Báu Vật Của Đời  -   Mạc Ngôn Pages Previous  1  2  3  4  5  Next   
Chương 2

6
Sau khi ăn cháo trên huyện, trên đường trở về cái đói càng dữ dội. Người ta không còn sức để chôn những xác chết trên đường, thậm chí không còn tâm trạng nhìn mặt người chết chỉ mỗi xác ông Ba Phàn là ngoại lệ. Trong giờ phút nguy ngập, con người không được người ta ưa lắm này cởi phăng áo da dê làm thành bó đuốc, dùng ánh lửa và lời lẽ thức tỉnh lý trí của chúng tôi. Không thể quên cái ơn cứu mạng. Mẹ dẫn đầu, mọi người kéo cái xác

gầy như que củi xuống vệ đường. Nấm mồ được đắp bằng đất vụn.
Về đến nhà, phát hiện đầu tiên của chúng tôi là chị Ba ôm một cái bọc mà vỏ ngoài là cái áo da báo, đi đi lại lại trong sân. Mẹ vịn mép cổng, gần như khuỵu xuống.
Chị Ba bước tới dưa cái bọc cho mẹ. Mẹ hỏi:

- Bọc gì đây? Chị nói bằng tiếng người tương đối chuẩn:
- Cháu bé.
Mẹ ra vẻ hiểu nhưng vẫn hỏi:
- Con ai?
Chị Ba nói:
- Còn ai vào đây nữa!
Chiếc áo da báo của Lai Đệ chỉ có thể bọc con của Lai Đệ
Đó là một đứa con gái đen như một cục than, hai con mắt phảng phất mắt gà chọi, cặp môi mỏng dính, hai vành tai to và trắng, rất không hòa hợp với da mặt. Đặc trưng này xác nhận không thể chối cãi nguồn gốc con bé. Nó là con của Sa Nguyệt Lượng với chị Cả, đứa cháu ngoại đầu tiên của gia đình tôi.
Mẹ tỏ ra ghét cay ghét đắng con bé. Nó, trái lại, mỉm cười như con mèo con, đáp lại thái độ của mẹ. Mẹ tức điên lên, quên cả chị Ba có phép thần thông, đạp cho chị Ba một cái vào chân.
Chị Ba ối lên một tiếng ngã chúi về phía trước. Khi chị ngoảnh lại, trên mặt lộ rõ sự tức giận của loài chim. Chị dẩu mỏ ra như sắp mổ, hai tay giơ cao như sắp sửa bay lên. Mẹ không đếm xỉa đến chị là người hay chim, chửi:
- Đồ khốn, ai cho mày nhận con của nó?
Chị Ba ngọ ngoạy đầu, như tìm kiếm sâu bọ trên cây ngô đồng. Mẹ lại chửi:
- Lai Đệ, mày là đồ thối thây không biết xấu hổ! Sa Hòa thượng, mi là đồ thổ phỉ lòng lang dạ sói? Chúng mày chỉ biết đẻ mà không nuôi! Chúng mày tưởng cứ quẳng cho ta là ta nuôi hộ? Có mà nằm mơ? Ta thì quẳng cái đồ con hoang này xuống sông cho ba ba nó ăn, ném ra đường cho chó nó xé xác, quẳng xuống đầm cho quạ nó rỉa. Hãy đợi đấy.
Mẹ bế con bé, miệng cứ lặp đi lặp lại cho ba ba ăn, cho chó xé xác, cho quạ na, vừa chạy như bay trong ngõ, chạy lên đê rồi chạy trở lại đường phố, từ đồng phố chạy trở lại đê... càng chạy càng chậm dần, tiếng gào ngày càng nhỏ như một chiếc máy kéo đã cạn đầu, mẹ ngồi phịch xuống đất, chỗ mục sư Malôa từ gác chuông rơi xuống. Mẹ ngước nhìn gác chuông, miệng lẩm bẩm:
- Người thì chết, người bỏ đi, để tôi chơ vơ một mình, tôi sẽ sống như thế nào, cả một lũ đang há miệng chờ ăn? Chúa ơi, ông trời ơi, xin hãy cho tôi biết, tôi sẽ sống như thế nào?
Tôi khóc, nước mắt rơi trên gáy mẹ. Con bé cũng khóc, nước mắt chảy vào tai. Mẹ dỗ tôi:
- Kim Đồng, con là hòn máu của mẹ, nín đi con.
Mẹ dỗ con bé:
- Tội nghiệp cháu, lẽ ra cháu không nên sinh ra ở đời này! Sữa của ngoại chỉ vừa đủ cho cậu của cháu. Thêm một nữa, cả hai đều chết đói. Không phải ngoại nhẫn tâm mà vì ngoại không còn cách nào khác...
Mẹ bỏ lại con bé bọc trong chiếc áo da báo ở cổng nhà thờ, rồi chạy về nhà như bị ma đuổi. Nhưng chỉ chạy được hơn chục buộc, chân mẹ đã cất không nổi nữa. Con bé khóc như lợn bị chọc tiết, tiếng khóc như sợi dây vô hình giữ chân mẹ lại...
Ba hôm sau, cả nhà tôi gồm chín người xuất hiện ở Chợ Người trong khu vực Chợ Lớn trên huyện. Mẹ địu tôi trên lưng, tay bế con súc sình nhà họ Sa, chị Tư cõng thằng lưu manh nhà họ Tư Mã. Chị Năm cõng chị Tám. Chị Sáu chị Bảy tự đi lấy.
Chúng tôi bới đống rác kiếm ít lá rau thừa để ăn, cố gắng đi cho đến Chợ Người. Mẹ cắm cây cao lương trên gáy chị Năm, chị Sáu, chị Bảy, đợi người đến mua. Trước mặt chúng tôi là những dãy nhà đơn giản bằng gỗ ván, tường và mái quét vôi trắng. Khói bốc cuồn cuộn từ ống khói nhô ra ở đầu thang. Làn khói bay lên không trung thay hình đổi dạng trước làn gió. Chốc chốc lại có những cô gái làm tiền, tóc xõa, hở ngực, môi đỏ chót, mắt ngái ngủ từ trong căn nhà gỗ chạy ra, hoặc bê chậu hoặc xách thùng, đến lấy nước ở giếng lộ thiên, trên giếng đặt ròng rọc, hơi nước nhẹ nhàng bốc lên. Họ kéo ròng rọc bằng hai cánh tay ẻo lả trắng nhợt. Sợi thừng miết trên con lăn rít lên khe khẽ. Khi chiếc thùng thô và nặng lên đến miệng giếng, họ dùng chân đi guốc móc lấy quai thùng rê ngang đặt lên tang giếng lổn nhổn những cục băng có hình bánh bao hoặc bầu vú. Đám phụ nữ bê nước chạy ra chạy vào, tiếng guốc cốp cốp ròn rã: Những bầu vú tỏa ra mùi khét của lưu huỳnh. Qua vai mẹ, tôi nhìn từ xa những người đàn bà kỳ quái đó, nhốn nháo những vú là vú như hoa thuốc phiện trên nương, như đàn bướm trong thung lũng. Họ rất hấp dẫn chị tôi. Tôi nghe chị Tư khẽ hỏi mẹ, nhưng mẹ không trả lời. Chúng tôi đứng trước bức tường cao, dầy và dài. Nó chắn gió tây bắc, chúng tôi cảm thấy dễ chịu. Mặt trời đỏ rực nhô khỏi đường chân trời màu xám nhạt khiến tôi nghĩ tới hình ảnh lá cờ đang bay trên mặt thành. Bên trái bên phải chúng tôi, một số người mặt xanh nanh vàng, đói khát như chúng tôi, đứng co ro, đàn ông và đàn bà, phụ nữ và trẻ con, có đủ. Đàn ông nhăn nheo như cây khô, quá nửa là bị mù, không mù thì toét mắt. Người nào cũng có một đứa nhỏ đứng bên cạnh, hoặc con gái hoặc con trai, thật ra rất khó phân biệt trai hay gái. Chúng đen nhẻm như từ ống khói chui ra, đen như một cục than. Sau gáy đứa nào cũng cắm một nhánh cỏ, phần lớn là cây cao lương với những lá khô vàng khiến người ta nghĩ đến mùa thu, nghĩ đến mùi rơm rạ ngựa nhai trong đêm tối, nghĩ đến tiếng động khiến người và ngựa đều vui thích. Cũng có trường hợp cắm đại một nhánh cỏ dại, cỏ đuôi chó, cỏ đuôi lừa: Phụ nữ thì quá nửa như mẹ, con cái vây xung quanh, nhưng không nhiều con như mẹ. Những nhóm trẻ ấy, có nhóm tất cả đều cắm cỏ sau gáy, có nhóm đứa cắm đứa không. Phía trên đầu đám trẻ là những cái đầu nặng nề của những con ngựa to lớn, những con lừa đại, với cặp mắt như những quả lục lạc cặp môi dày dâm đãng mọc tua tủa những lông cứng, hàm rằng đều và khỏe lấp lóa giữa đôi môi, cũng cắm đại lên đầu một nhánh cỏ dại, cỏ đuôi chó hoặc đuôi lừa. Chỉ riêng một phụ nữ thì khác. Chị này mặc bộ đồ trắng, sợi dây buộc tóc cũng trắng, mặt trắng nhọt, hốc mắt và môi tím tái. Chị không có trẻ con đứng bên cạnh. Chị đứng một mình dưới chân tường. Chị cầm trên tay - không phải, cài sau gáy - một nhánh cỏ đuôi chó hoàn chỉnh còn nguyên cả lá, tuy lá đã khô, nhưng đó là một nhánh cỏ đẹp, phát dục đầy đủ, lá còn giữ được màu xanh, tuy là xanh héo nhưng vẫn còn sức sống: chùm lông phất phơ mềm mại, vàng rực lên dưới nắng. Rất lâu, ánh mắt tôi như bị hút chặt vào bông cỏ đuôi chó, trái tim tôi như chìm trong cái đẹp thê thảm của bông cỏ đuổi chó, vì rằng tôi trông thấy những núm vú tí xíu trên thân và giữa những kẽ lá của bông có đuôi chó.
Phía dãy nhà quét vôi trắng nhốn nháo, tiếng chửi the thé chói tai, như lưỡi dao rạch vào không khí. Hai cô gái đang ẩu đả ở chỗ giếng nước. Một cô mặc quần màu hồng, một cô mặc quần màu xanh. Cô quần hồng cào vào mặt cô quần xanh. Cô quần xanh thụi cho cô quần hồng một quả vào ngực. Rồi, cả hai đều lùi lại nhìn nhau trong một phút. Tuy không nhìn thấy, nhưng tôi đoán được ánh mắt hai người như thế nào, chắc rất giống cái nhìn của chị cả Lai Đệ và chị hai Chiêu Đệ. Bỗng cả hai xông vào nhau như gà chọi, những thân hình nhấp nhô như chó chạy trong ruộng lúa mạch, tay vung, vú lắc, nước bọt bắn tung tóe, lấp loáng như những con thiêu thân dưới ánh đèn. Cô quần hồng túm được tóc cô quần xanh. Cô quần xanh theo đà ngoạm một miếng vào vai trái cô quần hồng, cô quần hồng cũng ngoạm luôn một miếng vào vai trái cô quần xanh. Hai bên đồng cân đồng lạng, tài sức ngang nhau, quần nhau bên giếng nước. Những cô khác, người thì tựa cửa hút thuốc, người đánh răng súc miệng nhổ bọt phì phì, người lại vỗ tay cười ngặt nghẽo, người phơi tất mỏng dính trên dây thép. Trên phiến đá hình tròn trước dãy nhà, một người đứng thẳng đuỗn, chân đi ủng đen bóng lộn, tay cầm roi mây, vụt trái đánh vút một cái, vụt phải đánh vút một cái. Hắn dùng roi thay đao để luyện đao thuật. Một đám đàn ông từ một rừng cờ phía tây nam đi tới, những người bụng lép vây quanh vài người thấp lùn bụng phệ, nung núc những mỡ. Người bụng phệ cười khùng khục như gà cục tác Tiếng cười quái gở đó cứ ám ảnh tôi, khiến tôi nhớ lại quang cảnh bên giếng nước. Những người bụng phệ cùng đám tùy tùng tiến đến ngôi nhà gỗ ván, tiếng cục tác nghe càng rõ. Người đang luyện đao thuật trên phiến đá nhảy vội xuống, lỉnh vào trong nhà. Một mụ béo lùn tịt lạch bạch chạy ra chỗ giếng nước, bàn chân nhỏ đến nỗi gần như không có, bắp chân cắm thẳng xuống đất. Qua hai cánh tay ngắn ngủn và mập như ngó sen vung vấy, có thể kết luận mụ đang chạy gằn, tốc độ thì như thế nhưng quãng đường đi thì không được bao nhiêu. Có bao nhiêu sức đều dồn cho những cái lắc của cơ thể và co rút của bắp thịt. Khoảng cách chừng một trăm thước, có lẽ hơn, chúng tôi đã nghe rõ tiếng thở của mụ, hơi nước thở ra trùm lên người giống như mụ đang ở trong nhà tắm. Cuối cùng thì mụ cũng đã tới giếng nước.
Tiếng chửi của mụ bị hơi thở làm đứt quãng, không rõ ý, chỉ nghe câu được câu chăng. Chúng tôi đoán mụ là chủ của hai cô đang đánh nhau, mụ đến để gỡ hai cô ra. Nhưng hai cô quyết không nhả miếng cắn, cuộc đấu của diều hâu với chim ưng, vuốt quặp lấy vuốt, khó mà gỡ. Họ đẩy nhau kẻ tiến người lui, kẻ lui người tiến, mấy bận suýt lăn xuống giếng nhưng không lăn vì vướng cái khung treo ròng rọc. Mụ béo đến gỡ họ ra cũng suýt bị rơi xuống giếng, sở dĩ không rơi cũng là nhờ cái khung ròng rọc giữ lại. Mụ nằm sấp trên cái khung, tìm cách đặt chân xuống đất. Chúng tôi trông thấy mụ bị trẹo chân khi nhảy ra dẫm phải cục băng tròn như cái bánh bao, ngã ngồi xuống đất, nghe thấy tiếng nheo nhéo từ miệng mụ phát ra. Chẳng lẽ mụ khóc? Mụ đứng dậy bê lấy chậu nước hắt lên người hai cô kia. Hai cô giật mình la lên rồi buông nhau ra. Cả hai đầu tóc rối bù, cả hai mặt mày xây xước, cả hai quần áo rách toạc, cả hai đều bị thương lốm đốm ở bầu vú. Người nọ nhổ máu của người kia ra, cơn giận vẫn chưa nguôi. Mụ béo lại bê chậu nước khác hắt lên người họ, làn nước uốn mình trong không trung như cánh chim, trong suốt. Mụ mất đà, ngã lần nữa, chiếc chậu sành văng đi, suýt rơi trúng đẩu những người đàn ông bụng phệ. Họ rất quen nhau, đùa bỡn chọc ghẹo sờ soạng cấu véo, cuối cùng cả hai vào trong căn nhà gỗ.
Tôi nghe thấy xung quanh thở dài, mới biết họ đều xem màn kịch bên giếng nước.
Giữa trưa, một cỗ xe ngựa từ hướng đông nam theo đường cái quan đi tới. Ngựa là ngựa trắng, ngẩng cao đầu, một lọn bờm màu bạc rủ trước trán, đôi mắt hiền lành, mũi màu phấn hồng môi đỏ tía, cổ đeo nhạc đồng. Vì vậy khi con ngựa kéo cỗ xe rẽ xuống đường cái quan, chúng tôi nghe thấy tiếng nhạc ngựa kêu ròn tan. Chúng tôi trông thấy cọc yên - ở đây phải gọi là mỏm yên, dưới cao lên rất quí phái. Chúng tôi chưa bao giờ trông thấy một cái yên đẹp như thế. Dóng xe cũng không phải thanh dóng bình thường, mà là bọc đồng sáng loáng. Bánh xe cao cao, trục xe mạ kền, mui xe bằng vải trắng sơn nhiều lớp đầu ngô đồng. Chúng tôi chưa bao giờ trông thấy một cỗ xe sang trọng đến như vậy và nghĩ rằng, nguôi ngồi trên cỗ xe này còn sang trọng hơn người đàn bà ngồi xe du lịch đến gặp Nàng Tiên Chim. Chúng tôi cho rằng người ngồi bên ngoài mui có hàng ria vênh trên môi cũng không phải con người bình thường. Hắn vênh mặt lên, cặp mắt tóe lửa. Hắn thâm trầm hơn Sa Nguyệt Lượng, nghiêm túc hơn Tư Mã Khố, có lẽ Hàn Chim ăn mặc quần áo như hắn mới so được với hắn.
Xe từ từ dừng lại. Bà ta khoác áo lông điêu màu mận chín, cổ quàng khăn lông chồn. Tôi rất mong bà ta chính là Chị cả Lai Đệ. Nhưng bà ta không phải chị Lai Đệ. Đây là một phụ nữ nước ngoài, mũi cao, mắt xanh, tóc bạch kim. Tuổi ư? Chỉ có cha mẹ bà ta mới biết bà ta bao nhiêu tuổi! Xuống xe cùng với bà ta, là một thanh niên tuấn tú, mặc bộ đồng phục học sinh màu xanh, áo khoác bên ngoài cũng màu xanh, tóc đen như mun. Nhìn phong thái anh ta có vẻ là con trai bà kia, nhưng về dung mạo thì anh ta chẳng giống chút nào.
Những người xung quanh chúng tôi tranh nhau ùa tới, làm như định giành lấy bà ngoại quốc, nhưng chưa tới gần họ đã dừng lại, vẻ ngần ngại. Thưa bà, thưa quí bà, bà mua đứa cháu của tôi! Thưa bà, thưa bà lớn, xin bà hãy nhìn thằng con tôi, nó trung thành hơn con chó, việc gì cũng làm được... Đàn ông và đàn bà rụt rè rao bán con cái với người đàn bà ngoại quốc. Riêng mẹ vẫn đứng yên tại chỗ. Mắt mẹ như dại đi, nhìn chăm chằm chiếc áo lông điêu và chiếc khăn quàng lông cáo. Rõ ràng mẹ đang nhớ chị Lai Đệ. Mẹ đang bế đứa con gái của chị, trong lòng ngổn ngang, nước mắt lã chã. Bà đầm quí phái dùng khăn tay nửa che nửa bịt miệng, đi một vòng chợ người, người bà sực núc mùi nước hoa, khiến tôi và thằng lỏi nhà Tư Mã hắt hơi liên tục. Bà ta ngồi xổm trước ông lão mù, ngắm nghía con nhỏ cháu lão. Nó nhiều nhất cũng chỉ lên bốn. Nó khiếp đảm vì con cáo trên cổ bà ta, hai tay ôm chặt chân ông lão. Cặp mắt hốt hoảng của con bé khiến tôi nhớ mãi. Ông lão mù đã đánh hơi thấy quí nhân, giơ tay ra phía trước, nói:
- Thưa bà, thưa bà, xin bà hãy cứu cháu, ở với lão thì nó chết mất, thưa bà, lão một xu cũng không lấy, thưa bà...
Bà đầm đứng dậy, xì xô câu gì đó với người thanh niên mặc đồng phục học sinh, anh ta cao giọng hỏi ông lão:
- Lão là thế nào với con bé?
Ông già mù nói:
- Lão là ông nó, người ông vô dụng, người ông chết tiệt!...
Người thanh niên lại hỏi:
- Cha mẹ nó đâu?
Ông lão mù nói:
- Chết rồi, chết cả rồi. Người đáng chết thì chẳng chết, người không đáng chết thì lại chết, thưa ông, xin ông làm ơn đem cháu đi, lão không lấy xu nào đâu, chỉ xin ông cho cháu con đường sống!...
Người thanh niên quay sang xì xồ với bà đầm, bà đầm gật đầu, người thanh niên cúi xuống định kéo tay con bé, nhưng khi bàn tay vừa chạm vai thì con bé cắn ngay một miếng vào cổ tay anh ta. Anh ta rú lên, nhảy lùi lại. Bà đầm trọn mắt nhún vai, rồi dùng chiếc khăn tay bịt miệng, băng cổ tay cho anh ta.
Với tâm trạng không rõ là sợ hay là mừng, chúng tôi chờ như đến một nghìn năm, bà ngoại quốc vàng ngọc đầy người, nước hoa điếc mũi cùng với người thanh mến bị thương ở cổ tay, rốt cuộc đã dừng trước gia đình tôi. Và, sau lưng chúng tôi, ông lão mù đang vung gậy trúc đánh đứa cháu gái cắn nó. Con bé nhanh nhẹn chơi trò ú tim với ông nó, khiến cây gậy lúc thì vụt xuống đất, lúc vụt vào tường.
- Mi là cái số ăn mày! - Ông lão mù than thở.
Tôi hít lấy hít để mùi nước hoa, từ mùi hoa hòe nhận ra mùi hoa hồng, rồi từ mùi hoa hồng nhận ra mùi thoang thoảng của hoa cúc. Nhưng làm tôi mê mẩn chính là mùi tỏa ra từ cặp vú của bà ta, cái mùi hăng hăng khiến tôi lợm giọng, nhưng tôi vẫn hếch mũi hít lấy hít để. Không còn khăn tay, miệng bà lộ rõ hoàn toàn, một cái miệng rộng như của chị Lai Đệ, với đôi môi mọng như của chị Lai Đệ. Môi to son, mũi có những điểm tương đồng như mũi của các con gái nhà Thượng Quan: mũi dọc dừa. Chỗ không giống nhau là chóp mũi con gái nhà Thượng Quan có hình củ hành, ngây thơ mà dáng yêu, còn chóp mũi của người đàn bà ngoại quốc này thì khoằm xuống như mỏ diều, một loài chim ăn thịt. Trán ngắn, mỗi khi nhường mắt lên, trên trán hằn sâu những nếp nhăn. Tôi biết mọi người đang chăm chú nhìn người đàn bà ngoại quốc, nhưng tôi có thể tự hào mà nói rằng, không ai quan sát tinh tế hơn tôi, không ai thu hoạch nhiều hơn tôi. ánh mắt tôi xuyên qua lớp lông dày trên cơ thể bà ta, nhìn thấy cặp vú to bằng vú mẹ tôi mà vẻ đẹp của chúng khiến tôi quên cả đói rét.
- Vì sao bà phải bán con? - Người thanh niên giơ cánh tay quấn băng, chỉ vào các chị của tôi có cài cọng cỏ sau gáy
Mẹ không trả lời câu hỏi của anh ta. Chẳng lẽ trả lời một câu hỏi ngu xuẩn như vậy. Anh ta ngoảnh lại xì xồ với người đàn bà ngoại quốc, có thể là bà chủ cũng có thể là không của anh ta. Bà ta chú ý ngay chiếc áo lông điêu ủ cho con gái Lai Đệ. Bà ta sờ mặt áo, bắt gặp cặp mắt man dại và u sầu của con bé, bà ta vội quay đi.
Tôi rất muốn mẹ cho bà ta đứa con gái của Lai Đệ.
Chúng tôi cũng không lấy một xu, còn tặng thêm bà ta chiếc áo lông điêu. Tôi ghét con bé. Nó không có lý gì để ăn chia sữa mẹ với tôi. Ngay cả chị Tám cũng không đủ tư cách ăn chia, huống hồ nó! Hai bầu vú của chị Lai Đệ để làm gì? Sa Nguyệt Lương nhả đầu vú chị Lai Đệ, nhố máu cục ra, súc miệng bằng nước lã. Anh ta nói:
- Phải vậy thôi! Em bị chốc vú!
Chị Lai Đệ nước mắt ràn rụa, hỏi:
- Anh Lượng, chúng mình như con thỏ bị chó săn dồn đuổi, bao giờ mới kết thúc những chuyện này?
Sa Nguyệt Lượng ngồi hút thuốc, suy nghĩ rất lung nét mặt trở nên hung hãn, nói:
- Mẹ kiếp, ai có sữa người ấy là mẹ. Hãy chạy theo Nhật, hay thì ở dở thì xéo!
Bà ngoại quốc ngắm nghía các chị tôi một lượt, đầu tiên là chị Năm, chị Sáu, vì sau gáy có cắm cỏ, sau đó xem chị Tư, chị Bảy, chị Tám không có cỏ sau gáy, không thèm ngó thằng mất dạy nhà Tư Mã. Hình như bà có vẻ thích tôi. Tôi cho rằng ưu thế của tôi là cái đầu tóc vàng mềm mại. Cách thức xem xét của họ cũng rất lạ. Người thanh niên ra lệnh cho các chị tôi lần lượt thực hiện các động tác sau: cúi đầu, cúi gập người, hất chân, tay nọ nắm tay kia rồi giơ cao quá đầu, dưa hai vai ra trúc, ra sau, há to miệng kêu a...a..., cười một tiếng, đi vài bước, chạy vài bước. Các chị ngoan ngoãn thực hiện mệnh lệnh của anh ta. Bà ngoại quốc nhìn chăm chú, lúc gật gật, lúc lại lắc đầu. Cuối cùng bà chỉ vào chị Bảy, xì xồ với người thanh niên.
Người thanh niên chỉ vào bà ngoại quốc, bảo mẹ:
- Đây là bá tước phu nhân Roxtov, bà là một nhà từ thiện lớn. Bà muốn nhận một bé gái Trung Quốc làm con nuôi. Ưng đứa này, phúc cho gia đình bác!
Mẹ bỗng ứa nước mắt, chuyển con bé của Lai Đệ cho chị Tư, đang tay ôm lấy đầu chị Bảy:
- Bảy ơi, Cầu Đệ ơi, con yêu của mẹ, con gặp may rồi!
Nước mắt mẹ tôi như mưa xuống đầu chị Bảy. Chị sụt sịt khóc:
- Mẹ ơi, con không đi với bà đâu, người bà ấy khó ngửi lắm...
Mẹ nói:
- Con ngốc nghếch của mẹ, người ta thơm đấy con ạ!
Người thanh niên sốt ruột, nói:
- Thôi bác bàn chuyện giá cả đi!
Mẹ nói:
- Thưa ông, được làm con nuôi của bà đây thì chuột sa chĩnh gạo, tôi không lấy tiền đâu... Chỉ xin đối xử tốt với cháu!
Anh thanh niên dịch lại cho bà ngoại quốc nghe, bà ngọng nghịu nói bằng tiếng Trung Quốc:
- Không, vẫn cứ cho tiền.
Mẹ hỏi: - Thưa ông, ông hỏi bà phu nhân xem có thể nhận một đứa nữa không? Cho chúng có chị có em!
Người thanh niên dịch lại. Phu nhân Roxtov dứt khoát lắc đầu.
Người thanh niêndúi vào tay mẹ hơn chục tờ tiền giấy màu phấn hồng, rồi vẫy vẫy người đánh xe. Người đánh xe chạy tới, cúi chào anh thanh niên.
Người đánh xe bế chị Bảy ra xa. Lúc này chị mới khóc òa lên và giơ cánh tay khẳng khiu về phía mẹ. Các chị khóc òa theo, ngay cả thằng nhóc đáng thương nhà Tư Mã cũng nhếch miệng òa lên một tiếng, lát sau lại òa tiếng nữa. Người đánh xe đùn chị Bảy vào trong xe. Bà ngoại quốc cũng vào theo, lúc người thanh niên sắp lên xe, mẹ đuổi kịp, kéo tay anh ta, hỏi:
- Thưa ông, phu nhân ở đâu?
Anh ta trả lời lạnh nhạt:
- Cáp Nhĩ Tân.
Xe chạy lên đường cái quan, mất hút rất nhanh sau khu rừng. Nhưng tiếng gào khóc của chị Bảy, tiếng leng keng của nhạc ngựa, mùi hương trên vú của Bá tước phu nhân đọng mãi trong ký ức tôi.
Mẹ đã biến thành tượng đất, tay vẫn giơ cao nắm tiền, tôi cũng biến thành một bộ phận của tượng.
Đêm ấy chúng tôi không ngủ ngoài đường mà trọ trong một quán trọ. Mẹ sai chị Tư chạy đi mua hơn chục cái bánh mì. Chị lại mua về bốn mươi cái bánh bao, một gói thịt thủ lợn. Mẹ giận, nói:
- Con Tư, đây là tiền bán em mày đấy!
Chị Tư vừa khóc vừa nói:
- Mẹ, để các em ăn một bữa cho no, mẹ cũng phải ăn một bữa ho.
Mẹ vừa khóc vừa nói:
- Tưởng Đệ, mẹ làm sao nuốt nổi bánh này, thịt này...
Chị Tư nói:
- Mẹ không ăn gì thì Kim Đồng chết mất!
Lời khuyên của chị Tư rất có kết quả, mẹ kìm nước mắt ăn lấy được chỗ bánh bao và thịt để có sữa cho tôi, và cũng là có sữa cho con gái chị Lai Đệ và Sa Nguyệt Lượng, cái đồ cường đạo ấy, tối tối dùng bữa với bọn Nhật!
Mẹ ốm rồi.
Mẹ nóng như lò than, đến nỗi Kim Đồng không lúc nào rời lưng mẹ cũng phải bỏ cuộc. Chúng tôi ngồi vậy quanh mẹ, chỉ biết giương mắt nhìn nhau. Mẹ nhắm mắt, bọt rãi trong suốt đùn ra hai bên mép, mẹ lắp bắp những câu ghê người, lúc thì gào toáng lên, lúc lại lẩm bẩm một mình. Có lúc nói oang oang phấn khởi, lúc lại đau xót kể lể. Thượng đế, Đức Mẹ đồng trinh, thiên sứ, ma quỉ, Thượng Quan Thọ Hỉ, mục sư Malôa, ông Ba Phàn, Tư Vu, dì lớn, cậu Hai, ông ngoại, bà ngoại... ma quỉ Trung Quốc và thần linh nước ngoài, người còn sống và người đã chết, những chuyện chúng tôi biết và những chuyện chúng tôi chưa biết, tuôn ra như suối từ miệng mẹ, lắc lư, uốn éo, làm diệu làm bộ, biến ảo trước mắt chúng tôi.
Tìm hiểu những câu nói mê của mẹ chồng khác tìm hiểu vũ trụ, ghi lại những điều nói mê của mẹ thì cầm bằng ghi lại toàn bộ lịch sử vùng Cao Mật.
Chủ quán, một người đàn ông trung niên da bèo nhèo, mặt đầy nốt ruồi, bị đánh thức vì tiếng rên la của mẹ. Ông ta vào buồng, sờ trán mẹ, lập tức rụt tay lại, nói:
- Đi mời thầy thuốc mau, khéo chết mất!
Ông nhìn chúng tôi hỏi chị Tư:
- Cô là chị Cả phải không?
Chị Tư gật đầu, ông hỏi:
- Tại sao không mời thầy thuốc? Này, sao cô không nói gì thế!
Chị Tư khóc òa lên, quì sụp trước mặt chủ quán, nói:
- Bác ơi, bác cứu mẹ cháu với?
Ông chủ quán nói:
- Tôi hỏi cô nhé, cô có bao nhiêu tiền?
Chị Tư lục túi mẹ, lấy ra mấy tờ tiền giấy đưa cho ông chủ quán:
- Bác ơi, đây là tiền bán em Bảy cháu?
Chủ quán cầm tiền, nói:
- Cô đi theo tôi. Đi mời thầy thuốc? -
Tiêu hết số tiền bán chị Bảy, mẹ mới mở được mắt. Mẹ mở mắt rồi, mẹ mở được mắt rồi? Chúng tôi rưng rung nước mắt, reo ầm lên. Mẹ giơ tay sờ mặt từng đứa.
- Mẹ, mẹ, mẹ, mẹ?... - chúng tôi gọi.
- Bà ngoại ơi, bà ngoại!...
Thằng nhóc đáng thương nhà Tư Mã cũng lắp bắp.
- Nó đâu? Nó... Mẹ chìa một tay ra, hỏi.
Chị Tư bế con bé được bọc trong cái áo lông điêu tới trước mặt để mẹ xoa đầu nó. Khi mẹ xoa đầu, nó nhắm mắt lại. Hai giọt nước mắt của mẹ ứa ra.
Ông chủ quán với bộ mặt rầu rĩ bước vào, bảo chị Tư:
Này cô, không phải tôi nhẫn tâm, nhà tôi cũng nhiều miệng ăn! Mười mấy ngày nay, nào tiền trọ, tiền cơm, tiền đầu đèn...
Chị Tư nói:
- Bác ơi, bác là ân nhân của gia đình cháu. Cháu nhất định sẽ trả bác đầy đủ, chỉ xin bác đừng đuổi mẹ cháu đi, mẹ cháu!...
Buổi sáng ngày Mười tám tháng Hai năm Một nghìn chín trăm bốn mươi mốt, Thượng Quan Tưởng Đệ đưa cho mẹ vừa khỏi bệnh một xấp tiền. Chị nói:
- Mẹ, con đã trả đủ nợ của bác chủ quán, chỗ này là tiền thừa...
Mẹ ngạc nhiên, hỏi: - Tưởng Đệ, con lấy đâu ra tiền thế này?
Chị Tư cười như mếu, nói:
- Mẹ cho các em về đi, nơi này không phải là nhà của ta!...
Mặt mẹ trắng nhợt, túm tay chị Tư, hỏi:
- Tưởng Đệ, cho mẹ biết...
Chị Tư nói:
- Mẹ, con đã bán mình rồi, bác chủ quán giúp con mặc cả đến nửa ngày trời...
Mụ chủ chứa kiểm tra toàn thân chị Tư như kiểm tra gia súc, nói:
- Gầy quá.
Ông chủ quán nói:
- Bà chủ ơi, chỉ một bao gạo là béo lên ngay đấy mà! Mụ chủ giơ lên hai ngón tay, nói:
- Hai trăm đồng! Tôi làm phúc để lấy đức!
Chủ quán nói:
- Bà chủ ơi, cô này có mẹ đang đau nặng, lại còn một đàn em, trả thêm cho cô ấy đi!
Bà chủ nói:
- Thời buổi này làm việc thiện khó quá!
Chủ quán nài nỉ, chị Tư quì sụp xuống. Bà chủ nói:
- Thôi được, tôi hay thương người, thêm một trăm nữa, kịch giá rồi đấy.
Mẹ lảo đảo rồi ngã sóng soài ra nhà. Khi ấy, chúng tôi nghe một giọng khàn khàn ngoài cửa:
- Đi nào cô bé. Ta không có nhiều thì giờ đợi cô đâu!
Chị Tư quì xuống, dập đầu lạy mẹ một lạy. Rồi chị đứng dậy xoa đầu chị Năm, vuốt má chị Sáu, kéo tai chị Tám, vội vàng nâng cằm tôi thơm một cái. Chị bóp nhẹ hai vai tôi, nỗi xúc động khiến khuôn mặt chị như hoa mai trong gió tuyết.
- Kim Đồng ơi, Kim Đồng - chị nói - em lớn mau lên, lớn nhanh lên, nhà Thượng Quan ta trông vào mỗi mình em!
Nói xong, chị nhìn quanh căn buồng, yết hầu nhô ra ở cổ như cổ gà. Chị bung miệng như buồn nôn, chạy vụt ra rồi mất hút không thấy nữa.

