Một Tia Sáng Chợt Lóe
Trong khi ba nhà thám tử đi thẩm tra lại một số chi tiết, tôi đi dạo
một ṿng khu vườn ở bên hông lâu đài. Được bao quanh bởi
những hàng cây thuỳ dương uy nghi, khu vườn có một băi cỏ rất đẹp, ở
giữa là một chiếc đồng hồ mặt trời cổ kính. Sự yên tĩnh ở
đây làm cho thần kinh tôi như giăn hẳn ra.
Đi về phía xa nhất của toà lâu đài, những lùm cây mọc sát vào nhau
làm thành một thứ hàng rào rất kín. Đằng sau hàng rào, có
một chiếc ghế kê khuất hẳn, người đi từ phía lâu đài lại không thể
nh́n thấy được. Đi gần đến đó, tôi chợt nghe tiếng nói của đàn
ông, và một tiếng nói nhỏ của phụ nữ. Một lát sau khi đă đi ṿng qua
hàng rào, tôi trông thấy bà Du-gia đang ngồi với ông Bar.
Vẻ mặt của bà ta làm tôi phải kinh ngạc. Lúc năy, bà tỏ ra nghiêm
nghị và dè dặt bao nhiêu th́ bây giờ, bà ta yêu đời bấy nhiêu;
khuôn mặt vẫn c̣n rung lên trong sự thích thú v́ câu nói vừa rồi của
ông Bar. Ông ngồi nghiêng người ra phía trước, hai tay đan
vào nhau, một nụ cười tươi làm rạng rỡ hẳn bộ mặt rắn rỏi. Khi trông
thấy tôi, họ lấy lại nét mặt trang nghiêm, th́ thầm với nhau
câu ǵ đó, rồi Bar đứng dậy và tiến về phía tôi:
- Thưa ông, có phải tôi đang được hân hạnh nói chuyện với bác sĩ
Watson không?
Tôi chào lại một cách lạnh nhạt.
- Chúng tôi nghĩ rằng có lẽ đúng là ông, người mà ai ai cũng biết là
bạn thân của ông Holmes. Bà Du-gia mong muốn được thưa
với ông một đôi điều.
Tôi cau mày và đi theo ông ta. H́nh ảnh của người chết lại hiện ra
trong đầu tôi. Chỉ vài giờ sau tấn thảm kịch th́ vợ và bạn của kẻ
xấu số đă cười đùa vui vẻ với nhau. Tôi chào bà Du-gia một cách dè
dặt.
- Tôi sợ rằng ông sẽ coi tôi là một người đàn bà không tốt.
- Đó không phải là việc của tôi. - Tôi nhún vai, nói.
- Có thể một ngày nào đấy, ông sẽ hiểu được rằng...
- Cũng không cần thiết là bác sĩ Watson phải hiểu. Đúng như ông ta
nói, đây không phải là việc của ông. - Ông Bar nói.
- Đúng thế. V́ vậy tôi xin phép được tiếp tục đi dạo.
- "Xin hăy khoan, bác sĩ Watson!". Bà Du-gia kêu lên. "Ông hiểu biết
ông Holmes và những mối quan hệ của ông ta với cơ quan
cảnh sát hơn ai hết. Nếu có một sự việc nào đó đem nói riêng với ông
ta, th́ ông ta có luôn luôn đem báo cáo lại với các thám tử
của chính quyền không?"
- Xin hỏi ông Holmes làm việc riêng cho ông ta, hay ông ta làm việc
cho cảnh sát? - Bar cũng nhấn mạnh thêm.
- Tôi cũng không biết ḿnh có đủ thẩm quyền để bàn về vấn đề này
không.
- Tôi van ông. Nếu ông mách cho chúng tôi điều này, th́ ông sẽ giúp
đỡ cho chúng tôi nhiều lắm.
Trong giọng nói của bà chứa đựng một cái ǵ nghe thành thật quá, đến
nỗi lúc đó tôi quên hết cái chuyện vô tâm của bà, và chỉ
nghĩ cách làm sao cho bà vui ḷng:
- Ông Holmes là một nhà điều tra độc lập. Ông ấy tự làm chủ lấy ḿnh
và hoạt động theo sự suy nghĩ riêng của ông. Mặt khác,
ông ấy cũng phải tỏ ra trung thực đối với những thám tử của nhà nước
cùng làm việc trong một vụ án, và ông ấy sẽ không giấu
diếm họ bất cứ một điều ǵ có thể giúp họ đưa các tội phạm ra trước
công lư. Như vậy bà và ông nên hỏi thẳng ông Holmes.
Nói thế rồi, tôi nhấc mũ lên chào và bỏ đi, để mặc họ ngồi đằng sau
lùm cây.
Khi tôi đi khỏi hàng rào và quay lại th́ thấy họ vẫn đang bàn căi và
trông theo tôi.
Khi tôi kể lại cho Holmes nghe câu chuyện vừa rồi, Holmes trả lời:
"Tôi không mong ước được nghe những lời tâm sự của họ".
Sau đó Holmes làm việc với hai đồng nghiệp suốt buổi chiều ở lâu đài
và măi 5 giờ mới về. Anh c̣n nhắc lại lần nữa:
- Này Watson, không có tâm sự ǵ cả đấy nhé. Những tâm sự này sẽ trở
nên rất cộm nếu sau này có sự bắt bớ về tội đồng loă.
- Sắp tiến đến bước đó rồi à?
- Khi nào tôi tiêu diệt xong cái quả trứng thứ tư này, tôi sẽ nói
cho anh biết t́nh h́nh hiện nay. Tôi không nói rằng chúng ta đă giải
được bài toán. C̣n xa đấy. Nhưng khi nào chúng ta t́m thấy quả tạ
c̣n thiếu kia th́.....
- Quả tạ à?
- Tất cả vụ án này quay chung quanh cái quả tạ vắng mặt kia. Một quả
tạ duy nhất. Anh hăy tưởng tượng có một nhà lực sĩ nào chỉ
tập với một quả tạ thôi, trẹo cột sống.
Anh ta nhai nhồm nhoàm cái bánh ngọt, hai mắt long lanh tinh nghịch:
trông anh ăn ngon như thế cũng đủ hiểu là công việc tiến
hành tốt rồi ; ăn xong, anh đến ngồi bên góc chiếc ḷ sưởi của quán
trọ, bắt đầu nói:
- Nói dối. Nói dối to bằng cái đ́nh. Tất cả câu chuyện của Bar là
nói dối. Nhưng câu chuỵên của Bar lại được bà Du-gia công
nhận. Vậy th́ bà Du-gia cũng nói dối. Bởi vậy, giờ đây chúng ta đang
đứng trước bài toán này: Tại sao họ lại nói dối, và cái sự
thật họ đă cố gắng che giấu là ǵ? Theo họ kể lại th́ tên sát nhân
chỉ có một khoảng thời gian chưa đầy một phút để tháo chiếc
nhẫn thứ nhất ra, lấy chiếc nhẫn cưới, rồi đeo chiếc nhẫn thứ nhất
vào tay nạn nhân. Chắc chắn là không bao giờ nó làm như vậy
đâu. Sau đó nó lại c̣n nhớ để một mẩu b́a cứng bên cạnh xác chết
nữa, không thể làm kịp. Cậu có nói rằng: chiếc nhẫn cưới đă
được rút ra khỏi tay Du-gia trước khi ông ta chết. Sự kiện cây nến
cháy ít như vậy chứng tỏ cuộc đối thoại chắc phải là ngắn ngủi.
Lại nữa một người can đảm, liều lĩnh như Du-gia liệu có tháo ngay
chiếc nhẫn cưới của ḿnh đưa cho tên sát nhân khi tên này mới
đ̣i lấy không? Không, tên sát nhân đă ở lại một ḿnh với xác chết
một thời gian nữa sau khi cây nến được thắp lên. Nhưng phát
đạn là nguyên nhân đă gây ra cái chết. Vậy th́ phát đạn này được bắn
sớm hơn là người ta khai báo với chúng ta, vết máu ở trên
thành cửa sổ, chính là do Bar đă cố t́nh tạo nên ở đó để đánh lừa
cảnh sát. Hôm ấy, gia nhân trong lâu đài c̣n đi lại đến mười giờ
rưỡi đêm, vậy th́ vụ án không thể xảy ra trước giờ đó được. Đến 11
giờ kém 15 th́ họ đi ngủ, chỉ trừ có Am lúc đó đang ở trong
bếp.
Chiều nay, sau khi anh đi về rồi, tôi có tiến hành một vài thử
nghiệm: Khi tôi đóng kín các cửa lại, Dona gây ra nhiều tiếng động
trong căn pḥng có án mạng ; ở dưới bếp không ai nghe thấy cả. Nhưng
đứng ở căn pḥng riêng của bà hầu pḥng th́ lại khác: ở
trong buồng của bà này, tôi vẫn nghe thoang thoảng tiếng người nói
thật to ở nhà trên. Tiếng nổ của một phát súng chắc không
lớn lắm, nhưng trong cái im lặng của ban đêm, th́ ở căn buồng của bà
A-len cũng có thể nghe thấy được. Bà ấy có nói là hơi nặng
tai nhưng mặc dầu vậy bà ấy lại khai là có nghe thấy tiếng một cánh
cửa đập nửa giờ trước khi có báo động. Nửa giờ trước khi báo
động, nghĩa là vào lúc 11 giờ kém 15, chắc chắn là cái tiếng mà bà
ta cho là tiếng đập cửa ấy, chính là tiếng súng và thời điểm 11
giờ kém 15 ấy chính là giờ xảy ra vụ án. Giả sử ông Bar và bà Du-gia
không giết người th́ họ đă làm ǵ trong khoảng thời gian từ
11 giờ kém 15 (Là lúc họ nghe thấy tiếng súng và chạy từ trên lầu
xuống) tới 11 giờ 15 (lúc họ giật chuông để báo động với gia
nhân). Tại sao họ lại không báo động ngay? Khi trả lời được câu này,
th́ đă tiến được một bước lớn.
- Tôi lại tin chắc là có một sự đồng loă giữa hai con người này. Một
người đàn bà phải tàn nhẫn đến thế nào th́ mới có thể cười cợt
như vậy khi chồng mới chết có vài tiếng đồng hồ.
- Đúng thế. Ta ít thấy có người phụ nữ yêu chồng mà lại chỉ mới nghe
một lời khuyên đơn giản như thế đă không vào nh́n xác
của chồng. Đó, chỗ này đạo diễn có phần "yếu" quá, v́ bất luận một
nhà điều tra nào dù ngu đến đâu cũng phải chú ư đến việc ở
đây thiếu hẳn những lời than khóc của phụ nữ.
- Vậy th́ Bar và bà Du-gia là những thủ phạm của vụ án này phải
không?
Holmes rút cái tẩu thuốc ở mồm ra, dứ dứ vào tôi thở dài:
- Nếu anh muốn nói rằng bà Du-gia và Bar biết sự thật về vụ án mạng
nhưng họ cố che giấu th́ tôi đồng ư. Nhưng c̣n câu kết
luận của anh, th́ tôi thấy chưa đủ chứng minh. Phải chăng họ đă yêu
nhau và đă quyết định phải ra tay? Không. Những người
trong làng đă nói là tuyệt đối không có thế. Tất cả mọi cái đều
chứng minh rằng gia đ́nh Du-gia rất thuận hoà êm ấm.
Tôi nhanh chóng nhớ lại nét mặt tươi cười mà tôi đă bắt gặp trong
khu vườn, nên căi lại:
- Về vấn đề này th́ anh đă sai rồi.
- ừ th́ ít nhất họ cũng cho ta cái cảm giác là họ thuận hoà với
nhau. Như thế phải giả thiết rằng cái đôi thủ phạm kia gian giảo,
đến
mức vừa giết chồng, vừa đánh lừa được mọi người. Và trên đầu người
bị giết đang treo lơ lửng một mối nguy hiểm nào đó...
- ồ... Giả thiết về mối nguy hiểm này chỉ do một ḿnh họ gợi ra mà
thôi.
Holmes có vẻ suy nghĩ:
- Theo anh th́ chẳng có mối nguy hiểm nào đe doạ Du-gia, chẳng có
thung lũng khủng khiếp. Họ bịa ra những chuyện đó để giải
thích vụ án mạng. Rồi họ lại nghĩ ra việc bố trí một cái xe đạp giấu
trong bụi cây để chứng tỏ có sự hiện diện của một kẻ lạ mặt.
