân
nào nữa.
Hôn lễ được tổ chức ở Neuilly và hai người hưởng tuần trăng mật
ở Monte Carlo, nơi Charles đã mất trinh cùng những ảo tưởng của
mình. Ông dự định trở về làm ở công ty luật.
- Đừng khờ như vậy, - "cô dâu" của ông nói. - Bộ anh tưởng em
muốn lấy một gã luật sư tầm thường hay sao? Anh sẽ vào kinh
doanh cùng gia đình em. Rồi một ngày nào đó anh sẽ đỉều hành nó.
Chúng ta sẽ điều hành nó.
Hélène thu xếp cho Charles vào làm ở chi nhánh Paris của công ty
Roffe và các con. Ông báo cáo lại cho bà ta nghe tất cả mọi việc
đang diễn ra và bà ta hướng dẫn ông, giúp đỡ ông, chỉ cho ông
biết ông phải làm gì. Charles tiến bộ rất nhanh chóng. Ông mau
chóng trở thành người phụ trách hoạt động của tập đoàn ở Pháp và
trở thành thành viên hội đồng quản trị. Hélène đã biến ông từ
một luật sư quèn trở thành một uỷ viên hội đồng quản trị của một
trong những tập đoàn lớn nhất thế giới. Nhẽ ra ông phải cảm thấy
mình vô cùng hạnh phúc, nhưng thực tế lại hoàn toàn ngược lại.
Ngay từ khi mới thành hôn, Charles đã nhận ra rằng mình hoàn
toàn bị vợ khống chế.
Bà ta chọn thợ may cho ông, chọn thợ đóng giầy và chọn cả hiệu
áo sơ mi. Bà ta đưa ông vào Câu lạc bộ Đua ngựa. Bà ta đối xử
với ông như một tên đĩ đực. Lương của ông được trả trực tiếp cho
bà ta, và bà ta chỉ đưa lại cho ông một con số khiêm tốn để dằn
túi. Nếu Charles cần thêm tiền, ông phải hỏi xin bà ta. Bà ta
bắt ông báo cáo chi tiết thời gian biểu và ông hoàn toàn nằm
trong sự sai bảo của bà ta.
Bà ta thường có trò gọi đến văn phòng của ông bắt ông về nhà
ngay lập tức chỉ để đưa một lọ kem dưỡng da hay một vài thứ vớ
vẩn nào đó. Khi ông về đến nơi, bà ta đã trần truồng đợi ông
trong phòng ngủ. Bà ta dâm dục không thể tưởng, như một con thú
vậy.
Charles đã sống với mẹ đến năm ba mươi hai tuổi, khi bà qua đời
vì bệnh ung thư. Bà phải nằm bất động một thời gian dài và ông
đã thường xuyên chăm sóc mẹ. Ông chẳng có thời giờ đi chơi với
bạn gái hoặc nghĩ đến chuyện lấy vợ. Mẹ ông là cả một gánh nặng
và khi bà ra đi, ông đã nghĩ mình có thể ngửi thấy mùi tự do.
Nhưng thực ra, ông lại chỉ ngửi thấy mùi mất mát. Ông không
khoái đàn bà và tình dục. Ông đã giải thích với Hélène, với vẻ
thật thà ngây thơ về cảm giác của mình khi bà ta lần đầu đề cập
đến chuyện hôn nhân "khoản ấy của anh không được khoẻ cho lắm".
Hélène mỉm cười đáp lại.
- Charles tội nghiệp. Đừng lo ngại gì về chuyện tình dục. Em xin
hứa là anh sẽ thích nó.
Ông căm ghét chuyện đó. Nhưng hình như điều nầy chỉ làm tăng
thêm sự hứng thú của Hélène. Bà ta thường cười chế nhạo sự yếu
ớt của ông và ép buộc ông làm những điều ghê tởm khiến Charles
cảm thấy hèn hạ và nôn mửa. Bản thân hành vi tình dục đã là đê
tiện. Nhưng Hélène lại thích thử nghiệm. Charles thường không
đoán trước được chuyện gì sẽ xảy ra.
Một lần khi ông đang lên đến tột đỉnh thì bà ta xoa đá vụn vào
tinh hoàn ông, còn lần khác bà ta lại chọc que có điện vào hậu
môn ông. Bà ta làm cho ông cảm thấy mình là đàn bà còn bà ta mới
là đàn ông. Charles thật sự sợ Hélène. Ông cố tìm cách lấy lại
danh dự đàn ông của mình, nhưng, trời ạ, ông chẳng thể nào tìm
ra một lĩnh vực nào có thể lấn át được Hélène.
Bà ta nắm rõ luật pháp như ông và thậm chí về khoản luật kinh
doanh thì lại còn vượt trội cả ông. Bà ta tranh luận với ông
hàng giờ về công ty. Bà ta không bao giờ chán việc đó cả.
- Charles hãy nghĩ đến tất cả những quyền lực đó. Roffe và các
con có thể kiến tạo hoặc huỷ diệt hơn một nửa số quốc gia trên
thế giới. Em sẽ điều hành Tập đoàn. Ông tổ của em đã sáng lập ra
nó. Nó là một phần của em.
Sau mỗi lần như vậy thì Helene lại trở nên cuồng dâm và Charles
bị buộc phải thoả mãn bà ta theo những kiểu mà ông không dám
nghĩ đến. Ông dần đần trở nên khinh bỉ bà ta. Giấc mơ duy nhất
của ông là được ở cách xa bà ta, được bỏ trốn. Nhưng để thực
hiện được điều đó thì ông phải có tiền.
Một ngày kia, sau bữa trưa, một người bạn của ông tên René
Duchamps, nói chuyện với ông về một cơ hội làm giàu.
- Một ông chú của tôi đang làm chủ một vườn nho lớn ở Burgundy
vừa mới qua đời. Vườn nho sắp bị đem bán khoảng 1400 mẫu thượng
hạng. Tôi đang nắm lợi thế trong tay. - René Duchamps tiếp tục,
- bởi vì đó là họ hàng của tôi. Tôi không đủ sức làm vụ nầy một
mình, nhưng nếu có anh tham gia, thì chỉ trong một năm vốn liếng
có thể tăng gấp đôi. Dù sao thì anh cũng nên đến xem qua.
Bởi vì không có can đảm thú nhận với bạn rằng mình không có một
xu dính túi nên Charles đành phải đến những đồi nho đỏ rực ở
Burgundy để xem. Và ông đã thật sự bị ấn tượng mạnh.
René Duchamps nói:
- Mỗi người sẽ đầu tư hai triệu francs. Và trong một năm chúng
ta sẽ có bốn triệu.
Bốn triệu francs! Nó đồng nghĩa với tự do, với trốn thoát. Ông
có thể đến một nơi mà tài thánh Helene mới tìm ra.
- Để tôi suy nghĩ đã, - Charles hứa với bạn.
Và ông đã suy nghĩ. Cả ngày lẫn đêm. Đây là cơ hội cho cả một
đời người. Nhưng bằng cách nào? Charles biết rằng đi vay mượn mà
Helene không biết là chuyện không bao giờ có. Cái gì cũng đứng
tên bà ta, từ nhà cửa, các bức tranh quý, những chiếc xe hơi,
những món nữ trang đắt tiền…
Nữ trang… những món nữ trang đẹp đẽ mà Hélène không sử dụng đều
được cất kỹ trong chiếc tủ sắt đặt trong phòng ngủ.
Một ý tưởng dần nảy sinh trong đầu ông. Nếu ông có thể lấy được
nữ trang của bà ta, mỗi ngày một ít, thì ông sẽ thay thế chúng
bằng những món đồ giả và dùng đồ thật để vay tiền. Sau khi đã
kiếm đủ tiền từ vụ vườn nho, ông chỉ cần trả đủ chỗ nữ trang
thật vào chỗ cũ và vĩnh viễn biến khỏi cuộc đời Hélène.
Charles gọi điện cho René Duchamps và nói, trái tim đập mạnh vì
kích động.
- Tôi quyết định tham gia vụ nầy cùng anh.
Phần đầu tiên của kế hoạch nầy làm Charles sợ hãi đến tột độ.
Ông phải đánh cắp được chỗ nữ trang của Hélène trong tủ sắt.
Ý nghĩ về điều khủng khiếp mình sắp làm khiến Charles trở nên
căng thẳng đến nỗi hầu như không còn làm được việc gì khác nữa.
Ông sống như một người máy, không nghe không thấy mọi việc xảy
ra quanh mình. Lúc nào thấy Hélène là ông lại toát mồ hôi. Hai
bàn tay ông luôn run rẩy những khi rỗi rãi.
Hélène quan tâm đến ông, như bà ta vẫn quan tâm đến một con vật
cưng vậy. Bà ta mời bác sĩ đến khám cho ông, nhưng cũng không
tìm ra điều gì bất ổn. "Ông ấy có lẽ hơi căng thẳng đầu óc. Nằm
nghỉ một hai hôm có lẽ là ổn thôi".
Hélène nhìn Charles một lúc lâu, trần truồng trên giường và mỉm
cười "Cám ơn bác sĩ":
Lúc bác sĩ vừa đi khỏi, Helene bắt đầu cởi quần áo.
- Anh anh cảm thấy không được khoẻ. - Charles tìm cách kháng cự.
- Nhưng em khoẻ. - Helene trả lời.
Chưa bao giờ ông ghét bà ta đến thế.
Cơ hội của Charles đến vào tuần lễ tiếp theo, khi Hélène định đi
Garmisch - Partenkirchen trượt tuyết cùng đám bạn. Bà ta quyết
định cho Charles ở lại Paris.
- Em muốn đêm nào anh cũng phải ở nhà, - Helene bảo ông, - em sẽ
gọi điện về.
Charles nhìn chiếc Jensen màu đỏ của bà ta lao vụt đi và khi nó
vừa khuất đạng, ông chạy vội đến bên tủ sắt. Ông đã nhiều lần
thấy bà ta mở nó và ông đã biết gần hết mã số. Tuy nhiên cũng
phải mất đến cả tiếng đồng hồ ông mới tìm được phần còn lại.
Bằng những ngón tay run rẩy, ông kéo cánh cửa tủ ra. Trong đó,
trong cái hộp lót nhung, tự do của ông đang lấp lánh như những
ngôi sao nhỏ. Charles đã tìm được một người thợ kim hoàn tên
Pierre Richaud, một tay tổ về việc làm nữ trang giả. Charles đã
giải thích khá dài dòng về việc ông cần sao chép lại các món nữ
trang đó, nhưng Richaud đã thản nhiên trả lời:
- Thưa ông, tôi làm cho tất cả mọi người. Ngày nay chẳng ai dám
đeo nữ trang thật ra phố nữa đâu.
Charles đưa cho ông ta mỗi lần một món để sao lại và sau đó thì
đổi lấy đồ thật. Ông đã mượn được tiền bằng cách thế chấp các
món nữ trang thật ở Quỹ tín dụng thành phố - hiệu cầm đồ của nhà
nước.
Việc thực hiện kế hoạch mất nhiều thời gian hơn dự tính của
Charles. Ông chỉ mở được tủ khi Hélène không có nhà và việc sao
chép nữ trang lắm lúc chậm trễ không thể tưởng. Nhưng rồi cuối
cùng, cái ngày Charles có thể nói với René Duchamps đã đến:
- Tôi sẽ gom đủ tiền vào ngày mai.
Ông đã hoàn thành mọi việc. Ông đã là chủ nhân của một nửa vườn
nho. Và Hélène không có một mảy may nghi ngờ nào về những việc
ông đã làm.
Charles đã bí mật nghiên cứu về công việc trồng nho. Tại sao lại
không chứ? Ông không phải là người trồng nho hay sao? Ông học về
những loại nho khác nhau: cabemet sauvignon là nho loại phổ
thông nhất, bên cạnh đó cũng còn nhiều loại khác: gross
cabernet, merlot, malbec, petit verdot… Các ngăn kéo bàn trong
văn phòng của Charles chứa đầy những sách về đất đai và phương
pháp ép nho. Ông nghiên cứu về cách lên men, cách tỉa cây, cách
ghép giống. Và nhu cầu về rượu vang trên thế giới thì vẫn ngày
một gia tăng.
Ông thường xuyên gặp gỡ người cùng hùn vốn với mình.
- Mọi thứ thậm chí còn tốt đẹp hơn tôi nghĩ, - René nói với
Charles. - Giá rượu vang đang tăng vọt. Chúng ta sẽ kiếm được ba
trăm nghìn franc mỗi thùng đợt ép nho đầu tiên.
Nó còn hơn cả những gì Charles từng ước mơ. Nho chính là những
cục vàng của ông. Charles bắt đầu mua những tập sách nhỏ viết về
các đảo ở miền biển phía Nam, về Venezuela, về Brazil. Chỉ những
cái tên thôi cũng đã gợi nên sự kỳ diệu về chúng. Chỉ còn một
vấn đề, là có quá ít nơi trên thế giới mà Roffe và các con không
đặt văn phòng, nơi mà Hélène không thể tìm thấy ông. Và nếu ông
để bà ta tìm ra, ông sẽ bị bà ta giết chết. Ông biết rằng đó là
điều hoàn toàn chắc chắn. Trừ khi ông giết bà ta trước. Đó là
một trong những mộng tưởng hấp dẫn nhất của Charles.
Ông đã giết đi giết lại Hélène trong đầu bằng hàng ngàn các
phương cách khác nhau.
Giờ đây, Charles lại bắt đầu tỏ ra thích thú với thói tật của
Hélène. Tất cả những lần bà ta bắt ông thực hiện những điều tệ
hại không sao diễn tả, ông lại nghĩ, tôi sẽ sớm ra đi thôi. Tôi
sẽ giàu có bằng tiền của chính cô và cô chẳng làm gì được tôi.
Và Hélène thường ra lệnh, "Nhanh lên", "Mạnh lên" hoặc "đừng có
dừng lại", thì ông ngoan ngoãn làm theo lời bà ta.
Và ông cười thầm trong bụng.
o0o
Trong công việc trồng nho, Charles biết rằng quãng thời gian cao
điểm là mùa xuân và mùa hè, bởi vì nho phải được thu hoạch trong
tháng Chín, khi mà thời tiết ôn hoà, nắng mưa vừa phải. Trời quá
nắng sẽ làm khê mùi vị, còn mưa nhiều sẽ làm loãng mùi vị. Tháng
Sáu bắt đầu thật tuyệt vời. Charles kiểm tra thời tiết ở
Burgundy một lần, rồi hai lần một ngày.
Ông đang vô cùng nóng ruột, chỉ còn vài tuần lễ nữa là ông có
thể hoàn tất giấc mơ của mình. Ông đã chọn vịnh Montego. Jamaica
là quốc gia mà Roffe và các con không đặt văn phòng đại diện.
Ông sẽ dễ dàng giấu mình ở đó. Ông cũng sẽ tránh xa Round Hill
hay Ocho Rios, nơi mà một người nào đó trong đám bạn của Helene
có thể nhìn thấy ông. Ông sẽ mua một căn nhà nhỏ trên đồi. Sinh
hoạt trên đảo rất rẻ. Ông sẽ thuê người giúp việc, mua đồ ăn
ngon và sống một cuộc sống sang trọng.
Và Charles đã là một người vô cùng hạnh phúc trong những ngày
đầu tháng Sáu. Cuộc sống hiện tại của ông là cuộc sống nhục nhã,
nhưng ông không phải đang sống trong hiện tại mà là bằng tương
lai, trên một hòn đảo nhiệt đới đầy nắng ở vùng biển Caribbe:
Thời tiết tháng Sáu ngày một tốt hơn. Vừa có nắng vừa có mưa.
Thật tốt cho những trái nho non nhỏ bé. Và nho cứ lớn bao nhiêu
thì tài sản của Charles lớn bấy nhiêu.
Ngày mười lăm tháng Sáu, vùng Burgundy có mưa phùn. Rồi mưa ngày
một to hơn. Trời mưa từ ngày nầy qua ngày khác, rồi tuần nầy qua
tuần khác, cho tới khi Charles không còn tâm trí đâu mà ngồi
theo dõi dự báo thờ tiết nữa.
René Duchamps gọi điện đến.
- Nếu trời ngừng mưa vào tháng Bẩy, vụ mùa của chúng ta còn có
khả năng được cứu!
Hoá ra tháng bẩy lại là tháng mưa nhiều nhất trong lịch sử của
Nha khí tượng Pháp. Cho đến ngày đầu tháng Tám khi Charles đã
mất đến đồng xu cuối cùng trong số tiền mà ông lấy trộm được.
Lòng ông tràn đầy một nỗi sợ hãi mà ông chưa bao giờ phải nếm
trải qua.
- Tháng sau mình sẽ đến Argentina, - Hélène thông báo cho ông
biết. - Em đã đăng ký tham gia một cuộc đua xe hơi ở đó.
- Ông đã từng chứng kiến bà ta lao vun vút trên đường đua, và
ông đã nghĩ, nếu bà ta bị tai nạn, mình sẽ được tự do.
Nhưng bà ta là Hélène Roffe - Martel. Cuộc sống đã cho bà ta
đóng vai người chiến thắng, cũng như ông là kẻ chiến bại.
Chiến thắng trong cuộc đua làm cho Helene kích động hơn bình
thường. Họ trở về khách sạn ở Buenos Aires, rồi bà ta bắt
Charles cởi quần áo và nằm sấp trên thảm. Khi chợt nhận ra vật
bà ta đang cầm trong tay khi cưỡi lên người ông, ông kêu lên:
- Đừng, anh xin em!
Bỗng có tiếng gõ cửa.
- Mẹ kiếp! - Helene văng tục. Bà ta chờ đợi, và tiếng gõ cửa
tiếp tục vang lên.
Một giọng nói vang lên:
- Thưa ông Martel?
- Ở yên đó!
Hélène ra lệnh. Bà ta đứng dậy, quấn một tấm lụa quanh thân hình
thon thả rắn chắc, đi ra phía cửa và kéo nó ra. Một người đàn
ông trong bộ đồng phục bưu điện mầu xám đứng đó, cầm trong tay
một phong bì đã bị niêm kín.
- Tôi có điện khẩn gửi cho ông bà Martel.
Bà ta cầm phong bì và đóng cửa lại.
Xé phong bì ra, và lấy bức điện ra, bà ta chậm rãi đọc nó đến
hai lần.
- Chuyện gì vậy?
- Sam Roffe đã chết, - bà ta nói. Rồi mỉm cười.
Chương 5
LONDON
Thứ 2 mồng 7 tháng Chín, 2 giờ chiều
White s Club toạ lạc ở đầu đường St. James, gần Piccaadilly. Đây
là Câu lạc bộ cổ nhất và độc đáo nhất nước Anh, được xây dựng từ
thế kỷ mười tám làm câu lạc bộ đánh bạc. Các hội viên thường
phải ghi tên các con trai của họ từ khi chúng mới chào đời vì ở
đây có cả một danh sách chờ đợi đến ba mươi năm.
Mặt tiền của White s là hình ảnh thu nhỏ của sự thận trọng.
Những khung cửa rộng trông ra đường St. James có ý tưởng làm cho
những người bên trong cảm thấy thoải mái hơn là thoả mãn lòng
hiếu kỳ của những du khách đi ngang. Bước lên vài bậc tam cấp đã
là cổng rồi, nhưng ngoài các hội viên thì có rất ít người được
lọt vào trong đó. Các căn phòng trong đó đều rộng lớn và tráng
lệ, được phủ lên lớp vẹt-ni màu đen bóng của thời gian. Đồ đạc
trong phòng hầu hết thuộc kiểu cổ và tiện nghi, những chiếc
trường kỷ bọc da, giá để báo, những chiếc bàn cổ vô giá và ghế
bành lót đệm đã từng được đến nửa tá thủ tướng ngồi qua. Có một
phòng chơi cờ thỏ-cáo với một lò sưới lớn đằng sau một tay vịn
bằng đồng và một cầu thang uốn cong dẫn lên phòng ăn trên lầu.
Căn phòng nầy kéo dài suốt bề ngang của toà nhà, bên trong là
một chiếc bàn ăn khổng lồ bằng gỗ gụ dành cho ba mươi người cùng
năm chiếc bàn phụ khác. Vào bất kỳ bữa trưa hay bữa tối nào
trong căn phòng nầy cũng thấy xuất hiện vài nhân vật có thế lực
nhất trên thế giới.
Sir Alec Nichols, nghị sĩ, ngồi ở một bàn nhỏ trong góc, đang
dùng bữa trưa với khách Jon Swinton. Bố của Sir Alec được phong
tước tòng nam tước, và ông nội cũng như cụ của Sir Alec cũng
vậy. Tất cả bọn họ đều là hội viên của White s. Sir Alec người
gầy gò xanh xao, xấp xỉ năm mươi tuổi, có khuôn mặt quý phái,
nhạy cảm và nụ cười duyên dáng. Ông vừa đi xe hơi đến đây từ nhà
ở Gloucestershire, mặc bộ veste sọc nhỏ với chiếc sơ mi ca rô
sặc sỡ, đeo chiếc cravate màu đỏ, có vẻ hơi lúng túng trong bầu
không khí xa hoa yên tĩnh nầy. Nơi đây thực sự làm cho ông phải
hãnh diện.
Jon Swinton nói khi vẫn đang nhồm nhoàm nhai nốt miếng thịt bê.
Sir Alec gật gật.
- Đúng. Mọi thứ đã thay đổi từ khi Voltaire nói: "Người Anh có
hàng trăm tôn giáo và chỉ có một là được ưa chuộng".
Jon Swinton ngước mắt lên.
- Voltaire là ai?
Sir Alec bối rối trả lời:
- À, một tay người Pháp.
- Ồ - Swinton tống thức ăn xuống dạ dày bằng một hớp rượu vang.
Gã để dao nĩa xuống và lấy khăn lau miệng. - Nào, Sir Alec. Đã
đến lúc tôi và ông bàn chuyện công việc.
Sir Alec dịu dàng đáp lại:
- Tôi đã nói cách đây hai tuần là tôi đang tính toán mọi việc,
ông Swinton. Tôi cần thêm một chút thời gian nữa.
Một người hầu bàn đến gần họ, mang theo một chồng hộp xì gà bằng
gỗ. Anh ta khéo léo đặt tất cả lên bàn.
- Ông chớ phiền lòng nếu tôi nói thật - Jon Swinton nói. Gã xem
nhãn hiệu trên các hộp gỗ, huýt sáo một cách thán phục, rồi rút
ra một điếu xì gà trong túi áo ngực và châm lửa. Cả người bồi
bàn lẫn Sir Alec đều không có phản ứng gì trước thái độ đó.
Người bồi bàn gật đầu với Sir Alec và mang chồng hộp sang bàn
khác.
- Các ông chủ của tôi đã vô cùng nhân đạo với ông, Sir Alec. Bây
giờ, tôi e rằng, họ đã không còn đủ kiên nhẫn nữa! - Gã nhặt que
diêm đã cháy lên, ngả người về phía trước và thả nó vào ly rượu
của Sir Alec, rồi tiếp tục, - Tôi xin nói thật giữa ông và tôi,
rằng họ hoàn toàn không phải là người tốt khi nổi giận đâu. Chắc
ông không muốn họ thất vọng về ông chứ, ông có hiểu ý tôi không?