7
Chúng tôi cho rằng, về đến nhà là trông thấy thi thể của chị Lãnh Đệ và bà nội, nhưng quang cảnh trước mắt hoàn toàn khác với dự đoán.
Trong sân cực kỳ ồn ào. Hai người đàn ông đầu cạo trọc, ngồi tựa lưng vào tường của gian chính, căm cúi vá quần áo đường khâu rất thành thạo. Hai người nữa, ngồi liền kề hai người vá quần áo, cũng đầu cạo trọc bóng loáng, cũng thái độ nghiêm chỉnh như thế, lúi húi lau hai khẩu súng đen bóng. Lại còn hai người nữa, một người đứng dưới cây ngô đồng, tay cầm lưỡi lê sáng loáng, người kia ngồi trên ghế đẩu, đầu cúi xuống, trên đầu đầy bọt xà phòng. Người cầm lưỡi lê nhún chân, liếc lưỡi lê vào quần mấy cái, rồi một tay giữ lấy cái đầu đầy xà phòng, tay kia giơ lưỡi lê ướm thử như tìm vị trí mở đầu. Rồi anh ta đặt lưỡi lê vào giữa đỉnh đầu, cạo một nhát từ đỉnh xuống gáy. Một mảng tóc đẫm bọt xà phòng rơi xuống, một mảng da đầu trắng hếu lộ ra. Còn một người nữa, tay cầm chiếc búa có cán dài ở chỗ nhà tôi vẫn cất lạc, trước mặt anh ta là một gốc cây du. Sau lưng là một đống củi đã bổ. Anh ta dạng chân, giơ cao chiếc búa, dừng lại trên không một thoáng rồi bổ mạnh xuống cùng với tiếng hự thốt ra từ miệng. Lưỡi búa cắm ngập vào gốc cây. Anh ta dùng một chân chặn gốc cây cố súc rút lum búa, lùi lại hai bước, chuẩn bị tư thế, nhổ nước bọt vào lòng bàn tay rồi lại giơ búa lên. Cái gốc cây du nút toác một mảnh gỗ văng ra như vỏ đạn pháo, bắn trúng ngực Phán Đệ khiến chị hét toáng lên. Những người đang may vá và lau súng đều ngẩng đầu lên. Những người cạo đầu và bổ củi đều quay lại. Người ngồi cạo đầu ngẩng đầu lên nhưng bị người cạo đầu hộ dùng tay ấn xuống.
- Đừng cựa? - anh ta nói.
Người bổ củi nói:
- Ăn mày đến kìa! ăn mày đến kìa? Anh Trường ơi, những người đi ăn xin đây này!
Một người mặc tạp dề trắng, đội mũ xám, mặt đầy vết nhăn từ trong nhà chạy ra. Tay áo anh ta xắn rất cao, tay dính đầy bột, vẻ thân thiện:
- Chào bác Bác đi cửa khác mà xin, bộ đội chúng tôi ăn theo định suất, không bớt ra để cho được!
Mẹ điềm nhiên nói: - Đây là nhà của tôi!
Những người trong sân đứng ngẩn ra. Người đầy bọt xà phòng trên đầu nhảy dựng lên, kéo vạt áo lau những vết bẩn trên mặt, ú a ú ớ với chúng tôi. Anh ta là Tôn câm, con cả nhà họ Tôn.
Tôn câm chạy đến trước mặt chúng tôi, miệng ú ớ, tay làm hiệu rất nhiều điều mà chúng tôi không hiểu. Chúng tôi ngượng ngập nhìn khuôn mặt thô kệch như đẽo bằng rìu, trong lòng vẩn lên một nỗi lo. Tôn câm chớp chớp con người màu vàng xỉn, cằm dưới bạnh ra, miệng lập bập liên hồi. Anh ta chạy vào chái phía đông, cầm chiếc bát sứ men xanh và bức họa con chim ra khoe với chúng tôi. Người cạo đầu cho anh ta, cầm lưỡi lê đi tới, vỗ vai Tôn câm hỏi:
- Tôn câm, anh quen họ hả? Tôn câm đặt chiếc bát xuống, cầm mẩu củi viết nguệch ngoạc trên mặt đất hàng chữ xiên xẹo, thiếu cả nét:
- Bà ấy là mẹ vợ tôi!
- Thì ra bác đã trở về!
Người cạo đầu nhiệt tình nói:
- Chúng tôi là tiểu đội Năm, trung đội Một, đại đội phá đường sắt. Tôi là tiểu đội trưởng, họ Vương. Đại đội tôi về chỉnh quân ở đây, chiếm dụng nhà của bác, thật không phải quá. Con rể bác, chính ủy chúng tôi đã đặt cho một cái tên: Tôn Bất Ngôn. Anh là một chiến sĩ giỏi, anh dũng chiến dấu không sợ chết, là tấm gương cho chúng tôi học tập. Bác ơi, chúng tôi dọn khỏi buồng chính ngay bây giờ. Lão Lã, Tiểu Đỗ, Triệu Đại Ngưu, Tôn Bất Ngôn, Tần Tiểu Thất, dọn đồ đạc mau, để cho bác thu xếp giường chiếu!
Binh lính bỏ dở việc đang làm, đi vào gian chính. Họ đeo trên lưng những chiếc chăn gập vuông vức, quấn xà cạp vào chân, xỏ giày - loại giày vải đế nhiều lớp, khoác súng trường lên vai, cổ đeo mìn, xếp hàng ngay ngắn ngoài sân. Tiểu đội trưởng nói với mẹ:
- Mời bác vào nhà. Mọi người đợi ở đây, tôi đi thỉnh thị chính ủy.
Các chiến sĩ rất có kỷ luật, ngay cả anh chàng Tôn câm mà bây giờ gọi là Tôn Bất Ngôn cũng đứng thẳng đơ như một cây thông. Tiểu đội trưởng xách súng chạy đi. Chúng tôi vào trong nhà. Trong chảo đã bắc thêm hai ngăn bằng tre và cây sậy. Củi trong lò cháy rừng rục. Nước trong chảo sôi ùng ục, hơi nước bốc lên mờ mịt. Chúng tôi ngủi thấy mùi thơm của bánh bao. Bác cấp dưỡng gật đầu chào mẹ với vẻ biết lỗi. Bác rất hiền. Bác cho củi vào lò.
- Tha lỗi cho chúng tôi về việc đã tự tiện cải tạo cái bếp.
Bác chỉ cái rãnh sâu trước cửa lò, nói:
- Hàng chục cái quạt cũng không bằng một cái rãnh này! Ngọn lửa phần phật, chỉ e trôn chảo bị nung chảy.
Chị Lãnh Đệ mặt đỏ hồng ngồi trên ngưỡng cửa, mắt lim dim, chăm chú nhìn hơi nước phụt qua kẽ nắp cuồn cuộn bay lên, càng nhìn càng thấy đẹp
- Lãnh Đệ! - Mẹ thử gọi.
- Chị Ba ơi, chị Ba! - Chị Năm, chị Sáu gọi.
Chị Lãnh Đệ thờ ở nhìn chúng tôi, làm như chưa hề quen nhau, chưa hề có đợt xa nhau vừa rồi.
Mẹ nhìn căn buồng thu dọn sạch sẽ, cảm thấy áy náy, lại kéo chúng tôi ra sân.
Tôn câm đứng trong hàng, nhăn mặt làm trò với chúng tôi. Thằng nhóc Tư Mã mạnh dạn sờ chân quấn xà cạp cứng như gỗ của các chú lính.
Tiểu đội trưởng dẫn về một người đàn ông tuổi trung niên, giới thiệu với mẹ:
- Thưa bác, đây là chính ủy Tưởng.
Chính ủy có khuôn mặt trắng trẻo, không để râu, thân hình tầm thước, thắt lưng da to bản, túi ngực cài chiếc bút máy. Ông lịch sự gật đầu chào chúng tôi, lấy trong xắc cốt một nắm kẹo xanh đỏ, nói:
- Các cháu ăn kẹo đi.
Rồi ông chia kẹo cho chúng tôi, con bé bọc trong áo lông điêu cũng được chia hai cái do mẹ nhận hộ. Đây là lần đầu tiên tôi được biết mùi vị của kẹo. Chính ủy nói:
- Bác ơi, xin bác cho tiểu đội này ở nhờ hai chái đông và tây?
Mẹ gật đầu, đờ đẫn.
Chính ủy vén tay áo xem đồng hồ, hỏi to:
- Lão Trương, bánh bao được chưa?
Lão Trương chạy ra:
- Chín rồi ạ.
Chính ủy nói:
- Anh lấy bánh cho các cháu ăn. Cứ để các cháu ăn thỏa thích.
- Lát nữa tôi bảo Tư vụ trưởng bổ sung mức ăn cho các anh.
Lão Trương dạ luôn miệng.
Chính ủy bảo mẹ:
- Đại đội trưởng của chúng tôi muốn gặp bác. Mời bác đi cùng tôi.
Mẹ định trao con bé cho chị Năm. Chính ủy giơ tay ngăn lại, nói:
- Không, bác cứ bế cháu bé đi.
Chúng tôi, thực ra là chỉ mẹ tôi, đi theo chính ủy. Mẹ địu tôi trên lưng, bế con bé đằng trước, đi dọc theo ngõ ra phố, đến nhà Phúc Sinh Đường. Hai lính gác vội đứng nghiêm, bồng súng chào. Chúng tôi đi qua các phòng thông nhau, cuối cùng vào đến đại sảnh, chính giữa bày bàn bát tiên màu huyết dụ, trên bàn bày hai đĩa lớn, một đĩa là thịt gà rừng, đĩa kia là thịt thỏ rừng, một làn đầy bánh bao. Một người râu quai nón tươi cười ra đón, nó:
- Xin chào, xin chào!
Chính ủy giới thiệu:
- Thưa bác, đây là đại đội trưởng Lỗ!
Đại đội trưởng Lỗ nói:
- Nghe nói bác cũng họ Lỗ. Năm trăm năm trước chúng ta là một nhà!
Mẹ hỏi:
- Thưa quan lớn, chúng tôi phạm tội gì?
Đại đội trưởng ngớ ra, cuối sảng khoái, bảo mẹ:
- Bác hiểu lầm rồi? Mời bác đến đây chăng có ý gì khác. Mười năm trước, tôi và Sa Nguyệt Lượng là bạn nối khố. Sa Nguyệt Lượng là con rể bác. Vì vậy nghe tin bác trở về, cho đặt tiệc tây trần mời bác.
Mẹ nói:
- Anh ta không phải con rể tôi.
Chính ủy nói:
- Bác giấu làm gì? Bác đang bế con của Sa Nguyệt Lượng đấy thôi!
Mẹ nói:
- Đây là cháu tôi.
Đại đội trưởng Lỗ nói:
- Hãy ăn đã. Xem chừng bà cháu đói cả rồi.
Mẹ nói:
- Thưa quan lớn, chúng tôi về đây?
Đại đội trưởng Lỗ nói:
- Bác đừng vội đi, Sa Nguyệt Lượng có nhờ tôi giúp anh ta trong việc nuôi cháu bé. Anh ta biết bác có khó khăn. Cô Đường đâu rồi?
Một nữ binh xinh đẹp nhanh nhẹn bước ra.
Đại đội trưởng Lỗ nói:
- Bế lấy em bé cho bác, để bác xơi cơm!
Cô nữ binh bước tới trước mặt mẹ, giơ hai tay ra. Mẹ kiên quyết:
- Đây không phải con gái Sa Nguyệt Lượng. Đây là cháu tôi!
Chúng tôi đi trở lại các phòng thông nhau, ra phố, rẽ vào ngõ trở về nhà.
Liên tiếp mấy ngày sau, cô nữ binh có tên là Đường nhiều lần đem thực phẩm, quần áo đến nhà tôi. Những thùng bánh bích qui, mà mỗi cái bánh là một hình con vật: chó, mèo, hổ..., sữa bột đựng trong bình thủy tinh, mật ong trong suốt đựng trong vò sành. Quần áo bằng tơ lụa, vải bông viền dăng ten, mũ bằng lông thỏ còn nguyên cả hai tai dài dài. Những thứ này cô nói, đều là của đại đội trưởng Lỗ và chính ủy Tưởng gửi cho cháu gái. Cô chỉ vào con bé mẹ đang bế:
- Đương nhiên, em bé trai có thể cùng ăn - cô lại chỉ vào tôi nói vậy.
Mẹ thản nhiên nhìn cô Đường quá nhiệt tình, mặt hồng hào như quả táo, mắt như hai hạt hạnh. Mẹ nói:
- Cô đem những thứ này đi. Chúng tôi con nhà nghèo, không xài được của tốt đến thế!
Mẹ cầm hai đầu vú, một đầu nhét vào miệng tôi, một đầu nhét vào miệng con gái Sa Nguyệt Lượng. Nó đắc ý rên hừ hừ, tôi căm giận rên lên hừ hừ. Nó đập tay vào đầu tôi, tôi đạp cho nó một cái vào mông, nó ề à khóc. Tôi còn loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc dai dẳng, mảnh như sợi tơ của chị Ngọc Nữ, tiếng khóc mà mặt trời và mặt trăng đều lắng nghe vì nó ngọt hơn ánh nắng và thơm như ánh trăng.
Cô Đường nói rằng, chính ủy Tưởng đã đặt cho cô bé một cái tên. Ông ta là trí thức, tốt nghiệp đại học Triều Dương Bắc Bình, văn hay vẽ giỏi, rất giỏi tiếng Anh. Tên là Sa Tảo Hoa được đấy chứ!
- Bác ơi, bác đừng nghi ngại gì hết. Đại đội trưởng Lỗ là con người tốt. Nếu các ông ấy định cướp con bé thì dễ như trở bàn tay.
Cô Đường lấy trong bọc ra chiếc bình sữa bằng thủy tinh trên miệng có núm cao su màu vàng nhạt. Cô đổ mật ong và sữa bột màu trắng vào cái bát, đổ nước sôi vào, khuấy đều. Tôi đã có lần ngửi thấy mùi sữa này, đó là mùi ở vú bà ngoại quốc hôm bà đem chị Tưởng Đệ đi. Cô đổ sữa vào bình, nói với mẹ:
- Bác đừng cho nó bú chung với em trai, bác sẽ kiệt sức mất! Để cháu cho nó ti chai. Cô vừa nói vừa bế lấy Sa Tảo Hoa. Sa Tảo Hoa mút dài vú mẹ như cái dây cung của Hàn Chim. Cuối cùng núm vú tuột ra, co lại từ từ y hệt con đỉa bị nước đái, rất lâu mới trở lại hình dáng cũ. Tôi đau khổ là vì bầu vú, tôi căm giận Sa Tảo Hoa cũng là vì bầu vú. Nhưng con tiểu yêu này đã ti như điên, uống ừng ực từ cái bầu vú giả, ti ngon lành nhưng tôi không thèm. Một lần nữa, bầu vú của mẹ lại thuộc về tôi. Đã lâu tôi chưa bao giờ ngủ yên và ngủ ngon đến thế. Giấc mơ đã thay cho cái miệng của tôi, đắm đuối và hạnh phúc, toàn một mùi thơm của sữa! Tôi ngủ liền một mạch ba ngày.
Do vậy, tôi vô cùng cảm kích cô Đường. Hai bầu vú đội ngực áo quân phục khiến tôi cảm thấy cô vô cùng khả ái, tuy rằng vú của cô là loại vú bánh dầy, nhưng hình dáng vẫn là vú. Cho Tảo Hoa ăn xong, cô Đường mở cái bọc bằng áo lông điêu, một mùi khai như mùi lông chồn xông lên. Tôi nhìn thấy là da Sa Tảo Hoa trắng như sữa. Không ngờ con bé mặt đen như than mà da lại trắng đến thế. Cô Đường mặc quần áo, đội mũ, trang điểm cho Sa Tảo Hoa thành một cô bé xinh xắn. Cô Đường gạt cái áo lông điêu sang một bên, hai tay xốc nách Sa Tảo Hoa tung lên trời rồi đón lấy. Sa Tảo Hoa cười khanh khách. Thật không ngờ, tôi cảm thấy cô cháu ngoại này cũng có phần đáng yêu.
Cơ thể mẹ căng lên, chuẩn bị tư thế cướp lại Sa Tảo Hoa bất cứ lúc nào. Cô Đường trao trả Sa Tảo Hoa cho mẹ, nói:
- Bác ơi, Tư lệnh Sa mà nhìn thấy con bé thì chắc là vui lắm.
- Tư lệnh Sa? Mẹ ngỡ ngàng nhìn cô Đường.
- Bác ơi, bác chưa biết đấy thôi. Con rể bác bây giờ là Tư lệnh cảnh vệ thành phố Bột Hải, hơn ba trăm người dưới quyền, có cả một chiếc xe Jeep Mỹ! - Cô Đường nói.
(đoạn đánh dấu dưới đây, không ăn nhập với bất kỳ tình tiết nào trong bài, có thể người dịch đã bỏ sót một đoạn dài hoặc nhà xuất bản có lỗi khi in- LENA)
Sa Nguyệt Lượng xé vụn bức thư, gầm lên:
- Lỗ-đại-bác, Tưởng-bốn-mắt, dùng tưởng bở!
Sứ giả của đại đội bộc phá từ tốn nói:
- Thưa ông Tư lệnh, thiên kim tiểu thư của ông, chúng tôi rất mến! Giam giữ con tin, vậy bản lãnh ở đâu?
Sa Nguyệt Lượng nói:
- Bảo Lỗ-tướng có giỏi thì đem quân đến đánh Bột Hải?
Sứ giả nói:
- Ông Tư lệnh không nên quên quá khứ vẻ vang của mình?
Sa Nguyệt Lượng nói:
- Ta đây thích đánh Nhật thì đánh, thích hàng Nhật thì hàng, thằng nào dám làm gì ta, còn lảm nhảm thì chớ trách!
Cô Đường lôi ra chiếc lược nhựa đỏ, chải đầu cho chị Năm, chị Sáu. Khi chải đầu cho chị Sáu, chị Năm nhìn cô với vẻ say mê. ánh mắt chị Năm như chiếc lược, chải tù đầu xuống chân, rồi chải từ chân lên đầu cô Đường. Khi cô Đường chải đầu cho chị Năm, thì trên mặt trên cổ chị Sáu nổi da gà. Chải xong, cô Đường ra về. Chị Năm bảo mẹ:
- Mẹ, con muốn đi bộ đội?
Hai hôm sau, chị Năm mặc quân phục, công tác chủ yếu của chị là cùng cô Đường thay tã lót và cho Sa Tảo Hoa bú sữa.
Đây là thời kỳ đẹp nhất trong cuộc đời tôi, như bài hát lưu hành lúc bấy giờ. Em ơi buồn làm chi, Hãy cùng đồng chí ra đi, Rau cải thìa nấu cùng thịt lợn, Chảo bốc hơi đầy ắp màn thầu.... Rau cải thìa nấu với thịt lợn không thường xuyên, màn thầu trắng cũng không thường xuyên, nhưng củ cải om cá khô thì lúc nào cũng có, bánh bột ngô to bự thì lúc nào cũng có. Hạn hán không thể chết đói, đói không đến lính tráng!
Mẹ than thở:
- Tưởng Đệ ơi, Cầu Đệ ơi, các con tội nghiệp của mẹ...
Mẹ rơi nước mắt khi nghe tiếng hát của chị Năm và tiếng cười vui vẻ của chị Sáu. Trong thời gian này, sữa của mẹ đặc biệt tốt và nhiều, Kim Đồng từ trong túi vải nhảy ra ngoài, đã đi được hai mươi bước, đi được năm mươi bước, đi được một trăm bước, không bò nữa. Miệng tôi cũng không ngượng ngập nữa, chửi người như ranh. Khi Tôn câm nắm lấy chim, tôi chửi liền:
- Đ. mẹ mày!
Chị Sáu theo học lớp xóa nạn mù chữ, hát: Mười tám, chị đi bộ đội, đi bộ đội vẻ vang biết mấy! Cắt đánh soạt vứt bỏ đuổi sam, chải lật tóc rẽ thành hai mái? Canh gác tuần tra khắp nẻo đường. Hán gian đặc vụ chạy té đái.
Lớp học đặt trong nhà thờ. Những ghế băng được sửa chữa ngay ngắn, những đống phân lừa được dọn sạch. Thiên sứ có cánh đã bay đi. Tượng Chúa Giêsu bằng gỗ táo đã bị lấy cắp. Trên tường treo bảng đen, trên bảng viết chữ trắng. Cô Đường gõ thước lên bảng cồm cộp, chống... Nhật... chống... Nhật. Các bà phụ nữ vừa cho con bú vừa khâu đế giày hoặc bện thừng. Chống Nhật... chống Nhật.... Tôi nhảy cà chớn giữa các bà phụ nữ, len lỏi giữa bầy vú đủ các loại. Chị Năm nhảy lên bục, nói:
- Nhân dân là nước, bộ đội con em của dân là cá, đúng không nào?
- Đúng. - Cá sợ nhất gì nào?...
- Cá sợ gì nhỉ? Cá sợ lưỡi câu? Cá sợ chim bói cá? Cá sợ rắn nước?...
- Cá sợ lưới! Đúng rồi, cá sợ nhất là lưới? Sau gáy các bà các chị là cái gì vậy?
- Là cái búi tó.
- Trên búi tó có gì vậy?
- Là cái lưới.
Đám phụ nữ chợt tỉnh ngộ, mặt đỏ ửng, ghé tai nhau thì thào, cười rúc rích. Cắt phăng mái tóc, vút bỏ lưới, bảo vệ đại đội trưởng Lỗ và chính ủy Tưởng, bảo vệ đội bộc phá do hai người chỉ huy.
- Ai xung phong nào?
Chị Phán Đệ giơ cao cái kéo, còn dùng những ngón tay búp măng mở đóng kéo xoành xoạch như hàm con cá mập đang đói. Cô Đường nói:
- Thử nghĩ coi, các bà các bác, các cô các dì, các chị các em thử nghĩ coi, phụ nữ chúng ta bị ba ngàn năm áp bức, giờ đây đã đến lúc vùng lên! Hồ Tần Liên, chị cho biết, tên ma men Nhiếp-Nửa-Hũ chồng chị, còn dám đánh chị nữa không?
Một nữ thanh niên mặt vàng như nghệ bế con đứng dậy ngó nữ binh Đường và nữ binh Thượng Quan hiên ngang trên bục, rồi vội vàng cúi xuống, nói:
- Không đánh nữa.
Nữ binh Đường vỗ tay:
- Các bà các chị nghe rõ chưa, ngay cả Nhiếp-Nửa-Hũ cũng không dám đánh vợ nữa. Hội Phụ nữ cứu quốc là nhà của phụ nữ chúng ta, giải trừ những nỗi bất bình cho chúng ta. Hỡi chị em phụ nữ, cuộc sống bình đẳng hạnh phúc của ta hiện nay do đâu mà có? Từ trên trời rơi xuống chăng? Từ dưới đất đùn lên chăng? Không phải, quyết không phải. Nguyên nhân đích thực chỉ có một: Đó là từ khi đội bộc phá về đây xây dựng căn cứ địa vững chắc như tường đông vách sắt ở thị trấn Đại Lan, ở Cao Mật. Chúng ta đã tự lực cánh sinh, phấn đấu gian khổ để cải thiện cuộc sống, nhất là cuộc sống của phụ nữ. Chúng ta không mê tín kiểu phong kiến, nhưng chúng ta phải gỡ bỏ mọi trói buộc, không chỉ vì đội bộc phá mà vì bản thân chúng ta. Chị em phụ nữ, hãy cắt tóc ngắn, vút bỏ lưới bọc tóc, nhất loạt để tóc rẽ ngôi!
- Mẹ, mẹ xung phong đi! Chị Phán Đệ đưa kéo cho mẹ.
- Phải rồi, bà chị Thượng Quan cắt tóc ngắn thì chúng tôi cũng cắt tóc ngắn. Đám phụ nữ đồng thanh kêu lên.
- Mẹ ơi, mẹ xung phong đi, cho con gái mẹ mở mày mở mặt! - Chị Năm nói.
Mẹ đảo mắt, đưa đầu về phía chị, nói:
- Cắt đi, Phán Đệ! Miễn là có lợi cho đại đội bộc phá thì đừng nói cắt bím tóc, ngay cả chặt đứt hai ngón tay, mẹ cũng dám chặt.
Chị Năm gỡ búi tóc của mẹ ra. Một cuộn lớn tóc đen thả dần trên cổ trên lưng mẹ như một dòng suối. Mẹ có những nét giống hoàn toàn Đức mẹ Ma ria trên tường, nghiêm trang, u sầu, lặng lẽ, dâng hiến với vẻ cam chịu và tự nguyện. Đó chính là tôn giáo, một đứa trẻ bụ bẫm hồng hào sinh trong máng cỏ. Ngôi nhà thờ mà tôi từng chịu lễ rửa tội có mùi phân vừa mục, cảnh tượng tôi nằm trong bồn nước cùng chị Tám lại hiện ra trước mắt. Đức mẹ chưa bao giờ giấu cặp vú, còn vú của mẹ tôi thì lại nửa che nửa đậy.
- Phán Đệ, cắt đi con, còn chần chừ gì nữa? Mẹ nói.
Thế là chị Năm mở rộng lưỡi kéo ngoạm vào suối tóc của mẹ. Soạt soạt, bím tóc rơi xuống. Mẹ ngẩng đầu lên, tóc mẹ trở thành hai mái chấm đái tai, cái cổ thon dài của mẹ hoàn toàn lộ rõ. Đột nhiên mất đi sức nặng của mái tóc dày, đầu mẹ trở nên linh hoạt, có phần nhanh nhẹn như Tiên Chim, thoắt ngoảnh sang bên này, thoắt ngoảnh sang bên kia. Mặt mẹ đỏ bừng, nữ binh Đường lấy ra chiếc gương nhỏ hình tròn đưa tới trước mặt để mẹ soi, nhưng mẹ ngượng, quay mặt đi, chiếc gương đưa theo, mẹ thẹn thùng khi nhìn thấy mái tóc của mình trong gương thu nhỏ đến chục lần mái đầu cũ. Mẹ lại vội quay mặt đi.
- Đẹp không bác? - Cô Đường hỏi.
- Xấu chết đi được! - Mẹ trả lời khẽ.
- Ngay cả bác Thượng Quan còn cắt tóc ngắn, các vị còn chần chờ gì nữa? - Nữ binh Đường nói to.
Cắt đi vậy thì cắt đi. Cắt đi cho hợp thời. Mỗi khi thay đổi triều đại là lại thay đổi đầu tóc. Triều Thanh, nam giới đều để bím. Cách mạng của ông Tôn Trung Sơn, trước tiên là cắt phăng cái bím. Tóc ngắn rẽ ngôi là sản phẩm của thời đại. Sản phẩm thời đại chính là mốt, mốt chính là cái đẹp. Cắt hộ tôi. Soạt soạt. Tiếng than. Tiếng tặc lưỡi. Tôi cúi xuống nhặt lên một lọn tóc. Tóc rải rác trên mặt đất, đen có, vàng có, thô có, mảnh có. Thô thì vừa cứng vừa đen, mảnh thì vừa mềm vừa vàng. Tóc đầy dưới đất, nhưng chỉ tóc mẹ tôi là đẹp nhất. Tóc mẹ tôi là một loại tóc tiết ra dầu.
Những ngày ấy vui nổ trời, ầm ĩ hơn những ngày Tư Mã Khố triển lãm chiến lợi phẩm đánh cầu đường sắt. Đại đội đường sắt là nơi tập trung nhân tài, hát hay, múa giỏi, thổi tiêu thổi sáo, chơi đàn, có tất. Tất cả những bức tường trong thôn đều kẻ khẩu hiệu chữ to. Mỗi sáng, đều có bốn thiếu sinh quân trèo lên vọng gác, ngoảnh về phía mặt trời mà luyện kèn báo thức. Lúc đầu thổi như bò rống, dần dà nghe như chó sủa óc ách, cuối cùng nghe khúc chiết, lên bổng xuống trầm, làn diệu hẳn hoi. Các tiểu binh hít đầy lồng ngực, ngửa mặt, cổ vươn dài, phồng miệng lấy hơi. Kèn vàng chóe, dải lụa điều, vừa oai phong vừa đẹp mắt. Trong số bốn lính kèn, một chú đẹp trai nhất tên là Mã Đồng, miệng chúm chím, má lúm đồng tiền, hai vành tai tròn trịa. Chú nhanh nhẹn hoạt bát, môi ngọt như bôi mật ong. Chú triển khai một đợt nhận hơn hai mươi mẹ nuôi. Những bà mẹ nuôi ấy trông thấy chú là cặp vú rung động, chỉ hiềm nỗi không thể nhét núm vú vào miệng chú để chú cắn chú xé. Mã Đồng từng đến nhà tôi, truyền đạt mệnh lệnh gì đó cho tiểu đội trưởng. Hôm ấy tôi đang ngồi xổm dưới gốc cây thạch lựu xem đàn kiến trèo lên cây. Vì tò mò, chú cũng ngồi xuống xem. Chú còn chăm chú hơn tôi, giết kiến thành thạo hơn tôi, chú còn dẫn tôi đến đái vào tổ kiến. Trên đầu chúng tôi là cây lựu nở đầy hoa như những ngọn lửa. Lúc này là tiết đương xuân, tháng Tư, trời xanh xanh, mây trắng như bông, én lượn từng đàn trong gió nam lười nhác.
Mẹ linh cảm rằng, con trai mà đẹp và linh hoạt như Mã Đồng thì đa phần là chết yểu, Thượng đế ban phát cho nó nhiều quá, nó chiếm hết những thuận lợi của giống người, khó có thể đạt tới một kết cục thọ tỉ Nam sơn con cháu đầy đàn. Quả như lời mẹ đoán, một đêm, trời đã về khuya, sao dày đặc, ngoài phố bỗng có tiếng kêu của một thiếu niên:
- Xin đại đội trưởng Lỗ, chính ủy Thắng tha cho cháu lần này... Nhà cháu ba đời độc đinh, ông bà cháu chỉ có mỗi mình cháu là cháu nội, bố mẹ cháu chỉ có mình cháu là con... Cháu bị bắn chết thì gia đình cháu tuyệt tự?.. Mẹ Tôn ơi, mẹ Lý ơi, mẹ Thôi ơi, các mẹ nuôi ơi, ra xin cho cố!... Mẹ Thôi ơi, mẹ là chỗ giao tình với đại đội trưởng, mẹ hãy cứu con!...
Mã Đồng vừa kêu gào vừa đi ra khỏi thôn. Một tiếng nổ rất đanh, rồi tất cả yên lặng. Chú lính kèn đẹp như tiên đồng từ đó mất tăm. Mẹ nuôi nhiều như thế mà vẫn không thoát chết. Tội của chú là lấy trộm đạn đem bán.
Hôm sau, trên đường phố xuất hiện một cỗ quan tài màu đỏ son, một cỗ xe ngựa. Một đám binh sĩ khiêng quan tài lên xe. Cỗ quan tài rất nặng, dày năm tấc bằng gỗ bách, phủ chín lần véc ni, lót chín lần vải lót, ngâm nước mười năm không thấm, súng trường 3.8 bắn không thủng, chôn dưới đất nghìn năm không mục. Mười mấy bình sĩ nâng đáy quan tài, một tiểu đội trưởng hô khẩu lệnh, mới lẩy bẩy nâng lên khỏi mặt đất đưa lên xe. Quan tài lên xe rồi, một không khí căng thẳng trùm lên đại đội bộ, binh sĩ chạy ra chạy vào như mắc cửi, người nào người ấy nét mặt căng thẳng. Sau đó, một ông già râu bạc cưỡi lừa đi đến. Ông già xuống lừa, đến bên cỗ quan tài, vịn vào áo quan mà khóc rống lên, nước mắt chảy như suối, ướt đầm cả chòm râu. Đó là ông nội của Mã Đồng, đỗ cử nhân đời Thanh, trình độ văn hóa rất cao.
Đại đội trưởng Lỗ và chính ủy Tưởng bước tới, ngượng nghịu đứng bên cạnh ông già. Ông già khóc chán, quay lại nhìn như nuốt chủng Lỗ và Tưởng. Tưởng nói:
- Thưa cụ Mã, cụ đọc làu kinh thư, hiểu sâu đạo nghĩa. Chúng toi đành gạt nước mắt mà tử hình Mã Đồng.
Lỗ tiếp lời:
- Gạt nước mắt mà tử hình Mã Đồng.
Ông già nhổ bãi nước bọt đầy máu vào mặt Lỗ, nói:
- Mèo ăn vụng miếng mỡ thì giết, hổ bắt cả con lợn thì tha? Chống Nhật mà rượu thịt chảy như suối!
Ông già ngửa mặt cả cười rồi bỏ đi, con lừa cúi đầu đi theo, cỗ xe chở quan tài đi sau con lừa, lặng lẽ. Tiếng xà ích quát ngựa nghe như tiếng ve sầu, như tiếng chuông bị bịt miệng không cho ngân. Sự kiện Mã Đồng như một trận động đất, làm lưng lay nền móng của đại đội bộc phá. Cái cảm giác giả tạo về hạnh phúc bị tiêu tan, tiếng súng hành quyết Mã Đồng bảo chúng tôi rằng, thời buổi loạn lạc, tính mạng con người như con sâu cái kiến! Sự kiện Mã Đồng thoạt nghe có vẻ biết cách rèn quân, chấp pháp nghiêm minh, nhưng nó lại phát sinh tiêu cực trong nội bộ đại đội bộc phá. Mấy ngày nay có đến mười mấy binh sĩ say rượu, có những vụ ẩu đả, tiểu đội ở nhà tôi đã bộc lộ dần tâm trạng bất mãn. Tiểu đội trưởng Vương nói công khai:
- Mã Đồng chẳng qua chỉ là vật hi sinh! Nó là thằng bé con, làm sao biết bán trộm đạn? Ông nội người ta là cử nhân, ruộng tốt nghìn khoảnh, lừa ngựa hàng đàn, thiếu gì mấy đồng tiền còm? Theo tôi, nó chết là vì hai trâu húc nhau dập đầu con muỗi. Chả trách lão cử nhân nói: Chống Nhật mà rượu thịt chảy như suối?
Tiểu đội trưởng nói câu này vào giữa trưa thì buổi chiều chính ủy Tưởng dẫn hai vệ binh đến nhà tôi. Chính ủy mặt sa sầm, nói:
- Vương Mộc Căn, lên đại đội bộ với tôi!
Vương Mộc Căn tròn mắt nhìn các chiến sĩ của mình, chửi:
- Đ. mẹ thằng chó chết nào bán đứng ông?
Các binh sĩ nhìn nhau mặt tái nhợt, duy chỉ có Tôn Bất Ngôn là cười khanh khách đi tới trước mặt chính ủy, hoa chân múa tay kể lại chuyện Sa Nguyệt Lượng cướp vợ của mình.
Chính ủy nói:
- Tôn Bất Ngôn, chỉ định anh làm quyền tiểu đội trưởng.
Tôn Bất Ngôn ngoẹo đầu nhìn miệng chính ủy. Chính ủy túm tay anh ta, rút bút máy viết mấy chữ to tướng. Tôn Bất Ngôn ngoẹo bàn tay lại, ngây người ra nhìn, con người vàng sáng rục, hoa chân múa tay mùng rỡ. Vương Mộc Căn cười nhạt nói:
- Cứ những trò này còn tiếp diễn, thằng câm sẽ mở miệng nói được.
Chính ủy vẫy tay, hai vệ binh hùng hổ tiến đến, áp sát hai bên Vương Mộc Căn. Vương Mộc Căn nói to:
- Các người ăn cháo đá bát, không còn nhớ khi ta đánh đoàn tầu bọc thép nữa rồi!
Chính ủy không thèm đếm xỉa những lời quát tháo của Vương Mộc Căn, vỗ vai Tôn câm. Tôn câm được sủng ái giật mình, đứng nghiêm chào chính ủy. Từ ngoài ngõ vọng lại tiếng gầm của Vương Mộc Căn:
- Trêu vào ông, ông sẽ cài mìn dưới gối chúng mày!
Công việc đầu tiên của Tôn câm sau khi được đề bạt làm tiểu đội trưởng là đòi mẹ tôi trả người. Lúc này, mẹ tôi đang nghiền lưu huỳnh cho đội bộc phá ở chỗ cối xay bột, nơi Tư Mã Khố ẩn nấp khi bị thương. Cách cối xay khoảng trăm thước, chị Phán Đệ trông nom mấy phụ nữ dùng búa nhỏ đập sắt vụn. Cách chỗ chị Phán Đệ khoảng trăm thước, viên kỹ sư của đại đội bộc phá chỉ huy bốn đội viên khỏe mạnh thụt cái bễ to tướng, đẩy gió vào lò nung. Bên cạnh họ, các khuôn đã vùi trong cát. Mẹ bịt miệng bằng chiếc khăn mặt, đi vòng quanh cối cùng với con lừa nhỏ. Mùi lưu huỳnh cay xé mũi, nước mắt mẹ chảy ròng ròng. Con lừa hắt hơi liên tục. Tôi và thằng con trai Tư Mã Khố ngồi trên bụi nhân trần, chị Phán Đệ giám sát chúng tôi nghiêm ngặt theo lời dặn của mẹ, không cho chúng tôi lại gần cái cối xay. Tôn câm khoác trên vai khẩu súng trường thô kệch do Hán Dương sản xuất, tay cầm thanh đao của báu gia truyền, khệnh khạng bước tới chỗ cối xay. Chúng tôi thấy hắn chặn con lừa lại, giơ đao chém vút một cái vào không khí ngay trước mặt mẹ. Mẹ dừng lại sau con lừa, nhìn hắn không chớp. Hắn chìa bàn tay có chữ ra, cười hô hố. Mẹ gật gật tỏ ý chúc mừng hắn. Tiếp đó, nét mặt hắn thay đổi nhiều kiểu, mẹ lắc đầu quầy quậy, hình như không chấp thuận yêu cầu gì đó của hắn. Hắn vung tay đấm một quả vào đầu con lừa. Con lừa từ từ khuỵu hai chân trước rồi gục xuống. Mẹ quát to: Đồ súc sinh? Hắn cười, miệng méo xệch rồi khệnh khạng bỏ đi. Phía bên kia, cửa đáy đã chọc thủng, dòng thép sáng chói chảy vào khuôn, từng cụm hoa lửa bắn tung tóe. Mẹ nắm hai tai con lừa giúp nó đứng dậy. Rồi mẹ bước tới chỗ chúng tôi, bỏ khăn bịt miệng vàng khè ra, vén áo nhét đầu vú bị lưu huỳnh hun trắng nhợt vào miệng tôi. Tôi đang phân vân xem có nên nhả đầu vú đắng ngắt ra không thì mẹ đẩy tôi ra, mạnh đến nỗi suýt nữa tôi bị gãy răng cửa mới mọc. Tôi nghĩ đầu vú mẹ đau kinh khủng, nhưng không phải, mẹ hoàn toàn không quan tâm tới đầu vú, mà chạy như bay về nhà, chiếc khăn mặt phất phơ theo nhịp chạy. Tôi hình dung bầu vú đầy bột lưu huỳnh của mẹ cọ xát dữ dội sau lần vải thô. Mẹ như mụ đi trong một cảm giác quái gở. Nếu là hạnh phúc thì đây là thứ hạnh phúc trong đau khổ tột cùng nên mẹ mới điên lên như vậy.
Băn khoăn của tôi được giải đáp ngay lập tức.
- Lãnh Đệ ơi, Lãnh Đệ! Con ở đâu? - Mẹ gọi to, từ gian chính chạy sang gian chái.
Bà nội từ trong nhà bò ra, phục trên lối ngoài sân, đầu ngỏng lên như con ếch ộp. Chái tây của bà nội đã bị các binh sĩ chiếm. ở đó, năm chú lính chụm đầu vào nhau bên bàn xay, đang xem một cuốn sách cũ đóng bằng giấy lề. Họ ngẩng lên, ngạc nhiên nhìn chúng tôi. Súng treo trên tường, địa lôi treo dưới xà nhà, đen xỉn, tròn tròn như những trứng nhện khổng lồ.
- Tôn câm đâu rồi? - Mẹ hỏi.
Các binh sĩ lắc đầu. Mẹ chạy vào chái đông. Bức tranh Nàng Tiên Chim để trên mặt bàn gãy chân, chặn bằng miếng bánh bao ăn dở và nửa củ hành đại, lá xanh biếc. Cái bát men xanh cũng ở trên bàn, trong bát có một nhúm xương, không rõ là xương chim hay xương thú. Khẩu súng của Tôn Câm treo trên tường, địa lôi treo dưới xà nhà.
Mẹ đứng giữa sân, gào lên một cách tuyệt vọng. Các binh sĩ từ gian chái chạy ra, dồn dập hỏi mẹ đã xảy ra chuyện gì.
Tôn câm từ dưới hầm củ cải chui lên, người bám đầy đất và mốc trắng, nét mặt hắn mệt mỏi nhưng đầy vẻ thỏa mãn.
Mẹ dậm chân, gào lên:
- Tôi lú lẫn mất rồi!
ở đoạn cuối hầm ngầm trong nhà, chỗ đống cỏ mục, thằng câm đã cưỡng dâm chị ba Lãnh Đệ.
Chúng tôi lôi chị dưới hầm lên đặt nằm trên giường. Mẹ vừa khóc vừa lấy khăn bám đầy bụi lưu huỳnh, thấm nước trong chậu, lau rửa từng li từng tí trên người chị. Nước mắt mẹ rơi trên mình chị, trên những vệt răng ở vú nhưng chị lại nở một nụ cười mê hồn, ánh mắt rạng rỡ đầy quyến rũ.
Chị Năm nghe tin chạy về, trố mắt nhìn chị Ba. Chị chẳng nói chẳng rằng chạy ra sân, móc quả lựu đạn ở thắt lưng, giật nụ xòe ném vào chái đông. Quả lựu đạn bị thối, không nổ.
Nơi xử bắn thằng câm cũng chính là nơi xử bắn Mã Đồng: bên bờ hố nước bẩn đầy rác rưởi, giữa hố mọc đầy cỏ bô, ở phía nam của thôn. Thằng câm bị trói theo kiểu trói trọng phạm ngay bên hố nước, mấy chục binh sĩ tay xách súng đứng thành hàng ngang, chính ủy diễn giải bằng lời lẽ hùng hồn trước quần chúng. Diễn thuyết xong, các binh sĩ lên cơ bẩm, đẩy đạn lên nòng... Chính ủy đích thân hô khẩu lệnh. Khi những viên đạn sắp sửa bay khỏi nòng thì chị Lãnh Đệ quần áo trắng tinh, phiêu diêu đi tới nhẹ nhàng như một Nàng Tiên. Nàng Tiên Chim đến rồi? Có người kêu lên. Mọi người lập tức nhớ lại thân thế kỳ lạ và những sự tích thần kỳ của Tiên Chim, quên bẵng thằng câm. Đây là giờ phút đẹp đẽ nhất trong cuộc đời Tiên Chim, chị nhảy múa trước mặt mọi người như một con tiên hạc, khuôn mặt tươi tắn như bông sen hồng, sen bạch. Thân hình cân xứng, cặp môi mọng đầy quyến rũ. Chị vừa múa vừa tiến lại gần thằng câm rồi đột nhiên dừng lại nghiêng đầu ngắm khuôn mặt hắn. Thằng câm nở một nụ cười ngơ ngẩn. Chị đưa tay vuốt nhe mái tóc dày như thảm, véo nhẹ cái mũi củ hành của thằng câm. Cuối cùng, chị công khai nắm lấy bộ sậu giữa hai chân, cái bộ sậu đã gây oan nghiệt, rồi nghiêng đầu nhìn quần chúng mà cười khúc khích. Đám phụ nữ vội quay mặt đi, đám đàn ông thì nhìn mê mẩn, nhếch mép cười hóm hỉnh. Chính ủy húng hắng ho, rất không tự nhiên, ra lệnh:
- Lôi cô ta ra! Thi hành lệnh xử bắn!
Thằng câm ngửa mặt lên, kêu ú ớ, hình như muốn kháng nghị.
Nàng Tiên Chim ta, y vẫn nắm cái của ấy, cặp môi mọng đầy vẻ ham muốn, phản ánh một dục vọng lành mạnh, tự nhiên. Không ai muốn chấp hành mệnh lệnh của chính ủy.
Chính ủy hỏi to:
- Cô kia, hắn cuồng dâm cô hay cô thuận tình?
Nàng Tiên Chim không trả lời.
Chính ủy lại hỏi:
- Cô có thích hắn không?
Nàng Tiên Chim vẫn không trả lời.
Chính ủy tìm mẹ trong đám đông, vẻ khó xử:
- Bác xem nên thế nào!... Theo tôi nghĩ, hay là cho chúng nó lấy nhau cho xong. Tôn Bất Ngôn tuy có sai lầm, nhưng không đáng tội chết, đó là điều chắc chắn!
Mẹ không nói gì, rẽ đám đông đi về. Mẹ bước rất chậm, vẻ nặng nhọc như cõng trên lưng một tấm bia. Mọi người nhìn theo, khi thấy mẹ kêu gào, mới không để ý nữa.
- Cởi trói cho anh ta. - Chính ủy mệt mỏi buông ra câu này, rồi bỏ đi.

8
Hôm ấy là ngày mồng Bảy tháng Bảy âm lịch, Ngưu Lang và Chúc Nữ gặp nhau. Trong nhà ngột ngạt, muỗi nhiều tới mức có thể quơ được cả nắm. Mẹ trải chiếu dưới gốc cây thạch lựu; lúc đầu chúng tôi ngồi, sau đó là nằm trên chiếu nghe mẹ thủ thỉ kể chuyện. Lúc chạng vạng tối, trời mưa nhẹ. Mẹ bảo đó là nước mắt Chúc Nữ. Không khí ẩm ướt, gió mát thổi đến từng cơn. Dưới gốc cây lựu, những chiếc lá lấp lánh. ở trong chái dông và chái tây, các binh sĩ thắp những ngọn nến tự tạo. Muỗi cắn, mẹ xua chúng bằng lá bồ đề. Ngày hôm nay, tất cả chim khách đều bay lên trời xanh, tầng tầng lớp lớp, cắn đuôi nhau, bắc nhịp cầu Ô Thức trên sông Ngân phong ba cuồn cuộn. Chúc Nữ và Ngưu Lang qua cầu Ô Thức đến với nhau, mưa và móc là những giọt lệ nhớ thương của họ. Trong lời thủ thỉ của mẹ, tôi và Niệm Đệ, thằng nhỏ nhà Tư Mã, ngước nhìn bầu trời đầy sao. Chị Tám tuy bị mù nhưng cũng ngẩng mặt nhìn trời, mắt chị còn sáng hơn sao. Ngoài ngõ vang lên tiếng chân nặng nề của những người đổi gác trở về. Cánh đồng xa xa, ếch nhái đang hợp xướng. Trên dàn biển đậu chân tường, chim Thợ Dệt cất tiếng hỏi: - Chiu chiu chiu... chiu chiu. Trong màn đêm mờ ảo, một số chim lớn nặng nề bay qua, chúng tôi lờ mờ trông thấy bóng trắng của chúng và tiếng vỗ cánh rào rào. Những con dơi kêu chít chít, những giọt nước trên cành rơi tí tách. Sa Tảo Hoa nằm trong lòng mẹ, ngáy đều đều. Chái đông vang lên tiếng kêu như mèo của Lãnh Đệ, cái bóng đồ sộ của thằng câm lắc lư trước ánh đèn. Hai người đã lấy nhau. Chính ủy Tưởng là người làm mối. Tịnh thất thờ Nàng Tiên Chim trở thành phòng cô đâu với những cuộc truy hoan. Nàng Tiên Chim thường xuyên mình trần chạy ra sân. Thằng câm đeo trên hai núm vú chị hai quả lục lạc nhỏ, khi chạy kêu loong chong. Một binh sĩ nhìn trộm vú chị, suýt bị thằng câm đánh gãy cổ. Khuya rối, vào nhà ngủ đi, mẹ nói.
- Trong nhà nóng, lắm muỗi, cho chúng con ngủ ở đây. Chị Sáu nói.
Mẹ bảo, không được nhiễm sương là ốm, với lại, trên trời có...
Chúng tôi hình như nghe thấy có tiếng người đang trao đổi, bông hoa đẹp quá, hái đi! Lúc về hãy hái. Đó là tiếng của những con nhện thành tinh, chuyên cưỡng dâm những bông cúc vàng.
Chúng tôi nằm trên giường, không tài nào ngủ được. Điều kỳ lạ là chị Tám lại ngủ rất ngon lành, khóe miệng có một tia nước bọt trong suốt và thơm lựng. Cây ngải hun muỗi bốc khói cay cay. Cây nến trên cửa sổ của các binh sĩ chiếu sáng cửa sổ chúng tôi, cảnh vật trong sân mờ ảo. Những con cá biển chị Lai Đệ gửi cho đã ươn, đang bốc mùi trong nhà xí. Chị còn gửi cho bao nhiêu của cải, vải vóc tơ lụa, đồ dạc, đồ chơi, nhưng bị đại đội bộc phá tịch thu tất. Then cửa buồng chính kêu khẽ.
- Ai đấy? - mẹ quát, thuận tay vớ con dao thái rau.
Không một chút động tĩnh. Có lẽ chúng tôi nghe lầm. Mẹ đặt con dao vào chỗ cũ. Cây ngải hun muỗi khẽ lóe lên những tia sáng ngắn ngay dưới chân giường.
Một bóng đen gầy gầy đột nhiên đứng ngay ở đầu giường. Mẹ kinh hoảng kêu lên. Chị Sáu cũng hoảng hốt kêu lên. Bóng đen chồm lên giường bịt miệng mẹ. Mẹ sờ soạng tìm con dao định chém thì bóng đen nói:
- Mẹ, con là Lai Đệ.
Con dao rơi xuống chiếu. Chị Cả về rồi! Chị Cả quì trên giường, khóc nức nở. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn khuôn mặt lờ mờ của chị. Tôi trông thấy có những gì lấp lánh trên đó.
- Lai Đệ, đúng là con đấy ư? Con là ma chăng? Con là ma mẹ cũng không sợ, để mẹ xem mặt con một tí.
Mẹ tìm bao diêm trên đầu giường. Chị Cả giữ tay mẹ lại, hạ thấp giọng, nói:
- Mẹ đừng thắp đèn.
- Lai Đệ, con nhẫn tâm lắm, những năm qua con với thằng Lượng đi những đâu? Con làm khổ mẹ quá!
- Mẹ ơi, chuyện dài lắm. Chị Cả nói:
- Con gái con- Mẹ trao Sa Tảo Hoa đang ngủ say cho chị, nói: - Thế mà cũng là mẹ, đẻ mà không nuôi, không bằng con vật.... Vì nó mà em Tư và em Bảy...
- Mẹ ơi. Ân tình của mẹ thể nào cũng có lúc con đền đáp, cả em Tư và em Bảy nữa
Lúc này chị Sáu bước tới gọi:
- Chị Cả?
Chị Cả ngửng lên, vỗ vỗ chị Sáu, nói:
- Em Sáu. Còn Kim Đồng đâu, Ngọc Nữ đâu? Kim Đồng Ngọc Nữ còn nhớ chị không.
Mẹ nói:
- Nếu không có đại đội bộc phá thì cả nhà ta chết từ lâu rồi!
Chị Cả nói:
- Mẹ ạ, lão Tưởng và thằng tha Lỗ không phải con người!
Mẹ nói:
- Người ta không đối xử tệ với mình thì nói gì cũng phải có lương tâm chứ?
Chị Cả nói:
- Mẹ, đó là âm mưu của họ, họ viết thư cho anh Lượng ép phải đầu hàng, nếu không, sẽ bắt con gái của con làm con tin.
Mẹ hỏi:
- Lại có chuyện ấy hả? Họ đánh nhau thì việc gì đến con bé?
Chị Cả nói:
- Mẹ ơi, con về lần này là để cứu cháu. Mẹ ạ, con có đem theo mười mấy người, chúng con đi ngay bây giờ, để cho bọn thằng Lỗ mừng hụt! Mẹ ơi, công ơn của mẹ cao như núi, cho phép con được báo đáp sau này. Con đi đây!
Chị Cả chưa nói dứt câu, mẹ đã giằng lại bé Tảo Hoa, giận dữ nói:
- Lai Đệ, mày đừng đánh lừa tao. Trước kia mày quẳng con mày cho tao như quẳng một con chó. Tao không quản nguy hiểm nuôi nó đến bây giờ. Khá nhỉ, lại về đây ăn sẵn! Nào là đội trưởng Lỗ, chính ủy Tưởng, mày bịa ra tất! Mày muốn làm mẹ rồi hả? Đú đởn với thằng Lượng đủ rồi hả?
- Mẹ, anh ấy bây giờ là Lữ trưởng bộ đội liên hiệp Thiên hoàng, cai quản cả nghìn người?
- Tao không cần nó có bao nhiêu người, tao cũng chăng cần chức Trưởng của nó! - Mẹ nói - Mày bảo nó đến mà bế đi. Mày bảo nó, những con thỏ mà nó treo trên cây, tao vẫn để đó.
- Mẹ ơi, đây là chuyện lớn, liên quan đến hàng ngàn vạn người, mẹ đừng lẩm cẩm!
- Tao lẩm cẩm cả đời người rồi, ngàn vạn người tao cũng thây kệ! Tao chỉ biết con Hoa là do tao nuôi, tao chẳng cho ai hết!
Chị Cả vồ lấy Tảo Hoa nhảy xuống giường chạy ra ngoài.
Mẹ quát:
- Đồ mất dạy, dám cướp hả?
Tảo Hoa òa khóc.
Mẹ nhảy xuống giường, đuổi theo.
Ngoài sân rộ lên những tiếng súng, cảnh hỗn loạn trên nóc nhà, có người rú lên thê thảm rồi lăn xuống sân.
Một bàn chân dẫm thủng nóc nhà chúng tôi, đất rơi xuống rào rào cùng với những ánh sao.
Trong sân cực kỳ hỗn loạn tiếng súng, tiếng gươm chạm nhau, tiếng quát tháo của đám binh sĩ:
- Không cho chúng nó thoát?
Binh lính của đại đội bộc phá cầm trong tay mười mấy cây được tẩm dầu chạy tới, trong sân sáng như ban ngày. Ngoài ngõ, sau nhà đều có tiếng đàn ông. Sau nhà có tiếng người thét:
- Trói nó lại, xem nó còn chạy nữa không?
Đại đội trưởng Lỗ bước vào sân, nói với chị Lai Đệ lúc này đang bế Tảo Hoa đứng nép vào chân tường:
- Bà Sa, bà làm vậy có đẹp không?
Sa Tảo Hoa khóc to.
Mẹ bước ra sân.
Chúng tôi bám cửa sổ nhìn ra ngoài.
Một người đàn ông nằm bên lối đi, trên người thủng lỗ chỗ, máu chảy thành vũng rồi bò ra tứ phía như rắn. Mùi máu tanh lợm, nóng hôi hổi. Mùi dầu hỏa xộc lên mũi. Máu vẫn chảy ra từ các vết đạn, sủi bọt. Anh ta chưa chết hẳn, một chân vẫn co giật. Miệng cạp đất, cổ vổng lên, không trông thấy mặt anh ta. Lá cây như dát vàng. Thằng câm tay cầm đao, vừa ú ớ vừa ra hiệu với Lỗ đại đội trưởng. Tiên Chim chạy ra, rõ khéo, khoác chiếc áo rõ ràng là áo của thằng câm, vạt áo dài đến đầu gối, cặp vú nửa kín nửa hở. Đôi chân thon dài, trắng muốt. Người chắc lẳn, bắp chân trắng mịn. Miệng hé mở, mắt lim dim, lúc nhìn cây đuốc này, lúc nhìn cây đuốc khác. Một tốp binh sĩ dẫn về ba người mặc quân phục xanh, một ngoi bị thương ở tay, máu đang chảy, mặt tái nhợt. Một người chân khập khiễng, một người bị trói vít đầu xuống. Anh ta cố súc ngẩng đầu lên, nhưng một bàn tay khỏe ấn đầu anh ta xuống. Chính ủy Tưởng cũng tới, trong tay cầm chiếc đèn pin có buộc dải lụa dỏ.
Mẹ nhón gót chạy ra vì không kịp đi giày. Mùn giun đùn lên từng đống trên mặt đất. Không hề sợ, mẹ mặt đối mặt với đại đội trưởng Lỗ:
- Có chuyện gì vậy?
Đại đội trưởng Lỗ nói:
- Chuyện này không liên quan gì đến bác!
Chính ủy Tưởng làm một động tác thừa là dùng miếng vải đỏ che mặt đèn pin. Anh ta chiếu đèn vào mặt Lai Đệ.
Lai Đệ thân hình mảnh đẻ như một cây bạch dương. Mẹ đi tới trước mặt chị Cả giằng lấy bé Hoa. Bé Hoa. Ôm chầm lấy bà ngoại. Mẹ dỗ nó:
- Cháu ngoan, đừng sợ, có ngoại đây!
Bé Hoa khóc nhỏ dần, rồi chỉ còn tiếng sụt sịt. Cánh tay chị Cả vẫn giữ nguyên tư thế bế con cứng nhắc, trông rất xấu. Mặt chị trắng bệch, hai mắt ngây dại. Chị mặc bộ quần áo xanh kiểu đàn ông, đôi vú đã trưởng thành nhô cao, không dẹt như vú mẹ.
- Bà Lượng, chúng tôi đối xử với vợ chồng bà có thể nói là chí nhân chí nghĩa? Không theo chúng tôi cũng chẳng ép, nhưng không nên đầu hàng bọn Nhật? - Đại đội trưởng Lỗ nói.
Chị Cả cười nhạt:
- Đó là chuyện của các ông, đừng nói với bọn đàn bà chúng tôi.
Chính ủy Tưởng nói:
- Nghe nói bà Lượng là tham mưu cấp cao của ông Lượng?
Chị Cả nói:
- Tôi chỉ biết đòi lại con gái tôi. Các ông có giỏi thì chơi nhau bằng gươm bằng súng. Đem trẻ con ra làm những trò mèo, không phải là bậc trượng phu?
Chính ủy Tiếng nói:
- Bà sai rồi! Chúng tôi đối với tiểu thư có thể nói cực kỳ chu đáo, có bà cụ làm chứng, có các em gái bà làm chứng, có đất dày làm chứng, có trời cao làm chứng! Bản chất của chúng tôi là yêu trẻ, vì trẻ, tất cả hành động của chúng tôi đều vì mục đích đó. Chúng tôi không muốn một cô bé xinh đẹp như thế này mà lại có bố mẹ là Hán gian!
Chị Cả nói:
- Ông đừng nhiều lời nữa. Tôi đã rơi vào tay các ông, muốn làm gì thì làm!
Thằng câm xông ra. Dưới ánh sáng của mười mấy cây đuốc, hắn cao to hung hãn lạ thường. Da đen thui như bôi một lớp mỡ con hoan. Ôà... Ôà... mắt hắn như mắt chó sói, mũi lợn, tai khỉ, mặt hung dữ như mặt hổ hắn vừa gào lên a... a... vừa giơ cánh tay hộ pháp lên lắc lắc nắm đấm, chạy một vòng tròn trước mặt mọi người. Hắn đá cái xác nằm trên lối đi và lần lượt đấm đá ba tù binh, mỗi người một đấm, vừa đấm vừa kêu ố ố. Quả đấm cuối cùng, người tù binh cố ngẩng đầu, ngã lăn ra bất tỉnh. Chính ủy Tưởng ngăn hắn lại, khiển trách:
- Tôn Bất Ngôn, không được đánh tù binh.
Thằng câm nhếch miệng cười, chỉ vào chị Lai Đệ, lại chỉ vào ngực hắn. Hắn đi tới trước mặt chị, tay trái bóp vai chị, tay phải làm điệu bộ với mọi người. Chị Ba nhìn đăm đăm ngọn lửa luôn thay hình đổi dạng. Chị Cả giơ tay trái tát đánh bốp vào má phải thằng câm. Hắn buông tay, ngơ ngác xoa má, hình như không hiểu cú đánh từ đâu tới. Chị Cả lại giơ tay phải tát đánh bốp vào má trái thằng câm, cái tát vừa nhanh vừa mạnh. Hắn loạng choạng lùi lại. Do lực phản hồi của cú tát, chị Cả cũng thoái lui một bước. Chị Cả dựng ngược mày liễu, trợn tròn đôi mắt phượng, nghiến rằng nghiến lợi, chửi:
- Đồ súc sinh, mày hủy hoại em gái tao!
Đại đội trưởng Lỗ bảo:
- Giải nó đi! Con nữ tặc, hung hăng khiếp!
Vài binh sĩ tiến đến kẹp chặt cánh tay chị Cả. Chị nói to:
- Mẹ lú lẫn rồi. Con Ba là chim phượng hoàng, thế mà mẹ gả cho thằng Câm!
Một binh sĩ thở hồng hộc chạy vào, báo cáo:
- Báo cáo đại đội trưởng, báo cáo chính ủy, đại đội nhân mã của Sa Nguyệt Lượng đã vào trấn Sa Lĩnh!
Đại đội trưởng Lỗ nói:
- Mọi người không được rối lên. Các trung đội trưởng chú ý, hành động theo kế hoạch đã bàn, gài tất cả số mìn hiện có.
Chính ủy Tưởng nói:
- Để đảm bảo an toàn cho bác và lũ trẻ, bác đến đại đội bộ với chúng tôi!
Mẹ lắc đầu, nói:
- Không, có chết cũng chết ở nhà?
Chính ủy Tưởng khoát tay, một tốp lính kèm chặt mẹ, tốp khác ùa vào trong nhà. Mẹ gào to:
- Chúa ơi, xin Chúa chứng giám!
Cả nhà tôi bị giam trong phòng xép nhà Tư Mã. Trước cửa có lính gác. Bên cạnh là đại sảnh, đèn khí sáng trung, người nói ầm ĩ. Bên ngoài thôn, tiếng súng nổ như ngô rang.
Chính ủy Tưởng xách chiếc đèn bão, chụp đèn bằng thủy tinh. Khói trong đèn bốc lên cuồn cuộn, khiến anh ta phải nheo mắt lại. Anh ta để đèn lên bàn, nhìn chúng tôi từ đầu đến chân, nói:
- Đứng làm gì nhỉ, ngồi xuống cả đi!
Anh ta chỉ những ghế tựa bằng gỗ hoa lê bày xung quanh chân tường, nói:
- Chàng rể thứ hai nhà bác ra vẻ đấy!
Anh ta ngồi xuống chiếc ghế tựa, hai tay ôm gối, nhìn chúng tôi bằng ánh mắt châm biếm. Chị Cả ngồi phịch xuống ghế, đối diện với anh ta qua chiếc bàn. Chị bĩu môi, nói:
- Thưa ông chính ủy, ông bắt tôi thì dễ nhưng thả tôi thì khó đấy!
Chính ủy Tưởng cười:
- Khó khăn lắm mới mời được bà đến đây, sao lại thả?
Chị Cả nói:
- Mẹ cứ ngồi đây, xem họ dám làm gì chúng ta?
- Chúng tôi quả thật không định làm gì các vị. - Chính ủy Tưởng nói: - Mời bác ngồi!
Mẹ bế Sa Tảo Hoa, ngồi xuống chiếc ghế ở xó nhà. Tôi và chị Tám cầm vạt áo mẹ đứng bên ghế. Công tử nhà Tư Mã thì ngoẹo đầu trên vai chị Sáu. Chị Sáu buồn ngủ đến nỗi người cứ lắc lư.
Mẹ kéo tay chị ngồi xuống ghế. Chính ủy Tưởng móc ra một điếu thuốc lá, gõ gõ đầu thuốc lên móng tay cái rồi lục lọi các túi rõ ràng là tìm diêm. Không thấy! Chị Cả cười nhạt, trong cái rủi có cái may. Anh ta đến bên chiếc đèn, miệng ngậm điếu thuốc, châm phía trên ngọn lửa. Anh ta nheo mắt, hít bập bập. Ngọn lửa kéo dài trong chụp. Đầu điếu thuốc đỏ lên rồi bắt cháy. Anh ta ngẩng lên, gỡ điếu thuốc trên miệng, ngậm miệng lại rồi tuôn khói ra hai lỗ mũi. Bên ngoài thôn vọng lại tiếng mìn nổ cửa kính rung leng keng, những đốm lửa nhảy múa trên không. Tiếng gào khóc, tiếng quát tháo lúc gần lúc xa, lúc rõ mồn một. Chính ủy Tưởng mỉm cười với thái độ khiêu khích, nhìn chị Lai Đệ.
Chị Lai Đệ như ngồi phải gai, nhấp nhổm trên ghế, đến nỗi cái ghế kêu kèn kẹt. Mặt chị trắng nhợt, hai tay bám thành ghế run bần bật.
- Đội kỵ binh của Lữ trưởng Lượng rơi vào trận địa mìn rồi! - Chính ủy Tưởng ra vẻ tiếc rẻ, nói tiếp - Tiếc mấy chục con ngựa quá!
- Các ông... đừng tưởng bở!
Chị Cả vịn ghế đứng dậy. Một loạt tiếng nổ dữ dội hơn, ấn chị ngồi xuống. Chính ủy Tưởng đứng lên, thanh thản gõ gõ tấm ngăn bằng ván gỗ giữa phòng xép với dại sảnh, làm như nói một mình:
- Toàn là thông dầu, ngôi nhà này dùng hết bao nhiêu gỗ? Anh ta ngước nhìn chị Cả, hỏi: - Bà đoán xem, dùng hết bao nhiêu gỗ: dầm xà, cửa ra vào, cửa sổ, sàn, ván thung, bàn ghế.
Chị Cả nhấp nhổm không yên. Phải cả một cánh rừng chứ chả chơi! Chính ủy Tưởng xót xa, làm như cánh rừng bị chặt quang đang trải ra trước mắt anh ta. Sớm muộn phải thanh toán chuyện này! - Nét mặt rầu rầu, rồi quên phắt cánh rừng bị tàn phá, anh ta đi tới trước mặt chị Cả, đứng dạng chân thành hình chữ A, tay phải chống nạnh, khuỷu tay gập lại thành một góc nhọn. - Tất nhiên, chúng tôi cho rằng Sa Nguyệt Lượng có khác với những kẻ cam tâm làm Hán gian. Ông ta có một lịch sử chống Nhật rất vẻ vang. Nếu ông ta quyết tâm sưa chữa sai lầm, chúng tôi vui lòng gọi ông ta là đồng chí. Bà Lượng này, lát nữa chúng tôi bắt được ông ấy, bà nên khuyên răn ông ấy một tí!
Chị Cả ngồi nhũn ra trên ghế, rít lên:
- Các ông không thể bắt được anh ấy! Tưởng bở! Xe Jeep Mỹ nhanh hơn ngựa của các ông!
- Mong rằng như thế.
Chính ủy Tưởng nói. Anh ta bỏ tay xuống, hai chân cũng đổi thế đứng. Anh ta rút một điếu thuốc dưa cho Lai Đệ. Lai Đệ co người lại theo bản năng, chính ủy Tuởng đưa dấn theo. Lai Đệ vênh mặt quan sát nụ cười khó hiểu trên khuôn mặt của chính ủy Tưởng. Chị rụt rè giơ tay ra, bàn tay có những ngón ám khói thuốc, dùng hai ngón tay kẹp điếu thuốc. Chính ủy Tưởng vẩy tàn điếu thuốc trên tay, thổi phù một cái cho nó đỏ lên, rồi đưa tới trước mặt chị Cả. Chị Cả lại vênh mặt lên, chính ủy Tưởng vẫn mỉm cười. Chị Cả vội ngậm điếu thuốc, dướn về phía thuốc, châm lửa ở đầu diếu thuốc trên tay chính ủy Tưởng. Tôi nghe rõ tiếng bập môi của chị. Mẹ thẫn thờ nhìn bức tường, chị Sáu và cậu ấm nhà Tư Mã nửa thức nửa ngủ, Sa Tảo Hoa không động cựa. Khói thuốc tỏa ra trên mặt chị Cả. Chị ngửa mặt, người ngả về phía sau, tay buông thõng. Ngón tay kẹp điếu thuốc ướtnhèm y hệt con cá trạch lôi ra khỏi nước. Lứa ở đầu điếu thuốc bén rất nhanh về phía môi chị. Đầu tóc rối bù, những nếp nhăn hằn hai bên mép, mắt thâm quầng. Nụ cười tắt dần trên môi chính ủy Tưởng như giọt nước cạn dần trên tấm thép nóng, từ xung quanh cạn vào giữa, cuối cùng còn như một mũi kim, lóe lên một cái rồi biến mất. Anh ta quẳng mẩu thuốc đã bén sát ngón tay, dùng chân đi cho tắt hẳn, rồi bước những bước dài, đi ra.
Có tiếng hét to từ phòng khách bên cạnh vọng lại:
- Nhất định phải bắt sống Sa Nguyệt Lượng, dù hắn rúc vào hang chuột cũng phải đào mà lôi ra!
Tiếp theo là tiếng đèn pin dằn mạnh xuống bàn.
Mẹ ái ngại nhìn chị Cả đang ngồi nhũn ra trên ghế như bị rút hết xương, buộc tới cầm lấy những ngón tay ám khói thuốc của chị, lắc đầu. Chị Cả tụt từ trên ghế xuống, quì trước mặt mẹ, miệng lập bập như đang mút vú, những tiếng kêu kỳ quặc tuôn ra, lúc đầu tôi tưởng chị cười, nhưng ngay lập tức tôi biết là chị khóc. Chị quệt nước mắt nước mũi vào chân mẹ. Chị nói:
- Mẹ ơi, không có lúc nào là con không nhớ mẹ, nhớ các em...
Mẹ hỏi:
- Hối hận rồi ư?
Chị Cả do dự một thoáng, lắc đầu. Mẹ nói:
- Vậy là tốt, làm gì thì cũng do Chúa sắp dặt, hối hận là trái ý Chúa!
Mẹ trao Sa Tảo Hoa cho chị, nói:
- Ngắm nó một lúc đi!
Chị Cả vuốt nhẹ khuôn mặt đen nhẻm của con bé, nói:
- Mẹ, nếu họ xử bắn con thì mẹ nuôi cháu cho con.
Mẹ nói:
Họ không bắn chết con thì mẹ vẫn nuôi con bé!
Chị Cả định trao lại bé Hoa cho mẹ, mẹ bảo:
- Hãy bế nó một tí, mẹ còn cho Kim Đồng ti sữa.
Mẹ bước tới bên ghế, vén áo lên. Tôi quì trên ghế ti vú mẹ. Mẹ nâng tà áo, khom lưng xuống, nói:
- Bình tâm mà xét, tay Lượng không phải đồ tồi, chỉ riêng chuyện những con thỏ treo trên cây, mẹ cũng phải nhận anh ta là con rể. Nhưng anh ta không làm nên trò trống gì đâu, chỉ chuyện mấy con thỏ, mẹ biết anh ta không làm nên trò trống gì. Gộp cả hai đứa cũng không địch nổi lão Tưởng. Lão là loại thâm hiểm, mát nước thối đá.
Nhớ lại khi trước, những con thỏ treo đầy các cây trong vươn khiến mẹ tức điên lên. Vậy mà trong khoảnh khắc, chính những con thỏ đó lại là lý do để mẹ nhận Sa Nguyệt Lượng là con rể. Và cũng vẫn những con thỏ đó, là cơ sở để mẹ đoán chắc Sa Nguyệt Lượng sẽ thua chính ủy Tưởng.
Vào lúc tranh tối tranh sáng trước bình minh, một đàn chim thước đi bắc cầu trên sông Ngân trở về đậu trên nóc nhà, kêu chiêm chiếp vì mệt mỏi. Lũ chim thước làm tôi thúc giấc. Tôi nhìn thấy mẹ bồng Sa Tảo Hoa ngồi trên ghế, còn tôi thì ngồi trên đầu gối lạnh ngắt của chị Lai Đệ Chị ôm chặt eo tôi bằng hai cánh tay thanh mảnh của chị. Chị Sáu và công tử nhà Tư Mã ngủ gối đầu lên nhau. Chị Tám ngồi tựa bên mẹ như cũ. Cặp mắt mẹ vô cảm, hai mép trễ xuống chúng tỏ đã quá mệt mỏi.
Chính ủy Tưởng bước vào đưa mắt nhìn chúng tôi, nói:
- Bà Lượng, có đi thăm ông Lượng một chút không?
Chị Cả đẩy tôi ra, đứng phắt dậy, giọng khản di:
- Ông nói láo?
Chính ủy Tưởng chau mày, nói:
- Láo hả? Vì sao tôi phải nói láo kia chứ? - Anh ta bước tới bên bàn, cúi xuống thổi tắt ngọn đèn. Những tia nắng lập tức ùa vào phòng. Anh ta ngả tay ra, lễ phép - chưa hẳn là lễ phép mời. - Xin mời, vẫn chỉ một câu thôi, chúng tôi không muốn bịt chặt tất cả các ngả đường. Nếu ông Lượng quay lại thì có thể cho ông giữ chức đại đội phó đại đội bộc phá.
Chị Cả bước ra như một cái máy, ra đến cửa, chị quay lại nhìn mẹ. Chính ủy Tưởng nói:
- Bác có thể đi cùng, cả các em bé nữa.
Chúng tôi đi qua rất nhiều lần cửa nhà Tư Mã, qua những sân trong mà sân nào cũng giống sân nào. Đi qua năm lớp sân, chúng tôi nhìn thấy ở sân chính có nhiều thương binh, cô Đường đang băng bó cho một thương binh bị thương ở chân. Chị Năm Phán Đệ đang phụ với cô Đường. Chị chăm chú đến nỗi không phát hiện ra chúng tôi. Mẹ nói nhỏ với chị Cả:
- Đó là em Năm của con.
Chị Cả liếc nhìn chị Năm. Chính ủy Tưởng nói:
- Chúng tôi đã phải trả giá quá đắt! Sân trong thứ sáu có kê một bộ ván trên đặt cái xác, che mặt bằng miếng vải trắng. Chính ủy Tưởng nói:
- Đại đội trưởng Lỗ của chúng tôi đã anh dũng hi sinh, tổn thất không thể lường được.
Anh ta lật miệng vải, chúng tôi trông thấy một khuôn mặt chữ điền, râu quai nón, đầy máu. Anh ta nói:
- Các chiến sĩ chỉ muốn lột da Sa Nguyệt Lượng, nhưng chính sách không cho phép. Bà Lượng này, sự chân thành của chúng tôi có lẽ trời đất quỉ thần cũng phải cảm động chứ nhỉ? Qua sân trong thứ bảy, vòng qua một bức tường làm bình phong, chúng tôi đã đứng ở cổng nhà Phúc Sinh Đường, trên bậc tam cấp.
Trên đường phố, những binh sĩ của đại đội bộc phá chạy đi chạy lại như kiến vỡ tổ. Mặt người nào người ấy lấm đầy bụi đất. Mười mấy binh sĩ dắt mười mấy con ngựa dọc theo phố đi từ dông sang tây. Có mấy binh sĩ chỉ huy mấy chục người dân, dùng dây thùng kéo một chiếc xe Jeep đi ngược lại từ tây sang đông. Hai tốp gặp nhau ở cổng nhà Phúc Sinh Đường, hai người có vẻ như tiểu đầu mục cùng chạy lên, cùng đứng nghiêm, cùng giơ tay chào, cùng báo cáo lên chính ủy. Một người báo cáo thu được mười ba con ngựa. Một người báo cáo tịch thu được một chiếc xe Jeep, đáng tiếc là bị vỡ két nước, đành cho trâu kéo về. Chính ủy Tưởng nhiệt liệt biểu dương họ. Trong khi biểu dương, các binh sĩ đứng ưỡn ngực, mắt sáng lên.
Chính ủy Tưởng dẫn chúng tôi đến cổng nhà thờ. Hai bên cổng có mười sáu binh sĩ bồng súng đứng gác. Tưởng giơ tay, đám lính gác đứng nghiêm, bồng súng chào. Đám phụ nữ trẻ con chúng tôi nghiễm nhiên trở thành những vị tướng đi quan sát chiến trường.
Có khoảng sáu mươi tù binh quân phục xanh chen chúc ở góc dông nam trong sân nhà thờ, trên đầu họ là những tấm liếp bị hư hỏng vì nước mưa, mọc đầy nấm. Trước mặt họ là bốn binh sĩ xếp hàng ngang, tay cầm tiểu liên, tay trái nắm băng đạn cong cong như sừng trâu, tay phải dặt trên báng súng bóng mịn như đùi phụ nữ, ngón tay trỏ lồng vào lẫy cò như chiến lưỡi vịt. Họ quay lưng về phía chúng tôi. Sau lưng họ là một đống thắt lưng bằng da bò trông như những con rắn chết. Các tù binh muốn đi lại, phải hai tay giữ cạp quần.
Một nét cười thoáng qua trên nét mặt chính ủy Tưởng. Anh ta húng hắng ho, có lẽ để gây sự chú ý. Các tù binh uể oải ngẩng đầu nhìn chúng tôi. ánh mắt họ chợt lóe lên, có người chớp một cái, người hai cái, người ba cái, người bốn năm cái, người nhiều nhất không quá chín cái Những ánh mắt lạ lùng đó là do sự có mặt của chị Lai Đệ, nếu như chị đúng như lời chính ủy Tưởng, là một nửa của Sa Nguyệt Lượng trong công tác chỉ huy bộ đội. Không rõ do một tình cảm nào đó chi phối, chị Cả đỏ hoe mắt, mặt trắng nhợt, đầu cúi gập xuống ngực. Những tù binh này khiến tôi phảng phất nhớ lại những con lừa đen của đội Hỏa-mai. Họ tụ tập trong nhà thờ này, và cũng thích cái góc này. Hai mươi tám con lừa ghép thành mười bốn cặp, con nọ gặm yêu mông con kia, chăm sóc cho nhau, yêu mến lẫn nhau, giúp đỡ lân nhau. Một đội lừa đoàn kết thân mật đã bị diệt ở nơi nào? Ai đã diệt đội lừa? Bị diệt ở núi Tai Ngựa bởi đội du kích của Tư Mã Khố, hay ở gò Khuỷu Tay bởi đội Tiện Y Nhật Bản? Trong cái ngày thiêng liêng làm lễ rửa tội cho tôi, mẹ bị cưỡng hiếp. Chúng là những tên lính quân phục xanh của đội Hỏa-mai, là kẻ thù của tôi. Giờ đây, nhân danh Cha, Con và thánh thần, phải trừng phạt chúng, A men!
Chính ủy Tưởng dọn giọng, nói:
- Các anh em lữ đoàn Sa Nguyệt Lượng, đã đói chưa?
Các tù binh lại ngẩng lên, có người định trả lời nhưng không dám, có người không thèm trả lời. Một vệ binh đứng bên cạnh chính ủy Tưởng nói:
- Các ông trẻ, điếc cả rồi hay sao? Chính ủy đại đội hỏi các người đấy!
- Không được mắng người ta!
Chính ủy Tưởng khiển trách nghiêm khắc anh vệ binh. Anh vệ binh đỏ mặt, cúi đầu xuống. Tưởng nói:
- Các anh em, biết anh em vừa đói vừa khát, người nào mắc bệnh dạ dầy chắc đang đau hoa cả mắt, lạnh cả sống lưng. Hãy kiên nhẫn, cơm sắp có rồi. ở đây điều kiện thiếu thốn, chẳng có gì ngon, tạm nấu nồi cháo đậu xanh để anh em ăn cho đỡ đói, đỡ khát. Buổi trưa chúng ta ăn màn thầu bằng bột mì trắng, rau phỉ xào thịt ngựa.
Các tù binh tỏ vẻ vui mừng, vài người còn mạnh dạn nói chuyện riêng với nhau.
Chính ủy Tưởng nói:
- Ngựa chết nhiều lắm, toàn là ngựa tốt, rất tiếc, các anh đã sa vào bãi mìn của chúng tôi! Lát nữa thịt ngựa mà các anh ăn, rất có thể là con ngựa mình cưỡi. Nói rằng lừa ngựa là quân tử, những dù sao vẫn là lừa ngựa, các bạn cứ ăn thỏa thích, con người là chúa tể mà lại!
Đang nói chuyện ngựa thì hai người lính già khênh một thùng to từ ngoài cổng đi vào, vừa đi vừa hò nhường đường. Hai chú lính trẻ bê hai chồng bát to tướng cao đến tận cằm, chệnh choạng bước theo sau.
- Cháo đây, cháo đây? Người lính già hét to, làm như có ai cản đường không bằng. Chú lính trẻ ôm chồng bát trước bụng, loay hoay tìm chỗ đặt xuống. Hai người lính già cùng nhún thấp xuống, khi cái thùng chạm đất thì họ cũng vừa vặn ngồi xổm. Hai chú lính trẻ vẫn giữ cho thân ở tư thế thẳng đuỗn đồng thời khuỵu hai chân, đặt chồng bát xuống nền nhà, rồi loạng choạng đứng dậy, lấy tay áo lau mồ hôi trên mặt.
Chính ủy Tưởng cầm lấy chiếc môi lớn bằng gỗ, khuấy cháo cho đều, hỏi người lính già:
- Cho đường đỏ chưa?
Người lính già nói:
- Báo cáo chính ủy, không kiếm được đường đỏ, phải lấy đường trắng của nhà họ Tào. Bà cụ nhà họ Tào tiếc của, cứ ôm chặt cái hũ, không bỏ tay ra...
- Được, chia cháo đi - Chính úy vừa nói vừa đặt cái môi xuống, rồi như chợt nhớ ra, quay lại sốt sắng hỏi chúng tôi: - Nên chăng mỗi người làm một bát?
Chị Cả lạnh nhạt:
- Ông chính ủy mời chúng tôi đến đây, chắc không phải đến để ăn cháo?
Mẹ nói:
- Sao lại không ăn? Bác Trưởng, cho mẹ con chúng tôi mấy bát!
Chị Cả nói:
- Mẹ cẩn thận thuốc độc!
Chính ủy Tưởng cười lớn, nói:
- Bà Lượng tưởng tượng phong phú quá đấy?
Anh ta múc một môi đầy giơ lên rồi từ từ rót xuống để mọi người thấy cháo ngon như thế nào. Mùi thơm tỏa ra xung quanh. Anh ta đặt cái môi xuống, nói:
- Cháo này đã bỏ vào hai gói thạch tín, hai gói thuốc chuột, ăn vào bụng, đi năm bước đứt ruột đứt gan, đi bảy bước thất khiếu chảy máu, có ai dám ăn không nào?
Mẹ bước tới cầm bát lên, dùng ống tay áo lau sạch bụi đất, rồi cầm môi múc đầy bát cháo, đưa cho chị Cả. Chị Cả không cầm. Mẹ nói:
- Vậy mẹ ăn bát này.
Mẹ thổi phù phù, húp thử một ít, rồi húp nhiều hon. Mẹ múc ba bát nữa, đưa cho chị Sáu chị Tám và cậu ấm nhà Tư Mã.
Các tù binh nói:
- Múc cho chúng tôi, múc cho chúng tôi, độc hay không độc cũng xin ba bát.
Hai lính già cầm môi, hai lính trẻ đưa bát, bát nọ tiếp bát kia. Những chú lính cầm súng đứng dạt sang một bên, chênh chếch với chúng tôi. Chúng tôi nhìn được mắt họ. Mắt họ chỉ nhìn đám tù binh. Cái tù binh đứng cả dậy, tự động xếp thành hàng, một tay giữ quần, một tay buông thõng, đợi đến lượt. Người nào đã có bát cháo trong tay thì hết sức thận trọng, sợ ngón tay bị bỏng. Các tù binh, người nọ tiếp người kia, tay giữ quần, tay bê bát cháo đi vòng xuống phía sau, ngồi xuống, bê cháo bằng cả hai tay, vừa thổi vòng quanh vừa húp. Người nào có kinh nghiệm thì húp từng người nhỏ, húp người to là bỏng miệng. Cậu ấm nhà Tư Mã chưa có kinh nghiệm, húp ngay một người to, nhổ ra không được, nuốt vào không trôi, bỏng đến nỗi nước mắt ràn rụa. Một tù binh khi đưa tay ra nhận bát cháo, khẽ gọi:
- Chú dượng ơi!
Người lính già cầm môi ngẩng lên nhìn.
- Chú dượng không nhận ra cháu sao? Cháu là Xương đây mà!
Người lính già đập cái môi vào mu bàn tay chú tù binh, mắng:
- Ai là chú dượng của mày? Lầm rồi! Ta không có thằng cháu nào làm Hán gian, mặc quân phục xanh cả!
Tù binh Xương ái một tiếng, bát cháo đổ ụp xuống bàn chân, anh ta lại ái một tiếng nữa, vội bỏ tay giữ quần để xoa chân bị bỏng, cái quần tụt xuống đến đầu gối, để lộ chiếc quần lót đen bẩn, anh ta lại ối một tiếng, hai tay xốc quần lên. Khi anh ta đứng thẳng người lên, hai mắt đã mọng nước.
- Lão Trương, phải có kỷ luật chứ - Chính ủy Tưởng nổi giận - Ai cho phép lão đánh tù binh? Báo cho quân pháp, phạt giam ba ngày bây giờ?
Lão Trương lầu bầu:
- Nó dám bảo tôi là chú dượng nó!...
Chính ủy Tưởng nói:
- Lão đúng là chú dượng nó, úp mở mà làm gì?
Động viên nó tham gia đội bộc phá của ta! Chú em, bỏng ra sao? Lát nữa y tá đến, bôi tí thuốc mỡ 202 là khỏi. Cho chú ta bát khác, thêm ít đậu vào! Chú lính rủi ro được bát cháo ưu đãi, tập tễnh lui về phía sau. Những người khác nhích lên.
Giờ đây, tất cả tù binh đều đang ăn cháo, tiếng húp soạn soạt vang lên đây đó. Hai người lính già và hai chú lính trẻ tạm thời không có việc làm. Chú lính trẻ liếm môi, chú kia nhìn chúng tôi chằm chằm. Bác lính già dùng môi vét đáy thùng vì không biết làm gì, còn bác kia thì lấy túi thuốc và tẩu ra định hút thuốc. Tôi lợm giọng đẩy bát cháo ra. Cái miệng của tôi không quen với bất cứ thứ gì, trừ bầu vú của mẹ.
Chị Cả hừ lên một tiếng bằng giọng mũi, chính ủy Tưởng nhìn chị, nét mặt chị cũng biểu lộ sự khinh miệt cực dộ. Chị nói:
- Tôi cũng nên húp một bát chứ nhỉ?
Chính ủy Tưởng nói:
- Nên quá đi chứ, bà nhìn lại khuôn mặt bà xem, như một quả cà héo! Lão Trương, múc cho bà Lượng một bát, đặc đặc vào!
Chị Cả nói:
- Tôi thích loãng.
Chính ủy Tưởng nói:
- Loãng đấy!
Chị Cả bê bát cháo, húp một ngụm, nói:
- Có đường thật, chính ủy Tưởng, tôi khuyên ông cũng nên húp một bát, ông nói nhiều thế chắc khô cả cổ?
Chính ủy Tưởng nắn nắn cổ họng, nói:
- Đúng là hơi khát. lão Trương, cho tôi một bát, loãng thôi nhé!
Chính ủy Tưởng bưng bát cháo, cùng chị Cả thảo luận về các loại đậu. Anh ta kể rằng, ở quê anh ta có giống đậu xanh, đun sôi lên là nhuyễn thành bột, không như đậu xanh ở đây, phải ninh đủ hai tiếng đồng hồ mới nhuyễn. Hết chuyện đậu xanh lại bàn sang đậu vàng. Con người này như một chuyên gia về đậu. Hết tất cả các loại đậu chính ủy Tưởng chuyển sang bàn về lạc, nhưng vừa chuyển đê tài, chị Cả quăng cái bát xuống đất, hỏi:
- Anh Tưởng, anh chơi cái trò gì vậy?
Tưởng mỉm cười, nói:
- Bà Lượng, bà đa nghi quá! Ông nhà chắc sốt ruột vì chờ đợi rồi!
- Anh ấy ở đâu? - Chị Cả hỏi mỉa.
Tưởng nói:
- Tất nhiên là ở nơi mà các vị không thể quên!
Trước cổng nhà tôi, lính đứng gác còn nhiều hơn ở nhà thờ.
Ngay ở của vào chái đông còn một trạm gác nữa. Người trực gác là Tôn Bất Ngôn. Hắn ngồi trên khúc gỗ tròn dưới chân tường đùa nghịch thanh đao trong tay, Tiên Chim ngồi vắt vẻo trên chạc cây đào, tay cầm quả dưa chuột gặm từng tí một.
- Vào đi - Chính ủy Tưởng bảo chị Cả - Cố gắng khuyên ông ta, chúng tôi mong rằng, ông ta sẽ trở về với chính nghĩa.
Chị Cả bước vào trong chái đông, rú lên một tiếng. Chúng tôi chạy ùa vào: Sa Nguyệt Lượng treo cổ trên xà nhà. Anh ta mặc bộ quân phục bằng dạ xanh, chân đi ủng thúc ngựa bằng da bò bóng loáng. Trong trí nhớ của tôi anh ta không cao lắm, nhưng giờ đây trông anh ta dài thượt.