Cả vết máu trên thành cửa sổ cũng nằm trong ư nghĩ đó. Rồi lại cả
mẩu b́a cứng, đáng lẽ ra có thể chuẩn bị ngay ở trong lâu đài.
Tất cả những cái ấy đều khớp với giả thiết của anh. Nhưng ác cái lại
có những góc cạnh khác cứ ḷi ra. Tại sao có súng cưa ṇng?
Tại sao lại là súng Mỹ? Tại sao họ tin chắc là không ai nghe thấy
tiếng súng? Anh có thể giải thích được cho tôi nghe không,
Watson?
- Xin chịu.
- Nếu một người đàn bà cùng nhân t́nh âm mưu giết chồng, th́ liệu họ
có dại dột đến mức tháo chiếc nhẫn cưới ở tay người chết
ra để "lạy ông tôi ở bụi này" không? Điều này liệu có thế xảy ra
được không?
- Không?
- Lại c̣n thế này nữa: Nếu chính họ là những ngựi giấu chiếc xe đạp
trong bụi cây, th́ tất họ cũng đủ tinh khôn để nghĩ rằng bất
cứ một viên thám tử nào cũng hiểu đây là một động tác giả, v́ chiếc
xe đạp chính là cái mà một người chạy trốn cần đến trước nhất
để thoát.
- Chịu thôi.
- Vậy chúng ta hăy giả thiết tay Du-gia này có một bí mật đáng xấu
hổ trong đời. Bí mật này đưa đến chỗ hắn bị ám sát bởi một
người đi báo thù. Người này, v́ một động cơ nào đó đă tháo chiếc
nhẫn cưới của hắn. Ta cũng có thể giả thiết rằng mối thù này có
từ thời Du-gia lấy người vợ trước kia, th́ mới giải thích được việc
tháo nhẫn cưới. Trước khi hung thủ trốn thoát, th́ Bar và bà
Du-gia ập vào pḥng. Tên sát nhân nói với họ rằng nếu họ bị bắt, th́
bí mật ghê gớm của Du-gia sẽ bị đưa ra ánh sáng. Hai người
buộc ḷng phải để cho nó chạy trốn. Có lẽ họ đă hạ chiếc cầu xuống
để cho nó chạy đi rồi lại kéo cầu lên. Tên sát nhân biết rằng
đi bộ tốt hơn là dùng chiếc xe đạp, nên đă để lại chiếc xe đạp ở chỗ
mà người ta khó phát hiện ra trước khi nó đă đi xa. Đến đây
th́ chúng ta vẫn c̣n ở trong phạm vi những điều có thể được, đúng
không?
Tôi trả lời một cách không tin tưởng lắm:
- Tất nhiên là có thể được.
- Tiếp tục nhé, sau khi đă để cho tên sát nhân trốn thoát, hai người
kia biết ḿnh đă lâm nguy, bởi v́ làm sao chứng minh được
rằng họ không giết Du-gia hay không phải là đồng loă của tên sát
nhân. Thế rồi họ chọn một quyết định: Bar lấy chiếc giày vải,
thấm máu in vết lên thành cửa sổ để gợi ư là tên sát nhân đă trốn ra
theo con đường đó. Chắc chắn họ đă để chậm nửa giờ sau khi
sự việc xảy ra, rồi mới báo động.
- Làm cách nào để chứng minh được những điều đó.
- Một ḿnh tôi ở lại đây một đêm th́ sẽ có kết quả.
- ở một ḿnh suốt một đêm trong căn pḥng xảy ra án mạng?
- Tôi đă thu xếp với bạn Am rồi. Tôi sẽ tới ngồi ở đó, và không khí
trong pḥng có lẽ sẽ gợi cho tôi nhiều ư nghĩ hay. à, mà này,
anh có mang theo cái ô to gộc của anh đi đấy chứ.
- Có, kia kài.
- Thế th́ xin cho tôi mượn.
- Được thôi. Nhưng... nó có phải là một vũ khí đâu.
- Không có ǵ nguy hiểm đâu. Bây giờ tôi chỉ c̣n chờ các vị đồng
nghiệp chúng ta ở Tunbridge Wells về, họ lên đấy để xác minh
chủ nhân của chiếc xe đạp đó.
Trời tối mịt mới thấy ông thanh tra Dona và Maso trở về. Họ vui mừng
ra mặt, v́ họ đă tiến lên một bước khá dài.
- Chúng tôi đă xác minh được chiếc xe đạp và đă có được h́nh dạng
của người chủ nó. - Dona nói.
- Tôi xin hết ḷng ca ngợi nhị vị - Holmes nói.
- Cậu Am khai là bữa trước hôm xảy ra án mạng, ông Du-gia từ
Tunbridge Wells về, có tỏ ra cáu kỉnh khác thường. Vậy chắc là
khi ở đó, ông được biết có một mối nguy hiểm đang đe doạ ḿnh. Như
thế nếu có ai đến đây bằng xe đạp, th́ người đó xuất phát
từ Tunbridge Wells. Bọn tôi mang cái xe đạp đến đó cho các khách sạn
xem. Chủ khách sạn "Con ó Thương mại" nhận ra ngay là
chiếc xe của một người Mỹ tên là Har đến thuê buồng ở đó đă hai ngày
rồi. Tất cả hành lư chỉ có chiếc xe đạp với một cái va ly
nhỏ. Anh ta khai trong sổ đăng kư là từ Luân Đôn đến, nhưng không
nói rơ địa chỉ.
Holmes kêu lên vui sướng:
- Hô, hô. Hai ông đă làm được một công việc hết sức tốt, trong khi
tôi và ông bạn Watson cứ ngồi đây mà xây dựng hết thuyết nọ
đến thuyết kia. Đấy, óc thực tiễn có lợi là như thế đó, ông Dona ạ.
Ông thanh tra nở mày nở mặt, vui vẻ nói:
- Vâng, ông nói đúng đó.
Tôi nói với Holmes:
- Nhưng sự phát hiện này cũng khớp với giả thiết của cậu kia mà.
- Khớp mà không khớp. Ông Dona, ông có t́m thấy cái ǵ để xác minh
được người ấy không?
- Không có bất cứ một thứ giấy tờ, thư từ, giấu vết ǵ trên quần áo.
Trên bàn của hắn, có một tấm bản đồ của vùng này. Sáng hôm
qua, sau khi ăn điểm tâm xong, hắn ở khách sạn ra, lên xe đạp đi,
thế là biến luôn. Không ai thấy hắn nữa.
Maso ngắt ngang:
- Đó. Chính chỗ này làm cho tôi thắc mắc đây ông Holmesss ạ. Nếu tên
này muốn làm cho người ta không chú ư đến hắn, th́ hắn
nên trở lại khách sạn và ở đấy như một người du lịch b́nh thường.
Hắn thừa biết người chủ khách sạn phải báo cáo với cảnh sát về
sự mất tích của hắn, và tất nhiên là người ta sẽ ráp sự mất tích của
hắn với vụ án mạng.
- Tất nhiên rồi, nhưng cho đến bây giờ nó vẫn chưa bị bắt. Mà các
ông có nắm được h́nh dạng của nó không?
Dona mở cuốn sổ tay ra:
- Tôi đă ghi được những ǵ người ta nói với chúng tôi đây. Hắn cao
khoảng 1 thước 80, cỡ 50 tuổi, tóc hơi hoa râm, râu cũng hoa
râm, mũi két; về cái bộ mặt của hắn, mọi người đều mô tả là dữ dằn
và đáng ngại.
- Trời đất. Trừ cái điểm cuối cùng ra, th́ phải nói là giống hệt một
bức chân dung của chính Du-gia. Tay này cũng khoảng hơn 50
tuổi, tóc cũng muối tiêu, râu cũng hoa râm, và cũng cao cỡ đó. Các
ông có chi tiết nào khác nữa không?
- Hắn mặc bộ quần áo mầu xám rộng thùng th́nh, một cái áo khoác màu
vàng, ngắn và đội một cái mũ mềm.
- C̣n về khẩu súng?
- Một khẩu súng dài có 65 phân có thể xếp được hoàn toàn trong chiếc
va ly, và giấu dưới áo khoác.
- Thế bây giờ các ông định ráp những tin tức mới này vào khung cảnh
của vụ án như thế nào?
Mac Dona trả lời:
- Hiện nay, chúng ta chỉ mới biết có một người Mỹ, tên là Har, ngày
hôm kia đến Tunbridge Wells với một chiếc xe đạp và một
cái valy. Trong valy có một khẩu súng săn cưa ṇng. Sáng hôm qua,
hắn đi xe đạp tới làng Birslstone và đă giấu khẩu súng dưới
áo khoác. Theo chỗ chúng ta biết, th́ không ai trông thấy hắn đến
đây. Nhưng hắn cũng không cần đi qua làng vẫn có thể đến
được trước cổng sắt của lâu đài. Con đường hắn đi cũng có nhiều
người cỡi xe đạp như hắn. Tôi đoán rằng, hắn đă giấu ngay
chiếc xe đạp trong những bụi cây trúc đào. Bản thân hắn cũng nấp ở
đó để ŕnh ông Du-gia ở lâu đài. ở trong nhà th́ khẩu súng
săn đúng là bất lợi, nhưng ở ngoài trời th́ nó có hai ưu điểm rơ
ràng: trước hết nó giết người được một cách chắc chắn, sau nữa sẽ
không có ai để ư đến tiếng nổ, trong một vùng nông thôn có nhiều
người đi săn.
- Rất rơ ràng. - Holmes nói.
- Nhưng ông Du-gia lại không ra khỏi lâu đài. Vậy th́ tên sát nhân
có thể làm ǵ được bây giờ? Hắn bỏ chiếc xe đạp ở đó và chờ
sẩm tối mới lần ṃ vào gần lâu đài. Hắn thấy cây cầu rút vẫn c̣n hạ
xuống mà xung quanh th́ vắng vẻ cả. Hắn liều đi vào, và
chắc là có chuẩn bị trước một lư do ǵ đó để xin lỗi nếu có gặp
người ở trong nhà. Hắn không gặp ai cả. Hắn lẻn vào cái pḥng
gần nhất và trốn sau bức rèm cửa. ở đó, hắn trông thấy cây cầu được
rút lên, và hắn hiểu rằng sẽ phải lội qua hào để trốn ra. Hắn
đợi đến 11 giờ 15. Đến giờ này, ông Du-gia bước vào buồng. Hắn giết
ông ta và chạy trốn. Hắn biết rằng chiếc xe đạp của hắn có
thể bị những người trong khách sạn nhận ra được, v́ thế hắn đă bỏ nó
lại, và dùng một phương tiện giao thông khác để trở về
Luân Đôn.
- Rất rơ ràng. Nhưng tôi lại tin là án mạng đă xảy ra nửa giờ sớm
hơn là người ta đă nói với chúng ta. Rằng bà Du-gia và ông Bar
đă cùng nhau che giấu một cái ǵ đó, đă giúp đỡ cho tên sát nhân
trốn thoát, đă tạo ra những dấu vết để làm cho người ta tưởng là
nó đă trốn qua đường cửa sổ, và có nhiều khả năng là họ đă hạ cây
cầu rút xuống cho nó trốn.
Hai nhà thám tử của nhà nước gật gù. ông thanh tra Dona nói:
- Nếu cách nh́n của ông mà đúng, th́ chúng ta chỉ chuyển từ một bí
mật này sang một bí mật khác thôi.
Maso bổ sung:
- Nhưng về một số mặt nào đó th́ lại vấp phải một bí mật gay go hơn
nữa. Bà Du-gia chưa hề sang Mỹ. Vậy th́ bà có thể liên hệ
như thế nào với một tên sát nhân người Mỹ?
- Tôi công nhận là có rất nhiều khó khăn. Tôi dự tính tối nay sẽ
tiến hành cuộc điều tra theo cách riêng của tôi.
- Chúng tôi có thể giúp ông được không, ông Holmes?
- Không. Chỉ cần bóng tối và chiếc ô của bác sĩ Watson thôi, ông Am
sẽ giúp tôi một vài điều.
Khi Holmess trở về pḥng trọ, th́ đêm đă khuya lắm rồi. Lúc Holmes
mở cửa vào pḥng, tôi hỏi nhỏ:
- Thế nào Holmes, có thấy ǵ không?
Holmes cầm một ngọn nến, cúi xuống th́ thầm vào tai tôi:
- Anh có sợ khi phải ngủ chung pḥng với một thằng điên không?