- Nhưng đơn giản là bây giờ tôi không có tiền.
Jon Swinton cười to.
- Thôi đi ông bạn. Mẹ của ông là người của dòng họ Roffe, đúng
không? Ông có một trang trại rộng hàng trăm hecta, một toà nhà
sang trọng ở Knightbridge, một chiếc Rolls-Royce và một chiếc
Bentley bóng lộn. Rõ là ông không phải là hạng sống nhờ tiền trợ
cấp phải không?
Sir Alec nhìn quanh, đau khổ nói nhỏ.
- Không một người nào trong gia đình có tài sản bằng tiền mặt.
Tôi không thể…
Swinton nháy mắt và nói.
- Tôi dám cá rằng bà vợ Vivian bé bỏng dễ thương của ông là một
tài sản bằng tiền mặt. Bà ta có đến hai chiếc Bristols đẹp
tuyệt!
Sir Alec đỏ bừng mặt. Cái tên Vivian trên môi gã đàn ông nầy là
cả một sự xúc phạm. Alec nghĩ đến Vivian như lúc ông rời khỏi
nàng vào buổi sáng, khi nàng đang còn chìm trong giấc ngủ. Họ ở
hai phòng ngủ riêng và một trong những niềm vui lớn nhất của
Alec Nichols là được vào phòng ngủ của Vivian để "hãm" nàng. Đôi
khi Alec dậy sớm và ông đi sang phòng Vivian khi nàng còn đang
ngủ và đứng ngắm nàng. Dù thức hay ngủ thì nàng cũng là cô gái
đẹp nhất mà ông từng gặp. Nàng thường ngủ trần truồng và thân
hình mềm mại của nàng chỉ lộ ra một nửa vì nàng có thói quen
quấn mình trong chăn. Nàng có mái tóc vàng, cặp mắt màu xanh
nhạt và làn da mịn màng như kem.
Khi Sir Alec lần đầu gặp Vivian tại một dạ hội từ thiện thì nàng
còn là một diễn viên hạng xoàng. Ông đã bị mê hoặc bởi nhan sắc
của nàng nhưng thứ đưa được ông đến với nàng lại là tính dễ dãi
của nàng.
Nàng trẻ hơn Alec đến hai mươi tuổi và còn tràn đầy ham muốn với
cuộc sống. Khi Alec tỏ ra xấu hổ hay rụt rè ở mặt nào đó thì
Vivian lại hoạt bát và cởi mở. Alec không thể nào xua đuổi hình
ảnh của nàng khỏi tâm trí nhưng cũng phải mất hai tuần ông mới
có đủ can đảm để gọi điện cho nàng. Nàng đã nhận ngay lời mời
trước sự ngạc nhiên và sung sướng của ông. Alec đưa nàng đi xem
một vở kịch ở Old Vic và sau đó đi ăn tối tại Mirabelle. Vivian
sống trong một căn hộ nhỏ dưới tầng hầm tốỉ tăm ở Notting Hill,
và khi Alec đưa nàng về nhà, nàng đã hỏi:
- Anh có muốn vào chơi không?
Ông đã ở lại đó cả đêm và việc nầy làm cho cả cuộc đời ông thay
đổi. Đó là lần đầu tiên một người đàn bà có thể đem lại cho ông
những khoái lạc tột đỉnh. Ông chưa từng gặp một người nào như
Vivian. Lưỡi nàng mềm như nhung, mái tóc vàng tha thướt và những
quyến rũ ẩm ướt ở sâu thẳm trong nàng khiến ông say mê khám phá
cho đến lúc mệt nhoài. Chỉ mới nghĩ đến nàng thôi là trong lòng
ông đã trào dâng niềm ham muốn mãnh liệt.
Nhưng tất cả không phải chỉ có thế. Nàng làm cho ông phải cười
to, nàng làm cho cuộc sống của ông sinh động hơn. Nàng cười đùa
luôn miệng với Alec vì bản tính của ông vốn rụt rè và hơi tẻ, và
ông rất thích điều đó. Ông cố gắng đến với Vivian vào bất cứ lúc
nào có thể. Mỗi khi Alec dẫn Vivian đến một bữa tiệc nào, nàng
luôn là trung tâm của sự chú ý.
Alec rất tự hào về điều nầy nhưng ông cũng ghen tị với đám thanh
niên xung quanh nàng và ông không thể không tự hỏi có bao nhiêu
người trong số đó đã lên giường với nàng.
Vào những đêm Vivian không thể gặp ông vì có những cuộc hẹn hò
khác, Alec thấy mình phát điên lên vì ghen tuông. Ông thường lái
xe đến gần nhà nàng, đỗ xe dưới nhà để xem nàng về nhà lúc mấy
giờ và đi cùng với ai. Alec biết mình đang xử sự như một kẻ ngốc
nghếch nhưng ông không thể nào tự kiềm chế bản thân. Ông đã rơi
vào thế kẹt không thể phá vỡ. Ông biết rõ Vivian không hề phù
hợp với mình nên việc cưới Vivian là chuyện không thể bàn đến.
Ông là một tòng nam tước, một Nghị sĩ được kính trọng với một
tương lai tươi sáng phía trước. Ông là một cổ đông của triều đại
Roffe, một uỷ viên hội đồng quản trị của tập đoàn. Còn Vivian,
nàng không có một chút vị thế nào để so sánh với thế giới của
Alec.
Bố mẹ nàng chỉ là những vũ công hạng hai, biểu diễn ở trong đoàn
xiếc tỉnh. Vivian không hề được giáo dục ngoại trừ những gì mà
nàng thu lượm được trên hè phố hoặc sau cánh gà. Alec biết rằng
nàng vốn bừa bãi và hời hợt. Nàng sắc sảo nhưng lại không thông
minh lắm. Nhưng Alec vẫn bị nàng ám ảnh. Ông chống lại điều đó.
Ông cố không gặp nàng nhưng điều đó vô dụng. Ở bên nàng ông mới
thấy hạnh phúc và khi xa cách nàng, ông thấy vô cùng khổ sở.
Cuối cùng, không còn cách nào khác, ông cầu hôn với nàng và khi
Vivian gật đầu, Sir Alec Nichols ngây ngất vì sung sướng.
Cô dâu mới của ông được đến ở trong ngôi nhà chung của gia đình,
một ngôi nhà cổ xinh đẹp theo kiến trúc Robert Adam (1) ở
Gloucestershire, kiểu Georgian với những chiếc cột kiểu Delphi
(2) và một đoạn đường cong dài dành cho xe hơi. Toà nhà nằm giữa
một thảm cỏ xanh mướt rộng mười hecta, trong một vùng đất phì
nhiêu, có khu săn bắn riêng và vô số dòng suối nhỏ để câu cá. Ở
sau nhà là một hoa viên do "Capability" Brown thiết kế.
Nội thất của toà nhà mới thật tuyệt vời. Tiền đình với sàn nhà
bằng đá và tường bằng gỗ sơn. Có vô số cặp đèn lồng kiểu cổ, bàn
lát cẩm thạch kiểu Adam và ghế gỗ gụ. Trong thư viện là các giá
sách gắn liền vào tường theo kiểu thế kỷ mười tám và một cặp bàn
đặt trên bệ của Henry Holland cùng rất nhiều ghế đóng theo thiết
kế của Thomas Hope. Phòng khách là sự pha trộn của
Hepplewhite(3) và Chippendale với một tấm thảm Wilton, một cặp
chân đèn Waterford bằng thuỷ tinh. Phòng ăn khổng lồ với sức
chứa bốn mươi thực khách, ngoài ra còn có phòng hút thuốc lá
riêng. Trên tầng hai là sáu phòng ngủ, mỗi phòng có một lò sưởi
kiểu Adam và trên tầng ba là khu dành riêng cho gia nhân trong
nhà.
Sáu tuần sau khi dọn về đây, Vivian nói:
- Hãy đi khỏi đây đi Alec.
Ông bối rối nhìn nàng.
- Em muốn lên London chơi vài ngày à?
- Ý em là em muốn dọn nhà về London.
Alec nhìn ra cửa sổ, về phía bãi cỏ mầu ngọc bích, nơi ông đã
từng chơi đùa hồi còn bé, về phía mấy cây sung và cây sồi cổ
thụ, rồi ngập ngừng nói:
- Vivian, ở đây rất yên tĩnh mà. Anh…
Và nàng nói:
- Em biết. Đó là điều em không chịu nổi cái sự yên tĩnh khốn nạn
nầy!
Họ dọn nhà về London ngay tuần sau đó.
Alec có một căn nhà bốn tầng rất tao nhã ở Vilton Crescent, phía
trước Knightbridge với một phòng khách xinh xắn, phòng làm việc,
phòng ăn rộng rãi và ở phía sau nhà là một cửa sổ nhìn xuống một
cái động có thác nước, nhiều bức tường và những chiếc ghế dài
mầu trắng đặt trong một khu vườn đẹp và gọn gàng. Trên lầu là
một phòng ngủ lớn lộng lẫy và bốn phòng khác nhỏ hơn.
Vivian và Alec ở trong phòng lớn được hai tuần, cho đến một buổi
sáng Vivian nói:
- Em yêu anh, Alec, nhưng anh ngáy to quá, anh có biết không?
Alec không biết điều đó.
- Em thật sự phải ngủ một mình, anh yêu ạ. Anh không thấy phiền
lòng phải không?
Alec rất phiền lòng. Ông rất thích cái cảm giác từ thân hình mềm
mại của nàng lúc ở trên giường, khi nàng áp sát vào ông. Nhưng
trong đáy lòng, Alec biết rằng mình không kích thích được Vivian
như nhiều gã đàn ông khác. Đó là lý do nàng không muốn chung
giường với ông. Vì vậy ông đành phải trả lời:
- Dĩ nhiên là anh hiểu.
Theo lời nài nỉ của Alec, Vivian vẫn ở phòng lớn còn ông dọn
sang một trong bốn phòng còn lại.
Thời gian đầu, Vivian theo ông đến Nghị viện và ngồi ở khu dành
cho khách trong những ngày Alec phải lên phát biểu. Ông thường
nhìn lên nàng, lòng tràn ngập một nỗi hãnh diện sâu sắc khó tả.
Hiển nhiên nàng là người phụ nữ đẹp nhất ở đó. Và rồi cái ngày
đó cũng đã đến, khi Alec hoàn thành bài phát biểu và nhìn lên
chờ đợi sự tán thưởng của Vivian thì chỉ thấy một chiếc ghế
trống.
Alec tự trách mình vì đã không giúp được Vivian thoả mãn bản
tính sôi động của nàng. Bạn bè của ông đều già hơn Vivian và tỏ
ra quá dè dặt với nàng.
- Ông khuyến khích nàng mời các bạn nàng đến nhà, cố giới thiệu
họ với đám bạn của ông. Kết quả thật là tai hại.
Alec vẫn luôn tự nhủ rằng khi Vivian có con, nàng sẽ ổn định và
thay đổi lối sống. Nhưng rồi một ngày kia, không hiểu vì sao, và
Alec thà không hiểu còn hơn, nàng bị nhiễm trùng âm đạo và phải
giải phẫu.
Alec từ lâu đã ao ước có một cậu con trai. Cái tin nầy làm ông
rụng rời, nhưng Vivian thì vẫn thản nhiên.
- Đừng lo, anh yêu. - Nàng nói và mỉm cười. - Họ đã cắt dạ con,
nhưng em vẫn có thể sinh hoạt bình thường.
Ông nhìn sững nàng một lúc, rồi quay người bỏ đi.
Vivian rất thích đi mua sắm lung tung. Nàng tiêu tiền bừa bãi và
thiếu cẩn trọng vào quần áo, nữ trang, xe cộ, nhưng Alec lại
không hề có ý ngăn cản nàng. Ông tự nhủ rằng nàng đã lớn lên
trong cảnh nghèo khổ, thèm khát những thứ đẹp đẽ và sang trọng.
Ông muốn mua tất cả cho nàng. Thật bất hạnh là ông lại không đủ
sức làm việc đó. Tiền lương của ông bị giảm bớt rất nhiều bởi
thuế má. Tài sản của ông nằm hết trong cổ phần ở tập đoàn Roffe
và các con mà những cổ phần nầy lại bị hạn chế. Ông cố giải
thích chuyện đó với Vivian nhưng nàng chẳng hề quan tâm. Những
buổi thảo luận việc kinh doanh chỉ càng làm cho nàng thấy ngán
ngẩm. Và vì vậy Alec đành phải để nàng tự do mọi việc.
Lần đầu tiên ông nghe được chuyện nàng đánh bạc là khi Tod
Michaels, chủ nhân của Tod s Club, một sòng bạc tai tiếng ở Soho
ghé vào thăm ông.
- Tôi có giấy nợ một nghìn bảng của vợ ông, Sir Alec. Bà ấy đã
thua chúng ở bàn Roulette.
Alec hoàn toàn bị sốc. Ông đã lấy lại tờ giấy nợ ngay tối hôm đó
đã nói chuyện với Vivian.
- Chúng ta không đủ khả năng để chơi trò nầy, - ông bảo nàng. Em
đã tiêu nhiều hơn số tiền anh kiếm được.
Nàng tỏ ra ăn năn.
- Em xin lỗi, anh yêu. Em thật là một người vợ tồi.
Và nàng đến bên ông, vòng tay choàng qua ông, áp người vào người
ông, và ông quên hết cơn giận.
Alec đã có một đêm mỹ mãn khó quên trên giường của nàng. Ông tin
chắc rằng bây giờ thì chẳng còn vấn đề gì phải lo nữa.
Hai tuần sau Tod Michaels lại ghé đến nhà Alec. Lần nầy giấy nợ
của Vivian lên đến năm nghìn bảng.
Alec vô cùng giận dữ.
- Tại sao ông lại cho cô ấy thiếu nợ? - ông hỏi.
- Bà ấy là vợ ông mà, Sir Alec, - Michaels nhẹ nhàng trả lời. -
Làm sao tôi có thể từ chối bà ấy được?
- Tôi sẽ… tôi sẽ phải kiếm tiền. - Alec đã nói. - Hiện tại tôi
không có đủ số tiền mặt nhiều như thế.
- Đồng ý! Cứ coi đó là một khoản nợ. Ông hãy trả cho tôi khi nào
có thể.
Alec nhẹ hết cả người.
- Ông Michaels, ông thật là người rộng lượng.
Chưa đầy một tháng sau, Alec biết rằng Vivian lại cờ bạc và nợ
thêm hai mươi lăm nghìn bảng nữa, và Alec phải trả lãi mười phần
trăm mỗi tuần. Lần nầy thì ông thật sự hoảng hốt. Ông không có
cách nào kiếm được số tiền mặt nhiều như vậy. Căn nhà, những món
đồ cổ tuyệt đẹp, những chiếc xe hơi, tất cả đều thuộc về Tập
đoàn Roffe và các con. Cơn giận của ông đã làm Vivian sợ hãi đến
nỗi nàng phải hứa là sẽ không đánh bạc nữa. Nhưng cũng đã quá
muộn.
Alec thấy mình đã rơi vào tay bọn cho vay nặng lãi.
Dù ông có đưa cho chúng bao nhiêu đi chăng nữa, thì cũng vẫn
không xoay sở được đủ tiền để trả đứt nợ. Số nợ cứ chồng lên
hàng tháng và đã kéo dài được gần một năm.
Khi đám đàn em của Tod Michaels lần đầu tiên đến thúc ép ông trả
nợ, Alec đã đe doạ sẽ báo cảnh sát.
- Tôi có nhiều quan hệ với các cấp cao nhất, - Alec nói.
Gã đàn ông cười nhăn nhở.
- Còn tôi thì lại có nhiều quan hệ với các cấp thấp nhất.
Và bây giờ thì Alec ngồi đây, tại White s Club, với gã đàn ông
khốn kiếp nầy, cố gắng đè nén lòng kiêu hãnh xuống và van xin
thêm một chút thời gian nữa.
- Tôi đã trả cho họ nhiều hơn số tiền mà tôi nợ. Họ không thể…
- Đó chỉ là tiền lãi, Sir Alec. Ông vẫn chưa thanh toán món nợ
gốc.
- Đó là sự tống tiền. - Alec kêu lên.
Cặp mắt Swinton tối lại.
- Tôi sẽ nói lại lời của ông với ông chủ. - Rồi gã từ từ đứng
lên.
Alec nói nhanh.
- Không! Làm ơn ngồi xuống cho.
Swinton lại từ từ ngồi xuống ghế:
- Đừng có giở cái giọng đó ra với tôi, - Gã cảnh cáo. - Người
cuối cùng dám nói thế với tôi đã phải quỳ trên sàn nhà.
Alec có biết chuyện ấy. Anh em nhà Kray đã bày ra nhiều trò để
trừng phạt các nạn nhân của họ. Và những người đang là chủ nợ
của ông cũng chẳng kém phần tàn độc. Ông cảm thấy vị đắng ngắt
đang trào lên trong họng.
- Tôi không có ý như vậy. - Alec thanh minh. - Chỉ vì tôi… tôi
không kiếm được tiền mặt nữa.
Swinton búng nhẹ tay cho tàn xì gà rơi vào ly rượu vang của
Alec, và nói:
- Ông có một mớ cổ phiếu trong tập đoàn Roffe và các con, phải
không Alec thân yêu!
- Đúng, - Alec trả lời, - Nhưng tất cả đều không bán ra và
chuyển nhượng được. Nó không có lợi cho bất cứ ai trừ khi Roffe
và các con cho phép tung ra thị trường chứng khoán.
Swinton rít một hơi xì gà và nói.
- Và nó sắp sửa được tung ra rồi chứ?
- Chuyện nầy phụ thuộc vào Sam Roffe. Tôi… tôi đang cố thuyết
phục ông ấy.
- Ông phải tích cực nữa vào.
- Ông hãy nói cho ông Michaels rằng ông ấy sẽ được nhận đầy đủ
số nợ. - Alec nói. - Nhưng xin các người hãy dừng ngay việc thúc
giục tôi.
Swinton nhìn ông chằm chằm:
- Thúc giục ông?
Tại sao, Sir Alec, đồ lại cái, ông sẽ biết khi nào chúng tôi bắt
đầu thúc giục ông. Cái chuồng ngựa chó chết của ông sẽ cháy rụi
và ông sẽ phải ăn thịt ngựa nướng. Sau đó sẽ đến ngôi nhà của
ông. Và rồi có thể sẽ đến vợ ông. Gã mỉm cười, và Alec mong gã
đừng cười thì hơn:
- Ông đã bao giờ ăn một cái âm hộ hầm chưa?
Mặt Alec tái nhợt.
- Lạy Chúa…
Swinton nhẹ nhàng hạ giọng.
- Giỡn chút thôi mà; Tod Michaels là bạn của ông. Và bạn bè thì
phải giúp đỡ nhau, phải không? Trong buổi họp sáng nay chúng tôi
đã nói chuyện về ông. Và ông có muốn biết ông chủ tôi nói gì
không? Ông ấy nói: Alec là loại người tử tế. Nếu ông ấy không có
tiền, ông ấy sẽ nghĩ ra cách khác để làm chúng ta yên lòng.
Alec cau mày.
- Cách gì vậy?
- Ờ - bây giờ, việc trả tiền có gì khó khăn với một người thông
minh tài giỏi như ông, phải không? Ông đang điều hành một tập
đoàn dược phẩm lớn mà. Ông sản xuất ra những thứ như cocaine
chẳng hạn. Chỉ giữa ông và tôi thì ai mà biết được chuyện gì xẩy
ra nếu ông gửi nhầm hàng hoá vào đâu đó?
Alec nhìn sững gã.
- Ông điên rồi, - Alec nói. - Tôi, tôi không thể làm vậy.
- Khi cấp bách thì con người có thể làm được những chuyện đáng
kinh ngạc. - Swinton ôn tồn nói. Gã đứng dậy. - Hoặc là ông trả
đủ tiền cho chúng tôi, hoặc là chúng tôi sẽ cho ông biết địa
điểm giao hàng, - Gã dúi điếu xì gà vào đĩa bơ của Alec. - Cho
tôi gửi lời hỏi thăm tới bà Vivian, Alec.
Rồi Jon Swinton bỏ đi.
Sir Alec ngồi đó một mình, không còn thấy gì, xung quanh là
những thứ tiện nghi quen thuộc vốn là một phần rất lớn của quãng
đời đã qua của ông, mà giờ đây đang có nguy cơ biến mất. Vật xa
lạ duy nhất là mẩu xì gà ướt nhoét, bẩn thỉu trên đĩa bơ của
ông.
Làm sao ông có thể cho phép bọn chúng bước vào cuộc sống của ông
như vậy? Ông đã tự cho bọn chúng giở thủ đoạn đẩy ông vào tay
bọn hạ lưu dưới đáy xã hội.
Và bây giờ ông biết chúng muốn ở ông một thứ khác còn hơn cả
tiền. Tiền chỉ đơn giản là miếng mồi dụ ông vào bẫy. Chúng muốn
qua ông móc nối với tập đoàn. Chúng sẽ ép ông phải làm việc cho
chúng. Nếu việc ông bị bọn bất lương khống chế lộ ra, lập tức
phe đối lập sẽ không bỏ lỡ cơ hội. Đảng của ông có thể sẽ buộc
ông từ chức.
Việc nầy sẽ được tiến hành một cách khéo léo và kín đáo. Có thể
họ sẽ gây áp lực buộc ông xin chuyển qua Chiltern Hundreds, nơi
đây ông vẫn được trả một khoản lương danh nghĩa là 100 bảng một
năm. Điều duy nhất đáng ngại là ông sẽ không được nhận lương từ
Hoàng gia hoặc Chính phủ nữa. Như thế là Alec sẽ không còn được
phục vụ trong Nghị viện. Dĩ nhiên là lý do sẽ không mãi che giấu
được. Và ông sẽ bị nhục nhã. Trừ khi ông kiếm được một khoản
tiền lớn.
Ông đã hết lần nầy đến lần khác nói chuyện với Sam Roffe, yêu
cầu ông ta cho tập đoàn tham gia thị trường chứng khoán, để cho
các cổ phần được bán ra.
- Anh hãy quên chuyện đó đi. Ngay giây phút chúng ta để người
ngoài lọt vào công ty, sẽ có rất nhiều kẻ lạ mặt đến dạy bảo
chúng ta phải điều hành việc kinh doanh như thế nào. Trước khi
anh biết được chuyện nầy thì họ đã chiếm lấy hội đồng quản trị
rồi cả công ty. Có khác gì với anh đâu, Alec? Anh nhận lương
cao, tài khoản chi tiêu của anh là vô hạn. Anh không cần tiền.
Trong khoảnh khắc Alec đã định kể cho Sam ông đang cần tiền một
cách khẩn cấp ra sao. Nhưng ông biết làm thế cũng chẳng có lợi
lộc gì.
Sam Roffe chỉ biết đến tập đoàn, là một người lạnh lùng vô cảm,
không một chút lòng trắc ẩn. Nếu ông ta biết rằng Alec có hại
cho tập đoàn dù chỉ ở một phương diện nào đó, ông ta sẽ lập tức
thải hồi Alec không một chút do dự. Không, Sam Roffe là người
cuối cùng ông có thể nhờ cậy.
Alec đang đối mặt với sự phá sản.