9
Tôi trườn từ trên giường xuống, chưa mở mắt đã sà vào ngực mẹ, thô bạo lật áo mẹ lên, hai tay chộp lấy hai bầu vú, há miệng ngoạm một đầu vú. Một cảm giác cay xè lưỡi lan khắp miệng, nước mắt tôi ứa ra. Tôi nhả đầu vú ra ngửa mặt lên, vừa tủi thân vừa nghi hoặc. Mẹ vỗ nhẹ đầu tôi, cười tỏ vẻ hối lỗi, nói:
- Kim Đồng, con lên bảy rồi, là một trang hảo hán rồi, phải cai sữa thôi?
Lời mẹ chưa dứt, Kim Đồng đã nghe thấy tiếng cười ròn tan của chị Tám.
Mắt tối sầm, tôi ngã chổng bốn vó lên trời. Tôi tuyệt vọng khi thấy rằng, bầu vú với hai núm vú bôi ớt chẳng khác đôi chim câu mắt hồng đã vỗ cánh bay đi. Để giúp tôi cai sữa, mẹ bôi đủ các thứ lên núm vú: gừng sống, tỏi sống, nhớt cá; thậm chí cứt gà, lần này lại thêm tương ớt. Lần cai sữa nào mẹ cũng thất bại vì động tác giả chết của Kim Đồng. Tôi nằm trên mặt đất đợi mẹ đi rửa đầu vú như mọi lần. Cơn ác mộng hồi đêm hiện rõ mồn một trước mắt: Mẹ xẻo vú vút xuống đất, nói:
- Ti đi, mày ti nữa di? Một con mèo đen ngoạm bầu vú chạy mất. Mẹ dựng tôi dậy, ấn tôi ngồi xuống bên bàn ăn. Mẹ nghiêm mặt nói:
- Nói gì thì nói, con phải cai sữa. Chẳng lẽ con muốn mẹ chỉ còn như que củi, hả Kim Đồng?
Cậu cả nhà Tư Mã, Sa Tảo Hoa, chị Tám ngồi xung quanh bàn ăn miến. Họ nhìn tôi bằng cặp mắt khinh miệt. Bà nội cười nhạt trên đống tro bên cạnh bếp. Người bà gầy đét, da nhăn nheo như giấy bản, tróc ra từng mảng. Cậu ấm nhà Tư Mã giơ cao một sợi miến loằng ngoằng trước mặt tôi. Sợi miến như con giun chui vào miệng hắn. Tôi thấy lợm giọng.
Mẹ đặt lên bàn một bát miến bốc hơi nghi ngút, đưa cho tôi đôi đũa, nói:
- Ăn đi, nếm thử tài nghệ của chị.
Chị Sáu đang cho bà nội ăn bên bếp lò. Chị ngoẹo đầu nhìn tôi bằng ánh mắt thù địch, nói:
- Lớn rồi mà còn bú tí, đồ đốn mạt?
Tôi ném bát miến vào người chị Sáu.
Chị nhảy dụng lên, trên người đầy những sợi miến như những con giun. Chị giận dữ nói:
- Mẹ nuông chiều nó quá đấy.
Mẹ đứng phía sau cho tôi một bạt tai.
Tôi chồm lên người chị Sáu, hai tay chộp chính xác hai bầu vú của chị. Tôi nghe thấy bầu vú chị kêu chiếp chiếp chẳng khác gà con bị chuột cống ngoạm lấy cánh.
Chị Sáu vùng dậy, cúi gập ngoi vì đau. Tôi ra sức cấu véo, khuôn mặt hơi gầy của chị đổi thành màu vàng, chị vừa khóc vừa gọi:
- Mẹ, mẹ ơi, mẹ xem thằng Kim Đồng!
Mẹ bọp cho tôi một cái vào sau gáy, giận dữ mắng:
- Thằng súc sinh!
Tôi ngã lăn ra, ngất đi.
Tôi tỉnh dậy, đầu như muốn vỡ ra. Cậu ấm nhà Tư Mã vẫn điềm nhiên biểu diễn trò ăn miến bay. Sa Tảo Hoa ngẩng khuôn mặt dính đầy sợi miến do áp mặt vào gờ bát, sợ hãi nhìn tôi, đồng thời cũng để tôi cảm thấy rằng nó rất kính nể tôi. Chị Sáu bị thương ở vú, đang ngồi khóc trên ngưỡng cửa. Bà nội nhìn tôi, thâm hiểm. Bà Lã nét mặt đầy tức giận, cúi xuống xem những sợi miến rơi trên mặt đất.
- Đồ lộn giống, mày tưởng kiếm được bát miến dễ nắm phải không?
Bà bốc một nắm sợi miến dưới đất, bịt mũi tôi lại cho há miệng ra, rồi nhét nắm miến vào miệng tôi. Mày nuốt đi hộ tao, nuốt đi. Xương tủy tao bị mày hút cạn rồi, cái đồ oan nghiệt này!
Tôi nôn ọe, vùng ra khỏi tay bà, chạy ra vườn. Ngoài sân, chị Lai Đệ vẫn cái áo chùng đen bốn năm chưa cởi, đang gò lưng mài con dao găm. Chị nhìn tôi cười cười tỏ vẻ thân thiện, đột nhiên chị đổi sắc mặt, nghiến rằng nói:
- Lần này ta phải thịt nó bằng được. Con dao trong tay tôi sắc như nước, tôi phải cho nó biết giết người thì phải đền mạng!
Tôi trong lòng không vui nên không bắt chuyện với chị. Mọi người cho rằng chị bị bệnh tâm thần. Tôi biết chị giả điên nhưng không hiểu vì sao chi lại giả điên.
Một bận, trong gian chái chị ở, chị ngồi vắt vẻo trên cối xay bột, thả hai chân khuất trong chiếc áo chùng đen, kể lại những ngày chị cùng Sa Nguyệt Lượng chu du khắp thiên hạ, nếm đủ phú quí vinh hoa, chứng kiến bao chuyện kỳ thú. Chị từng có một chiếc hộp biết hát, có một ống kính kéo được vật ở xa lại gần, khi ấy tôi cho rằng chị nói những chuyện điên khùng nhưng ngay sau đó tôi được trông thấy cái hộp biết hát. Đó là chiếc hộp chị Phán Đệ đem về. Chị là con cưng của đại đội bộc phá, béo quay ra, giống một con ngựa đang mang thai.
Chị để cái đồ chơi có gắn chiếc loa màu vàng lên giường, đắc ý gọi chúng tôi:
- Lại đây, cho các em mở rộng tầm mắt!
Chị bỏ miếng vải che màu đỏ ra. Đây là tất cả bí mật của chiếc hộp. Chị quay cái tay quay một chập, quay xong, chị nở một nụ cười bí ẩn, nói:
- Nghe nhé, người ngoại quốc đang cười. Tiếng người chợt vang lên trong hộp khiến chúng tôi giật thót, tiếng cười của người ngoại quốc không khác tiếng cười của ma quỉ!
- Đem đi, đem ngay đi! Mẹ quát to - Đem cái hộp ma quỉ ấy đi!
Chị Phán Đệ nói:
- Mẹ lạc hậu quá, đây là máy quay đĩa, không phải hộp ma quỉ?
Bên ngoài cửa sổ, chị Lai Đệ giọng lạnh như tiền:
- Kim mòn rồi, phải thay kim mới.
- Thưa bà Lượng! - Chị Năm hỏi mỉa - Bà khoác lác cái gì vậy?
- Cái trò này tôi đã chơi chán rồi! - Chị Cả giọng khinh miệt - Tôi đã đái vào cái loa, không tin cô ngửi xem.
Chị Năm ghé lại gần cái loa ngăn ngăn. Chị nhăn mặt. Chị không cho chúng tôi biết chị ngửi thấy mùi gì. Tôi tò mò ghé mũi ngửi, một mùi tanh như mùi cá biển xộc vào mũi. Chị Năm gạt tôi sang một bên.
- Con yêu tinh - chị Năm hằn học nói - Lẽ ra phải xử bắn chị, nhưng tôi đã xin cho chị thoát.
- Lẽ ra tôi có thể giết hắn, nhưng cô đã ngăn cản tôi!- Chị Cả nói - Các người xem, nó đâu còn là cô gái trinh trắng nữa! Hai cái vú của nó, thằng cha Tưởng đã biến thành hai nắm bã củ cải rồi?
- Đồ Hán gian chó chết! Con Hán gian! - Chị Năm cố ý lấy cánh tay che cặp vú mướp, chửi - Con vợ thối tha của thằng Hán gian chó chết!
- Chúng mày cút hết đi cho tao! - Bà Lã giận điên lên, nói - Cút hết đi, chết hết đi! Đừng để tao thấy mặt chúng mày nữa!
Tôi đâm ra kính nể chị Lai Đệ. Chị dám đái vào cái loa quí hiếm đến như thế. Cái ống nhòm có thể kéo vật ở xa lại gần thì cũng khẳng định là có thực. Đó là ống nhòm, người chỉ huy nào cũng có một cái đeo trước ngực. Chị Lai Đệ ngồi thoải mái trên máng cỏ đã trải lên một lớp cỏ khô, thân mật nói với tôi:
- Thằng ngốc! -
- Em không ngốc, em chẳng ngốc tí nào! - Tôi thanh minh.
- Chị cho rằng em rất ngốc?
Đột nhiên chị vén áo dài lên, giơ cả hai chân lên cao, bảo tôi:
- Em nhìn vào mà xem!
Một tia nắng soi rõ chân, bụng và cặp vú như hai con lợn sữa tí hon của chị.
- Rúc vào - chị mỉm cười bảo - Rúc vào mà bú tí! Mẹ cho con gái chị ti sữa mẹ, chị cho em ti sữa chị?
Tôi rụt rè nhích lại gần máng, chị ưỡn người ra như con cá chép lúc vọt lên mặt nước, hai tay nắm hai vai tôi, thả vạt áo xuống cho trùm lên đầu tôi. Trước mắt tôi là một màu đen, tôi dò dẫm trong bóng tối đó, vừa tò mò vừa sốt ruột, lại có vẻ bí ẩn, thú vị. Tôi ngửi thấy cái mùi giống như ở miệng loa máy quay đĩa. Chỗ này, chỗ này, tiếng nói của chị nghe như rất xa.
- Chú ngốc!
Chị nhét núm vú vào miệng tôi.
- Ti đi thằng chó con! Chú dứt khoát không phải giống nhà Thượng Quan, chú là đồ con lai.
Đất bụi đắng ngắt bám trên đầu vú chị tan trong miệng tôi. Nách chị tỏa ra một mùi chua chua. Tôi cảm thấy sắp chết ngạt đến nơi, nhưng hai tay chí vít đầu tôi, người chị, dướn thẳng như muốn nhét cả bầu vú to bự và rắn chắc vào miệng tôi. Tôi chịu không thấu, cắn vào đầu vú chị. Chị đứng bật dậy, tôi chui ra khỏi áo dài, nằm co duỗi chân chị, chờ đợi một cú đá hoặc hai cú đá của chị. Nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt vừa đen vừa gầy của chị. Hai bầu vú co giật dữ dội bên trong chiếc áo dài, như hai con chim mái đập đập đôi cánh xinh xinh sau trận giao phối.
Tôi cảm thấy vô cùng ân hận, lấy ngón tay gại gại vào mu bàn tay của chị. Chị giơ tay xoa gáy tôi, nói khẽ:
- Em yêu, đừng nói chuyện này với ai nhé!
Tôi thành thật gật đầu.
Chị nói:
- Chị nói riêng với em chuyện này, anh rể em báo mộng cho chị, nói rằng anh ấy chưa chết, hồn vía anh ấy nhập vào một người đàn ông tóc vàng da trắng.
Tôi đi trong ngõ, trong đầu luôn nghĩ đến mối quan hệ bí mật giữa tôi và chị Lai Đệ. Năm đội viên của đại đội bộc phá chạy trên phố như những thằng điên, mặt mày rạng rỡ. Một anh béo trong khi chạy còn thụi tôi một quả, hét to:
- Thằng nhóc, bọn Nhật đầu hàng rồi! Mau về nhà cho mẹ mày biết, bọn Nhật đầu hàng rồi, kháng chiến thắng lợi rồi!
Tôi trông thấy từng đám binh sĩ nhảy múa trên đường phố, trong đó có lẫn mấy người dân. Nhật đầu hàng, Kim Đồng mất bầu vú? Thượng Quan Lai Đệ vui lòng cho tôi ti sữa của chị, nhưng vú chị không có sữa, đầu vú ghét bám đầy. Nghĩ tới đây tôi cảm thấy thất vọng ghê gớm. Thằng câm chồng chị Ba kéo chị chạy những bước dài từ đầu ngõ phía bắc chạy xuống. Hắn và tiểu đội của hắn bị mẹ đuổi khỏi nhà tôi sau vụ Sa Nguyệt Lượng chết. Hắn dẫn tiểu đội chuyển về ở trong ngôi nhà của hắn, Tiên Chim cũng đi theo hắn. Tuy đã dọn đi, nhưng tiếng rên la không biết xấu hổ của Tiên Chim cứ đêm đêm từ nhà thằng câm vọng ra, luồn theo ngõ phố ngoằn ngoèo đập vào tai tôi. Giờ đây hắn kéo chị cùng ra phố.
Chị phưỡn bụng ngồi trên cánh tay hắn, trên mình mặc một áo dài trắng, kích thước y hệt cái áo dài đen của chị Cả, chỉ khác ở màu sắc. Thế là từ cái áo dài của Tiên Chim tôi nghĩ tới cái áo dài của chị Lai Đệ, từ cái áo dài của chị Lai Đệ tôi nghĩ tới hai bầu vú của chị, từ bầu vú của chị tôi nghĩ tới bầu vú của Tiên Chim. Bầu vú của Tiên Chim là loại tốt nhất trong hàng loạt những bầu vú của nhà Thượng Quan, gọn ghẽ và lanh lợi, núm vú sống động như cái miệng con nhím và hơi vểnh lên. Bầu vú Tiên Chim thước loại cao cấp, vậy vú của chị Cả có huộc loại cao cấp không? Tôi không thề trả lời dứt khoát, bỏi vì từ khi tôi hành động có ý thức đến nay, tôi thấy cái đẹp của vú là một phạm trù rất rộng, không thể tùy tiện mà nói rằng vú nào xấu vú nào đẹp. Con nhím có khi cũng đẹp, lợn sữa cũng có khi đẹp. Thằng câm đặt chị Tiên Chim xuống trước mặt tôi, miệng kêu ồ... à...
Hắn giơ nắm đấm to như vó ngựa huơ huơ một cách thân thiện trước mặt tôi. Tôi hiểu ồ... à... của hắn đồng nghĩa với Nhật đầu hàng rồi!. Hắn lao ra đường phố chính như một con trâu rừng.
Tiên Chim ngoẹo đầu nhìn tôi. Bụng chị to đến phát khiếp, y hệt bụng con nhện khổng lồ.
- Em là chim cưu hay chim nhạn. - Chị hỏi tôi với giọng nhỏ nhẹ, và cũng khó nói là chị hỏi tôi.
- Con chim của em bay mất rồi! Chim của em bay rồi!
Chị bối rối thật sự. Chị đang rộng hai tay, bàn chân trần dí dí những cục đất dưới chân, miệng kêu chíp chíp chạy ra phố. Chị chạy rất nhanh, chăng lẽ bụng to không gây trở ngại gì sao? Nếu không vướng cái bụng to, chắc chị chạy đến lúc nào đó là bay lên trời. Nghĩ rằng mang thai ảnh hưởng đến tốc độ khi chạy là một ý nghĩ chủ quan, trên thực tế, khi đàn sói chạy hết tốc lực, bị tụt lại không phải là những con sói có chửa. Trong đàn chim bay cấp tập, dứt khoát có những con mái mang trứng. Tiên Chim như một con đà điểu khỏe mạnh, thoáng cái đã nhập vào đám người trên phố.
Chị Năm từ trên phố chạy về nhà. Bụng chị cũng tròn căng, quân phục đầy mồ hôi, vú ướt đẫm. Khi chạy, chị tỏ ra nặng nề, không như Tiên Chim. Tiên Chim vung tay khi chạy, chị Năm hai tay ôm bụng mà chạy. Chị Năm thở phì phò như con ngựa cái kéo xe lên dốc. Trong số chị em nhà Thượng Quan, chị Năm có thân hình đấy đà cao lớn hơn cả, hai bầu vú ngạo nghễ như được bơm đầy hơi, vỗ kêu bồm bộp. Chị Cả trùm mạng đen, mặc áo dài đen, vào một đêm tối trời giơ bàn tay không thấy ngón, chị từ con mương bò vào sân nhà Tư Mã. Chị lần theo mùi chưa chưa áp sát căn phòng đèn sáng trưng. Cái sân lát đá xanh mọc đầy rêu trơn, tim chị như muôn nhảy khỏi lồng ngực, bàn tay cầm dao tê dại, miệng tanh như ăn phải nhớt cá. Qua khe cửa, chị Cả chứng kiến một cảnh tượng kinh khủng, đồng thời cũng khiến chị tâm thần rung động: một cây bạch lạp đang nhỏ những giọt lệ bằng sáp, ánh nên lắc lư, bóng người thấp thoáng.
Mặt đất lát gạch men xanh vút bừa bãi quân phục màu xám của Thượng Quan Phán Đệ và chính ủy Tưởng, một chiếc tất bằng vải thô vắt ngang miệng thùng nước. Phán Đệ trần truồng, phục trên người Tưởng Lập Nhân: Chị Cả xô cửa xông vào nhưng sững lại khi trông thấy cái mông vổng lên của cô em và những hạt mồ hôi lấp lánh khoảng giữa sống lưng. Kẻ thù mà chị định giết, được che kín. Chị giơ dao quát to:
- Tao thì giết chúng mày? Tao thì giết chúng mày! Phán Đệ lăn xuống đất. Tưởng Lập Nhân vớ lấy cái chăn chụp lên người chị Cả, đè chị xuống. Hắn giật khăn trùm trên mặt chị, cười:
- Tôi đoán ngay là bà!
Chị Năm đứng ngoài cổng lớn, gào lên:
- Bọn Nhật đầu hàng rồi!
Khi chạy trở ra phố, chị kéo tôi theo, bàn tay chị mồ hôi nhơm nhớp, mùi chưa loét. Từ mùi chua ấy, tôi nhận ra mùi thuốc lá. Thuốc lá là mùi của Lỗ Lập Nhân. Để kỷ niệm đại đội trưởng Lỗ anh dũng hy sinh trong trận tiêu diệt Lữ đoàn Sa Nguyệt Lượng, Tưởng Lập Nhân đổi họ thành họ Lỗ. Cái mùi của Lỗ Lập Nhân tỏa ra trên phố qua mồ hôi chị Năm.
Đại đội bộc phá nhảy múa trên đường phố, nhiều người nước mắt ràn rụa. Người ta cố ý hích vào nhau, đấm vào vai nhau. Có người trèo lên tháp chuông chênh vênh, kéo chuông ầm ĩ. Người đổ ra đồng ngày càng nhiều, người xách thanh la, người dắt theo con dê sữa, có người bê cả một gói thịt còn tươi nguyên, gói bằng lá sen. Một phụ nữ đeo những quả lục lạc trên núm vú khiến mọi người đặc biệt chú ý. Chị ta nhảy một điệu quái gở, khiến bầu vú nhảy tưng tung, lục lạc rộ lên những âm thanh ròn rã. Bụi bay lên dưới chân, họng khản đặc. Tiên Chim ngó nghiêng trong đám đông. Thằng câm giơ nắm đấm thụi tất cả những ai đến gần hắn. Sau đó, một đám binh sĩ khênh Lỗ Lập Nhân như khênh một khúc gỗ từ trong sân nhà Tư Mã đi ra. Các binh sĩ tung hắn lên trời, ngang tầm ngọn cây, đón lấy rồi lại tung lên.
- Ôi, ố, ối! - Chị Năm ôm bụng, chảy nước mắt, gào lên: - Lập Nhân ơi, Lập Nhân - Chị định len vào đám binh sĩ, nhưng bị những cái mông đầy chai cứng của họ hất ra...
Cuộc vui như điên khiến mặt trời chạy nhanh hơn. Ông đã xuống sát mặt đất, tựa vào ngọn cây trên Bãi-Cát-Dài mà thư giãn, toàn thân một màu hồng, khắp người bọt nước, nhễ nhại mồ hôi, hơi nóng hùng hục, chẳng khác một ông già vừa ngồi thở vừa ngắm đám người trên đường phố.
Đầu tiên là một người ngã gục trong đám bụi, tiếp theo là cả một mảng người ngã xuống. Đám bụi bay lên rồi từ từ rơi xuống mặt, xuống tay, trên quần áo đẫm mồ hôi. Trong nắng chiều đỏ như máu, những người đàn ông nằm thẳng cẳng như những xác chết. Trời nhập nhoạng tối, làn gió mát từ đầm cói thổi tới, những tiếng va dập danh gọn của đoàn tàu chạy qua cầu. Mọi người lắng nghe, có lẽ chỉ mình tôi lắng nghe, kháng chiến thắng lợi rồi, nhưng Kim Đồng đã bị bầu vú vút bỏ. Tôi nghĩ đến cái chết, tôi muốn nhảy xuống giếng, tôi muốn nhảy xuống sông!
Trong đám người, một phụ nữ áo dài trắng từ từ ngồi dậy. Người ấy quì trên mặt đất, lôi ra một, rồi hai vật cùng màu với cái áo dài của chị ta, cùng với màu trên đường phố. Hai vật cất tiếng khóc như cá nhân ngư. Chị ba Tiên Chim trong cuộc vui mừng kháng chiến thắng lọi, đã đẻ sinh đôi hai con trai.
Tiên Chim và những đứa con của chị khiến người ta tạm thời quên đi những điều phiền muộn, tôi nhẹ nhàng nhích tới gần để xem mặt hai đứa cháu gọi bằng cậu. Tôi lách qua những cẳng chân của đàn ông, bước qua những cái đầu dưới đất, cuối cùng, trông thấy hai đứa da màu vàng đất, những vết nhăn đầy trên mặt, trên người, đầu trọc lốc như quả bầu be. Chúng ngoác miệng ra khóc trông phát khiếp, tôi có cảm giác trên người chúng sẽ mọc đầy vảy như vảy cá. Tôi lùi lại, vô ý dẫm phải cánh tay một người đàn ông. Người này hừ lên một tiếng, không đánh cũng không chửi tôi. Anh ta từ từ ngồi dậy, rồi từ từ đứng lên, vuốt đất bụi trên mặt, tôi biết anh ta là ai. Là Lỗ lập Nhân, chồng chị Năm. Lỗ Lập Nhân tìm ai vậy? Tìm chị Năm tôi. Chị Năm nặng nhọc ngồi dậy trong đống cỏ khô, nhào vào lòng Lỗ Lập Nhân, ôm đầu anh ta mà vò tóc. Thắng lợi rồi, thắng lợi rồi, cả hai cứ nói lảm nhảm, vuốt ve nhau. Đặt tên con là Thắng Lợi, chị Năm nói.
Lúc này, mặt trời đã mỏi mệt đi ngủ, mặt trăng tỏa ánh sáng trong suốt, đẹp như người quả phụ thiếu máu. Lỗ Lập Nhân định dìu chị Năm đi về. Chính khi đó, chồng chị Hai là Tư Mã Khố dẫn đại đội biệt động của anh ta tiến vào thôn.
Đại đội biệt động của Tư Mã Khố có ba trung đội trực thuộc. Trung đội một là trung đội kỵ mã, có sáu mươi tư con ngựa lai giữa giống ngựa I-li với ngựa Mông Cổ, các chiến sĩ nhất loạt trang bị súng trường Mỹ, loại súng nhỏ nhắn, bắn liên thanh. Trung đội hai là trung đội xe đạp, có sáu mươi tư chiếc xe đạp nhãn hiệu lạc đà, trang bị loại tiểu liên Đức bắn hai mươi phát, có kính ngắm. Trung đội ba là trung đội la, gồm sáu mươi tư con la khỏe mạnh, chạy nhanh như gió. Ngoài ra, còn có một tiểu đội đặc biệt gồm mười ba con lạc đà, chuyên việc sửa chữa, thồ dụng cụ và phụ tùng sửa chữa xe đạp, súng ống và chuyên chở đạn được, chở Tu Mã Khô, Thượng Quan Chiêu Đệ và hai con gái của họ: Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng; chở một người Mỹ tên là Bác-bít. Con lạc đà cuối cùng chở Tư Mã Đình, mốc thếch như con khỉ đột. Lão mặc quần nhà binh, áo sơ mi lụa màu ngó sen, nét mặt rầu rĩ, hình như trong lòng có điều không vui.
Bác-bít có cặp mắt dịu dàng, mái tóc bạch kim mềm mại, đôi môi nhỏ, mình mặc áo da màu đỏ, quần vải bò có đến mười mấy cái túi to nhỏ, chân đi ủng bằng da thuộc mềm nhũn. Anh ta ăn mặc khác người như vậy, ngồi ngất ngưởng trên lưng con lạc đà đực cùng Tư Mã Khố, Tư Mã Đình đi vào thôn.
Trung đội kỵ binh của Tư Mã Khố ào tới như một cơn lốc Tiểu đội một sáu con ngựa đen tuyền, trên lưng sáu con ngựa ô này là sáu thanh niên tuấn tú, mặc quân phục màu da cam, cúc đồng sáng loáng trước ngực và trên tay áo, ủng đi ngựa cao cổ, bóng loáng, súng đeo trước bụng bóng loáng, mũ sắt trên đầu cũng bóng loáng, cái mông con ngựa cũng bóng loáng. Khi gần đền đám người năm ngổn ngang, đội kỵ mã đi chậm lại, những con ngựa đi đầu ngẩng đầu lên, chuyển sang chạy nước kiệu. Sáu lính kỵ chĩa súng lên trời, bắn một loạt đạn vào khoảng không mênh mang, những vỏ đạn sáng trưng bắn ra tứ phía. Súng nổ khiến tai điếc đặc, lá cây rụng ào ào. Lỗ Lập Nhân và Thượng Quan Phán Đệ giật mình, vội buông nhau ra. Lỗ Lập Nhân quát:
- Các anh thuộc đơn vị nào?
Một kỵ binh đáp:
- Ông già ở bộ phận nào vậy?
Lời chưa dứt, một tràng tiểu liên quét ngang ngay trên đầu Lỗ Lập Nhân. Anh ta luống cuống nằm xoài xuống đất, nhưng lập tức nhảy đứng lên, quát to:
- Tôi là đại đội trưởng kiêm chính ủy đại đội bộc phá, tôi cần gặp chỉ huy của các anh!
Tiếng nói của Lỗ Lập Nhân bị chìm trong hàng loạt tiểu liên bắn chỉ thiên. Các đội viên đội bộc phá nháo nhào ngồi dậy, đụng nhau ngã dúi dụi. Đội kỵ mã cho ngựa chồm lên, đường phố hỗn loạn nên đội hình của họ cũng hỗn loạn. Loại ngựa lai này thấp bé, linh hoạt, như một lũ mèo đực nhanh nhẹn và ngổ ngáo, hích ngã những người không kịp né tránh hoặc năm dưới đất vừa vùng dậy. Tiểu đội một vừa qua, tiểu đội hai ập tới, những người trên đường phố bị kỵ binh dồn đuổi, hích ngã, muốn chạy mà chạy không thoát.
Mọi người chưa hiểu sự thể ra sao, thì trung đội Lừa hàng ngũ tề chỉnh, các binh sĩ cầm ngang súng, vênh váo chẳng khác những con lừa. ở đầu phố đằng kia, trung đội kỵ binh chỉnh đốn hàng ngũ, rồi quay lại, hình thành hai mũi giáp công, mọi người bị dồn vón cục ở giữa, có người định chạy vào ngõ, nhưng lập tức bị trung đội ba, những binh sĩ cưỡi xe đạp nhãn hiệu lạc đà, mặc tiện y hoa đỏ tía, súng tiểu liên băng đạn cối, ngăn lại. Họ xả súng ngay trước mặt những người chạy trốn, đất bụi mù mịt, mọi người hốt hoảng chạy trở lại đường phố. Cuối cùng, toàn bộ sĩ quan binh lính đại đội bộc phá bị dồn tới trước cổng nhà Phúc Sinh Đường. Vì sao họ không lợi dụng khu dinh cơ kín cổng cao tầng và những lô cốt ngầm, lô cốt nổi của nhà Phúc Sinh Đường để tổ chức chống cự. Vì rằng Tư Mã Khố đã cho điệp viên trà trộn vào hàng ngũ đội bộc phá, nhân lúc hỗn loạn đã đóng chặt cổng lớn cổng bé nhà Phúc Sinh Đường, hơn nữa, còn gài hàng loạt mìn trước cổng.
Theo lệnh, các binh sĩ nhất loạt nhảy xuống lừa, dàn sang hai bên để chừa một lối đi. Đây là dấu hiệu một nhân vật quan trọng sắp xuất hiện. Các binh sĩ của đại đội bộc phá nhìn con đường. Những người dân rủi ro bị kẹt giữa đám lính cũng nhìn con đường. Tôi mờ mờ cảm thấy rằng, nhân vật quan trọng đó chắc chắn có liên quan đến nhà Thượng Quan.
Mặt trời đã chìm một nửa dưới Bãi-Cát-Dài, chỉ còn lại một quầng đỏ làm nền cho bầu không khí bi thảm. Những con quạ bay vụt lên từ nóc lều những người ngụ cư. Vài con đợi thỏa sức biểu diễn kỹ thuật phi hành trên không trung. Khoảnh khắc yên lặng là dấu hiệu của nhân vật quan trọng đã tới.
Thắng lợi? Thắng lợi!
Lính kỵ và lính lừa hô to. Nhân vật quan trọng đã tới. Nhân vật quan trọng từ phía tây đi tới, trên mình con lạc đà. Trên đầu con lạc đà có ngù dỏ.
Tư Mã Khố mặc quân phục xanh bằng dạ cao cấp, đầu đội chiếc mũ mà chúng tôi gọi đùa là mũ trôn lừa, ngực đeo hai huân chương vàng chóe to bằng vó ngựa, lưng thắt một đai dạn, sườn bên phải đeo khẩu Xanhtêchiên. Con lạc đà vươn dài cổ rồng, rung cặp môi ngựa dâm đãng, dựng hai tai chó nhọn hoắt, lim dim cặp mắt hổ lông mi rậm, giơ ngược những móng guốc như móng trâu, ve vẩy đuôi rắn dài và mảnh, co rúm mông dê gầy guộc, bước những bước dài giữa hai hàng quân. Lạc đà như con thuyền nhấp nhô, Tư Mã Khố như một thủy thủ. Hắn duỗi thẳng hai chân, ngực ưỡn ra, người hơi ngả ra sau, giơ tay đeo găng trắng lên sát vành mũ trôn lừa, khuôn mặt dài màu đồng điếu rắn câng, những nốt ruồi trên má đỏ như lá phong uống no sương. Khuôn mặt hắn như tạc bằng gỗ dàn hương, quang đầu ba lớp để chống mục chống ẩm. Bọn lính kỵ và lính lừa bồng súng hoan hô.
Đi sau lạc đà của Tư Mã Khố là lạc đà của Tư Mã Khố phu nhân: Thượng Quan Chiêu Đệ. Mấy năm không gặp, nét mặt Chiêu Đệ chẳng đổi khác là bao, vẫn thanh tú và dịu dàng. Chị khoác chiếc áo gió bằng lụa trắng, bên trong là chiếc áo chẽn bằng đoạn màu vàng, quần lụa hồng, chân đi giày da nhỏ màu vàng cực kỳ tinh xảo. Hai cổ tay đeo hai vòng ngọc bích, trừ hai ngón tay cái, tám ngón khác đeo tám nhẫn vàng. Hai dái tai đeo hai hạt nho xanh biếc, sau này tôi mới biết đó là ngọc phỉ thúy. Không nên quên hai cháu ngoại cao quí của tôi. Lạc đà của chúng đi ngay sau lạc đà của Chiêu Đệ. Giữa hai bướu có một sợi dây thừng to buộc chặt hai giỏ có hình dáng như chiếc ghế dựa, ngồi bên trái đầu cài đầy hoa là Tư Mã Thượng, ngồi bên phải hoa cài đầy đầu là Tư Mã Hoàng.
Tiếp theo là Bác-bít, anh chàng người Mỹ. Cũng khó như đoán tuổi chim én, không thể đoán được tuổi anh chàng người Mỹ này. Nhưng cặp mắt mèo xanh biếc của anh ta vô cùng linh hoạt khiến tôi cảm thấy anh ta rất trẻ, rất giống chú gà trống choai vừa đạp mái. Tóc anh ta mới bóng mượt làm sao! Anh ta ngồi trên lưng lạc đà, người lắc lư theo nhịp, nhưng dù lắc lư đến mấy, thân của anh ta vẫn thẳng đuỗn, y hệt pho tượng gỗ buộc chặt vào cái phao thả trên sông. Cái biệt tài ấy của anh ta khiến tôi có ấn tượng sâu sắc, nghĩ mãi mà không hiểu. Sau này, khi tôi được biết Bác-bít là phi công của không lực Mỹ, tôi mới hiểu anh ta giữ thói quen ngồi trên buồng lái khi ngồi trên lưng lạc đà. Anh ta không nghĩ rằng ngồi trên lưng con lạc đà, mà ngồi trong máy bay khu trục nhãn hiệu lạc đà, bị rớt xuống một phố chính của thủ phủ vùng Cao Mật.
Đi sau cùng là Tư Mã Đình, tuy có vinh dự là thành viên của gia đình Tư Mã, nhưng ông ta rũ như táu lá héo, không phấn khởi chút nào. Con lừa của ông ta cũng xấu mã, thọt một chân.
Lỗ Lập Nhân cố làm ra vẻ chững chạc. Anh ta tới trước con lừa của Tư Mã Khố, ngạo nghễ giơ tay chào, nói to:
- Chi đội trưởng Tư Mã, hoan nghênh quí bộ đội đến thăm căn cứ địa của chúng tôi, trong cái ngày cả nước tưng bùng này!
Tư Mã Khố cười ngặt nghẽo, thiếu nước ngã lăn xuống đất.
- Ha ha ha...
Hắn vỗ vỗ đám lông trên bướu lạc đà, nói với đám lính và dân phố đứng trước và sau hắn:
- Các người có nghe hắn phun cút phun đái những gì chưa? Đồ giòi bọ! Căn cứ địa nào? Thăm ai? Thằng lạc đà nội địa kia, đây là nhà của ông, đây là đất thấm máu của ông! Đường phố này đã thấm máu của mẹ ông khi đẻ ông! Chúng mày là đồ giòi bọ, hút no máu vùng Cao Mật, bây giờ là lúc phải cuốn xéo. Chuồn về cái hang thỏ của chúng mày, trả lại nhà cho ông!
Hắn nói rất hăng, lời lẽ đốp chát, nói một câu, vỗ vào bướu lạc đà một cái. Mỗi cái vỗ, cổ con lạc đà lại giật lên.
Mỗi cái vỗ, các binh sĩ của hắn lại gầm lên một tiếng. Mỗi cái vỗ, mặt Lỗ Lập Nhân lại tái thêm một ít. Cuối cùng, con lạc đà bị kích thích, rúm người lại, một chất nhầy như cháo, thối hoắc, từ hai lỗ mũi nó phun thẳng vào mặt Lỗ Lập Nhân.
- Tôi phản đối! - Lỗ Lập Nhân chùi mặt, giận điên lên - Tôi cực lực phản đối. Tôi sẽ kiện lên cấp cao nhất!
- ở đây ông là cấp cao nhất! Ông tuyên bố, hạn trong nửa giờ phải cút khỏi thị trấn Đại Lan, quá hạn, ông sẽ sát giới!
Lỗ Lập Nhân lạnh lùng nói:
- Rồi sẽ có ngày gậy ông đập lưng ông!
Tư Mã Khố không thèm đếm xỉa câu nói của Lỗ Lập Nhân, lớn tiếng ra lệnh cho bộ hạ:
- Tiễn quân bạn ra khỏi địa giới!
Trung đội kỵ binh và trung đội lừa ken thành đội hình dày đặc, dồn các binh sĩ đại đội bộc phá vào ngõ nhà tôi. Hai bên đường dọc theo ngõ, cách vài thước lại có một lính tiện y cầm súng. Một số lính tiện y khác đứng trên nóc nhà, giám sát từ trên cao.
Sau nửa giờ, phần lớn đội viên của đại đội bộc phá bò lên bờ bên kia sông Thuồng Luồng, ướt như chuột lột. ánh trăng lạnh lẽo chiếu trên mặt họ. Một số ít đội viên lợi dụng lúc nhốn nháo chui vào những bụi rậm trên đê hoặc bơi xuôi dòng xuống phía dưới rồi lên bờ ở quãng không người, vắt nước trên quần áo, chạy suốt đêm về quê.
Mấy trăm đội viên đội bộc phá ướt lướt thướt trên bờ đê. Họ nhìn nhau, có người chảy nước mắt, có người mừng thầm. Lỗ Lập Nhân thấy bộ đội của mình đã bị giải giáp hoàn toàn, quay ngoắt lại định đâm đầu xuống sông, nhưng bị bộ hạ ôm chặt. Anh ta im lặng hồi lâu, chợt ngẩng đầu hét to với những người thị trấn Đại Lan đang ồn ào bên kia sông:
- Tư Mã Khố, Tư Mã Khố, hãy đợi đấy, có ngày ta sẽ trở lại! Quê hương Cao Mật là của chúng tao, không phải của chúng mày? Bây giờ tạm thời là của chúng mày, nhưng cuối cùng là của chúng tao!
Hãy để Lỗ Lập Nhân liếm láp vết thương của anh ta, tôi phải trở về với những vấn đề của mình. Giữa nhảy xuống sông tự tử hay nhảy xuống giếng tôi chọn nhảy xuống sông, vì tôi nghe nói nhảy sông thì có thể trôi theo dòng nước mà ra biển. Thời Tiên Chim trổ phép thần thông, trên sông từng có những chiếc thuyền lớn hai cột buồm ngược dòng tới nơi này.
Tôi mục kích cảnh tượng các binh sĩ của Lỗ Lập Nhân tranh nhau bơi qua sông Thuồng Luồng dưới ánh trăng lạnh lẽo. Phì phà phì phèo, hết bò lại lăn, nhốn nháo nhộn nhạo, mặt sông sùi bọt. Người của Chi đội Tư Mã không tiếc đạn, bắn như vãi trấu xuống lòng sông, khiến mặt sông như một cái chảo đang sôi. Nếu họ định tiêu diệt đại đội bộc phá thì chắc chắn không sót một mống, nhưng họ chỉ thi hành chiến thuật dọa dẫm, không bắn chết ai. Vài năm sau, khi đại đội bộc phá biên chế lại thành trung đoàn độc lập trở lại Cao Mật, ai cũng bất nhẫn trước cảnh những binh sĩ và sĩ quan của Chi đội Tư Mã bị bắn chết.
Tôi lội chầm chậm ra chỗ sâu hơn, mặt sông trở lại êm đềm; hàng vạn tia sáng nhảy múa. Những bụi cỏ nước quẩn chân tôi, những con cá nhỏ đớp nhẹ đầu gối tôi. Tôi thử bước thêm mấy bước, nước sông ngang bụng, tôi cảm thấy ruột thắt lại, cái đói không chịu nổi đã hành hạ tôi. Thế là bầu vú đáng yêu đáng kính và đẹp vô cùng của mẹ đột nhiên hiện ra trong đầu tôi. Nhưng mẹ đã bôi ớt ở đầu vú, mẹ đã nhiều lần nhắc tôi:
- Con lên bảy rồi, phải cai sữa!
Vì sao tôi phải sống đến lên bảy nhỉ? Vì sao tôi không chết khi lên bảy? Tôi cảm thấy nước mắt chảy vào miệng. Vậy hãy để cho tôi chết, tôi không muốn để cho những thứ ô uế làm bẩn miệng tôi. Tôi mạnh dạn tiến thêm mấy bước nữa, nước đã ngập đến vai, cơ thể tôi đã cảm thấy lực xung kích của dòng nước ngầm. Tôi cố đứng vững hai chân chống lại sức đẩy của nước. Một cái xoáy lớn ngay trước mặt tôi, dụ tôi tiến lên. Tôi sợ. Tôi cảm thấy bùn dưới chân lở từng mảng, người tôi lún sâu hơn ngoài ý muốn, tiến lên, tiến vào cái xoáy nước đó. Tôi cố sức lùi lại và gào tướng lên! Lúc này tôi nghe thấy tiếng gọi thất thanh của mẹ:
- Kim Đồng, Kim Đồng! Con oi, con ở đâu?
Cùng với tiếng gọi của mẹ, tôi còn nghe thấy tiếng bơi của chị Sáu Niệm Đệ, chị Cả Lai Đệ và một giọng the thé vừa quen vừa lạ, tôi đoán đó là chị Chiêu Đệ tay đầy nhẫn vàng.
Khi tỉnh lại, đập vào mắt tôi đầu tiên là bầu vú căng tròn của mẹ, núm vú nhãi con mắt hiền từ, dịu dàng nhìn tôi, còn một bầu thì đang trong miệng tôi, nó chủ động mơn trớn đầu lưỡi tôi, hàm rằng tôi, sữa chảy vào họng tôi như những tia suối nhỏ. Tôi ngửi thấy mùi thơm sực núc từ bầu vú của mẹ. Về sau tôi mới biết mẹ dùng xà phòng thơm Hoa Hồng do chị Chiêu Đệ tặng rửa sạch ớt trên vú và xịt nước hoa giữa hai khe vú.
Trong nhà đèn được sáng trưng, trên giá nến cao cao có mấy cây nến đỏ. Tôi trông thấy nhiêu người đứng ngồi xung quanh mẹ. Ông anh rể Tư Mã Khố đang khoe với mẹ bửu bối của anh ta: chiếc bật lửa chỉ cần ấn một cái là tia lửa vọt ra. Cậu ấm Tư Mã đứng cách một quãng xa nhìn bố, thái độ lạnh nhạt, chẳng tỏ vẻ thân thiện chút nào.
Mẹ thở dài nói:
- Tôi phải trả nó cho anh chị, tội nghiệp thằng bé, đến nay vẫn chưa có tên.
Tư Mã Khố nói: - Bố là Khố (nhà kho) thì con là Lương (lương thực) đặt tên cho nó là Tư Mã Lương.
Mẹ nói:
- Nghe rõ chưa, cháu tên là Tư Mã Lương. Tư Mã Lương nhìn bố một thoáng, vẫn với thái độ lạnh nhạt.
Tư Mã Khố nói:
- Thằng nhóc, y hệt bố hồi nhỏ. Nhạc mẫu, xin cảm ơn nhạc mẫu đã giữ gìn cho nhà Tư Mã một người nối dõi. Từ nay, nhạc mẫu cứ mà hưởng phúc Cao Mật là giang sơn của ta rồi!
Mẹ không hiểu đầu đuôi ra sao, lắc đầu bảo Chiêu Đệ:
- Con định báo hiếu mẹ thì cho mẹ vài tạ kê, mẹ sợ đói lắm rồi!
Tối hôm sau, Tư Mã Khố tổ chức lễ mừng công, một là mừng kháng chiến thắng lợi, hai là mừng anh ta trở về nhà. Họ nối cả một xe pháo tép thành một dây pháo, quấn một vòng quanh tám cây hòe, lại nghiền nát trên hai chục cái chảo gang, đào lấy số thuốc nổ mà đại đội bộc phá chôn giấu, làm một quả pháo hoa lớn. Dây pháo nổ đúng một nửa đêm, vặt trụi cả cành lẫn lá tám cây hòe. Pháo hoa với những tia lửa lộng lẫy, chiếu sáng cả một khoảng trời. Họ giết mấy chục con lợn, vài con trâu, đào lên hơn chục hũ rượu. Thịt nhím bày đầy những mâm đặt trên bàn ngoài đường, bên cạnh để mấy con dao nhọn, ai thích ăn thì cứ việc xẻo thịt mà ăn, ngay cả cắt tai lợn quẳng cho chó cũng không ai can thiệp! Các hũ rượu đặt bên bàn thịt, miệng hũ treo gáo sắt, ai thích uống thì uống, tắm bằng rượu cũng không ai phản đối? Hôm ấy là ngày hội của những kẻ đói khát. Con trai cả nhà họ Trương là Trương Tiền Nhi chết vì bội thực ở trên phố. Khi mọi người đến lượm xác anh ta, rượu và thịt ứa ra ở miệng và mũi.