- Không.
- ồ, thế th́ hạnh phúc cho anh đó.
Thế rồi không nói thêm một lời nào nữa, anh ta chui vào chăn...
Giải Đáp
Sáng hôm sau, chúng tôi đi gặp ông thanh tra Dona và thám tử Maso.
Họ đang họp trong cơ quan cảnh sát địa phương. Đằng
trước mặt họ, trên bàn có cả xấp những thư và điện tín đă được xếp
thứ tự cẩn thận.
Holmes vui vẻ hỏi:
- Vẫn trên đường đi t́m nhà cua rơ xe đạp chứ? Tin tức cuối cùng như
thế nào?
Dona buồn rầu chỉ tập thư tín, nói:
- Người ta đă bắt hai chục người mặc áo khoác màu vàng ở khắp nơi.
Holmes kêu lên với giọng chân thành:
- Sáng nay, tôi đến đây để khuyên các bạn một lời. Lời khuyên này có
thể tóm tắt trong ba chữ: "Bỏ vụ án".
Dona và Maso vô cùng kinh ngạc. Măi rồi ông thanh tra mới kêu lên
được:
- Ông thấy vụ án này tuyệt vọng đến thế kia à?
- Theo cách điều tra của các ông, th́ sẽ không đi đến đích. Nhưng
chúng ta không được phép tuyệt vọng trong khi đi t́m chân lư.
- Thế cái tên đi xe đạp ấy th́ sao? Nó có phải là một vật tưởng
tượng ra đâu. Nhất định nó phải ở một nơi nào chứ?
- Vâng, nó phải ở một nới nào đó, và chúng ta sẽ t́m thấy nó, trong
một đường bán kính hẹp hơn nhiều.
Ông thanh tra phản đối một cách bực tức rơ ràng:
- Ông giấu chúng tôi một cái ǵ đó. Ông Holmes?
- Ông Dona. Tôi chỉ giấu ông - trong một thời gian ngắn thôi - những
ǵ tôi chưa thể cho ông biết được. Tôi muốn thẩm tra lại một
số chi tiết. Việc thẩm tra xong, lúc đó tôi sẽ trở về Luân Đôn sau
khi đă thông báo với các ông tất cả kết quả tôi đă thu lượm được.
- Chiều hôm qua ông đồng ư trên những nét lớn với những kết quả của
chúng tôi. Nhưng hôm nay th́ h́nh như có chuyện ǵ xảy
ra đă làm ông thay đổi hoàn toàn.
- Vâng. Tối hôm qua tôi đă đến ở lâu đài trong mấy tiếng đồng hồ.
- Thế th́ sao?
- Tôi có đọc một tài liệu ngắn về toà lâu đài này. Tôi mua nó mấy xu
ở quán bán thuốc lá trong làng.
Holmes rút ở túi áo ngoài ra một tờ giấy nhỏ, có vẽ một bức h́nh thô
sơ của toà lâu đài cũ.
-... Những loại tài liệu như thế này mang đến nhiều hứng thú cho
cuộc điều tra. Tôi xin phép đọc ông nghe một đoạn sau này:
Được dựng lên trong năm thứ năm của triều đại vua Jacques Đệ Nhị
trên vị trí của một lâu đài cũ cổ xưa hơn, lâu đài Birlstone là
một trong những h́nh ảnh rất đẹp c̣n nguyên vẹn của loại phủ thất có
hầm vào thời các vua Jacques...
- Ông định chế nhạo chúng tôi, ông Holmes?
- Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông nổi cáu đấy. Thôi tôi không đọc
nữa. Nhưng nếu tài liệu này có nói đến việc một ông đại tá của
Quốc Hội đă chiếm lấy toà lâu đài này vào năm 1644; việc nhà vua
Charles có trốn tránh ở đây vài ngày trong thời kỳ nội chiến;
và nhà vua Georges Đệ Nhị cũng đă có ở đây... th́ chắc ông sẽ đồng ư
với tôi là những việc này có thể gợi cho chúng ta nhiều ư
nghĩ liên hệ lắm.
Nhà thám tử sốt sắng trả lời ngay:
- Tôi đồng ư với ông về điều đó, ông sắp đến đích, nhưng ông quá kín
đáo.
- Tối hôm qua, tôi có tới lâu đài. Tôi không gặp ông Bar, cũng không
gặp bà Du-gia, nhưng tôi được biết rằng bà chủ lâu đài đă
dùng bữa tối một cách rất ngon miệng. Tôi chỉ cần gặp anh Am thôi,
và anh ta đồng ư cho tôi ở lại một ḿnh trong căn buồng xảy
ra án mạng, và Am cam đoan sẽ giữ kín về việc này.
- Thế nào? ở lại bên cạnh cái...
- Không! Mọi vật đă được dọn dẹp cả rồi. V́ vậy tôi đă sống một vài
giờ rất có ích ở đó.
- Có ích thế nào thưa ông?
- Tôi đi t́m quả tạ c̣n thiếu. Và tôi sắp thấy nó.
- ở đâu vậy?
- Xin để tôi tiếp tục t́m kiếm.
Ông thanh tra càu nhàu:
- Ông muốn thế nào, chúng tôi cũng phải theo thế thôi. Nhưng bắt
phải bỏ vụ án này đi, th́... mà , tại sao lại phải bỏ?
- Bởi mục đích cuộc điều tra của ông là...
- Chúng tôi điều tra về vụ ám sát ông Du-gia.
- Vâng. Nhưng các ông đừng mất công đi t́m cái tên đi xe đạp. Chuyện
đó không đi đến đâu cả.
- Chúng tôi phải làm ǵ?
- Tôi xin nói cặn kẽ, nếu các ông muốn.
- Tôi sẽ làm theo lời khuyên của ông.
- Thế c̣n ông, ông Maso?
Nhà thám tử địa phương có phần hơi ngơ ngác, phương pháp làm việc
của Holmes hoàn toàn mới lạ đối với ông ta.
- Vâng, ông thanh tra đă đồng ư , th́ tôi cũng đồng ư.
- Hoan hô. Vậy hai ông hăy tổ chức một cuộc đi dạo chơi cho thật
thoải mái. Người ta có nói với tôi rằng đứng từ trên cao nh́n
xuống sẽ thấy phong cảnh của cánh rừng Weald tuyệt đẹp.
Dona nổi cáu, đứng phắt lên:
- Ông Holmes, ông đă đi quá giới hạn của sự bông đùa rồi đó.
Holmes vỗ nhè nhẹ vào vai ông ta:
- Thôi được! Thế th́ xin tuỳ các ông, nhưng nhất định phải đến t́m
tôi ở đây, trước buổi tối nay.
- Thật là quá lắm.
- Bây giờ, trước khi tôi đi, tôi nhờ ông viết mấy chữ cho ông Bar.
- Viết ǵ kia?
- Xin mời ông viết "Thưa ông, chúng tôi nghĩ rằng, chúng tôi có
nhiệm vụ phải tát cạn con đường hào để hy vọng có thể t́m thấy...
Ông thanh tra phản đối ngay:
- Tôi đă đích thân t́m xem có cách ǵ tát cạn đường hào hay không,
nhưng thấy không thể được.
- Xin ông cứ viết.
- Thôi được. Ông đọc tiếp đi.
-... một yếu tố mới có liên quan đến cuộc điều tra. Chúng tôi đă sắp
sẵn cả. Sáng sớm mai, công nhân sẽ bắt tay vào việc đổi
hướng ḍng nước...
- Tôi nhắc lại với ông rằng không thể được mà.
-... Chúng tôi thấy nên báo để ông biết trước". Vào khoảng độ 4 giờ
chiều, ông cho người đưa thư tận tay ông Bar. Đó cũng là
giờ chúng ta sẽ gặp lại nhau ở đây. Trong khi chờ đợi, ai muốn giải
trí thế nào th́ xin tuỳ thích, v́ cuộc điều tra đang dẫm chân tại
chỗ.
Buổi tối, chúng tôi gặp lại nhau như đă quy định. Vẻ mặt Holmes rất
nghiêm trang. Tôi th́ ṭ ṃ, c̣n hai vị thám tử th́ nghi ngờ
ra mặt.
Holmes bắt đầu một cách trịnh trọng:
- Thưa các ông, bây giờ chúng ta phải tới được chỗ đứng quan sát
trước khi trời tối hẳn. Chúng ta nên đi ngay bây giờ.
Chúng tôi đi dọc theo bờ ngoài khu vườn của lâu đài và đến trước một
lỗ hổng trong hàng rào. Chúng tôi chui qua lỗ đó. Holmes
dẫn chúng tôi đến đằng sau một bụi cây nh́n chếch sang phía cổng
chính và cây cầu, lúc đó c̣n chưa rút lên. Holmes ngồi xổm
sau bụi cây. Chúng tôi cũng làm theo anh ta.
Dona hỏi bằng một giọng bực tức:
- Làm ǵ bây giờ đây?
- Hăy kiên nhẫn và đừng gây ra tiếng động.
- Ông nên thành thật với chúng tôi hơn.
Holmes bật cười:
- Ông Dona, tôi xin ông kiên nhẫn một chút, rồi tất cả sẽ sáng tỏ
thôi.
Đêm xuống d́m cả toà lâu đài vào bóng tối. Một màn sương lạnh từ
đường hào bay lên làm chúng tôi rét thấu xương. Trên khung
cửa chính chỉ có một ngọn nến được thắp, và trong căn buồng có án
mạng cũng có một ngọn đèn khác đang cháy, c̣n tất cả
chung quanh tối đen như mực.
Đột nhiên ông thanh tra lại cất tiếng hỏi:
- Phải chờ bao lâu nữa, và chờ cái ǵ?
- Tôi không biết phải chờ bao lâu. Nếu những tên tội phạm hoạt động
đúng giờ giấc như những chuyến tàu chạy, th́ đỡ cho chúng
ta biết bao. C̣n việc chúng ta chờ... à mà ḱa, việc chúng ta chờ
kia ḱa.
Trong khi Holmes nói, th́ ánh sáng trong căn buồng đă bị che khuất
đi bởi một người đi đi lại lại trước nó. Sau đó cửa sổ mở
toang và bóng một người đàn ông nhô ra quan sát bóng tối. Hắn nh́n
ngược nh́n xuôi trong mấy phút. Rồi cúi xuống và trong
đêm khuya yên tĩnh, chúng tôi nghe thấy tiếng nước vỗ nhè nhẹ. Tôi
có cảm giác là người đó đang d́m một vật ǵ cầm trong tay
xuống đường hào. Sau cùng anh ta kéo một vật ǵ lên: Một vật ǵ đó
to, tṛn, khi được đem qua cửa sổ, nó che khuất cả ánh sáng
ngọn đèn.
Holmes kêu lên:
- Nào, bây giờ. Ta vào đi.
Chúng tôi chồm lên, líu ríu chạy theo Holmes. Holmes đă chạy tới
chiếc cầu rút và giật chuông ầm ĩ. ở phía bên kia cửa các chốt
được tháo ra. Am hiện ra trong khung cửa, vẻ mặt ngơ ngác, Holmes
chẳng nói chẳng rằng, gạt anh ta sang bên, rồi cùng ba
chúng tôi xông vào căn buồng.
Ngọn đèn dầu hoả để trên bàn là nguồn ánh sáng mà chúng tôi trông
thấy từ bên ngoài. Lúc này, nó đang ở trong tay của Bar, và
ông ta đang hướng về phía chúng tôi. Nó chiếu lên một khuôn mặt cả
quyết, cương nghị, một cặp mắt đe doạ thách thức.
- Thế này là thế nào? Các ông t́m ǵ?
Holmes nh́n chung quanh, rồi nhảy sổ tới một cái gói ướt sũng có
buộc dây để ở trên bàn.
- Chúng tôi t́m cái này đây. Cái gói có một quả tạ mà ông vừa kéo ở
dưới đáy hào lên.
Bar kinh ngạc:
- V́ sao ông lại biết có quả tạ trong ấy?
- Bởi v́ chính tôi đă để quả tạ ấy vào đó.
- Ông đă để quả tạ vào đó?