Người gác cổng ở White s Club tiến về phía bàn Alec cùng một
nhân viên bưu điện mặc đồng phục đưa thư, cầm theo một phong bì
niêm kín.
- Xin lỗi, Sir Alec, - Người gác cổng lên tiếng, - Nhưng người
nầy cứ khăng khăng rằng anh ta được lệnh đích thân trao tận tay
ông một bức điện.
- Cám ơn, - Sir Alec nói. Người nhân viên bưu điện trao cho ông
chiếc phong bì và người gác cổng đưa anh ta quay ra ngoài.
Alec ngồi yên một lúc lâu trước khi với lấy chiếc phong bi và mở
nó ra. Ông đọc bức điện ba lần rồi từ từ vò nát nó trong lòng
bàn tay, cặp mắt đẫm lệ.
Chú thích:
(1) Kiến trúc sư người Anh (1728 - 1792).
(2) Kiểu cột của kiến trúc Hy Lạp cổ
(3) Đồ đạc nhà của công ty Hepplenwhite (thế kỷ 19)
Chương 6
NEW YORK
Thứ hai, 7 tháng Chín, 11 giờ sáng
Chiếc Boeing tư nhân 707-320 đang hoàn tất chặng cuối cùng đến
sân bay Kennedy, lướt nhẹ ra khỏi đường hướng dẫn hạ cánh. Đây
là chuyến bay dài, buồn tẻ và Rhys Wilhams đã gần như mệt lả
nhưng anh không tài nào ngủ được trong suốt cả đêm. Anh đã quá
nhiều lần đi trên chiếc phi cơ nầy với Sam Roffe. Ở đâu cũng
thấy tràn ngập sự có mặt của ông.
Elizabeth Roffe đang mong chờ anh. Rhys đã gửi cho nàng một bức
điện từ Istanbul, chỉ thông báo là anh sẽ đến vào ngày hôm sau.
Anh cũng có thể báo tin cái chết của bố nàng qua điện thoại
nhưng nàng đáng được quan tâm hơn thế.
Máy bay đã hoàn toàn tiếp đất và đang hướng đến bãi đậu, Rhys
mang theo rất ít hành lý và nhanh chóng làm xong các thủ tục hải
quan. Bên ngoài, bầu trời xám xịt và ảm đạm, báo hiệu mùa đông
giá lạnh sắp đến. Một chiếc limousine sang trọng đã đợi săn để
đưa anh đến toà nhà của Sam Roffe ở Long Island, nơi mà có thể
Elizabeth đang chờ anh.
Trong suốt quãng đường, Rhys cố nhẩm lại những lời anh định nói
với nàng, cố xoa dịu sự bất hạnh, nhưng khi Elizabeth mở cửa
trước đón chào anh, những lời ấy đã nhanh chóng bay khỏi đầu
anh. Mỗi khi Rhys thấy Elizabeth, sắc đẹp của nàng lại khiến anh
phải sững sờ. Nàng thừa hưởng nhan sắc của mẹ, cùng một gương
mặt sang trọng, cặp mắt đen láy dưới cặp lông mi dài và rậm. Da
nàng trắng và mịn màng, mái tóc nàng đen bóng. Dáng người nàng
đậm đà và rắn chắc. Nàng mặc một chiếc áo lụa hở cổ màu kem với
chiếc váy có nếp gấp bằng nỉ xám và mang đôi giầy màu nâu vàng.
Không có chút dấu vết nào của cô bé vụng về Rhys gặp lần đầu
tiên hồi chín năm trước. Nàng đã trở thành một thiếu nữ với vẻ
đẹp trong sáng, nồng nàn và hoàn toàn có ý thức về nó.
Giờ đây nàng đang cười với anh, vui mừng được gặp anh. Nàng nắm
tay anh và nói, - Vào đây, Rhys, - rồi dẫn anh vào thư viện rộng
rãi có tường lát gỗ sồi .
- Sam về cùng anh chứ?
Không còn cách nào để báo tin một cách nhẹ nhàng.
Rhys hít một hơi dài và nói:
- Sam đã gặp một tai nạn khủng khiếp, Liz ạ.
Anh thấy rõ sắc hồng trên má nàng biến mất. Nàng đợi anh nói
tiếp.
- Ông đã chết.
Nàng đứng như bị đóng băng. Cuối cùng khi nàng lên tiếng, Rhys
chỉ còn nghe loáng thoáng.
- Chuyện… chuyện gì đã xảy ra?
- Chúng tôi chưa có một chi tiết nào cả. Ông đang leo núi Mont
Blanc. Sợi dây bị đứt. Ông rơi xuống một kẽ nứt.
- Họ có tìm thấy…
Nàng nhắm nghiền mắt lại một lúc rồi mở ra.
- Kẽ nứt không đáy.
Mặt nàng đã trở nên trắng bệch. Rhys thấy lo lắng.
- Em không sao chứ?
Nàng mỉm cười và nói:
- Dĩ nhiên. Em không sao, cám ơn anh. Anh có muốn một tách trà
hoặc một chút gì để ăn không?
Anh ngạc nhiên nhìn nàng và định lên tiếng, nhưng anh chợt hiểu.
Nàng đang bị xúc động mạnh. Nàng nói lung tung mà không có chút
cảm giác nào, cặp mắt sáng ngời bất thường, nụ cười bất động.
- Sam là một vận động viên tuyệt vời, - Elizabeth vẫn nói. - Anh
đã trông thấy những chiếc cúp của bố em. Ông luôn dành chiến
thắng, phải không? Anh biết rằng ông đã từng leo lên ngọn Mont
Blanc chứ? Dĩ nhiên anh phải biết. Anh đã một lần đi cùng ông,
phải không Rhys?
Rhys để yên cho nàng nói, nàng đang cố tự giải toả nỗi đau, cố
xây một lớp bảo vệ bằng ngôn từ để lẩn tránh phút giây phải đối
mặt với nỗi đau khổ của chính mình. Trong một lúc, khi đang lắng
nghe nàng, anh chợt nhớ về cô bé yếu đuối mà anh đã gặp lần đầu,
quá dễ tổn thương, quá đỗi rụt rè đến nỗi không tài nào tự bảo
vệ mình trước những sự thật phũ phàng.
Giờ dây nàng đang bị kích động một cách nguy hiểm, căng thẳng
tột cùng và xung quanh nàng là một sự yếu ớt khiến Rhys phải lo
ngại.
- Để anh gọi bác sĩ, - anh nói. - Ông ấy sẽ giúp em.
- Ồ không. Em vẫn hoàn toàn bình thường mà. Nếu anh không thấy
ngại, em nghĩ em nên nằm một phút. Em thấy trong người hơi mệt.
- Em có cần anh ở đây không?
- Cám ơn anh. Có lẽ không cần như vậy đâu.
Nàng đưa anh ra cửa và khi anh bước vào xe, Elizabeth chợt gọi:
- Rhys?
Anh quay lại.
- Cám ơn anh đã đến.
Chúa ơi!
o0o
Nhiều giờ sau khi Rhys Williams đi khỏi, Elizabeth Roffe vẫn nằm
trên giường, nhìn chằm chằm lên trần nhà, theo dõi những hình
ảnh chợt ẩn chợt hiện được vẽ nên bởi ảnh nắng tháng chín yếu
ớt.
Và cơn đau kéo đến. Nàng không uống thuốc vì nàng muốn đau. Nàng
và Sam giống nhau ở điểm đó.
Nàng có thể chịu đựng được vì nàng là con gái của Sam. Và nàng
cứ nằm đó, suốt ngày suốt đêm, không nghĩ gì, rồi lại nghĩ đến
tất cả mọi thứ, hồi tưởng, xúc động. Nàng cười, nàng lại khóc,
rồi nàng nghĩ mình đang lên cơn điên loạn. Chẳng sao cả. Không
ai nghe thấy gì hết. Nửa đêm, nàng thấy đói cồn cào và xuống bếp
ăn ngấu nghiến một chiếc sandwich to rồi lại nôn thốc nôn tháo.
Nàng vẫn không thấy khá hơn. Không gì có thể làm dịu cơn đau
tràn ngập trong lòng. Nàng cảm giác như các đầu dây thần kinh
đang bùng cháy.
Tâm hồn nàng không ngừng trôi ngược về những năm tháng trước với
bố nàng. Nàng quan sát bình minh qua cửa sổ phòng ngủ. Một lúc
sau, người giúp việc gõ cửa và Elizabeth bảo cô ta đi. Một lần
chuông điện thoại reo, tim nàng giật thót lại, nàng với tay về
phía nó và nghĩ, là Sam! Rồi nàng chợt nhớ ra và rút tay lại.
Ông sẽ không bao giờ còn gọi điện cho nàng nữa. Nàng cũng không
bao giờ được nghe tiếng của ông nữa. Nàng sẽ không bao giờ được
gặp ông nữa.
Một kẽ nứt không đáy.
- Không đáy.
Elizabeth nằm đó, để mặc cho dĩ vãng cuốn đi, hồi tưởng lại tất
cả.
Chương 7
Sự ra đời của Elizabeth
Rowane Roffe quả là một tấn bi kịch kép. Bi kịch nhỏ là mẹ của
Elizabeth qua đời ngay trên bàn đẻ. Bi kịch lớn là Elizabeth là
con gái.
Trong chín tháng, cho tới khi cô chào đời, cô là đứa bé được
mong đợi một cách tha thiết nhất trên thế giới, người sẽ kế thừa
một vương quốc vĩ đại trị giá hàng tỉ tỉ đô la - tập đoàn Roffe
và các con.
Vợ của Sam Roffe, Patricia, là một phụ nữ tóc đen có nhan sắc
hơn người. Nhiều người đàn bà đã cố tìm trăm phương ngàn kế để
lấy cho được Sam Roffe vì địa vị của ông, uy tín của ông, sản
nghiệp của ông.
Còn Patricia đã kết hôn với ông vì bà thật lòng yêu ông. Đó là
lý do tồi tệ nhất. Sam Roffe luôn tìm cách sắp xếp công việc làm
ăn và Patricia rất phù hợp với yêu cầu của ông. Sam Roffe không
có thời gian cũng như tính khí của một người đàn ông thuộc về
gia đình.
Không còn chỗ nào khác ngoài Roffe và các con trong cuộc sống
của ông. Ông miệt mài hiến dâng mình cho tập đoàn và ông trông
mong những người xung quanh ông cũng giống như ông vậy. Đối với
ông, tầm quan trọng của Patricia chỉ bó gọn trong những gì mà bà
đóng góp cho hình ảnh của tập đoàn. Tới lúc Patricia nhận thức
được thực trạng cuộc hôn nhân của mình thì đã quá muộn. Sam giao
cho bà một vai diễn và bà đã diễn xuất thật tuyệt vời. Bà là một
nữ chủ nhân hoàn hảo, một bà Sam Roffe hoàn hảo. Bà không nhận
được một chút tình yêu nào từ chồng và bà cũng kịp học cách
không ban phát tình yêu. Bà phục vụ Sam không khác gì một cô thư
ký hạng bét đang làm công trong Roffe và các con. Bà luôn có mặt
để trả lời điện thoại hai mươi tư giờ một ngày, sẵn sàng bay đến
bất cứ nơi nào Sam cần bà, thừa khả năng chiêu đãi một công ty
vào loại hàng đầu thế giới hay tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn
cho một trăm thực khách dựa theo thông báo hàng ngày với đầy đủ
khăn trải bàn thêu, bộ ly thuỷ tinh Baccarat lóng lánh, bộ đồ ăn
bạc kiểu Georgian nặng trịch. Patricia là một thứ tài sản không
được liệt kê của Roffe và các con. Bà làm việc quần quật mà vẫn
giữ được nhan sắc, nhờ tập luyện và ăn kiêng đều đặn như những
người Spartan thuộc đất nước Hy Lạp cổ xưa. Thân hình của bà
thật hoàn hảo, quần áo được thiết kế riêng bởi các hãng thời
trang nổi tiếng như Norell ở New York, Channel ở Paris, Harnell
ở London và Sybil Connoly ở Dublin.
Nữ trang của bà cũng được đặt làm riêng ở tận Bulgaria do tay
của Jean Schlumbrger. Cuộc sống của bà luôn bận rộn và đầy ắp
nhưng cũng hết sức vô vị và trống rỗng. Việc bà có mang đã làm
thay đổi tất cả.
Sam Roffe là người thừa kế nam cuối cùng của triều đại Roffe, và
Patricia biết rõ rằng ông tha thiết có một đứa con trai như thế
nào. Ông đang trông chờ ở bà. Và bây giờ bà trở thành mẫu hậu,
bận rộn với đứa con trong bụng, vị hoàng tử bé tí xíu, người mà
một ngày kia sẽ kế thừa vương quốc. Khi họ đẩy xe đưa bà vào
phòng đẻ, Sam nắm chặt tay bà và nói "Cám ơn em". Bà qua đời ba
mươi phút sau đó vì một cơn tắc mạch, và điều hạnh phúc duy nhất
về cái chết của Patricia là bà chết mà không biết mình đã làm
ông chồng thất vọng đến nhường nào.
Sam Roffe dảnh bớt thời gian trong thời gian biểu mệt nhoài của
ông tổ chức ma chay cho vợ, rồi tập trung vào vấn đề ông phải
làm sao với đứa con vừa mới mất mẹ của mình.
Một tuần sau ngày Elizabeth ra đời, nàng được đưa về nhà và giao
cho một bà vú, người khởi đầu cho một loạt các bà vú sau nầy.
Trong suốt năm năm đầu tiên của cuộc đời, Elizabeth rất hiếm khi
được thấy mặt bố mình. Ông không hơn gì một bóng mờ, một người
xa lạ luôn chợt đến chợt đi. Ông thường xuyên đi khắp mọi nơi và
Elizabeth là một sự phiền toái mà ông phải mang theo, một thứ
hành lý thừa.
Một tháng Elizabeth thấy mình sống tại toà nhà ở Long Island với
những bãi chơi ki, sân tennis, bể bơi và sân bóng quần. Vài tuần
sau, bà vú của nàng lại thu dọn quần áo và nàng bay đến ở tại
toà biệt thự của gia đình ở Barritz. Nó có đến năm mươi phòng và
ba mươi hecta đất khiến Elizabeth cứ bị lạc luôn.
Ngoài ra, Sam Roffe còn sở hữu một căn nhà mái bằng lớn ở
Beekman Place và một toà biệt thự khác trên bờ biển Smeralda ở
Sardinia. Elizabeth qua lại tất cả những nơi nầy, từ nhà qua
biệt thự, từ biệt thự qua nhà và nàng lớn lên giữa cảnh thanh
lịch xa hoa. Nhưng nàng vẫn luôn cảm thấy mình như một người
ngoài đi lạc vào một bữa tiệc sinh nhật lộng lẫy được tổ chức
bởi những người xa lạ vô tình.
Khi Elizabeth lớn lên, bấy giờ nàng mới hiểu con gái của Sam
Roffe là như thế nào. Mẹ nàng đã là một nạn nhân tội nghiệp của
tập đoàn, và giờ đây đến lượt nàng. Nếu như nàng không có cuộc
sống gia đình, cũng chỉ bởi vì chẳng có gia đình nào cả, mà chỉ
có những người giám hộ được trả tiền và hình bóng xa cách của
người được gọi là bố của nàng, người dường như không hề để tâm
đến nàng, chỉ biết có tập đoàn mà thôi. Patricia có thể chấp
nhận hoàn cảnh của mình, nhưng với đứa con thì như thế thật là
tàn nhẫn. Elizabeth cảm thấy không ai cần tới mình, không ai yêu
thương mình, không biết làm gì để chống đỡ niềm thất vọng và
cuối cùng nàng tự trách bản thân mình là không dễ thương. Nàng
cố gắng dành lấy tình cảm của bố mình trong vô vọng. Khi
Elizabeth đến tuổi đi học, nàng ngồi trong lớp và làm nhiều món
đồ cho ông, những bức tranh vẽ bằng màu nước ngây ngô, những
chiếc gạt tàn xiêu vẹo, và nàng cẩn thận cất giữ chúng, chờ đợi
bố đi công tác về để đem ra làm cho ông ngạc nhiên, làm cho ông
vui lòng và nghe ông nói "Đẹp lắm, con yêu. Con thật là giỏi".
Khi ông trở về, Elizabeth mang những món quà yêu quý cho ông và
ông liếc qua chúng một cách thờ ơ rồi gật đầu hoặc lắc đầu. "Con
sẽ không bao giờ trở thành nghệ sĩ, phải không?".
Có đôi lần Ehzabeth chợt bừng tỉnh giữa đêm khuya, và bước xuống
cầu thang dài uốn cong trong căn nhà ở Beekman Place, đi qua đại
sảnh mênh mông tới căn phòng làm việc của bố nàng. Nàng bước vào
trong căn phòng trống trải như đang bước vào chốn linh thiêng.
Đây là phòng của ông, nơi ông làm việc, ký những văn kiện quan
trọng và điều hành cả thế giới nầy. Elizabeth bước tới cái bàn
khổng lồ bọc da và từ từ miết hai tay lên mặt bàn. Rồi nàng vòng
ra đằng sau bàn, ngồi vào chiếc ghế da của ông. Nàng cảm thấy ở
đó gần gũi với bố mình hơn. Tức là đến nơi nào ông đã đến ngồi
nơi nào ông đã ngồi, nàng sẽ trở thành một phần của ông. Nàng
luôn nói chuyện với ông trong trí tưởng tượng, và ông sẽ lắng
nghe, sẽ thấy thú vị và sẽ tỏ ra ân cần khi nàng giải bày những
vấn đề của mình. Một đêm, khi Elizabeth đang ngồi ở chỗ của ông
trong bóng tối, bỗng nhiên đèn trong phòng bật sáng. Bố nàng
đang đứng ở ngưỡng cửa. Ông nhìn Elizabeth ngồi sau bàn làm
việc, mặc một cái áo ngủ mỏng, và hỏi, "Con làm gì một mình ở
đây trong bóng tối vậy?" Rồi ông bế nàng lên, đưa nàng lên gác,
tới giường ngủ, và Elizabeth đã thao thức cả đêm đó, nghĩ đến
việc bố đã bế mình như thế nào.
Sau lần đó, đêm nào nàng cũng xuống nhà và ngồi trong phòng làm
việc của ông chỗ ông đến bế nàng lên gác nhưng chuyện đó đã
không bao giờ còn xảy ra.
Không một ai nói chuyện về mẹ với Elizabeth, nhưng có một bức
chân dung toàn thân tuyệt đẹp của Patricia treo trong phòng
khách và Elizabeth thường đứng ngắm nó hàng giờ. Rồi nàng nhìn
lại mình trong gương. Xấu quá. Người ta đã đặt vòng chỉnh răng
nên trông nàng cứ như nửa người nửa thú vậy. Chẳng lạ lẫm gì khi
bố không hề để ý đến mình, Elizabeth nghĩ.
Chẳng bao lâu sau, nàng liên tục thèm ăn và ăn uống rất ngon
miệng, rồi nàng bắt đầu lên cân. Bởi vì nàng đã hiểu ra một sự
thật tuyệt vời: Nếu nàng béo ra và xấu xí, sẽ không còn ai trông
mong nàng sẽ giống mẹ mình.
Khi Elizabeth được mười hai tuổi, nàng được gửi vào học tại một
trường tư thục đặc biệt ở khu Đông Manhattan. Nàng đi học bằng
chiếc Rolls-Royce có tài xế riêng, vào lớp và ngồi một chỗ, yên
lặng, không biết đến mọi người xung quanh. Nàng không bao giờ
xung phong trả lời câu hỏi, và khi bị gọi tên, nàng cũng chẳng
bao giờ tỏ ra là biết câu trả lời. Rồi các giáo viên cũng sớm
quen đi và phớt lờ nàng. Họ thảo luận về nàng và nhất trí với
nhau rằng nàng là đứa bé hư nhất mà họ từng thấy. Trong một báo
cáo cuối năm gửi cho bà hiệu trưởng, cô giáo của Elizabeth đã
viết:
"Chúng tôi không thu được một tiến triển nào ở trường hợp
Elizabeth Roffe. Em xa rời các bạn cùng lớp và từ chối tham gia
bất kỳ một sinh hoạt nhóm nào. Em không kết bạn với bất cứ ai
trong trường. Điểm số của em không đạt nhưng thật khó xác định
đó là bởi vì em không cố gắng hay không đủ khả năng xứ lý mợi
việc. Em ngạo mạn và ích kỷ. Nếu bố em không phải là ân nhân lớn
của trường, tôi sẽ cương quyết yêu cầu đuổi học em".
Bản báo cáo cách xa thực tế đến hàng năm ánh sáng. Sự thật đơn
giản là Elizabeth Roffe không có một tấm lá chắn bảo vệ, không
có một cái áo giáp chống lại sự cô đơn tột cùng đã nhấn chìm
nàng. Tâm hồn nàng tràn đầy cảm giác sâu sắc về sự vô dụng của
mình khiến nàng sợ phải kết bạn, sợ rằng họ sẽ khám phá rằng
nàng là đồ vô dụng, khó có cảm tình.
Nàng không ngạo mạn mà chỉ hầu như là bị bệnh nhút nhát quá độ.
Nàng có cảm giác rằng mình không thuộc về cùng một thế giới mà
bố nàng đang sống. Nàng chẳng thuộc về đâu cả. Nàng miễn cưỡng
ngồi xe Rolls-Royce đến trường vì nàng biết rằng mình không đáng
được như thế. Trong lớp, nàng cũng biết trả lời các câu hỏi của
cô giáo nhưng nàng lại không dám nói ra vì sợ mọi người chú ý
đến mình. Nàng thích đọc sách và nàng thường thức khuya để vùi
đầu vào sách.
Nàng cũng mơ màng, và những mơ ước thật kỳ quặc nhưng cũng rất
dễ thương. Nàng đang ở Paris cùng bố và họ ngồi xe ngựa chạy qua
rừng, rồi những căn phòng khổng lồ giống nhà thờ Saint-Patrick,
và thiên hạ không ngừng bước vào với giấy tờ trên tay xin ông
chữ ký, còn ông thì vừa vẩy tay xua họ đi vừa nói "Các người
không thấy tôi đang bận sao? Tôi đang nói chuyện với con gái
tôi, Elizabeth".
Nàng và bố đang trượt tuyết ở Thuỵ Sĩ, song song chạy xuống một
con đồi dốc, những ngọn gió lạnh buốt đập mạnh vào người họ, đột
nhiên ông ngã xuống và kêu lên đau đớn vì chân ông đã gãy và
nàng nói "Bố đừng lo! Con sẽ chăm sóc cho bố". Rồi nàng trượt
xuống bệnh viện và nói "Nhanh lên, bố tôi đang bị thương", và
một tá người mặc áo khoác trắng đưa ông lên một chiếc xe cứu
thương bóng loáng, nàng ở bên giường của ông, đút cho ông ăn (có
thể là tay ông bị gãy chứ không phải là chân), và mẹ nàng đi vào
trong phòng, không hiểu sao bà lại sống lại, và bố nàng nói "Anh
không thể gặp em lúc nầy được, Patricia. Anh và Elizabeth đang
nói chuyện với nhau".
