trắng phản chiếu của
tuyết già mà rùng ḿnh cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời
gian một đêm mất ngủ.
Guenađy Shpalikov, bạn cùng pḥng với tôi, nhà thơ chưa được
ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một
cuốn sách dày cộp, b́a bọc simili:
- Đọc đi ! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky th́ đúng
lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như ḿnh tặng cậu. Đây là
tuyển tập. Ḿnh đă đặt mua toàn tập hôm qua rồi.
Tôi ngần ngại nh́n cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy
chục trang đầu, tôi đă hiểu ngay rằng không ǵ có thể bắt
tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong.
Và thế là đêm đó - một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở
Moskva - tôi đă gặp Paustovsky.
Từ những hàng chữ in b́nh thường trên trang giấy xanh
lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi
lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong
những câu chuyện đầy t́nh cảm của những xúc động thường
là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những
hàng bạch dương run rẩy trong gió, những v́ sao trong
vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng...
Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người
tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường
mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin
Paustovsky.
Và tôi thật sự đă không quên, bởi v́, hơn là
những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai,
trong một đêm đó Paustovsky đă giúp tôi sống một
đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm
giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng ḿnh
không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống
thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái
duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm
và v́ thế có ư nghĩa hơn.
Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi
bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái
chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù
người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là
ông thợ mộc b́nh dị..., tất cả, đều là một
thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ
dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy
được nó, càng không thể nh́n rơ nó, bằng cặp
mắt lười biếng. Mỗi ḍng chữ của Paustovsky
nói với chúng ta một cái ǵ rất mới về cái
thế giới không dễ thấy ấy.
Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn băo
tuyết đă lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm,
và khi tôi gập sách lại th́ ánh b́nh
minh màu trắng đục của riêng những chân
trời phương Bắc đă tràn ngập khắp pḥng.
Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng
màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua
một đêm, tuyết đă xếp thành những vồng
trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở
dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những
bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay
chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ
đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi ch́a
tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm
giác những bông tuyết lảng tránh tay
tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến
gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới
nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về
th́ trong ḷng bàn tay chỉ c̣n mấy vệt
ướt: tuyết đă tan rồi. Trong khoảnh khắc
ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đă bỏ qua rất
nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con
đường mà tôi đă đi qua, tính cả về không
gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái
đêm đáng nhớ ấy tôi đă không biết đến
cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ v́
tôi không biết nh́n, chưa biết đến niềm
mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky
chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một
người bạn rất gần gụi với ta, như một
người thân của ta, Paustovsky bước vào
tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với
ta những chuyện tâm t́nh. Nghe xong
những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn
ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn.
o0o
Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5
năm 1892 trong một ngơ hẻm thành
Moskva. Ḍng họ ông gốc kazak [1]
miền Zaporozhe, sau mới chuyển tới
cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần
tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm
nhân viên thống kê ngành đường sắt.
Ông nội là một cựu chiến binh kadak
dưới thời Nga hoàng Nikolaev.
Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở không yên chỗ. Sau thời gian ṭng sự tại Moskva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đỗ lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia đ́nh tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong nhà. Gia đ́nh Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng ca, những cuộc căi vă nghệ thuật và những rạp hát.
Cậu bé bắt đầu cuộc đời học tṛ ở trường trung học số 1 thành phố Kiev. Khi cậu học tới lớp 6 th́ gia đ́nh khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học tṛ là nghề "gia sư".
Đó là tóm tắt mấy ḍng về con người về sau này trở thành nhà văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn mà ḿnh giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu v́ sao Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác.
Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky c̣n là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí "Những Ngọn Lửa", là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào khoảng năm 1911.
Sau khi tốt nghiệp trung
học, Paustovsky thi vào đại
học tổng hợp Kiev. Hai năm
sau, Paustovsky chuyển qua
một trường đại học khác ở
Moskva và ở hẳn thành phố
này từ đấy.
Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất bùng nổ.
Paustovsky làm nghề bán
vé xe điện, rồi lái xe
điện, rồi y tá trong các
đoàn tàu quân y con thoi
chạy đi chạy lại giữa
hậu phương và tiền
tuyến. Mùa thu năm 1915
ông bỏ công việc dân sự
để đi theo một đơn vị
quân y dă chiến và làm
một chuyến đi dài suốt
từ thành phố Lublin (Ba
Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh
ở Belorussya. Trên
đường, t́nh cờ nhặt được
một mẩu báo, ông mới
biết hai anh ông đă tử
trận trong cùng một ngày
trên hai mặt trận khác
nhau. Paustovsky vội vă
trở về với mẹ. Bà cụ lúc
đó đang ở Moskva.
Nhưng Paustovsky không
thể ngồi lâu một chỗ.
Bệnh xê dịch giày ṿ ông
và ông lại lên đường,
tiếp tục cuộc sống nay
đây mai đó. Ông đi
Ekaterinoslav để làm
việc trong nhà máy luyện
kim của công ty
Briansky. Rồi bỏ đấy mà
đi Yuzovka, từ đó đến
Taranrog, làm trong các
nhà máy. Ở Taranrog,
Paustovsky khởi viết
cuốn tiểu thuyết đầu tay
của ḿnh - "Những Kẻ
Lăng Mạn". Mùa thu năm
1916, Paustovsky lại một
lần nữa bỏ Taranrog để
đến nhận công tác tại
Công ty liên hiệp hải
sản Azovskoye.
Cách mạng Tháng Hai
bùng nổ khi
Paustovsky đang ở
Moskva. Lúc đó ông
đă bước vào nghề
báo. Ông viết: "Sự
h́nh thành con người
và nhà văn trong tôi
bắt đầu từ những năm
ấy, nó xảy ra dưới
chính quyền xô-viết
và quyết định toàn
bộ cuộc đời tôi từ
đấy về sau".
Sau thời gian ở
Moskva, ông lại quay
về với mẹ, bà cụ lúc
ấy đă sống ở
Ukraina. Từ Kiev,
nơi ông chỉ cư ngụ
một thời gian ngắn,
Paustovsky đi
Ôđessa. Ở thành phố
cửa biển này ông
được sống trong môi
trường các nhà văn
trẻ và tài năng:
Ilf, Bagritzky,
Babel, Shenghel, Lev
Slavin... Nhưng rồi
ông lại giă từ những
người bạn tuyệt vời
của ḿnh để trở về
để tiếp tục cuộc
hành tŕnh vô định.
Ông đi Sukhum,
Batum, Tifflis. Từ
Tifflis, Paustovsky
đến Armenya, rồi
lang bạt sang tận Ba
Tư.
Năm 1923, Paustovsky
trở về Moskva trong
một chuyến dừng
chân, xin làm biên
tập viên cho một tờ
báo. Cũng từ đó tên
tuổi của ông bắt đầu
trở thành quen thuộc
với độc giả qua
những tác phẩm nối
tiếp nhau ra đời.
Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự của ông là tuyển tập truyện ngắn "Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau".
Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn "Kara-Bugaz" và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đă kể lại khá tỉ mỉ trong "Bông Hồng Vàng".
Sau khi "Kara-Bugaz" ra đời, Paustovsky xin ra ngoài biên chế, tức là thôi không làm cho nhà nước và ăn lương nhà nước nữa, để chuyên viết văn, "cái công việc duy nhất, choán hết mọi việc khác, có lúc thực cay cực, nhưng là cái bao giờ tôi cũng yêu mến". Ở chế độ xă hội chủ nghĩa, việc xin ra ngoài biên chế để sống tự do được coi như một việc làm không b́nh thường, một hành động rồ dại, hoặc một hành động dũng cảm, tuỳ theo cách nh́n của mỗi người.
Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky c̣n đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước xô-viết, từ bán đảo Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến những bờ biển ấm áp vùng Krym tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra, ông c̣n đến Tiệp Khắc, đi tàu biển ṿng quanh châu Âu, qua các thành phố Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm...
Trong
đại
chiến
thế giới
lần thứ
hai, ông
làm
phóng
viên
chiến
tranh
của Mặt
trận Nam
và ở đó
ông cũng
đi rất
nhiều.
Đời ông, từ lúc c̣n nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi kư "Những Năm Xa Xôi", "Tuổi Trẻ Không Yên", "Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết".
Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho ḿnh. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném ḿnh vào trong những xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự ḿnh tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nh́n những nhà văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nh́n khinh bỉ.
Ông không chỉ viết nhiều, mà c̣n viết hay. Hiếm có nhà văn nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi c̣n sống [2].
Paustovsky là nhà văn không biết hài ḷng về ḿnh. Ông luôn nói rằng những ǵ ông đă viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự th́ bao giờ cũng vậy, c̣n ở phía trước.
o0o
Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt.
Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm băo tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào ḿnh hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và t́nh người. Cuộc sống ấy rơ nét đến nỗi ta có thể nh́n thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những ǵ thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái ǵ không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi v́ những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đă nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: "H́nh như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng ḿnh đă lớn thêm một chút trong tâm hồn". Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn - trong thực có hư, trong hư có thực.
Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà ḿnh quan sát, rồi ḥa ḿnh vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết th́ cuộc sống ấy đă thành của ḿnh, c̣n hơn của ḿnh nữa, v́ nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những ǵ cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất.
Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào ḷng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc ḷng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không c̣n lệ thuộc chủ đề. Những ǵ không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan ǵ tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem - tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đă được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ư của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết.
Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi b́nh minh chẳng hạn.
Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hăy thử nhớ lại "Chú Bé Chăn Ḅ", "Gió Biển", "Chuyến Xe Đêm", "Người Đầu Bếp Già"... Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đă kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm.
Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người - nhân vật chính - mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian.
Cái "hư" trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không b́nh thường. Cho nên nói về cái b́nh thường bằng con đường t́m kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không b́nh thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp. Nhưng nếu cái không b́nh thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc th́ cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không b́nh thường b́nh dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô t́nh đă đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nh́n thấy cái không b́nh thường trong cái b́nh thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại:
"Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi".
"Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lư. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đ́nh tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nh́n thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải v́ thế mà nó chết dần chết ṃn đâu".
"Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà ḿnh tưởng tượng ra, buồn rầu v́ không thể nh́n thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên c̣n non nớt của tôi".
"Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người b́nh dị, không có ǵ đáng chú ư. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ c̣n rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó."
Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu h́nh vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó.
Ông ra về khi trời đă khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy,lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự - một bầu trời sống - với muôn vàn v́ sao lấp lánh.
"Và thế là tôi thấy tất cả những ǵ tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu h́nh vũ trụ với những cḥm sao giả của nó".
Sau đêm đó, ông vội vă hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú.
Tuy nhiên, không phải cái ǵ khác, mà chính ḷng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đă dạy cho ông biết cách nh́n thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài "Những Kẻ Lăng Mạn", "Những Vầng Mây Lấp Lánh", mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ c̣n để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ ḷng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong c̣n đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống.
Về vấn đề này Paustovsky viết: "Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lăng mạn của chúng"... " Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đ̣i hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đ̣i hỏi như thế"...
"Cái thần thái lăng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống "thô thiển" và t́nh yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lăng mạn... V́ không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của ḿnh làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn".
Ông phải bộc bạch tâm sự ḿnh như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lăng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng "hiện thực xă hội chủ nghĩa" muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đă chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có ǵ trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp [3].
Từ lâu Paustovsky đă có ư định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ư định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai tṛ của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài "Thơ Của Văn Xuôi" đăng trong tạp chí "Ngọn Cờ" (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ư sáng tác một cuốn sách về nghề văn đă nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đă bắt đầu, nhưng chiến tranh đă ngăn trở ông hoàn thành nó.
Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lư sáng tác đă được đề cập. V́ các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của tṛ, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ư tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng h́nh thức này hay h́nh thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học.
Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. "Bông Hồng Vàng" ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí "Tháng Mười" (Oktiabr).
Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết ("Bông Hồng Vàng" đă được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương "Ngôn Ngữ Kim Cương" và "Những Cuốn Từ Điển". Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu... của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác.
Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản th́ cũng là một cái ǵ mất mát so với nguyên bản. Trong "Bông Hồng Vàng", sự mất mát đó không phải là ít.
Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đă giúp tôi rất nhiều.
Bởi v́ mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một h́nh ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải t́m cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong ḷng ḿnh một niềm vui, niềm vui này đă giúp tôi vượt qua những khó khăn.
Bởi v́ trong khi dịch "Bông Hồng Vàng", tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quư và vi thế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ư nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc.
Bởi v́, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky.
VŨ THƯ HIÊN
-----------------
[1] Người Nga, xuất thân từ các chiến binh chống lại các cuộc xâm lăng của Thổ Nhĩ Kỳ và người Tartar, sống thành một cộng đồng lớn ở vùng Nam Nga, thường được gọi là cô-dăc (cosaques) trong các bản dịch từ tiếng Pháp. Phân biệt với người Kazakh, cư dân nước Kazkhstan
[2] Hiện nay ở Moskva có một đường phố mang tên Konstantin Pautovsky.
[3] “Lời Nói Đầu” này được in trong lần xuất bản thứ nhất của bản dịch “Bông Hồng Vàng”. Lần xuất bản thứ hai nó bị bỏ đi, liên quan đến việc tên người dịch bị cấm. Trong lần xuất bản này có một số sửa chữa nhỏ.
Lời Tác Giả
Tặng Tatiana Alexeevna Paustovskaia
- bạn đời chung thủy của tôi
Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại. Chỉ ḿnh nó không công nhận cái chết.
Saltưkov Sheđrin
Lúc nào cũng phải hướng tới cái tuyệt mỹ.
Honoré de Balzac [1]
Nhiều điểm trong cuốn sách này tŕnh bày c̣n rời rạc, và rất có thể,
chưa được sáng sủa cho lắm.
Nhiều điểm sẽ c̣n phải tranh luận.
Cuốn sách này không phải là một công tŕnh nghiên cứu lư thuyết,
càng không phải là một kim chỉ nam. Đây chẳng qua chỉ là những ghi
chép về cái nh́n của tôi đối với nghề văn và về kinh nghiệm của
riêng tôi.
Những vấn đề lớn được dùng làm cơ sở tư tưởng cho nghề văn của chúng
ta không được đề cập trong cuốn sách này v́ ở nước ta không có những
bất đồng lớn trong lĩnh vực đó. Đối với tất cả mọi người, tính chất
anh hùng và ư nghĩa giáo dục của văn học đă rơ ràng.
Trong cuốn sách này tôi chỉ tạm kể chút ít những ǵ tôi kịp kể.
Nhưng nếu như tôi truyền đạt được tới bạn đọc, dù chỉ trong một
chừng mực ít ỏi, khái niệm về bản chất tuyệt vời của lao động nhà
văn th́ tôi dám coi như đă làm tṛn bổn phận của tôi đối với văn học.
Konstantin Paustovsky*
------------
Chú thích:
[1] Nhà văn Pháp (1799-1850)
* Trong cuốn này những từ riêng của Nga được phiên âm theo cách đọc
tiếng Việt (đối với những âm không có âm tương ứng, th́: Sh đọc như
s rất uốn lưỡi, zh đọc như g(i) rất uốn lưỡi, tz đọc như tx, f đọc
như ph). Những tên người, địa danh các nước khác được để nguyên dạng.
Bụi quư
Tôi không sao nhớ ra được bằng cách nào tôi đă biết được câu chuyện
về anh thợ quét rác thành Paris tên là Jean Chamet. Chamet sống bằng
nghề quét dọn các xưởng thủ công trong khu phố anh ở.
Nhà của Chamet là một túp lều ở ngoại ô. Tất nhiên,
tôi có thể miêu tả tỉ mỉ khu vực Chamet cư ngụ và bằng cách đó đưa
độc giả đi xa khỏi cốt truyện. Nhưng có lẽ chỉ cần nói rằng cho đến
nay ở ngoại thành Paris vẫn c̣n lại những bức tường pháo đài bằng
đất cũng đủ. Vào thời gian xảy ra câu chuyện này, những bụi kim ngân
và sơn trà vẫn mọc um tùm trên tường thành và chim chóc làm tổ trong
những bụi đó.
Túp lều của anh thợ quét rác nằm ép sát chân tường
pháo đài mặt bắc, kế bên những căn nhà bé bỏng của các bác hàng
thiếc, các bác thợ giày, những tên du thủ du thực và đám hành khất.
Giá mà Maupassant [1]
để mắt đến cuộc sống của số cư dân trong những túp lều nọ, hẳn ông
đă viết thêm được vài truyện ngắn tuyệt diệu. Có khi những truyện ấy
c̣n mang lại cho vinh quang vốn đă vững chắc của ông thêm nhiều ṿng
nguyệt quế nữa cũng nên.
Đáng tiếc là người ngoài cuộc chẳng có ai để mắt đến
những nơi ấy, trừ lũ mật thám. Mà mật thám th́ cũng chỉ ló mặt tới
đây mỗi khi họ phải lùng xục t́m đồ mất trộm mà thôi.
Bằng vào cái biệt hiệu "Gơ kiến" mà xóm giềng đặt
cho Chamet, ta phải h́nh dung anh là một người gầy g̣, mũi nhọn và
dưới vành mũ bao giờ cũng tḥ ra một lọn tóc.
Trước kia, Chamet đă từng có một cuộc sống dễ chịu.
Anh đăng lính trong quân đội của "Tiểu Napoléon", hồi chiến tranh
Mehico.
May cho Chamet. Anh bị sốt rét nặng ở Veracruz. Và
thế là anh lính ốm yếu chưa từng một lần đọ súng thực sự nào liền bị
tống về nước. Viên chỉ huy trung đoàn nhân tiện bèn gửi anh mang đứa
con gái lên tám của ông là Suzanne về theo.