Holmes chữa lại:
- Ông c̣n nhớ chứ, ông thanh tra, việc thiếu một quả tạ ngay từ đầu
đă đập vào trí tôi. Khi nước th́ gần kề ngay bên, mà lại thấy
thiếu một vật nặng, th́ có lẽ một vật ǵ đó đă được nhận ch́m xuống
nước. Với sự giúp đỡ của anh Am, tôi đă vào được căn pḥng
này, và với chiếc ô của bác sĩ Watson, tôi đă vớt vật này lên và xem
xét nó. Nhưng điều cơ bản là phải chứng minh được ai đă d́m
cái gói đó. Bức thơ của ông Dona báo trước ngày mai sẽ tát hào. Tin
này bắt buộc người đă giấu cái gói đó phải chờ đêm tối, lôi
nó lên. Vậy ông Bar, đă đến lúc ông phải giải thích.
Holmes đặt cái gói c̣n ướt sũng lên bàn và tháo dây ra. Đầu tiên anh
lôi ra một quả tạ, kế đó là một đôi giày da mũi vuông.
- Giày kiểu Mỹ, như các ông thấy đấy. - Holmes nói.
Sau đó anh ta để lên bàn một con dao dài c̣n nằm trong bao. Rồi anh
ta giở ra một mớ quần áo, gồm một bộ quần áo lót, một đôi
tất, một bộ quần áo bằng vải tuưt xám, và một cái áo khoác màu vàng.
- Quần áo th́ thường thôi. Chỉ có cái áo khoác là đáng chú ư. -
Holmes nói.
Anh nhẹ nhàng trải nó ra trước ánh sáng, những ngón tay dài lần theo
các đường khâu.
- Xem đây, túi trong của nó kéo dài măi trong lần lót để có thể giấu
được một khẩu súng cưa ṇng. Tên hiệu của người thợ may
dính trên cổ áo dây: "Neale, thợ may, Vermissa, USA". Tôi đă ở cả
chiều hôm nay trong căn pḥng đọc sách của ông hiệu trưởng
trường, và đă học thêm được một điều mới nữa: "Vermissa" là tên của
một thành phố nhỏ ở trong thung lũng nổi tiếng về các mỏ
sắt và mỏ than tại Mỹ. Nếu tôi không quên, th́ thưa ông Bar, chính
ông đă có nói đến mối liên quan giữa những khu mỏ và người
vợ trước của ông Du-gia. Cho nên tôi suy luận từ đó ra rằng mấy chữ
TLV trên miếng b́a cứng t́m thấy bên cạnh người chết có
nghĩa là Thung lũng Vermissa và chính cái thung lũng này đă cử một
người mang cái chết đến tận đây. Tất cả những điều ấy đă
đủ rơ ràng. Và bây giờ, đến lượt ông, thưa ông Bar.
Trong lúc nghe Holmes tŕnh bày, gương mặt Bar lần lượt hiện lên nét
căm giận, kinh ngạc, buồn rầu, lúng túng. Cuối cùng ông ta
lẩn trốn trong một thái độ mỉa mai và cười gằn:
- Ông biết nhiều đến thế, th́ xin ông cứ nói thêm cho chúng tôi
nghe.
- Tôi có thể nói thêm được nữa, nhưng sẽ lịch sự hơn, nếu ông nói
tiếp hộ cho tôi.
- Ồ, ông tưởng thế à? Nếu ở đây có một bí mật ǵ, th́ cái đó không
phải là bí mật của tôi, và tôi không thể nói ra cái bí mật của
người khác.
Ông thanh tra b́nh tĩnh:
- Nếu ông nghĩ như vậy, th́ bắt buộc chúng tôi phải canh giữ ông cho
đến khi chúng tôi nhận được trát bắt ông.
Bar trả lời bằng giọng đầy thách thức:
- Ông cứ làm.
Sự đối chất h́nh như đă kết thúc. Bộ mặt rắn như đá hoa cương của
Bar cho thấy rằng không có một sự đe doạ nào có thể bắt
được ông ta nói. Nhưng bà Du-gia đă bước vào pḥng.
- Anh Bar, anh đă giúp chúng tôi quá nhiều rồi.
Sherlock Holmes tán thành với một giọng nói rất nghiêm trang:
- Tôi rất thông cảm với bà, và tôi xin khuyên bàn nên tự giác báo
cáo tất cả với cảnh sát, chính tôi cũng có lỗi v́ đă không đáp ứng
lời thỉnh cầu của bà, khi bà nói với bác sĩ Watson đây. Lúc đó tôi
tin rằng bà là người có dính líu trực tiếp đến án mạng. Bây giờ
tôi biết là không phải thế.
Bà Du-gia thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc khi nghe những lời nói
cuối cùng của Holmes.
Hai nhà thám tử và cả tôi nữa có lẽ cũng đă kêu lên như thế, khi
chúng tôi trông thấy một người như là trong bức tường hiện ra,
đang bước dần ra khỏi bóng tối, tiến về phía ánh đèn. Bà Du-gia nhào
vào, ôm lấy cổ người đó. Bar cũng nắm chặt một cách tŕu
mến bàn tay của người đó. Bà Du-gia nhắc đi nhắc lại:
- Anh yêu quí, có lẽ thế này tốt hơn anh ạ.
Holmes gật đầu tán thành:
- Vâng, đúng đấy, thưa ông Du-gia.
Ông Du-gia chớp chớp đôi mắt màu xám, một bộ râu cứng đă hoa râm;
một cái cằm vuông nhô ra và một cái miệng nhậy cảm.
Ông ta lần lượt nh́n chúng tôi, rồi bỗng tiến về phía tôi và đưa cho
tôi một tập giấy làm tôi hết sức ngạc nhiên.
Ông ta nói bằng một giọng hết sức dễ chịu:
- Tôi biết ông, bác sĩ Watson, chưa bao giờ ông có một câu chuyện
giống như câu chuyện này. Tôi đă tự giam ḿnh trong hai
ngày, và đă lợi dụng những giờ có ánh sáng, trong cái lỗ chuột ấy,
để viết lại toàn bộ sự việc. Đó là câu chuyện về "Thung lũng
khủng khiếp".
Holmes xen vào:
- Ông Du-gia, đó là câu chuyện về quá khứ. Bây giờ chúng tôi muốn
biết câu chuyện của hiện tại kia.
- Ông sẽ được nghe ngay bây giờ. Tôi có thể vừa hút thuốc, vừa nói
được không? Xin cảm ơn ông Holmes.
Ông ta đứng dựa lưng vào ḷ sưởi, kéo những hơi thuốc dài.
- Tôi có được nghe nói nhiều về ông, ông Holmes. Tôi không nghĩ rằng
có ngày tôi lại được làm quen với ông. Nhưng khi ông đă
đọc xong tất cả những cái này...
Ông ta chỉ vào tập giấy vừa đưa cho tôi.
-... th́ chắc chắn ông sẽ nói rằng tôi có đem lại cho ông một điều
ǵ mới lạ.
Ông thanh tra Dona vẫn không rời mắt nh́n Du-gia, măi rồi mới nói
lên được:
- Chuyện này thật vượt quá sức hiểu biết của tôi, hai ngày nay chúng
tôi điều tra về cái chết của ông, th́ bây giờ ông như một
bóng ma từ dưới mồ chui lên vậy.
Holmes trách móc, chỉ về phía ông thanh tra:
- Trong cái tài liệu mà tôi đă đưa cho ông, có mô tả cái cách vua
Charles đă ẩn náu trong lâu đài này. Một chỗ ẩn dùng trong thế
kỷ thứ 17 rất có thể c̣n dùng được trong ngày nay.
Ông thanh tra nổi giận thật sự, hỏi lại:
- Thế ông đă đóng kịch với chúng tôi từ bao lâu rồi, ông Holmes?
- Chỉ mới từ tối hôm qua thôi. V́ phải đợi đến tối hôm nay mới có
thể chứng minh được điều này, nên tôi có mời quí ông nghỉ xả
hơi một ngày. Khi đă thấy gói quần áo trong đường hào, tôi biết rằng
xác chết kia không phải là xác của ông Du-gia mà là của
người đi xe đạp. V́ vậy tôi phải đi t́m nơi ông Du-gia ẩn nấp, ông
đă ẩn nấp dưới sự yểm trợ của vợ và bạn ông ta.
- Ông lư luận rất đúng. Tôi hài ḷng v́ đă gạt bỏ được những con chó
vẫn đi t́m dấu chân tôi. Ông thanh tra, tôi sẽ nói hết:
Có một vài người có nhiều lư do để căm thù tôi và sẵn sàng giết tôi.
Chừng nào mà chúng c̣n sống, th́ tôi không hề có an ninh.
Chúng đă theo tôi từ Chicago đến California, rồi c̣n bắt buộc tôi,
phải rời khỏi Châu Mỹ. Khi tôi cưới vợ và về sống ở đây, tôi đă
tưởng những năm cuối của đời tôi là vô sự. Tôi chưa bao giờ nói rơ
cho nhà tôi hiểu mọi chuyện v́ nếu biết, nhà tôi cũng sẽ luôn
sống trong lo sợ...
Du-gia nắm chặt lấy tay vợ.
-... Thưa các ông, một ngày trước hôm xảy ra sự việc, tôi có đi
Tunbridge Wells, và có gặp một người ở ngoài phố. Chỉ thoáng
nh́n hắn thôi, tôi cũng biết hắn là kẻ thù tệ hại nhất của tôi. Tôi
trở về đây và tiến hành những biện pháp tự vệ.
Tôi đă cảnh giác không bước chân ra đến ngoài vườn. Khi cây cầu đă
được kéo lên, tôi mới yên tâm hơn, nhưng, tôi không ngờ
rằng nó đă lẻn vào trong lâu đài và chờ tôi ở đây. khi đi kiểm tra,
vừa đặt chân vào căn buồng này th́ tôi cảm thấy ngay có sự
nguy hiểm. Tôi thấy một đôi giầy tḥ ra dưới bức rèm cửa sổ, và một
giây đồng hồ sau, tôi thấy cả con người đang nấp ở đó. Lúc
đó tôi chỉ có một cây nến cầm ở tay, nhưng cây đèn ở buồng ngoài
cũng chiếu sáng khá tốt. Tôi để cây nến xuống bàn, và nhảy
đến chộp lấy cây búa trên ḷ sưởi. Cùng lúc đó hắn cũng nhảy bổ vào
tôi. Tôi trông thấy ánh lên một lưỡi dao nhọn, và tôi đă đập
nó bằng một nhát búa quay ngang. Con dao rơi xuống sàn. Nó đă lanh
lẹ ṿng qua chiếc bàn và lôi ra một khẩu súng giấu dưới
chiếc áo khoác. Tôi nghe thấy nó lên đạn, nhưng tôi đă nắm được khẩu
súng. Tôi nắm được ṇng súng. Tôi với nó vật lộn trong
khoảng một hai phút ǵ đó. Nó không rời khẩu súng, nhưng nó đă để
báng súng chúc xuống dưới. Không biết là tôi đă bóp c̣,
hay chính nó đụng phải c̣. Chỉ biết rằng nó đă lănh cả hai viên đạn
vào mặt.
Tôi đang đứng bám vào thành bàn th́ anh Bar chạy vào. Tôi cũng nghe
thấy tiếng chân nhà tôi chạy đến nữa. Tôi ngăn nhà tôi lại.
Tôi hứa với nhà tôi là sẽ lên với bà ấy ngay. Tôi nói đôi câu với
anh Bar, và chỉ thoáng nh́n qua là anh đă hiểu hết tất cả mọi
chuyện. Chúng tôi chờ gia nhân trong lâu đài chạy đến. Nhưng chẳng
thấy ai đến cả. Lúc đó chúng tôi mới hiểu rằng không ai
nghe thấy tiếng súng nổ, và chỉ có chúng tôi biết việc ǵ mới xảy ra
thôi.
Chính vào lúc này tôi chợt có ư kiến. Tôi vén cánh tay áo nó lên, và
chúng tôi thấy ngay cái dấu hiệu của hội kín in trên đó, Đây
các ông xem....
Du-gia cũng vén tay áo ngoài và tay áo sơ mi lên, chỉ cho chúng tôi
thấy một cái h́nh tam giác màu nâu nằm trong một đường
tṛn, giống như cái h́nh chúng tôi đă thấy trên tay xác chết.
- Khi tôi nh́n thấy cái dấu hiệu đó, tôi bắt đầu xếp đặt kế hoạch.
Nó cũng cỡ người như tôi, cũng tóc hoa râm và dáng dấp cũng
gần giống tôi. C̣n về bộ mặt th́ chẳng c̣n ai phân biệt ra được nữa.