Hoặc là họ đang ở trong ngôi biệt thự xinh đẹp ở Sardinia, và
tất cả đám gia nhân đều đi vắng nên Elizabeth nấu bữa tối cho bố
nàng. Ông ăn hết mọi thứ và nói "Con nấu ăn giỏi hơn mẹ nhiều,
Elizabeth".
Những cảnh tượng với bố nàng luôn được kết thúc theo cùng một
cách. Chuông cửa reo vang và một người đàn ông cao lớn, cao hơn
cả bố nàng chợt xuất hiện và cầu xin Elizabeth nhận lời kết hôn
với anh ta, và bố nàng liền nài nỉ nàng "Elizabeth, bố xin con,
đừng bỏ rơi bố. Bố cần có con".
Và nàng đồng ý ở lại.
Trong tất cả những ngôi nhà mà Elizabeth đã từng ở, căn biệt thự
ở Sardinia được nàng yêu thích nhất. Không phải vì nó lớn nhất
mà là nó có nhiều mầu sắc nhất, thân thiết nhất. Bản thân
Sardinia đã hấp dẫn Elizabeth rồi. Đó là một hải đảo bị núi đá
vây hãm tạo nên ấn tượng mạnh cách bờ biển phía Tây Nam Italia
khoảng 160 hải lý, là một quần thể thiên nhiên hùng vĩ bao gồm
núi, biển và trang trại xanh tươi. Những vách đá của núi lửa
khổng lồ đã phun lên từ hàng nghìn năm trước từ lờng biển hoang
sơ, và những doi đất ven biển quét một hình bán nguyệt đến xa
đến ngút tầm mắt, biển Tyrrhenie tạo nên một vành đai xanh xung
quanh đảo.
Đối với Elizabeth, hòn đảo có những hương vị riêng đặc biệt độc
đáo, đó là mùi của gió biển và rừng cây, mùi hoa macchia trắng
và vàng, loại hoa yêu thích của Napoleon. Đó là những bụi cây
corbeccola cao khoảng gần hai mét có trái mầu đỏ, vị giống vị
quả dâu tây và cây guarcias, cây sồi đá vĩ đại có vỏ được xuất
vào đại lục để sản xuất nút chai rượu vang.
Nàng rất thích nghe những hòn đá hát, những hòn đá huyền bí
khổng lồ với muôn vàn những lỗ nhỏ xuyên qua. Khi gió thổi qua
các lỗ nhỏ ấy, những hòn đá lại phát ra những âm thanh kỳ quái,
như tiếng than vãn ai oán, như bài hát buồn của các linh hồn vất
vưởng.
Gió vẩn vơ không ngừng thổi. Elizabeth dần dần cũng hiểu được
hết các loại gió. Mistrale, ponente, tramontana grecate và
levante. Gió dịu dàng và gió hung dữ. Rồi lại còn scirocco, ngọn
gió nóng bức khó chịu thổi đến từ sa mạc Sahara.
Biệt thự Roffe ở bờ biển Smeralda, phía trên cảng Cervo, toạ lạc
trên một vách đá cao trông xuống biển, tách biệt hẳn bởi những
dẫy cây bách và cây ôliu quả đắng mọc hoang. Xa tít xuống phía
dưới là cảnh đẹp hấp dẫn của khu bến cảng và xung quanh đó, rải
rác trên các ngọn đồi xanh là những ngôi nhà bằng đá trát vữa
với những mầu sắc hỗn độn kỳ quặc như bức vẽ nguệch ngoạc của
trẻ con.
Toà biệt thự cũng được trát vữa, nhưng là loại vữa trộn với hạt
cây bách. Nó được xây theo nhiều nấc với nhiều căn phòng rộng
lớn, tiện nghi, mỗi phòng đều có lò sưới và ban công. Phòng
khách và phòng ăn có cửa sổ nhìn ra toàn cảnh của hòn đảo. Một
cầu thang kiểu tự do dẫn lên lầu trên, nơi có bốn phòng ngủ. Đồ
đạc trong nhà kết hợp một cách hoàn mỹ với môi trường xung
quanh. Đó là những bàn ăn và ghế dài thô sơ, những chiếc ghế
bành êm ái. Cửa sổ được che bằng loại màn xếp len trắng dệt tay
trên đảo, sàn nhà được lát gạch serasada sặc sỡ của Sardinia và
nhiều loại gạch khác nữa của Tuscany. Phòng tắm và phòng ngủ có
trải thảm len địa phương cổ truyền. Ngôi nhà trở nên rực rỡ hơn
với nhiều bức tranh, một sự pha trộn giữa trường phái ấn tượng
Pháp, các hoạ sĩ bậc thầy Italia và các hoạ sĩ trước thời phục
hưng ở trên đảo. Hai bước chân dung Samuel Roffe và Terema
Roffe, ông bà tổ của Elizabeth được treo trong phòng lớn của toà
nhà.
Nét đặc biệt của toà nhà mà Elizabeth yêu thích nhất là căn
phòng trên cùng, ở ngay dưới mái dốc. Nó được nối xuống dưới
bằng một cầu thang hẹp từ tầng hai và Sam Roffe dùng nó làm văn
phòng. Trong đó có một bàn làm việc lớn và một ghế xoay có lót
nệm. Dọc theo các bức tường là các giá sách, các bản đồ phần lớn
là có liên quan đến đế chế Roffe. Cái cửa kiểu Pháp dẫn đến một
ban công nhỏ xây chìa ra phía trên một vách đá dựng đứng, và
đứng đó nhìn ra quang cảnh thấy thót hết cả tim.
Chính trong căn nhà nầy, năm mười ba tuổi Elizabeth đã khám phá
ra nguồn gốc gia đình nàng, và lần đầu tiên trong đời nàng cảm
thấy mình thuộc về ai đó, rằng nàng là một phần thuộc dòng họ
của mình.
Sự việc bắt đầu vào ngày mà nàng tìm thấy Quyển sách. Sam lái xe
đi Olbia và Elizabeth đi vẩn vơ lên căn phòng trên cùng. Nàng
chẳng hề để ý đến những quyển sách trên giá, đã từ lâu nàng biết
chúng là sách khoa học kỹ thuật về dược lý, dược phẩm, những
sách viết về các công ty đa quốc gia, luật quốc tế. Buồn tẻ và
chán ngắt. Chỉ có một số ít sách viết tay được cất trong tủ
kính. Một quyển là sách y học bằng tiếng La tinh tên là Circa
Instans được viết từ thời Trung cổ, một quyển khác tên là De
Materia Medica.
Vì đang học tiếng La tinh và cũng vì tò mò muốn xem một quyển
sách cổ mà cô mở tủ kính lấy nó ra. Đằng sau nó, nằm khá kín đáo
trong một góc khuất là một quyển khác. Elizabeth nhấc nó ra. Đó
là một cuốn sách dầy, bìa bọc da đỏ và không có tên.
Ngạc nhiên, Ehzabeth mở cuốn sách ra. Như mở cánh cổng đưa nàng
sang một thế giới khác. Đó là cuốn tiểu sử của ông tổ nàng,
Samuel Roffe, bằng tiếng Anh, in trên giấy da. Cuốn sách không
có tên tác giả, không ghi ngày tháng, nhưng Elizabeth chắc rằng
nó đã có từ hơn một trăm năm vì hầu hết các trang sách đã bạc
mầu, một số trang khác đã ố vàng và long ra vì quá cũ. Nhưng tất
cả các điều đó đều không hề quan trọng. Chỉ có câu chuyện trong
đó mới thực sự đáng kể, một câu chuyện làm sống lại các bức chân
dung treo dưới phòng lớn. Elizabeth đã nhìn các bức chân dung
của các cụ tổ nàng hàng trăm lần: một người đàn ông và một người
đàn bà cổ lỗ, mặc những bộ quần áo lạ lùng. Người đàn ông không
đẹp trai nhưng lại toát ra một sức mạnh đặc biệt và vẻ thông
minh trên gương mặt. Tóc ông mầu vàng hoe, gò má cao của dân tộc
Slavơ và cặp mắt xanh sáng, tinh nhanh. Người đàn bà rất đẹp.
Tóc đen, nước da bóng láng không một tì vết và cặp mắt đen như
than. Bà mặc một chiếc váy dài bằng lụa trắng với một áo khoác
ngắn, vạt trên thêu kim tuyến. Hai người xa lạ không có ý nghĩa
gì với Elizabeth.
Nhưng giờ đây, một mình trong căn phòng áp mái, Elizabeth mở
cuốn sách ra và bắt đầu đọc, Samuel và Terenia Roffe trở nên
sống động. Elizabeth cảm tưởng như mình đang đi ngược thời gian,
đang sống trong khu người Do Thái Krakow vào năm 1853 với Samuel
và Terenia. Càng đọc cuốn sách, nàng biết rằng ông tổ Samuel của
nàng, người sáng lập ra Roffe và các con, là một người lãng mạn,
rất thích phiêu lưu.
Và là một tên giết người.
Chương 8
Hồi ức xa xưa nhất của
Samuel Roffe, như Elizabeth đọc là việc mẹ ông bị giết trong một
tàn sát người Do Thái đẫm máu năm 1855 khi Samuel được năm tuổi.
Cậu bé trốn trong hầm rượu của căn nhà gỗ nhỏ nơi gia đình Roffe
cư ngụ cùng nhiều gia đình khác thuộc khu người Do Thái ở
Krakow. Khi cuộc náo loạn cuối cùng trôi qua, hàng giờ đồng hồ
dài dằng dặc sau đó và âm thanh duy nhất còn sót lại là tiếng
khóc than của những người sống sót, Samuel thận trọng rời khỏi
chỗ nấp và đi lên trên phố của người Do Thái tìm mẹ. Đối với cậu
bé, cả thế giới dường như đang bốc cháy. Bầu trời bị nhuốm màu
đỏ rực từ những căn nhà đang chìm trong lửa, làn khói đen đặc
quánh cuồn cuộn khắp nơi. Đàn ông, đàn bà nháo nhác lên tìm kiếm
người thân hoặc cố tìm cách cứu lấy căn nhà hoặc số tài sản ít
ỏi của họ. Krakow, vào giữa thế kỷ mười chín, có một khu thương
mại cho thuê nhưng người Do Thái bị cấm đến đó. Nơi đây, trong
khu Do Thái ở ven thành phố, họ buộc phải chiến đấu với sự tàn
sát bằng tay không, với nước kéo lên từ giếng, và tạo thành đội
quân xô thùng để dập tắt ngọn lửa. Samuel nhìn đâu cũng thấy
cảnh chết chóc, vô số các xác đàn ông và đàn bà không còn nguyên
vẹn nằm la liệt như những con búp bê dập nát; những phụ nữ bị
cưỡng hiếp nằm trần truồng và đám trẻ con, máu vẫn chảy đang rên
rỉ kêu cứu.
Samuel thấy mẹ mình nằm trên phố, nửa tỉnh nửa mê, máu me đầm
đìa trên mặt. Cậu quỳ xuống bên cạnh bà, tim đập thình thịch "Mẹ
ơi!"
Bà mở mắt nhìn thấy cậu, cố cất tiếng nói, và Samuel biết mẹ
mình đang hấp hối. Cậu muốn cứu bà nhưng không biết làm cách nào
và thậm chí khi cậu nhẹ nhàng lau sạch các vết máu thì việc ấy
cũng đã quá muộn.
Lâu sau đó, Samuel đứng nhìn đội mai táng cẩn thận đào đất bên
dưới xác mẹ cậu: vì máu bà chảy quá nhiều ướt sũng cả đất, và
theo Kinh Thánh, tất cả phải được chôn theo bà thì bà mới được
về bên Chúa một cách toàn vẹn.
Chính vào lúc đó Samuel đã quyết định rằng mình cần phải trở
thành bác sĩ.
Gia đình Roffe và tám gia đình khác sống trong một căn nhà gỗ
hẹp ba tầng. Samuel sống trong một căn phòng nhỏ với bố và bà dì
Rachel, và cả đời cậu chưa bao giờ được ở phòng riêng hoặc ăn
ngủ một mình.
Cậu cũng không thể nhớ được lúc nào tai cậu không nghe được
những tiếng nói, nhưng Samuel cũng không khát khao được riêng
tư, vì cậu cho rằng chuyện đó là hoàn toàn không có. Cậu luôn
sống trong một trạng thái hỗn độn.
Một buổi tối Samuel và các thân nhân cùng bạn bè bị khoá chặt
trong khu Do Thái như những người Do Thái vẫn nhốt dê, bò, gà
của họ.
Vào lúc mặt trời lặn, hai cánh cổng gỗ đồ sộ của khu Do Thái
được đóng lại và khoá bằng một ổ khoá kim loại lớn. Đến bình
minh cổng mới được mở và các thương nhân Do Thái mới được phép
đi vào thành phố Krakow để điều khiển việc kinh doanh với những
người không phải dân Do Thái, nhưng họ phải trở về ở bên trong
khu Do Thái trước khi mặt trời lặn.
Bố Samuel đến từ nước Nga, ông trốn khỏi một cuộc tàn sát ở Kiev
và ông đã lên đường đi Krakow, nơi ông gặp gỡ cô dâu của mình.
Bố của Samuel lưng hơi gù, tóc hoa râm, gương mặt nhăn nheo và
mệt mỏi. Ông là người bán hàng rong với những món đồ lặt vặt nữ
trang rẻ tiền và dụng cụ làm bếp, ngày ngày ông đẩy xe qua những
đường phố chật hẹp của khu Do Thái. Cậu bé Samuel rất thích được
rong chơi trên các con phố lát đá đông đúc và nhộn nhịp. Cậu
cũng khoái được hít hà mùi bánh mì nướng xen lẫn với mùi cá khô,
pho mát, trái cây chín hoà với mùi mùn cưa và da thuộc. Cậu
thích nghe những người bán hàng rong hát rao các món hàng của họ
và các bà nội trợ mặc cả bằng giọng xúc phạm dễ mích lòng.
Các loại hàng hoá mà những người bán hàng rong tiêu thụ được
thật khó tưởng tượng: vải lanh, đăng ten, vải bọc, đồ da, thịt
và rau, kim chỉ, xà phòng, gà nguyên con đã làm sạch lông, nến,
nút chai các loại, xirô giầy dép.
Sinh nhật lần thứ mười hai của Samuel cũng là ngày đầu tiên bố
cậu đưa cậu vào thành phố Krakow.
Cái ý nghĩ được bước qua cánh cổng gỗ và nhìn thấy tận mắt
Krakow, nhà cửa của những người không phải Do Thái khiến tâm hồn
cậu tràn đầy những kích thích không sao chịu nổi.
Sáu giờ sáng, Samuel, xúng xính trong bộ quần áo đẹp đứng trong
bóng tối bên cạnh ông bố trước cánh cổng vẫn còn khép kín, xung
quanh là một đám đông ồn ào với những chiếc xe đẩy thô sơ tự
đóng, xe bò hoặc xe ba gác. Không khí lạnh và ẩm thấp làm cho
Samuel phải co người vào trong chiếc áo len lông cừu đã xơ chỉ.
Dường như sau đến vài tiếng đồng hồ, vầng mặt trời màu cam sáng
chói mới chịu ló dạng ở chân trời phía đông và đám người xôn xao
cả lên. Một lúc sau, hai cánh cổng gỗ từ từ mở ra và các lái
buôn bắt đầu ào ra như một đàn kiến cần cù, hướng về thành phố.
Càng đến gần thành phố kỳ diệu, khủng khiếp, tim Samuel càng đập
nhanh hơn. Cậu đã có thể nhìn thấy những công sự nhô cao khỏi
mặt sông Vistula.
Samuel bám vào bố chặt hơn. Cậu đã thực sự ở trong Krakow, xung
quanh là những người không phải Do Thái, những người mà đêm nào
cũng khoá chặt cánh cổng, giam cầm bố con cậu. Cậu liếc nhanh
những người qua lại bằng ánh mắt lấm lét và lo sợ, ngạc nhiên
khi thấy họ khác hẳn. Họ không đeo khoá tai, và áo choàng dài
đen, và nhiều người trong bọn họ râu ria nhẵn nhụi. Samuel và bố
đi dọc theo đường Plante hướng về phía Rynek, nơi họp chợ đông
đúc, ở đây họ đi qua gian hàng quần áo và tới nhà thờ có hai cái
tháp Saint-Mary.
Samuel chưa bao giờ trông thấy khung cảnh tuyệt vời như vậy. Cái
cảm giác kích thích vì được tự do làm cho Samuel ngộp thở. Những
ngôi nhà ở hai bên hè phố đều tách biệt với nhau chứ không liền
lại một khối và phần lớn chúng đều có một mảnh vườn nhỏ phía
trước. Chắc chắn, Samuel nghĩ, mỗi người ở Krakow phải là một
triệu phú.
Samuel đi theo bố đến khoảng sáu nhà buôn sỉ, nơi bố cậu mua
hàng hoá và chất lên xe đẩy. Khi chiếc xe đã đầy, ông và cậu bé
quay trở lại khu Do Thái.
- Mình không thể ở lại lâu hơn sao? - Samuel nài nỉ.
- Không, con trai ạ. Chúng ta phải về nhà.
Samuel không muốn về. Đây là lần đầu tiên cậu được ra ngoài cánh
cổng và trọng người cậu tràn đầy cảm xúc khoan khoái mãnh liệt
tựa hồ làm cậu nghẹt thở. Những người đó có thể sống thế nầy, tự
do đi bất cứ nơi nào họ muốn, làm bất cứ cái gì họ thích… Tại
sao cậu không được sinh ra bên ngoài cổng? Ngay lập tức cậu cảm
thấy xấu hổ với bản thân vì đã có ý nghĩ bất nghĩa như vậy.
Đêm hôm đó khi lên giường, Samuel đã nằm thao thức rất lâu, nghĩ
về Krakow và những ngôi nhà đẹp với mảnh vườn xanh tươi trồng
rất nhiều hoa. Cậu phải tìm cách để tự do. Cậu muốn nói chuyện
với ai đó về những gì cậu cảm thấy, nhưng không ai có thể hiểu
được cậu.
o0o
Elizabeth đặt Quyển sách xuống và ngả người, nhắm mắt, cố hình
dung lại nỗi cô đơn của Samuel, sự phấn khích, cảm giác thất
vọng của ông.
Đó chính là lúc Elizabeth bắt đầu đồng cảm với ông, cảm thấy
mình là một phần của ông. Dòng máu của ông đang chảy trong người
nàng, một cảm giác hoà hợp diệu kỳ đang được nung nóng.
Elizabeth chợt nghe thấy tiếng xe hơi của bố và nàng nhanh chóng
giấu Quyển sách đi. Nàng không còn cơ hội nào khác để đọc nó ở
đây. Nhưng khi trở về New York, Quyển sách đã được giấu kỹ tận
đáy va-li của nàng.
Chương 9
So với ánh nắng mùa đông ấm
áp ở Sardinia, New York giống như miền Siberi. Các đường phố
ngập tuyết và bùn loãng, gió thổi qua sông Đông lạnh cóng, nhưng
Elizabeth chẳng hề quan tâm. Nàng đang ở Ba Lan, ở thế kỷ trước,
tham gia những cuộc phiêu lưu của ông tổ nàng. Mỗi buổi chiều
sau lúc tan trường, Elizabeth vội vàng chui vào phòng riêng,
khoá cửa lại và lôi Quyển sách ra. Nàng đã định bàn luận về
Quyển sách với bố nhưng lại sợ ông sẽ lấy nó đi.
Về một phương diện kỳ diệu và bất ngờ, chính cụ tổ Samuel là
người đã cho Elizabeth lòng can đảm.
Đối với Elizabeth, họ rất giống nhau. Samuel suốt ngày thui thủi
một mình. Ông không có ai để trò chuyện.
Như mình, Ehzabeth nghĩ. Và bởi vì họ gần như cùng tuổi - dù
cách nhau cả một thế kỷ - nên nàng vẫn có thể đồng cảm với ông.
o0o
Samuel muốn trở thành bác sĩ.
Chỉ có ba thầy thuốc được phép khám bệnh cho hàng ngàn người
sống chen chúc trong những căn nhà bẩn thỉu, thường xuyên bị
bệnh dịch quấy rầy của khu Do Thái, và trong ba người đó, người
phát đạt nhất là bác sĩ Zeno Wal. Ngôi nhà của ông đứng giữa
những kẻ láng giềng nghèo khổ không khác gì một toà lâu đài giữa
những căn lều lụp xụp. Nó có ba tầng, qua khung cửa sổ có thể
thấy những tấm ren trắng mới giặt và thấp thoáng những đồ đạc
sáng loáng. Samuel có thể hình dung ra ông bác sĩ ở bên trong
đang khám cho bệnh nhân, giúp đỡ họ, điều trị cho họ lành bệnh:
đang làm điều mà cậu mong muốn được làm. Chắc chắn, nếu một
người như bác sĩ Zeno quan tâm đến cậu, Samuel nghĩ, người đó có
thể giúp được cậu trở thành bác sĩ. Nhưng tới gần được bác sĩ
Wal thật khó không khác gì tới gần bất kỳ một người không phải
Do Thái nào sống ở Krakow, bên ngoài bức tường cấm.
Thỉnh thoảng Samuel cũng có dịp được liếc nhìn bác sĩ Zeno Wal
vĩ đại đi tản bộ dọc theo hè phố, say sưa nói chuyện với một
đồng nghiệp. Một ngày kia, khi Samuel đi ngang qua nhà bác sĩ,
cửa trước bỗng mở và ông bác sĩ bước ra cùng cô con gái. Cô ta
cũng cỡ tuổi cậu và là người xinh đẹp nhất mà cậu từng thấy.
Ngay lúc nhìn cô ta, Samuel đã biết người nầy sẽ là vợ cậu. Cậu
chưa biết mình sẽ giải quyết điều kỳ diệu đó như thế nào, chỉ
biết là mình phải vậy.
Mỗi ngày sau đó, Samuel lại tìm một lý do để đến gần nhà cô ta,
hy vọng sẽ thoáng thấy cô ta lần nữa.
Một buổi chiều khi Samuel có việc đi ngang nhà bác sĩ Wal, cậu
nghe thấy tiếng dương cầm vọng ra và cậu biết rằng chính cô ta
đang dạo đàn. Cậu phải gặp cô ta. Nhìn quanh để chắc chắn không
có ai, Samuel bước sang phía ngôi nhà. Tiếng nhạc vọng xuống từ
trên lầu, ngay phía trên đầu cậu. Samuel lùi lại và nhìn kỹ bức
tường. Có nhiều chỗ bám tay cho cậu trèo lên và cậu bắt đầu ngay
không do dự. Tầng hai cao hơn cậu tưởng và khi lên tới cửa sổ
thì cậu đã ở cách mặt đất hơn ba mét. Cậu nhìn xuống mặt đất và
thấy hơi chóng mặt. Tiếng nhạc đã to dần lên và cậu có cảm giác
cô ta đang đánh đàn cho cậu nghe.