Viên chỉ huy của Chamet góa vợ, thành thử đi đâu ông
ta cũng lếch thếch tha mụn con gái đi cùng. Nhưng lần này ông đành
phải chia tay với con gái và gửi nó về cho bà chị ở Rouen. Khí hậu
Mehico rất độc đối với trẻ con châu Âu. Hơn nữa, trong cuộc chiến
tranh du kích bát nháo ở nơi này chẳng thiếu ǵ những nguy hiểm bất
ngờ.
Trên đường về Pháp, khí nóng bốc ngùn ngụt trên Đại
Tây dương. Con bé suốt ngày lặng thinh. Thậm chí nh́n những con cá
bay vọt lên khỏi mặt nước bóng nhẫy nó cũng chẳng buồn mỉm cười.
Chamet ra sức chăm sóc Suzanne. Tất nhiên, anh cũng
hiểu rằng con bé không chỉ mong được anh chăm sóc, mà c̣n muốn được
anh âu yếm, vuốt ve. Khốn nỗi, một tên lính quèn của trung đoàn
thuộc địa như anh th́ làm sao có thể nghĩ ra được cái ǵ cho tŕu
mến kia chứ? Anh có thể mua vui cho nó bằng cách nào đây? Đánh mạt
chược với nó chăng? Hay là hát cho nó nghe những bài ca tục tĩu của
lính tráng.
Nhưng dù sao th́ cũng không thể nín lặng măi. Càng
ngày anh càng bắt gặp nhiều thêm những cái nh́n băn khoăn của con
bé. Cuối cùng, anh đánh liều kể cho nó nghe về cuộc đời ḿnh. Một
cách không mạch lạc, anh kể lại cho nó nghe những t́nh tiết hết sức
vụn vặt về một vạn chài trên bờ biển Manche, những băi cát tơi,
những vũng nước đọng khi triều xuống, ngôi nhà thờ nhỏ trong thôn
nhà anh với quả chuông rạn, chuyện mẹ anh đă chữa cho hàng xóm khỏi
chứng rát họng như thế nào.
Trong những mẩu kư ức đó Chamet cho rằng chẳng có ǵ
khả dĩ làm cho Suzanne vui lên được. Nhưng anh ngạc nhiên biết bao
khi thấy con bé lại háo hức nghe chuyện anh, thậm chí nó c̣n bắt anh
kể đi kể lại những chuyện ấy, đ̣i biết thêm những t́nh tiết mới.
Chamet nặn óc t́m cho bằng ra những t́nh tiết ấy,
cho đến khi anh không c̣n tin là chúng có thật. Đó không c̣n là
những mẩu kư ức nữa, mà chỉ là bóng mờ của chúng. Chúng tan ra như
những mảnh vụn của sương mù. Thực vậy, Chamet không bao giờ có thể
ngờ rằng có lúc anh sẽ phải khôi phục trong trí nhớ quăng thời gian
vô tích sự ấy của đời ḿnh.
Một hôm, Chamet chợt mang máng nhớ tới một bông hồng
vàng. Bông hồng thô kệch bằng vàng kim đă xuống nước ấy, được móc
vào cây thập giá Chúa trong ngôi nhà một bà lăo dân chài, chính mắt
anh đă thấy. Có lẽ là như thế, mà cũng có thể là anh chỉ nghe láng
giềng kể về nó.
Không, đúng là anh đă thấy nó thật, anh c̣n nhớ rơ
nó lấp lánh thế nào, mặc dầu ngoài trời không có nắng và một cơn băo
buồn thảm đang sục sôi trên eo biển. Càng về sau Chamet càng h́nh
dung rơ hơn cái ánh lấp lánh ấy: nó giống như mấy ngọn lửa nhỏ sáng
lên dưới một trần nhà thấp.
Người trong vạn chài thẩy đều ngạc nhiên thấy bà lăo
nọ khăng khăng không chịu bán báu vật của bà. Bán nó đi bà sẽ sống
dư dật. Riêng có mẹ Chamet là quả quyết rằng bán bông hồng đi là có
tội, bởi v́ nó là quà chúc phúc của người t́nh bà lăo tặng bà khi bà
c̣n là một cô gái tươi hơn hớn tại nhà máy đóng hộp cá cá ṃi ở
Odern.
- Trên thế gian này những bông hồng bằng vàng như
thế hiếm lắm, con ạ - mẹ Chamet nói - Nhà nào có nó nhà ấy sẽ có
hạnh phúc. Mà không riêng họ đâu, con ơi, người nào chỉ chạm vào
bông hồng thôi, người ấy cũng sẽ được hạnh phúc.
Thằng bé Chamet mỏi mắt chờ cái ngày cuộc sống hạnh
phúc đến với bà lăo dân chài. Nhưng hạnh phúc chẳng thấy đâu, thậm
chí bóng dáng của nó cũng chẳng có. Ngôi nhà của bà lăo run rẩy
trước gió và tối tối trong nhà chẳng có ánh lửa.
Thế rồi Chamet bỏ làng ra đi, không được thấy ngày
đổi đời của bà lăo. Măi một năm sau, anh bạn Chamet làm thợ đốt ḷ
trên con tàu chở thư ở Le Havre mới cho anh hay rằng con trai bà lăo
vừa mới từ Paris đột ngột trở về, một anh chàng tính t́nh kỳ cục,
râu xồm, vui nhộn... Từ ngày ấy túp lều của bà lăo thay đổi hẳn, khó
mà nhận ra. Nó trở nên ồn ào và dư dật. Thiên hạ kháo nhau rằng bọn
họa sĩ vẽ lăng vẽ nhăng thế mà kiếm được ối tiền.
Một hôm, ngồi trên boong tàu, Chamet đang dùng chiếc
lược sắt chải mớ tóc rối tung trước gió cho Suzanne th́ con bé bỗng
hỏi anh:
- Anh Jean ơi anh Jean, rồi cũng sẽ có người cho em
một bông hồng vàng chứ?
- Có thể lắm. - Chamet trả lời - Rồi cũng sẽ có một
thằng dở hơi nào đó cho em, Suzanne ạ! Ở đại đội anh ấy mà, em biết
không, có một tay c̣m nhỏm c̣m nhom, mà tốt số lạ lùng. Hắn ta lượm
được trên chiến trường một cái hàm giả đă gẫy, bằng vàng. Tụi anh
mới đem cái hàm giả ấy đi bán lấy tiền nhậu một bữa, cả đại đội.
Chuyện xảy ra lâu rồi, từ hồi chiến tranh Annam ḱa. Đám pháo thủ
say khướt bèn lôi súng cối ra bắn chơi, thế quái nào một viên đạn
lại rơi trúng miệng một núi lửa đă tắt rồi nổ tung trong đó. Núi lửa
giật ḿnh thở ph́ ph́, và phun lửa. Mẹ kiếp, không nhớ cái núi ấy
tên ǵ nhỉ? Đâu như Kraka-Taka th́ phải. Chao ôi, nó phun mới dữ làm
sao! Bốn chục dân bản xứ đang yên lành lăn cổ ra chết tốt. Chỉ v́
một cái hàm giả đă gẫy mà ngần ấy con người ta toi mạng, thật là quá
quắt! Về sau mới vỡ lẽ ra rằng cái hàm giả ấy là của chính ông đại
tá của bọn anh đánh rơi. Vụ cái hàm giả sau rồi cũng yên - uy tín
quân đội trên hết mà. Nhưng bọn anh đận ấy say bí tỉ, em ạ.
- Ở đâu kia hả anh? - Suzanne ngờ vực hỏi.
- Anh nói rồi mà, ở xứ Annam, ở Indochine ấy. Ở đấy
em ạ, đại dương bốc cháy cứ bùng bùng chẳng khác ǵ dưới hoả ngục,
c̣n lũ sứa th́ uốn éo lượn lờ y như những tấm váy riềm ren của vũ
nữ. Lại c̣n ẩm nữa chứ, eo ơi là ẩm, ẩm đến nỗi chỉ một đêm thôi,
trong ủng bọn anh nấm đă mọc đầy. Thật đấy, anh mà nó bịa th́ giời
đánh thánh vật anh đi.
Trước đấy, Chamet đă nghe không biết bao nhiêu là
chuyện tào lao của lính tráng, nhưng riêng anh, anh chưa từng bịa.
Không phải anh không biết bịa, chẳng qua chưa bao giờ anh cần phải
làm việc đó. Giờ đây anh coi việc làm cho Suzanne vui là một bổn
phận thiêng liêng.
Chamet đưa con bé đến Rouen và trao tận tay bác gái
của nó - một người đàn bà cao đuồn đuỗn, đôi môi tái nhợt mím chặt.
Khắp ḿnh bà ta toàn hạt cườm đen, trông chẳng khác ǵ một con rắn ở
gánh xiếc.
Vừa nhác thấy bà bác, con bé bám chặt ngay lấy
Chamet và nép vào cái áo ca-pốt bạc phếch của anh.
- Không việc ǵ đâu! - Chamet th́ thầm và khẽ ủi vào
vai, đẩy Suzanne ra. - Bọn lính trơn các anh, em ạ, cũng chẳng có
quyền chọn cho ḿnh các ông chỉ huy đại đội. Thôi, chịu khó vậy,
Souzi, em cũng con nhà lính mà!
Chamet bỏ đi. Anh ngoảnh lại mấy lần, nh́n lên những
khung cửa sổ của ngôi nhà buồn tẻ, nơi đến gió cũng chẳng buồn lay
động những bức rèm. Nghe rơ tiếng đồng hồ hối hả trong những quán
nhỏ nơi phố hẹp. Chamet c̣n giữ lại trong túi dết một kỷ niệm của
Suzanne, một cái nơ buộc tóc màu xanh đă nhàu nát. Không hiểu sao
cái nơ lại có mùi thơm dịu dàng đến thế, như thể nó được để lâu
trong một giành hoa tím.
Bệnh sốt rét Mehico tàn phá sức khỏe Chamet. Anh
chưa được thăng chức đội th́ đă bị sa thải rồi. Chamet trở về cuộc
sống dân thường với hàm binh nh́.
Năm tháng qua đi trong cảnh thiếu thốn đơn điệu.
Chamet nếm hết nghề khốn khổ này đến nghề khốn khổ khác, để rồi cuối
cùng trở thành thợ quét rác. Từ đó, mùi bụi bậm và rác rưởi lúc nào
cũng ảm vào anh. Anh thấy nó cả trong gió thoảng từ sông Seine luồn
vào trong các phố, cả trong những bó hoa ướt mà các lăo bà ăn vận
sạch sẽ đứng bán trên các đại lộ.
Ngày lại ngày quyện lấy nhau trong một màu vàng đục.
Nhưng đôi khi trong cái màu vàng đục ấy, Chamet lại thấy trong ḷng
ḿnh hiện lên một áng mây hồng - đó là bộ áo dài cũ của Suzanne. Từ
tấm áo ấy phảng phất hương xuân tươi mát như thể người ta cũng để nó
lâu trong một giành hoa tím.
Suzanne giờ ở đâu? Sống ra sao? Chamet biết giờ đây
Suzanne đă là một thiếu nữ, c̣n cha nàng th́ đă tử trận.
Đă nhiều lần Chamet toan đi Rouen thăm Suzanne.
Nhưng anh cứ lần lữa măi, cho đến khi chợt hiểu ra rằng ḿnh đă bỏ
lỡ dịp và Suzanne chắc cũng đă quên hẳn anh rồi.
Anh tự mắng ḿnh là đồ bị thịt, khi nhớ đến cuộc
chia tay với Suzanne. Đáng lẽ phải hôn con bé th́ anh lại ấn vào
lưng nó, đẩy nó tới chỗ con quạ già nọ và bảo: "Chịu khó vậy, Souzi
ạ, em cũng con nhà lính mà!".
Ai cũng biết thợ quét rác chỉ làm việc về đêm. Họ
phải làm đêm như vậy v́ rác rưởi do cái hoạt động náo nhiệt và không
phải lúc nào cũng có ích mà con người ta thải ra tích tụ lại nhiều
nhất vào cuối ngày và ngoài chuyện đó ra, thợ quét rác không được
phép xúc phạm thị giác và khứu giác của dân đất kinh kỳ. Ban đêm hầu
như chẳng ai thấy những người quét rác làm việc thế nào, trừ lũ
chuột cống.
Chamet đă quen với công việc về đêm, thậm chí anh
c̣n thích cái khoảng thời gian ấy là khác. Nhất là lúc ánh b́nh minh
uể oải bắt đầu chọc thủng màn đêm trên thành phố. Sương mù vương vất
trên sông Seine, nhưng sương không bao giờ bốc lên quá thành cầu.
Một hôm, cũng vào một buổi b́nh minh mờ mịt hơi
sương như thế, Chamet đang đi trên cầu Phế Binh th́ bắt gặp một
thiếu phụ mặc áo dài màu tím nhạt viền ren đen. Thiếu phụ đứng bên
thành cầu, cúi nh́n sông Seine.
Chamet dừng lại, cất chiếc mũ bụi bậm xuống và nói:
- Thưa tiểu thư, nước sông Seine giờ này lạnh lắm.
Tiểu thư nên để tôi đưa về nhà th́ hơn.
- Giờ đây tôi cũng chẳng có nhà để mà về, ông ạ.
Thiếu phụ trả lời rất nhanh rồi day mặt nh́n Chamet.
Chamet để rơi chiếc mũ.
- Souzi! - anh nói bằng một giọng tuyệt vọng và sung
sướng đến cực điểm - Cô bé con nhà lính ơi! Cô nhóc của anh ơi! Thế
là cuối cùng anh cũng đă gặp được em. Chắc em quên mất anh rồi. Anh
là Jean Ernest Chamet đây, chính là cái thằng cha binh nh́ ở trung
đoàn thuộc địa số Hai Mươi Bảy đă đưa em về cho mụ bác gái tởm lợm ở
Rouen đây. Souzi ơi, giờ em mới xinh dẹp làm sao! Tóc em chải khéo
ơi là khéo! C̣n anh, thằng lính quèn này th́ đến chải đầu cho em
thôi cũng chẳng biết cách.
- Ôi, anh Jean! - thiếu phụ kêu lên, đâm bổ tới, đeo
lên cổ anh và ̣a khóc. - Jean ơi, anh vẫn tốt với em như xưa. Em c̣n
nhớ hết mà!
- Ồ, rơ vớ vẩn chửa ḱa! - Chamet lầu bầu - Ḷng tốt
của anh phỏng có lợi ǵ cho ai mới được chứ! Chuyện ǵ đă xảy ra với
em vậy, em gái bé bỏng của anh?
Chamet kéo Suzanne lại gần ḿnh và làm cái việc mà
anh không dám làm trước kia ở Rouen: anh vuốt ve và hôn lên mái tóc
óng ả của nàng. Rồi anh vội lánh ra, sợ Suzanne ngửi thấy mùi hôi
của chuột cống trên áo ngoài của anh. Nhưng Suzanne lại càng nép
chặt vào vai anh hơn.
- Có chuyện ǵ vậy, em gái bé bỏng của anh? - Chamet
bối rối nhắc lại.
Suzanne không trả lời. Nàng không nén được nức nở.
Chamet hiểu rằng trong lúc này anh chưa nên hỏi chuyện ǵ hết.
- Anh có một cái hang, em ạ, ở chỗ tường thành ấy. -
Chamet hấp tấp - Hơi xa đây một chút. Tất nhiên, ở chỗ anh ở chẳng
có ǵ hết, nhẵn như chùi. Nhưng được cái có thể hâm nước nóng và nằm
ngủ trên giường. Ở nhà anh, em có thể tắm táp và nghỉ ngơi. Và nói
chung, em muốn ở bao nhiêu lâu tùy thích.
Suzanne ở nhà Chamet năm ngày. Năm ngày ấy một mặt
trời kỳ lạ cất lên trên thành Paris. Hết thảy mọi nhà, kể cả những
ngôi nhà ám khói cũ kỹ nhất, tất cả những khu vườn, thậm chí cả cái
hang của Chamet, đều rực lên trong ánh sáng của vầng thái dương ấy,
như thể chúng là những vật báu.
Ai chưa từng xúc động với hơi thở nhè nhẹ của thiếu
nữ trong giấc điệp mơ màng, người đó chưa thể hiểu thế nào là sự dịu
dàng. Môi nàng tươi hơn cả những cánh hoa ẩm ướt và trên mi nàng lấp
lánh những giọt lệ đêm.
Phải, những ǵ đă xảy ra với Suzanne đều đúng như
Chamet dự đoán. Người t́nh của nàng - một diễn viên trẻ - đă phụ
nàng. Nhưng năm ngày Suzanne sống bên Chamet đă đủ để cho cặp t́nh
nhân làm lành với nhau.
Chamet tham dự vào việc ḥa giải đó. Anh phải mang
thư của Suzanne đến cho anh chàng diễn viên, và anh đă cho cái gă
điển trai đáng ngán nọ một bài học về phép lịch sự khi gă định dúi
vào tay anh vài xu tiền thưởng.
Ít ngày sau chàng diễn viên đáp xe ngựa đến t́m
Suzanne. Và đâu lại vào đó: một bó hoa, những cái hôn, tiếng cười
qua nước mắt: những lời xin lỗi và vẻ ngượng nghịu hồn nhiên.
Khi đôi trẻ lên đường, Suzanne vội nhảy lên xe, quên
cả từ biệt Chamet. Liền đó nàng sực nhớ, đỏ ửng mặt, ngượng ngùng
đưa tay cho anh.