Tôi trở lên pḥng để lấy bộ quần áo, và mười lăm phút sau
th́ Bar và tôi đă mặc vào cho nó cái áo khoác ngoài của tôi, rồi đặt
nó nằm như các ông đă thấy đấy. Chúng tôi bọc hết quần áo
của nó vào trong một cái gói, rồi buộc thêm vào đó quả tạ, là vật
nặng duy nhất mà tôi t́m thấy lúc bấy giờ, sau đó đem ném cả
gói qua cửa sổ. Mẩu b́a cứng mà nó định để cạnh xác tôi, th́ nay tôi
đem để cạnh xác nó. Tôi đeo mấy cái nhẫn của tôi vào ngón
tay nó, nhưng đến cái nhẫn cưới th́...
Du-gia ch́a ra một bàn tay to lớn.
-... Từ ngày cưới nhà tôi đến giờ, tôi chưa hề tháo nó ra, và bây
giờ có lẽ phải có một cái giũa th́ mới lấy nó ra được. Tôi phải bóc
cả miếng băng dính dưới cằm của tôi và dán vào cùng một chỗ trên cái
phần c̣n lại của đầu kẻ thù. Ông Holmes, mặc dù ông là
người tinh khôn, nhưng ông cũng đă có lúc sơ ư: v́ nếu ông dở miếng
băng dính ấy lên, th́ ông sẽ thấy ở dưới không có một dấu
đứt nào cả.
Tôi định ẩn náu trong ít lâu; rồi đi đến một nơi nào đó, nhà tôi sẽ
đến sau, th́ may ra tôi c̣n có thể sống yên ổn được trong những
ngày cuối cùng của đời ḿnh.
Bây giờ tôi có một điều muốn hỏi các ông: "Đối với luật pháp nước
Anh, th́ tội của tôi sẽ như thế nào?"
Tất cả mọi người đều yên lặng. Măi sau, Holmes mới lên tiếng:
- Luật pháp nước Anh, nói chung, là một luật pháp đúng đắn. Luật
pháp này sẽ công bằng đối với ông. Nhưng tôi muốn biết tại
sao người đó lại biết ông ở đây, và hắn làm cách nào mà lọt được vào
căn buồng này.
- Tôi hoàn toàn không biết.
Holmes tái nhợt, rất nghiêm trọng, nói như th́ thầm.
- Như thế th́ câu chuyện này chưa kết thúc đâu. Ông sẽ c̣n phải
đương đầu với những mối nguy hiểm c̣n ghê gớm hơn cả
những kẻ thù của ông ở bên Mỹ nữa ḱa. Xin ông hăy theo lời khuyên
của tôi: Hăy hết sức cảnh giác.
Và bây giờ, xin mời các bạn độc giả hăy theo tôi rời lâu đài
Birlstone, lùi về quá khứ hai mươi năm, vượt qua một vài ngàn cây số
về phía Tây, để nghe một câu chuyện lạ lùng và khủng khiếp. Và sau
đó chúng ta sẽ trở lại gian buồng ở đường Baker, là nơi sẽ
viết chương cuối của câu chuyện này.
Con Người Ấy
Ngày 4 tháng 2 năm 1875 tuyết phủ đầy các đường đèo của ngọn núi
Gilmerton. Chiếc xe quét tuyết đă dọn sạch được con đường
hoả xa nối liền các trung tâm mỏ than và sắt. Một con tàu đang ́ ạch
leo lên con đường đèo chạy từ tỉnh Stagville lên thị trấn
Vermissa. Từ đó, đường tàu lại đổ xuống đến giao điểm của Barton và
vùng nông nghiệp Merton. Hàng dăy dài những toa xe
gọng chất đầy than hoặc quặng sắt đă lôi kéo đến đây cả một số lớn
những người nhiều ư chí.
Mà vùng này hiểm ác thật. Những ngọn núi trọc, trắng xoá tuyết, nhô
lên từ những cánh rừng tối tăm, rậm rạp đă tạo ra một thung
lũng dài ngoằn ngoèo và lộng gió. Chính trong thung lũng này, con
tàu đang ḅ dần lên, vừa đi vừa thở ph́ pḥ.
Mấy ngọn đèn dầu hỏa mới vừa được thắp lên, trên toa hành khách thứ
nhất có khoảng độ 20 hay 30 người. Phần đông họ là
những thợ thuyền đi làm việc ở dưới thung lũng về. ít nhất cũng có
đến mười, mười hai người mặt mũi nhem nhuốc, có đeo những
cây đèn an toàn. Họ hút thuốc và nói chuyện ŕ rào, thỉnh thoảng
liếc nh́n về phía hai người cảnh sát mặc sắc phục đang đứng ở
đầu toa. Có cả một số nữ công nhân và vài ba người buôn bán ở địa phương. Nhưng ở một góc toa tàu, có một người trẻ tuổi ngồi
một ḿnh.
Anh ta gần ba mươi tuổi, nước da tươi tắn, vóc người trung b́nh. Đôi
mắt mầu xám mở to vừa khôn ngoan, vừa tinh nghịch lóng
lánh sau cặp kính. Rơ ràng đây là một con người cởi mở và giản dị,
nụ cười sẵn sàng nở trên môi. Mới thoạt nh́n th́ như vậy.
Nhưng quan sát kĩ thêm nữa, sẽ thấy một cái quai hàm rắn chắc và
chung quanh đôi môi, những vết nhăn nghiêm nghị, chứng tỏ
cái anh chàng trẻ tuổi xứ ái Nhĩ Lan này cũng không phải là một tay
vừa.
Sau khi ba lần thử bắt chuyện với người thợ mỏ gần nhất, và chỉ nhận
được vài tiếng trả lời càu nhàu, anh chàng đành ngồi yên,
buồn bă nh́n qua cửa kính, ngắm một phong cảnh chẳng có ǵ thích
thú. Đêm xuống dần, những tia lửa đỏ của các ḷ đúc lập loè
trên các sườn núi, soi sáng những đống than và xi quặng cùng những
giếng mỏ. Rải rác đó đây, dọc theo đường tàu, những xóm
nhà gỗ nhỏ đă bắt đầu lên đèn. Tàu dừng lại ở nhiều nơi, ở mỗi nơi
lại có những toán thợ thuyền bước xuống.
Người hành khách trẻ tuổi ngắm nh́n xứ sở u buồn này một cách vừa
chăm chú vừa ghê sợ. Thỉnh thoảng anh ta lại lôi từ trong túi
ra một phong thư dày cộm, đọc một vài đoạn rồi lại nghí ngoáy vài
chữ lên đó. Có một lần, anh ta lôi từ đằng sau chiếc thắt lưng ra
một khẩu súng lục. Khi anh ta nghiêng nó về phía ánh sáng đèn, th́
thấy rơ là khẩu súng đă lên đạn. Anh ta lại vội nhét nó vào
trong túi áo. Một người thợ nói:
- Này anh bạn, anh có vẻ chuẩn bị dữ quá đấy!
Người trẻ tuổi mỉm cười, hơi lúng túng:
- Đúng. ở chỗ tôi sống trước đây, đôi lúc cũng cần đến nó.
- Thế anh ở đâu đến?
- Ở Chicago.
- Anh chưa đến đây bao giờ?
- Chưa.
- Rồi sẽ thấy, ở đây anh cũng cần nó.
- Thật không?
- Anh chưa nghe ǵ ở đây à?
- Chưa.
- Thế mà tôi cứ tưởng là chuyện đă lan ra khắp xứ sở rồi chứ. Nhưng
không lâu đâu, rồi anh sẽ biết hết. Thế tại sao anh lại đến cái
thung lũng này?
- Tôi t́m việc làm.
- Anh có vào nghiệp đoàn không?
- Có chứ.
- Thế th́ anh sẽ được toại nguyện. Anh có bạn bè không?
- Chưa, nhưng sẽ có.
- Nhờ đâu?
- Tôi là hội viên của "Hội những Người Tự Do". Trong mỗi tỉnh đều có
một chi hội.
Người thợ sửng sốt, liếc nh́n những người cùng ngồi trong toa với
cặp mắt ngờ vực. Nhưng những người thợ mỏ vẫn ŕ rào nói
chuyện,. Hai người cảnh sát th́ ngủ gà, ngủ gật. Người thợ liền đứng
dậy đi lại gần người trẻ tuổi, ngồi xuống bên cạnh anh ta,
ch́a tay ra và nói:
- Vậy hăy bắt tay tôi đi.
Họ trao đổi nhau một cái bắt tay theo một kiểu riêng nào đó.
- Được rồi. Anh nói sự thật. Nhưng tôi muốn chắc chắn hơn kia...
Người thợ giơ tay phải lên ngang tầm mắt phải, Anh trẻ tuổi vội giơ
ngay tay trái lên ngang tầm mắt trái. Người thợ nói:
- Những đêm đen tối rất khó chịu.
Anh kia trả lời:
- Phải, nhất là cho những người lạ mà phải đi lại.
- Thôi đủ rồi, Tôi là Can-lân, chi nhánh 341, thung lũng Vermissa,
sung sướng được gặp anh trong vùng này.
- Cảm ơn. Tôi là Móc-đô, chi nhánh 29, Chicago. Toán trưởng:
J.H.Scott. Tôi may mắn gặp được một môn huynh như anh.
- Không ở đâu mà Hội lại phồn thịnh như ở Thung lũng này. Có điều
tôi không hiểu được là tại sao một hội viên năng nổ như anh
mà lại không t́m được việc làm ở Chicago.
- Ở đó, tôi có thể t́m được bất cứ việc nào mà tôi muốn. - Móc-đô
trả lời.
- Thế th́ tại sao anh lại bỏ đi?
Móc-đô mỉm cười trỏ người cảnh sát:
- Hai ông cố nội này mà biết được lư do th́ hẳn là vui lắm.
- Chuyện lôi thôi à? - Can-lân th́ thào.
- Nặng.
- Tù được không?
- Chưa đủ.
- Không phải án mạng chứ?
Móc-đô trả lời như một người vừa chợt nhận thấy rằng ḿnh đă nói hơi
quá:
- Ḿnh có những lư do để ra đi. Anh nghe đến thế là đủ rồi nhé.
- Tôi không hỏi nữa. Tôi không muốn làm mất ḷng anh mà. Các bạn ở
đây sẽ không đánh giá xấu anh đâu. Thế bây giờ anh định
đi đâu?
- Đến Vermissa.
- C̣n ba ga nữa th́ đến. Thế anh định ở đâu?
Móc-đô rút ra một chiếc b́ thơ, đưa đến gần ngọn đèn:
- Địa chỉ đây: Cụ Sáp. Đường Sheridan. Đây là một nhà nấu cơm trọ.
Có người ở Chicago mách cho tôi.
- Tôi không biết nhà trọ này. Vermissa không nằm trong khu của tôi.
Tôi ở Hobson'sPatch ga sau là đến. Nhưng mà này, nếu anh
có chuyện ǵ lôi thôi ở Vermissa, th́ cứ đi thẳng đến nhà hội quán
và vào t́m ông chủ Ganh-ty. Ông ta là toán trưởng của chi
nhánh Vermissa. Thôi tạm biệt, sẽ gặp lại nhau ở chi hội.
Móc-đô ngồi lại một ḿnh với những ư nghĩ quay cuồng trong đầu. Đêm
đă xuống hẳn. Trong khung cảnh tranh tối tranh sáng đó,
những dáng người đen sẫm cúi xuống co, kéo, quay đi quay lại với
những động tác của người máy, theo nhịp điệu những tiếng
gầm gừ của sắt thép.
Một tiếng nói bỗng cất lên:
- Địa ngục có lẽ cũng giống thế này thôi.
Móc-đô quay lại: Một người cảnh sát đă đến ngồi bên cạnh anh và đang
ngắm nh́n cái cảnh tượng khủng khiếp đó, Người cảnh
sát kia gật đầu đáp lại.
- Đúng. Nếu ở địa ngục mà có những con quỷ sứ dữ tợn hơn một số kẻ ở
đây th́ tôi sẽ rất ngạc nhiên. Anh mới về vùng này phải
không?
- Phải. - Móc-đô trả lời.
- Tôi khuyên anh hăy cẩn thận trong việc chọn bạn. Không nên kết bạn
với Can-lân hay cái băng của hắn.
- Đó là chuyện riêng của tôi, các anh can dự vào làm ǵ?
Móc-đô nhe hai hàm răng ra cười.
Hai người cảnh sát ngạc nhiên khi thấy thiện chí của ḿnh bị đáp lại
một cách thô bạo.. Một người nói:
- Đấy là một lời báo động chỉ có lợi cho anh thôi.