Chương 3

1
Hơn mười ngày sau khi đại đội bộc phá bị đuổi khỏi thôn trấn, một buổi tối, chị Phán Đệ dúi đứa trẻ bọc trong chiếc áo quân phục cũ vào lòng mẹ. Chị nói:
- Mẹ, cho mẹ đấy!
Chị Phán Đệ ướt lướt thướt, bộ quần áo mỏng dính chặt trên người, cặp vú đồ sộ nặng trĩu mê hoặc con mắt tôi. Mái tóc chị bốc hơi ngùn ngụt, tỏa mùi men rượu. Núm vú đỏ hồng phập phồng sau lần áo lót. Tôi rất muốn xông tới ngoạm vào bầu vú chị, vuốt ve bầu vú chị, nhưng không dám. Chị Phán Đệ tính nết dữ dằn, hơi tí là bạt tai. Chị không hiền như chị Cả. Bạt tai thì bạt, tôi phải sờ được vú chị. Tôi nấp sau cây lê, cắn chặt môi dưới chờ đợi.
- Đứng lại! - Mẹ quát to - Quay lại tao bảo!
Chị Phán Đệ giương to mắt nhìn mẹ, nói:
- Mẹ, đều là con gái của mẹ, mẹ nuôi hộ các chị ấy, thì cũng phải nuôi hộ con.
- Tao nợ nần gì mày? - Mẹ giận dữ gào lên - Chúng mày đẻ xong là quẳng về đây, con chó nó cũng không thế?
- Mẹ ơi - Khi chúng con gặp vận, mẹ đều được thơm lây. Giờ đây gặp hạn ngay cả con của con cũng không được nhờ vả chút gì hay sao? Mẹ ơi, phải công bằng chứ!
Từ trong bóng tối, tiếng cười của chị Cả vọng ra, nghe ơn lạnh xương sống. Chị thản nhiên nói:
- Em Năm, hãy bảo cái thằng Tưởng là có ngày chị sẽ giết nó?
- Chị Cả - Phán Đệ nói - Chị vui mừng hơi sóm đấy! Thằng chồng Hán gian Sa Nguyệt Lượng của chị có chết cũng chưa hết tội. Tôi khuyên chị hãy cụp đuôi lại, dùng có lồng lên, nếu không, chẳng ai cứu nổi chị!
- Đừng cãi nhau nữa! - Mẹ thét to.
Mặt trăng muộn đỏ quạch, trườn lên nóc nhà, soi rõ những người đàn bà trong sân, mặt nhuốm đỏ như bôi máu. Mẹ buồn bã lắc đầu, vừa khóc núc nở vừa nói:
- Tao không hiểu tiền oan nghiệp chướng gì mà đẻ ra những của nợ này!... Chúng mày cút đi, đi cho khuất mắt tao!
Lai Đệ như một bóng ma màu xanh chạy vào chái tây, và cứ lảm nhảm một mình trong đó như đang nói chuyện với Sa Nguyệt Lượng. Chị Lãnh Đệ như mộng du từ ngoài đầm trở về, trong tay một xâu ếch kêu ộp oạp. Chị trèo qua tường phía nam, vào trong sân.
- Trông kìa! - Mẹ lầu bầu - Đứa thì điên, đứa thì dở người! Thế này thì làm sao mà sống được?
Mẹ cúi xuống, đặt đứa con chị Năm dưới đất rồi đi vào trong nhà. Đứa bé khóc oe oe, mẹ không thèm ngoảnh lại. Mẹ đá thằng Tư Mã Lương đang đứng bên cửa, phát đánh bốp vào đầu Sa Tảo Hoa.
- Chúng mày là những của nợ? Sao không chết cả đi!
Rủa xong, mẹ đi vào buồng ngủ, đóng cửa đánh sầm, tôi nghe thấy tiếng đồ đạc loảng xoảng. Và cuối cùng là một tiếng bịch nặng nề như bao lương thực bị rớt, tôi đoán rằng đó là tiếng bà Lã nằm vật trên giường sau khi trút hết cơn điên. Tôi không trông thấy cái dáng mẹ nằm trên giường, nhưng hai tay dang rộng, bàn tay xương xầu tấy đỏ, đầy những vết nứt nẻ. Bên tay trái là đứa con của Lãnh Đệ rất có thể bị câm, bên tay phải là hai đứa con xinh đẹp điên điên khùng khùng của chị Chiêu Đệ. ánh trăng chiếu trên đôi môi nhọt nhạt của mẹ, đôi vú mệt mỏi nằm bẹp trên xương ngực. Bên cạnh mẹ, chỗ đứa con gái nhà Tư Mã, vốn là chỗ của tôi, nhưng giờ đây bà Lã nằm dạng hai chân, nên chỗ đó đã bị lấn chiếm.
Ngoài sân, trên lối đi còn thấp hơn cả hai bên, đứa con bọc trong chiếc áo quân phục cũ của chị Phán Đệ, khóe ngằn ngặt. Không ai hỏi một câu. Mẹ đẻ ra nó là Phán Đệ hùng hổ nói qua cửa sổ buồng mẹ:
- Mẹ phải nuôi nó hộ con, con và Lỗ Lập Nhân sớm muộn sẽ trở về!
Mẹ đấm xuống chiếu, gầm lên:
- Nuôi hộ mày hả? Tao thì vứt nó, cái đứa con hoang của mày ấy, xuống sông cho ba ba nó ăn quẳng xuống giếng cho ếch nhái nó đớp, quẳng vào chuồng phân cho giòi bọ nó đục!
- Tùy mẹ - Chị Phán Đệ nói - Dù sao nó là con của con, mà con lại là con của mẹ, suy cho cùng, mẹ vẫn có trách nhiệm!
Nói xong, Phán Đệ toàn thân run bắn, cúi nhìn đứa con trên lối đi rồi loạng choạng chạy ra cổng. Khi chạy qua chái tây thông với gian giữa, chị vấp phải ngưỡng cửa ngã chúi. Cái vấp đau nhưng chị lồm cồm bò dậy, hai tay ôm chặt cặp vú bị thương, chửi vọng vào chái tây:
- Đồ đĩ, hãy đợi đấy?
Lai Đệ trong chái tây cuối khúc khích. Trong bóng tối, tôi đưa tay sờ vú chị, chị nhổ nước bọt vào mặt tôi rồi bỏ đi. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi thấy mẹ đang huấn luyện con dê trắng cho con chị Phán Đệ nằm ngửa trong cái sọt mà bú.
Những buổi sáng mùa xuân năm một nghìn chín trăm bốn mươi sáu, quang cảnh trong sân nhà Thượng Quan náo nức chết cười. Mặt trời chưa lên, ánh sáng ban mai bàng bạc. Lúc này thôn xóm còn đang ngủ, chim én còn đang nói mê trong tổ, những con dế còn đang gảy đàn trong hang ấm sau bếp, trâu bò nhai lại bên máng cỏ, Tư Mã Khố đang ngáy trong nách chị Hai... thì mẹ đã thức dậy, rên rỉ xoa bóp những ngón tay đau nhức rồi mò mẫm tìm áo khoác, vất vả gập cánh tay tê dại cài khuy nách. Xong xuôi, mẹ ngáp dài, xoa mặt, mở mắt, thò chân xuống giường tìm giày. Tìm thấy giày, mẹ xuống giường, người lắc lư, lại ngáp một cái nữa, cúi xuống kéo gót giày để xỏ chân vào, ngồi xuống ghế đẩu, đưa mắt nhìn một lượt những khuôn mặt chúng sinh. Rồi mẹ ra sân lấy gáo múc nước từ ang vào chậu. òa, một gáo, òa, hai gáo, mỗi lần đều bốn gáo, đôi khi năm gáo. Rồi mẹ bê chậu nước đến chuồng, cho dê uống nước. Năm con dê cái, ba đen hai trắng, mặt dài ngoẵng, sừng cong như lưỡi liềm, cằm dài có râu dài. Chúng chụm đầu vào nhau, uống nước soàm soạp trong chậu. Mẹ cầm chổi vun phân dê lại rồi quét hết vào chuồng, xúc đất ngoài ngõ trải đều lên, lấy lược gỗ chải lông cho lũ dê. Trở lại lấy nước rửa thật sạch vú cho từng con. Lũ dê khoan khoái kêu be be. Lúc này, mặt trời đã nhô lên đỉnh núi, ánh hồng và ánh đỏ đuổi sạch màu bàng bạc của sớm mai. Mẹ trở vào nhà cọ chảo, đổ nước vào, lớn tiếng gọi:
- Niệm Đệ, Niệm Đệ, dậy đi!
Mẹ đổ kê và đậu xanh vào chảo, khuấy đều, cuối cùng bỏ thêm một nắm đậu vàng, lại khuấy. Đậy nắp chảo, cho củi vào lò, đánh diêm, mùi lưu huỳnh, bà nội mắt trắng đã ngồi trong nói, mẹ than thở. Lách tách, cây đậu đang cháy, mùi thơm xộc vào mũi. Tạch, một hạt đậu còn sót, nổ trong ngọn lửa
- Niệm Đệ đã dậy chưa?
Tư Mã Lương mắt nhắm mắt mở từ căn buồng phía đông đi ra sân, ra nhà xí ống khói tỏa khói xanh. Niệm Đệ đang ở sân, thùng chạm nhau lịch kịch, chị sắp ra sông lấy nước. Be, dê kêu? Oa, Lỗ Thắng Lợi khóc! Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng thì thầm. Hai con trai của Tiên Chim ậm ọe. Tiên Chim lười nhác đi ra cổng. Lai Đệ chải đầu bên cửa sổ. Đàn ngựa hí vang trong ngõ, đó là đám kỵ binh cho ngựa ra sông uống nước. Đàn la đi ngang qua ngõ, chúng ra sông uống nước trở về. Chuông xe đạp kính cong, trung đội xe đạp đang luyện tập. Mẹ sai Tư Mã Lương:
- Cháu đun bếp cho bà!
- Kim Đồng, dậy đi, dậy ra sông rửa mặt!
Mẹ bê năm cái sọt đan bằng nhành liễu như hình cái ghế ra, đặt năm đứa trẻ xuống ghế, ở tư thế nằm ngửa. Mẹ ra lệnh cho Sa Tảo Hoa:
- Thả đàn dê ra!
Sa Tảo Hoa chạy con cón, hai chân khẳng khiu, tóc rối bù, mắt mọng vì ngái ngủ, bước vào chuồng dê. Lũ dê lắc sừng tỏ vẻ thân thiện, thè lưỡi liếm đất bám trên gối nó.
Nó nắm tay đấm yêu lên đầu con dê, mắng:
- Đồ cộc đuôi!
Nó tháo bỏ thùng chạc ở cổ dê, vỗ tai dê, nói:
- Đi ra, mày là của Lỗ Thắng Lợi!
Con dê của Lỗ Thắng Lợi vui vẻ vẫy đuôi nhanh nhẹn gõ móng, chạy ào đến bên sọt của Lỗ Thắng Lợi. Thắng Lợi nằm chổng bốn vó lên trời, chờ đợi. Con dê dạng hai chân sau, bước lùi mấy bước để bầu vú sát mặt con bé. Đầu vú dê tìm miệng con bé, miệng con bé tìm đầu vú dê, động tác thuần thục, chuẩn xác. Núm vú con dê to và dài là thế, mà Lỗ Thắng Lợi đớp gọn trong miệng, y hệt một con cá quả tham ăn. Con dê của thằng Câm anh, của thằng Câm em, của Tư Mã Phượng, của Tư Mã Hoàng lần lượt đến bên chủ của mình, cùng một động tác như nhau tiếp cận miệng lũ trẻ, thành thạo và lặng lẽ. ánh nắng vàng óng trùm lên khung cảnh cho trẻ bú đầy xúc động. Lũ dê cong lưng? lim dim mắt, râu dưới cằm rung rung.
- Bà ơi, nước sôi... rồi? - Tư Mã Lương nói.
- Để sôi một lúc nữa mẹ đang rửa mặt ngoài sân.
Lửa liếm nhanh đáy chảo. Cái bếp này đã được bác cấp dưỡng của đại đội bộc phá cải tạo lại. Tư Mã Lương chỉ mặc quần đùi, cởi trần. Nó rất gầy, cặp mắt u sầu. Niệm Đệ gánh nước về, thùng nước nhún nhẩy theo đòn gánh. Chị đang để lại tóc, đã dài chấm lưng, đầu bím buộc dây ni lông theo thời thượng. Lũ dê nhất loạt đổi bên vú cho lũ trẻ.
- Ăn cơm thôi! - Mẹ bảo.
Sa Tảo Hoa ngả bàn, Tư Mã Lương lấy đũa bát. Mẹ múc cháo, một bát hai bát ba bát bốn bát năm bát sáu bát bảy bát. Sa Tảo Hoa và Ngọc Nữ lấy ghế ngồi. Niệm Đệ bón cháo cho bà Lã. Lai Đệ và Lãnh Đệ cầm bát của mình đi tới tự múc mỗi người một bát. Mẹ không nhìn nhưng lầu bầu:
- Khi ăn thì chẳng điên chút nào!
Hai chị bê cháo ra vườn ăn. Niệm Đệ nói:
- Nghe nói trung đoàn mười bảy thuộc trung đội tám sắp đánh đến đây!
- Ăn đi - mẹ ngắt lời chị.
Tôi quì trước mặt mẹ để ti sữa. Mẹ bị vướng phải quay mặt sang bên để ăn cháo.
- Mẹ nuông chiều nó quá đấy, nó định bú cho đến khi lấy vợ chắc? - Niệm Đệ nói.
- Có người bú tí mẹ đến lúc lấy vợ đấy- Mẹ nói - Đó là bố Bảo Tài ở ngõ Tây, bú tí mẹ đến lúc lấy vợ.
Tôi đổi bên vú.
- Kim Đồng, mẹ cũng rộng lượng cho đến ngày còn đủ sữa cho con!
- Mẹ đã nếm trải đủ mùi gian khổ, vậy mà sữa mẹ vẫn nhiều? - Khi nào quả thật không đủ sẽ kiếm cho nó một con dê - Chị Niệm Đệ nói.
- Niệm Đệ em hận chị!
- Cơm xong, đi chăn dê, kiếm ít hành dạ và rau săng, làm bữa trưa.
Mẹ dặn dò xong, bữa sáng kết thúc.
Lỗ Thắng Lợi nhích từng tí trên bãi cỏ, mông lết trên cỏ mịn như nhung. Mục tiêu của nó là con dê trắng đang đỏng đảnh bút từng ngọn cỏ non, khuôn mặt dài được rửa sạch bằng sương sớm có những nét ngạo mạn của tiểu thư quí tộc. Thời đại nhốn nháo, bãi cỏ im lìm. Những đóa hoa muôn màu điểm xuyết đây đó, bãi cỏ thật là đẹp, mùi thơm làm ta mê man. Chúng tôi chạy đã thấm mệt, nằm bò xung quanh chị Niệm Đệ. Tư Mã Lương nhai nhánh cỏ trong miệng, nhựa cỏ xanh dính hai bên mép. Mắt nó đồng tử màu vàng, lóe lên những tia trắng đục. Dáng dấp và động tác nhai cỏ khiến nó trở thành con cào cào khổng lồ. Cào cào cũng ăn cỏ, khi nhai cỏ, cũng ứa nước xanh ở mép. Sa Tảo Hoa đang quan sát một con kiến kềnh. Con kiến đứng trên ngọn cỏ mao, đang phân vân tìm lối xuống. Mũi tôi chạm phải một cụm hoa nhỏ xíu màu vàng, mùi thơm của nó khiến tôi chỉ muốn hắt hơi, quả nhiên tôi đã hắt xì hơi rõ to. Chị Niệm Đệ nằm ngửa mặt, ở giữa chúng tôi, bị cái hắt hơi của tôi làm giật mình. Chị trố mắt liếc xéo tôi, tỏ ra không bằng lòng, bĩu môi, nhíu mũi, rồi lại nhắm mắt. ánh nắng mặt trời khiến chị hết sức khoan khoái. Hai gò má hơi cao, trắng mịn, không một nếp nhăn, lông mi dầy, môi trên mọc đầy lông tơ, cằm hơi dô một cách nghịch ngợm, vành tai chỉ có ở các cô gái nhà Thượng Quan, tròn đầy và trắng trẻo. Chị mặc chiếc áo ngoài bằng đoạn trắng của chị Chiêu Đệ cho, áo khép hai vạt đính khuy uyên ương là mốt thịnh hành đương thời, bím tóc to bằng con lệch thả trước ngực. Điều cần nhắc đến là cạp vú của chị. Vú chị không lớn nhưng chỉ nhìn cũng biết chúng rắn câng không nhão không xệ, vì vậy tuy cô chủ của chúng ở tư thế nằm ngửa mà chúng vẫn nhọn hoắt, trắng mịn giữa khe hở của hai vạt áo. Tôi bỗng nảy ra một ý muốn khó cưỡng lại, đó là lấy cọng cỏ chọc vú chị nhưng không dám. Chị Niệm Đệ xưa nay vẫn mặt trăng mặt trời với tôi, chị ghét cay ghét đắng chuyện tôi vẫn còn bú tí, chòng ghẹo chị thì chẳng khác sờ mông cọp. Tôi đấu tranh tư tưởng quyết liệt. Đứa nhai cỏ vẫn nhai cỏ, đứa chơi với kiến vẫn chơi với kiến, đứa bò lết vẫn bò lết. Con dê trắng như mụ quí tộc, con dê đen như bà quả phụ. Chúng ăn không ngon miệng vì thức ăn nhiều, không biết nên ăn món nào, cỏ nhiều không biết nên ăn cỏ nào. Hắt xì! Thì ra dê cũng biết hắt hơi, mà lại hắt hơi rõ kêu. Bầu sữa của chúng đã đầy. Trời đã gần trưa, tôi ngắt một cọng cỏ đuổi chó, quyết tâm sờ mông hổ. Không ai để ý đến tôi. Tôi khẽ buồn cọng cỏ vào giữa khe áo do vú đội lên. Trong tai tôi có tiếng ong ong, cảm thấy tim đập như con thỏ nhảy trong ngực. Cọng cỏ đã chạm vào lần da. Chị không phản ứng gì, chẳng lẽ chị đang ngủ? Ngủ thì sao lại không có tiếng ngáy? Tôi xoay xoay cọng cỏ, chị giơ tay gãi ngực, không mở mắt ra.
Chắc chị cho rằng có con kiến bò giữa khe vú. Tôi chọc cọng cỏ sâu hơn nữa và ngoáy. Chị đập tay trên ngực đanh bốp một cái, bàn tay chạm cọng cỏ của tôi, chị rút nó ra. Chị nhìn cọng cỏ, trở mình ngồi dậy nhìn tôi, mặt đỏ bùng. Tôi ngoác miệng cười với chị.
- Đồ đốn mạt - chị mắng - Mẹ làm hư mày rồi?
Chị dúi đầu tôi xuống cỏ, phát hai cái vào mông tôi. - Mẹ nuông chiều mày nhưng tao thì không - Chị trợn mắt quát - Đời mày rồi cũng chết treo dưới vú mẹ...
Tư Mã Lương hốt hoảng nhả cọng cỏ ra. Sa Tảo Hoa thôi không quan sát lũ kiến. Chúng nhìn tôi, không hiểu có chuyện gì xảy ra, đồng thời lại nhìn chị Niệm Đệ. Tôi khóc lên hai tiếng, hoàn toàn chỉ là hình thức vì tôi đã vớ bở. Chị đứng lên, dùng đầu hất bím tóc ra sau lưng vẻ ngạo nghễ. Lỗ Thắng Lợi đã bò đến bên con dê của nó, nhưng con dê không chịu, cứ né tránh, ngay cả lúc nó đã túm được núm vú, con dê quay lại húc con bé ngã lăn ra. Nó khóc như tiếng dê, không hiểu là khóc hay là gọi. Tư Mã Lương thì cắm cổ bỏ chạy làm kinh động những con cào cào có cánh trong màu hồng và mấy con chim chích màu vàng nhạt. Sa Tảo Hoa ngắt những bông tú cầu mịn như nhung. Tôi ngượng nghịu đứng lên, đi theo chị Niệm Đệ, đấm thùm thụp vào mông chị, vừa ăn vạ:
- Đấy nhé, chị đánh em, chị dám đánh em.
Mông chị rắn chắc, tôi đấm mà thấy đau những ngón tay. Chị mất hết kiên nhẫn, quay lại nhe răng trợn mắt, gầm gừ như chó sói. Tôi sợ toát mồ hôi, chợt hiểu rằng, mặt người và mặt thú chỉ là hai mặt của một đồng tiền. Chị túm tóc tôi đẩy một cái thật mạnh, tôi ngã ngửa trên bãi cỏ. Chị tóm lấy sừng con dê trắng, con dê chỉ chống cự lấy lệ. Lỗ Thắng Lợi nhanh nhẹn bò tới nằm ngửa dưới bụng con dê, cố ngóc đầu lên để ngậm đúng đầu vú, hai chân cũng đạp ngược dần lên bụng con dê. Chị Niệm Đệ vuốt ve cái tai của con dê, nó vẫy đuôi tỏ ý thuần phục. Tôi đói bụng, trong lòng buồn rũ. Tôi hiểu ra rằng, những ngày sống dựa vào mẹ không còn lâu nữa, phải tìm ra một loại thức ăn cho mình. Tôi lập tức nghĩ đến những sợi miến ngoằn ngoèo như những con giun mà lợm giọng chỉ muốn nôn ọe, và tôi đã ọe khan hai tiếng. Chị Niệm Đệ ngẩng lên nghi ngờ nhìn tôi:
- Mày sao thế hả? - chị hỏi bằng một giọng ngán ngẩm.
Tôi xua tay, tỏ ý không thể trả lời chị. Tôi lại nôn khan mấy tiếng nữa. Chị rời con dê, bảo tôi:
- Kim Đồng, lớn lên rồi em sẽ như thế nào?
Tôi nhất thời không hiểu ý tứ trong câu nói của chị. Chị nói:
- Chị thấy em nên thử ăn sữa dê xem sao?
Tôi nhìn Lỗ Thắng Lợi đang mút vú dê chùn chụt, trong bụng có phần suy nghĩ.
- Em định để mẹ chết à? - Chị lắc vai tôi, hỏi - Em có biết cái gì biến thành sữa không? Sữa tức là máu! Em đang hút máu của mẹ! Nghe lời chị, ti sữa dê đi!
Tôi nhìn chị, gật đầu gượng gạo. Chị túm lấy con dê đen của thằng câm lớn, bảo tôi:
- Lại đây, mau lên? Chị vỗ vỗ lưng con dê cho nó đứng yên - Lại đây!
Chị nhìn tôi bằng ánh mắt khích lệ. Tôi do dự, tiến lên một bước rồi lùi lại hai bước. Lại đây, chui vào bụng dê, học cách nó chui ấy!
Tôi nằm ngửa tì gót xuống cỏ đầy người trườn đi.
- Câm lớn, câm lớn, lùi mấy bước nào - Chị Niệm Đệ vừa nói vừa đẩy lùi con dê đen.
Tôi nhìn thấy bầu trời Cao Mật trong vắt, những con chim nhỏ màu vàng kim bay trong nàng, lượn vòng, cất tiếng hót vui tai. Nhưng tầm nhìn của tôi lập tức bị che khuất, bầu vú màu phấn hồng của con dê đã treo lủng lẳng trên mặt tôi. Hai đầu vú to như hai con đại trùng đung đưa tìm miệng tôi. Chúng chạm vào môi tôi, sự cọ xát khiến môi tôi tê tê như chạm vào một dòng điện nhỏ, tôi mê đi trong một cảm giác sung sướng. Trước kia tôi cứ cho rằng đáu vú của dê rất mềm, không co giãn, mềm như bông, ngậm trong miệng lập tức biến thành hồ nhão. Giờ đây tôi mới biết chúng rất cứng, cứng mà dẻo, sức co dãn vào loại ưu việt, chẳng kém vú mẹ tôi chút nào. Trong khi va chạm, tôi cảm thấy một làn hơi ấm thấm ướt môi tôi, sữa có mùi gây gây khiến tôi không thích, nhưng trong cái mùi gây đó có mùi thơm, mùi thơm của hoa dại trộn lẫn mùi nhựa cây mọc trên đồng cỏ. Tôi mềm lòng, hé mở hàm răng cắn chặt, dòng sữa dê tia thẳng vào họng tôi, nhảy múa trong vòm miệng, tôi tức thở nhả đầu vú ra, nhưng đầu vú khác lập tức thay thế, sữa của nó tia càng mạnh hơn...
Con dê ve vẩy đuôi, rời tôi một cách thanh thản. Tôi ứa nước mắt. Mùi gây gây phảng phất trên mặt, tôi buồn nôn. Miệng thơm mùi cỏ và hoa dại, tôi không nôn nữa. Chị Sáu kéo tôi đứng dậy, bế tôi xoay một vòng. Tôi trông thấy khuôn mặt chị nổi lên những đốm đỏ vì vui sướng.
Mắt chị đen láy như hòn cuội vừa vớt dưới nước lên. Chị xúc động nói:
- Thằng ngốc, em được cứu rồi!...
- Mẹ ơi, mẹ! chị Sáu phấn khởi gọi to - Kim Đồng ăn được sữa dê rồi! Kim Đồng ăn được sữa dê rồi!
Trong nhà vọng ra tiếng chát bụp.
Mẹ vút chiếc chày cán bột dính đầy máu tươi lên mép lò há miệng thở hồng hộc, bộ ngực đồ sộ phập phồng dữ dội.
Bà Lã nằm sõng sượt trên đống cho cạnh bếp, đầu vỡ toác chẳng khác cái hột đào bị dập vỡ.
Chị Tám Ngọc Nữ ngồi co rúm ở cửa bếp, tai chị bị mất một mẩu như bị chuột gặm, chỗ rách không gọn, máu nhỏ từng giọt, nhuộm đỏ má và ngực chị. Chị khóc ti tỉ, cặp mắt thong manh mọng nước.
- Mẹ, mẹ đánh chết bà nội rồi! - chị Sáu kinh hoảng kêu lên.
Mẹ đưa tay rờ vết nút trên đầu bà nội, rồi như bị điện giật mẹ ngồi phịch xuống đất.

2
Chúng tôi với tư cách là khách mời đặc biệt leo lên đèo Trâu Nằm, xem Tư lệnh Tư Mã Khố và thanh niên Mỹ Bác-bít biểu diễn kỹ thuật bay. Hôm ấy có gió dông nam, nắng đẹp. Tôi cưỡi la chung với chị Lai Đệ. Chị Chiêu Đệ thì cưỡi chung với Tư Mã Lương. Tôi ngồi phía trước, chị Lai Đệ vòng tay ôm ngực tôi Chị Chiêu Đệ ngồi trước, Tư Mã Lương chỉ níu dưới nách áo chị, không sao ôm vòng cái bụng to tướng đang mang thai cửa chị. Đội ngũ chúng tôi men theo đuôi, leo dần lên sống lưng núi Trâu Nằm mọc đầy cỏ lau sắc cạnh và cây bồ công anh nở hoa vàng. Những con la chở chúng tôi tỏ ra nhẹ nhõm.
Tư Mã Khố và Bác-bít cưỡi ngựa vượt lên trước chúng tôi. Hai người tỏ ra vô cùng phấn chấn. Tư Mã Khố còn giơ nắm tay lên huơ huơ với chúng tôi. Trên đỉnh núi có một tốp người mặc quần áo vàng hét lên gì đó với những người ở dưới. Tư Mã Khố giơ cái roi ngắn vụt cho con ngựa lai liền hai roi, con ngựa từng bước trèo lên đèo. Ngựa của Bác-bít theo sau. Bác-bít ngồi trên lưng ngựa rất giống tư thế ngồi trên lưng lạc đà, dù lắc lư đến mấy, phần thân của anh ta vẫn thẳng đơ. Hai chân dài ngoẵng, bàn đạp gần như sát mặt đất, con ngựa kẹp giữa hai chân trông vừa thương hại vừa buồn cười, vậy mà nó chạy rất nhanh.
- Chúng mình cũng phải nhanh lên! - Chị Hai nói.
Chị dùng gót chân thúc vào bụng con la. Chị là thủ lĩnh của đoàn khách, đường đường là Tư lệnh phu nhân, ai dám không tôn trọng? Đám đại biểu dân chúng, những nhân vật nổi tiếng của địa phương đi phía sau, tuy thở phì phò nhưng không một ai ca thán. Con la của tôi và chị Lai Đệ theo sát con la của chị Chiêu Đệ và Tư Mã Lương, cặp vú lẩn sau lần áo choàng đen cọ vào lưng tôi, khiến tôi nhớ lại trò chơi vỡ lòng bên máng cỏ, tôi cảm thấy rất vui.
Lên tới đỉnh núi, gió mạnh hơn. Lá cờ do hướng gió bay phần phật, dải cờ màu đỏ múa lượn trong gió như cái đuôi con gà gấm. Hơn chục lính khuân vác các thứ trên lưng lạc đà xuống. Những con lạc đà mặt mày đau khổ, đuôi và khuỷu chân dính phân lỏng. Cỏ vùng Cao Mật vỗ béo những con la của chi đội Tư Mã Khố, vỗ béo bò dê của dân trong vùng, nhưng lại làm khổ những con lạc đà Chúng không quen thủy thổ, gầy lõ đít, chân như que củi, cái bướu trên lưng rắn chắc là thế mà nay nhăn nheo, xẹp lại như cái túi vải.
Bọn lính trải rộng một tấm thảm cực lớn trên mặt đất. Tư Mã Khố ra lệnh:
- Dìu bà đến đây? Bọn lính dìu Chiêu Đệ với cái bụng to tướng, bế Tư Mã Lương, rồi đỡ Lai Đệ, cậu Kim Đồng, dì Ngọc Nữ xuống đất. Chúng tôi là khách quí đuợc ngồi trên thảm, còn những người khác thì đứng đằng sau. Tiên Chim cứ thập thò đằng sau, chị Hai giơ tay vẫy, chị giấu mặt sau lưng Tư Mã Đình. Tư Mã Đình bị đau răng, tay ôm má sưng vù. Chỗ chúng tôi ngồi tương đương với đầu trâu, phía trước là mặt. Con trâu này cố ý rúc đầu vào ngực, mặt nó là vách đá cheo leo, ở độ cao năm trăm thước so với mặt biển. Gió lướt trên đầu thổi về hướng thôn trấn, những đám mây mỏng như sương lơ lửng trên bầu trời. Tôi tìm ngôi nhà của tôi nhưng lại tìm thấy khối nhà bảy lớp sân của nhà Tư Mã. Tháp chuông nhà thờ, vọng gác kết cấu gỗ trông nhỏ bé như đồ chơi. Cánh đồng, dòng sông, ao đầm, vạt cỏ, những vạt cỏ khảm gương là những ao chuôm. Có một đàn ngựa chỉ to bằng con dê, một đàn la chỉ to bằng con chó, cả hai đàn đều là gia súc của nhà Tư Mã. Có sáu con dê chỉ to bằng con thỏ, đó là đàn dê nhà tôi. Con dê trắng to nhất trong đàn là con dê của tôi, con dê mà theo lời yêu cầu của mẹ, chị Hai cử phó quan phụ trách quân nhu của anh rể, phó quan quân nhu cử người đi Kỳ Mông mua về. Đúng bên con dê trắng của tôi là một bé gái, đầu nó bé hơn quả bóng nhỏ bằng da. Nhưng tôi biết đó không phải cô gái nhỏ, mà là một cô gái lớn, đầu cô ta lớn hơn quả bóng da. Đó là chị Niệm Đệ. Hôm nay chị chăn dê rất xa. Chị đi xa thế không phải vì lũ dê, mà vì chị. Chị cũng muốn xem biểu diễn. Tư Mã Khố và Bác-bít đã xuống ngựa từ lâu. Hai con ngựa đang đi lại thung dung trên đầu trâu, tìm ăn cỏ linh lăng hoa tía. Bác-bít đến bên bờ vục nhìn xuống hình như đang ước lượng độ cao, một thái độ trang nghiêm hiện trên khuôn mặt trẻ thơ của anh ta. Anh ta hết cúi nhìn vực thẳm, lại ngẩng lên nhìn trời. Trời xanh ngắt, không còn gì phải tính toán chi li nữa. Anh ta lim dim mắt, giơ một tay lên hình như để ước lượng sức gió. Tôi cho anh ta làm như vậy là thừa, cờ bay phấn phật, áo bị thổi phồng lên, diều hâu bị lật cánh xoay như chong chóng, vậy thì còn giơ tay làm gì? Trong khi Bác-bít làm như vậy, Tư Mã Khố đi theo anh ta từng bước chân và cứ tự nhiên lặp lại những động tác của anh ta. Nét mặt Tư Mã Khố cũng rất căng thẳng, nhưng tôi cảm thấy anh ta chỉ làm ra vẻ thế thôi.
- Được rồi? - Bác-bít giọng cứng nhắc - Nào, bắt đầu!
- Được rồi - Tư Mã Khố giọng cứng nhắc - Nào, bắt đầu!
Các binh sĩ khênh hai cái bọc đến, mở một cái ra. Đó là một tấm lụa rộng mênh mông, phía dưới là những dây màu trắng.
Bác-bít chỉ huy bọn lính buộc dây vào ngực vào mông Tư Mã Khố. Buộc xong, anh ta kéo những sợi dây xem đã chắc chưa. Tiếp theo, anh ta mở tấm lụa ra, bảo đám lính cầm lấy hai góc. Gió thốc tới, tấm lụa hình chữ nhật loạt soạt căng phồng lên. Các binh sĩ bỏ tay ra, tấm vải phồng lên như một cánh buồm hình cánh cung, kéo căng tất cả những sợi đây, kéo theo Tư Mã Khố. Tư Mã Khố muốn đứng lên nhưng không đứng được, lăn lông lốc như một con lừa đang tắm khan. Bác-bít chạy đến sau lưng anh ta, túm lấy sợi thùng ở sau lưng, bảo:
- Giữ chặt sợi dây này, đây là dây điều khiển.
Tư Mã Khố như chợt tỉnh, cất giọng chửi:
- Tiên sư nhà mi, Bác-bít, định hại ông hả?...
Chị Hai chồm dậy đuổi theo Tư Mã Khố. Mới chạy được vài bước, Tư Mã Khố đã lăn xuống mép vực, tiếng chửi cũng ngừng bặt. Bác-bít gào to:
- Kéo sợi dây bên trái, kéo đi, đồ ngu!
Chúng tôi chạy ra mép vục, cả chị Tám cũng chạy theo. Chị bước đi loạng choạng, chị Cả vội giữ lại. Tấm lụa đã biến thành một đám mây trắng như bông, lắc lư, bồng bềnh trôi đi. Tư Mã Khố ở phía dưới, giãy giụa như con cá mắc câu. Bác-bít gọi với theo:
- Giữ cho ổn định, đồ ngu! Chú ý động tác tiếp đất.
Đám mây trắng bay theo chiều gió, vừa bay vừa hạ độ cao, cuối cùng hạ xuống bãi cỏ xa tít, màu trắng lóa mắt trùm lên cỏ xanh.
Chúng tôi há hốc miệng, nín thở, mắt dõi theo mảng màu trắng cho đến khi nó tiếp đất mới thở ra một hơi. Nhưng tiếng khóc của chị Hai khiến chúng tôi lúng túng. Sao chị lại khóc? Chắc hẳn chị không vì vui mà khóc, mà vì buồn. Tôi nghĩ ngay đến chuyện Tư Mã Khố bị ngã chết. Thế là mọi người chú mục vào mảng trắng trên bãi cỏ, mong chuyện thần kỳ xảy ra. Chuyện thần kỳ đã xảy ra thật: Mảng trắng động đậy, nhô cao, một vật đen chui ra, đứng dậy. Anh ta khua cả hai tay về phía chúng tôi, tiếng reo vọng lên đình núi, chúng tôi đồng thanh hoan hô.
Bác-bít đỏ mặt, chóp mũi bóng lộn như thoa một lớp đầu. Anh ta tự buộc dây cho mình, cõng cái bọc trắng lên lưng, đứng lên co giãn hai cánh tay, chậm rãi lùi lại. Chúng tôi đều nhìn vào anh ta. Anh ta không thèm nhìn ai, mặt vác lên nhìn về phía trước. Anh ta đi giật lùi đến mười mấy bước thì dừng lại, nhắm mắt, môi run run, chắc là cầu nguyện. Cầu nguyện xong, anh ta mở mắt, cất bước chạy, khi chạy ngang qua chỗ tôi, anh ta duớn người lên một cái rồi như một mũi tên lao vào khoảng không. Trong một thoáng, tôi có cảm giác không phải anh ta rơi xuống, mà là vách đá dâng lên, đồng cỏ dâng lên. Đột nhiên một đóa hoa trắng nở bung ra, lần đầu tiên tôi trông thấy một đóa hoa lớn đến như thế nở giữa trời xanh và đồng cỏ. Chúng tôi vỗ tay hoan hô. Bông hoa từ từ trôi, bên dưới là Bác-bít bình ổn như một quả cân bằng sắt. Rất nhanh, quả cân tiếp đất, rơi đúng chỗ đàn dê nhà tôi. Đàn dê chạy tán loạn. Quả cân chỉ di chuyển một đoạn ngắn, bông hoa trắng đã xẹp lại, chỉ còn như một cái phao khổng lồ, trùm lên người Bác-bít, đồng thời trùm luôn cả Niệm Đệ. Niệm Đệ hoảng hốt kêu lên, trước mắt chỉ là một màu trắng, chị trông thấy nụ cười nở bừng trên khuôn mặt hồng hào của Bác-bít. Đúng là thiên thần giáng thế Chị nghĩ. Chị ngước nhìn anh ta, trong lòng rộn lên niềm kính phục và ngưỡng mộ.
Mọi người đều chạy đến bên bờ vực nhìn xuống.
- Hôm nay mới được chứng kiến chuyện lạ như thế này? - Ông chủ hiệu nhà đòn Hoàng Thiên Phúc nói - Thiên thần, lão sống đã bảy mươi tuổi, giờ mới được xem thiên thần giáng thế!
Thầy giáo Tần, từng dạy ở trường tư thục, vừa vuốt râu vừa nói:
- Tư lệnh Tư Mã từ nhỏ đã khác người, khi là học sinh của tôi, tôi đã biết ông ấy sẽ làm nên chuyện!
Những người có vai vế trong trấn đứng xung quanh thầy giáo Tần và ông chủ nhà đòn đều ca ngợi Tư Mã Khố băng những lời lẽ khác nhau, tán thưởng kỳ tích vừa được chứng kiến.
- Các vị không thể tưởng tượng ông ấy khác người như thế nào đâu? - Thầy Tần cao giọng át cả những lời bàn tán, tỏ ra thầy có mối quan hệ đặc biệt với nhà Tư Mã- Ông ấy bỏ hai con cóc vào trong cái bô đi tiểu của tôi. Còn nữa, ông ấy sửa lại lời thánh hiền. Thánh nhân nói: Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính dễ gần, thói dễ xa, nếu không dạy, thiện tiêu ma. Ông ấy sửa lại ra sao, cái vị không đoán nổi đâu. Ông ấy sửa là: Nhân chi sơ, nói lăng nhăng, chó không dạy, mèo không học, tẩu thuốc nồi chảo xào trứng gà, thầy giáo xực, học trò ngó...Ha ha ha...
Thầy Tần cười ha hả, vênh váo nhìn mọi người xung quanh.
Giữa khi ấy, một tiếng kêu thất thanh vang lên, tiếng kêu như tiếng chó con sục tìm vú mẹ, càng giống tiếng kêu của con hải âu năm xưa theo đoàn thuyền đến bãi sông Thuồng Luồng. Thầy giáo Tần sững người nụ cười vụt tắt, vẻ vênh váo cũng tan biến. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía có tiếng kêu. Đó là chị ba Lãnh Đệ, nhưng những nét đặc trung của chị Ba không còn nữa. Giờ đây chị đã nhập vào trạng thái Tiên Chim, mũi khoằm xuống, con người chuyển sang màu vàng, cổ rụt giữa hai vai, tóc biến thành lông mao, hai tay biến thành hai cánh. Chị giương hai cánh, miệng kêu như chim, chạy theo sườn dốc rồi lao xuống vực. Tư Mã Đình giơ tay túm lấy chị nhưng không trúng, chỉ giữ lại được một mẩu vạt áo. Khi chúng tôi chợt tỉnh, thì đã thấy chị bay - tôi thích nói là chị bay, mà không nói là rơi. Đám cỏ dưới vực tung lên một làn bụi nhỏ.
Chị Hai khóc đầu tiên. Tôi không thoải mái khi nghe chị khóc. Tiên Chim ba xuống vực là chuyện bình thường, sao lại khóc? Tiếp theo, chị Cả, con người điên điên khùng khùng, coi trời bằng vung, cũng khóc, thậm chí chị Tám không hề nhìn thấy gì, không hiểu đầu đuôi ra sao, nhưng bằng vào sự mẫn cảm, cũng khóc òa lên. Chị Tám khóc, kèm theo những lời như trong cơn mê sảng, những lời cầu xin cho chị được khóc cho đã. Về sau, chị nói với tôi, chị nghe rõ tiếng rơi rất gọn của chị Ba, còn tôi khi ấy chỉ nhìn thấy những giọt nước mắt tuôn ra như suối của chị. Đám người đang ồn ào, bỗng tất cả ngây ra như phỗng, mặt băng giá, mắt như có màng bao phủ. Chị Hai gọi đám lính dắt la lại, không cần ai giúp, chị ôm cái cổ vừa ngắn vừa thô của con la, trèo lên, dùng gót chân thúc cho nó chạy. Tư Mã Lương chạy theo được hai bước thì một binh sĩ xốc nách nó đặt lên lưng con ngựa của Tư Mã Khố.
Chúng tôi như một đám lính thất trận thất thểu xuống núi. Lúc này, Bác-bit còn đang bận làm gì đó với chị Niệm Đệ dưới đám mây trắng? Trên đường xuống núi, tôi vắt óc tưởng tượng ra cảnh tượng Bác-bit và chị Niệm Đệ dưới cái dù. Tôi mường tượng Bác-bit quì bên chị, tay cầm nhánh cỏ đuôi chó với những túm lông, cà vào vú chị như trước đây tôi đã từng làm. Còn chị thì nằm đuổi thăng, mắt nhắm, miệng rên lên khoan khoái như con chó cái gãi ngứa. Trông kìa, hai chân chị giơ lên, cái đuôi quệt trái quệt phải trên cỏ, chị đã dâng hiến cho thằng cha Bác-bit trời đánh? Vậy mà cách đây không lâu, tôi lấy cọng cỏ chọc chị, chị gần như đánh dập đít tôi. Nghĩ tới đây, trong lòng tôi đầy uất hận, cũng không hoàn toàn là uất hận, mà là một tình cảm ngang trái như những ngọn lửa đốt cháy tim tôi.
- Đồ chó cái! - tôi chửi, đồng thời hai tay xiết chặt như đang bóp cổ chị.
Chị Lai Đệ ngoảnh lại, hỏi:
- Em làm sao thế!
Vì vội xuống núi, đám lính đặt tôi lên sau lưng chị. Tôi ôm chặt hai bầu vú lạnh ngắt của chị, áp mặt vào tấm lưng gầy guộc của chị, miệng lẩm bẩm:
- Bác-bit, Bác-bit, tên giặc Mỹ Bác-bit, hắn đã phủ lên người chị Sáu rồi! Chúng tôi đi một vòng dài lê thê mới đến chỗ thảm cỏ Tư Mã Khố và Bác-bit đã tháo gỡ xong dây nhợ trên người. Cả hai đầu cúi gằm, trước mặt là bãi cỏ xanh mượt và dầy. Chị Ba như khảm trên đám cỏ, nằm ngửa, mình lún trong bùn. Xung quanh chị, bùn bắn tung tóe cùng với những khóm cỏ bật rễ. Dáng dấp của loài chim không còn thấy trên khuôn mặt chị. Mắt mở hé, nét mặt bình thản, phảng phất nụ cười, hai tia mắt hồi quang như xuyên vào ngực tôi. Sắc mặt chị trắng bợt, trán và môi bôi một lớp phấn trắng. Máu rỉ ra từ lỗ mũi, lỗ tai và hai bên mép. Một con kiến càng màu đỏ hốt hoảng chạy trên mặt chị. Đây là nơi những người chăn súc vật rất ít đến, cỏ hoa mặc sức mọc, ong bướm không sợ người, mùi mục rữa vấn vương đây đó. Trước mặt mười mấy thước là vách đá dựng đứng màu nâu, chân lõm vào thành một đầm nước đen kịt. Những giọt nước từ vách đá rơi xuống tí tách.
Chị Hai chồm tới, quì bên chị Ba, gọi:
- Em Ba, em Ba, em Ba!
Chị luồn tay dưới đầu chị Ba định nâng dậy, nhưng cổ chị Ba như biết co giãn vươn dài ra, chẳng khác con thiên nga đã chết. Chị Hai lập tức để đầu chị Ba lại chỗ cũ, kéo tay, nhưng tay chị Ba dàn hồi như cao su Chị Hai khóc rống lên, vừa khóc vừa gào:
- Em Ba ơi, em Ba, em như thế này mà đi hay sao?
Chị Cả không khóc, cũng không gào. Chị quì bên chị Ba, ngẩng nhìn mọi người xung quanh, nhìn mà không nhìn vào đâu. Tôi nghe chị thở dài, thấy chị quài tay sang bên ngắt một bông tú cầu to bằng quả trứng gà, cầm bông hoa lau máu trên mắt, mũi, tai cho chị Ba.
Lau xong, chị đưa bông hoa lên mũi ngửi rồi lại ngửi, tôi trông thấy một nét cười quái đản lẽ ra không nên có trên mặt chị, còn ánh mắt thì chỉ người nào đang chìm đắm trong một tâm thức nào đó mới có ánh mắt như thế. Tôi mơ hồ cảm thấy rằng, qua bông hoa tú cầu đỏ tía, tinh thần siêu phàm thoát tục của chị Ba đã chuyền sang chị Lai Đệ.
Tôi để ý nhất chị Sáu. Chị rẽ đám dông, chậm rãi bước tới bên thi thể chị Ba. Chị không quì cũng không khóc, chỉ im lặng cúi đầu, hai tay vặn bím tóc, mặt hết đỏ lại trắng nhợt, y như chị đã làm điều sai trái gì đó. Nhưng chị đã là một cô gái bước vào thời kỳ sung mãn, tóc đen nhánh, mông vổng lên như buộc khóm hồng mao vào đốt xương cùng. Chị mặc chiếc áo dài bằng lụa trắng của chị Chiêu Đệ cho, chiếc áo mở kích rất cao, lộ ra cặp dùi thon dài. Chị đi chân đất, bắp chân có những vết xước do cỏ lau để lại, vạt sau còn in dấu vết của cỏ non và hoa dại bị đổ nát, xanh có, đỏ có...
Sự suy nghĩ của tôi chợt nhảy sang cái dù đã trùm lên chị và Bác-bit, nhánh cỏ đuôi chó, cái đuôi cỏ đầy lông tơ... Mắt tôi như mắt ruồi trâu, dính vào ngực chị. Hai núm vú như hai hạt anh dào nhô lên sau lần áo. Tôi ứa nước miếng, tôi khao khát được nâng bầu vú lên để ngậm miệng vào đấy. Tôi khao khát được quì trước những bầu vú đẹp đẽ trên đời này, được làm đứa con trung thành của chúng...Chính giữa chỗ nổi cộm trên áo còn lưu một vết ố như nước bọt của chó. Trong lòng tôi cuộn đau, hình dung sống động đến nỗi như phơi bày trước mắt cái cảnh Bác-bit cắn xé bầu vú chị Sáu, cặp mắt xanh biếc của hắn ngước nhìn lên cằm chị, còn chị thì vuốt ve mái tóc bạch kim của hắn. Chính bàn tay đã từng phát vào mông tôi đau điếng, mà tôi chỉ mới chọc khẽ nhánh cỏ vào ngực chị, còn hắn thì đang cắn chị. Nỗi đau không chính đáng khiến tôi tê liệt trước cái chết của chị Ba, cảm thấy rối bời trước tiếng khóc của chị Hai. Tiếng khóc của chị Tám như tiếng của đất trời, khiến người ta nhớ lại vẻ đẹp mê hồn của chị Ba khi còn sống, những hành vi khác người quỉ khóc thần sầu của chị. Bác-bit tiến lên mấy bước, tôi nhìn càng rõ đôi môi của hắn đỏ mọng khiến tôi không ưa chút nào, và khuôn mặt hồng hào, trên má phủ một lớp lông tơ. Những sợi lông mi trắng, cái mũi cao, cái cổ dài đều khiến tôi không thích. Hắn ngả hai tay làm như định cho chúng tôi thứ gì đó nói:
- Rất tiếc rất tiếc, đây là điều tôi không thể ngờ!...
Hắn nói một tràng tiếng Tây mà chúng tôi không thể hiểu, rồi lại nói mấy câu tiếng Trung Quốc:
- Đây là chứng hoang tưởng, cô ta tưởng mình là chim nhưng cô ta không phải là chim!...
Những người đứng bên bắt đầu bàn tán. Tôi đoán họ chỉ xoay quanh mối quan hệ giữa Tiên Chim và Hàn Chim, có lẽ còn bàn đôi câu về Tôn Bất Ngôn hoặc đề cập đến hai đứa con trai. Tôi không thích nghe từng câu, mà cũng không sao nghe được từng câu, tai tôi có tiếng vo ve, mấy con ong đất đang bay, chúng có tổ cực lớn trên vách đá, phía dưới tổ có một con sơn miêu ngồi chồm hổm, trước mặt nó là con chuột chũi hai chân trước phát triển quá cỡ, béo mập, hai mắt ti hí rất gần nhau. Quách Phúc là ông thầy cúng của thôn, biết lên đồng, biết trừ tà, hai mắt ti hí gần sát nhau, có biệt hiệu là Chuột Chũi. Ông ta bước ra khỏi đám đông, nói:
- Thưa ông trẻ, người thì đã chết rồi, có khóc cũng không sống lại được! Trời nóng nực nên khênh về ngay để nhập liệm, chôn cất cô ấy mồ yên mả đẹp.
Không hiểu dây mơ rễ má ra sao mà ông ta gọi Tư Mã Khố bằng ông trẻ? Tôi không rõ, và cũng không ai biết vì sao ông ta gọi Tư Mã Khố bằng ông trẻ? Tư Mã Khố gật đầu, xoa xoa tay, nói:
- Mẹ kiếp, mất cả hứng!
Chuột Chũi đứng phía sau chị Hai, đảo cặp mắt ti hí, giọng làm ra vẻ rầu rĩ:
- Bà trẻ, người chết thì đã chết, còn phải nghĩ đến người sống. Bà trẻ đang bụng mang dạ chửa, khóc lóc quá, ốm ra đấy thì nguy. Với lại bà dì đâu phải người thường! Dứt khoát bà không phải người thường, bà vốn là Tiên của các loài chim, vì ăn bàn đào của Tây vương mẫu bị đày xuống trần, giờ đây niên hạn đã hết, bà lại trở về cõi tiên. Mọi người thử nghĩ coi, ai cũng thấy bà rơi xuống vục nhẹ nhàng như không, yên ngủ cùng trời đất, người trần mắt thịt làm sao ung dung thanh thản như thế!
Chuột Chũi nói những chuyện trên trời dưới đất, vực chị Hai đứng dậy.
Chị Hai núc nở:
- Em Ba, em chết thảm quá!
- Thôi, thôi - Tư Mã Khố sốt ruột xua tay về phía chị Hai - Đừng khóc nữa. Người như cô ấy, sống chịu tội sống, chết thành Tiên.
Chị Hai nói:
- Tại anh cả, bày ra cái thí nghiệm người bay.
Tư Mã Khố nói:
- Tôi chẳng đã bay rồi đấy sao? Chuyện tày trời này, phụ nữ các người không hiểu được! Tham mưu Mã, khiêng cô ấy về, mua quan tài khâm liệm cho cô ấy. Phó quan Lưu, cuộn dù đem lên núi, ta và cố vấn Bác-bit phải bay lần nữa.
Chuột Chũi xốc chị Hai dậy, oai vệ bảo mọi người:
- Tất cả giúp một tay!
Chị Cả vẫn quì mà ngửi bông hoa dính máu chị Ba. Chuột Chũi nói:
-Thưa bà Cả, bà đừng nên đau xót quá, bà Ba trở về cõi Tiên, ta phải vui mới phải.
Chuột Chũi chưa nói hết câu, chị Cả đã ngẩng lên mỉm cười bí hiểm nhìn ông ta. Ông ta lúng búng trong miệng không dám nói tiếp, vội vã lẫn vào đám dông. Chị Cả giơ cao bông tú cầu vừa cười vừa đứng lên, bước qua thi thể Tiên Chim, đăm đăm nhìn Bác-bit, cặp mông uốn éo sau lần áo dài đen, thái độ nôn nóng chẳng khác người ta mót đi tiểu. Chị tiến lên, vứt bông tú cầm trong tay, ôm choàng lấy cổ Bác-bit, ép sát vào người hắn, miệng lảm nhảm như nói mê sảng:
- Chết rồi?... đau xót quá!
Bác-bit gỡ mãi mới thoát khỏi vòng tay chị, mặt đầy mồ hôi, tiếng tây xen lẫn tiếng địa phương:
- Không... không nên... người mà tôi yêu không phải cô!...
Chị Cả mắt đỏ như mắt chó điên, miệng lảm nhảm những lời dâm đãng, chồm tới định ôm Bác-bit. Hắn né, né mãi rồi nấp sau lưng chị Sáu. Chị Sáu trở thành cái bình phong mà chị không muốn. Chị Sáu cứ xoay tròn chẳng khác con cún định rũ bỏ cái lục lạc mà lũ trẻ tinh nghịch buộc vào đuôi nó, chạy quanh đến nỗi mắt tôi nảy đom đóm, chỉ thấy những cái mông vổng lên, những bộ ngực ưỡn ra, những cái gáy trắng mịn, những bộ mặt đầy mồ hôi, những cẳng chân vụng về. Tôi đầu váng mắt hoa, tâm trí rối bời. Tiếng quát tháo của chị Cả, tiếng kêu của chị Sáu, tiếng thở của Bác-bit, những cặp mắt ngây dại của đám đông. Thái độ cười cợt của bọn lính, những cái miệng há ra, những cái cằm rung rung. Đàn dê thủng thẳng đi về nhà, đi đầu là con dê của tôi với bầu sữa lặc lè. Đàn ngựa, đàn la bóng mượt. Những con chim kêu thất thanh lượn vòng trên đầu chúng tôi, chắc chắn có trứng hoặc chim non trong đám cỏ. Cỏ mục. Những bông hoa dại bị xéo gãy cổ. Cuối cùng, chị Hai túm được áo chị Cả. Chị Cả cố giằng ra, hai tay vươn về phía Bác-bit, miệng tuôn ra những câu còn hạ lưu hơn. Chiếc áo dài đen bị rách toạc, lộ ra mảng vai và lưng. Chị Hai vọt tới trước mặt, đánh chị Cả một bạt tai. Chị Cả không giằng ra nữa, nước bọt sùi hai bên mép, mắt đờ đẫn. Chị Hai tát liên hồi, ngày càng mạnh. Chị Cả đổ máu mũi, đầu gục xuống như bông hướng dương, ngã sóng soài trên cỏ.
Chị Hai mệt mỏi ngồi thở trên bãi cỏ rất lâu. Tiếng thở chuyển thành tiếng khóc, hai tay vỗ đầu gối như đánh nhịp cho tiếng khóe của chị.
Tư Mã Khố không giấu được niềm vui trên khuôn mặt. Mắt anh ta nhìn như đóng đinh vào mảng lưng để lộ của chị Cả, thở dồn dập, hai tay cà vào quần làm như tay bị dính chất keo rửa không sạch.