- Em đă chọn cuộc sống theo ư em, Souzi ơi, giờ đây
anh chỉ c̣n biết chúc em hạnh phúc. - cuối cùng Chamet mới lầu bầu
nói.
- Em chưa biết rồi em sẽ ra sao, anh ơi? - Suzanne
trả lời và mắt nàng ngấn lệ.
- Em băn khoăn mhư vậy thực là vô ích, em bé bỏng
của anh ạ! - anh chàng diễn viên trẻ dài giọng và nhắc lại - Em bé
bỏng xinh đẹp của anh.
- Giá mà có ai tặng em một bông hồng vàng! - Suzanne
thở dài - Nó chắc chắn sẽ mang lại cho em hạnh phúc. Em vẫn nhớ câu
chuyện anh kể trên tàu, anh Jean ạ!
- Biết đâu đấy! - Chamet trả lời - Nhưng dù sao th́
người mang bông hồng vàng đến cho em sẽ chẳng phải là anh chàng quư
phái này đâu. Anh nói thế em đừng giận nhé, anh là thằng lính mà.
Anh không ưa lũ công tử bột.
Hai người trẻ tuổi đưa mắt cho nhau. Gă diễn viên
nhún vai. Chiếc xe chuyển bánh.
Thường thường, cứ hết ngày là Chamet đổ đi tuốt tuột
mọi thứ rác rưởi anh dọn ở các xưởng. Nhưng sau lần gặp Suzanne, anh
thôi không đổ bụi quét ở những hiệu kim hoàn đi nữa. Anh giấu giếm
bỏ chúng vào một cái túi rồi vác về lều. Xóm giềng cho rằng anh
chàng quét rác nọ đă "lẩn thẩn". Hiếm ai biết rằng trong số bụi anh
mang về có chứa một ít bột vàng, bởi v́ những người thợ bạc khi làm
việc thể nào cũng để rơi rớt một chút xíu thứ kim loại quư đó.
Chamet quyết định sàng sẩy lấy vàng để đúc một thoi
nhỏ. Anh sẽ dùng thoi vàng ấy để đánh bông hồng sẽ mang lại hạnh
phúc cho Suzanne. Mà rất có thể, như mẹ anh đă nói, nó c̣n mang lại
hạnh phúc cho nhiều người khác nữa. Biết đâu đấy! Anh quyết không
gặp lại Suzanne nữa, chừng nào bông hồng chưa xong.
Chamet không kể cho ai nghe chuyện đó. Anh sợ cảnh
sát và tất tật những kẻ có quyền chức. Ai biết được bọn quan ṭa
nhiễu sự sẽ giở tṛ ǵ. Họ có thể buộc anh tội ăn cắp, tống anh vào
tù và lấy mất số vàng anh có. Có thể lắm chứ. Dù sao th́ vàng cũng
chẳng phải của anh.
Trước khi đăng lính, Chamet là cố nông trong điền
trang của một ông mục sư ở vùng quê và v́ thế anh biết cách sàng
sẩy. Hiểu biết đó đối với anh bây giờ hóa ra lại có ích. Anh nhớ
rằng khi người ta quạt lúa ḿ th́ những hạt nặng rơi xuống đất, c̣n
bụi th́ gió sẽ cuốn đi.
Chamet làm một cái quạt gió nhỏ và đêm đêm, ở sân
nhà, anh quạt bụi thu lượm được ở các cửa hiệu kim hoàn. Anh hồi hộp
măi cho đến lúc trông thấy mờ mờ một lớp mạt vàng lấp lánh trên ngăn
gỗ.
Đến lúc có đủ mạt để đánh được một thoi vàng th́ đă
mất nhiều thời gian lắm. Nhưng Chamet chưa đưa cho thợ bạc đánh bông
hồng vội.
Không phải Chamet thiếu tiền thuê thợ: bất cứ ông
thợ bạc nào cũng sẵn sàng đánh bông hồng ấy để lấy tiền công bằng
một phần ba thoi vàng, và như thế họ cũng đă hài ḷng lắm.
Nguyên do là ở chỗ khác. Mỗi ngày qua, giờ gặp gỡ
với Suzanne càng gần lại. Nhưng không biết từ lúc nào, Chamet bắt
đầu sợ cái giờ ấy.
Tất cả t́nh cảm tŕu mến từ lâu được giữ kín trong
ḷng, Chamet chỉ muốn dành cho nàng, cho Souzi. Nhưng cái t́nh cảm
tŕu mến của con người dị dạng như anh phỏng có ích cho ai? Từ lâu
Chamet đă thấy mỗi khi gặp anh, thiên hạ chỉ muốn bỏ đi cho nhanh để
quên phứt bộ mặt hốc hác xám ngoét với làn da chảy xệ và đôi mắt
nh́n cḥng chọc của anh.
Trong túp lều của Chamet có một mảnh gương vỡ. Họa
hoằn lắm Chamet mới soi gương, nhưng hễ cứ soi vào là anh văng tục
và quăng vội nó đi. Thà đừng nh́n thấy ḿnh, cái thân h́nh gớm ghiếc
lê lết trên đôi chân tê thấp khập khiễng, c̣n hơn.
Cuối cùng, khi đă đánh xong bông hồng, Chamet mới
biết Suzanne đă rời Paris đi sang Hoa Kỳ từ một năm trước và, người
ta nói, nàng đi hẳn, không trở lại nữa. Không ai có thể cho Chamet
biết địa chỉ của nàng.
Thoạt đầu, Chamet thấy nhẹ hẳn người. Nhưng rồi
không hiểu v́ sao, tất cả nỗi chờ mong cuộc gặp gỡ đầm ấm và thanh
thản với Suzanne đă biến thành một mảnh sắt rỉ. Mảnh sắt nhọn ấy mắc
trong lồng ngực anh, ngay bên tim, và Chamet cầu Trời cho nó mau mau
đâm thẳng vào trái tim ốm yếu đi, cho nó vĩnh viễn ngừng đập.
Chamet bỏ việc quét dọn các xưởng. Anh nằm bẹp trong
túp lều của anh mấy ngày liền, quay mặt vào tường. Anh im lặng và
chỉ mỉm cười một lần, đưa cánh tay áo cũ lên mắt. Không ai trông
thấy anh khóc. Hàng xóm láng giềng chẳng ai thăm anh: người nào cũng
có chán vạn lo âu và bận bịu của ḿnh.
Chỉ có một người chăm sóc Chamet. Đó là ông thợ bạc
đứng tuổi đă đánh từ thoi vàng ra một bông hồng rất mực tinh xảo.
Cùng trên một cành, ngay bên cạnh bông hoa, ông ta đánh thêm một nụ
hồng bé và nhọn.
Ông thợ bạc thường đến thăm Chamet, nhưng không mang
thuốc cho anh. Ông nghĩ rằng có mang thuốc cho anh cũng bằng thừa.
Thực thế, Chamet lặng lẽ qua đời trong một lần đến
thăm của ông thợ bạc. Ông ta nâng đầu anh thợ quét rác lên, lật cái
gối xám bẩn và lôi ra bông hồng vàng bọc trong một cái nơ nhầu nát
màu xanh. Rồi khẽ khép cánh cửa cọt kẹt, ông ta thong thả đi ra. Từ
cái nơ bay lên mùi hôi của loài chuột.
Lúc đó vào cuối thu. Màn đêm rung động v́ gió và v́
những đốm lửa nhấp nháy. Ông thợ bạc nhớ đến nét đổi thay trên mặt
Chamet sau khi anh chết. Bộ mặt anh trở nên nghiêm nghị và trầm tĩnh.
Ông ta thấy niềm cay đắng hiện trên mặt anh c̣n tuyệt đẹp nữa là
khác.
"Cuộc sống không cho người ta cái ǵ th́ cái chết
cho người ta cái ấy", ông thợ bạc vốn quen với những ư nghĩ rẻ tiền
nghĩ như vậy và thở dài năo nuột.
Ít lâu sau ông ta đem bông hồng vàng nọ bán cho một
nhà văn già ăn vận lôi thôi lốc thốc, và theo ông thợ bạc nhận xét,
th́ nhà văn này cũng chẳng giàu có ǵ cho lắm để có thể bỏ tiền ra
mua một vật đắt đến như thế.
Hẳn câu chuyện về bông hồng vàng do ông thợ bạc kể
lại cho nhà văn đă đóng vai tṛ quyết định trong việc mua bán nọ.
Chúng ta phải mang ơn nhà văn già, nhờ những ghi
chép của ông mà sau này mới có người biết được câu chuyện cay đắng
trong đời người cựu binh trung đoàn thuộc địa thứ Hai Mươi Bảy là
Jean Chamet.
Trong những ghi chép của ông, nhà văn viết:
"Mỗi phút, mỗi lời t́nh cờ được nói ra và mỗi cái
nh́n vô t́nh ta bắt gặp, mỗi ư nghĩ sâu sắc hoặc bông đùa, mỗi rung
động thầm lặng của con tim, thậm chí một bông tiêu huyền xốp đang
bay lượn, hay lửa sao trong một vũng nước đêm - tất cả những cái đó
đều là những hạt rất nhỏ của bụi vàng.
Chúng ta, những nhà văn, chúng ta ḅn đăi chúng
trong hàng chục năm, hàng triệu những hạt cát đó, thu góp chúng lại
cho ḿnh, một cách thầm lặng mà chính ḿnh cũng không nhận thấy,
biến chúng thành một hợp kim và rồi từ hợp kim ấy ta đánh "bông hồng
vàng" của ta - truyện, tiểu thuyết hay là thơ".
Bông hồng vàng của Chamet!
Đối với tôi, nó phần nào là h́nh tượng tương lai của
hoạt động sáng tạo của chúng ta. Thật là lạ, chẳng có ai chịu khó
nghiền ngẫm xem từ những hạt bụi quư ấy đă khởi sinh nguồn văn học
sống động như thế nào.
Nhưng cũng giống như bông hồng vàng của người thợ quét
rác kia được tạo ra v́ hạnh phúc của Suzanne, sáng tác của chúng ta
được tạo ra là để cho cái đẹp của đất đai, cho lời kêu gọi đấu tranh
v́ hạnh phúc, cho niềm vui và tự do, cho cái cao rộng của tâm hồn
người, cho sức mạnh của trí tuệ sẽ chiến thắng bóng tối, để chúng
vĩnh viễn rực rỡ như một mặt trời không bao giờ tắt".
------------
Chú thích:
[1] Guy de Maupassant (1850-1893), nhà văn Pháp.
Chữ đề trên tảng phiêu nham
Niềm vui trọn vẹn chỉ tới với nhà văn khi nào
anh ta tin chắc rằng lương tâm ḿnh không có
ǵ trái ngược với lương tâm của những người
xung quanh.
Saltưkov Shedrin
Tôi ở trong một ngôi nhà nhỏ dựng trên vùng cồn
cát. Cả một vùng ven biển Riga ngập trong tuyết. Từ những ngọn
thông ṿi vọi, tuyết không ngừng bay xuống như những món tóc dài
và tan ra thành bụi. Tuyết bay xuống v́ gió và v́ trên ngọn thông có những con sóc
nhảy. Khi trời thật yên lặng, có thể nghe rơ tiếng sóc gặm nhấm
bóc vỏ quả thông. Ngôi nhà tôi ở nằm sát bờ biển. Chỉ cần ra ng̣ai cửa rào và đi
vài bước theo một con đường nhỏ do chân người dẫm tuyết lên mà
thành, băng ngang một biệt thự đóng im ỉm, là đă nh́n thấy biển
rồi. Ở những khung cửa sổ biệt thự này vẫn c̣n lại những bức rèm cửa
từ mùa hè. Những bức rèm lay động mỗi khi có gió thổi nhẹ. Chắc
gió đă lọt qua những khe hở kín đáo nào đó vào trong cái biệt
thự bỏ trống ấy, nhưng nếu nh́n từ xa anh sẽ tưởng có ai đó đang
kéo chúng lên và canh chừng theo dơi anh. Biển không đóng băng. Tuyết nằm dài đến tận mép nước. Trên tuyết
trông rơ những dấu chân thỏ rừng. Khi ng̣ai biển có một con sóng lớn cất lên, ta không nghe thấy
tiếng sóng đập vào bờ mà lại nghe tiếng băng vỡ và tiếng lạo xạo
của tuyết già. Biển Baltic mùa đông hoang vắng và sầu tư.
Người Latvya gọi Baltic là "Biển lạp phách" (Zintarayura). Người
ta gọi thế có lẽ chẳng phải chỉ v́ Baltic ném lên bờ nhiều lạp
phách mà c̣n v́ nước biển hơi nhuốm sắc vàng của thứ đá nọ. Suốt ngày chân trời nặng chịch những tầng u ám. Đường nét những
bờ biển thấp biến đi trong cái u ám ấy. Chỉ ở đôi nơi có những
dải trắng rũ rượi sà xuống trên mặt biển: tuyết rơi.
Đôi khi, những con ngỗng trời năm nay bay về quá sớm hạ cánh
xuống nước và kêu ầm ỹ. Tiếng kêu hoảng hốt của chúng lan rất xa
trên bờ biển nhưng không có tiếng đáp lại: mùa đông trong những
khu rừng ven biển hầu như không c̣n chim chóc.
Ban ngày trong ngôi nhà tôi ở, cuộc sống quen thuộc vẫn tiếp
diễn. Củi nổ tí tách trong những ḷ sưởi ốp gạch men sặc sỡ, máy
chữ đập rào rào, chị phục vụ ít lời Lilya ngồi trong tiền pḥng
ấm áp và làm ren. Mọi cái đều b́nh thường và giản dị.
Nhưng tối đến th́ bóng đêm đen kịt lại vây chặt ngôi nhà. Những
cây thông sáp lại gần và khi rời gian pḥng rực sáng ánh đèn
bước ra ng̣ai, ta sẽ ngập trong cảm giác hoàn toàn cô độc khi
chỉ có ḿnh ta đối mặt với mùa đông, biển cả và đêm tối.
Biển lùi ra hàng trăm dặm về những phía xa có màu ch́ xám. Không
có lấy một ánh lửa trên mặt nước. Và không có lấy một tiếng sóng
vỗ. Ngôi nhà nhỏ bé giống như ngọn hải đăng cuối cùng bên bờ vực
thẳm vô tận của sương mù. Đất đến đây là hết. V́ thế ta phải
ngạc nhiên khi thấy đèn vẫn b́nh thản sáng trong nhà, máy thu
thanh vẫn ca hát, những tấm thảm mềm mại nuốt mất tiếng bước đi,
trên bàn có những cuốn sách để ngỏ và những tập bản thảo.
Đằng kia, về phía tây, hướng Venspins, sau bức màn tối là một
thôn chài nhỏ bé. Một thôn chài b́nh thường với những tấm lưới
phơi trong gió, với những ngôi nhà thấp tè và khói la đà bay ra
từ những ống khói, những chiếc thuyền máy đen đúa được lôi lên
băi cát và lũ chó cả tin lông xù rũ rượi. Những người đánh cá Latvya đă sống hàng trăm năm trong thôn chài
ấy. Thế hệ này nối thế hệ khác. Những cô gái tóc vàng ươm với
cặp mắt e thẹn và giọng nói thánh thót đă trở thành những bà lăo
da sạm nắng gió, già khọm, quấn ḿnh trong những tấm khăn nặng
nề. Những chàng trai hồng hào diện những chiếc mũ kê-pi điệu
đàng đă trở thành những ông già râu ria tua tủa với cặp mắt trầm
tĩnh. Cũng như hàng trăm năm về trước, những người dân chài ra khơi
đánh cá trích. Và cũng như hàng trăm năm về trước, không phải
tất cả những người trong bọn họ đều trở về. Nhất là về mùa thu,
khi biển Baltic gầm thét trong phong ba và sủi lên bọt sóng lạnh
giá như trong vạc dầu của quỷ sứ.
Nhưng dù có xảy ra chuyện ǵ đi nữa, dù đă bao lần phải ngả mũ
nghe tin bạn chài thiệt mạng, người ta vẫn cứ tiếp tục công việc
của ḿnh, cái công việc nguy hiểm và nhọc nhằn của cha ông để
lại. Không thể lùi bước trước biển cả.
Ng̣ai biển, gần thôn chài, có một tảng phiêu nham lớn. Trên đó,
đă lâu lắm rồi, những người dân chài khắc một hàng chữ "Để tưởng
niệm những ai đă bỏ ḿnh và sẽ bỏ ḿnh trên biển cả". Từ xa có
thể trông rơ hàng chữ ấy. Khi tôi được biết về hàng chữ ấy, tôi cảm thấy nó cũng buồn thảm
như hết thảy các mộ chí. Nhưng anh bạn nhà văn Latvya, người kể
cho tôi nghe chuyện tảng phiêu nham đó, không đồng ư với tôi.
Anh nói: - Trái lại. Đó là một hàng chữ dũng mănh. Nó nói rằng con người
không bao giờ chịu hàng phục và bất chấp tất cả, nó vẫn cứ tiếp
tục công việc của ḿnh. Tôi muốn đặt hàng chữ ấy như một đề từ
cho bất cứ cuốn sách nào nói về lao động và sự bền bỉ của con
người. Đối với tôi hàng chữ ấy có nghĩa đại khái như sau: "Để
tưởng niệm những ai đă thắng và sẽ thắng biển này.
Tôi đồng ư với anh bạn và nghĩ rằng đề từ ấy có lẽ cũng thích
hợp cho cả cuốn sách bàn về lao động của nhà văn.