Móc-đô vẫn cứ tái đi v́ tức giận, hét lên:
- Tôi không biết vùng này thật, nhưng tôi biết rằng mỗi lần mở miệng
là các anh cứ khuyên với răn.
- Thôi được, chúng tôi sẽ được biết anh rơ hơn, anh có vẻ "chịu
chơi" lắm.
Người cảnh sát kia bồi thêm:
- Đúng, rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau, không lâu đâu.
- Tên là Móc-đô.
Hai người cảnh sát nhún vai và quay ra nói chuyện với nhau. Mấy phút
sau, tàu từ từ vào một cái ga tối tăm, và nhiều người bước
xuống, v́ Vermissa là thị trấn lớn nhất trên tất cả tuyến đường.
Móc-đô cầm cái bọc lên. Khi anh sắp đi vào trong bóng tối của sân
ga, th́ một người thợ mỏ đến nắm lấy tay anh:
- Đưa cái bọc đây tôi mang cho, và tôi sẽ chỉ đường cho anh.
Khi hai người đi đến sân ga, ngang qua đám thợ mỏ, hàng loạt tiếng
chào nổi lên. Thế là trước khi đặt chân xuống Vermissa,
Móc-đô đă trở thành một nhân vật nổi tiếng ở đó rồi.
Đứng dưới thung lũng nh́n mấy đống lửa ngất trời cùng những đám khói
dày đặc c̣n thấy một cái ǵ là hùng vĩ, ở đấy con người
nhờ sức hai bàn tay và bộ óc đă đẽo gọt những ngọn núi bằng máy và
dựng lên những công tŕnh. Trái lại, về đến thị trấn, chỉ thấy
toàn một sự nhớp nhúa và xấu xí. Đường phố chính đă bị xe cộ đi lại
biến thành một thứ tuyết pha bùn nhăo như hồ. Những cây
dèn chỉ dùng để làm lộ ra những dăy nhà bằng gỗ, mặt tiền có một
hàng lan can, tất cả đều nhếch nhác bẩn thỉu. Vào đến trung
tâm th́ một vài cửa hàng có thắp đèn sáng hơn, nhưng cả một đám nhà
chỉ là những hàng cà phê và ṣng bạc, để cho thợ mỏ đến
vung phí tiền lương.
Người đưa đường chỉ vào một cái quán rượu to, nói;
- Đấy nhà hội quán đấy, Ganh-ty là ông chủ.
- Ông ta như thế nào?
- Anh chưa bao giờ nghe nói đến ông ta?
- Tôi mới đến.
- Thế mà tôi cứ tưởng là khắp xứ này phải biết đến ông ta. Ông ta
được đăng báo hoài mà.
- Tại sao báo lại đăng tên ông ta?
- Ờ th́ v́...
Người thợ mỏ hạ giọng xuống nói nhỏ:
-... V́ áp phe mà.
- Áp phe ǵ?
- Áp phe của những "Người Tiên Phong".
- Ừ, ở Chicago tôi cũng có đọc một cái ǵ đấy về những "Người Tiên
Phong". Chúng nó là một bọn sát nhân, phải không?
Người thợ mỏ hoảng hốt, nói lạc cả tiếng:
- Anh muốn sống th́ im ngay đi. Này anh, ở đâu mà ăn nói kiểu đó,
th́ không được đâu, đi ṃ tôm đó.
- Không, tôi chỉ biết được đôi chút thôi.
Anh ta liếc chung quanh, nh́n những bóng đen và đêm tối như là sợ
hăi một sự nguy hiểm nào đó.
- Nếu giết người có nghĩa là ám sát. Th́ ở đây những vụ ám sát đem
bán "xôn" cũng không hết. Nhưng anh đừng có dại dột mà
đem cái tên của Ganh-ty đi kèm với các vụ ám sát. Bởi v́ ông ta
không tha thứ cho bất cứ ai x́ xào về ông ta. Đây căn nhà mà anh
t́m ở lùi vào đằng sau đường phố một chút đó.
Móc-đô bắt tay người bạn mới:
- Xin cám ơn anh.
Anh ta đi lên con đường dẫn vào nhà, và gơ cửa. Hai cánh cửa mở ngay
ra: trước mặt anh là một phụ nữ c̣n trẻ, đẹp ḱ lạ. Cô ta
có dáng người xứ thuỵ Điển, bộ tóc vàng óng lộng lẫy tương phản với
đôi mắt đen nhánh. Cô ngạc nhiên nh́n người thanh niên lạ
mặt, và sự lúng túng làm sắc mặt đỏ hồng lên, một đoá hoa tươi thắm
nở trên một đống than xỉ. Anh mê mẩn ngắm cô gái, không
nói được nên lời và cuối cùng cô ta phải lên tiếng:
- Tôi tưởng là ba tôi về. Ông đến t́m ba tôi? Ba tôi lên phố, cũng
sắp về.
Móc-đô vẫn cứ ngắm say sưa:
- Thưa cô. Tôi không vội lắm, tôi đến đây để xin ở trọ.
- Vậy xin mời ông vào. Tôi là Ettie, con gái ông Sáp. Má tôi đă mất,
và chính tôi trông nom cái nhà trọ này. Ông có thể ngồi cạnh
ḷ sưởi để chờ ba tôi về. À, mà ḱa, ba tôi về tới rồi.
Một người đàn ông nặng nề bước vào nhà. Móc-đô giải thích ngắn gọn
lư do anh đến đây. Ông già Sáp nhanh chóng đồng ư: 12
đô la mỗi tuần , trả tiền trước cả tiền ăn, tiền pḥng.
Người Trưởng Toán
Móc-đô là một người muốn ai cũng phải để ư đến ḿnh. Chỉ sau một
tuần lễ, anh ta đă trở thành nhân vật quan trọng nhất trong
nhà trọ. Buổi tối, khi những người tá túc tại đây ngồi với nhau, th́
anh chàng này luôn luôn có những chuyện khôi hài làm cho họ
phải phá lên cười. Sức hấp dẫn riêng của anh làm toả sự vui vẻ ra
xung quanh. Đối với những người đại diện cho pháp luật, anh tỏ
thái độ khinh thường, làm cho những người trong nhà trọ hoặc là
thích thú hoặc là lo ngại.
Ngay từ khi mới đến trọ, anh đă công khai bộc lộ sự chiêm ngưỡng đối
với cô thiếu nữ trong nhà rằng từ phút đầu tiên, cô gái đă
chiếm hoàn toàn trái tim anh. Trong ngày thứ hai. anh nói thẳng rằng
anh yêu cô ta, và từ đó, anh không ngừng nhắc đi nhắc lại
cái điệp khúc ấy.
- Cô có người khác rồi à? Cô hăy bảo cái người ấy lo công việc riêng
của anh ta đi. C̣n tôi, tôi sẽ không để lỡ mất dịp may duy
nhất của đời tôi. Ettie, hiện giờ cô có thể nói tiếng Không. Nhưng
một ngày nào đó, rồi cô sẽ trả lời là : Có. Tôi c̣n trẻ, tôi đợi
được.
Đó là một gă si t́nh nguy hiểm, với tác phong trắng trợn ái Nhĩ Lan,
và những cử chỉ dịu dàng âu yếm đến mê người. Thêm nữa,
anh ta được bao bọc trong một ṿng hào quang của những chuyện phiêu
lưu và bí mật, ṿng hào quang dễ làm cho một phụ nữ
phải chú ư, và từ đó dẫn đến t́nh yêu có xa ǵ. Anh ta kể về những
thung lũng thanh b́nh, về ḥn đảo xa vời đẹp như trong những
chuyện thần tiên, về những ngọn núi hiền lành, những cánh đồng xanh
muốt. Người ta có cảm giác là nhiều chuyện kỳ lạ đă xảy
đến cho anh ta trong cái thành phố Chicago quá kỳ lạ, quá bí mật.
Anh ta gợi lại với một vẻ trầm ngâm buồn rầu, một cuộc ra đi
đột ngột, một cuộc chạy trốn vào nơi tận cùng của cái thung lũng âm
u này. Ettie lắng nghe từng lời, đôi mắt nhung đen ánh lên
một niềm thương xót và thông cảm.
Móc-đô làm kế toán. Anh bận suốt ngày, và cũng chưa có th́ giờ đến
tŕnh diện ở chi nhánh của "Hội những người Tự Do".
Can-lân đến nhà trọ cụ Sáp vào một buổi tối. Can-lân là một mẫu
người nhỏ bé, láu táu, mặt lưỡi cày. Anh ta có vẻ vui ḷng khi
gặp lại Móc-đô. Sau vài ngụm, anh ta đi vào lư do của việc đến thăm.
- Này, Móc-đô, sao anh chưa tŕnh diện ông toán trưởng.
- Tôi bận.
- Làm ǵ th́ làm, nhưng phải tới gặp Ganh-ty ngay đi. Lẽ ra sau ngày
anh đến, anh phải tŕnh diện ỏ trụ sở Hội rồi, anh không
được làm ăn bê bối với ông ta.
Móc-đô có vẻ ngạc nhiên.
- Tôi là một hội viên đă hơn hai năm rồi. Sao lại phải đi tŕnh diện
gấp thế?
- Ở Chicago th́ không gấp như thế đâu.
- Ở đây cũng là một Hội ấy chứ?
- Cùng một Hội à? - Can-lân nh́n Móc-đô trừng trừng, mắt anh ta loé
lên một tia sáng đe dọa.
- Thế không phải là cùng một Hội sao? - Móc-đô hỏi lại.
- Một tháng nữa, chúng ta sẽ trở lại chuyện cùng hay không cùng này.
Tôi nghe nói là bữa nọ trên tàu anh có đối đáp ǵ đó với
mấy tay cảnh sát.
- Sao anh biết?
- Ồ tin tức bay đi mà. ở đây tin tức bay đi nhiều lắm, tốt cũng có,
xấu cũng có. ồ! Anh sẽ là người lư tưởng của Ganh-ty đó.
- Sao vậy? Ông ta cũng ghét cảnh sát ư?
Can-lân bật cười, đứng dậy:
- Hăy đi gặp ông ta ngay đi. Nếu không, th́ không phải ông ta ghét
cảnh sát, mà là ghét anh đó.
Cũng đêm hôm đó, ông già Thuỵ Điển mời anh chàng trẻ tuổi vào pḥng
ông.
- Tôi có cảm giác là anh đang ve văn con gái tôi.
- Tôi yêu cô ấy.
- Thế th́ anh tốn công vô ích. Có người đă đến trước anh rồi.
- Cô ấy đă nói với cháu như thế.
- Con bé có nói với anh là ai không?
- Cháu có hỏi nhưng cô ấy không nói.
- Có lẽ nó không muốn làm anh phải sợ hăi đấy.
- Làm cháu sợ hăi à?
Móc-đô đă bắt đầu nóng mặt.
- Đúng đó,anh bạn. Nó là thằng Ted đó.
- Cái thằng Ted ấy là một thứ ma quái dữ dằn hay sao?
- Nó là một trong những thằng chủ của bọn "Người Tiên Phong" đấy.
- "Người Tiên Phong" à? Tại sao mọi người ở đây lại phải sợ chúng
đến thế?
Ông chủ trọ hạ thấp ngay giọng xuống.
- "Người Tiên Phong" là hội viên của "Hội những Người Tự Do".
Người trẻ tuổi giật ḿnh.
- Cháu cũng là hội viên của Hội ấy đây.
- Anh à? Nếu tôi biết thế, th́ tôi không cho anh vào nhà. Dù anh có
trả tôi đến 100đô la một tuần đi nữa.
- Hội lập ra cốt để giúp đỡ lẫn nhau, và gây t́nh bạn tốt. Bác hăy
đọc điều lệ của nó mà xem.
- Ở nơi khác th́ như thế đó. Nhưng ở đây th́ không.
- Ở đây nó thế nào?
- Một bọn sát nhân. Thế thôi.
Móc-đô đáp lại bằng một nụ cười không tin:
- Bác chứng minh được điều đó không?
- Cả năm mươi vụ án mạng ở đây chưa đủ để chứng minh hay sao? Trong
cùng thung lũng này không ai không biết những việc
ấy.
Móc-đô nói rất nghiêm trang:
- Thưa bác, cháu muốn bác rút lại những lời vừa nói, nếu không th́
bác phải giải thích.
- Tôi chỉ nhắc lại cho anh cái ǵ mà tất cả mọi người đều nói ở đây.