3
Lúc chạng vạng tối, tiệc rượu được cử hành sau hôn lễ, trong nhà thờ. Hơn chục bóng đèn treo dưới xà nhà, gian đại sảnh sáng như ban ngày.
Trong khu vườn nhỏ của mặt trước giáo đường, máy nổ đang chạy xình xịch, dòng điện bí ẩn phát ra từ cỗ máy chảy qua dây điện tới bóng đèn, phát ra ánh sáng dụ dỗ bọn thiêu thân. Những con thiêu thân chạm phải bóng đèn là bị chết cháy, rơi xuống đầu các sĩ quan của Chi đội Tư Mã và các nhân sĩ hương nhân của thị trấn. Tư Mã Khố mặc quân phục, mặt bóng loáng, từ ghế chủ tọa đứng dậy, đăng hắng mấy tiếng, nói to:
- Thưa anh em, thưa các vị hương thân. Hôm nay tổ chức bữa tiệc rượu này mừng lễ thành hôn của ông bạn tôn quí Bác-bit kết duyên cùng cô em Niệm Đệ của tôi. Đây là niềm vui lớn, đề nghị mọi người vỗ tay hoan nghênh.
Đám đông nhiệt liệt vỗ tay. Ngồi bên cạnh Tư Mã Khố là anh chàng thanh niên Mỹ Bác-bit mặc lễ phục trắng, túi ngực cài hoa đỏ, mặt tươi cười. Tóc hắn được thoa một lớp đầu lạc, bóng lộn như có con chó vừa thè lưỡi liếm vào đấy. Bên cạnh Bác-bit là chị Niệm Đệ. Chị mặc bộ váy màu trắng, hở cổ để lộ quá nửa cặp vú. Nước bọt tứa ra trong miệng tôi. Nhưng tôi phát hiện môi chị Tám khô như vỏ củ hành. Lúc ban ngày, lúc cử hành hôn lễ, tôi và Tư Mã Lương nâng gấu váy sau của chị Niệm Đệ như nâng cái đuôi của con gà rừng. Trên đầu chị cài hai bông nguyệt quế, mặt thoa phấn. Phấn son cũng không giấu được vẻ đắc ý và niềm vui trên mặt chị. Chị chẳng ra sao cả, Tiên Chim chết chưa nguội thây, chị đã cưới ngay người Mỹ.
Tôi rất buồn, mặc dù Bác-bit tặng tôi con dao nhọn có chuôi nhựa, nhưng tôi buồn. Đèn điện là đồ tồi, ánh sáng xuyên qua váy, nhìn rõ hai núm vú hồng hồng của chị, trở thành mục tiêu của mọi người. Tôi biết, cánh đàn ông đều nhìn vào đấy, vậy mà chúng không biết, cứ rung rinh hoài. Tôi muốn chửi, nhưng chửi ai bậy giờ? Chửi thằng khốn Bác-bit? Đêm nay chúng sẽ bị thằng khốn chiếm làm của riêng. Bàn tay nhơm nhớp mồ hôi của tôi mân mê con dao nhọn trong túi. Giả dụ tôi xông lên rạch phăng váy, cắt lấy hai bầu vú thì sự thể sẽ ra sao nhỉ? Tư Mã Khố còn mải diễn thuyết nữa không? Bác-bit còn tỏ ra xúc động nữa không? Chị Niệm Đệ còn cảm thấy hạnh phúc nữa không? Tôi sẽ giấu hai bầu vú đi, nhưng giấu ở đâu? Không ổn, lũ chuột sẽ ăn mất. Giấu ở hốc tường, lũ chuột sẽ tha đi, giấu trên chạc cây, lũ cú vọ sẽ mổ mất...
Có người khẽ chọc vào sườn tôi. Đó là Tư Mã Lương. Hắn mặc lễ phục màu trắng, tay nâng bó hoa dại rất to, tặng chị Niệm Đệ. Hắn ăn mặc y hệt tôi. Hắn bảo:
- Cậu ngồi xuống đi, chỉ mỗi cậu là đứng!
Tôi nặng nề ngồi xuống ghế băng, nhớ lại mình đứng dậy từ lúc nào và vì sao mà đứng dậy. Sa Tảo Hoa cũng mặc rất đẹp. Nó tặng chị Niệm Đệ một bó hoa dại rất to. Nhân lúc mọi người đang lắng nghe Tư Mã Khố diễn thuyết, lúc mọi người đang chú mục vào ngực chị Niệm Đệ, lúc mọi người đang ngửi mùi rượu thịt, Sa Tảo Hoa liền giơ tay nhón lấy một miếng thịt rồi giả vờ lau nước mũi, nó đút vội miếng thịt vào miệng.
Tư Mã Khố tiếp tục diễn thuyết. Anh ta nâng cốc rượu, thứ rượu vang mua tận Đại Trạch đem về, màu hồng lên trong cốc pha lê, nâng hồi lâu mà không cảm thấy mỏi. Anh ta nói:
- Ông Bác-bit là từ trên trời rơi xuống, trời rơi xuống một ông Bác-bit? Về thuật phi hành của ông, các vị đều đã được mục kích. Ông làm cho đèn phát sáng, như trên đầu chúng ta đây...
Anh ta chỉ các bóng đèn điện trên xà nhà, đám đông tạm thời rời mắt khỏi cặp vú tròn trặn đầy ma lực của chị Niệm Đệ, nhìn bóng điện sáng chói:
- Đây là diện, lấy cắp từ chỗ ông Thiên Lôi. Chi đội du kích của chúng tôi từ khi có Bác-bit, có thể nói thuận buồm xuôi gió. Bác-bit có phúc tướng, nhiều tài nghệ tuyệt vời, lát nữa ông sẽ mở rộng tầm mắt cho các vị...
Anh ta quay lại chỉ lên cái bục, xưa kia là bục giảng của mục sư Malôa, sau đó là bục giảng của cô Đường những khi lên lớp cho các nữ du kích chống Nhật, phía sau cái bục là bức tường có căng một tấm phông bằng vải trắng. Chúng tôi cảm thấy lóa mắt, không dám nhìn lâu.
- Với vị thiên tài này, chúng tôi quyết không nhả. Sau khi kháng chiến thắng lợi, chúng tôi hết sức nhiệt tình giữ Bác-bit ở lại, đây cũng là lý do vì sao tôi chủ trương gả cô em vợ đẹp hơn Tiên cho Bác-bit. Giờ đây, tôi đề nghị, để chúc mừng hạnh phúc của ông Bác-bit và cô Niệm Đệ, mọi người hãy cạn chén!...
Mọi người ào ào đứng dậy chạm cốc, ngửa cổ uống cạn.
Niệm Đệ giơ bàn tay đeo nhẫn cầm cốc rượu lên, chạm cốc với Bác-bit, rồi với Tư Mã Khố, với Chiêu Đệ. Chiêu Đệ vừa sinh con, chưa lại người, mặt nhợt nhạt, hai bên má nổi quầng đỏ. Tư Mã Khố nói:
- Cô đâu chú rể phải uống cho ra trò, đề nghị giao bôi!
Rồi hướng dẫn Bác-bit và Niệm Đệ ngoắc tay nhau mà uống hết chén rượu. Mọi người vỗ tay vui vẻ. Tiếp đó là cười nói ầm ĩ, những đôi đũa múa may, những cái miệng nhai ngấu nghiến, những giọng lè nhè, mỡ bóng nhẫy trên môi trên má. Bàn chúng tôi có tôi, Tư Mã Lương, Sa Tảo Hoa, chị Tám và mấy tiểu yêu không rõ từ đâu tới. Ngoại trừ tôi, tất cả đều ăn. Tôi không ăn, chỉ quan sát. Sa Tảo Hoa là người đầu tiên bỏ đũa, tay trái vớ lấy cái đùi gà, tay phải nhón luôn cái móng lợn, ngoạm một miếng đùi gà lại một miếng móng lợn. Tôi phát hiện ra rằng, để tập trung tinh lực, lúc nhai chúng nhắm mắt lại như chị Tám. Chị Tám hai má đỏ hây, môi mọng, còn đẹp hơn cô đâu. Nhưng tôi thấy buồn khi thấy lũ trẻ tranh nhau ăn thịt, tức là ăn xác động vật.
Chị Sáu lấy Bác-bit, mẹ không tán thành. Chị Sáu nói:
- Mẹ, mẹ đánh chết bà nội, con giữ bí mật cho mẹ chuyện ấy đấy nhé!
Mẹ lập tức nhũn như con chi chi, không nói gì nữa. Thái độ im lặng khiến mẹ như tàu lá héo, mẹ không hỏi gì đến chuyện hôn nhân của chị Sáu, khiến chị phấp phỏng mất mấy hôm.
Lúc này tiệc rượu chuyển sang trạng thái tự nhiên, không còn chuyện bắt mối làm quen giữa bàn nọ với bàn kia, mà bàn nào biết bàn ấy, mỗi bàn là một trung tâm, rượu chảy như suối, thức ăn hết món nọ tiếp món kia, những người phục vụ mặc áo trắng chạy gằn từ bàn này sang bàn khác, cao giọng xướng tên món ăn: Đầu sư tử xào đây, chim câu rán đây, gà tần đây...
Mâm chúng tôi toàn những kiện tướng ăn bốc.
- Chân giò đây!
Một đĩa thịt giò vừa đặt xuống bàn, những bàn tay đẫy mỡ nhất tề vươn tới. Bỏng thì thổi phù phù như rắn hổ mang, nhưng không ai chịu bỏ cuộc, lại nhón tiếp. Miếng thịt rơi ra bàn, lập tức có người nhặt lên bỏ vào miệng nuốt đánh ực không chậm trễ, ứa cả nước mắt. Trong khoảnh khắc, da hết đằng da, thịt hết đằng thịt, trên đĩa chỉ còn lại vài cái xương. Cũng lại giành nhau xương để gặm sụn. Người không giành được thì ngẩn ngơ mút ngón tay. Bụng chúng căng như quả bóng, hai chân lẻo khoẻo buông thõng dưới ghế một cách thảm hại. Chúng ợ hơi, bụng lục ục như mèo gừ. Món cá quế đây, một người phục vụ bụng to chân ngắn, mặc áo đuôi tôm trắng bong, bê chiếc mâm gỗ, trên mâm là một đĩa sứ, trong đĩa sứ là một con cá lớn rán vàng. Hàng chục người phục vụ cao bằng nhau, cùng mặt áo đuôi tôm, cùng bê mâm gỗ, cùng những đĩa sứ, cùng những con cá to rán vàng, trông chẳng khác một dãy cột điện. Người phục vụ đặt đĩa cá lên bàn của chúng tôi, nháy mắt với tôi. Tôi cảm thấy người này hơi quen. Cái miệng méo, một mắt nhắm một mắt mở, mũi đầy những nếp nhăn. Cái kiểu nháy mắt này mình đã thấy ở đâu nhỉ? Phải chăng trong tiệc cưới của Lỗ Lập Nhân và Phán Đệ ở đại đội bộc phá.
Con cá quế trong đĩa với những nhát khía đầy mình, rưới đầy nước sốt màu da cam, con mắt mờ đục ẩn dưới đám lá hành xanh mơn mởn, cái đuôi hình tam giác thò ra ngoài đĩa một cách thảm hại như đang run rẩy. Những ngón tay nhờn mỡ lại thò ra. Tôi không đành lòng nhìn cảnh xâu xé con cá quế, quay mặt đi.
Bác-bit và chị Niệm Đệ từ bàn chủ tọa đứng dậy, trong tay mỗi người là một cái ly chân cao đầy rượu vang đỏ, tay không cầm ly thì khoác vào nhau. Họ trông thật trang nhã, dịu dàng tiến lại bàn chúng tôi. Những ánh mắt đều dán vào con cá quế, khổ thân con cá, nó đã bị xâu xé hết một bên, lộ ra những xương dăm màu xanh nhạt. Nửa còn lại của con cá bị xâu xé chỉ trong chớp mắt. Trước mặt mỗi đứa là một mảng thịt của con cá, chẳng ra hình thù gì, bốc hơi nghi ngút. Bọn trẻ tham lam như những con cá nhỏ, lùa hết vào miệng rồi mới bắt đầu nhai. Trên đĩa chỉ còn lại cái đầu cá to sụ, một cái đuôi thanh tú, mỏng tanh, khoảng giữa là bộ xương vẫn dính liền các đốt. Chiếc khăn bàn trắng tinh đầy vết bẩn, chỉ có góc của tôi là còn sạch, một cốc rượu vang vẫn đặt ngay ngắn ở chính giữa.
- Các bạn nhỏ thân mến - Bác-bit chìa cốc rượu đến trước mặt tôi, thái độ thân mật - Cùng cạn chén nào!
Vợ anh ta cũng chìa cốc rượu đến trước mặt tôi, bàn tay chị ngón cong ngón thẳng như một đóa hoa lan, chiếc nhẫn vàng lấp lánh trên đóa hoa đó. Phần vú lộ ra có màu men sứ. Tim tôi đập thình thịch.
Bọn trẻ ngồi cùng bàn với tôi miệng nhét đầy cá, rối rít đứng lên. Má, mũi, thậm chí trên trán nhoe nhoét mỡ. Tư Mã Lương ngồi bên tôi vội vàng nuốt chủng miếng cá, kéo góc khăn bàn lên lau miệng. Hai bàn tay tôi trắng và thon, bộ lễ phục của tôi không một vết bẩn, mái tóc tôi vàng rực. Dạ dày tôi chưa bao giờ tiêu hóa xác chết, răng tôi chưa bao giờ nhai rau cỏ. Những ngón tay nhờn mỡ lóng ngóng câm cốc rượu chạm vào cốc rượu của Bác-bit. Chỉ có tôi đứng bên bàn mê mẩn nhìn cặp vú của chị Niêm Đệ. Hai tay tôi bám chặt mép bàn, cố gắng kìm chế để từ bỏ ý nghĩ - sờ vú chị.
Bác-bit ngạc nhiên nhìn tôi:
- Sao cậu không ăn không uống gì cả?
Chị Niệm Đệ tạm thời không làm bộ làm tịch, trở về với thái độ chị Sáu hàng ngày. Chị đưa bàn tay rảnh rỗi xoa gáy tôi, nói với anh chồng mới toanh:
- Em trai của em một nửa là thần tiên, nó không ăn mặn!
Mùi nước hoa sực nức trên người chị Sáu khiến tôi tâm thần rối loạn, tay tôi đã phản lại ý chí của tôi. Tôi chộp vào ngực chị. Cái áo lụa của chị sao mà trơn thế!
Chị Sáu kinh hoảng kêu lên, hắt ly rượu vào mặt tôi. Chị Sáu mặt đỏ như gấc. Chị vuốt lại chỗ áo bị tôi làm nhàu, khẽ mắng:
- Đồ khốn!
Rượu vang chảy trên mặt tôi, trước mắt tôi là một màu hồng trong suốt. Cặp vú chị Sáu như hai quả khí cầu màu hồng ngay trước mắt tôi, chính xác hơn là hiện ra trong óc tôi.
Tôi né tránh bàn tay hộ pháp của Bác-bit, căm hờn nhìn khuôn mặt vừa hài hước vừa xấu xa của hắn. Nỗi đau khổ trong lòng tôi không thể nói bằng lời. Cặp vú của chị Sáu, trắng mịn, được chế tác bằng ngọc thạch, bảo bối bậc nhất của thế gian, đêm nay sẽ rơi vào tay tên quỉ Mỹ, mặc cho hắn sờ nắn, mặc cho hắn vầy vò. Bầu vú của chị Sáu, trắng như cục bột, chứa đầy mật ngọt, đi khắp chân trời góc biển không tìm đâu ra của quí như thế, đêm nay sẽ rơi vào miệng tên quỉ Mỹ, mặc cho hắn ngậm, mặc cho hắn mút, hắn sẽ ti cạn sữa, bầu vú chị chỉ còn là cái túi da lép kẹp. Hơn nữa, điều mà tôi không thể nén giận được, là chị Sáu lại rất tự nguyện. Này, chị Niệm Đệ, tôi lấy cọng cỏ chọc chị một cái, chị đét tôi hai cái; tôi sờ vú chị một cái, chị hắt rượu đầy mặt tôi! Vậy mà Bác-bit sờ chị, cắn chị thì chị lại tiếp nhận một cách vui vẻ! Vậy còn gì là công bằng trên đời này! Các vị là đồ bần tiện, sao không hiểu nỗi khổ tâm của tôi? Trên đời này, không ai hiểu bầu vú, yêu bầu vú, biết bảo vệ bầu vú như tôi! Vậy mà các người coi nó như một thứ giẻ rách. Tôi khóc vì tủi thân.
Bác-bit nhún vai, làm xấu trên mặt một cái, khoác tay chị Niệm Đệ sang bàn khác. Người phục vụ bê đến một tô canh nổi lềnh bềnh trứng rán thái chỉ, còn có thứ gì đó mảnh như sợi tóc. Bọn trẻ cùng mâm học tập bàn bên, dùng thìa múc canh. Chúng ra sức múc phần đặc, làm canh bắn tung tóe. Chúng đưa thìa canh lên miệng, vừa thổi vừa húp từng tí một. Tư Mã Lương huých tôi một cái, bảo:
- Cậu ăn một chút đi, ngon lắm, không kém gì sữa dê!
- Không - tôi nói - tao không ăn!
- Vậy cậu ngồi xuống đi, họ đang nhìn cậu đấy! Nó lại nói.
Tôi nhìn ra xung quanh như khiêu khích, chẳng có ai nhìn tôi, Tư Mã Lương thông báo sai. Tôi trông thấy giữa các bàn đều có hơi nước bốc lên, đến gần bóng đèn thì biến thành sương mù và tan đi, bóng người mờ ảo, mùi rượu khiến tôi choáng váng. Vợ chồng Bác-bit đã trở về bàn chủ tọa. Tôi trông thấy chị Niệm Đệ ghé sát tai chị Chiêu Đệ nói gì đó. Nói gì nhỉ? Liệu có liên quan đến tôi không? Chiêu Đệ gật đầu, Niệm Đệ không ghé sát Chiêu Đệ nữa, trở lại trạng thái nghiêm trang như cũ. Chị múc một thìa canh đưa lên miệng nếm thử, rồi khoan khoái húp tiếp. Niệm Đệ mới kết bạn với Bác-bit chưa đầy một tháng mà đã như một người khác, ra vẻ dài các. Cách đây một tháng, chị còn húp cháo oàm oạp, vậy mà thay đổi nhanh thế!
Tôi nghĩ mãi mà chưa có câu trả lời. Người phục vụ đem món ăn chính đến, có sủi cảo có mì sợi loằng ngoằng như con giun đã làm tan biến cái thú ẩm thực của tôi, còn có bánh mì trắng điểm những chấm xanh đỏ. Tôi đã ngán khi phải miêu tả mọi người ăn uống ra sao, cảm thấy buồn buồn, bụng đói. Chắc là mẹ sốt ruột lắm, lại còn con dê của tôi nữa. Hỏi vì sao tôi không bỏ về, tôi định về thì không ai ngăn được, vì chỗ tôi ngồi rất gần cổng chính của nhà thờ. Nhưng vì Tư Mã Khố đã tuyên bố, tiệc xong, Bác-bit sẽ giới thiệu để mọi người biết thế nào là văn minh vật chất và văn hóa của phương Tây. Tôi biết anh ta định chiếu phim, nghe nói là những hình người biết nói, biết cử động. Đó là lời chị Hai khi mời mẹ đến dự tiệc cưới. Mẹ lại nói rằng, cách đây hai mươi năm, mẹ đã từng xem người Đức đem nó đến chiếu để quảng cáo cho phân hóa học, một loại bột trắng dựng trong bao tải xác rắn, nghe nói bón ruộng có thể tăng sản lượng lương thực nhưng không ai tin. Mùa màng là phải nhờ vào phân chuồng. Người Đức cho không phân hóa học, nhân dân đem nó đổ xuống hồ ao. Mùa hè năm ấy, sen trong hồ mọc như điên, vừa mập vừa dày đặc, nhưng hoa thì lại không có, hoặc rất ít. Rất may là dân chúng không bị lừa, người Đức đến đây định hại ta, phân hóa học chẳng qua chỉ là thứ thuốc độc, chỉ tốt lá, không ra hoa, tất nhiên làm gì có hạt.
Tiệc cưới rồi cũng kết thúc. Những người phục vụ khênh những cái sọt tới, nhặt nhạnh ào ào bát đũa mâm chén cho vào sọt. Bưng đổ đi là những mảnh vỡ. Hơn chục binh sĩ nhanh nhẹn cũng phụ giúp cuộn tròn các khăn bàn rồi đem đi. Những người phục vụ trải khăn bàn mới, bày lên rượu vang và dưa hấu, dưa chuột, lê. Lại có cà phê Braxin thơm một mùi thơm kỳ lạ mà màu sắc thì như nước nâu, hết hồ nọ đến bình kia, đếm không xuể; hết cốc nọ đến cốc kia, tính không hết. Khách khứa đã ăn no, lại ngồi xuống, dẩu môi ra mà nếm, mà thử, do dự một thoáng, rồi uống cà phê như uống thuốc bắc, nhíu mày nhăn mặt, từng người từng người, từng cốc từng cốc. Các binh sĩ khiêng đến một chiếc bàn, trên đặt cỗ máy phủ vuông vải đỏ.
Tư Mã Khố vỗ tay nói:
- Buổi chiếu phim sắp bắt đầu, anh em, hãy hoan nghênh ông Bác-bit cho chúng ta xem một môn tuyệt kỹ.
Bác-bit đứng dậy trong tiếng vỗ tay, cúi chào cử tọa rồi bước đến bên chiếc bàn kéo vuông vải ra: một cỗ máy kỳ lạ, gớm ghiếc lồ lộ trước mặt mọi người. Những ngón tay của Bác-bit thoăn thoắt trên những bánh răng lớn, bánh răng con. Bụng cỗ máy phát ra những tiếng rào rào, một luồng ánh sáng sắc như dao đột nhiên rọi thẳng lên mặt tường phía tây của nhà thờ. Mọi người vỗ tay rào rào, tiếp theo là tiếng dịch ghế ầm ầm. luồng ánh sáng trắng ấy như gắn chặt trên khuôn mặt Chúa Giêsu tạc bằng gỗ táo, khiến bức tượng thiêng liêng không còn rõ mặt mũi, chỗ hốc mắt mọc cây cỏ linh chi nhỏ xíu. Bác-bit là tín đồ trung thành đạo Cơ đốc, đòi bằng được làm lễ cưới ở nhà thờ. Ban ngày, cỏ linh chi mọc trên hốc mắt Chúa chúng kiến cuộc nhân duyên giữa Bác-bit và Niệm Đệ, ban đêm dùng linh quang của dòng điện soi mắt Chúa, khiến cỏ linh chi bốc khói trắng. Luồng ánh sáng đi chuyển xuống dưới, từ mặt xuống ngực, từ ngực xuống bụng, từ bụng xuống chỗ kín mà người Trung Quốc tạc thành một cái lá sen, cho xuống đến các đầu ngón chân. Cuối cùng, luồng sáng rọi vào chiếc phông trắng hình chữ nhật có viền đen, chui vào trong viền, dán ra một chút rồi đứng yên. Lúc này, tôi nghe tiếng máy chạy như tiếng giọt gianh khi trời mưa. Tắt đèn! Bác-bit nói to.
Một tiếng tách, các bóng đèn tắt phụt, chúng tôi đột nhiên chìm trong bóng tối, nhưng luồng sáng phát ra từ cỗ máy của Bác-bit càng sáng hơn, càng trắng hơn. Từng đám côn trùng bay trong luồng sáng đó. Một con thiêu thân bay chập choạng, trên màn ảnh, hình ảnh của nó lập tức được phóng to lên nhiều lần. Thấy đám đông hoan hô, tôi cũng buột miệng hùa theo. Đúng là tôi được xem diện ảnh rồi. Lúc này, một cái đầu nhô lên trong cột ánh sáng, đó là đầu của Tư Mã Khố. Hai vành tai anh ta trông rõ từng tia máu. Anh ta quay mặt về phía nguồn sáng nên mặt như bẹt lại, trắng nhợt như tờ giây nến. Trên màn ảnh hiện lên cái đầu mỏng dính của anh ta. Lại một trận vỗ tay, tôi cũng vỗ theo.
- Ngồi xuống, ngồi xuống! Bác-bit bực bội quát. Lúc đó, một bàn tay ló ra trong luồng sáng, cái đầu Tư Mã Khố chìm xuống. Trên tường có những tiếng lụp búp, màn ảnh nhấp nhoáng những chấm đen như là đang nổ súng. Âm nhạc vọt ra từ hai cái hộp hai bên màn ảnh, hơi giống tiếng nhị, tiếng sáo; không phải, âm thanh này bèn bẹt, dài lê thê, chẳng khác những sợi miến tòi ra từ khung vắt miến sợi.
Từng hàng chữ, to có, nhỏ có, chạy trên màn ảnh từ trên xuống dưới. Chúng tôi vỗ tay. Người ta có câu: Nước chảy về chỗ thấp. Nhưng những chữ Tây này thì ngược lại từ thấp chảy lên cao, chúng chảy ra ngoài màn hình, lên tường rồi mất hút trong bóng tối. Ngày mai, nếu phá bức trong của nhà thờ, liệu có thể moi được những chữ ấy ra không nhỉ? Tôi đang nghĩ vớ vẩn như vậy thì trên màn ảnh xuất hiện một dòng sông nước chảy ào ào, bờ sông có cây, trên cây có chim, những con chim đang nhảy nhót, kêu chiêm chiếp. Tôi há hốc miệng, ngây như phỗng quên cả vỗ tay. Sau đó xuất hiện một người đeo súng, áo mở phanh để lộ bộ ngực vạm vỡ mọc đầy lông.
Anh ta ngậm điếu thuốc ở miệng, điếu thuốc đang tỏa khói, tất nhiên mũi anh ta phà khói thuốc ra, trời ạ, kỳ lạ thật! Một con gấu chó từ trong rừng chui ra, chạy tới vồ anh ta. Trong nhà thờ vang lên tiếng kêu thét của phụ nữ và tiếng lên cò súng rôm rốp. Một người xuất hiện trong cột ánh sáng, lại là Tư Mã Khố. Anh ta rút súng bắn con gấu chó. Nó rách nát phía trên lưng người trên màn ảnh.
- Ngồi xuống, ngồi xuống! Đồ ngu, đây là phim? Bác-bit thét to.
Sau khi Tư Mã Khố ngồi xuống, con gấu chó đã chết trên màn ảnh, máu chảy đỏ lòm trên ngực, người đi săn ngồi bên cạnh con gấu, đang nạp đạn vào súng.
- Mẹ kiếp, bắn giỏi thật! - Tư Mã Khố kêu to.
Người đi săn trên màn ảnh ngẩng đầu lên, nói một câu gì đó mà tôi nghe không hiểu, rồi anh ta cười một tiếng tỏ vẻ khinh miệt. Anh ta hất súng lên vai, đút ngón tay vào miệng huýt lên một tiếng chói tai, tiếng huýt đội lại từ các bức tường nhà thờ. Một cỗ xe ngựa men theo con đường đất dọc bờ sông chạy tới, người đánh xe rất ngổ ngáo nhưng hơi đần. Cái tay vịn trông quen quá, hình như đã trông thấy ở đâu. Một người đàn bà đứng trên thùng xe, tóc dài bay bay nhưng không rõ màu tóc, khuôn mặt rộng, lưỡng quyền cao, cặp mắt tuyệt đẹp, lông mi cong cong và cứng như râu mèo, miệng rất rộng, môi mọng. Tôi có cảm tưởng người đàn bà này rất phóng đãng. Hai bầu vú nhảy tưng tung như hai con thỏ bị tóm đuôi. Chị ta phóng thẳng xe về phía tôi. Tôi bàng hoàng, môi tê tê, hai bàn tay đầy mồ hôi. Tôi đứng vụt dậy, nhưng lập tức có một bàn tay ấn đầu tôi xuống buộc tôi ngồi xuống ghế. Ngoảnh nhìn lại, đó là một người lạ, miệng mở to. Sau lưng anh ta chật ních những người là người, bịt kín cả cổng chính. Có vài người gần như đánh đu trên khung cửa. Ngoài đường tiếng người ồn ào, có rất nhiều người đang lách vào trong.
Người phụ nữ dùng xe, bám dóng xe nhảy xuống. Chị ta vén váy, để lộ bắp chân tường ngần, gọi to, chắc chắn là gọi người đàn ông kia. Gọi, chạy. Quả nhiên là gọi người đàn ông. Anh ta bỏ mặc con gấu, vứt súng, chạy về phía người phụ nữ. Mặt, mắt, miệng, răng trắng, ngực phập phồng của người phụ nữ. Mặt, lông mày rậm, mắt diều hâu, râu quai nón xanh biếc, vết sẹo bóng loáng cắt đôi lông mày và trán người đàn ông. Lại khuôn mặt người phụ nữ, lại khuôn mặt người đàn ông. Bàn chân đã đá tung giày đi của người phụ nữ. Sau đó, người phụ nữ nhào vào lòng người đàn ông. Vú chị ta bị ép bẹp. Miệng người đàn ông bịt chặt miệng người phu nữ. Rồi, miệng chị ở ngoài, miệng anh ở trong, rồi lại đôi chỗ. Hừ hừ, đó là tiếng rên của người phụ nữ. Lại còn tay của chị ta, ôm cổ ôm eo thì không nói làm gì, lại còn sờ soạng lẫn nhau, cuối cùng, hai người lăn lông lốc trên thảm cỏ xanh, lúc thì nam ở trên, lúc thì nữ ở trên, cứ thế mà lăn, được một dặm thì không lăn nữa. Bàn tay lông lá của người đàn ông thọc vào ngực áo của người đàn bà, chụp lấy một bên vú. Tôi thấy trong lòng đau nhói, những giọt nước cay xè ứa ra khỏi mắt tôi. Một tia sáng trắng, trên màn ảnh không thấy gì nữa. Tách một cái, đèn điện bật sáng, mọi người thở hồng hộc. Trong nhà thờ đầy ắp người, ngay cả trên cái bàn trước mặt tôi, cũng ngồi đầy những trẻ con cởi truồng. Bác-bit đứng bên cỗ máy như một vị thần. Bánh xe vẫn còn chạy, cuối cùng, xạch một tiếng, dùng hẳn. Tư Mã Khố nhảy dựng lên, cười lớn:
- Đ. bà nó, chưa đã, chưa đã, chiếu lại!