Nhà văn không thể hàng phục, dù chỉ trong giây lát, trước những
dập vùi và không thể lùi bước trước trở ngại. Dù có thế nào đi
chăng nữa, nhà văn cũng không được ngừng công việc của ḿnh,
công việc do những bậc tiền bối để lại và được người đương thời
ủy thác. Chả thế mà Saltưkov Shedrin đă nói rằng nếu như văn học
chỉ im tiếng trong một phút thôi, th́ điều đó cũng chẳng kém ǵ
cái chết của cả một dân tộc. Nghề văn không phải là một nghề thủ công và cũng không phải là
một thứ công việc. Nghề văn là sứ mệnh. Đi sâu vào một số từ,
vào cội nguồn âm hưởng của chúng, ta sẽ bắt gặp nghĩa ban đầu
của chúng. Từ "sứ mệnh" có chung một gốc với từ "tiếng gọi" [1]. Không ai hô hào con người đi làm chuyện vặt. Người ta chỉ kêu
gọi con người làm tṛn bổn phận và thực hiện những nhiệm vụ khó
khăn. Vậy th́ cái ǵ thôi thúc nhà văn đến với cái lao động tuyệt mỹ
nhưng đôi khi cay cực kia? Trước tiên là tiếng gọi của trái tim. Tiếng gọi của lương tâm và
ḷng tin ở tương lai không cho phép nhà văn đích thực sống trên
trái đất như một bông hoa điếc và không truyền đạt hết ḿnh cho
đồng lọai tất cả cái phong phú của tư tưởng và t́nh cảm đang
tràn ngập chính tâm hồn nhà văn. Nếu anh không làm cho nhăn quan của con người tinh tường thêm,
dù chỉ là một phút, anh không phải là nhà văn.
Con người trở thành nhà văn không phải chỉ do tiếng gọi của trái
tim. Chúng ta nghe tiếng gọi của trái tim nhiều hơn hết vào lúc
thiếu thời, khi chưa có ǵ lấn át và đập nát thế giới t́nh cảm
tươi mát của chúng ta. Nhưng rồi tuổi trưởng thành đến và ng̣ai tiếng gọi của trái tim
ta, ta c̣n nghe rành rọt một tiếng gọi mạnh mẽ khác: tiếng gọi
của thời đại ta đang sống và của nhân dân ta, của nhân lọai. Theo lệnh truyền của sứ mệnh, do sự thôi thúc tự bản thân, con
người có thể làm nên những điều kỳ diệu và có thể chịu đựng
những thử thách gay go nhất. Số mệnh của nhà văn Hà Lan Eduard Dekker [2]
là một trong những dẫn chứng về điều đó. Ông kư dưới bút hiệu
"Multatuli". Theo tiếng la-tinh tên đó có nghĩa là "Người chịu
nhiều đau khổ". Có thể là chính ở đây, trên bờ biển Baltic u tối, tôi đă nghĩ
đến Dekker, bởi v́ cũng một biển phương Bắc nhợt nhạt như thế
bao quanh tổ quốc Hà Lan của ông. Ông đau đớn và hổ thẹn nói về
đất nước ḿnh: "Tôi là đứa con của Hà Lan, đứa con của xứ sở
những tên ăn cướp nằm giữa Frisian Islands và Scotland."
Tất nhiên, Hà Lan chẳng phải là đất nước của những tên ăn cướp
văn minh. Những tên ăn cướp này chỉ là một nhúm và chẳng ai coi
chúng là người đại diện cho nhân dân. Hà Lan là đất nước của
những con người cần cù lao động, con cháu của những "gez" dũng
mănh và của Til Ulenshpigel [3].
Đến nay "nắm tro tàn của Klaas” [4]
vẫn lên tiếng trong tim rất nhiều người Hà Lan. Nó cũng lên
tiếng trong trái tim của Multatuli. Xuất thân từ một gia đ́nh thủy thủ, Multatuli ṭng sự ở Java và
sau một thời gian ngắn, ông thậm chí được bổ làm công sứ tại một
trong những tỉnh trên đảo này. Trước mắt ông là quyền cao, chức
trọng, lợi lộc, giàu sang, cả ghế phó vương nữa cũng nên,
nhưng... "nắm tro tàn của Klaas lên tiếng" trong tim ông và
Multatuli đă coi khinh những bổng lộc đó.
Với ḷng dũng cảm hiếm có và chí kiên nhẫn, ông rắp tâm phá từ
trong phá ra mưu toan vĩnh viễn nô lệ hóa dân Java mà nhà cầm
quyền Hà Lan và bọn lái buôn đang tiến hành.
Ông luôn đứng ra bảo vệ người Java, không cho phép kẻ nào làm
nhục họ. Ông thẳng tay trừng trị bọn ăn hối lộ. Ông giễu cợt phó
vương và những cận thần của ông ta- tất nhiên bọn họ đều là
những con chiên ngoan đạo- và ông giải thích hành động của ḿnh
bằng thuyết bác ái của chúa Giêsu. Họ không thể phản đối ông.
Nhưng họ có thể khử ông. Khi cuộc khởi nghĩa của dân Java bùng nổ, Multatuli đă đứng về
phía quân khởi nghĩa, v́ "nắm tro tàn của Klaas vẫn lên tiếng
trong tim ông". Ông viết về những người Java, về những con người
cả tin như con trẻ ấy với một t́nh yêu đằm thắm, và ông viết về
đồng bào ḿnh với tất cả nỗi căm giận. Ông vạch trần cái mưu mẹo bỉ ổi trong chiến đấu của bọn tướng
lĩnh Hà Lan. Người Java ăn ở rất sạch sẽ và không chịu nổi nhơ bẩn. Lợi dụng
đặc tính ấy của họ, đám tướng lĩnh Hà Lan tính độc kế.
Quân lính Hà Lan được lệnh ném cứt vào người Java trong khi giao
chiến. Và người Java không run sợ trước lửa đạn băo táp của quân
thù không chịu nổi cái lối đánh nhau đê tiện như vậy, đă phải
tháo lui. Multatuli bị cách chức và bị đuổi về châu Âu.
Mấy năm trời ṛng ră ông đ̣i quốc hội Hà Lan trả lại lẽ công
bằng cho người Java. Đi đâu ông cũng nói tới chuyện đó. Ông viết
kiến nghị gửi các bộ trưởng, tŕnh lên nhà vua.
Nhưng vô ích. Người ta nghe ông, miễn cưỡng và vội vă, cho qua
chuyện. Họ gọi ông là một tên gàn dở nguy hiểm, thậm chí một
thằng điên. Ông không t́m đâu ra việc làm. Gia đ́nh ông đói khổ. Lúc ấy, theo tiếng gọi của trái tim, nói cách khác, nghe theo
cái sứ mệnh vốn vẫn sống trong ḷng ông, tuy trước đó chưa rơ
rệt, Multatuli bắt đầu viết. Ông viết một cuốn tiểu thuyết vạch
trần bộ mặt thật của người Hà Lan trên đảo Java, cuốn Max
Havelaar, Hay Là Những Tên Lái Buôn Cà Phê". Nhưng đó chỉ là lần
thử bút đầu tiên. Trong cuốn đó h́nh như ông chỉ mới chạm chân
vào mảnh đất nghệ thuật văn chương c̣n chưa vững chắc đối với
ông. Nhưng bù vào đó, cuốn tiếp "Những Bức Thư T́nh" th́ lại được
viết bằng một sức mạnh ghê gớm. Ḷng tin mănh liệt vào lẽ phải
của ḿnh đă cho ông sức mạnh đó. Từng chương trong cuốn sách, lúc th́ như tiếng kêu cay đắng của
con người tuyệt vọng hoàn toàn trước nỗi bất công kinh khủng,
lúc th́ như những bài ngụ ngôn châm biếm sắc sảo và chua cay,
lúc th́ lại như những lời an ủi nhẹ nhàng, đượm màu hài hước
buồn rượi nhằm an ủi người thân, lúc th́ giống như những mưu
toan cuối cùng muốn làm sống lại niềm tin của tuổi ấu thơ. "Không có Trời, mà nếu có Trời th́ Trời phải tốt - Multatuli
viết - Biết đến bao giờ người ta mới thôi bóc lột những kẻ ăn
mày!" Ông rời Hà Lan với hy vọng kiếm ăn ở phương xa. Vợ con ông ở lại
Amsterdam. Ông không có lấy một xu thừa để đưa vợ con đi cùng. Con người bất tiện đối với cái xă hội đứng đắn, con người bị
giễu cợt, bị hành hạ ấy, đi ăn xin qua các thành phố châu Âu và
viết, viết không ngừng. Ông không nhận được thư vợ, v́ đến tiền
tem bà cũng chẳng có. Ông nhớ vợ, nhớ con, nhất là đứa con trai bé bỏng mắt xanh của
ông. Ông lo thằng bé sẽ không c̣n biết mỉm cười tin cậy với mọi
người và ông cầu xin người lớn đừng bắt nó phải nhỏ những giọt
nước mắt trước tuổi. Không ai muốn xuất bản sách của Multatuli.
Nhưng sự lạ đă xảy ra. Một nhà xuất bản lớn của Hà Lan bằng ḷng
mua bản thảo của ông, với điều kiện ông không được phép cho xuất
bản cuốn sách ở bất cứ nơi nào khác.
Multatuli, mệt mỏi đến ră rời, đành nhận lời. Ông trở về tổ
quốc. Người ta thậm chí c̣n cho ông một ít tiền. Nhưng họ mua
bản thảo của ông chỉ cốt để tước vũ khí ông. Cuốn sách được in
ra với một số lượng nhỏ nhoi và bán với giá đắt đến nỗi chẳng
khác ǵ chúng bị thiêu hủy. Bọn lái buôn và chính quyền Hà Lan
không thể ăn ngon ngủ yên chừng nào cái thùng thuốc súng kia
chưa ở trong tay của chúng. Chưa được thấy lẽ công bằng, Multatuli đă qua đời. Mà lẽ ra ông
c̣n có thể viết nhiều cuốn tuyệt hay nữa, những cuốn sách, như
người ta thường nói, được viết không phải bằng mực mà bằng máu
của trái tim. Ông đă đấu tranh hết ḿnh và đă hy sinh. Nhưng ông đă "thắng
biển cả". Và rất có thể, trong một ngày gần đây, trên đảo Java
độc lập, ở Jakarta, người ta sẽ dựng tượng con người đau khổ đă
v́ người quên ḿnh kia. Đó là cuộc đời của con người đă hợp hai sứ mệnh vĩ đại lại làm
một. Multatuli có một bạn đồng nghiệp cũng trung thành hết mực đối
với sự nghiệp của ḿnh như ông; một người Hà Lan cùng thời với
ông: họa sỹ Vincent Van Gogh [5].
Khó mà t́m được một tấm gương sáng về đức hy sinh v́ nghệ thuật
như cuộc đời Van Gogh. Ông mơ ước thành lập ở Pháp một "Liên
minh huynh đệ các họa sỹ"- một thứ công xă, trong đó các họa sỹ
có thể dốc toàn tâm toàn lực vào việc phụng sự hội họa.
Van Gogh đau khổ rất nhiều. Ông đă rơi xuống tận đáy vực tuyệt
vọng của con người trong bức "Những Người Ăn Khoai" và "Giờ Đi
Dạo Của Tù Nhân". Ông cho rằng sự nghiệp của họa sỹ là phải dốc
toàn lực và đem hết tài năng chống lại đau khổ.
Sự nghiệp của họa sỹ là sáng tạo niềm vui. Và ông đă tạo ra nó
bằng những phương tiện mà ông nắm vững hơn hết: màu sắc.
Trên nền vải ông thay đổi bộ mặt của trái đất. Như thể ông đă
rửa đất đai bằng một thứ nước thần, làm cho nó sáng chói lên
những màu trong sáng và đậm đặc đến nỗi mỗi gốc cây già cũng trở
thành một tác phẩm điêu khắc, mỗi cánh đồng cỏ xa trục cũng biến
thành ánh sáng mặt trời hiển hiện trong muôn vàn nhị hoa b́nh
dị. Ông lấy ư chí của ḿnh mà hăm sự đổi thay không ngừng của màu
sắc để ta có thể nhập thân vào cái đẹp của chúng.
Nhưng chẳng lẽ v́ thế mà có thể nói rằng Van Gogh thờ ơ với con
người? Ông đă tặng cho con người cái tốt nhất mà ông có - đó là
khả năng sống trên mặt đất, cái mặt đất chói lọi muôn màu muôn
sắc với những trung độ vô cùng tế nhị của chúng.
Van Gogh là một người cùng khổ, kiêu hănh và không thực tế. Ông
chia sẻ với những kẻ vô gia cư mẩu bánh cuối cùng và biết rất
rơ, bằng kinh nghiệm bản thân, thế nào là bất công xă hội. Ông
coi khinh những thành công rẻ tiền. Tất nhiên, Van Gogh không phải là chiến sỹ. Chất anh hùng của
ông nằm trong ḷng tin hết sức mănh liệt ở tương lai tuyệt đẹp
của người lao động- dân cày và thợ, nhà thơ và nhà bác học. Ông
không thể trở thành chiến sỹ, nhưng ông muốn đóng góp và đă đóng
góp phần của ḿnh vào kho báu của tương lai: đó là những bức
tranh ca ngợi đất đai. Trong mọi h́nh thức của cái đẹp, Van Gogh chọn một: màu sắc. Ông
không ngớt ngạc nhiên trước thuộc tính của thiên nhiên là trong
nó không bao giờ có sự sai lầm trong quan hệ tương ứng giữa các
màu với nhau, trước muôn vàn độ chuyển tiếp của màu sắc, cái
nước sơn luôn luôn thay đổi của trái đất, mà mùa nào cũng đẹp, ở
đâu cũng đẹp. Đă đến lúc phải lấy lại lẽ công bằng cho Van Gogh và các họa sỹ
khác như Vrubel, Borisov, Musatov, Gauguin [6]
và nhiều người khác nữa. Chúng ta cần tất cả những ǵ làm phong phú thêm thế giới bên
trong của con người xă hội chủ nghĩa, tất cả những ǵ nâng cao
đời sống t́nh cảm của họ. Cái chân lư đương nhiên ấy chẳng lẽ
lại cần phải chứng minh?! Lẽ hiển nhiên là chúng ta phải trở thành chủ nhân ông của nghệ
thuật mọi thời đại và mọi nước. Chúng ta phải tống cổ khỏi đất
nước ta bọn đạo đức giả đang điên cuồng chống lại cái đẹp chỉ v́
nó tồn tại độc lập ng̣ai ư muốn của chúng.
Xin các bạn tha lỗi cho tôi v́ những ḍng tùy bút nhảy từ lĩnh
vực văn học vào hội họa này. Tôi cho rằng mọi lọai h́nh nghệ
thuật đều giúp nhà văn hoàn thiện nghề viết. Nhưng về cái đó
chúng ta sẽ có một cuộc nói chuyện riêng biệt.
Không thể để mất cảm giác về sứ mệnh. Nó không thể nào thay thế
được bằng sự tính toán sáng suốt cũng như bằng kinh nghiệm văn
học. Trong quan niệm đúng đắn về sứ mệnh nhà văn hoàn toàn không có
những cái mà bọn ḥai nghi rẻ tiền cố t́nh gán ghép cho nó, cũng
không có cái nhiệt t́nh rởm, cũng như không có quan niệm thổi
phồng nhà văn về vai tṛ đặc biệt của anh ta.
Prishvin [7]
hiển nhiên là người mang sứ mệnh nhà văn. Ông gắn cả đời ông vào
sứ mệnh ấy. Nhưng chính ông lại là người nói ra những lời tuyệt
đẹp rằng "hạnh phúc lớn nhất của nhà văn là không tự coi ḿnh
như một người đặc biệt, một người cô độc, mà là một người như
những người khác".
------------
Chú thích: [1] Dịch theo nghĩa gốc của từ zov (tiếng gọi) và từ
prizvanie (sứ mệnh). Từ prizvanie có từ căn zov bị mất nguyên âm
o. [2] Dekker, Eduard Douwes (1820-1887), nhà văn Hà
Lan, viết dưới bút hiệu Multatuli. Ông là viên chức phục vụ cho
chính quyền thuộc địa Hà Lan từ 1838. Năm 1857 ông kư tên dưới
bản tuyên bố phản đối chính sách thuộc địa của Hà Lan tại Java.
Năm 1860 ông xuất bản một phần cuốn tự truyện Max Havelaar, là
một tập của cuốn Uncle Tom’s Cabin (?), cuốn sách tố cáo những
điều kiện sống tồi tệ của dân bản xứ trong các thuộc địa của Hà
Lan. Những tác phẩm của ông đă mang lại một số điều cải cách
trong hệ thống hành chính thuộc địa. [3] Người dịch không t́m được xuất xứ của hai từ "gez"
và "Til Ulenshpigel". Chắc nó thuộc về một nhân vật văn học dân
gian. [4] Nhân vật trong các chuyện dân gian Hà Lan. [5] Vincent Willem Van Gogh (1853-1890), họa sỹ
trường phái Hậu Ấn tượng, người Hà Lan. Phiên âm cho đúng tiếng
Hà Lan là Phinxen Phan Khôôc. [6] Vrubel, Borisov, Musatov - các họa sỹ Nga thế kỷ
19 và đầu thế kỷ 20. (Eugène Henri) Paul Gauguin (1848-1903),
họa sỹ hậu ấn tượng chủ nghĩa, người Pháp. [7] Nhà văn Nga, nổi tiếng về miêu tả thiên nhiên.