Những người chủ của Hội th́ cũng là những người chủ của
bọn "Tiên Phong". Nếu ai làm ǵ phật ư Hội, th́ bọn "Tiên Phong" sẽ
ra tay ngay.
- Cháu muốn có những chứng cớ thực sự kia.
- Nếu anh c̣n ở lại Vermissa này, th́ rồi anh sẽ có những chứng cớ.
Nhưng tôi quên mất rằng anh cũng ở trong cái băng ấy, th́
rồi anh cũng chẳng hơn ǵ bọn chúng đâu. Trong khi chờ đợi, thưa
ông, xin ông đi t́m một nơi trọ khác.
Thế là Móc-đô bị kết án phải đi đày đến hai lần: đi đày khỏi căn
buồng ấm cúng và đi đày xa người thiếu nữ. Anh đi t́m Ettie.
- Ba em vừa mới đuổi anh. Nếu chỉ là chuyện căn buồng thôi th́ anh
có cần ǵ. Nhưng mà, anh không thể sống không có em
được.
- Ồ, ông Móc-đô. Xin ông đừng nói thế. Ông đă đến quá trễ. Em chưa
hứa với hắn nhưng em cũng không thể hứa với người khác
được.
- Thế nếu anh là người đến trước, th́ liệu anh có một tia hy vọng
nào không?
Cô gái úp mặt vào hai bàn tay, khóc nức nở:
- Em thề trước Thượng Đế là em muốn anh là người đầu tiên đến với
em.
Móc-đô quỳ ngay xuống bên cô gái, thốt lên:
- Anh van em, em hăy làm theo tiếng gọi của trái tim ḿnh.
Móc-đô nắm lấy đôi bàn tay cô gái.
- Em hăy nói rằng em là của anh, và chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng
cuộc đời.
- Nhưng không phải ở đây chứ?
- Ở đây, ngay ở đây em ạ.
- Không, không, anh...
Móc-đô ôm chặt cô gái vào trong tay. Cô gái không chống cự.
- Ở đây th́ không được đâu anh. Nhưng... anh có thể đi với em được
không?
Một trận băo nội tâm, làm rung động nét mặt người thanh niên. Một
lát sau, khuôn mặt trở lại rắn đanh
- Không. Anh ở đây để bảo vệ em và chống với cả hoàn cầu.
- Thế tại sao chúng ta không đi nơi khác.
- Không, anh không thể đi được.
- Tại sao?
- Nếu chúng ta yêu nhau th́ ai dám ngăn cản?
- Anh mới đến đây nên anh không biết cái thằng Ted đâu. Anh cũng
không biết Ganh-ty và bọn "Tiên Phong".
- Anh đă sống giữa những con người dữ tợn, và bao giờ rồi cuối cùng
chính chúng phải kiêng anh. Nếu bọn chúng đă phạm tội th́
tại sao không ai đưa chúng ra trước pháp luật.
- Không có ai dám ra làm chứng chống lại chúng: người nào làm như
vậy, th́ ngay trong tháng đó sẽ chết.
- Có thể người ta t́m cách hại chúng và chúng không có cách ǵ để tự
vệ chăng?
- Ôi, em không muốn nghe anh nói như vậy. hắn cũng nói đúng như vậy
đó... cái thằng ấy.
- Thằng Ted ấy à? à, nó nói như vậy có phải không?
- Và v́ vậy, mà em ghét nó. Em ghét nó nhưng em sợ nó. Cho nên em cứ
phải t́m cách tránh né bằng những lời hứa nửa vời.
Nhưng nếu anh chịu đi với em, th́ chúng ta sẽ đưa ba em đi, và sống
măi măi với nhau.
Một lần nữa nét mặt người thanh niên lại hiện lên cuộc tranh đấu nội
tâm dữ dội, và một lần nữa, một quyết định không ǵ lay
chuyển nổi.
- Sẽ không có ǵ nguy hại xảy đến cho em và ba em đâu.C̣n về cái bọn
độc ác kia, anh tự hỏi không biết rồi em có ngạc nhiên
khi thấy rằng anh c̣n độc ác hơn cả đứa độc ác nhất trong bon chúng,
trước khi chúng ta lấy nhau.
- Không, em tin anh... tin suốt đời.
Trên môi Móc-đô nở một nụ cười cay đắng.
- Em biết anh c̣n ít quá, em không thể đoán biết được những ǵ diễn
ra trong tâm hồn anh đâu. Này, ai đến ḱa?
Hai cánh cửa buồng bật toang ra, và một người trẻ tuổi bước vào,
dáng điệu dương dương tự đắc, hắn đẹp trai, ăn mặc đẹp đẽ. Vóc
dáng và tuổi tác cũng vào cỡ của Móc-đô. Dưới chiếc mũ phớt vành đen
rộng, cặp mắt dữ tợn nh́n chăm chăm vào đôi trai gái
đang ngồi cạnh ḷ sưởi.
Ettie vội vàng đứng bật dây, hoảng hốt.
- Tôi rất sung sướng được ông đến chơi, ông Ted. Xin mời ông ngồi.
Ted hai tay chống nạnh, nh́n thẳng vào mặt Móc-đô, hỏi:
- Người này là ai?
- Một người khách trọ mới. Ông Móc-đô, ông cho phép tôi giới thiệu
với ông, ông Ted.
Hai người thanh niên trao đổi một cái gật đầu lạnh nhạt.
- Cô gái đă nói cho anh biết sự quan hệ của cô ta với tôi rồi chứ?
- Tôi chẳng biết mối quan hệ nào giữa cô ta và anh cả.
- Cô gái này là của tôi, và bây giờ th́ anh đi chơi đi, ngoài kia
trời dễ chịu lắm đấy.
- Cám ơn. Lúc này tôi không thích đi chơi.
- "Lại thế nữa kia". Đôi mắt của Ted rừng rực lửa giận. "Thế chắc
ông thích đánh nhau có phải không, thưa ông khách trọ?"
Móc-đô nhảy dựng lên:
- Anh đă đoán đúng đấy. Chưa bao giờ anh lại có một lời nói đúng hơn
thế nữa.
Cô thiếu nữ kêu lên, sợ hăi:
- Ôi, anh Móc-đô. Ôi anh Móc-đô.
- ồ, người ta đă gọi nhau bằng anh rồi, nhanh quá nhỉ?
- Anh Ted. Xin anh hăy độ lượng mà tha lỗi cho anh ấy.
Móc-đô b́nh tĩnh nói:
- Ettie, anh sẽ giải quyết chuyện này ổn thoả thôi. Thưa ông Ted,
ông có thấy hứng thú mà đi dạo với tôi một ṿng ngoài đường
kia không? Trời ban đêm đẹp lắm, đúng như ông đă nói, ở đằng sau nhà
bên cạnh này có một cái băi trống, tiện lợi lắm, ông ạ.
- Tôi sẽ trả món nợ này, mà không cần phải bẩn tay. Anh sẽ hối hận
là đă đặt chân vào nhà này.
- Sẽ à? Có ngay vẫn hơn chứ.
- Tôi sẽ chọn giờ. Anh có thể để tôi thu xếp việc ấy cho. Này, nh́n
đây.
Ted kéo ống tay áo lên và chỉ vào một dấu hiệu đặc biệt: một h́nh
tam gíac nằm trong một đường tṛn.
- Anh có biết cái này là ǵ không?
- Tôi không biết và cũng chẳng cần biết.
- Thế th́ rồi anh sẽ biết. Ettie sẽ chỉ dẫn cho anh. Con kia, mày sẽ
quỳ xuống ,và van xin trở về với tao. Sau đó, mày sẽ biết tao
trừng phạt mày như thế nào. Mày đă gieo..., th́ tao sẽ cho mày
gặt...
Hắn giận dữ, nh́n hai người một lần cuối, rồi quay gót đi ra và dập
cửa lại.
Trong giây lát, Móc-đô và người thiếu nữ đứng lặng đi. Nhưng rồi
người thiếu nữ nhào tới ôm chặt lấy anh:
- Ôi, anh Móc-đô, anh can đảm biết bao nhiêu. Nhưng anh phải trốn
ngay tối nay, nó sẽ giết anh. Em đă nh́n thấy trong mắt nó.
Làm sao mà anh chống cự được với cả băng của chúng.
Móc-đô dịu dàng hôn người thiếu nữ và d́u cô ngồi xuống ghế.
- Em đừng có lo, Anh cũng là một hội viên trong Hội những Người Tự
Do, anh đă nói với ba em rồi, và bây giờ anh cũng nói cho
em biết nữa, đừng ghét bỏ anh.
- Em không thể nào ghét bỏ anh được. Nhưng nếu anh cũng là một hội
viên, tại sao anh không đến lấy ḷng ông Ganh-ty.
Ồ, anh
đi ngay đi.
- Anh cũng có ư đó. Em có thể nói với ba em là đêm nay anh c̣n về
ngủ ở đây, nhưng ngày mai anh sẽ đi t́m một căn pḥng
khác.
Quầy rượu của quán Ganh-ty đông nghẹt khách gồm toàn những bọn hạ
lưu của thị trấn.
Ganh-ty là nhân vật nổi tiếng, bên ngoài được che đậy bằng tác phong
của một người vui tính sởi lởi. Nhưng bên trong, sự sợ hăi
mà hắn gieo rắc không những ở Vermissa, mà cả trên 50 cây số của cái
thung lũng này, đủ lôi kéo khách đến quán rượu của hắn
rồi.
Ganh-ty đă được những bọn cướp, bọn lưu manh, bầu hắn giữ chức vụ Uỷ
viên Hội đồng Thành phố, và Quận trưởng Cảnh sát
giao thông. Thuế má và các khoản tiền đóng góp rất lớn, những công
tŕnh công cộng th́ bị bỏ bê, báo cáo trước nhân dân th́ bị
bóp méo sự thật Người dân thường bị bắt buộc phải câm miệng v́ sợ bị
tai hoạ. Thế là, năm này qua năm khác, quán rượu của ông
ta đă ph́nh ra đến mức đe doạ nuốt cả một góc của phố chợ.
Móc-đô đẩy cửa bước vào, chen giữa đám đông ồn ào, trong một bầu
không khí ô nhiễm khói thuốc và sặc mùi rượu. Căn pḥng
được thắp đèn sáng choang. Những tấm gương lớn, khung mạ vàng, treo
trên bốn bức tường phản chiếu và nhân lên gấp bội
không biết bao nhiêu là đèn. Những người bồi rượu, tay áo sơ mi xắn
lên đến khuỷu tới tấp pha rượu cho khách hàng. ở một đầu,
đứng dựa ḿnh vào quầy, là một người đàn ông cao lớn. Đó là Ganh-ty.
Ông ta có bộ tóc đen nhánh, dài như một cái bờm rủ
xuống đến tận cổ, bộ râu nham nhở hai bên má, nước da mai mái của
một người ư Đại Lợi, đôi mắt đen nh́n không chớp, trông
rất dữ tợn. Tất cả phần c̣n lại, một thân h́nh cân đối, nét mặt
thanh tú, tác phong cởi mở, phù hợp với dáng điệu vui tính và chịu
chơi mà ông ta cố làm cho mọi người thấy rơ. Một người khách lạ sẽ
nghĩ rằng đây là một tay làm ăn lương thiện. Nhưgn khi đôi
mắt hung bạo kia nh́n trừng trừng vào khách, th́ người này bắt đầu
run sợ, và cảm thấy ḿnh đang đứng trước một thiên tai thực
sự.
Sau khi đă quan sát kỹ con người đó, Móc-đô, cùi tay gặt một đám xu
nịnh đang bao quanh. Đôi mắt táo bạo của người thanh
niên như đóng đinh vào đôi mắt đen đang soi mói nh́n anh.
- Này anh, tôi chưa hề thấy cái bản mặt của anh ở đây.
- Tôi mới đến, thưa ông Ganh-ty.
- Nhưng không v́ thế mà không biết thưa gởi với một người có chức
vụ.
Một người trong bọn xu nịnh vội giải thích:
- Này anh, đây là ông hội đồng Ganh-ty đó.
- Rất tiếc, thưa ông hội đồng. Tôi chưa biết hết các tập quán ở đây.
Nhưng người ta có khuyên tôi đến gặp ông.
- Thế th́ anh gặp tôi rồi đó. Anh thấy tôi thế nào?