4
Tối ngày thứ tư, địa điểm chiếu phim chuyển đến chỗ sân phơi rộng lớn của nhà Tư Mã. Toàn thể sĩ quan, binh lính Chi đội Tư Mã và gia quyến của Tư lệnh đều ngồi ở vị trí danh dự, vị trí vàng. Những nhân vật tai mắt của thị trấn ở vị trí bạc, dân chúng thì đứng ở vị trí đồng hoặc sắt. Phía bên kia của màn ảnh dựng rất cao là đầm sen. Sau đầm sen, những người già yếu hoặc tàn tật đứng ngồi lố nhố. Họ xem phim trên mặt sau của màn hình, xem luôn cả những người xem phim.
Đây là một ngày lịch sử của Cao Mật. Nhớ lại, đó là một ngày không bình thường. Buổi trưa, không khí ngột ngạt, mặt trời đen lại, cá trên sông ngửa bụng lên, chim trên trời rơi thẳng đứng. Chú lính dựng cột chiếu phim bị trúng thử, ôm bụng lăn lộn dưới đất, nôn mật xanh mật vàng, đó là điều không bình thường. Hơn chục con rắn cạp nia rồng rắn kéo qua phố, đó là điều không bình thường. Những con giang trong đầm bay lên đậu trên cây đầu thôn, hết đàn nọ đến đàn kia, gãy cả cành, những đôi cánh vỗ, những cái cổ như cổ rắn, những cặp chân dài thẳng đuỗn, đó là điều không bình thường. Người khỏe nhất trong thôn là Trung Đại Đởm bê mười mấy cái trục lúa bằng đá quẳng xuống đầm, đó là điều không bình thường. Khoảng giữa chiều, một toán người lấm lem từ nơi khác tới. Họ ngồi trên đê Thuồng Luồng ăn một thứ bánh mỏng như giấy cùng với củ cải. Hỏi họ đến đây để làm gì, họ nói họ đến xem phim, hỏi họ làm sao biết có chiếu phim, họ nói tiếng lành đồn xa, đó là điều không bình thường! Mẹ phá bỏ thường lệ, kể một chuyện cười về chàng rể ngốc cho chúng tôi nghe, đó là điều không bình thường! Nước sông Thuồng Luồng đỏ như máu, đó là điều không bình thường! Lúc hoàng hôn, muỗi tập trung thành đàn như một đám mây trên sân đập lúa, đó là điều không bình thường. Lúc chạng vạng tối, ráng chiều đỏ như lửa, biến ảo thiên hình vạn trạng, đó là điều không bình thường? Những đóa hoa sen nở muộn trong đầm hiện lên như những linh vật trên trời, đó là điều không bình thường! Sữa của con dê của tôi có mùi tanh, đó là điều không bình thường!
Buổi chiều, ăn sữa xong, tôi cùng Tư Mã Lương chạy như bay đến sân phơi. Phim đã choán hết tâm trí tôi. Chúng tôi chạy ngược nắng chiều, mặt nhuốm đỏ. Những phụ nữ tay xách ghế, tay bế con, những ông già chống gậy, đều là những mục tiêu để chúng tôi vượt. Ông mù Từ Tiên Nhi có giọng hát rè rè vô cùng cảm động, sinh sống bằng nghề hát rong, tay chống cây gậy dài, lệch người mà đi rất nhanh. Bà chủ hiệu dầu ăn, người đàn bà chỉ có một vú, hỏi ông ta:
- Ông mù, đi đâu mà tất bật thế!
Ông mù đáp:
- Tôi mù, chị cũng mù sao?
Ông già Đỗ Bạch Kiểm làm nghề đánh cá, quanh năm mặc áo tơi, tay xách chiếc đôn bện bằng cỏ bồ, nói xen vào:
- Ông mù, ông thì xem phim gì?
Ông mù cả giận, chửi:
- Lão mặt trắng kia, sao dám bảo ta mù, ta nhắm mắt nhìn nhân tình thế thái đấy chứ!
Ông vung gậy quật đánh vút một cái, suýt nện gãy cẳng chân khẳng khiu của ông lão đánh cá. Ông Đỗ định quật lại một đòn, nhưng Phương-Nửa-Mặt - bị gấu liếm mất nửa mặt khi đào sâm ở núi Trường Bạch, can:
- Ông Đỗ, ông đánh nhau với ông mù chẳng hóa ra quên mất mình là ai hay sao? Là hàng xóm, tắt lửa tối đèn có nhau, bỏ qua cho nhau những chuyện vặt ở núi Trường Bạch, chưa nói đến gặp một người cùng làng, ngay cả cùng huyện cũng đã sướng lắm rồi!
Đủ các loại người kéo về sân phơi nhà Tư Mã. Hãy nghe, bên bàn ăn của các gia đình đều nói về sự nghiệp của Tư Mã Khố, trong câu chuyện của các bà các cô đều nói đến chị em nhà Thượng Quan. Chúng tôi phơi phới như cánh én, tinh thần lâng lâng, chỉ muốn phim cứ chiếu mãi.
Phía trước cỗ máy của Bác-bit là chỗ của tôi và Tư Mã Lương. Khi chúng tôi ngồi vào chỗ của mình, ráng chiều đỏ rực vẫn chưa tắt hẳn, gió đêm lành lạnh đem tới mùi tanh. Trước mặt chúng tôi còn một khoảng trống đã được khoanh lại bằng vạch vôi. Anh chàng đánh thuê Lung Hán Quốc, tay cầm cây gậy bằng gỗ ngô đồng, đuổi những người dân tràn vào vạch vôi. Miệng sặc sụa hơi rượu, kẽ răng còn dính thức ăn, mắt giương như mắt bọ ngựa, thẳng tay vụt bay chiếc nơ đỏ trên đầu cô mắt hiếng từng có quan hệ xác thịt với tay phó quan quản trị của Chi đội. Cô mặc chiếc áo lót bằng lụa của viên phó quan tặng, miệng vẫn còn mùi khói thuốc lá của viên phó quan. Cô ta vừa phủi vừa cúi nhặt chiếc nơ, thuận tay bốc một nắm cát ném giữa mặt Lưng Hán Quốc. Hán Quốc quẳng cây gậy, nhổ đất cát trong miệng ra, vừa lấy tay dụi mắt vừa chửi:
- Con hiếng, đồ giẻ rách! Tao thì đ. con gái của mẹ mày! Tao thì đ. em gái của thằng anh mày?
Triệu Giáp làm nghề bán vỏ bếp lò vốn nhanh miệng, nói khẽ:
- Lung Hán Quốc, sao anh cứ quanh co thế! Anh đ. thẳng cô hiếng không được sao?
Triệu Giáp nói chưa dứt lời, một chiếc ghế đẩu bằng gỗ hòe đã quật vào vai anh ta. Triệu Giáp kêu ối một tiếng, quay lại. Người đánh anh ta là thằng Gật, anh trai của cô hiếng. Anh ta mặt mày vàng võ, tóc rẽ giữa, đường ngôi thẳng tắp, bóng như một vết sẹo. Anh ta mặc chiếc áo ngoài màu tàn thuốc, rộng thùng thình. Tóc chải đầu bóng, mắt lươn.
- Anh ta tằng tịu với cô em ruột- Tư Mã Lương khẽ bảo tôi như vậy.
Tù đâu mà Tư Mã Lương biết được điều bí mật ấy?
- Cậu ạ bố cháu bảo ngày mai tử hình viên phó quan quản trị tài vụ - Tư Mã Lương nói khẽ.
- Vậy thằng Gật có bị bắn không? - Tôi hỏi khẽ.
Thằng Gật từng chửi tôi là đồ con lai, tôi thù anh ta. Tư Mã Lương nói:
- Để cháu nói với bố cháu, bắn bỏ cái đồ ấy đi!
- Phải, bắn bỏ cái đồ ấy đi - tôi nói cho hả giận.
Lung Hán Quốc hai mắt ướt nhèm, vung gậy loạn xạ vì không trông thấy gì. Triệu Giáp giằng lấy chiếc ghế đẩu trong tay thằng Gật quẳng ra xa.
- Đ. em gái mày! - Anh ta chửi thẳng.
Thằng Gật giơ những móng tay như vuốt chim ưng chộp lấy cổ họng Triệu Giáp. Triệu Giáp túm lấy tóc thằng Gật. Hai người quần nhau dịch dần ra chỗ trống mà Chi đội Tư Mã để chừa ra, không ai khuyên giải được. Cô hiếng nhảy ra, định xông vào giúp anh trai, nhưng mấy lần đều đấm nhầm vào lưng thằng Gật. Cô hiếng chộp đúng thời cơ, như một con dơi lướt tới sau lưng Triệu Giáp, luồn tay dưới háng túm lấy hạ bộ của anh ta. Quan Lưu Tinh, một tay biết võ, lớn tiếng khen:
- Giỏi! Đó là miếng trẩy đào dưới lá.
Triệu Giáp rú lên, gập người lại như con tôm, chân tay mềm nhũn, mặt vàng ệnh trong cảnh nhập nhoạng tối. Cô hiếng dùng sức vặn một cái, hùng hổ:
- Định đ. kia mà, bà đang đợi mày đấy?
Triệu Giáp mềm nhũn, ngã lăn ra. Lung Hán Quốc vớ lấy cây gậy, rồi như một tướng tiên phong mở đường, bất kể trắng đen, bất kể hoàng thân quốc thích, vụt tất, rủi ai người ấy bị. Gậy vung tới tấp, già khóc trẻ kêu, người ở vòng ngoài thì len vào trong để xem, người ở trong thì chạy thoát thân ra ngoài, nhất thời người như nước lũ, dồn thành đống, vón thành cục, anh dẫm lên tôi, tôi thúc vào anh. Tôi đặc biệt chú ý khi cô hiếng bị một gậy vào mông, cô ta vội rúc vào đám đông, liền bị những người đánh hôi, những người ngứa mắt nện cho một trận tơi bời, kêu oai oái.
Đoàng, một tiếng súng nổ. Người nổ súng là Tư Mã Khố. Anh ta mặc áo choàng đen, một vệ sĩ theo sau, nối tiếp là Bác-bit và Chiêu Đệ, Niệm Đệ, giận dữ bước vào.
- Yên lặng - Một vệ sĩ hét lên - Mất trật tự thì không chiếu nữa?
Mọi người nháo nhác rồi im. Tư Mã Khố dẫn người của anh ta vào chỗ ngồi. Bầu trời chuyển sang màu tím, sắp tối mịt. Vầng trăng như lưỡi liềm, ánh sáng ảm đạm, phía tây nam có một ngôi sao rất sáng nằm trong chỗ khuyết của vầng trăng. Trung đội kỵ mã, trung đội lừa, trung đội tiện y đều đến đủ, xếp hàng đôi, ôm súng hoặc khoác súng, ngó nghiêng đám phụ nữ. Một đàn lang sói rồng rắn kéo vào. Mây đen nuốt chửng trăng sao, bóng tối trùm lên mặt đất. Côn trùng kêu thê thảm trên cây, nước cuồn cuộn trên sông.
- Phát điện! - Tư Mã Khố ở phía trúc bên trái tôi, ra lệnh. Anh ta bật lửa châm thuốc. Châm xong, vẩy một cái thật mạnh, tắt ngọn lửa.
Máy phát đặt ở ngôi nhà bỏ hoang của người đàn bà Hồi. Vài bóng đen lay dông. Một ánh đèn pin. Cuối cùng, máy nổ. Thoạt đầu, nổ to rồi nổ nhỏ, sau nổ đều. Một bóng điện phía sau đầu tôi phát sáng. Chà chà, quần chúng xúc động kêu lên. Tôi trông thấy những người phía trước đều ngoái lại nhìn ánh điện, những cặp mắt lóe sáng.
Cũng như đêm thứ nhất, một luồng ánh sáng tìm màn hình, những con thiêu thân va dập vào nhau trong cột sáng, bóng chúng to lên rất nhiều trên màn hình, các binh sĩ và dân chúng ngạc nhiên thán phục. Chỗ khác nhau so với đêm thứ nhất rất nhiều: Tư Mã Khố không nhảy dựng lên để ánh sáng xuyên qua vành tai trong suốt. Bốn bên bóng tối càng dày đặc thì ánh sáng càng chói lọi. Không khí ẩm ướt, hơi nước từ cánh đồng pha vào mặt. Gió rì rào trên ngọn cây. Tiếng chim ăn đêm lia ngang trên bầu Trời. Tiếng cá búng nước lóc bóc. Còn nữa, tiếng hắt hơi của những con lừa dưới chân đê, đó là những người ở rất xa đến. Tiếng chó sủa trong ngõ sâu. Chớp màu xanh lục ở phương nam như một tấm rèm, tiếng sấm nặng nề vọng tới sau khi tia chớp đã tắt. Chuyến tàu hỏa chở đầy pháo đạn chạy ầm ầm qua cầu Thuồng Luồng, tiếng bánh sắt đập vào đường ray hòa quyện với tiếng máy chiếu phim. Điều khác biệt lớn nhất là tôi không còn hứng thú với những hình ảnh trên màn hình. Buổi chiều, Tư Mã Lương nói nhỏ với tôi:
- Cậu này, bố cháu vừa mua một phim mói từ Thanh Đảo về, toàn là phụ nữ trần truồng.
- Bịa? - tôi nói.
- Thật mà, chú Đỗ nói vậy, đội trưởng đội Tiện y cưỡi mô tô đi lấy, lát nữa là đem về.
Kết quả là bịp, Tư Mã Lương nói không đúng. Tôi véo đùi hắn.
- Cháu không bịp cậu đâu, có lẽ chiếu phim cũ trước phim mới sau. Ta hãy đợi xem!
Tôi đã biết con gấu bị đạn như thế nào, cũng đã biết người đi săn và cô gái lăn lộn như thế nào, chỉ cần nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung ra tất cả. Thế là tôi đưa mắt dò xét tình hình phía trước và những người xung quanh.
Chiêu Đệ sau khi đẻ xong còn yếu, chị mặc chiếc áo khoác bằng dạ xanh hoa trắng, ngồi ghế thái sư màu tía dành riêng eho chị. Bên trái là Tư lệnh Tư Mã Khố, anh ta cũng ngồi ghế thái sư, áo khoác ngoài vắt trên thành ghế. Bên trái anh ta là Niệm Đệ, ngồi trên chiếc ghế mây. Chị mặc váy trắng không phải chiếc váy có đuôi dài. Chiếc này này cổ cao, dán chặt vào người. Thoạt tiên chị ngồi thẳng, cổ cũng duỗi thẳng. Cái đầu to của Tư Mã Khố ngoảnh sang bên phải làm như ngẫu nhiên, nói thầm gì đó vào tai Chiêu Đệ. Khi người đi săn trên màn hình hút thuốc, chị Chiêu Đệ đã mỏi cổ, lưng cũng mỏi, người chị lún sâu trong ghế, tôi thoáng thấy viên ngọc phỉ thúy long lanh trên đầu chị, thoáng ngửi thấy mùi long não trên quần áo chị, nghe rõ tiếng thở đều đều của chị.
Chị Niệm Đệ vẫn ngồi thẳng, cánh tay trái Tư Mã Khố động dậy, từ từ đưa tay sang, mờ mờ, như một nhánh cỏ đuôi chó. Tôi đã trông thấy tay anh ta đặt trên đùi chị Niệm Đệ. Chị vẫn ngồi ngay thẳng, làm như không biết chuyện gì. Tôi trong lòng không vui, giận không phải giận, sợ cũng không phải sợ. Cổ họng tôi khô bỏng, muốn ho. Một ánh chớp xé rách tầng mây trên đầm, cái tay của Tư Mã Khố vội rụt lại nhanh hơn chớp. Anh ta ho lên một tiếng như tiếng dế kêu, người lắc lư, nghiêng đầu nhìn cỗ máy chiếu phim. Tôi cũng nhìn sang, Bác-bit đang ngẩn tò te dòm vào cái lỗ trên máy chiếu.
Người đàn ông và người đàn bà trên màn hình ôm nhau, hôn nhau. Bọn lính của Tư Mã Khố thở phì phò. Bàn tay Tư Mã Khố thọc một cách thô bạo vào giữa hai đùi chị Niệm Đệ. Chị từ từ giơ tay trái lên sau gáy làm như sửa lại tóc, nhưng tôi trông thấy chị không sửa lại tóc, mà rút trâm cài đầu đâm thẳng xuống, dáng ngồi vẫn thẳng, như vẫn đang mê mải xem phim. Tư Mã Khố giật vai một cái, hít một hơi, không hiểu hơi lạnh hay hơi nóng. Anh ta từ từ rút tay trái về, lại ho một tiếng như tiếng dê. Anh ta giả vờ ho đấy thôi! Tôi thở ra như cất được gánh nặng, mắt vẫn nhìn lên màn ảnh nhưng không nhìn rõ những gì trên đó. Hai bàn tay tôi nhơm nhớp mồ hôi. Có nên cho mẹ biết điều bí mật kia không nhỉ? Không, không nên cho mẹ biết. Nhưng điều bí mật ấy mẹ đã đoán ra.
Những tia chớp sáng trắng, loằng ngoằn như thép chảy, soi sáng Bãi-Cát-Dài, nơi mà Hàn Chim và đồng đội của anh đã chiếm cứ, những cây, những nhà tranh vách đất. Dòng thép tung tóe, đội xuống những cây cối đen sẫm và những ngôi nhà màu vàng. Sấm động ầm ầm như gõ chiếc thùng sắt rỉ. Người đàn ông và người đàn bà lăn lộn trên bãi cỏ bên sông, khiến tôi nhớ lại câu chuyện đêm qua.
Đêm qua, Tư Mã Khố và chị Hai đã thuyết phục được mẹ đến xem phim ở nhà thờ: Cũng đến đoạn lăn lộn trên bãi cỏ, Tư Mã Khố lặng lẽ rút khỏi nơi chiếu phim. Tôi bám theo anh ta. Anh ta đi dọc theo bờ tường như một tên trộm, không giống viên Tư lệnh chút nào. Chắc hẳn xưa kia anh ta là tên trộm vặt. Anh ta nhảy vào vườn nhà tôi, từ bức tường thấp phía nam. Tôn Bất Ngôn cũng vào nhà tôi bằng con đường này, tiên Chim cũng rất quen thuộc. Tôi không nhảy tường. Tôi có cách vào của tôi. Mẹ để chiếc chìa khóa ở kẽ gạch bên cổng, tôi nhắm mắt là có thể sờ thấy. Nhưng tôi không vào bằng cổng. Phía dưới cánh cổng có một cái lỗ để chó chui ra chui vào, đó là khi bà nội còn sống. Chó không còn nữa nhưng lỗ thì vẫn còn. Tôi có thể chui qua. Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa cũng có thể chui qua. Xong rồi, tôi đã ở bên sau cổng. Đây là phòng xép, một bộ phận của dãy chái phía tây. Bước hai bước là vào chái. Gian chái vẫn ngổn ngang như cũ, cối xay bột, máng cỏ, đệm cỏ của Lai Đệ Chị phát bệnh cuồng dâm ngoài bãi cỏ. Để dề phòng chị phá lễ cưới của Bác-bit, Tư Mã Khố đã lấy thùng buộc một tay chị lên khung cửa sổ. Ba hôm rồi, chưa cởi. Tôi cho rằng em rể định cởi trói cho chị đi xem phim. Nhưng sau đó thì thế nào?
Thân hình hộ pháp của Tư Mã Khố càng tỏ ra đồ sộ dưới ánh sao. Anh ta đã mò đến nơi. Anh ta không phát hiện ra tôi. Tôi nấp sau cánh cổng. Anh ta bước vào gian chái, vấp phải chiếc thùng sắt tây. Đó là chiếc thùng để chị Lai Đệ đi tiểu. Lai Đệ cười khanh khách trong bóng tối. Một đốm lửa lóe lên, rất sáng, soi rõ chị Lai Đệ nằm trên đệm cỏ, đầu tóc rối bù, rằng trắng nhởn, chiếc áo ngoài che không kín da thịt. Sợ quá, như một con quỉ. Tư Mã Khố giơ tay vuốt má chị, chị không hề sợ. Bật lửa tắt, dê ở chuồng bên gõ móng. Tiếng cười của Tư Mã Khố.
- Chị vơ ơi! - Tư Mã Khố nói- Chị chẳng cuồng lên rồi đó sao? Có tôi đây...
Lai Đệ gào lên, như điên như cuồng, vẫn những điều tục tĩu như hôm ngoài bãi cỏ, chết khát thôi, chết thèm thôi...
Tư Mã Khố nói:
- Chị ơi, chị khát thì tôi thừa nước, chị là sóng thì tôi là thuyền, chị khô hạn thì tôi là mưa, tôi là cứu tinh của chị đây!
Hai người cuộn lấy nhau. Tiếng kêu của Lai Đệ còn lảnh lót hơn cả tiếng kêu của Tiên Chim trước kia...
Tôi lặng lẽ chui qua lỗ cổng ra ngõ, mồ hôi ướt đầm...
Khi phim sắp chiếu xong, Tư Mã Khố lẳng lặng trở về chỗ ngồi. Mọi người trông thấy Tư lệnh, bèn nhường lối. Khi anh ta đi qua chỗ tôi, tiện tay xoa đầu tôi một cái tôi ngửi thấy mùi vú của chị Lai Đệ trên tay anh ta. Anh ta ngồi xuống, ghé tai chị Hai nói câu gì đó, hình như chị Hai cười. Lúc này đèn điện bật sáng. Mọi người ngẩn ra một thoáng hình như chưa biết nên làm gì. Tư Mã Khố đứng lên nói to:
- Đêm mai chiếu ở ngoài, tôi muốn mọi người cùng hưởng phúc, biết thế nào là văn minh phương Tây! Mọi người như bừng tỉnh, tiếng ồn ào át cả tiếng máy chạy.
Sau đó, khi những người khác đã về hết, Tư Mã Khố hỏi mẹ:
- Thế nào, cụ? Không uổng đã đến xem chứ? Rồi đây tôi sẽ xây rạp chiếu phim ở Cao Mật. Thằng cha Bác-bit quả là giỏi. Có một chàng rể như thế, cụ nên cảm ơn tôi mới phải?
Chị Hai nói:
- Thôi, đưa mẹ về nhà.
Mẹ nói:
- Hãy cụp đuôi lại, chàng rể hiền của tôi, người vui chuyện gở, chó vui tranh phân, chưa hẳn đã tốt đâu!
Tôi không đoán ra từ đâu mẹ biết bí mật từ hồi đêm.
Sáng sớm hôm sau, Tư Mã Khố và chị Hai đem lương thục đến cho, mẹ bảo:
- Rể Hai này, anh nán lại một lúc, tôi có chuyện muốn nói với anh!
Chị Hai nói:
- Chuyện gì mà sợ người khác nghe thấy?
Mẹ nói:
- Mày đi đi!
Mẹ dẫn Tư Mã Khố vào trong buồng nói:
- Anh tính như thế nào về nó?
Tư Mã Khổ nói:
- Ai cơ?
Mẹ nói: - Anh đừng giả vờ nữa!
Tư Mã Khố nói:
- Tôi không giả vờ!
Mẹ bảo:
- Hai con đường, anh hãy chọn lấy một.
Tư Mã Khố hỏi:
- Hai con đường nào?
Mẹ nói: Nghe đây! Một là anh lấy nó, vợ lớn hay vợ bé, hoặc không phân lớn bé, anh bàn với con Hai. Hai là anh giết nó đi!
Tư Mã Khố hai tay xoa ống quần, nhưng lần này khác hẳn cái hôm ở bãi cỏ. Mẹ nói:
- Sau ba hôm, anh phải chọn lấy một Anh về đi!
Chị Sáu ngồi im, như không có chuyện gì xảy ra. Tôi nghe tiếng ho như tiếng dê của Tư Mã Khố, vừa phấn khởi lại vừa buồn. Trên màn ảnh trước mặt, người đàn ông và người đàn bà nằm sát bên nhau dưới gốc cây, người nữ gối đầu trên cánh tay người nam. Người nữ ngước nhìn những quả lúc lỉu trên cây. Người đàn ông hình như có tâm sự gì đó, cắn cắn một nhánh cỏ. Người đàn bà chống tay ngồi dậy, nghiêng người nhìn thẳng vào mặt người đàn ông, nửa bầu vú lộ ra từ cổ áo, giữa hai vú là một rãnh sâu như đường đi của con lươn ở chỗ nước nông gần bờ. Tôi đã bốn lần trông thấy loại đường đó. Tôi khao khát được ngó vào trong rãnh. Nhưng người đàn bà đã dịch người sang một bên, cái rãnh biến mất. Chị ta lắc lắc người đàn ông, gào toáng lên. Người đàn ông nhắm mắt, miệng tiếp tục nhai cọng cỏ. Rồi người đàn bà tát vào mặt người đàn ông, ngoác cái miệng rộng ra khóc, tiếng khóc không khác là bao với tiếng khóc của phụ nữ Trung Quốc. Người đàn ông mở mắt, nhổ cọng cỏ vào mặt người đàn bà. Gió lắc dữ dội cây trên màn ảnh, những quả đập vào nhau, lá xào xạc từ bờ đê vọng lại. Không hiểu tiếng gió trên màn ảnh hay là tiếng gió từ ngoài sông ào tới, một ánh chóp xanh, tiếp theo là tiếng sấm nặng nề. Gió ào ào, mọi người có vẻ nhốn nháo, những phẩy trắng xuyên qua luồng ánh sáng. Mưa rồi, có người kêu lên. Người đàn ông đi về phía cỗ xe, người đàn bà chân trần, quần áo nhàu nát, vịn vào tay người đàn ông.
- Không chiếu nữa, hỏng mất máy chiếu!
Tư Mã Khố đứng chặn luồng ánh sáng. Mọi người hét lên, anh ta lại ngồi xuống. Trên màn ảnh, nước bắn tung lên, người đàn ông và người đàn bà nhảy xuống sông. Lại những tia chớp kéo dài, ánh đèn chiếu bị mờ hẳn đi. Mười mấy vật đen sì bay tới như những cục phân vãi ra từ tia chớp, một loạt tiếng nổ dữ dội trong đám đông, chủ yếu là nổ giữa Chì đội Tư Mã Khố. Tiếng nổ oàng oàng, chớp xanh chớp vàng, mùi thuốc súng nồng nặc xảy ra cùng một lúc. Không rõ từ lúc nào, tôi ngồi trên bụng một người. Tôi cảm thấy nhớp nháp trên đầu. Tôi sờ má, má dính nhơm nhớp, ngủi thấy mùi tanh của máu. Lập tức những tiếng kêu thất thanh, những người sợ đến mất trí chạy tán loạn, thấp thoáng những cái lưng, những cái đầu dẫm máu!
Những bộ mặt hoảng sợ trong luồng ánh sáng. Đôi nam nữ đang đùa rỡn trong nước trên màn ảnh bị xé ra từng mảnh vụn. Chớp. Sấm. Máu tươi, xương thịt tung tóe. Phim Mỹ. Lựu đạn. Đầu nòng súng phụt ra những con rắn lửa.
- Anh em, không được mất trật tự!
Lại một loạt tiếng nổ.
- ối mẹ ơi! ối con ơi!
Một cánh tay giãy đành đạch. Chân vướng ruột người. Những hạt mưa to như đồng bạc trắng. Những ánh chớp chói mắt. Một đêm đầy bí ẩn.
- Bà con, không được động đậy! Sĩ quan, binh lính Chi đội Tư Mã không được động đậy! Nộp súng đầu hàng thì không giết! Hàng thì sống, chống thì chết?
Tiếng gọi từ bốn phía dồn tới, dồn tới... 

5
Tiếng nổ chưa dứt hẳn, vô số ngọn đuốc sáng rực đã từ tứ phía ập tới. Trung đoàn 17 thuộc trung đội 8 áo mưa màu đen, lưỡi lê lắp trên đầu súng, đi đều bước miệng hô khẩu hiệu, hùng dũng tiến vào. Cầm đuốc là những người dân quấn khăn mặt trắng trên đầu trong đó quá nửa là phụ nữ tóc cắt ngắn. Họ giơ cao ngọn đuốc, soi đường cho các binh sĩ trung đoàn 17. Đuốc làm bằng giẻ rách tẩm đầu, cháy như đình liệu. Chi đội Tư Mã nổ một loạt súng, các binh sĩ trung đoàn 17 đổ như ngã rạ, nhưng lập tức những người phía sau dồn lên lấp chỗ trống. Lại mấy chục quả lựu đạn ném tới, đất trời như vỡ tung. Tư Mã Khố kêu to:
- Đầu hàng thôi, anh em! Đừng làm hại đến dân!
Thế là súng vút ngổn ngang dưới đất, chỗ những ngọn đuốc chiếu sáng. Hai bàn tay đầy máu, Tư Mã Khố bế chị Chiêu Đệ lên, gọi to:
- Chiêu Đệ, Chiêu Đệ, tỉnh lại đi!
Một bàn tay run run nắm lấy cánh tay tôi. Tôi ngẩng lên, qua ánh lửa tôi nhìn thấy chị Niệm Đệ mặt trắng nhợt nằm dưới đất, trên người là mấy xác chết cụt chân cụt tay.
- Kim Đồng, Kim Đồng!... Chị gọi tôi một cách khó khăn - Em còn sống đấy chứ?
Chị vươn hai tay về phía tôi, cầu khẩn:
- Em yêu, kéo giúp chị ra!
Tay tôi toàn máu là máu. Tay chị cũng đầy máu, nắm lấy như nắm con lươn, mạnh một tí là tuột. Lúc này mọi người đều nằm bẹp dưới đất không ai dám đứng dậy. Luồng ánh sáng trên máy chiếu vẫn rọi trên màn bạc, cảnh ân oán của đôi nam nữ người Mỹ đã đến hồi cao trào, người đàn bà giơ thật cao thanh đao trước mặt người đàn ông đang ngủ. Bác-bit đứng bên máy chiếu sốt ruột gọi:
- Niệm Đệ Niệm Đệ, em ở đâu?
- Em ở đây, Bác-bit, em ở đây!
Chị Sáu giơ một tay về phía Bác-bit của chị. Chị thều.. thào trong miệng, nước mắt nước mũi đầy mặt. Bác-bit. gắng gượng đi về phía chị Niệm Đệ, anh ta đi rất khó khăn, y hệt con ngựa bị lún trong bùn lầy.
- Đứng lại - Một tiếng gầm vang lên. Đoàng, một tiếng súng bắn chỉ thiên. Không được mất trật tự! Bác-bit như bị chém ngang lưng, đổ gục trên mặt đất.
Tư Mã Lương không biết từ đâu bò tới, tay trái rách thành một cái lỗ, máu me đầy mặt, tóc và cổ. Nó kéo tôi dậy, dùng bàn tay rắn rỏi sờ nắn khắp người tôi.
- Cậu còn nguyên vẹn cả, tay còn, chân còn - nó nói.
Nó cúi xuống lôi những cái xác nằm đè lên chị Sáu, đỡ chị dậy. Bộ quần áo chị Sáu dính đầy máu.
Dưới trời mưa nặng hạt như những mũi tên, chúng tôi bị dồn vào căn nhà để cối xay gió. Đây là công trình kiến trúc to nhất của thôn trấn. Giờ đây, nó bị biến thành trại tạm giam. Giờ nghĩ lại, khi đó chúng tôi có nhiều cơ hội trốn thoát, vì rằng mưa rào dập tắt nhanh chóng những cây đuốc trong tay dân phu của trung đoàn 17, các binh sĩ trong trung đoàn bị mưa quất không mở được mắt, chúng loạng choạng, lo thân còn chưa xong. ở đầu hàng quân chỉ có ánh sáng của hai cây đèn pin. Vậy mà không một ai chạy trốn. Kẻ bắt người và người bị bắt cùng lúng túng như nhau. Khi đến gần cánh cổng nhà xay, các binh sĩ của trung đoàn 17 tranh nhau vào trước, vượt cả chúng tôi.
Nhà xay rung lên dưới mưa. Qua ánh chớp, tôi nhìn thấy nước đổ như trút qua kẽ hở của những tấm tôn lợp. Nhìn ra ngoài hiên, dòng nước chảy cuồn cuộn, từ rãnh thoát nước trước cửa đến ngoài đường, trắng xóa một màu. Trong quãng đồng từ sân phơi đến nhà xay, tôi bị lạc chị Sáu và Tư Mã Lương. Trước mặt tôi là tên lính của trung đoàn 17, anh ta lộ xỉ, môi không che kín lợi, răng trắng nhởn như răng thỏ lộ hết ra ngoài. Cặp mắt màu xám của anh ta bị phủ một lớp hơi nước. Tôi cảm thấy nỗi tuyệt vọng và sợ hãi khiến tim anh ta như bị sâu bọ gậm nhấm. Sau một ánh chớp, anh ta hắt hơi một cái rõ kêu trong bóng tối, phả vào mặt tôi mùi thuốc lá lẫn mùi củ cải. Mũi tôi vừa cay vừa ngứa. Tiếng hắt hơi râm ran trong bóng tôi. Tôi muốn tìm chị Sáu và Tư Mã Lương, nhưng tôi không dám gọi, chỉ dựa vào tia chớp lóe lên trong khoảnh khắc để tìm trong tiếng sấm như bắt lấy hồn phách người ta và mũi thì ngửi toàn mùi lưu huỳnh. Tôi trông thấy sau lưng một tên lính bé nhỏ, là bộ mặt gầy guộc của thằng Gật. Hắn trông như quỉ nhập tràng vừa chui ra từ trong mộ, sắc mặt tím tái, tóc bết lại như hai cái bàn chải, quần áo dán chặt vào người, cổ dài ngoẵng, yết hầu như một quả trứng gà, xương ngực lồi lên, mặt hắn như đốm lửa lân tinh.
Khi trời gần sáng thì ngớt mưa, những tiếng ầm ầm trên mái tôn đã chuyển sang tiếng tí tách của giọt nước lọt qua kẽ hở. Sấm chớp giảm, màu sắc từ xanh lét đáng sợ chuyển sang màu vàng trắng ấm áp. Tiếng sấm xa dần, gió thổi theo hướng đông bắc, lạnh thấu xương, mọi người áp sát nhau, bất kể ai. Phụ nữ và trẻ con khóc trong bóng tối. Tôi cảm thấy như kiến bò ngược từ dưới chân lên, bụng dưới đau quặn, rồi toàn thân như một tảng băng. Giả dụ khi ấy có ai muốn ra khỏi nhà xay, chắc chắn không bị ngăn trở. Nhưng không có người nào bỏ trốn.
Sau đó, ngoài cổng có người đi tới. Trong trạng thái tê dại, tôi dựa vào cái mông đít của ai đó, người ấy cũng dựa vào tôi. Tiếng lội nước oàm oạp bên ngoài, tiếp đó mấy luồng ánh sáng vàng vọt rọi vào. Vài người trùm áo mưa chỉ hở hai con mắt hiện ra trước cổng, gợi vào trong:
- Các binh sĩ trung đoàn 17 ra hết bên ngoài chấn chỉnh đội ngũ.
Tiếng gọi khàn khàn, không phải giọng của anh ta. Giọng anh ta vốn oang oang, đầy kích động. Tôi nhận ra ngay một trong những người mặc áo mưa đó chính là Lỗ Lập Nhân, đại đội trướng kiêm chính ủy đại đội bộc phá. Cái tin anh ta thăng cấp, gia nhập trung đoàn 17, tôi đã có nghe hồi mùa xuân, bây giờ thì đã rõ ràng.
- Mau lên! - Lỗ Lập Nhân nói - Các đại đội đã nhận xong phòng ở, các đồng chí về ngay để ngâm chân, uống nước gừng!
Các binh sĩ trung đoàn 17 chen nhau ra khỏi nhà xay. Họ xếp hàng ngoài đường, vài người có vẻ cán bộ, tay cầm đèn bão, tranh nhau hô:
- Đại đội ba theo tôi! Đại đội bảy theo tôi! Bộ phận trục thuộc trung đoàn theo tôi!
Các binh sĩ lội bì bõm đi theo những chiếc đèn bão. Mười mấy binh sĩ mặc áo mưa, bồng súng bước tới, người trực ban báo cáo:
- Báo cáo trung đoàn trưởng, trung đội một, đại đội cảnh vệ đến canh gác tù binh.
Lỗ Lập Nhân giơ tay chào lại, nói:
- Canh gác cẩn mật, không cho đứa nào trốn thoát. Sẽ điểm danh khi trời sáng. Nếu tôi không lầm thì... - Hắn ngó vào trong nhà xay - Ông bạn Tư Mã Khố cũng trong đó.
- Tiên sư nhà mày! - Tư Mã Khố từ sau chiếc cối xay lớn chửi vọng ra - Thằng Tưởng Lập Nhân ti tiện kia, ông ở đây!
Lỗ Lập Nhân cười:
- Hẹn gặp lại khi trời sáng!
Lỗ Lập Nhân vội vã bỏ đi. Tay trung đội trưởng cảnh vệ to như hộ pháp đứng dưới ánh đèn, nói vào trong:
- Tôi biết có người có súng lục. Tôi ở chỗ sáng, các người ở trong tối, có thể bắn trúng tôi? Nhưng tôi khuyên các người hãy bỏ ý nghĩ đó đi, vì nếu có bắn thì chỉ bắn ngã một mình tôi, nhưng... - Anh ta quay lại chỉ đám binh sĩ - mười mấy băng tiểu liên này xả vào thì ngã xuống không chỉ có một. Chúng tôi ưu đãi tù binh, trời sáng sẽ phân loại không có tội và nếu tự nguyện tham gia đội ngũ, chúng tôi hoan nghênh. Người nào không muốn tham gia, chúng tôi cấp tiền lộ phí, cho về với gia đình.
Trong nhà xay không ai nói gì, chỉ có tiếng nước chảy ào ào. Đại đội trưởng chỉ huy đám lính kéo cánh cổng đã biến dạng, đóng cổng lại. ánh sáng vàng vọt của cây đèn bão lọt qua khe cửa, chiếu vào trong.
Các binh sĩ của trung đoàn 17 rút hết đi, trong nhà xay dễ thở hơn. Tôi mò mẫm lần đến chỗ có tiếng nói của Tư Mã Khố, vấp phải những cẳng chân nóng như lửa, nghe thấy những tiếng rên hừ hừ. Khu nhà xay này là kiệt tác của anh em Tư Mã Khố. Sau khi khánh thành, nhà xay không xay được một bao bột nào. Những cánh quạt chỉ một đêm giông bão đã gãy sạch, còn trơ lại cái trụ với những cánh nứt gãy, bốn mùa kêu kèn kẹt. Khu nhà xay rộng đến mức có thể làm nơi đua ngựa, mười hai chiếc cối xay như mười hai quả núi nhỏ ngồi chồm hổm trên bệ. Chiều qua tôi cùng Tư Mã Lương vừa đến quan sát nơi này. Tư Mã Lương nói nó sẽ đề nghị bố nó sửa chữa nhà xay thành rạp chiếu bóng. Khi bước chân vào trong nhà xay, tôi bất chợt rừng mình. Trong khu nhà rộng thênh thang có một đàn chuột hung tợn xông thẳng vào chúng tôi. Khi chỉ còn khoảng hai bước chân, chúng dùng lại. Một con chuột già lông trắng mắt đỏ, giơ những vuốt chân đẹp như điêu khắc băng ngọc thạch, vuốt râu. Cặp mắt ti hí của nó đảo như chớp. Sau lưng nó, mươi mấy con chuột xếp thành hình cánh cung, mắt vằn lên, chuẩn bị xông lên cắn xé. Tôi hoảng sợ lùi lại, đầu như muốn vỡ ra, lưng toát mồ hôi lạnh. Tư Mã Lương đứng chắn trước mặt tôi, nó chỉ đứng đến cằm tôi. Nó cúi xuống, rồi sau đó nó ngồi xổm, chiếu tướng con chuột già. Con chuột cũng không chịu lép, nó không vuốt râu nữa, ngồi chồm hổm như chó, cặp râu rung rung. Con chuột già nghĩ gì? Tư Mã Lương, thằng nhỏ tôi vốn không ưa rồi dấn dà trở thành thân cận của tôi, nghĩ gì? Chỉ đơn thuần là cuộc đấu giữa hai cặp mắt hay sao? Nó và con chuột đang tiến hành một cuộc đọ sức về tinh thần, chĩa mũi nhọn vào nhau xem ai nhụt trước. Tôi hình như nghe thấy con chuột nói rằng, đây là địa bàn của chúng tôi, các ông không nên thâm nhập. Tôi nghe Tư Mã Lương nói: Đây là nhà của ta, do bác ta và cha ta xây dựng nên. Ta về đây tức là về nhà, ta là chủ của ngôi nhà này. Chuột già nói: Được làm vua, thua làm giặc! Tư Mã Lương nói: Yếu trâu còn hơn khỏe bò. Chuột già nói: Ông là người chứ không phải trâu. Tư Mã Lương nói: Kiếp trước ta là mèo, nặng tám ký, mèo đực. Chuột già nói: Ông làm sao cho tôi tin kiếp trước của ông là mèo? Tư Mã Lương chống hai tay xuống đất, trợn mắt há miệng kêu meo meo. Tiếng dội lại meo meo. Chuột già kinh hoàng hạ hai chân trước xuống định bỏ chạy. Tư Mã Lương nhanh nhẹn vồ lấy con chuột quật chết tươi trong khi nó chưa kịp cắn. Những con còn lại chạy tán loạn. Tôi bắt chước Tư Mã Lương, vừa kêu meo meo, vừa đuổi đánh lũ chuột. Trong chớp mắt, lũ chuột chạy mất dạng. Tư Mã Lương cười, ngoảnh lại nhìn tôi. Trời ơi, mắt nó giống hệt mắt mèo, lóe lên những tia dữ dằn trong ánh hoàng hôn. Nó quẳng con chuột già vào lỗ cối xay. Hai chúng tôi mỗi thằng bám một tai cối, hết sức bình sinh mà đẩy nhưng cái cối không nhúc nhích, đành bỏ cuộc. Chúng tôi đi vòng một lượt các cối, cái nào cũng tốt. Tư Mã Lương nói:
- Cậu Kim Đồng, ta chung nhau mở nhà xay, cậu thấy thế nào?
Tôi không biết trả lời nó ra sao. Ngoại trừ vú và sữa, tôi chẳng thấy cái gì có ích cho tôi.
Buổi chiều hôm đó thật huy hoàng, ánh nắng xuyên qua khe hở và các ô cửa sổ, chiếu trên gạch lát nền men xanh. Trên nền có cứt chuột. Trong cứt chuột chắc chắn là có cứt dơi, vì rằng trên xà nhà treo lủng cẳng những con dơi cánh dỏ. Một con dơi quá to bằng chiếc đấu đang bò trên vì kèo. Tiếng kêu của nó tương xứng với cơ thể nó, lảnh lót và kéo dài, khiến tôi sởn gai ốc. Chính giữa cối đều đục một lỗ tròn bằng miệng bát, là đoạn gỗ sam chọc thẳng qua nóc chĩa lên trời, đầu đoạn gỗ lắp bánh xe gió. Tư Mã Khố và Tư Mã Đình cho rằng, chỉ cần có gió là những cánh trên bánh xe chuyển động, bánh xe sẽ chuyển theo, khúc gỗ sam tất nhiên cũng chuyển động. Nhưng thực tế đã nghiền nát ảo tưởng của anh em nhà Tư Mã. Tôi đi vòng quanh cối để tìm Tư Mã Lương, trông thấy mấy con chuột trèo lên trèo xuống thoăn thoắt chỗ cột gỗ sam. Trên thớt trên của cối có người đang ngồi. Đó là Tư Mã Lương, ánh mắt sáng rực. Nó thò bàn tay lạnh ngắt xuống năm lấy tay tôi. Được nó giúp sức, tôi đặt chân lên tai cối, trèo lên đỉnh thớt trên. Mặt thớt trên ẩm ướt, nước đầy lỗ.
- Cậu Kim Đồng, cậu còn nhớ con chuột già không
Nó hỏi tôi, vẻ thần bí. Tôi gật đầu trong bóng tối.
- Nó ở đây - Tư Mã Lương nói nhỏ - Cháu định lột da nó để bà ngoại may cái chụp tai chống lạnh!
Một tia chớp yếu ớt lóe lên từ phương nam xa xôi, trong nhà xay rạng lên một thoáng. Tôi trông thấy con chuột trong tay Tư Mã Lương ướt đẫm nước, cái đuôi nhỏ và dài buông thõng một cách đáng ghét.
- Vứt nó đi! - tôi bảo.
- Sao lại vứt? - nó hỏi lại, giọng bất mãn.
- Kinh khủng, lẽ nào mày không thấy lợm giọng hay sao? - tôi nói.
Nó im lặng, trầm ngâm. Tôi nghe thấy tiếng con chuột rơi xuống lỗ cối.
- Cậu Kim Đồng này, họ sẽ làm gì bọn mình? - nó hỏi, vẻ lo ngại.
Đúng vậy, họ sẽ làm gì chúng tôi? Ngoài cửa, bọn lính đang đổi gác. Nước chảy ào ào trên đường. Tên lính thay gác hắt hơi như ngựa. Một tên nói.
- Lạnh thật, đâu phải là thời tiết tháng Tám, hay là sắp đóng băng?
- Nói nhảm - một tên khác nói.
- Cậu nhớ nhà không? - Tư Mã Lương hỏi tôi.
Một luồng hơi cay xộc lên sống mũi. Chiếc giường ấm sục, vòng tay ấm áp của mẹ, giấc mộng du của Câm-anh Câm- em, con dế sau bếp lò, sữa dê ngọt lịm, xương cốt mẹ kêu răng rắc và tiếng ho nặng nề, tiếng cười điên loạn của chị Cả, bộ lông mượt của con cú vọ, rắn ráo bắt chuột trong nhà kho... Tôi không nhớ nhà sao được! Tôi cố khịt cho thông lỗ mũi bị tắc.
- Cậu Kim Đồng, ta trốn đi! - Nó rủ tôi.
- Có lính ngoài cửa, trốn sao được? - tôi khẽ hỏi.
Nó nắm cánh tay tôi, bảo:
- Cậu xem cái cột gỗ sam này - Nó đặt tay tôi vào cái cột gỗ sam chọc thẳng lên mái nhà. Cái cột đẫm nước. Nó bảo: - Ta theo cái cột này mà lên, dỡ mái tôn chui ra!
Tôi do dự, nói:
- Lên rồi thì sao?
Nó bảo:
- Nhảy xuống là có thể về nhà.
Tôi tưởng tượng cái cảnh đứng trên mái tôn han rỉ phát ra những tiếng như tiếng trống mà rủn cả hai chân.
- Cao như thế...- tôi thì thào - nhảy xuống thì gãy cẳng!
Nó bảo:
- Không sao đâu, cháu đảm bảo vô sự. Mùa xuân vừa rồi cháu đã có lần nhảy xuống. Dưới hiên là những bụi đinh hương co dãn như lò xo!
Tôi nhìn lên chỗ tiếp giáp giữa cột và mái, nơi đó có một khoảng ánh sáng, nước mưa từ đó chảy xuống theo cái cột.
- Cậu ơi, trời sắp sáng, lên đi!
Nó sốt ruột giục tôi. Tôi gật đầu vì chẳng còn cách nào khác.
- Cháu lên trước, đội mái tôn lên - Nó tỏ vẻ thành thạo, vỗ vỗ vai tôi, nói: - Cho cháu đứng lên vai cậu?
Rồi hai tay ôm cột gỗ sam, hai chân đặt trên vai tôi, giục:
- Đứng dậy!
Tôi vịn cột lẩy bẩy đứng lên. Mấy con chuột tụ tập quanh chân cột ngã lăn ra. Tôi cảm thấy Tư Mã Lương dùng sức nhún trên vai tôi một cái, ôm cột trèo lên như một con thạch sùng. Cột rất trơn, lên rồi lại tụt, nhưng cuối cùng nó cũng lên được tới nóc nhà. Nó dùng tay đấm tấm tôn lợp, nước đọng chảy qua kẽ hở, trút xuống dưới nhà. Mặt tôi, miệng tôi đầy nước có mùi tanh của gỉ sắt và cả những gỉ vụn. Tư Mã Lương thở nặng nhọc trong bóng tối, mái tôn cạch lên một tiếng, nước đổ xuống như thác, tôi phải ôm chặt lấy cây cột mới không bị ngã. Tư Mã Lương dùng đầu đội tấm tôn lên để mở rộng lỗ hổng. Tấm tôn cong dần rồi bật ra, một mảng trời hình tam giác méo mó hiện ra trên đỉnh đầu ánh sáng màu trắng đục soi qua kẽ hở, tôi trông thấy mấy ngôi sao mờ mờ trên nền trời.
- Cậu Kim Đồng! Nó đứng trên xà nhà gọi với xuống - để cháu lên trước thăm dò rồi quay xuống cứu cậu lên! Nó dướn mình lên, thò đầu ra khỏi cái lỗ hình tam giác.
- Có người trên nóc nhà! - Các binh sĩ ngoài cửa kêu lên. Tiếp đó là những luồng lửa sáng rực, đạn bắn bôm bốp vào mái tôn. Tư Mã Lương ôm cột tụt vội xuống, suýt đè gãy cổ tôi. Nó vuốt nước trên mặt, nhổ gỉ sắt khỏi miệng, hàm răng va vào nhau lập cập, nói:
- Lạnh quá, lạnh quá?
Giờ phút tối lại để sáng đã qua, trong nhà xay sáng dần lên. Tôi và Tư Mã Lương ôm chặt lấy nhau, tôi cảm thấy trái tim của nó áp sát ngực tôi, đập thình thịch như chim sẻ. Tôi khóc vì tuyệt vọng. Nó đụng khẽ cái đầu trọc vào cằm tôi, nói:
- Cậu đừng khóc! Chúng nó không dám hại cậu đâu. Chồng dì Năm là quan to của chúng!
Giờ đây đã nhìn rõ quang cảnh trong nhà xay. Mười hai thớt cối xay màu xanh xám dáng vẻ uy nghi. Tôi và Tư Mã Lương chiếm một thớt. Chóp mũi nó có một giọt nước, lung linh trước mặt chúng tôi. Trên tất cả những cối xay còn lại đều có chuột. Chúng co cụm lại một chỗ, những cặp mắt ti hí đen láy, đuôi như những con giun. Chúng vừa đáng thương vừa đáng ghét. Mặt đất lõm bõm những nước. Nước trên mái nhà vẫn tiếp tục rỏ giọt. Các sĩ quan và binh lính Chi đội Tư Mã Khố đứng tựa vào nhau, quân phục màu xanh trên người biến thành màu đen. ánh mắt và sắc mặt của họ giống lũ chuột trên cối đến kinh người. Những người dân bị kẹt, phần lớn tụm lại một chỗ, chỉ một số ít trà trộn trong đám binh sĩ của Tư Mã Khố chẳng khác kê mọc lẫn ngô ở ngoài đồng. Đàn ông xen lẫn đàn bà, nam nhiều hơn nữ, mấy đứa trẻ nằm trong lòng mẹ, rên hừ hừ như con mèo hen. Đám phụ nữ đều ngồi dưới đất, đám đàn ông có người ngồi xổm, người đứng tựa vào tường. Tường trong nhà xay đều quét vôi, vôi ẩm dính đầy lưng áo đám đàn ông, khiến những chỗ đó biến thành màu khác. Tôi phát hiện ra cô mắt hiếng trong đám đông. Cô ngồi duỗi hai chân trong vũng nước, lưng tựa vào lưng một phụ nữ khác. Cô ngoẹo đầu như cổ đã bị gãy. Cô Kim Một Vú thì ngồi trên mông một người đàn ông. Người đàn ông ấy là ai? Anh ta phủ phục trên mặt đất, áp má trong vũng nước, bộ râu bạc phơ phất, xung quanh chòm râu có những cục máu rung rinh như bọ gậy. Cô Kim chỉ có một bên vú phải, ngực bên trái phẳng lì, khiến vú phải càng đồ sộ, chẳng khác quả núi mọc giữa đồng băng. Núm vú cô vừa to vừa cứng, đội căng làn áo mỏng, lúc hưng phấn có thể treo một lọ nước hoa mà không rơi, nên cô Kim mới có biệt hiệu Lọ-nước-hoa. Mấy chục năm sau, khi tôi phủ trên tấm thân không một mảnh vải của cô, mới phát hiện ra vú trái cô thoái hóa tới mức không để lại mọt vết tích, đầu vú chỉ như một nốt ruồi để chứng tỏ cái vú đã từng tồn tại. Cô ngồi trên cái mông người chết, hai tay vuốt mặt như người bị tâm thần, cứ vuốt một cái trên mặt lại chùi hai cái trên đầu gối, làm như cô vừa chui ra khỏi mạng nhện, mặt vướng đầy tơ. Những người khác thì mỗi người một vẻ, người khóc người cười, người nhắm mắt nói lảm nhảm, người lắc cổ không lúc nào ngừng như con rắn dưới nước, như chim hạc trên bờ. Người có thân hình thanh mảnh kia là vợ anh bán mắm tôm Cảnh Đại Lạc, quê Bắc Hải. Người phụ nữ đầu nhỏ cổ cao, cái đầu nhỏ đến nỗi hoàn toàn không tương xứng với thân thể. Có người bảo chị ta là rắn hóa thành người. Cái đầu và cổ của chị qua thật giống rắn, ló hẳn lên trên đầu đám phụ nữ, trong ánh sáng mờ mờ, cái đầu lắc lư chúng tỏ chị ta đúng là rắn. Chị lại rụt cố xuống. Tôi không dám đến xem thân hình chị ta, mắt trợn tròn vì sợ, hình ảnh chị cứ lởn vởn trong đầu tôi.
Một con rắn to màu xanh vỏ chanh từ trên cột gỗ sam bò xuống. Đầu nó dẹt như cái muỗng xúc cơm, lưỡi đỏ chót không ngừng bắn ra khỏi miệng. Khi đầu nó vừa chạm thớt trên của cối, liền trườn ra một cách mềm mại thành một góc vuông rồi nhẹ nhàng bò đến gần lũ chuột ở giữa cối. Lũ chuột giơ chân trước lên kêu chí chí. Khi cái đầu con rắn trườn đi, phần thân của nó quấn quanh cột vẫn tiếp tục chuyển động, trông như không phải con rắn mà là cái cột chuyển động xoay tròn. Cái đầu con rắn đến giữa thớt cối thì ngóc lên cao đúng một thước, bạnh cổ bằng hai bàn tay chập lại, những hoa văn trên cổ dồn đuổi nhau không ngừng bạnh ra thu vào, cái lưỡi phóng ra càng nhanh, càng đáng sợ, rít lên thành tiếng. Lũ chuột chôn chân tại chỗ, rúm người lại chỉ còn một nửa. Một con đứng thẳng lên bằng hai chân sau, hai chân trước vươn ra như cầm sách để đọc, rồi đột nhiên nhảy vào miệng rắn khi ấy há to như cái phễu. Sau đó, con rắn ngậm miệng lại, một nửa con chuột thò ra ngoài, cái đuôi dài ve vảy một cách tức cười.
Tư Mã Khố ngồi trên một khúc gỗ sam đầu cúi gằm, tóc tai rối bù. Chị Hai nằm dài vắt qua gối đầu ngả vào nách anh ta. Da cổ chị nhăn thành nhiều nếp, mặt trắng bệch, miệng há hốc. Chị đã chết. Bác-bít ngồi kề bên Tư Mã Khố, những nét già nua hằn trên khuôn mặt trẻ thơ của anh ta. Nửa người trên của chị Sáu nằm đè lên đầu gối Bác-bít, run lên từng cơn. Bác-bít dùng bàn tay hộ pháp nhăn nhúm vì nước mưa, ve vuốt bờ vai chị Sáu. Sau cánh cổng mục, một người gầy guộc đang tính chuyện tự vẫn, chiếc quần dài tụt dưới mông, quần lót màu cháo lòng lấm đầy bùn. Ông ta định buộc đầu thắt lưng bằng vải lên khung cổng, nhưng vì khung quá cao, ông ta cứ kiễng mãi mà không tới. Nhìn sau gáy, tôi biết ông ta. Đó là Tư Mã Đình, bác của Tư Mã Lương. Cuối cùng, ông ta mệt, xốc quần lên, thắt lại thắt lưng, quay lại nhìn chúng tôi cuối, tỏ vẻ xấu hổ, ngồi phệt xuống bùn mà khóc tướng lên.
Gió sớm mai từ ngoài đồng thổi vào như con mèo đen ẩm ướt. Con mèo đen miệng ngậm chú cá giếc long lanh vẩy bạc, ung dung đi trên mái tôn. Mặt trời đỏ như máu nhô lên từ đầm lầy mênh mông những nước là nước, vẻ mệt mỏi. Lũ tràn lên, sông Thuồng Luồng réo ào ào, phá tan bầu không khí tĩnh mịch của ban mai. Chúng tôi ngồi trên thớt cối, bắt gặp ánh nắng màu hồng mờ mờ sương. Sau một đêm mưa xối xả, những ô kính cửa sổ sạch bong, cánh đồng tháng Tám không bị cây che khuất hiện rõ mồn một. Bụi bậm trên đường trôi sạch, lộ ra nền đất cứng. Mặt đường trơn bóng, hai con cá chép bị mắc cạn nằm ườn ra trên đường, chưa chết hẳn, cái đuôi thỉnh thoảng lại quẫy một cái. Hai người đàn ông mặc quân phục màu xám, một cao một thấp, người cao gầy người thấp béo, khênh sọt loạng choạng đi tới, trong sọt có mười mấy con cá to, toàn là cá chép và trắm cỏ ngoài ra còn có một con lươn to màu kim nhũ. Họ sung sướng khi phát hiện hai con cá chép trên đường phố, vội khênh sọt chạy tới, dáng chạy vất vả, y như con vịt buộc vào con hạc.
- Cá chép? Người béo và lùn kêu lên.
Khi họ cúi nhặt cá, tôi trông thoáng khuôn mặt họ. Đúng là hai người phục vụ hôm tiệc cưới. Họ là hai tên nội ứng của trung đoàn 17. Bọn lính gác đứng nhìn những người nhặt cá. Người trung đội trưởng phụ trách canh gác ngáp dài, bước tới bảo:
- Lưu béo, Hầu gầy này, các anh đúng là lấy trứng trong đũng quần, bắt cá trên cạn.
Hầu gầy nói:
- Trung đội trưởng Mã, anh vất vả quá?
Trung đội trưởng Mã nói:
- Vất vả thì kể gì, đói mềm người ra đây!
Lưu béo nói:
- Phải khao quân một bữa canh cá mới được, thắng to thế kia mà?
Trung đội trưởng Mã nói:
- Vài con cá thì ăn nhằm gì, chỉ béo bọn nhà bếp!
Hầu gầy nói:
- Anh to nhỏ gì cũng là cán bộ, cán bộ thì phải nói có sách mách có chứng, phê bình phải chú ý khía cạnh chính trị, không nên nói bừa!
- Đùa thôi mà, sao lại cho là thật? - Trung đội trưởng Mã nói - Hầu gầy này, mới có mấy tháng không gặp nhau mà cậu mồm mép khác hẳn!
Trong khi bọn lính đang cãi vã, mẹ chậm rãi đi tới, dáng đi nặng nề nhưng vững vàng dưới ánh nắng ban mai.
- Mẹ ơi! - Tôi vừa khóc vừa nhảy xuống, muốn bay tới sà vào lòng mẹ, nhưng tôi đã bị ngã sóng soài trên vũng bùn.
Khi tôi tỉnh lại, đầu tiên tôi trông thấy là khuôn mặt xúc động của chị Sáu, Tư Mã Khố, Tư Mã Đình, Bácbít, Tư Mã Lương.
- Mẹ đến đấy? - tôi bảo chị Sáu - chính mắt em trông thấy!
Tôi nhoài khỏi cánh tay chị Sáu chạy ra cửa, loạng choạng va phải một người, chạy tiếp, lại va phải vai một người nữa, lại chạy, cố sức rẽ đám đông. Cánh cổng chặn đường ra của tôi. Tôi đấm cửa thình thình, gào to:
- Mẹ ơi, mẹ!
Một tên lính gác thò đầu súng tiểu liên qua lỗ hổng, quát to:
- Không được ồn, sau bữa sáng sẽ thả các ngươi. Mẹ nghe thấy tiếng gào khóc của tôi, nhịp bước nhanh hơn. Mẹ nhảy qua cái rãnh bên đường, nhăm cổng nhà xay đi tới. Trung đội trưởng Mã ngăn mẹ lại:
- Đề nghị bác dùng lại!
Mẹ giơ tay gạt trung đội trưởng ra, không nói một lời tiếp tục tiến lên. Mặt mẹ đỏ rực như bôi lên một lớp máu, miệng méo xệch vì giận dữ.
Bọn lính gác vội vàng nhích lại gần nhau dàn thành một hàng ngang như bức tường sơn đen.
- Đứng lại, các bà đứng lại!
Trung đội trưởng Mã túm vai mẹ. Mẹ dưới lên cố giằng khỏi tay anh ta.
- Bà là ai! Bà muốn gì? - Trung đội trung Mã giận dữ hỏi, đẩy ngược mẹ một cái, mẹ lùi lại mấy bước, suýt ngã.
- Mẹ ơi! - Tôi gào lên sau cánh cổng.
Mẹ đứng thẳng lên, miệng mở to, tiếng gừ gừ trong họng. Mẹ bất chấp tất cả, lao tới.
Trung đội trung Mã đẩy một cái thật mạnh, mẹ ngã lăn xuống rãnh. Nước bắn tung tóe. Mẹ lộn một vòng trong rãnh rồi ngồi dậy, nước lút đến bụng. Mẹ trườn lên bờ rãnh, ướt như chuột lột, tóc bết bùn và nước bẩn. Một chiếc giày của mẹ đã mất, bàn chân tàn phế để trần, mẹ cà nhắc xông tới.
- Đứng lại? - Trung đội trưởng Mã lên cò súng, chĩa tiểu liên vào giữa ngực mẹ, hầm hầm: - Mụ định cướp tù hay sao?
Mẹ nhìn hắn bằng con mắt hằn học, nói:
- Tránh ra!
- Vậy mụ muốn gì? - Trung đội trưởng hỏi.
Mẹ gào lên:
- Tôi tìm con trai tôi!
Tôi càng gào to hơn, Tư Mã Lương đứng bên tôi cũng gọi:
- Bà ngoại ơi!
Chị Sáu cũng gọi:
- Mẹ ơi!
Bị lây tiếng khóc của chúng tôi, tất cả phụ nữ trong nhà xay đều khóc ầm lên. Tiếng khóc của phụ nữ xen
lẫn tiếng hỉ mũi của đàn ông và tiếng chửi của những tên lính.
Các binh sĩ vội vàng đằng sau quay, chĩa súng vào cánh cổng.
- Không được ồn! - Trung đội trưởng Mã quát - lát nữa sẽ thả các người?
- Bác ơi - Trung đội trưởng Mã ôn tồn bảo mẹ - Bác cứ về trước, chỉ cần con trai bác không tầm bậy là chúng tôi thả.
- Con tôi! - Mẹ chạy vòng qua trung đội trưởng Mã, gào to.
Trung đội trưởng Mã nhảy một bước đứng chặn trước mặt mẹ, nghiêm giọng nói:
- Tôi cảnh cáo bác, nếu bác tiến lên một bước là tôi không khách khí đâu đấy?
Mẹ nhìn thẳng vào mặt trung đội trưởng, hỏi khẽ:
- Ông có mẹ không? Ai đẻ ra ông?
Mẹ giơ thẳng cánh, cho trung đội trưởng Mã một bạt tai, rồi bỏ đi. Bọn lính gác rẽ sang hai bên nhường đòng cho mẹ.
Trung đội trưởng ôm mặt ra lệnh:
- Chặn mụ lại! Bọn lính gác bất động, làm như không nghe tiếng. Mẹ đứng trước cổng, tôi thò tay qua kẽ hở vừa gọi vừa vẫy rối rít.
Mẹ rút cái then cổng bằng sắt, tôi nghe thấy tiếng thở nặng nhọc của mẹ. Chiếc then cửa rung lên, một tràng đạn bắn vào phía trên cánh cổng, tiếng súng chói chang, những mảnh gỗ rơi xuống đầu tôi.
- Mụ kia, đứng im, cử động là ta bắn! - Trung đội trưởng Mã gầm lên, lại bắn chỉ thiên một tràng nữa.
Mẹ rút bỏ then sắt, đẩy cổng ra. Tôi mất đà, chúi vào lòng mẹ. Tư Mã Lương và chị Sáu cũng nhào tới. Lúc này, trong nhà xay có tiếng người hô:
- Anh em ơi xông ra, lát nữa là chết tất?
Các binh sĩ của Chi đội Tư Mã ùa ra như nước lũ. Chúng tôi bị những người đàn ông khỏe mạnh hất bắn sang bên. Tôi ngã, mẹ nằm đè lên tôi.
Trong nhà xay nhốn nháo, tiếng khóc, tiếng gầm, tiếng rú thê thảm hòa làm một. Bọn lính gác của trung đoàn 17 bị xô ngã dúi dụi, các binh sĩ của Chi đội Tư Mã tước lấy súng. Tiếng nổ làm cửa kính rung lên lanh canh. Trung đội trưởng Mã ngã xuống rãnh. Hắn đứng trong nước quét một vòng, hơn chục binh sĩ trong Chi đội Tư Mã đổ gục như ngả rạ. Các binh sĩ Chi đội Tư Mã chồm lên người trung đội trưởng Mã, đè hắn xuống rãnh đấm đá loạn xạ.
Binh mã của trung đoàn 17 chạy tới, vừa chạy vừa lên cò súng bắn vung vãi. Các binh sĩ của Chi đội Tư Mã chạy tán loạn, những viên đạn vô tình đuổi theo họ. Chúng tôi áp sát lưng vào tường nhà xay, dùng tay đẩy lui những người lấn tới.
Một người lính của trung đoàn 17 quì bắn dưới gốc cây bạch dương, tay giương súng, mắt nhằm bắn, cứ mỗi lần cây súng nẩy lên là một binh sĩ của Chi đội Tư Mã ngã xuống. Súng nổ đoàng đoàng, những vỏ đạn nóng bỏng rơi xuống nước bốc khói. Người lính lại nhằm một người thân hình cao lớn, đen nhẻm. Người đó đã chạy được mấy trăm thước. Anh ta nhảy trên ruộng đậu như con chuột túi. Đến chỗ ruộng dâu tiếp giáp với ruộng cao lương, người lính già từ tốn lẩy cò, một tiếng đoàng, người đang chạy cắm đầu xuống đất. Người lính già kéo cơ bẩm, một vỏ đạn văng ra.
Trong đám người nhốn nháo, Bác-bít nổi lên như một con la giữa đàn dê, cứ ngơ ngơ ngác ngác. Đàn dê kêu be be, xô đẩy nhau mà chạy. Bác-bít cất đôi chân dài ngoẵng với những bước nặng nề, chạy theo đám người, chân dẫm bùn nhem nhép. Anh chàng câm Tôn Bất Ngôn hung hãn như một con hổ đen, cùng với hơn chục đội viên cảm tử hò hét, múa đao chặn đàn dê. Đàn dê không kịp tránh bị chém bể đầu mấy con, tiếng kêu thê thảm vang vọng khắp cánh đồng. Đàn dê mất phương hướng, tiện đâu rúc đó. Bác-bít sợ tái người, nhìn tứ phía trong khoảnh khắc. Tôn Bất Ngôn xông tới. Bác-bít chợt tỉnh, bèn bỏ chạy thục mạng, mép sùi bọt, thở hồng hộc. Người lính già dưới gốc cây bạch dương nhằm bắn Bác-bít.
- Lão Tào, đừng bắn? - Lỗ Lập Nhân từ trong đám đông nhảy vọt ra, quát - Các đồng chí, không bắn người Mỹ đó!
Các binh sĩ khép dần vòng vây như người ta kéo lưới, các tù binh vẫn chạy nháo nhào trong khoảng hẹp đó chẳng khác đàn cá trong lưới, dần dà dồn cục lại ở quãng đường trước cổng nhà xay.
Thằng Câm nhảy xổ vào đám tù binh, đấm Bác-bít một quả. Bác-bít bị xoay một vòng, lại đối diện với Thằng Câm. Bác-bít xổ ra một tràng toàn tiếng tây, không hiểu anh ta chửi hay phản kháng. Thằng Câm giơ đao lên, ánh thép lấp lóa. Bác-bít giơ cánh tay lên làm như che ánh sáng lạnh của thanh đao.
- Bác-bít? - Chị Sáu từ chỗ mẹ loạng choạng chạy ra, nhưng chỉ được mấy bước liền ngã vật xuống, bàn chân trái của chị ló ra phía bên chân phải, người ngã nghiêng xuống đống bùn.
- Chặn Tôn Bất Ngôn lại - Lỗ Lập Nhân ra lệnh.
Mấy đội viên cảm tử đứng sau thằng câm níu lấy cánh tay thằng câm. Hắn gào thét điên cuồng, hất văng các đội viên cảm tử như những bó rạ. Lỗ Lập Nhân nhảy qua rãnh nước sang đứng bên đường, giơ một tay lên rất cao, gọi:
- Tôn Bất Ngôn, chú ý chính sách đối với tù binh!
Trông thấy Lỗ Lập Nhân, Tôn Bất Ngôn không vùng vẫy nữa. Các đội viên cảm tử bỏ tay hắn ra. Hắn giắt đao vào thắt lưng, giơ những ngón tay như gọng kìm túm lấy áo Bác-bít lôi đến trước mặt Lỗ Lập Nhân. Bác-bít nói mấy câu tiếng tây với Lỗ Lập Nhân. Lỗ Lập Nhân cũng nói lại vài câu ngắn gọn và giơ bàn tay chém vào không khí. Bác-bít im lặng. Chị Sáu giơ hai tay về phía Bác-bít tỏ vẻ cầu cứu miệng rên rỉ:
- Bác-bít!....
Bác-bít nhảy qua rãnh nước, xốc chị Sáu dậy. Cái chân trái của chị như đã chết. Bác-bít ôm eo chị, cố súc xốc chị dậy, chiếc váy lấm bê bết tụt xuống hở cái mông thâm tím. Chị ôm cổ Bác-bít. Bác-bít đỡ hai bên nách chị, rồi cả hai đứng lên. Bác-bít nhìn thấy mẹ, anh ta dìu chị Sáu nhích về phía mẹ, nói bằng tiếng Trung Quốc:
- Mẹ ơi! - môi anh ta run run, những giọt nước mắt lăn trên má.
Nước trong rãnh bắn tung tóe. Trung đội trưởng Mã gạt mấy cái xác đè trên người, lồm cồm bò dậy như một con cóc khổng lồ, bùn nước và máu dính trên áo mưa như những đốm trên thân con cóc, hai chân khuỳnh ra, run rẩy đứng lên, trông vừa đáng thương vừa tội nghiệp, thoạt trông như một con gấu, trông kỹ giống người anh hùng. Một mắt anh ta bị đánh lòi ra ngoài, con ngươi trong như thủy tinh lủng lẳng trên sống mũi. Anh ta gãy hai răng cửa, cằm rắn như thép rỉ máu.
Một nữ binh đeo túi chạy tới đỡ trưởng đội trưởng Mã đang ngật ngưỡng.
- Thưa đội trưởng, ở đây có thương binh nặng! - Người nữ binh gọi, thân hình mảnh dẻ của cô ta oằn xuống dưới sức nặng của trung đội trưởng Mã.
Lúc này, Phán Đệ to béo dẫn hai dân phu vác cáng chạy tới. Chiếc mũ lính bé tí đội trên đầu, dưới vành mũ là khuôn mặt rộng, béo núc ních, chỉ có hai vành tai lộ ra dưới mái tóc ngắn là giữ được vẻ thanh tú của phụ nữ nhà Thượng Quan.
Không do dự, chị dứt bỏ con ngươi lòi ra của trung đội trưởng Mã, tiện tay vứt ngay bên cạnh. Con mắt đảo một cái rồi nằm yên, nhìn chúng tôi bằng ánh mắt căm thù.
- Đội trưởng ơi, nói với Lỗ đoàn trưởng là...- Trung đội trưởng Mã chỉ mẹ nói - chính mụ ta mở cổng?
Chị Phán Đệ băng quanh đầu cho trung đội trưởng Mã hết vòng nọ đến vòng kia, cho đến khi không thể há miệng.
Chị Phán Đệ đứng trước mặt chúng tôi, lúng búng gọi mẹ.
Mẹ nói:
- Tôi không phải là mẹ của bà!
Chị Phán Đệ nói:
- Con đã nói rồi, mười năm Hà Đông, mười năm Hà Tây, phải xem lại mình đã chứ?
Mẹ nói:
- Tôi xem rồi, tôi đã thấy tất cả?
Chị Phán Đệ nói:
- Nhà có chuyện gì con đều biết. Mẹ không đối xử tệ với con gái của con, con sẽ giải thoát cho mẹ?
Mẹ nói:
- Chị không cần giải thoát cho tôi, tôi sống quá đủ rồi!
Chị Phán Đệ nói:
- Chúng con đã lấy lại được thiên hạ rồi!
Mẹ nhìn lên bầu trời đầy mây, lẩm bẩm...
- Chúa ơi, Người hãy nhìn kỹ đi, nhìn kỹ cái thế giới này đi!
Chị Phán Đệ bước tới, lạnh lùng xoa đầu tôi. Tôi ngửi thấy trên tay chị cái mùi thuốc mà tôi không ưa. Chị không xoa đầu Tư Mã Lương, tôi đoán chắc Tư Mã Lương không cho chị xoa đầu nó. Hàm răng như răng thú nhỏ của nó nghiến ken két, chắc chắn sẽ cắn đứt ngón tay chị khi chị xoa đầu nó. Chị Phán Đệ mỉm cười châm biếm, bảo chị Sáu:
- Đẹp mặt, đế quốc Mỹ đang cung cấp máy bay đại bác cho kẻ thù của chúng ta tàn sát nhân dân vùng giải phóng!
Chị Sáu ôm Bác-bít, nói:
- Chị Năm tha cho chúng em! Các người đã giết chết chị Hai, chẳng lẽ định giết hết chúng tôi hay sao?
Lúc này, Tư Mã Khố bế xác chị Chiêu Đệ, cười như điên loạn, từ trong nhà xay đi ra. Nhân lúc binh sĩ của anh ta ùa ra cổng, anh ta lẳng lặng ở lại trong nhà. Con người xưa nay vẫn ăn mặc tươm tất, đánh bóng từng cái cúc áo vậy mà chỉ qua một đêm đã khác hẳn, mặt hằn những vết nhăn, mắt thâm quầng, tóc đốm bạc. Anh ta quì trước mặt mẹ, hai tay nâng cái xác của chị Hai đã cạn máu.
Miệng mẹ càng méo xệch đi, miệng run lên không nói được một câu cho trọn nghĩa, nước mắt đầm đìa. Mẹ giơ tay sờ trán chị Hai, tay kia đõ lấy cằm nói:
- Chiêu Đệ, con của mẹ! Người là do con chọn, con đi đường của con, mẹ không ngăn được con, cũng không cứu nổi con, các con đều... thôi thì phó mặc cho trời!
Tư Mã Khố đặt thi thể chị Hai xuống đất, tiến về phía Lỗ Lập Nhân đang đi tới, xung quanh là mười mấy vệ binh. Hai người còn cách nhau vài bước chân thì dừng lại, bốn mắt nhìn nhau tóe lửa, hồi lâu mà vẫn không bên nào chịu thua bên nào. Lỗ Lập Nhân cười khan ba tiếng:
- Ha ha, ha ha, ha ha ha!
Tư Mã Khố cũng cười nhạt ba tiếng: - Hà hà, hà hà, hà hà hà?
- Tư Mã huynh, xin chớ trách? Chưa đầy một năm kể từ khi huynh đuổi ta ra khỏi vùng này, không ngờ hôm nay số phận đó lại rơi trên đầu huynh!
Tư Mã Khố nói:
- Vay nóng trả vội thôi, có điều, huynh phải trả một giá quá đắt đấy!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Về chuyện quí phu nhân bất hạnh qua đời, ta cũng rất đau xót, nhưng biết làm thế nào! Cách mạng như mổ cái ung nhọt, tránh sao cắt bỏ ít da thịt! Nhưng ta không thể vì sợ phương hại đến da thịt mà không cắt bỏ cái ung, huynh nên hiểu điều đó!
Tư Mã Khố nói:
- Đừng nhiều lời nữa, cho ta chết quách cho rồi!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Chúng tôi không thể xử tử huynh một cách đơn giản như vậy.
Tư Mã Khố nói:
- Vậy thì xin lỗi, ta tự giải quyết vậy. Anh ta móc khẩu súng mạ bạc ra, lên cò, quay lại nhìn mẹ nói:
- Thưa nhạc mẫu, tôi đã trả thù hộ bà! - Rồi đưa súng lên thái dương.
Lỗ Lập Nhân cười lớn:
- Rốt cuộc cũng chỉ là thằng hủ nho? Tự sát hả, đồ hèn?
Tay cầm súng của Tư Mã Khố run bắn lên.
Tư Mã Lương gào to: - Bố ơi!
Tư Mã Khố ngoảnh nhìn con trai một thoáng, tay cầm súng từ từ buông xuôi. Anh ta mỉm cười tự giễu mình, quăng khẩu súng cho Lỗ Lập Nhân, nói:
- Cầm lấy!
Lỗ Lập Nhân giơ tay bắt lấy khẩu súng tung trong tay, nói
- Đây là đồ chơi của phụ nữ - Hắn ném khẩu súng cho người ở phía sau một cách khinh miệt, rồi dận đôi giày da sưng phồng vì nước mưa và bùn, nói: - Quả thực khi đã nộp súng, ta không có quyển bắn chết huynh nữa. Cấp trên của ta sẽ chọn cho huynh một con đường, hoặc lên trời, hoặc xuống địa ngục!
Tư Mã Khố lắc đầu, nói:
- Ngươi nói không đúng rồi, thiên đường hay địa ngục đều không dành cho chúng ta. Chỗ của ta là khoảng giữa thiên đường và địa ngục. Rồi thì ngươi cũng như ta thôi!
Lỗ Lập Nhân bảo người đứng bên:
- Giải hắn đi!
Vệ binh bước tới, chĩa súng vào Tư Mã Khố và Bác-bít, nói:
- Đi!
Tư Mã Khố gọi Bác-bít:
- Đi thôi! Chúng có thể giết tôi một trăm lần, nhưng không dám đụng đến cái lông chân của anh đâu?
Bác-bít dìu chị Sáu đến bên Tư Mã Khố. Lỗ Lập Nhân nói:
- Phu nhân Bác-bít có thể ở lại.
Chị Sáu nói:
- Đoàn trưởng Lỗ, ông hãy thể tình mẹ tôi đã nuôi nấng Lỗ Thắng Lợi mà tha cho vợ chồng tôi!
Lỗ Lập Nhân lấy tay đẩy cái kính gãy gọng trên mũi, nói với mẹ:
- Mẹ nên khuyên cô ấy?
Mẹ kiên quyết lắc đầu, ngồi xuống, bảo tôi và Tư Mã Lương:
- Đặt lên lưng giúp ta?
Tôi và Tư Mã Lương khênh thi thể chị Chiêu Đệ đặt lên lưng mẹ.
Mẹ cõng chị Hai trên lưng, chân trần bước đi trong bùn trở về nhà. Tôi và Tư Mã Lương, đứa bên trái đứa bên phải đỡ lấy hai chân lạnh cúng của chị Hai để cho mẹ đỡ nặng.