Những bông hoa làm bằng vỏ bào
Thường khi nghĩ đến cái nghiệp văn chương tôi hay tự đặt cho ḿnh
câu hỏi: nó khởi đầu từ bao giờ nhỉ? Và nói chung, nó khởi đầu như
thế nào? Cái ǵ đă buộc ta cầm bút lần đầu để không bao giờ buông ra
nữa cho đến măn đời?
Khó nhất là cái việc nhớ lại xem nó bắt đầu từ lúc nào. Chắc
là cái nghiệp văn chương bao giờ cũng xuất hiện trong con người như
một trạng thái tâm hồn từ rất lâu trước khi ta bắt đầu viết hết
chồng giấy này đến chồng giấy khác. Nó xuất hiện từ thời niên thiếu,
và có thể, từ tuổi ấu thơ.
Trong tuổi thơ và trong thời niên thiếu, thế giới tồn tại
khác hẳn khi ta đă trưởng thành. Với tuổi thơ mặt trời nóng bỏng hơn,
cỏ rậm hơn, mưa to hơn, trời tối hơn và con người nào cũng cực kỳ
thú vị.
Đối với trẻ con th́ bất kỳ người lớn nào cũng là một sinh
vật hơi bí ẩn, dù cho đó là ông thợ mộc với bộ đồ nghề sặc mùi vỏ
bào hay nhà bác học, người biết v́ sao cỏ lại màu xanh.
Sự tiếp nhận một cách thi vị cuộc đời, tất cả những ǵ ở
quanh ta, là tặng phẩm vĩ đại nhất mà tuổi thơ cho ta.
Nếu con người sau nhiều năm dài tỉnh táo không để mất đi
tặng vật ấy th́ người đó sẽ là nhà văn hay nhà thơ. Nói cho cùng, họ
cũng chẳng khác nhau là mấy.
Cảm giác về cuộc sống như một sự đổi mới không ngừng chính
là cái mảnh đất màu mỡ, trên đó nghệ thuật đơm hoa kết quả.
Khi c̣n là học sinh trung học, tất nhiên tôi cũng làm thơ.
Tôi làm nhiều thơ đến nỗi chỉ trong một tháng đă hết veo một quyển
vở dày.
Những bài thơ ấy tồi, hoa mĩ và hào nhoáng, nhưng hồi ấy tôi
lại tưởng chúng rất đẹp.
Bây giờ tôi đă quên những bài thơ ấy rồi. Chỉ c̣n nhớ lơm
bơm đôi đoạn. Thí dụ như những câu này:
Hăy ngắt đi, những nhành hoa sa thấp
Khi mưa rơi lặng lẽ xuống đồng
Và chân trời, nơi chiều thu cháy đỏ
Những chiếc lá vàng tan tác bay đi...
Thế c̣n khá. Càng về sau tôi càng chất đủ mọi thứ hoa mĩ,
thậm chí vô nghĩa vào trong thơ:
Và nỗi nhớ Sadi lấp lánh như ngọc thạch
Trên những trang tháng ngày chậm chạp trôi qua...
Tại sao nỗi nhớ lại "lấp lánh như ngọc thạch" th́ cả lúc ấy,
cả bây giờ, tôi đều không giải thích nổi. Đó chẳng qua chỉ v́ âm
hưởng của những từ lôi cuốn tôi. Tôi không hề nghĩ đến nghĩa của
chúng.
Tôi làm thơ về biển nhiều hơn cả. Lúc đó hầu như tôi chưa
biết biển là ǵ.
Đó không phải là một biển nào rơ rệt, không phải Hắc hải,
không phải Baltic hay Địa Trung hải, mà là một "biển nói chung" hào
nhoáng. Nó gắn lại với nhau tất cả cái phong phú của màu sắc, mọi
thứ phóng đại, tất cả cái lăng mạn viển vông không có người thực,
thời gian thực và không gian địa lư cụ thể. Lúc đó chất lăng mạn ấy
bao trùm cả địa cầu trong mắt tôi như một khí quyển dày đặc.
Đó là một biển tươi vui, có sóng bạc đầu, tổ quốc của những
con tàu có cánh và những người vượt biển gan dạ. Trên các bờ biển,
những ngọn hải đăng tỏa sáng như những viên ngọc bích. Một cuộc sống
vô tư lự sục sôi trên các hải cảng. Những cô gái duyên dáng tuyệt
trần với nước da bánh mật bị ng̣i bút của tôi cuốn vào cơn lốc dục
vọng.
Nói cho đúng, cùng với thời gian thơ tôi cũng bớt dần hào
nhoáng. Tính chuộng lạ cũng mất dần trong thơ.
Thât ra, tuổi ấu thơ và niên thiếu bao giờ cũng chuộng lạ,
dù cho cái lạ đó là của những xứ nhiệt đới hay của thời nội chiến.
Có ai lúc c̣n thơ mà không bao vây các lâu đài cổ, không
chết trên những con tàu viễn dương với những cánh buồm tơi tả nơi eo
biển Magellan hay ở Tân thế giới, không cùng với Chapaev cưỡi cỗ xe
ngựa gắn trung liên phóng băng băng trên những cánh đồng cỏ dại bên
kia dăy Ural, không đi t́m những kho báu mà Stevenson đă giấu rất
tài t́nh trên một ḥn đảo bí mật, không nghe tiếng cờ reo trên trận
địa Borodino hoặc không giúp đỡ Mowgli trong những rừng hoang rậm
rạp xứ Industan.
Tính chuộng lạ truyền cho cuộc sống một chút phi thường cần
thiết cho bất cứ ai c̣n trẻ và nhạy cảm. Denis Diderot đă nói rất
đúng rằng nghệ thuật là ở chỗ t́m ra cái phi thường trong cái b́nh
thường và cái b́nh thường trong cái phi thường.
Dù sao th́ tôi cũng không nguyền rủa thói chuộng lạ mà một
thời niên thiếu tôi đă say mê.
Tôi thường sống ở nhà quê và hay để ư quan sát các tṛ chơi
của lũ trẻ nông trang. Bao giờ chúng cũng thích chơi những tṛ mới
lạ, như vượt đại dương trên những chiếc bè (đại dương đây là một cái
hồ nông có cái tên chẳng lấy ǵ hay ho lắm là hồ "Con bê"), bay lên
các v́ sao hoặc t́m ra những xứ sở bí ẩn. Chẳng hạn, lũ trẻ hàng xóm
của tôi đă khám phá ra một vùng đất chưa người biết đến ở giữa các
đồng cỏ. Chúng đặt tên cho vùng đất ấy là "Lukomorie"(Biển Cỏ). Đấy
là một cái hồ có nhiều vũng nhỏ và đầy cỏ ấu, đến nỗi chỉ ở giữa hồ
mới có một chút nước lấp lánh.
Tính chuộng lạ, tất nhiên, không phải một lúc mà mất hẳn
trong ư thức của tôi. Nó c̣n lại rất lâu như hương thơm bền vững của
hoa đinh hương trong vườn. Nó làm cho cái thành phố Kiev quen thuộc
đến phát ngán của tôi thay đổi hẳn trong mắt tôi.
Ráng chiều vàng lộng lẫy trong các công viên thành phố. Chớp
loang loáng trong bóng đêm bên kia sông Đnepr. Tưởng chừng ở đó có
một nước chưa ai biết đến - một đất nước đầy giông tố và ẩm thấp -
tràn ngập tiếng lá chuyển động ào ào.
Mùa xuân trút xuống thành phố cơ man nào là hoa dẻ vàng nhạt
với những cánh lốm đốm đỏ. Hoa nhiều đến nỗi khi trời mưa chúng rơi
xuống thành từng đống, ngăn nước mưa lại làm cho một số đường phố
biến thành những hồ con.
Nhưng sau cơn mưa th́ bầu trời Kiev lại sáng sủa như một ṿm
đá trăng. Và những vần thơ bỗng dưng được nhớ lại mạnh mẽ lạ thường.
Ôi sức mạnh bí ẩn của mùa xuân
Đang ngự trị với ngàn sao trên trán
Ngươi hiền dịu trên cơi trần nhơ bẩn
Ngươi hứa cho ta hạnh phúc vô ngần...
Những năm những tháng ấy gắn liền với mối t́nh đầu say đắm
của tôi. Đó là một trạng thái kỳ lạ, khi trong mắt ta cô gái nào
cũng đẹp mê hồn. Mỗi nét xuân th́ thoáng qua ngoài phố, trong vườn
hoa, trên xe điện - một khóe mắt thẹn thùng tưởng như đang chú ư đến
ta, hương thơm của mái tóc, hàm răng trắng bóng sau làn môi hé mở,
bắp chân trần khi gió làm tung váy, cái chạm nhẹ vào những ngón tay
lạnh - tất cả những cái đó nhắc tôi rằng hoặc sớm hoặc muộn rồi t́nh
yêu cũng sẽ đến với tôi. Tôi tin chắc như thế. Tôi muốn nghĩ như thế
và tôi đă nghĩ như thế.
Cứ mỗi lần gặp gỡ như vậy là trong tôi lại dấy lên một nỗi
buồn khó hiểu.
Phần lớn tuổi trẻ nghèo túng và thực ra rất cay đắng của tôi
đă qua đi trong những vần thơ và trong niềm xao xuyến mơ hồ.
Sau đó tôi bỏ không làm thơ nữa. Tôi hiểu rằng đó chỉ là cái
hào nhoáng bề ngoài, là những bông hoa làm bằng vỏ bào nhuộm khéo,
một thứ vàng mạ.
Thay vào thơ tôi viết truyện ngắn đầu tiên. Nó có lịch sử
của nó. Tôi sẽ kể lại lịch sử truyện ngắn này trong chương sau.
Truyện ngắn đầu tiên
Từ thị trấn Chernobyl tôi đáp tàu thủy về Kiev theo sông Pripyat.
Mùa hè, tôi sống trong trang viên xơ xác của viên tướng hồi hưu
họ Levkovich - ở gần Chernobyl. Thầy học tôi kiếm được cho tôi
một chân gia sư trong nhà viên tướng nọ. Nhiệm vụ của tôi là kèm
cho cậu ấm gà tồ con ông tướng thi lại hai môn thuộc học kỳ đầu
trong niên khóa.
Ngôi nhà cũ kỹ của viên điền chủ nằm trên một
vùng đất thấp. Tối đến, sương mù lạnh lẽo cuồn cuộn bốc quanh
nhà. Ếch nhái kêu inh ỏi trong những đầm lầy lân cận và mùi đỗ
quyên xông lên phát nhức đầu.
Mấy đứa con trai dở hơi của Levkovich đứng ngay
ở hàng hiên dùng súng trường bắn vịt trời trong bữa trà tối.
Levkovich - một người đàn ông ph́ nộn, dữ tợn,
với bộ ria điểm bạc và đôi mắt đen trợn trừng - suốt ngày ngồi
ĺ trong cái ghế mềm đặt ngoài thềm, thở dốc v́ suyễn. Thỉnh
thoảng ông ta lại hét toáng lên bằng giọng khàn khàn:
- Không phải gia đ́nh nữa, mà là một lũ vô công
rồi nghề! Một quán rượu! Rồi ông tống cổ tuốt tuột chúng bay đi
cho mà xem! Đừng ḥng hưởng gia tài của ông!
Nhưng chẳng có ai để ư đến những tiếng la hét
của ông ta. Bà vợ nắm tay ḥm ch́a khóa trang trại. "Mađam
Levkovich" là một người đàn bà chưa già, lẳng lơ, nhưng bo bo
bom bỏm. Suốt mùa hè bà ta mang cái cóoc-xê kêu sột soạt.
Ngoài lũ con trai vô công rồi nghề, Levkovich
c̣n một mụn con gái trạc hai mươi. Tên cô ả là "Jeanne d'Arc".
Suốt từ sáng đến tối cô ả ngồi trên lưng con ngựa ô hung tợn,
theo cách đàn ông, mà phóng ào ào. Ra cái điều ta đây ngang tàng.
Cô ta thích lặp đi lặp lại một tiếng, hoàn toàn
vô nghĩa trong hầu hết trường hợp : "Coi khinh!".
Khi người ta giới thiệu tôi với cô ta, cô ả ngồi
nguyên trên ngựa mà nh́n thẳng vào mắt tôi, rồi ch́a tay ra,
phán:
- Coi khinh!
Tôi chán ngán, chẳng biết đến khi nào mới thoát
được cái gia đ́nh điên điên khùng khùng ấy và cảm thấy nhẹ hẳn
người khi rốt cuộc rồi cũng ngồi lên được cái đệm cỏ phủ vải gai
trên chiếc xe tải đồ và người xà ích, bác Ignati Loyola (trong
nhà Levkovich mọi người đều mang những tên lịch sử), tục gọi
Ignat, nắm lấy sợi thừng thay cho cương ngựa và chúng tôi thủng
thẳng đi về hướng Chernobyl.
Vừa ra khỏi cổng nhà, xe chúng tôi đă lọt ngay
vào cái tĩnh lặng triền miên của cánh rừng thấp.
Măi chiều tối chúng tôi mới lết được tới
Chernobyl và đành phải ngủ lại trong một quán trọ. Tàu thủy đến
chậm.
Chủ quán là một người Do Thái đứng tuổi, họ
Kusher.
Kusher để tôi ngủ trong một căn pḥng hẹp với
những bức chân dung ông bà ông vải ông ta - những ông lăo râu
bạc đội mũ chỏm bằng lụa, những bà lăo mang tóc giả và quấn khăn
thêu. Mắt các bà lăo trong tranh đều đẫm lệ.
Từ ngọn đèn trong bếp, mùi dầu hỏa hôi ŕnh xông
lên sặc sụa. Vừa mới ngả ḿnh xuống cái đệm nhồi lông chim dày
cộp, tôi đă bị hằng hà sa số rệp từ mọi ngóc ngách xông ra tấn
công.
Tôi chồm dậy, hấp tấp mặc quần áo, bước ra thềm.
Ngôi nhà ở ngay cạnh dải cát bờ sông. Ḍng Pripyat mờ mờ lấp
loáng. Trên bờ sông, gỗ ván xếp từng chồng.
Tôi ngồi xuống ghế dài ngoài thềm, xốc cổ áo
choàng học sinh lên. Đêm lạnh. Tôi thấy rét.
Có hai người lạ mặt ngồi trên bậc thềm. Trong
bóng tối tôi không nh́n rơ mặt họ. Một người hút makhorka, người
kia ngồi gập ḿnh, h́nh như đang ngủ. Từ trong sân vọng ra tiếng
ngáy như sấm của bác Ignati Loyola. Bác ngủ ngay trên đệm cỏ khô
trong xe và giờ đây tôi ghen với bác.
- Rệp hả?
Người hút makhorka cất giọng the thé hỏi tôi.
Nghe tiếng, tôi nhận ra anh ta. Đó là một anh
chàng Do Thái thấp bé, mặt khó đăm đăm, chân đi ủng dạ không
tất. Khi tôi và bác Ignati Loyola vừa đến đây, anh ta mở cổng
cho chúng tôi vào sân và đ̣i trả công mười kopek. Tôi cho anh ta
đồng một hào. Kusher nh́n thấy, từ bên trong cửa sổ kêu ầm lên:
- Cút ngay lập tức khỏi nhà tao, đồ khố rách áo
ôm! Tao nói mày có cả ngh́n lần rồi!
Nhưng anh chàng đi ủng dạ thậm chí chẳng buồn
nh́n lại Kusher. Anh ta nháy mắt với tôi, bảo:
- Ông thấy chửa? Bất cứ một đồng cắc nào cũng
làm hắn ta bỏng tay. Hắn rồi chết v́ tiền cho mà xem, ông cứ nhớ
lấy lời tôi!
Khi tôi hỏi Kusher về anh chàng nọ th́ ông ta
miễn cưỡng đáp:
- Thằng Yoska đấy mà! Cái thằng ấy nó dở người
đấy! Nhưng mà, tôi hiểu cậu nghĩ ǵ rồi... Có điều, nếu cậu chưa
biết sống thế nào cho phải đạo th́ xin cứ trọng thiên hạ trước
đă. Chớ có nh́n người bằng nửa con mắt.
- Này ông, ông c̣n phải trả thêm tiền rệp cho
Kusher nữa cơ đấy - Yoska rít một hơi thuốc, nói với tôi, và tôi
nh́n thấy trên má anh ta những nám râu tua tủa - Con người ta
khi ngửa tay ăn xin để làm giàu, nó không từ bất cứ điều ǵ đâu.
- Yoska! - người từ năy ngồi ngủ gục bất thần
lên tiếng, giọng khàn và dữ tợn - Cớ sao mày làm thiệt đời
Khristya, hở thằng kia? Hai năm trời, chẳng đêm nào tao ngủ
được...
- Ông Nikifor, hoạ có điên mới đi nói những lời
đê mạt như vậy! - Yoska giận dữ kêu lên - Con mà lại làm thiệt
đời Khristya ư? Ông hăy đến đức cha Mikhail của ông mà hỏi xem
đứa nào làm thiệt đời nàng? Hay là đến mà hỏi ông đội xếp
Xukharenkô cũng được.
- Ôi, con gái của ta ơi! - Nikifor nói, giọng
tuyệt vọng - Mặt trời của ta ơi, con đă ĺa bỏ nơi đầm lầy mà về
cơi vô cùng rồi.
- Thôi, im đi! - Yoska quát.
- Đến cả làm lễ cầu hồn cho con gái tao chúng nó
cũng không cho! - không thèm nghe Yoska, Nikifor nói - Tao ấy à,
rồi tao phải đến Kiev, đến tận đức giáo chủ. Ngài chưa thương là
tao chưa chịu.