Cậu bám vào một chỗ khác và đu người lên tới cửa sổ. Từ từ, cậu
ngẩng đầu lên cho đến lúc liếc mắt qua được ngưỡng cửa. Cậu thấy
mình đang nhìn vào một phòng khách được bày biện bởi những đồ
đạc tuyệt đẹp Cô gái ngồi chơi trước chiếc dương cầm mầu vàng -
trắng đang dạo nhạc và đằng sau cô ta là bác sĩ Wal ngồi đọc
sách trong chiếc ghế bành. Samuel không hề để mắt đến ông. Cậu
chỉ chăm chú vào hình ảnh đẹp đẽ đang ở cách cậu có mấy bước
chân. Cậu yêu cô ta! Cậu sẽ làm một điều gì đó thật đặc biệt và
can đảm để cô ta có thể yêu cậu. Cậu sẽ… Samuel quá tập trung
vào cơn mộng tưởng nên nắm tay lỏng ra và rơi vào khoảng không.
Cậu hét to một tiếng và thấy hai khuôn mặt hốt hoảng nhìn vào
mình trước khi cậu chạm đất.
Samuel tỉnh dậy trên bàn mổ trong phòng làm việc của bác sĩ Wal,
một căn phòng rộng rãi có nhiều tủ thuốc và một bộ dụng cụ giải
phẫu. Bác sĩ Wal đang giữ một miếng bông có mùi ghê tởm dưới mũi
cậu.
Samuel ngạt thở và ngồi dậy.
- Tốt hơn rồi, - Bác sĩ Wal nói. - Tôi định lấy bộ óc cậu ra cơ,
nhưng tôi không biết cậu có nó hay không? Cậu định ăn trộm cái
gì ở đây hả nhóc?
- Không gì cả, - Samuel bực bội trả lời.
- Tên cậu là gì?
- Samuel Roffe.
Những ngón tay của ông bác sĩ bắt đầu thăm dò cổ tay phải của
Samuel và cậu hét lên vì đau.
- Hừm. Cổ tay cậu đã gẫy, Samuel Roffe. Có thể chúng ta phải để
cho cảnh sát lo vụ nầy.
Samuel rên lớn. Cậu đang nghĩ xem chuyện gì sẽ xảy ra khi cảnh
sát mang cậu về nhà trong tình trạng nhục nhã thế nầy. Trái tim
của dì Rachel sẽ vỡ tung còn bố cậu sẽ giết chết cậu: Nhưng quan
trọng hơn, làm sao cậu còn hy vọng chinh phục được con gái của
bác sĩ Wal? Cậu là tên tội phạm, một người tay đã nhúng chàm.
Samuel chợt thấy cổ tay đau nhói lên một cái, và cậu ngước mắt
nhìn ông bác sĩ bằng ánh mắt đầy ngạc nhiên đau buồn.
- Tốt rồi, - Bác sĩ Wal nói. - Tôi đã xong. - ông đặt một thanh
nẹp vào cổ tay cậu rồi hỏi, - Cậu sống ở gần đây hả, Samuel
Roffe?
- Không ạ, thưa ông.
- Cậu thường lai vãng quanh đây phải không?
- Vâng, thưa ông?
- Tại sao?
- Tại sao? - Nếu Samuel nói ra sự thật, ông ta sẽ cười vào mũi
cậu.
- Cháu muốn trở thành bác sĩ, - Samuel thốt lên, không sao dằn
lòng được.
Bác sĩ Wal nhìn sững cậu với vẻ hoài nghi:
- Đó là lý do khiến cậu trèo lên tường nhà tôi như một tên trộm
sao?
Samuel kể hết tất cả. Cậu kể về người mẹ bị chết trên phố, về
ông bố, về chuyến đi đầu tiên đến Krakow và nỗi thất vọng về
việc đêm nào cũng bị nhốt trong khu Do Thái như những con vật.
Cậu kể về cảm giác của mình với con gái của bác sĩ. Cậu kể tất
cả mọi thứ và bác sĩ Wal lắng nghe trong im lặng. Câu chuyện có
vẻ lố bịch ngay cả đối với tai của Samuel và khi kết thúc, cậu
thì thầm:
- Cháu… cháu xin lỗi.
Bác sĩ Wal nhìn cậu một lúc lâu, rồi ông nói:
- Bác cũng xin lỗi. Cho cháu, cho bác, và cho tất cả chúng ta.
Mỗi người là một tù nhân và sự trớ trêu nhất của tất cả là phải
trở thành tù nhân của người khác.
Samuel ngỡ ngàng ngước nhìn ông.
- Cháu không hiểu, thưa bác sĩ.
Ông bác sĩ thở dài.
- Một ngày kia cháu sẽ hiểu.
Ông đứng dậy, đi về phía bàn làm việc, chọn một cái ống điếu, từ
từ nhét thuốc vào đầy nõ.
- Bác e rằng hôm nay là một ngày tồi tệ cho cháu, Samuel Roffe.
- Ông đặt que diêm lên nõ điếu, thổi tắt và quay lại phía cậu
bé. - Không phải vì cái cổ tay bị gãy của cháu. Nó sẽ lành lại.
Nhưng bác sắp phải gây cho cháu một vết đau mà chắc là sẽ không
liền nhanh như vậy.
Samuel nhìn ông, cặp mắt mở to. Bác sĩ Wal đến bên cạnh cậu và
khi ông nói giọng ông thật dịu dàng.
- Rất ít người có được một giấc mơ. Còn cháu có đến hai giấc mơ.
Và bác e rằng mình sắp phải phá vỡ cả hai giấc mơ của cháu.
- Cháu không… - Hãy nghe cho kỹ lời bác nói, Samuel. Cháu sẽ
không bao giờ trở thành bác sĩ, - không bao giờ trong cái thế
giới nầy. Chỉ có ba người bọn bác được phép hành nghề trong khu
Do Thái nầy. Ở đây có đến hàng tá bác sĩ giỏi đang chờ bọn bác
về hưu hoặc chết đi để có thể thế chỗ. Không có cơ hội nào dành
cho cháu cả. Không. Cháu đã sinh lầm thời rồi, lầm nơi rồi.
- Cháu có hiểu lời bác nói không, cậu bé?
Samuel nuốt nước bọt.
- Dạ hiểu.
Ông bác sĩ do dự rồi tiếp tục.
- Về giấc mơ thứ hai của cháu,… bác sĩ rằng giấc mơ nầy cũng
không thể được. Cháu không có cơ may nào để lấy được Terenia.
- Tại sao? - Samuel hỏi.
Bác sĩ Wal nhìn cậu.
- Tại sao? Vì cùng một lý do khiến cháu không thể trở thành bác
sĩ. Gia đình bác sống theo quy tắc, theo truyền thống. Con gái
của bác sĩ lấy một người cùng giai cấp với nó, một người có khả
năng giúp nó tiếp tục nếp sống mà nó đã từng được sống. Nó sẽ
lấy một chuyên gia, một luật sư, một bác sĩ hoặc một giáo sĩ.
Cháu… thôi, cháu phải quên nó đi.
- Nhưng… - Ông bác sĩ dẫn cậu ra cửa. - Cháu nhớ giữ gìn mấy
thanh nẹp đó trong vài ngày. Nhớ giữ chúng sạch sẽ.
- Vâng, thưa bác sĩ. - Samuel nói. - Cám ơn bác sĩ Wal.
Bác sĩ Wal ngắm nhìn cậu bé tóc vàng có vẻ thông minh trước mặt
mình.
- Chào cháu, Samuel.
Đầu giờ chiều ngày hôm sau, Samuel nhấn chuông cửa nhà bác sĩ
Wal. Ông lặng lẽ ngắm nghía cậu bé qua khung cửa sổ. Bác sĩ Wal
biết mình phải đuổi cậu bé đi.
- Cho cậu ấy vào, - bác sĩ Wal nói với người giúp việc.
Sau đó, cứ mỗi tuần Samuel lại đến nhà bác sĩ Wal đôi ba lần.
Cậu giúp bác sĩ làm các công việc vặt và bù lại ông bác sĩ để
cho cậu được quan sát khi ông điều trị bệnh nhân hoặc làm việc
trọng phòng thí nghiệm, phòng điều chế thuốc. Cậu bé quan sát,
nghiên cứu và ghi nhớ tất cả. Cậu quả là một tài năng thiên bẩm.
Càng ngày bác sĩ Wal càng cảm thấy mình có lỗi vì ông biết rằng
như thế là mình đang khích lệ Samuel, cổ vũ cậu trở thành con
người mà cậu không bao giờ có thể đạt tới, nhưng ông lại không
nhẫn tâm xua đuổi cậu.
Không hiểu là tình cờ hay cố ý mà Terenia rất hay ở quanh quẩn
bên Samuel mỗi khi cậu bé có mặt ở nhà cô. Thỉnh thoảng cậu lại
liếc nhìn cô đi qua phòng thí nghiệm hoặc ra khỏi nhà, và một
lần cậu đã đâm sầm vào cô ta trong bếp, tim cậu đập mạnh đến nỗi
cậu tưởng mình sắp xỉu đi. Cô ta nhìn cậu một lúc lâu, vẻ xét
đoán lộ rõ trong mắt, rồi cô ta lạnh nhạt gật đầu và bước đi. It
nhất thì cô ta cũng đã chú ý đến cậu! Đó là bước đầu tiên. Còn
lại chỉ còn là vấn đề thời gian. Samuel không còn nghi ngờ gì
nữa. Đây là số phận. Terenia đã trở thành phần chính trong giấc
mơ của cậu về tương lai. Trước kia cậu mơ ước cho bản thân mình
thì nay cậu mơ ước cho cả hai người. Bằng cách nào đó cậu sẽ đưa
cả hai người ra khỏi khu Do Thái khủng khiếp, cái nhà tù đông
đúc bẩn thỉu nầy. Và cậu sẽ trở thành một người thành đạt vĩ
đại. Nhưng bây giờ sự thành công của cậu không phải chỉ dành cho
mình cậu mà là dành cho cả hai người.
Cho dù việc đó là bất khả thi.
o0o
Elizabeth ngủ thiếp đi trong lúc đọc về cụ Samuel.
Sáng hôm sau khi thức giấc, nàng cẩn thận giấu Quyển sách đi và
bắt đầu thay quần áo đi học. Nàng không tài nào gạt được Samuel
ra khỏi tâm trí. Làm cách nào ông cưới được Terenia? Làm cách
nào trốn thoát khỏi khu Do Thái? Và làm sao để trở nên nổi
tiếng?
Elizabeth đã bị Quyển sách lôi cuốn hoàn toàn và nàng luôn cảm
thấy bực bội mỗi khi bi bắt buộc phải xa rời nó trở về với thế
kỷ 20.
Một trong những môn học bắt buộc của Elizabeth là ba-lê và nàng
cảm thấy ghê tởm nó. Nàng thường tự ấn mình vào trong chiếc váy
xoè mầu hồng, nhìn kỹ mình trong gương và cố tự bảo với bản thân
rằng thân hình của mình thật khêu gợi. Nhưng sự thật thì ở ngay
trước mặt. Nàng quá mập. Nàng sẽ không bao giờ trở thành một
diễn viên ba-lê.
Một thời gian ngắn sau lễ sinh nhật lần thứ mười bốn của
Elizabeth, bà Netturova, cô giáo ba-lê của nàng, thông báo rằng
hai tuần nữa lớp học sẽ tổ chức một buổi vũ hội theo thông lệ
hàng năm trong giảng đường và các học sinh phải mời bố mẹ đến.
Elizabeth rơi vào trạng thái phập phồng lo sợ. Chỉ cần nghĩ đến
cảnh phải bước lên sân khấu đứng trước khán giả thôi đã đủ làm
cho nàng kinh hoàng rồi. Nàng không thể làm được việc đó.
Một cô bé đang chạy qua đường trước mặt một chiếc xe hơi,
Elizabeth trông thấy cô ta, chạy nhanh ra và giật cô bé khỏi
nanh vuốt tử thần. Không may thay, thưa các quý bà quý ông, ngón
chân của Elizabeth Roffe bị xe bánh xe hơi cán lên, và cô sẽ
không thể tham gia buổi vũ hội tối nay.
Một người hầu gái đã sơ ý để bánh xà phòng trên đầu cầu thang.
Elizabeth bị trượt chân và ngã lăn xuống các bậc thang, vỡ xương
chậu. Bác sĩ cho biết không có gì đáng ngại. Vết thương sẽ lành
hẳn sau ba tuần.
Nhưng không may mắn như thế. Vào ngày biểu diễn Elizabeth
vẫn hoàn toàn khoẻ mạnh nhưng tâm trạng gần như hoá rồ.
Một lần nữa, lại là cụ Samuel ra tay giúp đỡ nàng. Nàng nhớ lại
cụ đã hoảng sợ thế nào nhưng cụ vẫn quay lại gặp gỡ bác sĩ Wal.
Nàng sẽ không làm điều gì để cho cụ Samuel phải mất mặt. Nàng sẽ
đương đầu với thử thách.
Elizabeth thậm chí đã không hề nhắc đến buổi biểu diễn với bố
nàng. Từ trước đến giờ nàng vẫn từng yêu cầu ông dự các buổi họp
hoặc các buổi liên hoan của nhà trường mà các bậc phụ huynh được
đề nghị tham gia, nhưng bao giờ ông cung tỏ ra quá bận rộn.
Tối hôm đó, khi Elizabeth chuẩn bị đến vũ hội, bố nàng chợt về
nhà. Ông đã vắng nhà suốt mười ngày nay.
Ông đi qua phòng ngủ của nàng, nhìn thấy nàng và nói:
- Chào con, Elizabeth. Con béo ra một chút thì phải.
Nàng đỏ mặt và cố thắt chặt co.
- Vâng, bố ạ.
Ông định nói gì, nhưng lại đổi ý.
- Việc học hành của con ra sao rồi?
- Vẫn tốt, cám ơn bố.
- Không có vấn đề gì chứ?
- Không, bố ạ.
- Tốt.
Đó là đoạn hội thoại mà họ đã lặp đi lặp lại trong mấy năm qua,
đoạn kinh cầu nguyện vô nghĩa mà dường như là hình thức giao
tiếp duy nhất giữa hai bố con.
Việc học hành của con ra sao rồi vẫn tốt, Cảm ơn bố, không
có vấn đề gì chứ không bố ạ, tốt.
Hai người xa lạ nói chuyện thời tiết người nọ lại không
lắng nghe hoặc quan tâm đến ý kiến của người kia. Thế đấy, chỉ
có một trong hai người quan tâm, Elizabeth nghĩ.
Nhưng lần nầy Sam Roffe vẫn đứng đó, ngắm nhìn con gái với vẻ
suy tư trên khuôn mặt. Ông đã quen giải quyết các vấn đề cụ thể
và mặc dù ông cảm thấy đây cũng là một vấn đề, nhưng ông không
biết nó là gì và nếu ai đó nói cho ông thì câu trả lời chắc sẽ
là "Đừng vớ vẩn. Tôi đã cho Elizabeth đủ mọi thứ".
Lúc bố nàng quay lưng rời đi, Elizabeth nghe thấy chính mình
nói:
- Lớp… lớp… ba-lê của con tổ chức một buổi biểu diễn. Bố không
muốn đến xem hay sao?
Và ngay cả khi nói xong mấy lời đó, trong lòng nàng vẫn tràn đầy
cảm giác sợ hãi. Nàng không muốn ông đến đó chứng kiến sự vụng
về của nàng. Tại sao nàng lại đề nghị ông? Nhưng nàng biết tại
sao. Bởi vì nàng là cô gái duy nhất trong lớp mà bố mẹ thường
xuyên vắng mặt tại giảng đường: Dù sao thì điều đó cũng không
quan trọng, nàng tự nhủ, vì ông sẽ nói "Không". Nàng lắc đầu, tự
giận mình và quay đi. Và đằng sau nàng, không thể tin nổi, nàng
nghe thấy giọng bố trả lời, "Bố muốn đến lắm".
o0o
Giảng đường chật ních các bậc phụ huynh, người thân và bạn bè,
chăm chú theo dõi các học sinh múa theo tiếng nhạc đệm từ hai
chiếc dương cầm lớn ở hai bên sân khấu. Bà Netturova đứng tránh
sang một bên, đếm nhịp rất to trong khi bọn trẻ múa, cố thu hút
sự chú ý của bố mẹ lũ trẻ.
Một số ít học sinh đặc biệt duyên dáng và tỏ ra thực sự có tài.
Còn những em khác thì diễn bằng cả lòng nhiệt tình thay thế cho
phần tài năng còn thiếu.
Chương trình thông báo ba đoạn nhạc trích Coppélia, Cinderella
và như thường lệ Hồ Thiên Nga. Đặc biệt sẽ có tiết mục múa đơn,
mà lúc đó mỗi em sẽ được hưởng một khoảnh khắc vinh quang, một
mình.
Đằng sau cánh gà, Elizabeth đang ngập chìm trong sự sợ hãi. Nàng
không ngừng liếc ra phía khán đài và mỗi khi nhìn thấy bố mình
ngồi ở chính giữa dãy thứ hai nàng lại nghĩ mình thật là dại dột
khi đề nghị bố đến đây. Trong suốt buổi trình diễn Elizabeth
không tài nào bắt kịp nhạc đệm và nàng luôn phải nấp sau các bạn
khác. Nhưng rồi thì đoạn độc diễn của nàng cũng đã đến. Nàng cảm
thấy mình phì nộn trong chiếc váy xoè như một đồ vật trong rạp
xiếc. Nàng chắc rằng tất cả mọi người sẽ cười ồ lên chế giễu khi
nàng đơn độc bước ra sân khấu - và nàng đã mời bố đến xem sự bẽ
bàng của mình. Điều an ủi duy nhất của Elizabeth là màn độc diễn
của nàng chỉ dài có một phút. Bà Netturova luôn tỉnh táo. Nó sẽ
kết thúc rất nhanh để không ai kịp bình phẩm nàng. Tất cả những
gì bố của Elizabeth phải làm là liếc qua trong một phút và tiết
mục của nàng sẽ kết thúc.
Elizabeth ngắm nhìn các cô gái khác trong lúc họ múa, từng người
một, đối với nàng thì họ chẳng khác gì Markova, Maximova,
Fontefin. Nàng bỗng giật mình vì một bàn tay giá lạnh nắm vào
cánh tay trần của mình, và bà Netturova rít lên.
- Nhón gót lên, Elizabeth, em là người tiếp theo.
Elizabeth cố nói "Vâng, thưa cô" nhưng cổ họng nàng khô khốc đến
độ không một lời nào được thốt ra. Hai chiếc dương cầm bắt đầu
dạo bản nhạc quen thuộc cho màn diễn của Elizabeth. Nàng đứng đó
như bị đóng băng, bất động và bà Netturova thì thầm "Ra ngoài
đi!", rồi Elizabeth cảm thấy lưng bị đẩy mạnh và nàng ở trên sân
khấu, gần như trần trụi, trước mắt hàng trăm cặp mắt xa lạ không
thiện cảm. Nàng không dám nhìn bố mình. Tất cả những gì nàng
muốn là mau mau chóng chóng thoát khỏi thử thách nầy và bỏ chạy
thật xa. Việc nàng phải làm thật dễ dàng, vài cái nhún gối, một
vài động tác múa và nhảy lên.
Nàng bắt đầu vào các bước đi, cố theo đúng nhạc, tự nghĩ mình
mảnh dẻ và mềm mại. Khi nàng kết thúc, có tiếng vỗ tay lịch sự
nhưng rời rạc vọng lên từ phía khán giả. Elizabeth nhìn xuống
hàng ghế thứ hai, và ở đó là bố nàng, đang mỉm cười tự hào và vỗ
tay - vỗ tay cho nàng và lòng nhiệt tình trong Elizabeth chợt
trỗi dậy. Nhạc đã ngừng. Nhưng Elizabeth vẫn tiếp tục múa, vẫn
nhún gối, vẫn bước qua bước lại, xoay người, như đang trong
trạng thái vô thức. Các nhạc công bối rối bắt đầu chơi tiếp, đầu
tiên là một chiếc dương cầm, rồi chiếc kia, cố gắng bắt theo
nhịp bước của nàng. Đằng sau sân khấu, bà Netturova ra dấu cho
Elizabeth một cách cuồng loạn, gương mặt tràn đầy sự tức giận.
Nhưng Elizabeth đã không nhận biết được gì hết vì quá sung
sướng, cứ tự mình nhảy múa. Điều duy nhất đáng kể với nàng là
nàng đang ở trên sân khấu, múa cho bố nàng xem.
- Tôi chắc rằng ông hiểu, ông Roffe, rằng ngôi trường nầy không
thể nào tha thứ cho kiểu thái độ đó. - Giọng bà Netturova rung
lên vì giận dữ. - Con gái của ông đã không thèm để ý đến ai khác
và hành động như… như thể cô ta là một thứ ngôi sao vậy.
Elizabeth có thể cảm thấy bố quay sang nhìn mình và nàng sợ phải
thấy ánh mắt của ông. Nàng biết rằng điều nàng vừa làm là không
thể tha thứ nhưng nàng đã không tài nào kiềm chế được bản thân.
Trong một khoảng thời gian ngắn trên sân khấu nàng đã cố tạo ra
một cái gì đó thật đẹp cho bố nàng, cố gây ấn tượng với ông, làm
ông quan tâm đến nàng, tự hào vì nàng. Và yêu thương nàng.
Còn bây giờ thì nàng nghe thấy ông nói:
- Cô Netturova, cô hoàn toàn đúng. Tôi sẽ xem xét để trừng phạt
Elizabeth một cách đích đáng.
Bà Netturova ném cho Elizabeth một cái nhìn đắc thắng và nói:
- Cám ơn ông, ông Roffe. Tôi xin giao việc nầy cho ông.
Elizabeth và bố đứng ngoài trường học. Ông không hề nói nửa lời
từ lúc rời khỏi văn phòng của bà Netturova. Elizabeth cố gắng
sáng tác ra một lời xin lỗi - nhưng nàng có thể nói gì đây? Làm
sao nàng có thể giải thích cho ông hiểu tại sao nàng lại làm cái
điều mà nàng vừa làm? Ông là một người xa lạ và nàng sợ ông.
Nàng đã được nghe chuyện ông trút những cơn giận khủng khiếp lên
đầu những người khác vì lỗi lầm của họ hoặc vì họ không nghe lời
ông. Bây giờ nàng đứng đây chờ đợi sự tức giận tột cùng của ông
đổ xuống đầu.
Ông quay sang nàng và nói:
- Elizabeth, tại sao chúng ta không tới Rumpelmayers uống một
cốc sôcôla sôđa nhỉ?
Và Elizabeth oà lên khóc.
Đêm đó Elizabeth nằm trên giường thao thức, không ngủ được vì
quá kích thích. Nàng ôn lại sự việc xảy ra lúc tối. Và nàng gần
như không chịu được sự kích động mà nó gây ra cho mình. Bởi vì
đây không phải là mộng mơ giả tạo. Nó đã xảy ra, nó có thật.
Nàng có thể thấy mình và bố ngồi trong quán Rumpelmagers, xung
quanh là lũ gấu, voi, sư tử, ngựa vằn nhồi bông lớn vàng sặc sỡ.
Elizabeth gọi một cốc kem chuối và khi nó được mang tới thì nàng
mới thấy là nó thật sự vĩ đại nhưng bố nàng không hề phê bình
gì. Ông đang nói chuyện với nàng. Không phải là việc học hành
của con ra sao rồi vẫn tốt, Cảm ơn bố, không có vấn đề gì chứ
không bố ạ, tốt.. Mà là nói chuyện thực sự.