6
Nước sông Thuồng Luồng dâng cao. Từ trên giường nhà tôi nhìn qua cửa sổ sau nhà, có thể nhìn thấy nước lũ ngang mặt đê, cuồn cuộn chảy về đồng. Các binh sĩ của trung đoàn 17 thuộc Trung đội 8 đứng quay mặt ra sông đang bàn tán về chuyện gì đó. Trong sân, mẹ đang chuẩn bị nướng bánh. Sa Tảo Hoa giúp mẹ nhóm lò. Củi bị ẩm, ngọn lửa vàng vọt, khói nồng nặc, che khuất cả ánh nắng.
Tư Mã Lương cùng với mùi hăng hắc của cây hòe bước vào nhà. Mùi hắc của cây hòe khiến chúng tôi phấn chấn lên. Nó nói:
- Chúng định giải bố cháu và dì Sáu lên quân khu. Chồng dì Ba và bọn lính đang kết bè, chuẩn bị vượt sông.
- Lương này. - Mẹ từ ngoài sân nói vào - Cháu dẫn cậu và dì út lên đê, bảo họ đừng sang vội, để bà ra tiễn.
Nước sông đục ngầu, cuốn theo rơm rạ, rác rưởi, dây khoai lang, xác súc vật, giữa dòng còn có cả một cây lớn. Cây cầu bị Tư Mã Khố đốt cháy ba khúc đã bị cuốn, chỉ còn dòng nước cuồn cuộn với tiếng réo ào ào chứng minh nó đã từng tồn tại. Những lùm cây trên thân đê đã bị nhận chìm đôi chỗ, chỉ còn vài cành ló lên mặt nước.
Mặt sông rộng mênh mông, từng dàn hải âu màu xám đuổi theo bọt sóng, chốc chốc lại bắt được một con cá nhỏ. Bên kia bờ sông chỉ còn như một sợi chí, bập bềnh trên sóng nước lóa mắt. Nước chỉ còn cách mặt đê vài đốt ngón tay, đôi chỗ cái lưỡi màu vàng của nó đã liếm mặt đê thành rãnh nhỏ, róc rách chảy vào trong đồng.
Khi chúng tôi lên tới mặt đê, thằng câm Tôn Bất Ngôn đang đái xuống sông, bộ máy sinh dục của hắn to quá cỡ, nước đái vàng khè, chảy tong tỏng xuống mặt nước. Trông thấy chúng tôi, hắn mỉm cười thân mật, móc túi lấy ra chiếc còi làm bằng vỏ đạn, thổi lên ríu rít những tiếng chim, tiếng trầm của họa mi, tiếng líu ríu của vàng anh, tiếng nức nở của bách linh. Tiếng chim quyến rũ, khuôn mặt có vết bớt của hắn tỏ ra đôi chút dịu dàng. Thổi đã rồi, hắn vẩy cho hết nước bọt trong còi, đưa cho tôi, miệng ú ớ ý tứ rất rõ, hắn tặng tôi chiếc còi. Tôi lùi lại, khiếp đảm nhìn hắn. Chị Tám nấp sau Tư Mã Lương, bàn tay trắng nhợt túm chặt cánh tay của nó. Bộ mặt nhà ngươi khi vung đao chém người, ta không bao giờ quên? Đồ quỉ? Hắn lại đưa chiếc còi cho tôi, miệng ú ớ tỏ ra bồn chồn không yên. Tôi lùi thì hắn tiến. Tư Mã Lương nói nhỏ sau lưng tôi:
- Đừng lấy cậu ạ, cái còi của thằng câm là để gọi ma, khi nào chiêu hồn ngoài nghĩa trang thì người ta thổi?
- Âu, âu! - Thằng câm giận dữ nhét chiếc còi vào tay tôi rồi đi tới chỗ những người đang kết bè.
Tư Mã Lương giằng lấy cái còi, xem rất kỹ dưới nắng xem có gì bí mật không. Nó bảo tôi:
- Cậu ạ, cháu là linh miêu, không thuộc con nào trong mười hai con giáp, chẳng ma nào hại nổi cháu! Để cháu giữ cái còi này hộ cậu!
Nói xong, nó bỏ cái còi vào túi quần. Nó mặc chiếc quần xanh chỉ ngắn đến đầu gối, phía trên cạp may thêm rất nhiều túi, to có nhỏ có, kín có hở có. Trong túi nó đụng rất nhiều thứ kỳ quặc, viên đá đổi màu dưới ánh trăng, lưỡi cưa nhỏ có thể cưa đứt mẩu gạch, hạt hạnh các cỡ, lại còn có đôi chân chim sẻ, xương đầu một con ếch. Lại có cả răng người, có cái là của nó rụng, có cái là của chị Tám, có cái là của tôi. Mẹ thường ném răng rụng của tôi qua mái nhà, nhưng nó vẫn đi nhặt về. Răng chị Tám thì chị để trên bậu cửa sổ, nó đến nhặt bỏ túi. Tìm một cái răng trong đám cỏ um tùm và đầy rác rưởi sau nhà đâu phải dễ? Nhưng Tư Mã Lương bảo tôi:
- Nếu mình có ý định tìm kiếm vật gì đó thì nó sẽ nhảy ra trước mặt.
Bây giờ trong túi của nó có thêm một chiếc còi gọi ma cho bộ sưu tập. Tôi đi đôi guốc mộc - mẹ nói nó là quà tặng của mục sư Malôa cho Thọ Hỉ. Chị Tám không có giày. Tư Mã Lương đi chân đất. Chúng tôi đến gần những người đang làm bè.
Hơn mười binh sĩ của trung đoàn 17 như lũ kiến khuân mồi, khênh cây gỗ thông nặng đi trong ngõ. Trên phố có tiếng lắc rắc, tháp canh của Tư Mã Đình đang bị dỡ. Tôn Bất Ngôn là thủ lĩnh cả đám binh sĩ, hắn chỉ huy họ ghép các cây gỗ thông lại với nhau, rồi dùng dây thép liên kết lại. Ông già Tôn Long là thợ mộc nổi tiếng trong vùng, đảm nhiệm cố vấn kỹ thuật. Tôn Bất Ngôn đang nổi cáu với ông già, nhảy chồm chồm như con hắc tinh tinh, miệng sùi bọt. Ông già Long đứng nghiêm, tay buông thõng một cách chịu đựng, tay trái cầm đanh móc, tay phải cầm búa. Hai đầu gội đầy những vết sẹo của ông chụm lại, bóng gân xanh nổei lên to tướng ở bắp chân. Ông đi guốc, đôi guốc ông tự làm lấy khi tạc tượng Chúa Giêsu còn thừa một đoạn gỗ táo, theo lời khuyên của mục sư Malôa.
Lúc này, một vệ binh cưỡi xe đạp, khoác tiểu liên trên lưng, từ phía ngõ đi tới. Đến chân đê, anh ta dựa xe, khom người đi lên. Anh ta bị thụt một chân xuống lỗ chuột đồng, khi rút chân lên, cái lỗ đùn lên toàn là nước đục. Tư Mã Lương bảo:
- Xem kìa, đê sắp vỡ rồi!
Anh vệ binh cũng kêu lên:
- Nguy rồi, ở đây có một lỗ hổng?
Các binh sĩ trung đoàn 17 nhốn nháo cả lên, bỏ dở công việc đang làm, chạy xuống xem cái lổ hổng đùn nước. Trên mặt Tôn Bất Ngôn lộ vẻ kinh hoàng ít khi thấy ở hắn. Hắn nhìn dòng sông cuồn cuộn, cao hơn nóc nhà cao nhất trong thôn. Hắn cởi yên đao quẳng xuống mặt đê, cởi vội áo, quần dài, chỉ mặc chiếc quần đùi, rồi hắn ú ớ với bọn lính. Đám lính ngẩn người ra nhìn hắn như gà nuôi lấy thịt. Một tên lông mày rậm hỏi Tôn Bất Ngôn:
- Anh bảo sao, bảo chúng tôi xuống nước hả?
Thằng Câm nhảy tới trước mặt anh lính túm lấy ngực áo anh ta xoắn đứt các cúc áo. Trong lúc khẩn cấp ấy, Thằng Câm buột miệng nói ra được một tiếng:
- Cởi!
Ông già Tôn Long nhìn cái lỗ hổng rồi lại nhìn cái xoáy nước phía ngoài đê, nói:
- Thưa các ông, đây là cái hang chuột, bên trong còn to hơn cái chum, vị thủ lĩnh bảo các ông cởi quần áo phụ với ông ta lấp lỗ hổng, vậy các ông cứ cởi ra, chùng chình là vô phương cứu chữa. Ông già cởi chiếc áo vá chằng vá đụp ra quẳng xuống trước mặt Thằng Câm. Các binh sĩ vội vàng cởi quần áo.
Một chú lính trẻ chỉ cởi áo khoác ngoài, không cởi quần dài. Thằng Câm nổi giận, lại gầm lên cái từ ban nãy: - Cởi!
Chó cùng dứt giậu, mèo cùng trèo cây, thỏ cùng cắn người, Thằng Câm cùng thì nói thành tiếng Cởi, cởi, cởi!, cứ thế mà gầm lên.
Chú lính trẻ run rẩy:
- Thưa tiểu đội trưởng, em không mặc quần đùi!
Thằng Câm nhặt thanh đao lên kề vào gáy chú lính, quay ngược sống đao gõ hai cái. Tên lính mặt vàng như nghệ, lắp bắp nói:
- Ông câm ơi, em xin cởi, xin cởi mà!
Chú lính cúi xuống tháo xà cạp, cởi quần, phơi ra cái bụng trắng hếu và con chim bé tí mới mọc lông. Chú lính xấu hổ lấy tay che nó lại. Thằng Câm tiến đến định bắt tên lính cưỡi xe đạp cởi quần áo, tên này nhảy vội lên xe, chỉ hai cái ấn là phóng như bay xuống chân đê, hắn vừa đạp vừa kêu to:
- Vỡ đê rồi! Vỡ đê rồi!
Thằng Câm xếp quần áo thành đống, lấy xà cạp buộc lại. Ông già Long kéo đổ dàn biển đậu dưới chân đê, bó cọc dàn cùng với dây biển đậu thành từng bó. Các binh sĩ giúp ông vác lên mặt đê. Thằng Câm ôm bọc quần áo định nhảy xuống nước. Ông già chỉ cái xoáy nước rồi lục lọi trong hòm đồ nghề của ông, lấy ra cái chai mật lợn màu xanh, mở nút, mùi rượu xộc lên. Ông già đưa chai rượu cho Thằng Câm, hắn ngửa cổ uống cạn rồi giơ ngón tay cái biểu dương ông già, hét to:
- Cởi!
Hắn nói Cởi trường hợp này có nghĩa là tốt, những người có mặt ai cũng hiểu như thế. Thằng Câm ôm bọc quần áo nhảy xuống nước. Mặt nước dãn ra. Cái lỗ hổng bên ngoài đê giờ đây đã to bằng cái cổ con ngựa, dòng nước hung hãn chui vào trong lỗ, rồi vọt ra phía ngõ trong đê, chảy thành một dòng sông nhỏ nước đục ngầu đã tràn tới cổng nhà tôi. So với con đê Thuồng Luồng cao ngất đằng sau, nhà cửa trong thôn chỉ như đồ chơi của trẻ con. Thằng Câm vừa xuống nước đã biến mất. Chỗ hắn lặn xuống là cái xoáy đầy bọt và rơm rác. Những con hải âu láu cá bay lượn trên cao. Cặp mắt tinh tường bằng hạt đậu đen của chúng chú mục vào chỗ Thằng Câm lặn xuống như chờ đợi điều gì đó. Tôi trông rõ cái miệng đỏ lòm và cặp chân đen sì dưới cái bụng trắng của chúng.
Chúng tôi sốt ruột nhìn mặt nước. Một vật như quả dưa hấu đen sì đảo một cái trên mặt nước rồi lại chìm nghỉm nhưng lại xuất hiện rất nhanh ở phía trước. Một vật như con ếch khô khổng lồ đạp chân đúng kiểu bơi của ếch, bơi chéo vào bờ. Khi đến chỗ nước tương đối lặng sát thân đê, hai chân lại đạp tạo nên những ngấn nước rất đẹp. Các binh sĩ trung đoàn 17 căng mắt để nhìn, cổ vươn ra. Do tất cả đều cởi trần, nên trông giống những phạm nhân đang chờ hành quyết. Quần lót của họ chẳng khác quần lót của Thằng Câm vải cứng như tôn lá. Chú lính cởi truồng hai tay ôm lấy bộ tam sự, cũng vươn cổ nhìn xuống nước. Ông già Tôn Long thì nhìn lỗ hổng trong đê. Nhân dịp này Tư Mã Lương lén gại thử vào lưỡi dao của Thằng Câm, sắc như nước, chém đầu như bổ dưa.
- Tốt rồi, bịt được rồi - Ông già Tôn Long kêu to.
Nước chảy chậm dần qua cái lỗ hổng, sức nước giảm đi nhiều, từ chỗ chảy ồ ồ chỉ còn róc rách. Thằng Câm vọt lên khỏi mặt nước như một con cá quả khổng lồ, đám hải âu hoảng sợ vọt lên cao. Hắn dùng bàn tay hộ pháp vuốt nước trên mặt, nhổ phì phì đất cát trong miệng ra. Ông già Tôn gọi binh lính quẳng các bó biển đậu xuống sông. Thằng Câm túm lấy từng bó dìm xuống rồi nhô người lên một cái, quẫy hai chân lặn theo. Lần này thì thời gian dưới nước tương đối ngắn, hắn đã ngoi lên lấy hơi. Ông già Tôn Long đưa xuống một cành cây dài định kéo hắn lên, nhưng hắn xua tay, lại lặn xuống. Tiếng thanh la dồn dập trong thôn. Tiếng thanh la chưa dứt đã vang lên tiếng hô khẩu lệnh, từng đội vác súng từ các ngõ chạy lên mặt đê. Lỗ Lập Nhân và đội bảo vệ của anh ta chạy từ ngõ nhà tôi lên. Vừa lên đến nơi, anh ta hỏi:
- Vỡ chỗ nào?
Ông già Long nói với Lỗ Lập Nhân:
- Thưa trưởng quan, may mà có ông Tôn, nếu không, làm mồi cho ba ba!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Nhân dân làm mồi cho ba ba thì chúng tôi cũng làm mồi cho cua cái!
Anh ta bước tới chỗ Thằng Câm, giơ ngón tay cái biểu dương hắn. Thằng Câm toàn thân nổi da gà, môi dính bùn, nhìn Lỗ Lập Nhân cười hềnh hệch.
Lỗ Lập Nhân ra lệnh cho các binh sĩ đào đất gia cố thân đê. Công việc ghép bè tiếp tục tiến hành, nhất định đến trưa phải đưa được tù binh sang sông. Đội áp giải của quân khu sẽ tiếp ứng ở bờ sông bên kia. Những binh sĩ không có quần áo thay thì về chỗ trú quân nghỉ ngơi. Những binh sĩ được biểu dương càng hăng hái, thề chết hoàn thành nhiệm vụ. Lỗ Lập Nhân lệnh cho cần vụ chạy về đoàn bộ lấy một cái quần cho chú lính trẻ thay. Lỗ Lập Nhân cười hì hì, nói với chú lính trẻ:
- Chỉ toàn lông tơ, chứ đã đủ lông đâu mà xấu hổ?
Trong khi liên tiếp ra hàng loạt mệnh lệnh, Lỗ Lập Nhân còn tranh thủ hỏi tôi:
- Mẹ có khỏe không? Thắng Lợi có ngoan không?
Tư Mã Lương kéo tay tôi, tôi không hiểu ý của nó, nó bảo Lỗ Lập Nhân:
- Bà ngoại yêu cầu được tiễn bố cháu, bác đợi bà ngoại ra hãy sang sông!
Ông già Tôn Long tinh thần phấn chấn, chỉ trong nửa tiếng đồng hồ đã ghép xong chiếc bè rộng mười mấy mét vuông. Không có bơi chèo, ông già đề nghị thay thế bằng xẻng, dùng những chiếc mai gỗ càng tốt. Thế là Lỗ Lập Nhân lại ra lệnh đi lấy xẻng.
- Cháu về bảo với bà ngoại - Lỗ Lập Nhân nói với Tư Mã Lương - Ta chấp thuận yêu cầu của bà!
Anh ta giơ tay xem đồng hồ, nói:
- Các cháu có thể về được rồi!
Nhưng chúng tôi không về vì đã trông thấy mẹ khoác trên tay một cái làn trên phủ vuông vải trắng, tay xách bình nước trà, bước ra khỏi cổng. Sau lưng mẹ là Sa Tảo Hoa. Nó ôm trong tay một bó hành sống. Đi sau bó hành là chị em sinh đôi Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng; sau Phượng và Hoàng là hai con trai của Thằng Câm, anh em sinh đôi: Câm-lớn, Câm-bé; sau Câm-lớn, Câm-bé là Lỗ Thắng Lợi vừa lẫm chẫm biết đi; sau Lỗ Thắng Lợi là chị Lai Đệ trát bự son phấn. Cái đội ngũ ấy đi rất chậm.
Hai đứa con gái sinh đôi thì chăm chú nhìn các dàn biển đậu xen kẽ với hoa khiên ngưu, chúng đang tìm bắt chuồn chuồn, bươm bướm và những cái xác ve sầu. Hai đứa con trai sinh đôi thì mắt như dán vào các cây hai bên ngõ, những cây hòe, cây liễu và những cây dâu thân có màu vàng nhạt, chúng tìm những con sên, thức ăn rất ngon mà chúng ưa thích. Lỗ Thắng Lợi thì tìm những chỗ có nước mà bước vào. Nó dẫm trên nước lép nhép, những tiếng cười ngây thơ vang lên khắp ngõ. Dáng đi đoan trang của chị Lai Đệ cho tôi biết rằng thái độ của chị rất trịnh trọng, mặc dù ở trên đê, chúng tôi không thể nhìn rõ nét mặt chị, mà chỉ nhìn thấy xanh đỏ lòe loẹt trên mặt chị.
Lỗ Lập Nhân cầm lấy chiếc ống nhòm trên cổ một vệ binh, nhìn sang bờ bên kia, một cán bộ dưới quyền đứng bên anh ta sốt ruột hỏi:
- Đã đến chưa?
Lỗ Lập Nhân tiếp tục quan sát, nói:
- Chưa, chẳng có ma nào cả, chỉ có mỗi con quạ đang mổ phân!
- Liệu có chuyện gì chăng? - Người cán bộ lo lắng.
- Không có chuyện gì đâu - Lỗ nói - Đội áp giải của quân khu toàn là những tay súng cừ khôi, bán đảo Sơn Đông không có ai là đối thủ?
Cán bộ kia nói:
- Quả có vậy. Khi tôi tập huấn trên quân khu, đội áp giải tù binh có biểu diễn cho xem. Tôi phục nhất là cái môn chọc thủng gạch của họ. Anh nghĩ coi, viên gạch rắn là thế mà họ chỉ dùng một ngón tay khoan ngay một lỗ xuyên qua, ngay cả mũi khoan cũng không nhanh bằng. Họ định giết ai thì chỉ một ngón tay là chọc thủng một lỗ, không cần đến vũ khí. Đoàn trưởng, nghe tin một số cán bộ sẽ chuyển ngành sang tổ chúc chính quyền...
- Đến rồi! - Lỗ Lập Nhân nói - Báo cho tiểu đội thông tin, phát tín hiệu cho bên kia!
Một binh sĩ tầm vóc nhỏ bé nhanh nhẹn giơ khẩu súng lục nòng to kỳ lạ chĩa lên khoảng không trên sông bắn một phát. Một quả cầu lửa màu vàng bay vọt lên không trung, đứng lại một thoáng rồi xì ra một làn khói trắng, kéo theo một tiếng nổ, rơi xuống giữa lòng sông. Khi quả cầu lửa rơi xuống, một con hải âu đảo cánh định đớp, nhưng nó kêu lên một tiếng lảnh lói, lảng ra xa. Bờ bên kia, một đám người nhỏ li ti đang đứng, sóng nước rập rờn khiến tôi nghĩ rằng họ đang đứng trên mặt nước chứ không phải trên mặt đê.
- Đổi tín hiệu! - Lỗ Lập Nhân nói.
Chú lính lấy ngọn cờ đỏ giắt bên người, buộc vào cành liễu mà ông già Long quẳng dưới đất. Chú ta phất ngọn cờ đỏ với bờ bên kia, bờ bên kia vọng lại tiếng hoan hô.
- Tốt rồi! - Lỗ Lập Nhân đeo ống nhòm vào cổ, quay sang lệnh cho người cán bộ dưới quyền: - Tham mưu Tiền, chạy về bảo Tham mưu trưởng Đỗ giải tù binh ra!
Người cán bộ chạy đi.
Lỗ Lập Nhân nhảy lên bè, ra sức dẫm mạnh để thử độ bền. Anh ta hỏi ông già Tôn Long:
- Ra đến giữa sông, bè không vỡ chứ?
Ông già Tôn Long nói:
- Xin thượng quan yên tâm, năm Dân quốc thứ mười, cái bè đưa dân biểu Triệu qua sông, chính là do tôi ghép.
Lỗ Lập Nhân nói:
- Hôm nay ta phải đưa một tên phạm nhân do thượng cấp chỉ đích danh, không thể để xảy ra bất cứ sơ suất nào.
- Thủ trưởng yên tâm, nếu bè vỡ thì cứ chặt chín ngón tay của tôi đi!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Không nhất thiết phải như thế, nếu bè vỡ thì có chặt cả mười ngón tay của tôi cũng vô dụng.
Mẹ dẫn đội ngũ của mẹ trèo lên mặt đê. Lỗ Lập Nhân chạy tới đón, rất khách sáo:
- Bà ơi, bà đợi một lát, họ ra ngay bây giờ!
Anh ta cúi xuống làm thân với Lỗ Thắng Lợi, nhưng nó sợ, khóc toáng lên. Lỗ Lập Nhân lúng túng sửa lại dây kính thay cho gọng, nói:
- Con bế này, ngay cả bố đẻ nó cũng không nhận ra!
Mẹ thở dài:
- Rể! Năm nay, các anh cứ quần nhau như vậy biết khi nào mới thôi?
Lỗ Lập Nhân đã có chủ ý, nói:
- Bà mẹ yên tâm, lâu là ba năm, chóng là hai năm, mẹ có thể sống trong hòa bình rồi!
Mẹ nói:
- Tôi là đàn bà, lẽ ra không nên nhiều lời, liệu anh có tha cho họ không? Nói gì thì nói, các anh là anh em cọc chèo với nhau.
Lỗ Lập Nhân cười:
- Nhạc mẫu ơi, tôi không có quyền, ai bảo mẹ chiêu mộ những chàng rể không yên phận ấy làm gì?
Nói xong, anh ta lại cười. Tiếng cười của Lỗ Lập Nhân làm dịu bớt không khí trang nghiêm trên đê.
Mẹ bảo:
- Anh nói với quan trên của anh, tha cho họ.
Lỗ Lập Nhân nói:
- Gieo gió gặt bão, trồng tật lê thì đừng sợ gai đâm vào tay. Mẹ vợ ơi xin mẹ đừng bận tâm làm gì!
Các vệ binh áp giải Tư Mã Khố, Bác-bít và Niệm Đệ từ ngõ lên đê. Tư Mã Khố bị trói giật cánh khuỷu bằng thừng. Bác-bít thì hai tay bị trói ra phía trước bằng một đoạn xà cạp. Niệm Đệ không bị trói. Một vệ binh bước tới ngáng đường bị Tư Mã Khố nhổ nước bọt vào mặt, quát:
- Tránh ra, để ta từ biệt người nhà của ta!
Lỗ Lập Nhân bắt tay làm loa nói to về phía ngõ:
- Tư lệnh Tư Mã, đừng vào đấy nữa. Họ ở cả đây rồi?
Tư Mã Khố làm như không nghe tiếng cứ ưỡn ngực bước vào nhà tôi, theo sau là Bác-bít và Niệm Đệ. Họ loay hoay trong sân nhà tôi rất lâu. Lỗ Lập Nhân chốc chốc lại xem đồng hồ. Bờ bên kia đội áp giải liên tục phất cờ hồng, đánh tín hiệu sang bên này. Thông tin viên bên này cũng phất cờ, đánh tín hiệu trả lời. Động tác của họ luôn thay đổi, chúng tỏ nghiệp vụ rất thành thạo.
Bọn Tư Mã Khố rồi cũng ra khỏi nhà tôi, trèo rất nhanh lên mặt đê. Lỗ Lập Nhân hạ lệnh:
- Cho bè hạ thủy! Mười mấy tên lính hè nhau bẩy chiếc bè xuống nước. Mặt nước chấn động mạnh, chiếc bè chìm xuống rồi từ từ nổi lên. Nước ven bờ chảy chậm, chỉ làm cho bè dập dềnh. Mấy binh sĩ níu chặt dây neo bè bằng vải xà cạp phòng chiếc bè bị nước cuốn đi. Lỗ Lập Nhân nói:
- Tư lệnh Tư Mã, ông Bác-bít, quân đội chúng tôi chí nhân chí nghĩa, thể tất tình người nên mới cho phép các ông chia tay với người nhà, mong các ông gặp phiên phiến thôi!
Tư Mã Khố, Bác-bít, chị Niệm Đệ đi tới trước mặt chúng tôi. Tư Mã Khố mặt mày vui vẻ, Bác-bít đầy vẻ lo âu. Chị Niệm Đệ nét mặt nặng nề và trang nghiêm như một kẻ tử vì đạo. Lỗ Lập Nhân nói khẽ:
- Dì Sáu, dì có thể ở lại. Chị Niệm Đệ lắc đầu tỏ ý nhất quyết đi cùng chồng.
Mẹ bỏ vuông vải dậy làn ra. Sa Tảo Hoa đưa tới một củ hành đã lột vỏ. Mẹ bẻ củ hành làm hai, gói trong một miếng bánh bột mì trắng, sau đó lấy từ trong làn một bát tương ớt, đưa cho Tư Mã Lương, bảo:
- Lương, bê cái bát này! Tư Mã Lương đón cái bát, ngẩn nhìn mẹ. Mẹ nói:
- Đừng nhìn bà, hãy nhìn cha cháu đi!
ánh mắt của Tư Mã Lương chuyến sang Tư Mã Khố. Tư Mã Khố cúi nhìn đứa con trai khỏe mạnh, đen như củ súng, một thoáng buồn lướt trên khuôn mặt chữ điền xưa nay chưa hề biết thế nào là buồn tủi. Anh ta nhích vai một cái có lẽ định giơ tay xoa đầu đứa con. Tư Mã Lương mở miệng gọi khẽ:
- Bố ơi!
Tư Mã Khố chớp chớp cặp mắt có con ngươi vàng, đẩy nước mắt xuống khoang mũi và họng. Anh ta đá nhẹ vào mông Tư Mã Lương, nói:
- Con yêu, hãy nhớ rằng, dòng họ nhà Tư Mã chúng ta không ai chết trên giường, con cũng phải như thế.
Tư Mã Lương hỏi:
- Bố ơi, liệu họ có bắn bố không?
Tư Mã Khố liếc nhìn dòng sông đục ngầu, nói:
- Bố thua thiệt vì bố giữ chữ nhân. Con nên nhớ rằng muốn làm kẻ ác thì phải lòng lim dạ sứa, giết người không ghê tay? Muốn làm người thiện thì đi đường cũng tránh dẫm phải kiến. Tuyệt đối không nên làm con dơi, chim không ra chim, thú không phải thú. Con nhớ chưa?
Tư Mã Lương cắn môi, nghiêm trang gật đầu.
Mẹ đưa chiếc bánh đã cuốn hành cho chị Lai Đệ. Chị cầm lấy, ngẩn người nhìn mẹ. Mẹ bảo:
- Con đút cho anh ấy ăn! Chị ngượng, chị chưa quên cái đêm hai người cuồng hoan cách đây ba hôm, chắc hẳn thế, vì cái ngượng của chị là ngượng trong hạnh phúc. Mẹ nhìn chị, lại nhìn Tư Mã Khố, ánh mắt mẹ như con thoi, móc hai người lại với nhau. Sự giao lưu băng ánh mắt giữa hai người còn nhiều hơn nói ngàn vạn lời! Chị Lai Đệ cởi bỏ áo khoác màu đen, bên trong chị mặc áo chẽn màu hồng, quần hồng viền đăng ten, đôi giày thêu hoa cũng màu hồng, thân hình yểu điệu, khuôn mặt thanh tú. Tư Mã Khố chữa khỏi cho chị chứng khùng, nhưng chị lại rơi vào bệnh tương tư. Chị vẫn đẹp, một phụ nữ góa chồng đầy quyến rũ. Tư Mã Khố đắm đuối nhìn chị, nói:
- Chị cố gắng giữ gìn nhé!
Chị Lai Đệ nói một câu chẳng ăn nhập vào đâu:
- Anh là mũi khoan kim cương, hắn là cây gỗ mục! Chị đến trước mặt Tư Mã Khố, chấm miếng bánh vào bát tương ớt trong tay Tư Mã Lương, để tiếng khỏi rớt, chị múa cổ tay hai ba vòng rồi đưa đến trước miệng Tư Mã Khố. Như một con ngựa, Tư Mã Khố hất đầu lên một cái, rồi cúi xuống há miệng cắn một miếng. Anh ta nhai một cách khó nhọc, phồng hai má vì đầy thức ăn, hai giọt nước mắt to tướng lăn trên má. Anh ta vươn cổ ra nuốt đánh ục, miệng hít hà:
- Hành cay đến là cay!
Mẹ đưa cho tôi một chiếc bánh, đưa cho chị Tám một chiếc, lại đưa cho chị Sáu một chiếc, tất cả đã quấn hành. Mẹ bảo:
- Kim Đồng, con đút cho chồng chị Sáu. Ngọc Nữ, con đút cho chị Sáu.
Tôi bắt chước chị Lai Đệ, chấm bánh trong bát tương ớt của Tư Mã Lương, rồi đưa đến trước miệng Bác-bít. Bác-bít trễ môi trông rất khó coi, ghé răng cắn một tí bánh, những giọt nước mắt long lanh rơi lã chã. anh ta cúi xuống, ghé miệng còn dính tương ớt lên trán tôi hôn một cái rõ kêu. Rồi anh đi tới bên mẹ, tôi đoán là anh định ôm hôn mẹ, nhưng tay bị trói, đành phải cúi xuống hôn vào trán mẹ, môi dẩu ra như con dê bứt lá cây. Anh nói:
- Mẹ ơi, con không bao giờ quên mẹ!
Chị Tám mò mẫm đến trước mặt Tư Mã Lương để chấm bánh. Tư Mã Lương giúp chị. Chị cầm bánh băng hai tay, trán bóng như mai cua, mắt sâu thăm thẳm, mũi cao miệng rộng, đôi môi chúm chím như nụ hoa hồng. Chị Tám mà xưa nay vẫn bị tôi rẻ rúng thật đáng thương. Chị thì thào:
- Chị Sáu ăn đi!...
Chị Sáu nước mắt như suối, ôm chị Tám nức nở:
- Cô em tội nghiệp của chị...
Tư Mã Khố đã ăn hết một cái bánh. Lỗ Lập Nhân trước sau vẫn đứng bên, quay mặt ra ngoài sông nhìn sang bờ bên kia. Lúc này, anh ta quay lại nói:
- Thôi, xin mời lên bè!
Tư Mã Khố nói:
- Không được, tôi chưa ăn xong. Xưa kia mỗi khi quan phủ chém phạm nhân đều cho ăn no rồi mới chém. Trung đoàn 17 các anh là trung đoàn nhân nghĩa, chắc hẳn phải cho tôi ăn một bữa no chứ? Huống hồ đây là bữa bánh do mẹ vợ chúng ta làm.
Lỗ Lập Nhân nhìn đồng hồ nói:
- Thôi được, ông cứ ăn cho căng bụng. Tôi cho ngài Bác-bít sang trước.
Thằng Câm và sáu binh sĩ tay cầm xẻng gỗ làm bơi chèo, thận trọng bước lên bè. Chiếc bè dập dềnh, chao đảo choán nước rất nhiều, nước tràn trên mặt bè. Hai binh sĩ giữ dây neo, ngửa người ra sau để ghìm chiếc bè lại.
Lỗ Lập Nhân lo lắng, hỏi ông già Tôn:
- Cụ ơi, thêm hai người nữa được không?
Ông già đáp:
- Hầy, theo lão thì nên bớt đi hai người chèo. Lỗ Lập Ngôn ra lệnh:
- Hàn hói, Phan Vĩnh Vượng, hai người lên bờ!
Hàn và Phan chống xẻng nhảy ra khỏi bè. Chiếc bè chòng chành, người trên bè đứng không vững, suýt ngã xuống nước. Thằng Câm cởi trần, chỉ mặc mỗi quần đùi cứng như mo nang, gầm lên:
- Cởi, cởi, cởi!
Từ hôm ấy trở đi, hắn không à uôm nữa.
- Được chưa? Lỗ Lập Nhân hỏi ông già Tôn.
Ông già đáp:
- Được rồi!
Ông cầm lấy chiếc xẻng trong tay một binh sĩ, nói:
- Quí quân nhân nghĩa khiến lão rất phục! Năm Dân quốc thứ Mười, lão đã từng đưa một vị nghị sĩ qua sông. Nếu trưởng quan không chê thì lão đem thân trâu ngựa ra giúp!
Lỗ Lập Nhân xúc động nói:
- Cụ ơi, đây là điều tôi muốn nhờ nhưng ngại chưa dám mở miệng. Cụ mà điều khiển thì coi như yên tâm. Ai có rượu đấy không?
Lính cần vụ chạy tới, đưa cho Lỗ Lập Nhân chiếc bi đông bẹp dúm. Anh ta xoay nút mở ra, ghé mũi ngửi, nói:
- Rượu cao Lương chính hiệu! Cụ ơi, tôi đại diện cho thủ trưởng quân khu mời cụ một chén.
Anh ta hai tay cầm bi đông đưa cho ông già Tôn. Ông già cũng xúc động, phủi bụi trên cánh tay đón lấy bi đông rượu, òng ọc một hơi mười mấy ngụm rồi đưa trả bi đông cho Lỗ Lập Nhân. Ông quệt mép bằng mu bàn tay, từ mặt đỏ đến cổ, từ cổ đỏ đến ngực.
- Thưa trưởng quan, uống rượu này của trưởng quan, trái tim tôi đã gắn với trưởng quan rồi!
Lỗ Lập Nhân vừa cười vừa nói:
- Đâu chỉ có trái tim? Mà là gan liền gan, phổi liền phổi, ruột liền ruột.
Ông già ứa nước mắt, nhảy vọt lên cuối bè một cách vững vàng. Chiếc bè khẽ chòng chành. Lỗ Lập Nhân gật đầu tán thưởng.
Lỗ Lập Nhân đến trước mặt Bác-bít nhìn hai tay bị trói của anh ta, cười gượng:
- Tội cho ông quá, ông Bác-bít, ông được Chủ nhiệm Hòa Trọng thuộc Tư lệnh quân khu chỉ đích danh, chắc chắn ông sẽ được đối xử đúng nghi lễ.
Bác-bít giơ hai tay lên:
- Có nghi lễ này không?
Lỗ Lập Nhân thản nhiên nói:
- Đây cũng là một nghi lễ, mong ông bỏ quá cho. Xin mời, ông Bác-bít!
Bác-bít nhìn chúng tôi một thoáng, dùng ánh mắt để từ biệt. Rồi anh bước những bước dài, leo lên bè. Chiếc bè chòng chành rất dữ khiến anh ta loạng choạng đứng không vững. Ông già Tôn dùng chiếc mai gỗ chống đít anh ta cho khỏi ngã.
Chị Niệm Đệ cũng bắt chước Bác-bít, vụng về hôn trán tôi rồi hôn trán chị Tám. Chị giơ những ngón tay thanh mảnh gỡ những lọn tóc rối như búi sợi của chị Tám, than thở:
- Em yêu, trời sẽ phù hộ em!
Rồi chị gật đầu với mẹ và lũ trẻ lau nhau đứng sau lưng mẹ, quay lại bước lên bè. Lỗ Lập Nhân lại khuyên:
- Dì Sáu, dì không nhất thiết phải đi!
Niệm Đệ ôn tồn nói:
- Anh rể, tục ngữ có câu cán cân đâu quả cân đấy, chồng không thể rời vợ, anh và chị Năm chẳng phải như hình với bóng đó sao?
Lỗ Lập Nhân nói:
- Tôi là tôi muốn điều tốt cho dì. Thôi, để cho dì được toại nguyện, mời lên bè!
Tư Mã Khố làm bộ đã no, nói: - No rồi! Xin cảm ơn mẹ? Cảm ơn chị Cả, cảm ơn các em Kim Đồng Ngọc Nữ? Cảm ơn con, con đã bê bát tương ớt cho bố? Phượng ơi, Hoàng ơi, hãy nghe lời bà ngoại và bác Cả. Có gì khó khăn thì đi gặp dì Năm. Dì đang gặp vận đỏ, còn bố các con thì đang trong vận đen. Cậu Kim Đồng, hay ăn chóng lớn nhá. Khi còn sống, chị Hai rất yêu em, chị thường nói với anh rằng, em sẽ nên người! Em đừng phụ lòng chị Hai nhá?
Tôi thấy sống mũi cay cay trước những lời của anh. Chiếc bè đã cặp bờ, ngồi giữa bè là một tiểu đầu mục gân bắp cuồn cuộn. Anh ta nhẹ nhàng nhảy xuống, giơ tay chào Lỗ Lập Nhân theo điều lệnh. Lỗ Lập Nhân cũng chào lại rất khách sáo, rồi hai người nhiệt liệt bắt tay nhau, xem ra họ là bạn cũ. Người kia nói:
- Lão Lỗ, trận này thắng ròn rã, tư lệnh Phùng rất vui, chính ủy Lệ cũng biết tin rồi!
Anh ta lấy từ xắc cốt đeo bên người một phong thư đưa cho Lỗ Lập Nhân. Lỗ cầm lấy bức thư, nhét khẩu súng lục mạ bạc vào xắc cốt của anh ta, nói:
- Chiến lợi phẩm đấy, đem về cho con Vu nó chơi!
- Tôi thay mặt con nhỏ cảm ơn anh. - Tiểu đầu mục nói.
Lỗ Lập Nhân chìa tay nói với người kia:
- Đưa đây!
Người kia ngẩn ra, hỏi:
- Đưa gì cơ?
Lỗ Lập Nhân nói:
- Giải tù binh của tôi đi thì phải cho tôi cái giấy biên nhận chứ!
Người kia lấy giấy bút trong xà cột ra, viết vội mấy dòng rồi đưa cho Lỗ Lập Nhân:
- Huynh anh chắc lép quá!
Lỗ Lập Nhân cười:
- Con khỉ Tôn Ngộ Không có ranh mãnh đến mấy cũng không qua được bàn tay Đức Phật Như Lai!
Người kia nói:
- Vậy thì tôi là con khỉ Tôn Ngộ Không hay sao?
Lỗ Lập Nhân nói:
- Chính tôi là con khỉ!
Hai người thụi nhau một cái rồi cười ha hả. Người kia nói nhỏ:
- Lão Lỗ, nghe nói anh thu được một bộ máy chiếu phim? Quân khu đã biết rồi!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Tai các anh dài thật. Về thưa lại với thủ trưởng quân khu là đợi nước rút, tôi sẽ cho người đưa lên!
Tư Mã Khố rủa thầm: - Mẹ nó, ki cóp cho cọp nó xơi!
Người kia tỏ vẻ khó chịu, hỏi:
- Anh nói gì vậy?
Tư Mã Khố nói:
- Chẳng nói gì cả!
Người kia nói:
- Nếu tôi đoán không lầm, thì anh chính là Tư Mã Khố khét tiếng gần xa, là Tư lệnh Chi đội Tư Mã.
Tư Mã Khố nói: - Chính tôi!
Người kia nói:
- Ông Tư lệnh này, dọc đường chúng tôi sẽ chăm sóc ông chu đáo, mong ông phối hợp với chúng tôi cho tốt, chúng tôi rất không muốn khiêng xác ông về quân khu!
Tư Mã Khố cười:
- Không dám, đội áp giải các ông toàn là những tay súng cừ khôi, tôi không muốn làm tấm bia sống cho các ông!
Người kia nói:
- Đúng là hảo hán! Vậy nhé, đoàn trưởng Lỗ. Nào, mời Tư lệnh lên bè!
Tư Mã Khố thận trọng bước lên bè, thận trọng ngồi xuống giữa. Tiểu đầu mục trong đội áp giải bắt tay Lỗ Lập Nhân rồi lên bè. Anh ta ngồi phía cuối, đối diện với Tư Mã Khố, tay đặt trên báng súng ở thắt lưng. Tư Mã Khố nói:
- Ông không cần phải cẩn thận đến như thế, tôi hai tay bị trói, nhảy xuống sông chỉ có mà chết đuối! Ông ngồi gần tôi một tí, khi bè chòng chành giữ tôi khỏi lăn xuống nước.
Người kia không làm theo lời Tư Mã Khố, chỉ giục đám lính:
- Chèo mau lên?
Cả nhà tôi đứng tụm lại một chỗ, giấu kín một điều bí mật, nóng lòng chờ đợi kết cục.
Chiếc bè rời bờ, nước lên rất thuận. Hai binh sĩ kéo bè chạy ngược theo bờ sông, vừa chạy vừa thả từng vòng dây neo trên cánh tay.
Bè ra đến giữa sông, nước chảy rất mạnh, mép bè sóng ngầu bọt. Ông già Tôn hô nhịp cho các binh sĩ gò lưng mà chèo, những con hải âu bay rất thấp trên đầu họ. Đến đoạn nước xiết, chiếc bè chòng chành dữ đội, ông già Tôn bật ngửa văng xuống nước. Tiểu đầu mục lóng ngóng đứng lên định rút súng ra thì Tư Mã Khố cựa đứt tung dây trói, chồm lên anh ta như hổ vồ mồi. Hai người lăn xuống dòng nước chảy xiết giữa lòng sông. Thằng Câm và những binh sĩ trên bè cuống cả lên, lần lượt nhảy xuống nước. Chiếc bè như một con cá khống lồ, vùn vụt lao về phía hạ lưu.
Tất cả những chuyện đó gần như xảy ra cùng một lúc.
Đến khi Lỗ Lập Nhân và các binh sĩ trên bờ có phản ứng thì trên bè đã không còn ai.
- Bắn chết hắn đi! - Lỗ Lập Nhân ra lệnh dứt khoát. Giữa dòng nước đục ngầu, thỉnh thoảng một cái đầu nhô lên, nhưng các binh sĩ không thể nhận ra đầu nào là của Tư Mã Khố nên không dám nổ súng. Tất cả có chín người rớt xuống nước, mỗi lần có đầu nhô lên, khả năng đó là đầu Tư Mã Khố chỉ là một phần chín, chưa nói gì đến nước chảy xiết như thế, bắn trúng là rất khó. Tư Mã Khố đã trốn thoát, đó là điều chắc chắn? Anh ta sinh ra và lớn lên bên sông Thuồng Luồng, bơi lội như rái cá, lặn dưới nước mười phút mới cần ló đầu lên lấy hơi. Huống hồ anh ta vừa đánh một bữa căng bụng. Lỗ Lập Nhân tái mặt, mắt tối sầm, nhìn từng người chúng tôi. Tư Mã Lương vẫn bê bát tương ớt trên tay, làm bộ khiếp hãi, nép vào chân mẹ.
Mẹ không nói câu nào, bế Thắng Lợi trên tay đi xuống chân đê, chúng tôi líu ríu đi theo.
Mấy hôm sau chúng tôi nghe tin chỉ có ông già Tôn và Thằng Câm là bơi được vào bờ, những người khác mất tích, nếu còn sống thì không thấy người, nếu đã chết thì không thấy xác, nhưng tất cả mọi người đều hiểu rằng Tư Mã Khố đã trốn thoát, dứt khoát anh ta không chết đuối, những người khác hiển nhiên là chết cả, trong đó có anh chàng tiểu đầu mục áp giải tù binh.