- Thôi đi! - Yoska nhắc lại - Chỉ cần đổi lấy
một sợi tóc của Khristya thôi, con cũng sẵn ḷng bán ngay cái
cuộc đời ghẻ lở của con. Vậy mà ông lại nỡ nói con như vậy!
Bất th́nh ĺnh anh chàng bật khóc, tuy cố nén
nhưng vẫn thút thít. V́ cố nén khóc, từ cổ họng anh ta phát ra
một tiếng rít khẽ.
- Khóc đi, thằng ngốc ạ! - Nikifor b́nh thản
nói, c̣n có vẻ khuyến khích anh ta khóc nữa là khác. - Nếu không
v́ Khristya yêu mày th́ tao đă giết phứt mày đi cho rồi, thằng
tội đồ khốn khổ khốn nạn ạ. Tội vạ đâu tao chịu.
- Thôi đi, ông! - Yoska hét lên - Ông cứ giết
con đi! Con đang mong thế đây! Thà chết rữa trong mồ c̣n hơn.
- Mày ngốc vẫn hoàn ngốc, Yoska ạ! - Nikifor trả
lời, giọng buồn rũ - Được, về đến Kiev tao sẽ giết mày đi cho
rảnh, cho mày khỏi làm khổ tao. Tao cực lắm rồi.
- Thế ông giao nhà lại cho ai vậy, ông Nikifor?
- Yoska thôi khóc, hỏi.
- Tao chẳng giao cho ai sất. Tao lấy gỗ đóng
chặt cửa rả lại, thế là xong. Bây giờ tao cần cóc ǵ cái nhà ấy
nữa. Người chết chẳng cần đến thuốc lá.
Tôi lắng nghe câu chuyện khó hiểu. Trên sông
Pripyat, sương mù dâng lên như một bức tường. Từ những tấm ván
ẩm mốc bốc lên một mùi như mùi thuốc, hăng hắc. Trong thị trấn,
những con chó uể oải cắn suông.
- Không biết bao giờ cái tàu thủy phải gió ấy
mới đến? - Nikifor bực dọc nói - Tao với mày bây giờ có nửa chai
ngang mà nốc th́ tuyệt, Yoska nhỉ? Cũng đỡ buồn. Nhưng mà kiếm
đâu ra cái của ấy bây giờ?
Tôi dựa lưng vào tường, sưởi ấm trong tấm áo
choàng.
Sáng ngày ra, tàu thủy vẫn chưa tới. Kusher nói
rằng do sương mù cho nên tàu phải đậu lại qua đêm ở đâu đó, nóng
ruột cũng vô ích. Thể nào rồi nó cũng dừng ở Chernobyl vài
tiếng.
Tôi uống trà no nê. Ignati Loyola ra về.
Buồn, tôi đi lang thang trong thị trấn. Trên
đường phố chính, quán xá đă mở cửa. Từ các quán bay ra mùi cá
ướp và mùi xà pḥng giặt. Ở hiệu cắt tóc có tấm biển dựng trên
một cái chạng gỗ, ông chủ hiệu mặt đầy tàn nhang, mặc áo khoác,
đứng cắn hạt dưa.
Chẳng biết tiêu thời giờ vào việc ǵ, tôi rẽ vào
cạo mặt. Ông thợ cạo thở dài, phết bọt xà pḥng mát lạnh lên mặt
tôi và bắt đầu cuộc hỏi cung nhă nhặn thường gặp ở các hiệu cắt
tóc tỉnh lẻ rằng tôi làm nghề ǵ, tại sao lại đến đây.
Bỗng lũ trẻ con chạy sầm sầm trên những tấm ván
lát hè, vừa chạy vừa huưt sáo, nhăn nhó giễu cợt. Vẳng đến giọng
quen thuộc của Yoska:
Ta không dùng bài ca hùng tráng
Phá giấc mộng vàng người đẹp ta yêu
- Lazar! - bên kia bức vách bằng ván ghép, một
giọng nữ quát lên - Cài cửa lại ngay lập tức! Yoska lại say rồi.
Sao mà lại cứ thế kia chứ, hở trời?
Ông thợ cạo cài then cửa và kéo rèm.
- Hễ thấy có ai trong hiệu của chúng tôi là y
như rằng thằng Yoska rẽ vào, hát hỏng, nhảy múa và khóc lóc -
ông ta thở dài, giải thích.
- Anh ta làm sao vậy? - tôi hỏi.
Ông thợ cạo không kịp trả lời. Một thiếu phụ
trẻ, đầu tóc bơ phờ, mắt mở to, long lanh v́ xúc động, từ bên
kia vách bước ra.
- Chả là thế này, ông khách ạ! - thiếu phụ nói -
Nhưng trước tiên, em phải chào ông đă! Sau là, thưa ông, cái anh
Lazar nhà em đây, nói thực, anh ấy chẳng biết quái ǵ để kể cho
ông nghe đâu, bởi v́ đàn ông, ông ạ, hiểu làm sao nổi trái tim
đàn bà! Sao cơ? Đừng lắc đầu quầy quậy như thế, Lazar! Ông khách
ơi, xin ông cứ nghe em kể cái đă, rồi xin ông ngẫm về những điều
em sắp nói với ông. Em sẽ kể cho ông nghe v́ t́nh yêu, người con
gái kia đă chịu khổ chịu sở đến là nhường nào.
- Manya! - ông thợ cạo nói - Đừng có bốc.
Yoska kêu gào ở đâu đó, xa xa:
Khi tôi chết, các người hăy đến
Thăm nấm mồ bé nhỏ của tôi
Tặng nhau, mang mấy miếng dồi
Và rượu đắng một chai lừa lọc.
- Có khiếp không kia chứ! - Manya nói - Mà đó là
Yoska đấy! Chính là cái nhà anh Yoska con bà Pesya lẽ ra th́ đậu
y sĩ ở Kiev đấy! Ông biết không, Pesya là bà mẹ tốt bụng nhất ở
thị trấn chúng em. Ơn Chúa, bà ấy không phải sống đến cái ngày
nhục nhă này. Ông khách ơi, chắc ông cũng thừa hiểu: phải yêu
tới mức nào người đàn bà mới có thể v́ người ḿnh yêu mà sẵn
ḷng chịu mọi khốn khó...
- Cái ǵ, nhà nó nói cái ǵ thế, hở Manya? - ông
thợ cạo kêu trời - Nghe nhà nó nói, ông khách chẳng hiểu nhà nó
định nói cái ǵ đâu.
- Chả là hồi ấy ở miền chúng em đây có hội chợ -
Manya kể - Ông Nikifor góa vợ, làm nghề gác rừng ở Karpilovka,
mới dẫn con gái đi xem. Ông ấy có mỗn mụn con gái là Khristya
thôi. Chao ôi, giá mà ông được thấy Khristya! Ông khách ơi, em
nói chắc là ông sẽ bị Khristya hớp hồn đấy! Nói để ông biết, mắt
Khristya cứ xanh ngăn ngắt như da trời kia ḱa, c̣n đuôi xam của
cô ấy th́ cứ rộm sáng lên như thể nó được gội bằng nước vàng
trong truyện cổ tích. Sao mà lại có người hiền thục như thế cơ
chứ! Mới thanh tú như thế cơ chứ! Em chưa từng gặp người như vậy
bao giờ! Vừa nhác thấy Khristya là anh chàng Yoska nhà ta đă
đứng sững như trời trồng. Hắn phải ḷng cô ấy ngay tắp lự. Th́
có ǵ lạ đâu. Đến hoàng đế mà trông thấy cô ấy cũng phải chết mê
chết mệt. Thế mà Khristya lại đi yêu Yoska mới lạ! Ông nh́n thấy
anh chàng ấy rồi phải không? Người th́ bé tẹo, chỉ bằng cái
thằng nhóc này này, tóc th́ đỏ cạch, giọng th́ rè rè, tính t́nh
lại gàn dở. Rốt cuộc là thế nào? Khristya bỏ bố đẻ đến ở với
Yoska. Ông đến mà xem nhà cửa của anh ta! Ông ngó kỹ mà xem! Một
con dê ở c̣n chật, lọ là họ những ba người. Chỉ được cái sạch
thôi, sạch lắm lắm. Thế rồi... ông thử đoán rồi sao? Bà Pesya
đón Khristya rất mực long trọng, chẳng khác ǵ đón một nàng công
chúa. Khristya ở lại với Yoska, thành vợ thành chồng. Thế là anh
ta, cái anh chàng Yoska ấy, cứ hơn hớn lên, mặt mũi cứ sáng
choang như đèn ban đêm vậy. Ông thừa biết người Do Thái mà ăn ở
với người theo đạo Thiên Chúa th́ điều đó có nghĩa là thế nào.
Không một đức cha nào chịu làm phép cưới cho họ đâu. Yoska mới
vào nhà thờ gặp cha Mikhail để xin cải đạo. Nhưng cha bảo: "Đáng
nhẽ nhà anh phải cải đạo trước đă rồi mới được ngủ với con gái
theo đạo Chúa. Anh lại làm ngược tuốt tuột. Bây giờ, nếu không
có phép của chính đức giáo chủ th́ ta cũng chẳng làm lễ cưới cho
anh đâu, nhà quư tộc thành Jerusalem ạ!". Yoska văng tục với cha
rồi bỏ đi. Lúc đó ông ravin của chúng em bèn thọc tay vào. Ông
ravin đă nghe tin Yoska muốn cải sang đạo Chúa, thế là ông ấy
nguyền rủa mười đời nhà anh ta ở trong nhà nguyện. Đúng vào lúc
ấy, ông gác rừng Nikifor cũng đến, ông ta gục xuống chân con gái
mà van nài cô trở về. Khristya chỉ khóc, một mực không là không.
Lũ trẻ con ở đây, tất nhiên là có kẻ xúi giục, hễ thấy Khristya
đâu là la hét: "Ê, Khristya, đồ ngoại giáo! Có thèm thịt cấm
không đấy?" Rồi nắm tay dứ cô ấy. Ở ngoài phố thiên hạ nghiêng
ngó nh́n theo Khristya, giễu cợt. Một hôm có đứa từ bên kia hàng
rào lượm cục phân ném vào lưng Khristya. Khắp nhà bà Pesya, chỗ
nào cũng bê bết hắc ín, ông có tưởng tượng được không, ông
khách?
- Trời, bác Pesya ấy tốt lắm! - ông thợ cạo thở
dài. - Đấy mới thật là một người đàn bà!
- Ông ravin mới gọi bà Pesya lại mà bảo rằng:
"Bà Pesya Izmailevna kính mến ạ, bà đă để cho chuyện loạn hôn
xảy ra trong nhà bà đấy nhá. Bà đă chống lại luật đạo đấy nhá.
Tôi nguyền rủa nhà bà. Đức Jehova sẽ trừng phạt bà như trừng
phạt một con điếm. Bà hăy thương lấy cái đầu bạc của bà". Ông có
biết bà Pesya đáp lại ông ta thế nào không? Bà Pesya mới nói thế
này: "Ông không phải là ravin! Ông là một tên đội xếp! Thiên hạ
yêu nhau th́ mặc xác người ta, can dự ǵ đến nhà ông mà ông phải
tḥ đôi tay núc ních mỡ sấy của ông vào chuyện người dưng". Bà
nhổ toẹt một băi nước bọt rồi bỏ đi. Ông ravin bèn nguyền rủa cả
bà Pesya trong nhà thờ. Ở vùng này cái ǵ chứ hành con người ta
th́ họ giỏi lắm, ông ạ. Nhưng ông chớ nói lại với ai đấy! Cả thị
trấn xôn xao, người ta không c̣n biết đến chuyện ǵ khác ngoài
chuyện Khristya. Cuối cùng, ông cẩm Sukharenko mới gọi Yoska và
Khristya lại mà bảo: "Yoska, ta sẽ đưa anh ra ṭa v́ tội lăng mạ
đức cha Mikhail. Rồi anh sẽ được nếm mùi khổ sai của ta. C̣n
Khristya, ta sẽ bắt cô về với bố đẻ. Ta cho các người suy nghĩ
ba ngày. Các người làm loạn cả huyện này lên rồi. V́ các người,
ta sẽ bị ngài tỉnh trưởng quở trách đấy".
Yoska bị ông cẩm tống ngục ngay tắp lự. Về sau,
Sukharenko bảo ông ta chỉ định dọa thôi, chứ không định bỏ tù
thật. Sau đó th́ sao, ông có đoán được không? Nói ông không tin
đâu, nhưng thực quả Khristya đă v́ đau đớn quá mà chết. Trông
thương lắm. Người nào cũng mủi ḷng, ấy là em nói những người
tốt ḱa. Mấy ngày liền Khristya chỉ khóc ṛng, nước mắt cũng
chẳng c̣n, hai con mắt cứ khô khốc, lại chẳng ăn chẳng uống ǵ
ráo. Chỉ một mực lạy van xin cho được gặp Yoska. Đúng vào ngày
Yôm Kipur, tức là ngày lễ Phán Xét, vào buổi tối, Khristya ngủ
thiếp đi, rồi cứ thế không dậy nữa. Cô ấy nằm đấy, nom mới trắng
trẻo và hạnh phúc làm sao! Hẳn Khristya phải cảm ơn Chúa đă
thương đến cô ấy mà rước đi khỏi cuộc đời chó má này. Tại sao
Khristya lại phải chịu một h́nh phạt như thế, nếu chỉ v́ cô ấy
yêu Yoska? Ông cắt nghĩa cho em nghe xem nào, v́ sao kia chứ?!
Chẳng lẽ trên cơi đời này chỉ c̣n toàn ngợm là ngợm hay sao?
Sukharenko vội tức tốc thả ngay Yoska ra, nhưng anh ta đă hoàn
toàn mất trí rồi. Từ đó Yoska bắt đầu rượu chè be bét, rồi ngửa
tay đi ăn xin.
- Tôi mà như hắn ta th́ thà tôi chết quách c̣n
hơn - ông thợ cạo nói. - Tôi sẽ tương ngay vào trán một viên
đạn.
- Ối giời ơi, nhà nó can trường nhỉ! - Manya kêu
lên. - Đến lúc ấy có mà ba chân bốn cẳng tránh xa cái chết đến
hàng trăm dặm ấy th́ có. Ngữ nhà nó hiểu sao nổi chuyện trái tim
đàn bà. T́nh yêu có thể đốt cháy nó thành tro bụi.
- Trái tim đàn bà với chả trái tim đàn ông! -
ông thợ cạo trả lời và nhún vai. - Có cái ǵ khác nhau kia chứ?
Từ hiệu cắt tóc tôi trở về quán trọ. Cả Yoska
lẫn Nikifor đều không thấy ở đấy nữa. Kusher vận chiếc gi-lê sờn
ngồi bên cửa sổ uống trà. Trong pḥng, những con ruồi béo mập
bay vù vù.
Cái tàu thủy bé xíu măi tối mới đến. Nó đỗ lại
Chernobyl đến đêm. Tôi được một chỗ nằm trong pḥng khách của
tàu, trên một cái đi-văng bọc vải sơn cũ rích.
Đêm, sương lại xuống. Tàu thủy tông vào bờ. Cứ
thế nó đứng đực ra cho đến sáng bạch, đợi cho sương tan hết. Tôi
không gặp Nikifor trên tàu. Chắc hẳn ông ta lại say khướt cùng
với Yoska.
Sở dĩ tôi phải kể lại tỉ mỉ câu chuyện trên bởi
v́ tôi đă đốt phăng quyển vở chép những bài thơ đầu tiên của tôi
khi đặt chân về đến Kiev. Không một chút tiếc rẻ, tôi nh́n những
ḍng chữ cầu kỳ biến thành tro. Những "bọt pha lê", những "bầu
trời bằng ngọc xanh", những tửu điếm và những điệu nhảy của vũ
nữ di-gan Tây Ban Nha chết đi không bao giờ sống lại.
Tôi tỉnh ngộ lập tức. Th́ ra t́nh yêu không gắn
liền với những bông hoa súng đang héo hắt, mà với những cục
phân. Người ta đă ném cứt vào lưng một thiếu nữ tuyệt đẹp đang
yêu.
Nghĩ về chuyện đó, tôi chợt nhớ đến ḍng chữ
"Thế kỷ kinh khủng, những tâm hồn kinh khủng" và quyết định viết
truyện ngắn đầu tiên của ḿnh, như tôi tự nhủ, một "truyện ngắn
ra truyện ngắn" về số phận của Khristya.
Tôi đánh vật măi với truyện ngắn ấy, nhưng không
tài nào hiểu nổi v́ sao dưới ng̣i bút của tôi nó lại cứ khô héo
và nhợt nhạt, cho dù cốt chuyện thật thê thảm. Sau rồi, tôi cũng
đoán ra. Trước hết, truyện ngắn được viết bằng lời người khác,
sau là v́ quá say với cuộc t́nh của Khristya tôi đă bỏ qua nếp
sống cuồng tín tàn nhẫn của thị trấn.
Tôi viết lại. Chính tôi cũng ngạc nhiên, không
hiểu sao tôi không tài nào "đặt được" vào truyện những từ đẹp và
cầu kỳ. Truyện ngắn này đ̣i sự thật và sự giản dị.
Khi tôi mang truyện ngắn đầu tiên của tôi tới
ṭa soạn tờ báo đă đăng thơ tôi th́ ông chủ bút bảo:
- Đừng uổng công vô ích, anh bạn trẻ ạ. Truyện
của anh không đăng được đâu. Chỉ riêng một lăo cẩm trong truyện
thôi cũng đủ để tôi bị rầy rà rồi. Nhưng nói chung, truyện viết
chắc tay đấy. Hăy mang lại cho chúng tôi một cái ǵ khác đi. Mà
nhớ phải kư bút danh nhá. Anh c̣n là học sinh trung học mà. Anh
có thể bị đuổi học v́ chuyện ấy đấy.