Ông kể cho nàng nghe về chuyến đi gần đây đến Tokyo và người chủ
tiệc đã đặc biệt mời ông món sôcôla đầy châu chấu và kiến ra sao
và ông đã phải ăn hết để khỏi làm ông ta mất mặt như thế nào.
Khi Elizabeth đã xử lý xong thìa kem cuối cùng, bố nàng bỗng
nói:
- Cái gì đã khiến con làm như vậy, Liz?
Nàng biết mọi việc giờ đây đang sắp sửa hỏng hết, rằng bố nàng
chuẩn bị trách mắng nàng, nói với nàng ông thất vọng về nàng
biết bao nhiêu.
Nàng trả lời:
- Con muốn giỏi hơn bất cứ người nào. - Nàng không thể kìm được
lời nói thêm, - Cho bố thấy.
Ông nhìn nàng, dường như là lâu lắm, rồi phá lên cười:
- Chắc chắn là con đã làm cho đến cả quỷ thần cũng phải ngạc
nhiên. - Có chút gì kiêu hãnh lộ ra trong giọng nói của ông.
Elizabeth cảm thấy máu dồn lên má và nàng nói:
- Bố không giận con sao?
Cặp mắt ông ánh lên một vẻ lạ kỳ mà nàng chưa bao giờ được thấy.
- Vì con muốn trở thành người giỏi nhất hay sao? Tất cả người
của dòng họ Roffe đều như vậy.
Nhưng ý nghĩ cuối cùng của Elizabeth trước khi nàng chìm vào
giấc ngủ là: Bố mình thích, ông thật sự thích mình. Từ giờ trở
đi, hai bố con sẽ luôn được ở bên nhau. Ông sẽ đưa mình đi theo
ông. Hai người sẽ nói với nhau nhiều chuyện và sẽ trở thành đôi
bạn thân thiết.
o0o
Buổi chiều hôm sau, thư ký của bố nàng thông báo cho nàng biết
mọi việc đã được lo liệu để gửi Elizabeth sang học ở một trường
nội trú tận đất nước Thuỵ Sĩ xa xôi.
Chương 10
Elizabeth được đăng ký vào
học ở International Château Lemand, trường dành riêng cho nữ ở
làng Sainte - Blaise, nhìn ra hồ Neuchâtel.
Tuổi của các cô gái học trong trường là từ mười bốn đến mười
tám. Đây là một trong những trường tốt nhất trong hệ thống giáo
dục tuyệt vời ở Thuỵ Sĩ.
Elizabeth căm ghét mọi giây phút ở đó.
Nàng có cảm giác mình bị đi đày. Nàng bị đưa đi xa nhà, nó giống
như sự trừng phạt về một tội lỗi mà nàng không hề phạm phải. Vào
buổi tối kỳ diệu duy nhất đó nàng đã cảm thấy mình sắp đạt được
điều tuyệt diệu, khám phá được bố nàng, và bố nàng khám phá được
nàng, và họ đang trở nên thân thiết.
Nhưng giờ đây nàng đã cách xa bố hơn bao giờ hết.
Elizabeth vẫn có thể theo dõi các hoạt động của bố nàng qua các
tờ báo hàng ngày và tạp chí. Trên đó thường xuyên có những bài
viết và ảnh về cuộc gặp gỡ của ông với thủ tướng hoặc tổng
thống, khánh thành một nhà máy dược phẩm mới ở Bombay, về cuộc
leo núi, ăn tối với giáo chủ Iran. Elizabeth dán tất cả những
tin tức đó vào một quyển vở và nàng thường xuyên giở ra ngắm
nghía. Nàng giấu nó bên cạnh Quyển sách về cụ Samuel.
Elizabeth luôn tìm cách xa rời các sinh viên khác.
Một vài cô gái ở chung phòng với hai hoặc ba cô khác nhưng
Elizabeth đã yêu cầu được ở một mình một phòng. Nàng viết cho bố
nhiều bức thư dài rồi xé nát những bức nào bộc lộ tình cảm của
mình. Đôi khi nàng cũng nhận được những bức thư ngắn của bố và
vào ngày sinh nhật là nhiều món quà bọc giấy hoa mua ở các cửa
hàng sang trọng, được người thư ký đích thân đưa đến. Elizabeth
thấy nhớ bố kinh khủng.
Nàng sắp được gặp ông tại biệt thự ở Sardinia vào lễ Noel, và
trong lúc thời gian ngày càng đến gần thì sự chờ đợi thật là
không thể chịu đựng nổi. Nàng phát ốm vì kích động. Nàng lập ra
một danh sách những việc quyết tâm làm và cẩn thận viết chúng
ra:
- Không gây phiền phúc
- Tỏ ra quan tâm
- Không phàn nàn về bất cứ chuyện gì, đặc biệt là chuyện ở
trường.
- Không cho bố biết là mình đang cô đơn.
- Không ngắt lời khi bố đang nói.
- Ăn mặc chỉnh tề vào bất kỳ lúc nào, kể cả bữa sáng.
- Cười thật nhiều để cho ông biết mình đang hạnh phúc thế nào.
Những lời ghi chú như cuốn kinh cầu nguyện, lời cầu xin của
nàng với các vị thần. Nếu nàng thực hiện tất cả những điều nầy,
có thể… có thể… những quyết tâm của Elizabeth sẽ trở thành kỳ
cục. Nàng đã điều tra nghiên cứu về thế giới thứ ba và mười chín
nước đang phát triển, và bố nàng sẽ nói, "Bố không ngờ là con
lại quan tâm đến vậy. (điều số hai). "Con là cô gái xuất sắc,
Elizabeth". Sau đó ông sẽ quay sang người thư ký và nói: "Tôi
không nghĩ rằng Elizabeth cần trở lại trường. Tại sao tôi không
giữ nó ở đây với tôi?
Một lời cầu nguyện.
o0o
Một chiếc Learjet của tập đoàn đón Elizabeth ở Zurich và đưa
nàng đến sân bay ở Olbia, nơi có một chiếc limousine đã chờ sẵn.
Elizabeth ngồi vào băng sau của xe, im lặng, ép chặt hai đầu gối
vào nhau để cho đỡ run. Dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, nàng
quả quyết nghĩ, không được để cho ông thấy mình khóc ông phải
không được biết mình nhớ ông thế nào.
Chiếc xe lướt qua xa lộ dài và quanh co dẫn đến bờ biển Smeralda
rồi rẽ vào con đường nhỏ chạy vòng quanh lên đỉnh đồi. Con đường
nầy luôn làm Elizabeth sợ hãi. Đây là đoạn đường hẹp và dốc, bên
nầy là núi cao và bên kia là vực sâu muôn trượng.
Chiếc xe dừng lại ở trước nhà, và Elizabeth bước ra khỏi xe, đi
về phía ngôi nhà, và rồi nàng chạy, chạy với hết sức lực của
mình. Cửa trước mở ra và Margherita, bà quản gia người Sardinia
đứng đó, mỉm cười:
- Chào cô Elizabeth.
- Bố tôi đâu? - Nàng hỏi.
- Ông chủ có việc gấp phải đi Úc. Nhưng ông ấy đã để lại rất
nhiều món quà xinh đẹp cho cô.
Một mùa Noel dễ thương lại sắp đến rồi.
Chương 11
Elizabeth đã cầm Quyển
sách theo. Nàng đứng trong phòng lớn của toà biệt thự ngắm
nhìn chân dung của Samuel Roffe, và bên cạnh, Terenia, cảm thấy
sự có mặt của họ, như thể họ đã sống lại. Một lúc lâu sau, nàng
quay lại và đi lên căn phòng áp mái, lấy Quyển sách.
Mỗi ngày nàng bỏ ra nhiều giờ ở trong căn phòng đó, đọc đi đọc
lại, mỗi lần đọc lại có cảm giác gần gũi hơn với Samuel và
Terenia, và thời gian một trăm năm ngăn cách họ cũng đang dần
biến mất…
o0o
Suốt vài năm sau đó, Elizabeth đọc, Samuel đã ở lại hàng giờ
trong phòng thí nghiệm của bác sĩ Wal, giúp đỡ ông pha chế thuốc
mỡ và thuốc uống, nghiên cứu các tác động của chúng. Và đằng sau
luôn là Terenia xinh đẹp, quyến rũ. Chỉ cần thoáng bóng của
Terenia cũng đủ giữ giấc mơ một ngày nào đó nàng sẽ thuộc về anh
sống mãi. Samuel và bác sĩ Wal rất hợp nhau nhưng với mẹ của
Terenia thì không. Bà là một phụ nữ miệng lưỡi độc địa, hay gây
gổ, hợm mình và bà ghét Samuel. Và anh cố tránh xa bà.
Samuel bị mê hoặc bởi nhiều loại thuốc có thể chữa khỏi bệnh cho
con người.
Một quyển sách giấy cói được tìm thấy, trong đó liệt kê 811 toa
thuốc được người Ai Cập sử dụng vào năm 1550 trước công nguyên.
Tuổi thọ trung bình vào thời đó là mười lăm và Samuel có thể
hiểu được khi anh đọc một vài toa: Phân cá sấu, thịt thằn lằn,
máu dơi, nước dãi lạc đà, gan sư tử, chân ếch, bột kỳ lân. Dấu
hiệu Rx trên mỗi toa thuốc là lời cầu nguyện xa xưa cho thần
Horace, vị thần chữa bệnh của người Ai Cập Thậm chí từ
"chemistry"(1) cũng xuất phát từ tên cổ của nước Ai Cập, vùng
đất của Kahmi hay Chemi. Những tu sĩ - thầy thuốc được gọi là
các thầy tư tế, điều mà Samuel mới được biết.
Các nhà thuốc trong khu Do Thái và thành phố Krakow đều rất thô
sơ. Đa số các chai lọ được đổ đầy các dược phẩm chưa qua thử
nghiệm, một số thì vô dụng còn một số thậm chí có hại. Samuel
trở nên quen thuộc với tất cả những thứ đó. Có dầu thầu dầu,
caloment, đại hoàng, iôt, codeine, ipecac. Bạn có thể mua thuốc
bách bệnh để chữa ho gà, đau bụng, sất thương hàn.
Bởi vì không có biện pháp phòng ngừa vệ sinh nào được thực hiện
nên trong thuốc mỡ và thuốc súc họng đầy những xác sâu bọ, gián,
phân chuột và lông thú. Phần đông các bệnh nhân uống thuốc đã
chết vì bệnh hoặc vì thuốc.
Có vài tờ tạp chí thường đăng các tin tức về dược phẩm và Samuel
đọc hết tất cả. Anh thảo luận ý kiến của mình với bác sĩ Wal.
- Hợp lẽ là, - Samuel nói, giọng rung lên vì tin tưởng, - phải
có cách điều trị cho tất cả các loại bệnh tật. Sức khoẻ là tự
nhiên và bệnh tật là phi tự nhiên.
- Có thể, - bác sĩ Wal trả lời, - nhưng đa số các bệnh nhân của
bác thậm chí còn không chịu cho bác thử các loại thuốc mới với
họ. - ông lạnh nhạt nói thêm, - Và bác nghĩ rằng họ rất là khôn.
Samuel đọc ngấu nghiến tủ sách về dược phẩm nghèo nàn của bác sĩ
Wal. Và khi anh đã đọc đi đọc lại những quyển sách đó, Samuel
lại thấy thất vọng bởi quá nhiều những vấn đề chưa được làm sáng
tỏ trong đó.
Samuel bị thôi thúc bởi cuộc cách mạng đang diễn ra. Một số nhà
khoa học tin rằng có thể chống lại nguyên nhân gây bệnh bằng
cách tạo nên sức đề kháng nhằm tiêu diệt cơn bệnh. Bác sĩ Wal
cũng đã thử qua một lần. Ông lấy máu của một bệnh nhân bị bệnh
bạch hầu và tiêm vào một con ngựa. Khi con ngựa chết, bác sĩ Wal
đã bỏ cuộc thí nghiệm. Nhưng chàng trai Samuel lại tin chắc rằng
bác sĩ Wal đã đi đúng đường.
- Bác không nên ngừng lúc nầy, - Samuel nói. - Cháu biết việc
nầy sẽ có kết quả.
Bác sĩ Wal lắc đầu.
- Đó là vì cháu mới mười bảy tuổi, Samuel. Khi nào cháu bằng
tuổi bác bây giờ, cháu sẽ không còn chắc chắn một điều gì nữa.
Quên nó đi.
Nhưng Samuel không bị thuyết phục dễ dàng như thế. Anh muốn tiếp
tục thí nghiệm của bác sĩ Wal, vì vậy mà Samuel phải cần nhiều
thú vật, nhưng anh không biết kiếm ở đâu ra ngoại trừ lũ mèo
hoang và chuột anh có thể bắt được. Dù liều lượng có nhỏ đến đâu
thì sau khi bị Samuel tiêm, chúng đều chết. Chúng quá nhỏ,
Samuel nghĩ. Mình cần một con vật lớn hơn. Một con ngựa, hoặc
bò, hoặc cừu. Nhưng phải đi đâu mới tìm được đây.
Một buổi chiều muộn khi Samuel về đến nhà, anh thấy một con ngựa
già và một chiếc xe hai bánh đứng trước cổng. Một bên chiếc xe
là dòng chữ "Roffe và con trai" được viết một cách sơ sài.
Samuel như không tin vào mắt mình, chạy vào nhà tìm bố.
- Con… con ngựa ngoài đó, - anh nói, - Bố lấy nó ở đâu?
Bố anh mỉm cười kiêu hãnh.
- Bố mới mua. Chúng ta có thể đi nhiều nơi hơn với con ngựa nầy.
Có thể trong bốn, năm năm nữa chúng ta sẽ mua được một con nữa.
Con cứ suy nghĩ đi. Chúng ta sẽ có hai con ngựa.
Đó là phạm vi tham vọng của bố anh, làm chủ hai con ngựa ốm kéo
xe qua những con đường đông đúc, bụi bặm của khu Do Thái ở
Krakow. Điều nầy làm Samuel muốn khóc.
Đêm ấy, khi mọi người đã ngủ say, Samuel đi ra ngoài chuồng ngựa
và kiểm tra con ngựa mà họ gọi là Ferd. Không cần hỏi cũng thấy
ngay con ngựa thuộc loại gầy yếu nhất. Nó là một con ngựa già,
lưng võng khớp sưng. Không hiểu nó có thể đi nhanh hơn bố của
Samuel hay không. Nhưng tất thảy những chuyện đó không quan
trọng. Điều quan trọng là Samuel đã có trong tay một vật thí
nghiệm ưng ý. Anh không cần phải vừa làm thí nghiệm vừa lo nghĩ
chuyện bắt chuột và mèo hoang nữa. Dĩ nhiên là anh sẽ phải hết
sức cẩn thận. Bố anh sẽ không bao giờ biết được con trai mình
đang làm cái gì. Samuel ve vuốt cái đầu con ngựa già:
- Mày sắp bước vào ngành kinh đoanh dược phẩm rồi đấy. - Anh
thông báo cho nó.
Samuel tạo ngay cho mình một phòng thí nghiệm riêng, ở ngay
trong góc chuồng ngựa nơi con Ferd bị nhốt.
Anh nuôi vi khuẩn bạch cầu trong một cái đĩa đựng đầy nước thịt
luộc. Khi nước trở nên đục, anh san một ít qua một cái đĩa khác
rồi làm cho nó yếu đi bằng cách pha thêm nước và đun nóng lên
một chút.
Anh rút đầy một ống tiêm và đến gần Ferd.
- Mày nhớ những gì tao nói đấy chứ? - Samuel thì thầm. - Tốt,
hôm nay là ngày đặc biệt với mày đấy!- Samuel bơm tất cả nước
trong ống tiêm vào chỗ thịt mềm trên vai con ngựa như cách mà
anh từng thấy bác sĩ Wal làm. Ferd quay lại nhìn anh trách móc
và nó tưới nước tiểu đẫm người anh.
Samuel ước lượng rằng cũng phải 72 giờ sau vi khuẩn mới phát
triển trong cơ thể Ferd. Vào cuối thời gian đó Samuel sẽ tiêm
thêm vào nó một liều lượng lớn hơn. Rồi lại một lần nữa. Nếu lý
thuyết về kháng thể đúng, mỗi lầm tiêm sẽ tạo cho máu một sức đề
kháng mạnh hơn với cơn bệnh. Samuel sẽ thu được vaccine. Sau
nầy, anh sẽ phải tìm một người để thử, dĩ nhiên, và chuyện nầy
sẽ khó khăn lắm. Một nạn nhân của căn bệnh chết người sẽ vui
lòng thử loại thuốc có thể cứu sống mình.
Hai ngày đó Samuel luôn ở bên cạnh Ferd khi nó thức dậy.
- Bố chưa thấy ai lại yêu thương một con vật nhiều như vậy, - bố
anh nói. - Con không thể xa nó được hay sao?
Samuel lẩm bẩm một câu trả lời không thể nghe rõ. Anh có cảm
giác tội lỗi về việc mình đang làm, nhưng anh biết chuyện gì sẽ
xảy ra nếu anh đề cập nó với bố. Tuy nhiên bố anh không cần phải
biết chuyện gì. Tất cả việc Samuel phải làm là trích từ Ferd một
lượng máu đủ để làm một hoặc hai lọ nhỏ huyết thanh và anh sẽ là
người tài giỏi hơn tất cả.
Sáng ngày thứ ba và cũng là ngày quyết định, Samuel bị đánh thức
bởi tiếng la hét của bố anh ở phía trước căn nhà. Samuel vội
vàng ra khỏi giường, chạy đến cửa sổ và nhìn ra ngoài. Bố anh
đang đứng với chiếc xe, gào thét điên dại. Không thấy con Ferd
đâu cả.
Samuel mặc quần áo và chạy vội ra ngoài.
- Mẹ kiếp! - Bố anh gầm lên. - Đồ lừa đảo? Đồ dối trá! Quân ăn
cướp.
Samuel lách qua đám đông đang bắt đầu tụ tập trước cửa nhà anh.
- Ferd đâu rồi? - Samuel hỏi.
- Bố rất vui vì con đã hỏi. - Bố anh rên rỉ. - Nó chết rồi. Nó
chết gục ngoài phố như một con chó.
Tim Samuel nhói lên.
- Bố và nó đang đi như thường lệ. Bố đi bán hàng, không thúc
giục nó, con biết mà, không đánh nó, không hành hạ nó như vài
người bán rong khác mà bố biết rõ họ tên. Và nó đã tỏ đúng giá
trị như thế nào? Nó lăn quay ra chết. Khi nào bố tóm được thằng
ăn cắp đã bán nó cho bố, bố sẽ giết chết hắn.
Samuel quay đi, ngực như thắt lại. Khủng khiếp hơn cả việc Ferd
chết. Giấc mơ của Samuel cũng đã chết. Cùng với đó là việc ra
khỏi khu Do Thái, tự do, căn nhà xinh đẹp cho Terenia và các con
của họ, tất cả đã trở thành mây khói.
Nhưng một tai hoạ lớn hơn lại đổ ập xuống.
Một ngày sau cái chết của Ferd, Samuel được biết bác sĩ Wal và
vợ đã thu xếp gả Terenia cho một giáo sĩ Do Thái.
Samuel không thể tin được chuyện đó. Terenia phải thuộc về anh?
Samuel chạy đến nhà bác sĩ Wal. Anh tìm thấy hai vợ chồng ông
trong phòng khách. Anh đi về phía họ, hít một hơi thở sâu và
thông báo:
- Có một sự nhầm lẫn, sự nhầm lẫn của Terenia, Terenia định lấy
cháu kia mà.
Họ nhìn sững anh, kinh ngạc.
- Cháu biết là cháu không xứng với cô ấy, - Samuel vội nói tiếp,
- nhưng cô ấy sẽ không có hạnh phúc nếu lấy bất cứ một ai khác.
Vị giáo sĩ đó quá già…
- Dơ dáng! Cút! Cút! - Mẹ Terenia hét lớn.
Một phút sau, Samuel thấy mình đứng ngoài phố, bị cấm bước vào
nhà bác sĩ Wal mãi mãi.
o0o
Vào nửa đêm, Samuel đã nói chuyện rất lâu với đức Chúa.
- Người muốn gì ở con? Nếu con không có được Terenia tại sao
Người lại bắt con yêu nàng? Người có cảm giác gì không? - Anh
cất cao giọng đầy tuyệt vọng và gào lên, - Người có nghe thấy
con nói gì không? Và tất cả mọi người trong ngôi nhà nhỏ đông
đúc gào lên trả lời cậu, "Tất cả chúng tôi đều nghe thấy,
Samuel. Vì Chúa, hãy im đi và cho chúng tôi được ngủ yên".
Buổi chiều hôm sau bác sĩ Wal cho người đến tìm Samuel. Anh được
dẫn vào phòng khách, nơi ông bà Wal và cả Terenia đang chờ.
- Hình như là chúng ta đã gặp vấn đề, - Bác sĩ Wal bắt đầu. -
Con gái chúng tôi quả thật là rất bướng bỉnh. Vì một lý do nào
đó nó lại có cảm tình với cháu. Bác không thể gọi đó là tình yêu
được, Samuel, bởi vì bác không tin là các cô gái trẻ hiểu được
tình yêu là gì. Tuy nhiên, nó đã không chịu lấy giáo sĩ
Rabinowitz. Nó nghĩ rằng nó muốn lấy cháu.
Samuel lén liếc Terenia và thấy cô mỉm cười với mình, anh gần
như phát điên lên vì sung sướng.
Bác sĩ Wal tiếp tục:
- Cháu bảo cháu yêu con gái bác?
- Vâ… vâng, thưa bác, - Samuel lắp bắp. Anh cố lặp lại với giọng
nói mạnh mẽ hơn, - Vâng, thưa bác.
- Thế thì để bác hỏi cháu vài điều, Samuel. Cháu có muốn để
Terenia sống hết phần đời còn lại để làm vợ một gã bán rong
không?
Samuel thấy ngay cạm bẫy, nhưng đã không có cách nào thoát khỏi.
Anh nhìn Terenia lần nữa và chậm rãi trả lời:
- Không, thưa bác.
- À vậy là cháu đã nhìn thấy vấn đề rồi. Không một ai trong
chúng ta muốn Terenia lấy một gã bán rong cả. Và cháu là một gã
bán rong, Samuel.
- Cháu sẽ không mãi như thế, thưa bác sĩ Wal. - Giọng Samuel trở
nên mạnh mẽ và quả quyết.
- Vậy cậu sẽ làm gì? - Bà Wal gằn giọng. - Cậu xuất thân từ một
nhà bán rong và cậu sẽ vẫn ở trong gia đình bán hàng rong đó.
Tôi không cho phép con gái tôi lấy một người như thế.
Samuel nhìn cả ba người, lòng tràn ngập bối rối. Anh đã đến đây
trong tâm trạng hỗn loạn và tuyệt vọng, rồi bay bổng lên tột
đỉnh hạnh phúc, và bây giờ lại chìm xuống tận đáy đau khổ. Họ
muốn gì ở anh?
- Chúng tôi có một sự nhượng bộ, - bác sĩ Wal nói.