7
Mùa thu rục rỡ của vùng Cao Mật, nước lũ mênh mông cuối cùng rút đi. Những vạt cao lương đỏ một màu đỏ-đen, những vạt hoa lau trắng một màu trắng-vàng. Nắng sớm trải trên cánh đồng mênh mông lởn vởn làn sương nhẹ. Toàn bộ binh mã của trung đoàn 17 lặng lẽ chuyển quân. Họ dắt lừa dắt ngựa nhón bước qua cây cầu mục nát trên sông Thuồng Luồng rồi khuất sau con đê ngoại vi Hà Bắc, không bao giờ còn thấy bóng dáng của họ nữa.
Đại đội binh mã của trung đoàn 17 rút đi, nguyên trung đoàn trưởng của nó là Lỗ Lập Nhân thì chuyển ngành, giữ chức vụ huyện trưởng kiêm đại đội trưởng dại đội của huyện Cao Mật mới thành lập. Thượng Quan Phán Đệ được bổ nhiệm làm khu trưởng khu Đại Lan, Thằng Câm được đề bạt làm tiểu đội trưởng tiểu đội của khu. Thằng Câm dẫn tiểu đội đến nhà Tư Mã Khố, khuân hết bàn ghế giường tủ của nhà Tư Mã chia cho các nhà trong thôn, nhưng ban ngày chia cho thì ban đêm họ lại đem trả ở cổng nhà Tư Mã. Thằng Câm sai người khênh đến nhà tôi một cái giường chạm trổ rất đẹp.
Mẹ bảo:
- Tôi không cần, khiêng về đi!
Thằng Câm bảo: - Cởi, cởi, cởi!
Mẹ quay sang bảo chị Phán Đệ:
- Con đem cái giường đi cho mẹ?
Trưởng khu Phán Đệ nói:
- Mẹ ơi, đây là phong trào, mẹ không nên từ chối?
Mẹ nói:
- Phán Đệ, Tư Mã Khố là chồng của chị Hai, mẹ đang nuôi con trai và con gái chúng nó ở đây. Rồi đây khi trở về nó sẽ nghĩ thế nào!
Những lời của mẹ khiến chị Phán Đệ suy nghĩ. Chị bỏ cái tất đang mạng dở xuống, dắt theo khẩu súng lục, vội vã đi ra cổng. Tư Mã Lương lén đi theo, trở về nói:
- Dì Năm lên huyện!
Tư Mã Lương còn nói, có một cỗ kiệu hai người khiêng, ngồi kiệu là một nhân vật cỡ bự, mười tám lính cầm súng đi bảo vệ. Huyện trưởng Lỗ trông thấy ông ta run cầm cập như chuột thấy mèo, cung kính như Tôn Tử gặp ông nội. Nghe nói ông này là chuyên gia nổi tiếng về cải cách ruộng đất.
Thằng Câm dẫn một số người đến khiêng cái giường đi.
Mẹ thở dài cất được gánh nặng. Tư Mã Lương nói:
- Ngoại ơi, ta chạy thôi! Cháu cảm thấy có chuyện lớn sắp xảy ra!
Mẹ nói:
- Phúc hay họa, là họa thì có chạy cũng không thoát! Lương này, con cứ yên tâm đi, dù thiên binh thiên tướng xuống trần thì cũng chẳng làm gì mẹ góa con côi nhà mình!
Nhân vật cỡ bự chưa thấy ló mặt. Trước cổng nhà Tư Mã có hai lính bồng súng đứng gác, các cán bộ huyện, khu ra vào như mắc cửi.
Một hôm, khi chúng tôi đi chăn dê về, gặp tiểu đội của khu và mấy cán bộ huyện, khu áp giải ông bán quan tài Hoàng Thiên Phúc, thợ đắp lò Triệu Giáp, chủ hiệu dầu Hứa Bảo, chủ hiệu dầu thơm Kim- Một-Vú, giáo viên tư thục Tần Nhị, đi trên đường. Những người bị bắt mặt mày ủ rũ. Triệu Giáp vươn cổ cãi
- Anh em ơi, thế này là thế nào? Nợ tôi cả bao tiền mà lại sổ toẹt là thế nào!
Một người nói giọng vùng Ngũ Liên, răng đồng vàng chóe, giang thẳng cánh tát Triệu Giáp một cái tát nảy lửa, chửi:
- Đ. mẹ mày! Ai nợ mày cả bao tiền? Tiền của mày từ đâu mà có?
Những người bị áp giải không dám hé răng, lùi lùi bước đi, đầu cúi gằm. Đêm, mưa lạnh rả rích. Một bóng người vượt qua tường, mẹ trầm giọng hỏi:
- Ai đấy!
Người đó bước nhanh mấy bước, quì xuống lối đi, nói:
- Thím ơi, cứu tôi mấy!
Mẹ hỏi:
- Có phải ông Cả đấy không?
Tư Mã Đình nói:
- Chính tôi, thím ơi, thím cứu tôi mấy! Ngày mai họ họp mít tinh xử bắn tôi? Chỗ dân làng với nhau, thím cứu cái mạng chó của tôi mấy?
Mẹ rên lên, mở cửa buồng, Tư Mã Đình lẻn vào. Ông ta run cầm cập trong bóng tối, nói:
- Thím ơi, cho tôi ăn chút gì đi, tôi đói chết mất!
Mẹ đưa cho ông ta cái bánh, ông ta vồ lấy nhai ngấu nghiến. Mẹ thở dài. Tư Mã Đình nói:
- Hừ, chỉ trách thằng Hai nhà tôi gây thù chuốc oán với Lỗ Lập Nhân. Thực ra họ còn là thân thích với nhau nữa đấy!
Mẹ nói: - Đừng nói nữa, đừng nói gì nữa, ông trốn vào trong này đi, hay dở gì thì tôi cũng là mẹ vợ của anh ấy!
Nhân vật bí ẩn, cuối cùng đã xuất hiện. Ông ta ngồi chính giữa mái che, tay trái nghịch chiếc nghiên mực màu chu sa, tay phải nghịch cây bút lông. Trên cái bàn trước mặt ông ta có bày một nghiên mực cỡ đại, chạm trổ rồng phượng. Nhân vật bự đeo kính gọng đen, hai má gần như không có thịt, cằm nhọn hoắt, mũi gầy nhọn, cặp mắt ti hí lấp lánh sau cặp kính. Ngón tay vờn trên nghiên vừa mảnh vừa dài, trắng như bột.
Hôm ấy, đại biểu của những người nghèo nhất ở mười tám thôn trấn vùng Cao Mật chen chúc trên một nửa sân phơi nhà Tư Mã. Xung quanh đoàn người, ba bước một trạm gác, năm bước một trạm tuần tra, đều do đại đội trên huyện và tiểu đội trên khu đảm nhiệm. Mươi tám vệ sĩ đứng trên bục đất, người nào cũng mặt lạnh như tiền, đằng đằng sát khí, y hệt mười tám La hán trong truyền thuyết. Phía dưới im phăng phắc, những đứa trẻ đã biết sợ thì không dám khóc, những đứa chưa biết sợ thì vừa oe lên là mẹ chúng nhét vú vào miệng.
Chúng tôi ngồi vây quanh mẹ. Khác với những người nhớn nhác xung quanh, mẹ bình tĩnh đến kinh người, chăm chú xe chỉ để khâu đế giày. Những tơ gai trắng lăn tròn trên bắp dùi mẹ, săn vào nhau đều đặn dài ra mãi. Hôm ấy trời lạnh, gió đông bắc như cắt vào da thịt, hơi nước từ ngoài sông Thuồng Luồng tràn vào, những người trên sân phơi run lập cập.
Trước khi đại hội chính thức khai mạc, có sự lộn xộn phía ngoài sân. Thằng Câm và mấy đội viên của tiểu đội khu áp giải Hoàng Thiên Phúc, Triệu Giáp... cộng mười tám người đợi phía ngoài sân phơi. Những người bị giải đều bị trói theo kiểu trọng tội, sau gáy cắm lá chỉ bài, gạch chéo đỏ trên chữ đen. Trông thấy những người này, dân chúng vội cúi đầu xuống, không ai dám bàn tán nửa câu.
Nhân vật bự ngồi bệ vệ trên ghế, đưa mắt nhìn một lượt những người trên sân. Mọi người rụt cổ lại, chỉ sợ ông ta nhìn thấy mặt mình. Trước sự uy hiếp của nhân vật bự, mẹ vẫn thản nhiên xe chỉ, làm như dồn hết tâm trí vào đó. Tôi cảm thấy rất rõ rằng: ánh mắt của nhân vật bự dừng lại trên khuôn mặt mẹ tôi khá lâu.
Lỗ Lập Nhân buộc chiếc khăn đen trên đầu, diễn thuyết một hồi trước đám đông, nước bọt bắn tung tóe. Anh ta bị chứng đầu thống, mặt luôn đỏ quạch ánh lên sau cặp kính như nụ hoa hồng. Nói xong, anh ta đến bên nhân vật bự xin chỉ thị. Nhân vật bự chậm rãi đứng lên. Lỗ Lập Nhân nói:
- Hoan nghênh đồng chí Trương Sinh chỉ thị cho chúng ta.
Anh ta vỗ tay trước, dân chúng ngơ ngác nhìn lên bục, không hiểu ý tứ ra sao.
Nhân vật bự đằng hắng một tiếng, chậm rãi, mỗi tiếng đều kéo dài ra y như những sợi mì kéo của mục sư Malôa năm xưa. Giọng ông ta lê thê như lá cờ phướn bay lượn trong gió đông bắc. Trong suốt mấy chục năm, mỗi khi nhìn thấy lá cờ phướn bằng giấy trắng viết tên tuổi người chết trong buổi lễ cầu hồn, tôi lại nhớ lần nói chuyện của nhân vật bự. Những lời của ông ta bay lượn trong gió như lá cờ phướn. Ông ta ngồi xuống đã lâu mà lá cờ ấy vẫn bay lượn, thậm chí còn nghe thấy tiếng nghiến răng kèn kẹt trong đó.
Tiếp theo, Lỗ Lập Nhân ra lệnh, Thằng Câm và những đội viên của tiểu khu và mấy cán bộ súng pạc-hoọc đeo trễ đít, giải những người bị trói lên bục. Họ đứng chật cả cái bục, che khuất tầm nhìn lên khán đài của những người dưới sân. Lỗ Lập Nhân ra lệnh:
- Quì xuống!
Trong số họ, người hiểu thì quì ngay, người còn đứng lớ ngớ thì bị đá vào khoeo chân, khuỵu xuống.
Những người đứng dưới sân đều cúi đầu, đưa mắt nhìn sang hai bên. Người nào dám mạnh dạn nhìn lên thì lại vội cúi đầu xuống khi trông thấy những giọt nước mũi chảy dài từ chóp mũi những người đang quì. Mẹ không xe chỉ nữa, kéo ống quần xuống che bắp đùi lạnh tím, thở dài. Lúc này, một người gầy gò rụt rè đứng lên, cất giọng khàn khàn run rẩy nói:
- Thưa bà trưởng khu, tôi có chuyện oan ức muốn tố cáo...
- Tốt! - Chị Phán Đệ phấn khởi kêu lên: - Đừng sợ, có chuyện oan ức thì nói, chúng tôi sẽ giải oan cho anh!
Quần chúng đều nhìn về phía người gầy. Đó là Thằng Gật. Chiếc áo ngoài của anh ta đã rách như tổ đỉa, thậm chí một ống tay áo gần như mất hẳn, bờ vai đen đủi lộ hẳn ra ngoài. Đường ngôi vốn thẳng như kẻ chỉ, bây giờ rối như tổ quạ. Anh ta run lẩy bầy trước gió lạnh, cặp mắt mờ đục lo ngại nhìn ra xung quanh.
- Lên trên này mà nói - Lỗ Lập Nhân nói.
- Chuyện thì không lớn - Thằng Gật nói - tôi đứng dưới này nói cũng được!
- Lên đi - Phán Đệ giục - Anh tên là Trương Đức Thành phải không? Tôi nhớ là mẹ anh từng xách làn đi ăn xin, khổ lớn thù sâu mà, lên kể đi!
Trương Đức Thành hai chân ríu vào nhau, lẩy bẩy ra khỏi đám người đang chú mục nhìn anh ta. Cái bục đất cao một thước, anh ta nhảy lên nhưng bị trượt, đất bám đầy ngực. Một vệ sĩ đứng trên bục cúi xuống thò tay lôi anh ta lên. Hai chân anh ta như đứng trên lò xo, lắc lư một hồi mới dừng lại. Anh ta nhìn xuống dưới thấy bao nhiêu ánh mắt phức tạp đang nhìn mình thì bủn rủn cả tay chân, mặt nổi lên từng đám màu xám nhạt, lắp bắp hồi lâu không nói được câu nào. Anh ta định chạy xuống thì Phán Đệ với thân hình to béo, khỏe không kém đàn ông, túm lấy vai đẩy ngược lại khiến anh ta loạng choạng suýt ngã. Anh ta trông rất thảm hại, van xin:
- Bà trưởng khu tha cho tôi, tôi chỉ là một cái rắm, bà hãy tha cho tôi?
Phán Đệ nói:
- Trương Đức Thành, anh sợ gì cơ chứ?
Trương Đúc Thành nói:
- Tôi sống độc thân, quanh ra quanh vào chỉ có một mình, chẳng sợ cái gì hết?
Phán Đệ nói:
- Chẳng có gì làm anh sợ, vậy tại sao anh không nói?
Trương Đức Thành nói:
- Chuyện chẳng to tát gì, thôi không nói nữa.
Phán Đệ nói:
- Anh tưởng đây là chuyện đùa hay sao?
Trương Đức Thành nói:
- Xin bà đừng nổi nóng để tôi nói. Hôm nay tôi coi như không có cái mạng tôi được chưa?
Trương Đức Thành đi đến trước mặt thầy giáo Tần, nói:
- Thầy Nhị, ông cũng coi là có học, cái hồi tôi học ông, đã có lần tôi ngủ gật, đúng không? Ông đã dùng thước kẻ đánh dập bàn tay tôi, còn đặt biệt hiệu cho tôi, khi ấy ông nói những gì, ông còn nhớ không?
- Hãy trả lời đi! - Phán Đệ nói to.
Thầy giáo Tần ngẩng lên, bộ râu vểnh ra phía trước như râu dê, lẩm bẩm:
- Lâu quá rồi, không nhớ
- Tất nhiên là ông không nhớ, nhưng tôi thì nhớ cho đến lúc chết - Thằng Gật hăng lên, lời lẽ bắt đầu trôi chảy. - Ông già, khi ấy ông nói như vầy: Trương Đức Thành cái gì anh, tôi gọi anh là Thằng Gật. Chỉ một câu ấy của ông mà suốt đời tôi mang cái tên Thằng Gật. Ông già gọi tôi là Thằng Gật, bà lão gọi tôi là Thằng Gật. Ngay cả những đứa trẻ hỉ mũi chưa sạch cũng gọi tôi là Thằng Gật? Vì gánh trên lưng cái biệt hiệu ấy mà đến nay ba mươi tám tuổi tôi vẫn chưa vợ! Ông nghĩ coi, ai đời lại gả con gái cho Thằng Gật! Khốn nạn thân tôi, rủi ro suốt đời vì cái biệt hiệu này?
Cơn xúc động dâng lên, Thằng Gật nước mắt nước mũi ràn rụa. Tay cán bộ huyện có hàm răng đồng túm tóc hoa râm của thầy giáo Tần giật ngược để thầy ngửa mặt lên, bộ râu dê rung rung.
- Nói? - Tay cán bộ huyện nghiêm giọng hỏi - Trương Đức Thành tố cáo có đúng không?
- Đúng, đúng ạ! - Thầy giáo Tần vâng dạ luôn miệng.
Tay cán bộ huyện dúi tay một cái, ấn đầu thầy xuống, miệng thầy đầy đất.
- Tiếp tục tố cáo - Cán bộ huyện nói.
Thằng Gật dùng mu bàn tay dụi mắt, vắt mũi bằng ngón tay cái và ngón tay trỏ rồi vẩy một cái, mũi dãi như một bãi cứt chim bay vèo tới nóc rạp. Nhân vật bự cau mày ngán ngẩm, rút khăn tay lau kính. Ông ta lạnh lùng như một hòn đá tảng. Thằng Gật nói:
- Tần Nhị, ông còn nhớ khi Tư Mã Khố học ông, hắn bắt cóc bỏ vào lọ của ông, đặt vè chửi ông rồi trèo lên dầm nhà mà đọc, ông có đánh hắn roi nào không? Có chửi hắn câu nào không có đặt biệt hiệu cho hắn không?
- Không, không, hoàn toàn không!
- Hay lắm! - Phán Đệ phấn khởi nói - Trương Đức Thành đã tố ra một vấn đề sâu sắc. Vì sao Tần Nhị không phạt Tư Mã Khố? Vì Tư Mã Khố nhiều tiền! Tiền của gia đình Tư Mã Khố do đâu mà có? Hắn không trồng mạch nhưng ăn bánh mì, không nuôi tằm nhưng mặc đồ tơ lụa, không nấu rượu nhưng ngày nào cũng say, thưa bà con, chính là mồ hôi xương máu của chúng ta đã nuôi sống bọn địa chủ. Chúng ta phân chia đất đai của chúng, của cải trong nhà chúng, thực tế là chúng ta thu hồi những gì của chúng ta!
Nhân vật bự vỗ tay khẽ tỏ ý tán thưởng lời lẽ khảng khái của Phán Đệ. Trên bục, các cán bộ huyện, khu và các đội viên vũ trang vỗ tay theo.
Thằng Gật nói tiếp:
- Chỉ riêng thằng Tư Mã Khố đã lấy bốn vợ, còn tôi thì một vợ cũng không. Như vậy có công bằng không?
Nhân vật bự cau mày, lắc đầu.
Lỗ Lập Nhân nói:
- Trương Đức Thành, không nói những chuyện này?
- Không, đây mới là nguồn gốc nỗi khổ của tôi! Thằng Gật tôi cũng là thằng đàn ông, phải vậy không? Giữa hai đùi cũng lủng lẳng cái của ấy...
Lỗ Lập Nhân đứng chắn trước mặt Thằng Gật, không cho nói nữa. Anh ta cất cao giọng, át cả tiếng gào của Thằng Gật, nói:
- Thưa bà con, Trương Đức Thành tuy nói năng có đôi chút thô lỗ, nhưng đã nêu lên một lý lẽ, vì sao có người lấy đến bốn vợ, thậm chí nhiều hơn, còn những người như Trương Đúc Thành một vợ cũng không.
Dưới sân bàn tán sôi nổi, rất nhiều ánh mắt nhìn về phía mẹ. Mặt mẹ xanh mét, con mắt vô cảm, không thù không oán, phẳng lặng như nước hồ thu.
Phán Đệ đẩy nhẹ Thằng Gật một cái, nói:
- Anh có thể xuống được rồi!
Thằng Gật tiến lên hai bước định bước xuống, nhưng lại chợt nhớ ra điều gì, quay lại xách tai Triệu Giáp đánh một bạt tai, chửi:
- Đ. mẹ mày! Mày cũng có ngày hôm nay, mày còn nhớ những khi theo đóm ăn tàn, dựa vào thế lục Tư Mã Khố khinh rẻ người khác chứ!
Triệu Giáp dùng đầu húc Thằng Gật một cú vào bụng dưới. Thằng Gật kêu thét lên, ngã lăn mấy vòng xuống sân phơi..
Thằng Câm xông tới đá Triệu Giáp ngã lăn ra rồi dùng chân chặn cổ Triệu Giáp. Khuôn mặt Triệu Giáp co rúm lại một cách đáng sợ. Anh ta thở phì phò gào thét như điên: - Tôi không phục, tôi không phục. Các người là đồ vô lương tâm, trời hại các người?...
Lỗ Lập Nhân cúi xuống hỏi nhân vật bự. Nhân vật bự cầm nghiên mực gõ xuống bàn đánh chát một tiếng. Lỗ Lập Nhân lôi ra một mảnh giấy, đọc:
- Xét phú nông Triệu Giáp, sống bằng bóc lột, thời kỳ Nhật ngụy hắn đã cung cấp cho ngụy quân khối lượng lớn lương thực. Thời Tư Mã Khố thống trị, hắn đã nhiều lần tiếp tế bánh bao cho bọn phỉ. Từ cải cách ruộng đất đến nay, hắn tung ra bao nhiêu lời đồn nhảm, công khai chống lại chính quyền nhân dân. Với phần tử ngoan cố như vậy không triệt đi thì không xoa dịu được sự căm phẫn của dân. Tôi thay mặt Chính phủ nhân dân huyện Cạo Mật tuyên bố tử hình Triệu Giáp, lập tức thi hành!
Hai đội viên khu đội lôi Triệu Giáp như lôi một con chó chết đến mép đầm đầy rác rưởi và cỏ mục. Hai đội viên tránh sang hai bên, Thằng Câm nhằm gáy Triệu Giáp nổ một phát súng. Nhanh như chớp, Triệu Giáp lộn đầu xuống đầm. Thằng Câm cầm khẩu pạc-hoọc miệng súng vẫn còn nhả khói, trở lại chỗ bục đất.
Những người quỳ trên bục dập đầu lạy như tế sao, sợ vãi cứt đái ra quần. Mùi hôi thối xông lên, những người trên bục và những người ở gần dưới sân đều bịt mũi.
- Tha cho tôi, tha cho tôi? - Chủ hiệu dầu thơm Kim-Một-Vú lết hai đầu gối đến trước mặt Lỗ Lập Nhân, hai tay ôm chặt lấy chân anh ta, vừa nói vừa khóc - Ông huyện trưởng tha cho tôi, tôi nguyện đem toàn bộ đầu thơm, toàn bộ số vàng, toàn bộ gia sản, ngay cả cái máng cho gà ăn cũng không để lại, chia hết cho bà con, chỉ cần tha cho mạng sống nhỏ nhoi của tôi. Tôi không bao giờ buôn bán để bóc lột mọi người nữa!...
Lỗ Lập Nhân muốn rút chân ra khỏi vòng tay của Kim-Một-Vú, nhưng chị ta cứ ôm riết lấy chân anh ta. Mấy cán bộ huyện ùa tới gỡ các ngón tay Kim-Một-Vú đan vào nhau như gọng kìm, giải phóng cho huyện trưởng Lỗ. Kim-Một-Vú lại lết đến bên nhân vật bự. Lỗ Lập Nhân kiên quyết:
- Lôi nó đi!
Thằng Câm quay ngược khẩu pạc-hoọc gõ một phát vào thái dương Kim-Một-Vú, chỉ một cái gõ chị ta đã ngã lăn ra, mắt trợn ngược, bầu vú duy nhất chĩa thẳng lên bầu trời u ám.
- Ai còn nỗi khổ nào không? - Phán Đệ hỏi to.
Dưới sân một người cất tiếng khóc. Đó là ông già Từ Tiên Nhi, tay chống cây gậy trúc vàng óng.
- Đỡ ông già lên bục! - Phán Đệ nói to.
Không ai đến dìu ông ta. Ông mù khóc, dùng gậy dò đường, mò mẫm bước lên bục. Cây gậy của ông ta dò đến đâu mọi người tranh nhau dãn ra đến đó. Hai cán bộ bước xuống kéo ông ta lên.
Từ Tiên Nhi cầm gậy bằng hai tay, vì uất hận, ông ta chọc gậy liên hồi xuống mặt đất. Mặt đất lỗ chỗ những vết gậy.
- Nói đi, bác Từ! - Phán Đệ nói.
Từ Tiên Nhi nói:
- Thưa trưởng quan, quả thực các ông báo thù cho lão chứ?
Chị Phán Đệ nói: - Cụ cứ yên tâm. Vừa nãy chẳng phải chúng tôi đã báo thù cho Trương Đức Thành rồi đấy sao?
Từ Tiên Nhi nói:
- Để tôi nói. Cái thằng khốn kiếp Tư Mã Khố đã bức tử vợ tôi, khiến mẹ tôi uất mà chết, hắn nợ tôi hai mạng người?...
Nước mắt ứa ra từ cặp mắt ông già mù.
- Bác cứ nói. - Lỗ Lập Nhân nói.
- Năm Dân quốc thứ mười lăm, mẹ tôi đã bỏ ra ba mươi đồng bạc trắng cưới vợ cho tôi, đó là con gái của bà ăn xin ở thôn tây. Mẹ tôi bán bò, lợn, hai tạ lúa mạch, đổi lấy ba mươi đồng bạc trắng đưa cho bà ăn mày. Ai cũng bảo vợ tôi xinh xắn, nhưng chính cái đẹp đã gây tai họa! Khi ấy Tư Mã Khố cũng khoảng mười sáu mười bảy chứ mấy. Hắn không chịu học, ỷ vào quyền thế của gia đình, cứ đến nhà tôi xoành xoạch, hát xướng, chơi hồ cầm, rồi đưa vợ tôi đi xem hát, trên đường trở về hắn cưỡng đoạt vợ tôi... Sau đó vợ tôi nuốt thuốc phiện tự tử, mẹ tôi uất quá thắt cổ chết.. Tư Mã Khố nợ tôi hai mạng người, xin Chính phủ phân xử việc này cho tôi?...
Ông mù quì trên bục.
Một cán bộ khu kéo ông ta đứng dậy. Ông ta nói:
- Không trả thù cho tôi thì tôi cứ quì ở đây!
- Bác ơi - Lỗ Lập Nhân nói - Tư Mã Khố chạy đâu cho thoát bắt được nó chúng tôi sẽ giải oan cho bác!
Ông mù nói:
- Tư Mã Khố như con chim diêu bay cùng trời cuối đất, các ông không bắt được nó đâu? Tôi yêu cầu Chính phủ cứ là mạng đổi mạng, bắn bỏ con trai và con gái nó. Thưa ông huyện trưởng, lão biết ông và Tư Mã Khố có hơi hướng gia đình, nếu ông là Bao Thanh Thiên thì xin ông chuẩn y lời đề nghị của tôi. Nếu ông còn tình nghĩa riêng tư thì tôi xin về nhà treo cổ tự vẫn, để Tư Mã Khố khỏi hành hạ tôi khi hắn trở lại!
Lỗ Lập Nhân đắng họng, cố phân bua:
- Bác ơi, nợ có đầu oan có chủ, ai làm người ấy chịu. Tư Mã Khố hại người thì chỉ có thể là Tư Mã Khố phải đền mạng, trẻ con không có tội!
Ông mù chọc gậy xuống đất nói:
- Bà con đã nghe rõ chưa? Đừng bao giờ bị mắc lừa, Tư Mã Khố chạy rồi, Tư Mã Đình trốn rồi, con cái của chúng chả mấy chốc mà lớn lên, huyện trưởng Lỗ với hắn là anh em cọc chèo, phải thân với nhau chứ! Bà con ơi, lão Từ này sống với một cây gậy, chết thành thức ăn cho chó, bà con không bì được với tôi đâu. Bà con, đừng mắc lừa..
Phán Đệ giận dữ quát:
- Thằng mù ăn nói bậy bạ cái gì thế?
Từ mù nói:
- Cô nương Phán Đệ, họ Thượng Quan nhà cô quả là giỏi! Thời Nhật thì có chàng rể Sa Nguyệt Lương đắc thế, thời Quốc dân đảng có rể thứ hai Tư Mã Khố đắc thế, bây giờ có cô và Lỗ Lập Nhân đắc thế. Gia đình cô không bao giờ bị mất ngọn cờ, không bao giờ bị lật thuyền. Rồi đây người Mỹ chiếm Trung Quốc, gia đình cô còn có chàng rể tây...
Tư Mã Lương mặt trắng nhợt, túm chặt tay mẹ. Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng rúc vào nách mẹ. Sa Tảo Hoa khóc, Lỗ Thắng Lợi cũng khóc. Chị tám Ngọc Nữ là người khóc cuối cùng.
Tiếng khóc của chúng khiến người trên bục và dưới sân để ý. Nhân vật bự cũng nhìn chúng chằm chằm. Từ Tiên Nhi tuy mù nhưng rất chuẩn xác quì trước mặt nhân vật bự, gào khóc:
- Thưa trưởng quan, hãy phân xử cho lão mù này?
Lão vừa khóc vừa dập đầu lia lịa, trán lão dính đầy đất.
Lỗ Lập Nhân nhìn nhân vật bự bằng con mắt cầu cứu. Nhân vật bự lạnh lùng nhìn anh ta, cái nhìn sắc như dao. Lỗ Lập Nhân mồ hôi chảy đầy mặt, mất hẳn cái vẻ ung dung thanh thoát, khi thì cúi nhìn cái đầu ngón chân, chốc lại ngẩng nhìn những người dưới sân phơi anh ta không đủ dũng khí nhìn thẳng vào mặt nhân vật bự.
Thượng Quan Phán Đệ cũng mất đi vẻ oai vệ của một trưởng khu, mặt đỏ như gấc, môi dưới run bần bật như lên cơn sốt. Chị chửi bới như một mụ nhà quê đanh đá:
- Lão Từ kia, lão định làm loạn phỏng? Gia đình ta có chỗ nào đắc tội với lão? Con vợ thối thây của lão đã mồi chài Tư Mã Khố, bậy bạ với nhau trong ruộng lúa mạch bị người ta tóm được không còn mặt mũi nhìn mọi người, nên mới uống thuốc phiện mà chết! Ta còn nghe nói lão cắn xé cô ta suốt đêm như một con chó. Vợ lão đã cho biết bao nhiêu người xem những vết cắn thâm tím ở ngực, lão có biết không. Bức hại vợ lão chính là lão. Tư Mã Khố có tội nhưng thủ phạm là lão. Nếu tử hình, trước tiên đem lão ra bắn bỏ!
- Thưa trưởng quan! - Từ mù nói - Ông nghe thấy chưa, cháy nhà ra mặt chuột.
Lỗ Lập Nhân vội đỡ đòn cho Phán Đệ. Anh ta định kéo Từ Tiên Nhi xuống nhưng Từ Tiên Nhi như cục kẹo kéo, lôi dậy người dài ra, buông tay người vón cục. Lỗ Lập Nhân nói:
- Bác ơi, bác đề nghị bắn bỏ Tư Mã Khố là đúng, nhưng đòi bắn bỏ con cái của Tư Mã Khố là sai, trẻ con không có tội!
Từ Tiên Nhi cãi:
- Triệu Giáp làm gì có tội? Triệu Giáp chẳng qua chỉ là anh thợ bếp lò? Chẳng phải Triệu Giáp có chút tư thù với Trương Đức Thành đấy sao? Chẳng phải là các người nói bắn là lôi ra bắn đó sao? Thưa ông huyện trưởng, không bắn chết con cháu Tư Mã Khố thì lão không chịu!
Những người dưới sân bảo nhau:
- Bà cô của Triệu Giáp là mẹ đẻ Từ Tiên Nhi, hai người là anh em họ.
Lỗ Lập Nhân cười ngượng, dè dặt tới bên nhân vật bự, lúng búng điều gì đó với ông ta. Nhân vật bự xoay xoay cái nghiên mục, không nói nửa câu, nhưng hai vết hằn bên khóe miệng kéo dài xuống tận dưới cằm và cái bĩu môi của ông ta thì đầy sát khí. Lỗ Lập Nhân lại lúng túng trình bày gì đó. Lúc này cặp mắt trắng đã của ông ta ngước lên nhìn Lỗ Lập Nhân, cất giọng rè rè nói rất to:
- Cái chuyện vặt này mà phải làm hộ anh sao?
Lỗ Lập Nhân rút khăn tay lau mồ hôi trên trán, hai tay quài ra sau thắt chặt dải vải đen, mặt vàng bệch, ra phía trước bục, lớn tiếng tuyên bố.
- Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, thực hiện ý nguyện của nhân dân. Bây giờ tôi xin trưng cầu ý kiến của các vị, ai đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố thì giơ tay lên?
Phán Đệ giận dữ chất vấn Lỗ Lập Nhân:
- Anh điên hay sao?
Phía dưới, mọi người cúi gằm, không ai giơ tay, cũng không ai nói gì.
Lỗ Lập Nhân đưa mắt hỏi ý kiến nhân vật bự.
Nhân vật bự thoáng nét cười nhạt trên khuôn mặt, bảo Lỗ Lập Nhân:
- Anh hỏi lại lần nữa, ai không đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố?
Lỗ Lập Nhân hỏi: - Ai không đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã Khố thì giơ tay?
Quần chúng vẫn im lặng, đầu cúi gằm, không giơ tay, không ai nói câu gì.
Mẹ chậm rãi đứng lên, nói:
- Từ Tiên Nhi, nếu dứt khoát phải đền mạng thì xin bắn chết tôi! Mẹ ông không thắt cổ chết, mà chết vì băng huyết. Nguồn gốc bệnh của bà là từ thời loạn thổ phỉ để lại.
Nhân vật bự đứng dậy đi vào phía trong.
Lỗ Lập Nhân vội vã đuổi theo.
Trên một khoảnh đất trống phía sau bục, nhân vật bự lúc nói chậm lúc nói nhanh, cánh tay khẳng khiu mềm oặt của ông ta lúc giơ lên lúc hạ xuống, như một lưỡi dao chém vào không khí.
Các vệ sĩ xúm xít xung quanh, hộ tống ông ta bỏ đi. Lỗ Lập Nhân đứng như trời trồng, đầu cúi gằm. Anh ta đứng rất lâu rồi như sực tỉnh, lê những bước nặng nề, đờ dẫn trở về vị trí huyện trưởng của anh ta. Anh ta nhìn chúng tôi bằng ánh mắt điên dại, nhìn rất lâu, trông thật đáng thương. Lâu lắm, anh ta mới mở được miệng, ánh mắt thì như con bạc khát nước, nói:
- Tôi tuyên bố, tử hình con trai Tư Mã Khố là Tư Mã Lương, lập tức thi hành; tử hình hai con gái Tư Mã Khố là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng, lập tức chấp hành!
Người mẹ chúi một cái, nhưng mẹ vẫn đứng vững. Mẹ nói:
- Để ta xem mày có dám không?
Mẹ ôm chặt Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng. Tư Mã Lương nhanh nhẹn nằm rạp xuống đất rồi bò lùi. Mọi người lắc lư làm như không để ý, che khuất cho Tư Mã Lương bỏ trốn.
- Tôn Bất Ngôn? - Lỗ Lập Nhân quát to - Sao không chấp hành mệnh lệnh của tôi?
Phán Đệ chửi: - Anh lú lẫn rồi, lệnh gì mà như thế!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Tôi không lú lẫn, tôi rất tỉnh? - Anh ta vừa nói vừa đấm vào đầu.
Thằng Câm ngần ngại buộc xuống bục, theo sau là hai đội viên của tiểu khu.
Tư Mã Lương bò ra khỏi đám đông, lách giữa hai trạm gác rồi chạy vụt lên đê.
- Chạy rồi, chạy rồi. - Các đội viên trên bục kêu lên. Các lính gác hạ súng trên vai xuống, kéo cơ bẩm, đẩy đạn lên nòng, rồi bắn mấy phát chỉ thiên. Tư Mã Lương mất hút trong những lùm cây lúp xúp trên đê.
Thằng Câm dẫn các đội viên, gạt những tấm lưng đen đủi ken nhau, đến trước mặt chúng tôi. Hai đứa con câm của hắn - Câm Anh, Câm Em - giương đôi mắt cô độc và ngạo mạn nhìn hắn. Hắn giơ vuốt trước như thép nguội ra, mẹ nhổ vào mặt hắn một bãi nước bọt. Hắn rụt tay lại chùi nước bọt trên mặt, chùi xong lại chìa tay ra, mẹ lại nhổ bãi nữa nhưng lần này súc yếu hơn, nước bọt chỉ đến ngực hắn. Hắn ngoảnh lại nhìn những người đứng trên bục. Lỗ Lập Nhân hai tay chắp sau lưng, đi đi lại lại. Phán Đệ thì ngồi xổm, hai tay bưng mặt. Các cán bộ huyện và khu thì nét mặt vô cảm như tuồng đất. Cái cằm dưới rắn như thép của Thằng Câm lập bập như thường ngày, miệng quát:
- Cởi, cởi, cởi?
Mẹ ưỡn ngực, thét lên chói tai:
- Thằng súc sinh, giết tao trước đi!
Mẹ xông tới trước mặt Thằng Câm cào vào mặt hắn. Mặt hắn xuất hiện bốn rãnh màu trắng, sau đó máu từ trong rãnh tứa ra.
Thằng Câm vuốt mặt một cái rồi đưa ngón tay ra trước mặt ngây ra mà nhìn, hình như để xem cái gì dính trên ngón tay. Xem xong, hắn lại đưa ngón tay lên mũi - cái mũi sư tử - để ngửi, hình như để biết trên ngón tay có mùi gì. Ngửi xong, hắn thè lại liếm đầu ngón tay như để xem mùi vị nó ra sao. Lát sau, hắn ầu ầu lên mấy tiếng, đấm mẹ một quả, mẹ ngã bay về phía chúng tôi.
Chúng tôi vừa khóc vừa phủ phục trên mình mẹ.
Thằng Câm xách từng đứa chúng tôi quẳng sang một bên. Tôi rơi trên lưng một phụ nữ, Sa Tào Hoa rơi trên bụng tôi. Lỗ Thắng Lợi rơi trên lưng một ông già. Chị Tám rơi trên vai một bà lão. Câm anh đeo dưới cánh tay của bố nó, bố nó vẩy rất mạnh cũng không rơi, nó bám chặt cổ tay không nhả. Câm em thì ôm chặt chân Thằng Câm Bố, cắn vào gối của bố. Bố nó hất chân, Câm em bay vào đầu một ông trung niên. Thằng Câm Bố giằng mạnh tay, Câm Anh văng ra, kéo theo trong miệng một miếng thịt của Câm Bố, rơi đánh bộp vào lòng một bà lão
Thằng Câm tay trái xách Tư Mã Phượng, tay phải xách Tư Mã Hoàng đi như đi trong bùn lầy, chân giơ cao rồi mới đặt xuống. Hắn đi đến trước cái bục, giơ tay trái quẳng Tư Mã Phượng lên, giơ tay phải quẳng Tư Mã Hoàng lên. Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng gào khóc, miệng gọi bà ngoại. Hai đứa muốn trườn xuống nhưng bị thăng Cầm chặn lại. Mẹ lồm cồm bò dậy loạng choạng chạy tới nhưng vừa được hai bước, mẹ ngã lăn ra.
Lỗ Lập Nhân dừnglại, giọng thê thảm:
- Các ông các bà nghèo khổ ơi, các vị nói đi, Lỗ Lập Nhân tôi có còn là con người hay không Bắn chết hai đứa trẻ này, trong lòng tôi như thế nào? Tôi đau lắm, xót xa lắm! Chúng nó là trẻ con, huống hồ lại là thân thích với tôi! Nhưng chính bởi vì chúng là họ hàng, tôi buộc phải rớt nước mắt mà tử hình chúng! Các ông các bà ơi, hãy tỉnh lại, tử hình con cái Tư Mã Khố là chúng ta không còn đường lui nữa. Thoạt nhìn, chúng ta bắn hai đứa trẻ, kỳ thực không phải là đứa trẻ, mà là chế độ lạc hậu cũ kỹ, chúng ta bắn là bắn cái chế độ đó, bắn hai dấu hiệu đó? Các ông các bà ơi, hãy vùng lên, không cách mạng thì là phản cách mạng, không có còn đường thứ ba!
Anh ta nói to quá nên ho sặc sụa, mặt đỏ gay, nước mắt ràn rụa. Một cán bộ huyện bước tới định đấm lưng cho anh ta, nhưng anh ta khoát tay từ chối. Rồi anh ta cũng điều khiển được nhịp thở, nhổ nước bọt, hổn hển như mắc bệnh lao, nói:
- Chấp hành đi!
Thằng Câm nhảy lên bục, hai tay kẹp hai đứa trẻ rảo bước đến bờ đầm. Hắn đặt hai đứa xuống rồi lùi lại hơn chục bước. Hai đứa trẻ ôm lấy nhau, khuôn mặt hẹp và dài như bôi lên lớp phấn vàng, bốn con mắt nhỏ xíu kinh hoàng nhìn Thằng Câm. Thằng Câm rút khẩu pạc-hoọc ra từ từ giơ lên, bàn tay hắn đầy máu run run như khẩu súng nặng đến hai mươi cân, vất vả mới giơ được lên. Pằng, hắn bắn một phát, cổ tay cầm súng nẩy lên một cái đầu nòng bốc khói, cánh tay hắn lập tức nhũn ra, viên đạn bay trên đầu hai đứa trẻ, làm bắn tung một chỗ bùn trên đầm.
Một phụ nữ với hai bàn chân không bị bó, người hơi nghiêng như thuyền buồm ăn gió, chạy như bay theo con đường mòn kẹp giữa hai vạt cỏ rậm, vừa chạy vừa gào thét như con gà mái chạy đến bảo vệ cho đàn con. Tôi nhận ra đó là chị Cả, vì chị từ chân đê chạy tới. Chị được coi là tâm thần không bình thường nên không dự đại hội đấu tranh. Là vợ chưa chết của Hán gian Sa Nguyệt Lượng, chị đáng bị đem xử bắn. Nếu mọi người biết chị đã từng nhất dạ phong lưu với Tư Mã Khố, chị đáng bị bắn hai lần. Tôi lo thay cho chị. Chị đang đâm đầu vào lưới. Chị chạy thẳng đến ven đầm, đứng chặn trước mặt hai đứa trẻ:
- Bắn tôi đi, giết tôi đi! - Chị gào thét điên cuồng - Tôi đã từng qua đêm với Tư Mã Khố, tôi chính là mẹ của chúng.
Cái hàm dưới của Thằng Câm lại lập cập dữ dội, chứng tỏ sóng gió đang nổi lên trong lòng hắn. Hắn chĩa súng, quát bằng giọng khàn khàn:
- Cởi, cởi, cởi!
Không chút do dự, chị Cả cởi nút áo để lộ cặp vú tuyệt mỹ của chị, Thằng Câm giương to mắt, cằm dưới của hắn như rơi xuống đất vỡ thành từng mảnh, to như cục gạch, nhỏ như mầu gạch. Hàm dưới mà mất, Thằng Câm trông thật dáng sợ. Hắn lấy tay nâng hàm dưới, chỉ sợ nó rơi xuống, nói mà không phải nghĩa như thế:
- Cởi, cởi, cởi?
Chị Cả ngoan ngoãn cởi bỏ áo, mình trần. Mặt chị đen nhưng mình thì trắng, trắng như ngà. Trong bầu không khí u ám, chị thi gan với Thằng Câm. Thằng Câm ngập ngừng đi tới, đi tới ngay trước mặt chị, một thằng đàn ông như đúc bằng thép phút chốc tan ra nước như người tuyết dưới ánh nắng mặt trời, chân một nơi tay một ngả, ruột lòng thòng như những con rắn, chỉ còn mỗi trái tim đỏ rực được nâng bằng hai tay là đang đập. Gắng gượng lắm những bộ phận đó mới trở về vị trí cũ thành hình người nguyên vẹn. Thằng Câm quỳ trước mặt chị Cả, hai tay ôm vòng mông của chị, hôn lấy hôn để cái rốn của chị.
Trước tình huống bất ngờ đó, bọn Lỗ Lập Nhân giương mắt nhìn nhau, miệng như bị bỏng, tay như chạm phải gai nhím. Dân chúng nhìn trộm về phía đầm, không hiểu tâm trạng của họ ra sao.
- Tôn Bất Ngôn! - Lỗ Lập Nhân ngán ngẩm cất tiếng gọi, nhưng Thằng Câm không thèm để ý.
Phán Đệ nhảy xuống bục chạy tới ven đầm nhặt chiếc áo cánh khoác lên người chị Cả. Chị định lôi chị Cả đi, nhưng nửa người dưới của chị Cả đã gắn chặt vào Thằng Câm, Phán Đệ gỡ ra sao được? Phán Đệ quay ngược báng súng đập vào vai Thằng Câm. Thằng Câm ngẩng mặt lên, nét mặt dịu dàng, nước mắt lưng tròng.
Sự việc xảy ra sau đó cho đến nay vẫn còn là một ẩn số có đến mười mấy nghiệm, không ai biết đích xác thật giả như thế nào. Giữa lúc chị Phán Đệ ngẩn người trước cặp mắt đầy lệ của Thằng Câm; giữa lúc chị em con Phượng líu ríu ôm nhau đứng dậy tìm bà ngoại, giữa lúc mẹ tỉnh lại - vừa kêu vừa chạy tới ven đầm; giữa lúc Từ Tiên Nhi nói: Ông huyện trưởng, đừng giết chúng, mẹ tôi không thắt cổ chết, vợ tôi chết không phải hoàn toàn do Tư Mã Khố, giữa lúc hai con chó hoang đang cắn nhau trong căn nhà bỏ hoang của người đàn bà Hồi; giữa lúc tôi đang nhớ lại khung cảnh ngọt ngào mà ấm ức bên máng cỏ, miệng tôi mặn mùi bụi đất ở đầu vú chị Cả và cái đầu vú nẩy như cao su của chị, thì có hai người cưỡi ngựa lướt tới như một cơn lốc. Hai con ngựa, một con trắng như tuyết, một con đen như mun. Người cưỡi ngựa trắng mặc áo đen, che nửa mặt dưới bằng vuông vải đen, đầu đội mũ đen. Người cưỡi ngựa đen mặc áo trắng, che nửa mặt dưới bằng vuông vải trắng, đầu đội mũ trắng. Mỗi người hai tay hai súng, tài cưỡi ngựa thì tuyệt diệu, hai chân thẳng băng trên mình ngựa, người hơi ngả về phía trước. Khi gần đến ven đầm, họ bắn một băng lên trời, các cán bộ huyện khu hoảng sợ đến nỗi nằm rạp dưới đất. Họ điều khiển dây cương cho ngựa lượn một vòng, thân ngựa hơi nghiêng vẽ thành một vòng cung đẹp mắt. Mỗi người trong họ nổ một phát súng rồi bỏ đi, đuôi ngựa bay bay, như sương như mù, chỉ chớp mắt đã biến mất, quả là đến như gió xuân, đi như gió thu, hư hư thực thực y như một giấc mộng! Họ đi rồi, mọi người mới dần dần định thần lại. Kết quả cuối cùng là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng mỗi đứa bị một phát đạn vào đầu viên đạn từ trán chui ra gáy, lỗ đạn không sai nhau mảy may, mọi người ngạc nhiên thán phục mãi.


o0o

 

Pages Previous  1  2  3  4  5  Next