Tôi nhận lại truyện ngắn, cất đi. Măi tới mùa
xuân năm sau tôi mới lấy nó ra, đọc lại,và hiểu thêm được một
điều: trong truyện không thấy tác giả, không nỗi căm giận, không
ư nghĩ, không cả sự thán phục của tác giả trước t́nh yêu của
Khristya.
Tôi bèn viết lại lần nữa và mang đến cho ông chủ
bút, không cốt để được in, mà để nhờ ông thẩm định.
Ông chủ bút đọc một lèo ngay trước mặt tôi rồi
đứng lên, vỗ vai tôi và buông một câu:
- Tôi ủng hộ.
Thế là lần đầu tiên tôi khẳng định được một cách
chắc chắn rằng điều căn bản đối với nhà văn là phải thể hiện
ḿnh đầy đủ nhất, khoáng đạt nhất, trong bất kỳ tác phẩm nào, dù
chỉ trong một truyện ngắn nhỏ như vậy. Bằng cách đó nhà văn thể
hiện thời đại ḿnh đang sống và nhân dân. Trong việc thể hiện
ḿnh này không có ǵ đáng để nhà văn phải chùn bước - không cả
sự hổ thẹn rởm trước độc giả, không cả nỗi lo sợ phải nhắc lại
những điều mà các nhà văn khác đă viết (nhưng viết một cách
khác), không cả sự e ngại cả các nhà phê b́nh lẫn các ông chủ
bút.
Trong lúc làm việc nhà văn cần phải lăng quên
mọi sự và viết như thể viết cho chính ḿnh hoặc cho người thân
nhất của ḿnh.
Phải làm cho nội tâm ḿnh được tự do, mở mọi cửa
cho nó và bất thần anh sẽ ngạc nhiên khi nhận ra rằng trong tâm
thức của anh, những ư nghĩ, t́nh cảm và tứ thơ hóa ra phong phú
hơn nhiều so với anh tưởng.
Quá tŕnh sáng tạo, trong ḍng đi của nó, dần có
thêm những tính chất mới, phức tạp lên và phong phú thêm.
Cái đó cũng giống như mùa xuân trong thiên nhiên.
Sức nóng của mặt trời không thay đổi. Nhưng nó làm tan tuyết, nó
sưởi ấm không khí, đất đai và cây cối. Đất đai tràn ngập tiếng
động, tiếng sóng vỗ, ánh lấp lánh của những giọt nước và ḍng
băng tan - hàng ngh́n dấu hiệu của mùa xuân - trong khi đó th́,
tôi xin nhắc lại, sức nóng của mặt trời không hề thay đổi.
Trong sáng tác cũng vậy. Cảm thức của ta, về
thực chất, không thay đổi. Nhưng trong lúc ta làm việc, nó dấy
lên những trận cuồng phong, những ḍng, những thác ư nghĩ mới,
h́nh ảnh mới, cảm giác mới và từ mới. Chính v́ thế mà nhiều khi
ta phải ngạc nhiên trước cái mà ḿnh viết ra.
Chỉ có người nào nói được với mọi người những
điều mới, có ư nghĩa và thú vị, nh́n thấy những điều người khác
không nhận ra, người đó mới có thể là nhà văn.
Riêng đối với tôi, tôi rất chóng vánh hiểu ra
rằng tôi chỉ có thể nói được rất ít, ít đến bực ḿnh. Và tôi
cũng hiểu rằng cảm hứng trong sáng tác cũng dễ tắt như nó dễ
bùng lên, nếu ta bỏ đói nó. Cái vốn quan sát cuộc sống của tôi
lúc đó quá nghèo nàn và hạn hẹp.
Lúc đó tôi đặt cuốn sách lên trên cuộc đời chứ
không phải đặt cuộc đời lên trên cuốn sách. Cần phải làm cho
cuộc sống tràn đầy trong ta.
Sau khi hiểu ra điều ấy, tôi hoàn toàn gác bút
mười năm liền, và như Gorky nói, tôi "nhập thế", bắt đầu cuộc
viễn hành lang thang trên nước Nga, làm hết nghề này đến nghề
khác, tiếp xúc với đủ mọi loại người.
Nhưng đó không phải là cuộc sống nhân tạo. Tôi
không phải là người quan sát chuyên nghiệp hay là người sưu tầm
các sự kiện.
Không! Tôi sống, đơn giản là thế, không hề cố
gắng ghi chép hoặc nhớ lấy dù là một chút ǵ cho những tác phẩm
tương lai.
Tôi sống, tôi làm việc, tôi yêu, tôi đau khổ, tôi
hy vọng, tôi mơ ước, biết chắc rằng sớm hay muộn, trong tuổi
trưởng thành, hoặc thậm chí trong tuổi già, tôi sẽ viết. Tôi sẽ
viết không phải v́ tôi đă đặt ra cho ḿnh nhiệm vụ ấy mà là v́
bản thể tôi đ̣i tôi phải làm như vậy. Và bởi v́ văn học đối với
tôi là một cái ǵ đó đẹp đẽ nhất trên đời.
Tia chớp
Ư sáng tác nảy ra như thế nào?
Hầu như chẳng bao giờ có hai ư sáng tác nảy ra và
phát triển giống nhau. Rơ ràng ta không thể trả lời cho câu hỏi "ư
sáng tác nảy ra như thế nào" một cách chung chung, mà phải gắn vào
từng truyện ngắn, từng tiểu thuyết hay từng truyện dài riêng biệt.
Dễ hơn là trả lời cho câu hỏi: "Muốn cho ư sáng tác
xuất hiện cần có những ǵ?". Hoặc khô khan hơn: "để có ư sáng tác
phát sinh cần có những điều kiện ǵ?" Sự xuất hiện của ư sáng tác
bao giờ cũng được chuẩn bị từ trước bởi trạng thái nội tâm của nhà
văn.
Giải thích sự xuất hiện ư sáng tác bằng cách so sánh
là tốt nhất. Đôi khi cách so sánh cho ta cái sáng rơ kỳ lạ ngay cả
trong những điều phức tạp nhất.
Người ta hỏi nhà thiên văn Jeans rằng tuổi trái đất
là bao nhiêu. Jeans trả lời:
- Các bạn hăy tưởng tượng một ngọn núi khổng lồ,
ngọn Elbrus ở Kavkaz chẳng hạn. Và hăy h́nh dung một con chim sẻ độc
nhất, nhỏ bé, chỉ có một việc nhảy nhót và dùng mỏ khoét ngọn núi đó.
Như thế, nếu con chim sẻ ấy muốn khoét từ ngọn đến chân quả núi th́
phải mất một số năm bằng số tuổi của trái đất.
Cách so sánh có thể cho ta hiểu sự xuất hiện ư sáng
tác đơn giản hơn nhiều.
Ư sáng tác là tia chớp. Điện năng trong nhiều ngày
tích tụ lại mỗi lúc một nhiều thêm bên trên mặt đất. Khi bầu không
khí đầy ứ điện th́ những tảng mây trắng sẽ biến thành những đám mây
giông khủng khiếp và từ trong những đám mây ấy, từ trong lượng điện
dày đặc sẽ phát sinh tia lửa đầu tiên - đó là tia chớp.
Mưa rào đổ xuống mặt đất hầu như ngay lập tức sau
khi có tia chớp ấy.
Cũng như tia chớp nọ, ư sáng tác nảy ra trong ư thức
của con người khi nó đă tràn đầy những ư nghĩ, những cảm xúc và
những dấu vết ghi trong trí nhớ. Tất cả những cái đó được tích lại
dần dần, chậm chạp, cho tới khi đạt đến một độ dồn nén nào đó, th́
sự giải tỏa năng lượng điện nhất thiết sẽ xảy ra. Lúc đó cả cái thế
giới bị nén chặt và c̣n khá hỗn độn ấy phóng ra một tia chớp: đó là
ư sáng tác.
Muốn cho ư sáng tác phát sinh, cũng như trong trường
hợp đối với tia chớp, thường phải có một kích thích rất nhỏ.
Ai biết được đó sẽ là cái ǵ? Một cuộc gặp gỡ bất
ngờ, một từ chợt đến trong tâm hồn, một giấc mơ một giọng nói xa xa,
ánh mặt trời trong giọt nước hay một tiếng c̣i tàu thủy.
Mọi cái đang tồn tại quanh ta, ở chính trong ta, đều
có thể là cái kích thích đó.
Lev Tolstoy trông thấy một cây ngưu bàng bị găy và
một tia chớp chợt lóe lên: ư sáng tác cuốn truyện dài bất hủ về
Hatji-Murat xuất hiện.
Nhưng nếu như Tolstoy không ở Kavkaz, không được
biết, không được nghe kể về Hatji-Murat th́ tất nhiên cây ngưu bàng
kia cũng chẳng gợi được ư đó trong ông. Trong nội tâm Tolstoy đă có
sẵn mọi cái cần thiết cho đề tài ấy và chỉ v́ vậy mà cây ngưu bàng
đă cho ông cái liên tưởng cần thiết.
Nếu như tia chớp là ư sáng tác th́ cơn mưa rào chính
là sự thể hiện ư sáng tác ấy. Đó là những ḍng nước đầy h́nh tượng
và từ ngữ chảy nhịp nhàng. Đó là tác phẩm.
Nhưng khác với tia chớp chói ḷa, ư sáng tác đầu
tiên thường không rơ nét.
"Qua tấm kính nhiệm màu, ta vẫn chưa thấy rơ cuốn
truyện bao la nơi chân trời xa tắp"
Ư sáng tác chỉ chín dần, nó chiếm lĩnh dần khối óc
và trái tim nhà văn, dần được suy nghĩ kỹ hơn và trở nên phức tạp
hơn. Nhưng cái gọi là sự "thai nghén" ư sáng tác hoàn toàn không
giống như cái mà những người ngây thơ tưởng tượng ra. Nó không hiển
hiện trong cảnh nhà văn ngồi, hai tay ôm lấy đầu, hoặc đi lang
thang, cô độc và kỳ quái, vừa đi vừa lẩm bẩm thành tiếng những ư
nghĩ của ḿnh.
Hoàn toàn không phải như thế! Ư sáng tác kết tinh
lại, phong phú thêm măi, từng giờ, từng ngày, mọi lúc và mọi nơi,
trong mọi sự t́nh cờ, mọi công việc, mọi niềm vui và mọi nỗi đau khổ
trong "cuộc sống trôi nhanh" của chúng ta.
Muốn nung nấu ư sáng tác cho chín, nhà văn không bao
giờ được tách khỏi đời sống và đắm đuối trong thế giới nội tâm.
Ngược lại, do sự cọ xát thường xuyên với thực tại, ư sáng tác sẽ nở
hoa và tràn đầy nhựa sống của đất.
Nói chung, có rất nhiều định kiến và ư nghĩ sai lầm
về công việc của nhà văn. Một số định kiến và ư nghĩ như thế làm ta
phải tuyệt vọng kêu trời v́ tính dung tục của chúng.
Bị dung tục hóa nhiều nhất là cảm hứng của nhà văn.
Lũ thế nhân dốt nát bao giờ cũng tưởng tượng cảm
hứng như là đôi mắt của nhà thơ trợn trừng trong phút say mê, cái
nh́n hướng lên trời hay là cây bút lông ngỗng bị nhà văn gặm cụt.
Chắc hẳn nhiều người c̣n nhớ cuốn phim "Nhà Thơ Và
Hoàng Đế". Trong cuốn phim đó nhà thơ Pushkin mơ mộng ngước mắt nh́n
lên, rồi hối hả vớ lấy cây bút, bắt đầu viết, rồi ngừng lại, lại
nh́n lên, gặm gặm cây bút lông ngỗng, rồi lại hối hả viết.
Có biết bao nhiêu h́nh tượng Pushkin mà chúng ta đă
thấy, trong đó ông giống như một cuồng sĩ đang cơn phấn hứng.
Tôi đă được nghe một câu chuyện thú vị như sau bên
cạnh pho tượng Pushkin với mái tóc uốn quăn và cái nh́n "thần hứng"
trong một cuộc triển lăm nghệ thuật.
Một đứa con gái bé tí tẹo ngắm ông Pushkin nọ hồi
lâu rồi chau mày hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, bác ấy đang mơ một cái ước mơ phải không
mẹ?
- Phải đấy, cưng ạ, bác Pushkin đang mơ một cái ước
mơ.
Người mẹ dịu dàng trả lời.
Bác Pushkin đang "mơ một cái ước mơ"! Chính cái bác
Pushkin, người đă nói về ḿnh như thế này:
"Rồi nhân dân sẽ c̣n măi
măi yêu tôi, v́ tôi đă dùng thơ thức lên những t́nh cảm tốt lành,
v́ trong thế kỷ khốc tàn của chúng ta, tôi ca ngợi tự do và t́nh
thương kẻ khốn cùng".
Và nếu như cái cảm hứng "thần thánh" đă "bao trùm"
(cứ nhất thiết phải "thần thánh" và cứ nhất thiết phải "bao trùm"
kia) lên nhà soạn nhạc th́ ông ta ắt phải ngước mắt lên; điều khiển
một cách uyển chuyển - và điều khiển cho bản thân ḿnh thưởng thức -
những nét nhạc mê hồn chắc chắn lúc đó đang vang vang trong tâm hồn
ông hệt như bức tượng Chaikovsky ngọt xớt ở Moskva.
Không đâu! Cảm hứng là một trạng thái lao động
nghiêm túc của con người. Sự cao hứng trong tâm hồn không biểu hiện
ở điệu bộ rạp hát và trong sự bốc đồng. Những cái gọi là sự "dằn vặt
trong sáng tác" được người ta khua chiêng gơ trống khi nói về nó
cũng vậy.
Pushkin nói về cảm hứng chính xác và đơn giản:
"Cảm
hứng là trạng thái tâm hồn thích hợp cho sự tiếp nhận sinh động
những ấn tượng, do đó, cho sự lĩnh hội nhanh chóng những ư niệm, tức
là những cái tạo điều kiện cho việc giải thích những ấn tượng nói
trên". Ông nói thêm: "Những nhà phê b́nh thường hay lẫn lộn cảm hứng
với niềm phấn khởi". Cũng như người đọc đôi khi lẫn lộn cái thật
với cái giống thật.
Như thế cũng c̣n chưa tai hại lắm. Nhưng khi một số
họa sĩ và nhà điêu khắc lẫn lộn cảm hứng với "niềm phấn khởi của con
bê" th́ cái đó là cả một sự dốt nát và là sự không tôn trọng lao
động nặng nhọc của nhà văn.
Chaikovsky quả quyết "rằng cảm hứng là trạng thái
khi con người mang hết sức ḿnh ra mà làm việc như trâu chứ không
phải là cái sự ve vẩy tay một cách ơng ẹo".
Xin các bạn tha lỗi cho v́ những ḍng tùy bút này,
nhưng tất cả những điều tôi nói trên hoàn toàn không phải chuyện
vặt. Đó là chỉ dấu cho chúng ta biết rằng vẫn c̣n những kẻ tầm
thường và thiển cận.
Người nào cũng vậy, dù chỉ một đôi lần trong đời,
nhưng thể nào cũng đă trải qua trạng thái cảm hứng: đó là sự thăng
hoa của tâm hồn, sự thoải mái, sự tiếp nhận hiện thực một cách sống
động, khi trong người tràn đầy ư nghĩ và tri thức về sức mạnh sáng
tạo của ḿnh.
Vâng, cảm hứng chính là trạng thái lao động nghiêm
túc, nhưng nó có màu sắc thơ riêng biệt của nó, tôi muốn nói cái ẩn
ư thơ của nó.
Cảm hứng đi vào tâm hồn chúng ta như một buổi sáng
mùa hạ rực rỡ vừa mới rũ khỏi thân ḿnh sương mù của một đêm êm ả,
nhưng vẫn c̣n lại những hạt sương sớm với những bụi cây um tùm ẩm
ướt. Nó nhẹ nhàng phả hơi tươi mát tốt lành vào mặt chúng ta.
Cảm hứng giống như mối t́nh đầu, khi tim ta đập rộn
ràng trong mối tiên cảm về những cuộc gặp gỡ lạ kỳ, đôi mắt tuyệt
trần, những nụ cười và những câu nói ngập ngừng dang dở...
Lúc đó thế giới bên trong của chúng ta trở nên tinh
tế và chuẩn xác như một cây đàn kỳ diệu, nó tạo nên âm hưởng dội
ngược trở lại đối với mọi tiếng động của cuộc sống, kể cả những
tiếng động thầm kín nhất, khó nhận thấy nhất.
Nhiều nhà thơ và nhà văn đă viết những ḍng tuyệt
diệu về cảm hứng. "Chỉ có lời thần mới động đến tai tinh"
(Pushkin). "Mối lo âu xao xuyến trong hồn ta chỉ dịu đi vào lúc đó"
(Lermontov). "Âm thanh đến, và ngoan ngoăn nương theo âm thanh làm
nhức nhối con tim, tâm hồn ta trẻ lại" (Blok).
Fet nói rất chính
xác về cảm hứng:
Một cái đẩy, và thuyền lao xuống nước
Rời băi cát vàng nước triều san phẳng
Một đợt sóng lên - và thuyền đi xứ khác
Đón gió lành từ những bờ hoa
Một tiếng động thôi - thế là
Giấc mộng buồn của ta đứt quăng
Phút chốc bất ngờ hồn ta được hưởng
Cảm giác thân thương, cái chưa từng biết
Cho cuộc đời ta - một tiếng thở dài
Cho nỗi khổ âm thầm - này một niềm vui
Và phút xuất thần của người xa lạ
Bỗng hoá thành của ta...