- Chúng tôi sẽ cho cháu sáu tháng để chứng tỏ rằng cháu không
phải chỉ là một gã bán rong. Nếu hết thời hạn mà cháu không thể
mang lại cho Terenia cuộc sống mà nó quen thuộc, thì nó sẽ phải
lấy giáo sĩ Rabinowitz.
Samuel nhìn ông chằm chằm, kinh ngạc:
- Sáu tháng!
Không ai có thể thành đạt trong vòng sáu tháng. Chắc chắn không
một ai trong số những người sống trong khu Do Thái có thể làm
được điều đó.
- Cháu có hiểu không? - Bác sĩ Wal hỏi.
- Dạ có, thưa bác. - Samuel quá hiểu vấn đề. Anh có cảm giác
trong bụng anh chứa đấy những chì. Anh không cần giải pháp, anh
cần phép màu. Gia đình nhà Wal chỉ bằng lòng với một người con
rể là bác sĩ hoặc giáo sĩ hoặc một người giàu có. Samuel nhận
định nhanh từng khả năng:
Pháp luật không cho phép anh trở thành bác sĩ.
Còn giáo sĩ? Một giáo sĩ phải bắt đầu nghiên cứu về Do Thái giáo
từ năm mười ba tuổi, còn năm nay Samuel đã mười tám.
Giàu có ư? Đây là chuyện không cần nói tới. Nếu anh đi bán hàng
rong ngoài phố hai mươi bốn giờ mỗi ngày cho đến năm chín mươi
tuổi thì anh vẫn là một kẻ nghèo khó. Ông bà Wal đã giao cho anh
một nhiệm vụ bất khả thi. Họ tỏ vẻ nhượng bộ Terenia bằng cách
cho cô hoãn lễ thành hôn với tay giáo sĩ, nhưng lại giao cho
Samuel những điều kiện mà họ biết chắc rằng anh sẽ không tài nào
làm nổi. Terenia là người duy nhất tin tưởng vào anh. Cô có niềm
tin rằng anh sẽ tìm ra một cách nào đó để trở nên nổi tiếng hoặc
giàu có trong vòng sáu tháng. Cô ấy còn điên hơn cả mình, Samuel
tuyệt vọng nghĩ.
o0o
Kỳ hạn sáu tháng bắt đầu và thời gian trôi qua thật nhanh. Ban
ngày Samuel đi phụ bố bán hàng rong. Nhưng khi bóng tối bắt đầu
liếm dần vào những bức tường của khu Do Thái, Samuel lại vội vã
trở về nhà, ăn vội bữa tối và chui vào phòng thí nghiệm của
riêng anh. Anh đã điều chế ra hàng trăm mẻ huyết thanh và tiêm
cho thỏ, mèo, chó, chim, và tất cả bọn chúng đều chết. Chúng quá
bé, Samuel cay đắng nghĩ.
Mình cần một con vật lớn hơn.
Nhưng anh không có con vật nào và thời gian thì cứ vùn vụt trôi
qua. Cứ hai lần một tuần Samuel phải vào thành phố Krakow mua
thêm những thứ hàng hoá mà bố con anh vẫn bán. Anh thường đứng
bên trong cánh cổng bị khoá vào lúc bình minh, xung quanh là
những người bán hàng rong khác, nhưng anh không nhìn thấy hoặc
nghe thấy họ. Đầu óc anh đang ở một thế giới khác.
Một buổi sáng, khi Samuel đang đứng yên, mơ mộng như vậy thì một
giọng nói quát lên:
- Mầy! Thằng Do Thái kia! Đi nhanh lên!
Samuel nhìn lên. Hai cánh cổng đã mở và chiếc xe kéo của anh
đang làm nghẽn đường đi. Một trong hai người gác cổng đang giận
dữ ra hiệu cho Samuel bước tới. Lúc nào cũng có hai người lính
gác túc trực trước cổng. Họ mặc đồng phục màu xanh, mang phù
hiệu đặc biệt, được trang bị súng lục và dùi cui. Trên sợi xích
quấn quanh lưng một người gác cổng là chiếc chìa khoá lớn để mở
và khoá cổng. Dọc theo khu Do Thái là một con sông nhỏ cùng cây
cầu gỗ đã cũ bắc qua. Bên kia cầu là đồn cảnh sát, nơi đóng quân
của đội lính gác khu Do Thái. Samuel đã từng chứng kiến nhiều
người Do Thái bất hạnh bị kéo lê qua cầu. Chỉ có đi mà không có
về. Người Do Thái phải trở về bên trong khu Do Thái vào lúc
hoàng hôn và bất cứ người Do Thái nào bị bắt bên ngoài cổng sau
khi trời tối sẽ bị đưa đến một trại lao động. Đó quả là cơn ác
mộng cho bất kỳ người Do Thái nào bị bắt ở ngoài khu Do Thái vào
buổi tối hoặc ban đêm.
Cả hai người lính đều có trách nhiệm tuần tra trước cổng khu Do
Thái suốt đêm, nhưng hầu như trong khu Do Thái biết rằng sau khi
hai cánh cổng được khoá, một trong hai người lính sẽ bỏ vào
thành phố chơi bời. Và anh ta sẽ chỉ về trước lúc bình minh để
giúp đồng sự của mình mở cổng cho một ngày mới.
Hai người lính thưòng làm nhiệm vụ ở đó tên là Paul và Aram.
Paul là người dễ dãi, tính tình xởi lời. Còn Aram thì hoàn toàn
ngược lại. Anh ta trông như một con thú, da ngăm đen, khổ người
to bè, đôi tay mạnh khoẻ, và thân thể thì không khác gì một
thùng bia. Anh ta rất khoái các trò hành hạ người Do Thái, và
mỗi khi đến phiên trực của anh ta thì tất cả những người Do Thái
bên ngoài cổng đều chắc mình phải về sớm, bởi vì không có gì làm
Aram kích thích hơn là nhốt một người Do Thái ở bên ngoài cổng,
nện cho người đó nhừ tử và kéo lê kẻ phạm tội qua cầu tới đồn
cảnh sát.
Lúc nầy, chính là Aram đang quát lên bảo Samuel đẩy xe đi tới.
Anh vội vã đi ra khỏi cổng hướng về phía thành phố, cảm thấy ánh
mắt của Aram chọc vào lưng mình.
Kỳ hạn sáu tháng của Samuel nhanh chóng rút xuống thành năm
tháng, rồi bốn tháng, ba tháng. Không một ngày nào, một giờ nào
mà Samuel không nghĩ đến một giải pháp cho vấn đề của anh, hoặc
làm việc mê mải trong phòng thí nghiệm tí hon của mình. Anh cố
trình bày với một số thương nhân giàu có trong khu Do Thái,
nhưng ít có người nào chịu dành thời gian cho anh, và những
người có thời gian lại đưa ra những lời khuyên vô bổ.
Anh muốn kiếm tiền à? Hãy để dành từng đồng xu nhỏ cậu bé, và
một ngày nào đấy cậu sẽ có đủ tiền để mua cả một cơ sở kinh
doanh tốt như của tôi đây.
Đối với họ, thật là quá dễ để nói thế. Đa số bọn họ được sinh ra
trong những gia đình giàu có.
Samuel nghĩ đến chuyện bỏ trốn cùng Terenia.
Nhưng đi đâu? Cuối cuộc hành trình vẫn là một khu Do Thái khác
và anh vẫn là một gã bán hàng rong nghèo khổ. Không, anh quá yêu
Terenia nên không thể đối xử như vậy với cô. Đó quả là cái bẫy
thực sự mà anh đã sa chân vào.
Thời gian vẫn trôi qua một cách tàn nhẫn, và ba tháng biến thành
hai tháng, rồi một tháng. Điều an ủi duy nhất của Samuel trong
suốt thời gian đó là anh được gặp Terenia ba lần một tuần, có
người đi kèm, dĩ nhiên, và mỗi lần gặp anh lại thấy yêu nàng
hơn. Đó là cảm giác vừa ngọt ngào vừa đắng cay, vì càng được gặp
nàng thường xuyên hơn thì việc sẽ mất nàng cũng càng đến gần
hơn.
- Anh sẽ tìm được cách! - Terenia luôn trấn an anh như vậy.
Nhưng giờ đây, chỉ còn ba tuần lễ nữa, và Samuel vẫn chưa tiến
thêm được bước nào đến giải pháp so với lúc ban đầu.
Một đêm khuya, Terenia đến gặp Samuel ở chuồng ngựa. Nàng choàng
tay qua người anh và nói:
- Mình bỏ trốn đi, Samuel.
Anh chưa bao giờ yêu nàng nhiều như lúc nầy.
Nàng sẵn sàng hy sinh bản thân, từ bỏ bố mẹ, từ bỏ cuộc sống
tuyệt vời mà nàng đang sống, vì anh.
Anh ôm chặt nàng và nói:
- Chúng ta không thể. Dù có đi đến bất cứ nơi nào thì anh vẫn là
một gã bán hàng rong.
- Em không quan tâm.
Samuel nghĩ tới căn nhà xinh đẹp của nàng với những căn phong
rộng rãi, những người giúp việc, và anh nghĩ đến căn phòng bé
xíu nghèo nàn anh đang ở với bố, với dì, và anh nói:
- Nhưng anh quan tâm, Terenia.
Và nàng quay người bỏ đi.
Sáng hôm sau Samuel gặp Isaac, một người bạn học cũ, đi dọc theo
con phố, tay dắt con ngựa. Nó chỉ còn một mắt, bụng đang đau
nặng, vừa bị sưng khớp vừa bị điếc.
- Chào Samuel.
- Chào Isaac. Tôi không biết anh đang đi với con ngựa tội nghiệp
nầy, nhưng anh nên đi nhanh thì hơn. Trông nó có vẻ không còn
sống được lâu nữa đâu.
- Nó không cần phải thế. Tôi đưa Lottie đến nhà máy keo.
Samuel nhìn con vật với một sự phấn khích bất ngờ xuất hiện.
- Tôi không nghĩ là họ sẽ trả nhiều tiền cho anh.
- Tôi biết. Tôi cũng chỉ cần hai đồng florin để mua một chiếc xe
kéo thôi mà.
Tim Samuel bắt đầu đập mạnh hơn.
- Tôi nghĩ là tôi có thể giúp anh tiết kiệm được quãng đường.
Tôi sẽ đổi chiếc xe của tôi lấy con ngựa của anh.
Không đầy năm phút việc trao đổi đã hoàn tất.
Bây giờ tất cả những gì Samuel phải làm là đóng một chiếc xe
khác và giải thích cho bố anh việc anh đã làm mất chiếc xe cũ
như thế nào, và anh làm sao có được một con ngựa sắp chết.
Samuel dẫn con Lottie vào chuồng, nơi anh đã từng nhốt con Ferd.
Khám xét cẩn thận hơn, Samuel nhận thấy con ngựa còn tệ hơn cái
vẻ bên ngoài của nó.
Anh vỗ nhẹ lên mình nó và nói:
- Đừng lo, Lottie, mày sắp làm nên lịch sử y học rồi đấy.
Vài phút sau Samuel đã bắt tay vào việc bào chế một loại huyết
thanh mới.
o0o
Do quá đông đúc và tình trạng mất vệ sinh nên các bệnh dịch
thường xuyên xảy ra ở khu Do Thái.
Căn bệnh gần đây nhất là sốt dẫn đến những cơn ho đến ngạt thở,
làm sưng nhiều tuyến và gây ra cái chết đau đớn. Các bác sĩ
không biết được nguyên nhân của chứng bệnh và cách điều trị nó.
Bố của Isaac cũng bị nhiễm căn bệnh nầy. Hay tin, Samuel vội vã
tới nhà Isaac.
- Bác sĩ đã đến đây, - Isaac vừa khóc vừa nói. - Ông ấy bảo đã
hết hy vọng rồi.
Anh có thể nghe từ trên lầu vẳng xuống những tiếng ho khủng
khiếp và dường như không bao giờ kết thúc.
- Tôi muốn anh giúp tôi một việc, - Samuel nói. - Hãy lấy cho
tôi một chiếc khăn tay của bố anh.
Isaac nhìn sững anh.
- Cái gì?
- Một cái khăn mà bố anh đã dùng. Và hãy cẩn thận khi tiếp xúc
với nó. Nó đầy vi trùng đấy.
Một giờ sau Samuel trở về chuồng ngựa, cẩn thận cạo những thứ
dính trên khăn vào một cái đĩa chứa đầy nước luộc thịt.
Anh làm việc suốt đêm hôm đó, cả ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa,
tiêm từng lượng nhỏ chất đó vào con Lottie, rồi liều lượng lớn
hơn, chiến đấu với thời gian, cố gắng dành lấy mạng sống của bố
Isaac.
Và cố cứu cả cuộc đời của chính anh.
Nhiều năm sau đó Samuel không bao giờ chắc chắn Chúa có trông
chờ ở anh hay con Lottie hay không, nhưng con Lottie vẫn chịu
được những liều lượng tăng dần và Samuel đã có được lượng kháng
thể đầu tiên.
Việc tiếp theo của Samuel là thuyết phục bố của Isaac cho anh
tiêm thuốc vào người ông.
Nhưng cuối cùng việc thuyết phục lại không cần thiết. Khi Samuel
đến nhà Isaac, trong nhà đã đầy thân nhân họ hàng đang khóc than
cho người đang hấp hối trên lầu.
- Bố tôi chỉ còn trụ được chút ít thời gian nữa thôi. - Isaac
thông báo cho Samuel.
- Tôi có thể gặp ông ấy chứ?
Hai người đi lên lầu. Bố Isaac đang nằm trên giường, mãt đỏ bừng
vì cơn sốt. Mỗi cơn ho kéo dài lại khiến cho thân hình tàn tạ
của ông cụ co giầt và làm cho ông càng yếu hơn. Hiển nhiên là
ông đang hấp hối.
Samuel hít một hơi thở sâu và nói:
- Tôi muốn nói chuyện với anh và mẹ anh.
- Không ai có chút tin tưởng nào vào cái lọ thuỷ tinh nhỏ mà
Samuel mang theo, nhưng dù gì thì cũng chết. Họ nắm lấy cơ hội
vì họ đã không còn gì để mất.
Samuel tiêm huyết thanh cho bố Isaac. Anh đợi bên giường ông ba
tiếng đồng hồ, và nhận thấy không có gì thay đổi. Huyết thanh đã
không có tác dụng.
Nếu có, đó chỉ là những cơn ho dữ dội hơn. Cuối cùng Samuel bỏ
về, tránh mắt Isaac.
Sáng sớm hôm sau Samuel phải vào Krakow mua hàng. Anh vô cùng
sốt ruột, chỉ mong chóng trở về để xem bố Isaae có còn sống hay
không.
Ở tất cả các chợ đều có những đám đông lớn, và Samuel mua hàng
mãi vẫn chưa xong. Mãi đến chiều muộn xe của anh mới chất đầy
hàng và anh trở về khu Do Thái.
Tai hoạ xảy ra khi Samuel ở cách cổng hai dặm.
Một bánh xe bị gãy làm đôi và hàng hoá đổ ập xuống đường Samuel
lâm vào một thế kẹt. Anh vừa phải tìm bánh xe khác ở quanh đâu
đó, nhưng cũng không dám bỏ mặc chiếc xe.
Một đám đông đã bắt đầu tụ lại, ngắm nhìn số hàng hoá bằng ánh
mắt thèm thuồng. Samuel trông thấy một cảnh sát mặc quân phục
tiến tới - một người không phải Do Thái - và anh biết anh sẽ mất
hết.
Họ sẽ lấy tất cả của anh. Người cảnh sát lách qua đám đông và
quay sang chàng trai đang hoảng sợ.
- Chiếc xe của cậu cần một cái bánh mới.
- V... âng, thưa ông. - Cậu có biết phải mua nó ở đâu không?
- Không, thưa ông.
Người cảnh sát viết vài chữ vào mẩu giấy.
- Đi đến đó, cho ông ấy biết cậu cần gì.
Samuel trả lời:
- Cháu không thể bỏ chiếc xe được.
- Có thể, - người cảnh sát trả lời. Ông ta quét cặp mắt nghiêm
khắc về phía đám đông. - Tôi sẽ ở lại đây! Đi nhanh lên.
Samuel chạy không nghỉ. Theo chỉ dẫn trên tờ giấy, anh tìm thấy
một hiệu rèn và khi Samuel giải thích tình hình, người thợ rèn
đã tìm được một bánh xe vừa cỡ. Samuel trả tiền cho người thợ
rèn bằng số tiền trong chiếc túi nhỏ mà anh mang theo. Giờ đây
anh chỉ còn lại có sáu gulden.
Anh lại chạy về phía chiếc xe, lăn chiếc bánh xe mới phía trước.
Người cảnh sát vẫn còn ở đó và đám đông đã giải tán. Số hàng hoá
của anh vẫn còn nguyên.
Với sự giúp đỡ của người cảnh sát, cũng phải nửa tiếng sau anh
mới thay xong bánh xe. Anh lại lên đường trở về nhà. Ý nghĩ của
anh vẫn hướng về bố của Isaac. Anh sẽ thấy ông còn sống hay đã
chết? Anh không hiểu mình có thể chịu đựng được sự hồi hộp hay
không.
Giờ đây anh chỉ còn cách khu Do Thái có một dặm. Samuel đã trông
thấy những bức tường cao sừng sững trên nền trời. Và anh còn
thấy, mặt trời đã khuất về phía chân trời tây, những đường phố
xa lạ ngập mình trong bóng tối. Bận bịu lo lắng về những chuyện
vừa xảy ra, Samuel đã hoàn toàn quên đi vấn đề thời gian. Mặt
trời đã lặn và anh vẫn còn ở bên ngoài cổng? Anh bắt đầu chạy,
đẩy chiếc xe nặng nề về phía trước, tim đập mạnh tưởng chừng như
sắp vỡ tung ra. Cổng khu Do Thái chắc là đã đóng. Samuel nhớ lại
những câu chuyện khủng khiếp mà anh đã nghe được về những người
Do Thái ở bên ngoài cổng vào ban đêm. Anh bắt đầu chạy nhanh
hơn. Có thể lúc nầy chỉ còn một người lính đang trực. Nếu đó là
Paul, người dễ thân thiện hơn, thì Samuel còn có một cơ hội. Còn
nếu đó là Aram - Samuel không dám nghĩ đến điều đó. Bóng tối
càng lúc càng dầy đặc, bao trùm lên anh như một màn sương đen,
và trời bắt đầu có mưa nhỏ. Samuel đến gần khu Do Thái hơn, chỉ
còn cách khoảng hai dãy nhà, và bỗng nhiên cánh cổng khổng lồ
sừng sững hiện ra. Chúng đã bị khoá chặt.
Samuel chưa bao giờ trông thấy cửa đóng từ bên ngoài. Tựa như
cuộc sống bỗng nhiên cạn kiệt, anh rùng mình ghê sợ. Anh đã bị
ngăn cách với gia đình, với thế giới của anh, với tất cả những
gì mà anh đã quen thuộc. Anh đi chậm lại, cẩn thận tiến gần đến
cổng, tìm kiếm hai người lính gác. Không thấy họ đâu.
Samuel bỗng tràn ngập niềm hy vọng. Có thể họ đã được gọi theo
một lệnh khẩn cấp nào đó. Samuel sẽ tìm cách mở cổng hoặc trèo
qua tường không để ai trông thấy. Khi anh đến cổng, một người
lính chợt bước ra từ bóng tối.
- Cứ đi đến đây, - anh ta ra lệnh.
Trong bóng tối Samuel không nhìn thấy rõ mặt người lính. Nhưng
anh đã nhận ra giọng nói. Đó là Aram.
- Nữa đi. Cứ đi tới đây.
Aram nhìn Samuel đi đến gần, một nụ cười nhệch trên mặt. Chàng
trai loạng choạng đi tới.
- Như thế đấy, - Aram khuyến khích, - Tiếp tục tới nữa đi.
Samuel chậm chạp tiến về phía gã khổng lồ, lòng rối tung, đầu óc
lùng bùng.
- Thưa ông, Samuel lên tiếng, - Cho cháu được giải thích. Cháu
gặp phải một tai nạn. Cái xe của cháu…
Aram thò bàn tay to lớn ra, túm lấy cổ áo Samuel và nhấc bổng
anh lên.
- Đồ Do Thái chó đẻ kia, - hắn ta dịu dàng ngâm nga. - Mày nghĩ
là tao quan tâm đến lý do tại sao mày ở bên ngoài ư? Mày đã ở
sai vị trí với cánh cổng rồi đấy. Mày có biết chuyện gì sắp xảy
ra với mày không?
Samuel lắc đầu một cách sợ hãi.
- Để tao cho mày biết nhé, - Aram nói. - Chúng tao nhận được
lệnh mới vào tuần trước. Tất cả những tên Do Thái nào bắt ở
ngoài cổng sau khi mặt trời lặn đều bị đưa lên tầu đi Silesia.
Mười năm khổ sai. Mày có thích như thế không?
Samuel không thể tin nổi.
- Nhưng cháu… cháu có làm gì đâu. Cháu…
Aram đấm mạnh vào mồm Samuel bằng tay phải rồi thả anh rơi xuống
đất.
- Đi, - Aram nói.
- Đi đi đâu? - Samuel hỏi. Giọng anh nghẹn ngào vì hoảng hốt.
- Tới đồn cảnh sát. Sáng mai mày sẽ lên tàu thuỷ cùng một lũ cặn
bã khác. Đứng dậy.
Samuel nằm yên, không tài nào tập trung tư tưởng.
- Cháu… cháu phải vào từ biệt gia đình.
Aram lại nhe răng cười.
- Họ sẽ không nhớ gì mày đâu!
- Xin ông hãy làm ơn! - Samuel van vỉ. - Cho cháu… cho cháu ít
ra cũng được viết cho họ vài dòng.
Nụ cười của Aram chợt tắt. Hắn đứng phía trên Samuel với vẻ hăm
doạ. Nhưng giọng nói của hắn vẫn dịu dàng.
- Tao bảo đứng dậy, thằng Do Thái khốn khiếp kia. Nếu mày còn
nói nữa, tao sẽ đá vào dái mày đấy.
Samuel chậm chạp đứng dậy. Aram nắm lấy cánh tay anh trong bàn
tay thép của hắn và bắt đầu lôi anh về phía đồn cảnh sát.
Mười năm khổ sai ở Silesia? Không ai có thể quay về từ chỗ đó.
Anh ngước nhìn gã đàn ông đang nắm tay anh, lôi anh về phía đồn
cảnh sát.
- Xin ông đừng làm thế, - Samuel van nài. - Cho cháu đi đi.
Aram siết tay anh chặt hơn và Samuel cảm thấy như máu mình ngừng
chảy.
- Cứ van xin nữa đi, - Aram nói. - Tao rất khoái nghe bọn Do
Thái van xin. Mày đã nghe nói về Silesia rồi chứ? Mày sẽ đến đó
đúng vào mùa đông. Nhưng đừng lo, ở trong hầm mỏ thì thú vị và
ấm áp lắm. Và khi phổi mày đã nám đen vì bụi than và mày lên cơn
ho không ngừng, mày sẽ bị bỏ ra ngoài trời tuyết và mày sẽ chết
vì lạnh.
Phía trước họ, bên kia cầu, ẩn hiện trong cơn mưa là toà nhà
dùng làm đồn cảnh sát.