- Ồ, nói ra bây giờ c̣n sớm quá. Nhưng nếu trái tim của ông cũng to
như thân h́nh của ông, và tâm hồn ông cũng đẹp như ông, th́
tôi tự thấy là bằng ḷng rồi.
Nghe câu trả lời đó, tên chủ quán đâm ra ngỡ ngàng, không biết nên
cười cợt hay giữ một vẻ nghiêm trang với tên thanh niên này.
Một lát sau, hắn mới quyết định.
- Tổ mẹ, đúng là một kiểu ăn nói ái Nhĩ Lan rồi. Thế ra tôn ông đă
hài ḷng về phần người ngợm của tôi rồi, phải không?
- Chắc chắn thế.
- Và người ta bảo anh đến gặp tôi.
- Vâng.
- Ai nói?
- Môn huynh Can-lân, chi nhánh 341, của Vermissa. Tôi xin nâng ly
mừng sức khoẻ của ông, ông hội đồng.
Móc-đô vừa uống vừa giơ ngón tay út lên. Ganh-ty chăm chú theo dơi
anh ta và bỗng nhíu cặp mắt đen rậm lại nói:
- Ồ, ra thế đấy. Vậy th́ tôi phải xét trường hợp của ông một cách
cặn kẽ hơn nữa, thưa ông...
-... Móc-đô
- Một cách cặn kẽ hơn nữa, thưa ông Móc-đô, v́ ở đây không ai tin
lời nói của ai cả. Xin mời qua đằng sau quầy này.
Ở đó có một căn pḥng nhỏ với những thùng rượu xếp dọc theo tường.
Ganh-ty đóng cửa rồi ngồi lên một thùng, vừa cắn vào điếu
x́ gà vừa quan sát anh thanh niên. Hai phút trôi qua như thế.
Móc-đô chịu đựng cuộc thẩm tra này một cách vui vẻ. Anh ta đút một
tay trong túi áo vét, c̣n một tay th́ vân vê ria mép. Đột
nhiên Ganh-ty chồm người về phía trước và ch́a ra một khẩu súng lục.
- Này, thằng kia. Nếu mày định chơi tao th́ cái này sẽ đưa mày sang
thế giới bên kia ngay.
Móc-đô b́nh tĩnh trả lời:
- Đón tiếp một môn huynh như thế này th́ quả thật là kỳ cục, nhất là
khi người ta lại là một trưởng toán trong chi nhánh của Hội
những Người Tự Do.
- Anh được nhập hội ở đâu?
- Chi nhánh 29, Chicago
- Bao giờ?
- Ngày 24 tháng 6 năm 1871
- Tên trưởng toán?
- J.H.Scott.
- Ai chịu trách nhiệm toàn khu?
- Bartholomew Wilson.
- Đến Vermissa làm ǵ?
- Tôi cũng đi làm như ông
- Anh đối đáp trơn tru lắm nhỉ?
- Vâng, tôi không ngọng nghiụ.
- Thế trong hành động, anh có lanh lẹ không?
- Tôi nổi tiếng về việc ấy.
- Rất tốt, anh sẽ được thử thách. Anh đă nghe nói đến chi nhánh ở
đây bao giờ chưa?
- Người ta nói với tôi rằng trước tiên phải là một con người đă, rồi
sau mới thành một môn huynh được.
- Đúng đó. Tại sao anh lại bỏ Chicago ra đi?
- Ông đừng ḥng bắt tôi khai.
Ganh-ty trố mắt ra nh́n. Hắn không quen nghe những câu trả lời như
vậy. Câu này, hắn thấy nó thật ngộ nghĩnh.
- Tại sao vậy?
- V́ môn huynh không được phép nói dối với một môn huynh khác.
- Nghĩa là sự thật không được tốt lắm chứ ǵ.
- Nếu ông muốn hiểu như vậy, th́ xin tuỳ ông.
- Một người trưởng toán như tôi, chắc sẽ không đưa một ai vào trong
chi nhánh Hội, khi chưa biết quá khứ của anh ta.
Móc-đô có vẻ lúng túng. Sau cùng, anh ta lôi ở túi áo trong ra một
mảnh báo cũ, và c̣n hỏi lại:
- Ông không phản thùng tôi chứ?
- Mày mà c̣n nói cái kiểu ấy th́ tao đập vỡ mặt mày ra bây giờ.
Móc-đô tỏ vẻ hối tiếc:
- Tôi xin lỗi ông. Tôi nói mà không suy nghĩ. Tôi biết rằng ở trong
tay ông th́ tôi sẽ được an toàn. Ông hăy đọc mảnh báo này đi.
Ganh-ty đọc lướt qua bài báo đưa tin về vụ án mạng tên Jonas Pinto ở
quán rượu phố Chợ, tại Chicago, đêm mồng 1 tháng giêng
năm 1874. Hắn đưa trả lại mảnh báo cũ, hỏi:
- Anh làm cái việc ấy à?...
Móc-đô trả lời bằng cái gật đầu.
- Tại sao anh lại hạ nó?
- Tôi giúp đỡ nhà nước đúc ra các đồng đô la. Có lẽ những đồng đô la
của tôi làm ra, vàng không đủ tuổi như đồng đô la của Nhà
nước, nhưng trông nó vẫn có vẻ xài được. Cái tên Pinto này giúp tôi
tiêu thụ những đồng ấy. Một hôm nó nói rằng sẽ đi tố cáo tôi.
Tôi hạ nó ngay, rồi đến đây.
- Tại sao lại đến cái xứ than này?
- Thấy báo nói ở đây người ta không khó tính lắm.
Ganh-ty bật cười.
- Thế ra trước hết anh là một thằng làm bạc giả, rồi sau là một tên
giết người, và anh nghĩ rằng đến đây anh sẽ được người ta đón
tiếp tốt có phải không.
- Vâng, đại khái là như vậy.
- Thế bây giờ anh c̣n làm đươc những đồng đô la ấy không?
Móc-đô móc túi lấy ra mấy đồng tiền vàng đưa cho Ganh-ty xem
- Đây ông xem...
- Thật không? Không nói đùa đấy chứ?
Ganh-ty soi các đồng tiền ra ánh sáng, để nó trên bàn tay to tướng.
- Không thấy có ǵ khác cả. Tổ mẹ, thế này th́ anh sẽ là một môn
huynh đắc lực đây. ở đây chúng tôi cũng có thể nhận một vài
tay đầu ḅ đầu bướu.
- Thưa ông, tôi sẽ giữ được vị trí của tôi, trong cuộc tự vệ đó.
- Thần kinh của anh có vẻ vững vàng lắm. Anh không xáo động khi tôi
chĩa súng vào anh?
- Lúc đó không phải tôi đang bị nguy hiểm.
- Thế th́ ai vậy?
- Ông.
Móc-đô rút trong túi áo vét ra một khẩu súng sáu đă lên đạn.
- Tôi vẫn nhắm vào ông suốt trong thời gian vừa qua, tay tôi cũng
không lanh kém ǵ ông đâu.
Ông hội đồng đỏ mặt tía tai nhưng rồi bỗng phá lên cười.
- Tôi có cảm giác một ngày nào đó, chi nhánh Hội ta rồi sẽ đươc kiêu
hănh về anh đó... Cái ǵ thế này. Chúng mày không thể để
yên cho tao được nói chuyện đến năm phút với một vị khách quí hay
sao?
Người hầu bàn cúi đầu:
- Xin lỗi ông hội đồng, có ông Ted. Ông ấy muốn gặp ông gấp.
Lời báo ấy là vô ích, Ted đă hiện ra trong khung cửa.
Hắn gặt người hầu ra rồi đóng cửa lại, và nh́n Móc-đô bằng một cặp
mắt nẩy lửa.
- Thế là mày đă đến đây trước tao rồi hả? Được, ông hội đồng, tôi có
câu chuyện muốn nói với ông về cái tên này.
Móc-đô nói như hét:
- Th́ mày nói ngay đi, nói ngay trước mặt tao nè.
- Tao sẽ nói lúc nào tao cần nói, và nói theo cách của tao.
Ganh-ty từ trên thùng rượu nhảy xuống, can thiệp
- Ted, đây là một môn huynh mới đến, chúng ta không được đón tiếp
anh ta như vậy. Hăy ch́a tay ra làm lành với nhau đi.
- Không đời nào. - Ted hét lên
- Tôi đă mời anh ta đấu với tôi bằng tay không, hoặc bằng bất cứ thứ
vũ khí nào. Thưa ông hội đồng, bây giờ tôi xin để ông phân
xử cho chúng tôi.
- Thế giữa hai anh có chuyện ǵ vậy?
- Một cô gái trẻ tuổi.
- "Tự do à?" Ông trưởng toán nói tiếp. "V́ đây là giữa hai môn huynh
trong cùng một chi nhánh hội, nên cô gái đó hoàn toàn tự
do".
- Ồ, luật lệ của ông là như thế đấy hả?
- Đúng, luật lệ của tao là như thế đấy, Ted!
Ganh-ty nh́n hắn một cách hiểm ác, tiếp luôn:
- Phải chăng mày định chống lại luật lệ ấy không?
- Ông gạt ra ngoài một người vẫn đứng bên ông từ năm năm nay, để ôm
vào ḷng một tên mà ông chưa bao giờ gặp mặt. Mẹ kiếp,
đến kỳ phiếu sắp tới...
Ông hội đồng chồm lên như một con hổ, khép chặt hai bàn tay vào
quanh cổ tên kia và vật ngửa nó lên một thùng rượu. Móc-đô
can thiệp. Anh kéo ông hội đồng lại, làm ông ta thả tay ra. Ted bị
khuất phục. Hắn ngồi lên trên thùng rượu.
- Ted, đă từ lâu mày đáng được một trận như thế này. Ngày hôm nay
th́ mày nếm mùi sơ sơ rồi đó. Mày tưởng tượng rằng nếu tao
không được bầu lại làm trưởng toán th́ mày sẽ chiếm chỗ tao phải
không? Rồi đây chi nhánh Hội sẽ định đoạt việc này. Nhưng
chừng nào tao c̣n là trưởng toán, th́ không một đứa nào được mở mồm
ra chống lại những điều tao quyết định, nghe rơ chưa?
Ted vừa xoa cổ vừa lắp bắp nói:
- Tôi có chống ông cái ǵ đâu.
Thế là Ganh-ty đột ngột trở lại ngay cái kiểu cách ra vẻ hồ hởi
thường ngày của hắn:
- Ồ, nếu thế th́ thôi. Chúng ta đều là bạn tốt với nhau cả. Và việc
này coi như là xong.
Lăo lấy từ trong hốc tủ ra một chai sâm banh bật nút mở rượu, rót
đầy vào ba cốc:
- Nào, chúng ta hăy uống ly rượu hoà giải. Sau tuần rượu này, không
có một cuộc căi lộn nào nữa. Vậy th́ bây giờ Ted, hăy để
tay trái của anh lên cổ tôi đi.
Rồi lăo nói tiếp:
- Thưa ông, nghĩ sao khi bị xúc phạm?
- "Những đám mây đều nặng nề".
- "Nhưng chúng sẽ tan đi, để không bao giờ trở lại nữa".
- "Và điều đó, tôi xin thề".
Hai người uống cạn ly rượu, và nghi lễ đó lại diễn ra giữa Ted và
Móc-đô.
Ganh-ty xoa hai tay vui vẻ nói:
- Được rồi. Thế là cuộc căi lộn đă kết thúc. Nếu nó c̣n tái diễn th́
các anh sẽ phải chịu sự trừng phạt của Hội.
Móc-đô ch́a tay ra cho Ted bắt:
- Tôi thật không dám thế. Tôi dễ gây lộn, nhưng cũng dễ tha thứ.
Người ta bảo đó là do gịng máu ái Nhĩ Lan. Nhưng đối với tôi
thế là xong, và tôi không có thù hằn ǵ cả.
Ted đành phải giơ tay ra bắt, v́ đôi mắt của ông trưởng toán không
rời hắn
Ganh-ty ôm lấy vai hai người, thở dài:
- Thật không thể tưởng tượng được là mảnh gấu váy ấy lại có thể làm
cho hai chàng trai của tôi đến phải trở thành đối thủ của
nhau. Nhưng những chuyện này vượt ra ngoài thẩm quyền của một người
trưởng toán rồi. Môn huynh Móc-đô, anh được nhập
vào chi nhánh 341. Chúng tôi thường hội họp vào tối thứ 7. Nếu anh
đến dự, anh sẽ măi măi là một người Tự Do ở cái thung lũng này.
|