Turgenev gọi cảm hứng là "thiên giáng", là thần khải
của con người, nhờ ư nghĩ và t́nh cảm mà có. Ông sợ hăi nói đến nỗi
dằn vặt kinh khủng đối với nhà văn khi nhà văn bắt đầu biến thần
khải ấy thành những từ.
Lev Tolstoy nói về cảm hứng giản dị hơn bất cứ ai:
"Cảm
hứng chính là sự bất thần chợt thấy rơ điều ta có thể thực hiện.
Cảm hứng càng rơ th́ sự thực hiện cảm hứng lại càng phải tỉ mỉ".
Nhưng dù ta có định nghĩa cảm hứng như thế nào đi
chăng nữa th́ ta cũng vẫn biết rằng nó bao giờ cũng mang lại cho ta
những kết quả tốt đẹp, rằng nó không thể mất đi vô ích chừng nào nó
chưa tự hiến nó cho con người.
Nhân vật nổi loạnNgày trước, khi phải dọn nhà đi nơi khác, đôi khi người ta cũng thuê
tù ở trại giam địa phương đến làm việc chuyển đồ.
Bao giờ cũng vậy, lũ trẻ con chúng tôi chờ đợi sự
xuất hiện của những người tù với ḷng thương và nỗi ṭ ṃ nôn nóng.
Những viên cai ngục để ria mép với những khẩu súng
lục to đùng kiểu "Bulldog" bên sườn áp giải những người tù ấy. Chúng
tôi cứ trố mắt nh́n họ - những người mang áo tù xám, đầu đội những
mũ nhỏ tṛn xoay, cũng một màu xám xịt. Lạ một cái, không hiểu v́ lẽ
ǵ mà chúng tôi cứ ngây ra ngắm nh́n những người tù bị những dây
xích nhỏ kêu rổn rảng quấn ngang người như những cái dây lưng kia
với niềm kính trọng đặc biệt.
Tất cả những cái đó thật bí ẩn. Lạ nhất là hầu hết
những người tù nọ lại chỉ là những người b́nh thường, những người
mệt mỏi đến ră rời, và là những người tốt bụng đến nỗi không thể nào
tin được họ là những kẻ phạm tội và những kẻ độc ác. Ngược lại,
không những họ lễ phép, mà c̣n lịch thiệp nữa. Họ lo nhất là khi di
chuyển những đồ vật cồng kềnh mà lỡ va phải ai hoặc làm găy, vỡ vật
ǵ.
Bọn trẻ chúng tôi, được người lớn đồng t́nh, đă nghĩ
ra một kế hoạch láu cá. Mẹ chúng tôi mời các viên cai ngục vào bếp
uống trà, trong khi đó th́ chúng tôi hối hả nhét vào túi những người
tù bánh ḿ, xúc xích, đường, thuốc lá, đôi khi cả tiền. Bố mẹ chúng
tôi cho chúng tôi những thứ đó.
Chúng tôi h́nh dung đấy là một công việc nguy hiểm
và vui mừng đến tột độ khi những người tù vừa th́ thào cảm ơn, vừa
nhấm nháy với chúng tôi vừa chỉ về phía bếp. Họ giấu quà biếu của
chúng tôi vào những túi bí mật trong người.
Thỉnh thoảng những người tù lén lút đưa thư cho
chúng tôi. Chúng tôi dán tem lên phong b́ rồi ầm ĩ kéo nhau đi bỏ
vào thùng. Trước khi bỏ vào thùng, chúng tôi c̣n nh́n quanh xem gần
đấy có viên cẩm nào hoặc giả có tên đội xếp nào không? Cứ y như là
họ biết được chúng tôi đang gửi đi những bức thư ǵ.
Trong đám phạm nhân tôi nhớ măi một người có bộ râu
bạc. Những người tù gọi ông bằng "trưởng toán".
Ông ta đứng ra trông nom việc chuyển đồ. Đồ đạc, đặc
biệt là tủ áo và đàn dương cầm, thường hay bị kẹt ở giữa cửa. Xoay
trở chúng rất khó, nhiều khi không tài nào đặt nổi chúng vào chỗ mới
đă định cho chúng, dù cho những người tù có vật vă đến mấy. Đồ đạc
chống cự ra mặt. Trong những trường hợp như vậy, ông "trưởng toán"
lại đem chuyện khuân một cái tủ nào đó ra mà nói:
- Hăy để nó vào chỗ mà nó muốn, các cậu ơi. Đấm đá
nó mà làm ǵ! Tớ đă làm cái việc chuyển đồ này năm năm trời rồi,
tính nết chúng nó thế nào, tớ biết. Phàm đồ đạc đă không ưng chỗ mà
ḿnh định th́ dù các cậu có cố ấn nó vào đến mấy chúng nó cũng không
chịu. Găy th́ găy, chứ nhất định không chịu.
Khi nghĩ đến những đề cương của nhà văn và cách hành
xử của các nhân vật văn học, tôi chợt nhớ đến câu nói cửa miệng
người tù già nọ. Trong cách hành xử của đồ đạc và của những nhân vật
kia có một cái ǵ đó giống nhau. Nhân vật thường hay chống lại tác
giả và bao giờ nó cũng chiếm phần thắng. Nhưng chuyện đó để sau.
Tất nhiên, hầu hết các nhà văn đều có đề cương cho
những sáng tác tương lai. Một số nhà văn vạch ra những đề cương đó
tỉ mỉ và chính xác. Nhiều nhà văn khác lại làm việc đó một cách rất
đại khái. Nhưng cũng có một số nhà văn chỉ vạch đề cương bằng vẻn
vẹn vài chữ, mà là những chữ dường như chẳng có liên quan ǵ với
nhau.
Chỉ có những nhà văn có tài xuất khẩu thành chương
mới có thể viết mà không cần có một đề cương vạch sẵn. Trong các nhà
văn Nga, Pushkin rất tài về mặt này, c̣n trong các nhà văn hiện đại
của chúng ta th́ có Aleksey Nikolaevich Tolstoy [1].
Tôi dám cho rằng nhà văn thiên tài có thể viết mà
không cần đến một đề cương nào. Thiên tài vốn đă phong phú tự bên
trong đến nỗi bất cứ đề tài nào, bất cứ ư nghĩ nào, bất cứ trường
hợp nào hay bất cứ vật nào cũng gợi lên trong nhà văn một ḍng liên
tưởng vô tận.
Chekhov khi c̣n trẻ, bảo Korolenko:
- Này, trên bàn ông có một cái gạt tàn ḱa. Nếu ông
muốn, tôi sẽ viết ngay lập tức một truyện ngắn về nó.
Và tất nhiên, Chekhov có thể viết thừa đi được.
Ta có thể h́nh dung một người nào đó nhặt được tờ
bạc một rúp nhàu nát ở giữa phố, bắt đầu cuốn tiểu thuyết của ḿnh
từ tờ bạc một rúp ấy, bắt đầu như thể đùa bỡn, nhẹ nhàng và đơn
giản. Nhưng ngay lập tức sau đó, cuốn tiểu thuyết phát triển cả về
bề sâu lẫn bề rộng, dần dà đầy thêm người, sự việc, ánh sáng, màu
sắc và bắt đầu trôi chảy mạnh mẽ và phóng khoáng. Bị trí tưởng tượng
thúc giục, nó đ̣i nhà văn mỗi lúc một nhiều thêm những vật hiến tế,
buộc nhà văn phải nộp cho nó những dự trữ quư giá về h́nh tượng và
ngôn ngữ.
Và như thế là trong câu chuyện bắt đầu bằng cái ngẫu
nhiên, những ư mới liên tiếp nảy ra, nảy ra cả cái số mệnh phức tạp
của những con người. Và nhà văn đă không c̣n đủ sức để chống lại nỗi
xúc động của chính ḿnh. Nhà văn sẽ khóc trên chồng bản thảo của
ḿnh như Dickens, rền rĩ v́ đau đớn như Flaubert hay cười phá lên
như Gogol.
Cũng như vậy ở vùng núi, chỉ một tiếng động nhỏ bé,
một tiếng nổ của súng săn thôi, cũng đủ làm từng đợt tuyết lấp lánh
bỗng đổ ụp xuống trên sườn núi dựng đứng. Rồi ngay đấy, tuyết biến
thành một con sông tuyết rộng, lao nhanh xuống dưới, và chỉ sau vài
phút là cả một núi tuyết đă ầm ầm đổ xuống thung lũng làm cho không
khí tràn đầy một thứ bụi óng ánh.
Nhiều nhà văn đă viết về sự dễ dàng xuất hiện trạng
huống sáng tác ở những con người thiên tài và lại có thêm cả tài
xuất khẩu thành chương.
Baratynsky, người biết rất rơ Pushkin sáng tác như thế nào, đă nói về ông:
Chàng Pushkin kia, trẻ trung và bay bướm
Với tay chàng viết nghịch cũng thành thơ
Tôi đă nói rằng có một số đề cương chỉ là một mớ từ.
Đây là một thí dụ nhỏ. Tôi có một truyện ngắn tên là
"Tuyết". Trước khi viết, tôi ghi ra một tờ giấy và từ những đoạn ghi
đó, truyện ngắn ra đời. Những đoạn ghi ấy có h́nh thù thế nào?
"Cuốn sách về phương Bắc bị bỏ quên. Màu căn bản của
phương Bắc là màu giấy thiếc. Hơi nước trên mặt sông. Những người
đàn bà giũ quần áo ở các lỗ băng thủng. Khói. Những chữ đề trên quả
chuông nhỏ ở nhà bà Aleksandra Ivanovna "Ta treo ngươi trên cửa -
hăy kêu gịn cho vui". "Và quả chuông nho nhỏ, quà tặng của Vanđai,
nó treo nơi cổ ngựa, một điệu buồn bi ai". Người ta gọi chúng, những
quả chuông ấy, là "quà-của-Vanđai". Chiến tranh. Tanya. Nàng ở đâu,
trong cái tỉnh lỵ xa vắng nào? Một ḿnh. Trăng mờ khuất sau mây -
cái miền xa lơ xa lắc. Cuộc đời nén chặt trong ṿng sáng nhỏ bé của
ánh đèn. Suốt đêm có cái ǵ kêu u u trong tường. Những cành cây nhỏ
cào mặt kính. Chúng tôi rất ít khi ra khỏi nhà vào cái giờ lặng lẽ
nhất của đêm đông... Cái đó cần phải kiểm tra lại. Cô đơn và chờ đợi.
Con mèo già bất măn. Không sao chiều nổi nó. H́nh như mọi vật đều rơ
- cả những cây nến h́nh xoáy ốc (nến dầu ô-liu) trên cây đàn dương
cầm, ngoài ra hiện nay chẳng c̣n có ǵ khác. Nàng t́m một căn nhà có
dương cầm (nữ ca sĩ). Tản cư? Câu chuyện về sự chờ đợi. Nhà người.
Cổ, nhưng ấm áp cách riêng, những cây vạn niên thanh, mùi thuốc lá
cũ miền Stambol hoặc Mesaksudi. Ông lăo đă sống và đă qua đời. Cái
bàn viết bằng gỗ chà là với những vết vàng trên tấm dạ xanh phủ bên
trên. Đứa con gái nhỏ. Đứa bé bị hắt hủi. U già. Tạm thời không c̣n
ai thêm nữa. Người ta nói rằng t́nh yêu có sức hút vượt đường xa. Có
thể viết một truyện ngắn chỉ riêng về nỗi chờ đợi. Chờ ǵ? Chờ ai?
Nàng không biết nữa. Cái đó làm tim nàng vỡ ra. Trên những ngă năm
ngă bảy của hàng trăm con đường, những con người ngẫu nhiên gặp nhau,
không hề biết rằng cả cuộc sống đă qua của họ là sự chuẩn bị cho
cuộc gặp gỡ ấy. Thuyết xác suất. Áp dụng vào tâm hồn người. Đối với
lũ ngốc th́ cái ǵ mà chả đơn giản. Cả nước ch́m trong tuyết. Tất
phải xuất hiện một con người: thư ai gửi cho người đă chết? Chúng
xếp thành chồng trên bàn. Ch́a khóa là ở đó. Thư ǵ? Trong thư viết
những ǵ? Anh bộ đội hải quân. Người con trai. Nỗi lo sợ anh bộ đội
sẽ đến. Chờ đợi. Ḷng tốt của nàng không có giới hạn. Những bức thư
biến thành sự thực. Lại những cây nến h́nh xoáy ốc. Trong một tính
chất khác. Những bản nhạc. Cái khăn mặt với những chiếc lá sồi. Cây
đàn phong cầm. Khói bạch dương. Người lên dây đàn, người Tiệp nào
cũng chơi nhạc cừ. Khăn quấn đến tận mắt. Rơ cả rồi!".
Đó là cái mà ta có thể gọi một cách hết sức khiên
cưỡng là đề cương của truyện ngắn nói trên. Nếu chỉ đọc bản ghi chép
này mà không biết ǵ về truyện ngắn ta cũng có thể thấy đó là sự ṃ
mẫm chậm chạp, không rơ ràng, nhưng kiên tŕ để ḍ t́m đề tài và cốt
truyện.
Vậy th́ cái ǵ thường xảy đến với những đề cương
chính xác đă được suy nghĩ kỹ, được kiểm tra chu đáo nhất của nhà
văn. Nói t́nh thật, cuộc sống của những đề cương ấy phần lớn là ngắn
ngủi.
Trong tác phẩm mới bắt đầu viết, cứ vừa xuất hiện
những con người và những con người đó vừa mới bắt đầu hoạt động theo
ư tác giả th́ cũng lại là lúc chúng bắt đầu chống lại đề cương và
bước vào cuộc vật lộn với đề cương. Tác phẩm bắt đầu phát triển theo
cái lô-gích nội tại của nó. Tất nhiên, động lực đầu tiên của tác
phẩm là do nhà văn tạo ra. Nhân vật hoạt động theo cá tính của nó,
không hề đếm xỉa đến việc nhà văn là người sáng tạo ra cá tính đó.
Nếu như nhà văn buộc các nhân vật hoạt động ngược
với cái lô-gích nội tại hiện hữu, nếu nhà văn cố gắng nhét nhân vật
vào trong khuôn khổ của đề cương, th́ nhân vật bắt đầu chết dần chết
ṃn, biến thành những công thức biết đi, những người máy.
Lev Tolstoy đă diễn tả ư đó hết sức đơn giản.
Có một người đến thăm Yasnaia Polyana đă trách
Tolstoy quá tàn nhẫn với Anna Karenina khi bắt nàng lao vào gầm xe
lửa.
Tolstoy mỉm cười, đáp:
- Ư kiến đó gợi tôi nghĩ đến một trường hợp đă xảy
ra với Pushkin. Có lần ông nói chuyện với một người bạn: "Ông có thể
tưởng tượng được cái cô Tatyana đă chơi xỏ tôi một vố như thế nào
không? Cô ta đi lấy chồng, ông ạ. Chuyện đó, nói thực, tôi hoàn toàn
không ngờ là nó có thể xảy ra với cô ấy". Tôi cũng có thể nói hệt
như vậy trong trường hợp Anna Karenina. Nói chung, đám nhân vật của
tôi, cả nam lẫn nữ, họ làm những chuyện mà tôi chẳng muốn chút nào.
Họ làm những ǵ mà họ phải làm trong cuộc sống thực và thường xảy ra
trong cuộc sống thực, chứ không làm những ǵ tôi muốn.
Tất cả các nhà văn đều biết rơ tính ngang ngạnh của
các nhân vật. Aleksey Tolstoy nói: "Trong lúc công việc đang độ sôi
nổi nhất tôi không hề biết năm phút sau nhân vật sẽ nói ǵ. Tôi
theo dơi nó với cả một sự ngạc nhiên".
Có khi nhân vật phụ lấn át các nhân vật khác, tự nó
biến thành nhân vật chính, làm đảo lộn cả tŕnh tự câu chuyện và kéo
câu chuyện đi theo ḿnh.
Tác phẩm chỉ bắt đầu sống thực sự một cách hết sức
mạnh mẽ trong ư thức của nhà văn trong lúc nhà văn viết nó ra. Cho
nên sự đổ vỡ của đề cương chẳng có ǵ là lạ, và cũng chẳng có ǵ
đáng coi là bi đát.
Ngược lại, cái đó là chuyện rất đương nhiên và nó
chỉ chứng minh thêm một lần rằng cuộc sống chân chính đă xông vào,
làm tràn đầy giản đồ sáng tác, khai triển nó ra, bằng áp lực sống
động của nó cuộc sống phá tung khuôn khổ đề cương ban đầu của nhà
văn.
Cái đó hoàn toàn không làm hỏng đề cương, nó không hề
thu hẹp vai tṛ nhà văn vào chỗ chỉ làm có một việc ghi chép tất cả
những ǵ mà anh ta được cuộc đời nhắc cho. Bởi v́ chính cuộc sống
của những h́nh tượng trong tác phẩm của nhà văn chịu sự quy định của
ư thức nhà văn, của trí nhớ, của trí tưởng tượng - của toàn bộ cơ
cấu bên trong con người nhà văn.
------------
Chú thích:
[1] Aleksey Nikolayevich Tolstoy (1882-1945), nhà văn
Nga. Xin phân biệt với Lev Tolstoy...
o0o
|