- Nhanh lên! - Aram nói.
Và bỗng nhiên Samuel biết rằng anh không thể để ai làm thế đối
với anh. Anh nghĩ đến Terenia, đến gia đình anh, đến bố của
Isaac. Không ai được phép lấy đi cuộc sống của anh. Dù thế nào
thì anh cũng phải chạy thoát, phải cứu lấy bản thân. Bây giờ họ
đang băng qua cây cầu hẹp, con sông chảy rì rào bên dưới, nước
dâng lên cao do những cơn mưa mùa đông.
Chỉ còn một đoạn đường ba mươi mét. Chuyện gì cần làm thì phải
làm ngay, lúc nầy Aram có súng và nếu không có thì hắn có thể dễ
dàng hạ sát anh. Hắn to gấp đôi Samuel và lại khoẻ hơn anh
nhiều. Họ đã đến phía bên kia cầu và đồn cảnh sát nằm ngay trước
mặt.
- Nhanh lên, - Aram gầm gừ, lôi Samuel đi. - Tao còn nhiều việc
khác phải làm.
Hai người đã đến gần toà nhà đến nỗi Samuel có thể nghe thấy
tiếng cười của bọn lính ở bên trong.
Aram siết chặt tay và bắt đầu lôi anh qua khoảng sân lát đá dẫn
tới đồn cảnh sát. Chỉ còn vài giây nữa thôi. Samuel cho tay phải
vào túi áo và sờ thấy túi tiền với năm, sáu đồng gulden bên
trong. Những ngón tay anh cầm chặt nó, máu trong người chảy rần
rật vì kích động. Anh cẩn thận lôi cái túi ra khỏi túi áo bằng
bàn tay còn lại rồi nới lỏng sợi dây buộc và buông cái túi rơi
xuống đất. Nó đập xuống nền đá và phát ra những tiếng kêu leng
keng.
Aram đột ngột đứng lại.
- Cái gì vậy?
- Không có gì hết. - Samuel đáp nhanh.
Aram nhìn vào ánh mắt anh và mỉm cười. Vẫn giữ chặt Samuel trong
tay, hắn ta lùi lại, nhìn xuống mặt sân và trông thấy cái túi
tiền bị mở.
- Mày sẽ không cần tiền ở nơi mày đến. - Aram nói.
Hắn với xuống nhặt cái túi và tay Samuel cũng với xuống cùng lúc
đó. Aram hất cái túi ra xa khỏi người anh. Nhưng tay Samuel
không hướng về túi tiền.
Nó hướng về một hòn đá to nằm trên sân và khi Samuel đứng thẳng
người lên, anh đập mạnh hòn đá vào mắt phải Aram bằng tất cả sức
lực của mình, biến nó thành một đám bầy hầy màu đỏ, và anh tiếp
tục đập, hết nhát nọ đến nhát kia. Anh thấy cái mũi của Aram trở
nên dúm dó, rồi đến cái miệng, rồi cả khuôn mặt hắn ta trở thành
một đống máu khủng khiếp. Aram vẫn đứng sững như một con quái
vật bị mù vậy. Samuel nhìn hắn ta, gần như buồn nôn vì sợ hãi,
và không thể tiếp tục được nữa. Rồi, cái xác khổng lồ bắt đầu
gục xuống. Samuel nhìn xuống cái xác của tên lính canh, không
thể tin nổi những điều mình vừa làm.
Anh nghe thấy những âm thanh trong trại lính và anh bỗng hiểu rõ
mối nguy hiểm khủng khiếp mà anh đang mắc phải. Nếu bọn chúng
biết được anh vào lúc nầy, bọn chúng sẽ không tống anh đi
Silesia nữa. Chúng sẽ lột da anh và treo cổ anh ở quảng trường
thành phố. Hình phạt cho bất kỳ một hành vi tấn công cảnh sát
nào cũng là cái chết. Và Samuel đã giết một người cảnh sát. Anh
phải nhanh chóng bỏ trốn thôi. Anh có thể tìm cách vượt qua biên
giới nhưng sau đó anh sẽ phải trốn chui trốn lủi suốt cả quãng
đời còn lại.
Phải có một cách giải quyết khác. Anh nhìn chằm chằm vào khuôn
mặt của xác chết và chợt hiểu mình cần làm gì. Anh cúi xuống và
lục lọi khắp người xác chết cho đến khi lôi ra được chiếc chìa
khoá mở cổng lớn.
Rồi, cố thắng sự tởm lợm, Samuel nắm lấy đôi giầy của Aram và
bắt đầu kéo cái xác về phía bờ sông.
Người chết dường như nặng cả tấn. Samuel tiếp tục kéo, anh bị
thôi thúc bởi những âm thanh vọng ra từ đồn cảnh sát. Rồi anh
cũng tới được bờ sông. Dừng lại một lúc để thở, rồi Samuel đẩy
cái xác qua khỏi kè dốc và nhìn nó lăn xuống dòng nước đang chảy
ở phía dưới. Một bàn tay mắc vào kè tưởng như dài vô tận, rồi
thì cái xác cũng từ từ bị dòng nước cuốn trôi. Samuel đứng đó
như bị thôi miên, lòng tràn đầy sợ hãi về việc mình vừa làm
xong. Anh nhặt hòn đá vừa dùng để gây tội ác ném luôn xuống
sông. Nhưng anh vẫn ở trong tình trạng vô cùng nguy hiểm. Anh
quay lại và chạy qua cây cầu về phía hai cánh cổng lớn của khu
Do Thái. Không có ai ở xung quanh đó cả. Bằng những ngón tay run
rẩy, Samuel đút chiếc chìa khoá lớn vào ổ khoá và từ từ quay một
vòng.
Anh kéo mạnh hai cánh cổng gỗ lớn. Không có gì xảy ra. Đối với
anh thì chúng quá nặng. Nhưng trong đêm nay thì không có chuyện
gì là không thể với Samuel.
Người anh tràn đầy một sức mạnh kỳ lạ đến từ bên ngoài và anh mở
được cánh cổng khổng lồ ra. Anh đẩy xe vào bên trong, đóng cổng
lại rồi đẩy xe chạy như bay về nhà.
o0o
Những người trong nhà đang tụ tập ở phòng khách và khi Samuel
bước vào, họ nhìn anh như thể anh là một hồn ma sống dậy.
- Họ đã cho cậu về?
- Bố… bố không hiểu, - bố anh lắp bắp. - Mọi người đều nghĩ con…
Nhanh chóng, Samuel giải thích mọi chuyện xảy ra và những bộ mặt
của họ từ quan tâm trở thành đầy khủng khiếp.
- Chúa ơi! - Bố Samuel rên lên. - Họ sẽ giết tất cả chúng ta
mất.
- Không, nếu mọi người nghe lời của con, - Samuel nói. Rồi anh
giải thích kế hoạch của mình.
Mười lăm phút sau, Samuel cùng bố và hai người hàng xóm đã đứng
trước hai cánh cổng của khu Do Thái.
Samuel đẩy cánh cổng và luồn ra ngoài một mình, thầm nghĩ mình
có thể bị tóm bất cứ lúc nào. Anh đặt chiếc chìa khoá vào ổ và
quay một vòng. Thế là hai cánh cổng khu Do Thái đã bị khoá chặt
từ bên ngoài. Samuel buộc chặt chiếc chìa khoá vào dây lưng,
bước vài bước sang phía bên trái cánh cổng. Một lát sau, một sợi
dây thò xuống dọc theo tường như một con rắn lớn. Samuel bám
chặt vào đó trong khi ở bên kia tường bố anh và hai người kia
bắt đầu kéo anh lên. Khi Samuel lên tới đầu tường, anh buộc một
đầu dây thành cái thòng lọng và lồng nó vào một cái cọc đóng nhô
ra khỏi tường rồi từ từ tuột xuống đất. Khi đã an toàn xuống đến
nơi, anh lắc cho sợi dây tuột ra.
- Chúa ơi! - Bố anh lẩm bẩm. - Sáng mai không biết chuyện gì sẽ
xảy ra đây? Samuel nhìn ông và trả lời, - Chúng ta sẽ đập mạnh
vào cổng, bảo họ cho chúng ta ra.
o0o
Vào lúc bình minh, khu Do Thái tràn ngập cảnh sát và binh lính.
Họ phải đặt làm một chiếc chìa khoá đặc biệt để mở cánh cổng cho
các thương nhân đang la hét đòi được ra ngoài. Paul, người lính
gác thứ hai, đã thú nhận rằng mình đã rời bỏ vị trí vào Krakow
chơi bời suốt đêm, và anh ta đã bị bắt. Nhưng chừng đó vẫn không
đủ để giải thích về cái chết bí mật của Aram. Theo như thường lệ
thì việc một lính canh mất tích ở quá gần khu Do Thái như vậy là
một lý do đầy đủ cho việc bắt đầu một cuộc tàn sát.
Nhưng cảnh sát lại rất hồ nghi vì hai cánh cổng đã bị khoá từ
bên ngoài. Những người Do Thái đã bị khoá chặt hết ở bên trong,
hiển nhiên là họ không thể gây hại được cho Aram. Cuối cùng,
cảnh sát kết luận rằng Aram có thể đã bỏ trốn cùng một trong
những người bạn gái của hắn ta. Họ cho rằng hắn đã ném chiếc
chìa khoá nặng nề vào đâu đó và họ tìm kiếm khắp nơi, nhưng
không thấy gì. Nó sẽ chẳng bao giờ được tìm thấy vì đã bị vùi
chặt dưới nền nhà của Samuel.
Kiệt quệ về cả thể xác cũng như tinh thần, Samuel vừa đặt mình
lên giường là đã ngủ ngay lập tức. Anh tỉnh dậy do có ai quát
gọi anh. Ý nghĩ đầu tiên của Samuel là: Họ đã tìm thấy xác Aram.
Họ đến đây để bắt mình.
Anh mở mắt ra. Isaac đang đứng cạnh giường, trạng thái vô cùng
kích động.
- Dừng hẳn rồi! - Isaac gào lên. - Cơn ho đã dừng hẳn. Đây đúng
là phép màu! Đến nhà tôi đi.
Bố của Isaac đã ngồi dậy được. Cơn sốt đã biến mất một cách kỳ
lạ và cơn ho cũng đã dừng hẳn.
Khi Samuel đến bên cạnh giường, ông già nói:
- Bác nghĩ là bác có thể ăn được ít súp gà!
Và Samuel bắt đầu bật khóc.
Trong có một ngày thôi anh đã lấy đi một mạng người và cứu lại
một mạng người.
Cái tin về bố của Isaac lan ra khắp khu Do Thái.
Thân nhân của những người đang hấp hối tụ tập quanh nhà Samuel,
van xin anh cho một chút huyết thanh kỳ diệu của mình. Anh không
thể nào thoả mãn được hết các yêu cầu của họ. Và anh đến gặp bác
sĩ Wal.
Ông cũng đã được nghe nói về những điều mà Samuel đã làm, nhưng
vẫn còn bán tín bán nghi.
- Bác phải tận mắt chứng kiến mới được,! - ông nói.
- Cháu hãy điều chế một liều và bác sẽ thử nó lên một trong các
bệnh nhân của bác.
Trong số hàng chục bệnh nhân đã chọn, bác sĩ Wal lựa ra một
người mà ông thấy đã gần chết thật. Chỉ trong vòng hai mươi bốn
giờ người đó đã tỏ ra hồi phục.
Bác sĩ Wal đi đến chuồng ngựa nơi Samuel đang làm việc cả ngày
lẫn đêm, điều chế huyết thanh, và nói:
- Nó thật công hiệu, Samuel. Cháu đã thành công rồi. Cháu muốn
cái gì làm của hồi môn?
Samuel ngước nhìn ông và mệt mỏi trả lời:
- Một con ngựa khác.
o0o
Năm đó, 1868, là năm khởi nghiệp của Roffe và các con. Samuel và
Terenia đã lấy nhau, và phần hồi môn cho Samuel là sáu con ngựa
và một phòng thí nghiệm nhỏ nhưng đầy đủ trang thiết bị của
riêng anh. Samuel đã mở rộng các thí nghiệm của mình. Anh bắt
đầu chưng cất dược phẩm từ các loại thảo mộc và chẳng bao lâu
sau những người láng giềng của anh bắt đầu đến căn phòng thí
nghiệm bé nhỏ để mua thuốc về điều trị nhưng căn bệnh đang hành
hạ họ. Họ được anh tận tình chỉ bảo, và cứ thế, danh tiếng của
Samuel lan đi khắp nơi. Với những người không thể trả tiền,
Samuel thường nói:
- Đừng lo lắng về chuyện tiền nong. Cứ lấy thuốc về đi.
Và với Terenia:
- Thuốc dùng để cứu người chứ không phải để kiếm lời.
Công việc làm ăn của Samuel vẫn tiếp tục phát triển và anh đã có
thể nói với Terenia sau một thời gian ngắn:
- Anh nghĩ đã đến lúc mở một cửa hàng bào chế nhỏ, tại đó chúng
ta có thể bán thuốc mỡ, thuốc bột và các loại thuốc không theo
toa bác sĩ khác.
Cửa hàng của anh thành công ngay từ ngày đầu tiên. Những người
giàu có trước kia đã từng từ chối giúp đỡ Samuel thì nay lại tìm
đến anh đề nghị chung vốn.
- Chúng ta sẽ là bạn hàng, - họ nói. - Chúng ta sẽ mở một loạt
cửa hàng.
Samuel bàn luận chuyện đó với Terenia.
- Anh rất sợ các cổ đông. Đây là chuyện làm ăn của chúng ta. Anh
không thích cái việc những kẻ xa lạ sẽ sở hữu một phần cuộc sống
của chúng ta.
Terenia cũng đồng ý với anh.
Khi công việc kinh doanh càng lúc càng thuận lợi và mở rộng thêm
nhiều cửa hàng mới thì những lời đề nghị chung vốn cũng càng lúc
càng tăng. Nhưng Samuel vẫn tiếp tục từ chối tất cả.
Khi bố vợ hỏi anh lý do vì sao, Samuel trả lời:
- Đừng bao giờ cho một con cáo thân thiện vào trong chuồng gà.
Một ngày kia nó sẽ tỏ ra thèm khát.
Công việc kinh doanh phát đạt, hôn nhân của Samuel và Terenia
cũng như vậy. Nàng sinh cho anh năm đứa con trai - Abraham,
Joseph, Anton, Jan và Pitor - và cứ mỗi đứa trẻ ra đời Samuel
lại mở một hiệu bào chế thuốc mới, cái sau lớn đẹp hơn cái
trước. Đầu tiên, Samuel thuê một người làm cho mình, rồi hai
người, và không lâu sau anh đã có đến hơn hai tá nhân viên trong
tay.
Một ngày kia Samuel tiếp một nhân viên chính phủ được phái đến.
- Chúng tôi đang xúc tiến việc bãi bỏ một số hạn chế cho người
Do Thái, - ông ta nói với Samuel. - Chúng tôi muốn anh mở một
hiệu bào chế thuốc ở Krakow.
Và Samuel đã làm như vậy. Ba năm sau anh đã phát đạt đến mức có
thể xây cả một toà cao ốc cho mình trong trung tâm Krakow và mua
cho Terenia một căn nhà xinh đẹp trong thành phố. Cuối cùng
Samuel đã thực hiện được giấc mơ chạy thoát khỏi khu Do Thái.
Nhưng anh còn có những giấc mơ khác, xa hơn cả Krakow.
Khi các con lớn dần lên, Samuel thuê gia sư riêng cho chúng, và
mỗi đứa con được học một thứ tiếng khác nhau.
- Nó điên rồi! - Mẹ vợ của Samuel nói. - Nó đã trở thành trò
cười cho hàng xóm láng giềng khi dạy Abraham và Jan nói tiếng
Anh, Joseph - tiếng Đức, Anton - tiếng Pháp và Pitor - tiếng
Italy. Chúng sẽ nói chuyện với ai đây? Không ai ở đây biết những
thứ tiếng man rợ như vậy. Những đứa trẻ thậm chí còn chẳng nói
chuyện được với nhau nữa!
Samuel chỉ mỉm cười và kiên nhẫn trả lời:
- Đó là một phần trong vốn kiến thức của chúng.
Anh biết rõ các con mình sẽ nói chuyện với ai.
Khi các con ông được mười bốn, mười lăm tuổi, chúng thường được
đi đến các đất nước khác nhau với bố chúng. Trong mỗi chuyến đi
Samuel lại đặt nền tảng cho các kế hoạch tương lai của ông. Khi
Abraham hai mươi mốt tuổi, Samuel triệu tập gia đình lại và
thông báo:
- Abraham sẽ sang Mỹ sinh sống.
- Mỹ! - Mẹ Terenia hét lên. - Ở đó toàn bọn dã man. - Tôi sẽ
không để anh làm thế với cháu tôi đâu. Thằng bé sẽ ở đây, nơi mà
nó được an toàn.
An toàn. Samuel nghĩ đến những cuộc tàn sát và Aram, và về cái
chết của mẹ ông.
- Nó sẽ ra nước ngoài, - Samuel tuyên bố. Ông quay sang Abraham.
- Con sẽ mở một nhà máy ở New York và sẽ chịu trách nhiệm về
công việc kinh doanh ở đó.
Abraham kiêu hãnh trả lời:
- Vâng, thưa bố.
Samuel quay sang Joseph.
- Vào ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt của con, con sẽ đi sang
Berlin.
Joseph gật đầu.
Anton nói:
- Và con sẽ đi Pháp. Paris. Con hy vọng như vậy.
- Hãy giữ mình, - Samuel lẩm bẩm. - Một số người không phải Do
Thái ở đó chẳng phải vừa đâu.
- Ông quay sang Jan.
- Con sẽ đi Anh Quốc.
Pitor, đứa con út, háo hức nói
- Và con sẽ đi Italia, bố ạ. Bao lâu nữa thì con sẽ đi được?
Samuel cười và trả lời:
- Không phải tối nay đâu, Pitor. Con phải chờ đến năm con hai
mươi mốt tuổi.
Và mọi chuyện đều thuận lợi. Samuel đi theo các con ra nước
ngoài và giúp đỡ chúng thành lập văn phòng và nhà máy. Trong
vòng bẩy năm sau đó, nhiều chi nhánh của gia đình Roffe được lập
nên ở năm quốc gia khác nhau. Nó đang dần trở thành một triều
đại và Samuel cho các luật sư tổ chức sao cho các công ty con dù
hoạt động độc lập vẫn có trách nhiệm với công ty mẹ.
- Không được có người lạ, - Samuel không ngừng cảnh cáo luật sư
của mình. - Các cổ phần không bao giờ được rời khỏi gia đình.
- Sẽ không đâu. - Viên luật sư trấn an ông. - Nhưng nếu các con
ông không thể bán cổ phần của họ, ông Samuel, làm sao họ xoay sở
được? Tôi tin chắc rằng ông cũng muốn họ sống thoải mái.
Samuel gật đầu.
- Chúng ta sẽ sắp xếp cho chúng sống trong những căn nhà đẹp.
Chúng sẽ có lương cao, các khoản chi tiêu, nhưng tất cả những
thứ khác sẽ phải thuộc về công ty. Nếu chúng muốn bán cổ phần
của mình thì phải có được sự nhất trí từ tất cả mọi người. Số cổ
phần lớn nhất sẽ thuộc về con trưởng của tôi, và những người
thừa kế của nó. Chúng ta sẽ trở nên lớn mạnh. Chúng ta sẽ lớn
mạnh hơn cả Rothschilds.
Nhiều năm trôi qua và lời tiên tri của Samuel đã trở thành hìện
thực. Việc kinh doanh không ngừng phát triển. Mặc dù gia đình ở
rải rác ở khắp mọi nơi, Samuel và Terenia vẫn cố gắng lo liệu
sao cho tất cả được gần gũi và thân thiết. Các con trai của họ
vẫn về dự những ngày sinh nhật và các dịp lễ lớn trong năm. Tuy
nhiên các cuộc viếng thăm của họ thường có nhiều ý nghĩa hơn là
về dự những lễ hội thông thường. Họ thường đóng kín cửa và thảo
luận chuyện kinh doanh với bố. Mỗi người đều có hệ thống tình
báo riêng. Mỗi khi một người con ở một nước nghe được về việc
phát triển một loại thuốc mới, người đó liền lập tức thông báo
cho những người khác và họ sẽ bắt đầu tự sản xuất loại thuốc đó,
vì thế trong lĩnh vực nầy họ vẫn luôn qua mặt được các đối thủ
cạnh tranh.
o0o
Bánh xe thế kỷ vẫn tiếp tục quay, những đứa con lấy vợ sinh con
và cho Samuel những đứa cháu nội.
Abraham đã sang Mỹ vào ngày sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của
mình vào năm 1891. Anh cưới một cô gái Mỹ, bảy năm sau đó và năm
1905 đứa cháu nội đầu tiên của Samuel, Woodrow, ra đời, và người
nầy lại có một đứa con trai tên là Sam. Joseph lấy một cô gái
Đức, sinh được một trai và một gái. Cậu con trai lấy vợ và sinh
được một con gái là Anna. Anna lấy một người Đức, là Walther
Gassner. Ở Pháp, Anton cưới một cô vợ Pháp, có hai con trai. Một
người tự tử chết. Người kia lấy vợ và sinh được một con gái là
Hélène. Cô ta đã vài lần kết hôn nhưng vẫn chưa có con. Jan, ở
London, kết hôn với một cô gái Anh. Đứa con gái duy nhất của họ
lấy một tòng nam tước họ Nichols và có một cậu con trai là Alec.
Pitor, ở Rome, lấy một cô gái Italia. Họ có một con trai và một
con gái. Khi cậu con trai lấy vợ, vợ anh ta sinh được một cô con
gái, Simonetta, người đã yêu và kết hôn với một kiến trúc sư trẻ
tuổi, Ivo Palazzi.
Đó là tất cả các con cháu của Samuel và Terenia.
Samuel sống đủ lâu để được thấy những ngọn gió thay đổi thổi qua
thế giới. Marconi tạo ra vô tuyến điện và anh em nhà Wright
phóng chiếc máy bay đầu tiên ở Kitty Hawk. Rồi vụ án Dreyfuss
dành trọn các tít lớn và đô đốc Peary đặt chân tới Bắc Cực.
Chiếc ô tô Ford Modern T được sản xuất hàng loạt, ngoài ra còn
có đèn điện và điện thoại. Trong lĩnh vực y học, các loại vi
trùng gây bệnh lao, thương hàn và sốt rét đã bị cách ly và chế
ngự hoàn toàn.
Tập đoàn Roffe và các con, sau gần nửa thế kỷ đã trở thành con
vật kếch xù đa quốc gia bao trùm cả thế giới.
Samuel và con ngựa tàn tạ của ông, Lottie, đã gây dựng nên cả
một triều đại.
Khi Elizabeth đọc xong Quyển sách, có lẽ đến lần thứ năm, nàng
lặng lẽ mang trả nó về tủ kính. Nàng không cần đến nó nữa. Nàng
đã là một phần của nó, cũng như nó là một phần của nàng.
Lần đầu tiên trong đời, Elizabeth biết mình là ai và mình từ đâu
đến.
Chú thích:
(1) chemistry: hoá học
o0o
|