Tin Báo
			 
			 
			Holmes không đụng một tư nào đến bữa điểm tâm, cứ ngồi chống tay 
			xuống bàn, ngắm nghía măi một tờ giấy vừa lôi ở một b́ thư 
			ra. Anh đưa b́ thư ra ánh sáng, chăm chú xem xét cả trong lẫn ngoài:
			 
			- Tuồng chữ của thằng Por. Mặc dầu tôi chưa nh́n thấy tuồng chữ nó 
			đến hai lần, nhưng chắc chắn đây là của nó. Nhưng thằng 
			này mà phải gửi thư cho tôi th́ nhất định là có chuyện quan trọng.
			 
			- Por là ai vậy? - Tôi ṭ ṃ hỏi.  
			- Por chỉ là một cái tên giả, một loại kư hiệu để nhận ra nhau thôi. 
			Đằng sau cái tên ấy là một thằng tinh như ma. Đă có lần nó viết 
			thư nói thẳng thừng rằng Por đâu có phải tên thật của nó, và nó 
			thách tôi t́m xem nó là ai. Sở dĩ tôi chú ư nhiều đến nó, không 
			phải v́ bản thân nó mà chính v́ nó có liên quan đến một "đại nhân" 
			mà tôi đang theo dơi. Thằng này cũng giống như kiểu con 
			chó rừng đi trước con sư tử, một thằng người tư hon hợp tác với một 
			tên khổng lồ vậy. Mà cái tên khổng lồ đó, chẳng những rất 
			ghê gớm, mà c̣n khủng khiếp nữa ḱa. Watson, đă có lần nào tôi nói 
			với anh về giáo sư Mori chưa?  
			- Tên tội phạm khoa học trứ danh ấy chứ ǵ?  
			- Chết, anh mà gọi hắn như vậy, th́ anh sẽ phải ra toà. Mà chính cái 
			chỗ đó mới là tuyệt đấy. Hắn, một thằng chủ mưu của tất cả 
			những ǵ bẩn thỉu nhất đă xảy ra từ trước đến nay. Một bộ óc chỉ huy 
			tất cả các tầng lớp cặn bă nhất của xă hội.  
			Thế nhưng, không hề có một mối nghi ngờ, thậm chí không có cả một 
			lời phê b́nh nhỏ nào có thể đụng đến lông chân hắn. Hắn 
			đă che giấu những thủ đoạn của hắn khéo đến mức hắn có thể lôi anh 
			ra toà chỉ v́ mấy câu nói vừa rồi, và toà sẽ tịch thu hết số 
			tiền lương hưu trí của anh để đền bù danh dự cho hắn. Nhưng rồi thế 
			nào chúng ta cũng phải đấu với hắn thôi.  
			Tôi bốc lên:  
			- Mong rằng lúc ấy, tôi sẽ có mặt bên cạnh anh. Nhưng mà anh dang 
			nói về tên Por kia mà.  
			- À, Por chính là một mắt xích trong sợi dây xích, gần mốc trung tâm 
			đó. Cho đến bây giờ, Por là mắt xích yếu nhất của sợi xích.  
			- Th́ sức bền của một sợi dây xích tuỳ thộc vào mắt yếu nhất của nó. 
			Chính v́ thế mà thằng Por là rất quan trọng đối với tôi, thằng 
			này đôi lúc cũng có ư trở lại con đường lương thiện, lại thêm, lâu 
			lâu, tôi có gửi cho anh ta mười bảng Anh, thành ra đă có hai, ba 
			lần, nó có báo cho tôi một vài tin tức có giá trị, các loại tin tức 
			có thể giúp tôi biết trước và ngăn ngừa tội ác, nhưng không trừng
			phạt được kẻ định gây ra. Chắc chắn là nếu có ch́a khoá giải được 
			mật mă, th́ lá thư này cũng là loại tin tức ấy đấy.  
			Holmes trải tấm giấy lêm bàn, tôi đứng dậy, đi lại đằng sau, nh́n 
			qua trên vai anh và đọc được những gịng chữ này:  
			534 C2 I3 I27 3I I7 2I 4I  
			Du-gia I09 203 37 Birlstone 26 Birlstone 9 I27 I7I  
			- Anh nghĩ ǵ thế, Holmes?  
			- Tất nhiên đây là một cách để hắn báo tin cho tôi đấy.  
			- Nhưng viết mật mă mà không cho ch́a khoá giải th́ có lợi ích ǵ?
			 
			- Trong trường hợp cụ thể này, th́ bức mật mă này đúng là không làm 
			ǵ được.  
			- Tại sao lại nói rằng "trong trường hợp cụ thể này".  
			- Bởi v́ có nhiều bức mật mă ta có thể đọc dễ dàng cũng như đọc tin 
			rao vặt trong báo vậy. Nhưng lần này... tôi đứng trước một cái 
			ǵ có khác đây. Rơ ràng nó có liên hệ đến các chữ trong một trang 
			của một cuốn sách nào đó.  
			- Thế tại sao có hai chữ Du-gia và Brilstone  
			- Tại v́ trong trang sách đó không có hai chữ này.  
			- Thế th́ tại sao nó lại không nói rơ tên cuốn sách?  
			- Có ai cho cả mật mă lẫn ch́a khó giải vào trong cùng một b́ thư? 
			V́ nếu thư bị đưa nhầm người th́ tiêu ngay. Cho nên chắc 
			không lâu đâu, sẽ có một bức thư thứ hai nữa.  
			Những dự đoán của Holmes đều đúng cả. Chỉ vài phút sau, người giúp 
			việc mang đến cho chúng tôi bức thư chờ đợi. Holmes vừa 
			xé b́ thư vừa nhận xét:  
			- "Cũng cùng một thứ chữ, nhưng lần này th́ lại kư tên nữa". Holmes 
			vừa trải tờ giấy ra vừa nói một cách đắc thắng. "Này Watson 
			ơi, chúng ta tiến lên được rồi", nhưng vừa đọc được vài ḍng, trán 
			Holmes bỗng nhăn lại.  
			- Thế là bao hy vọng tan vỡ như bọt xà pḥng, chỉ mong thằng Por 
			không bị găy cổ.  
			Holmes đọc to bức thư cho tôi nghe:  
			"Ông Holmes thân mến. trong vụ này tôi sẽ không mạo hiểm thêm nữa. 
			Nó nguy hiểm quá. Th́nh ĺnh lăo đến, vào lúc tôi đă viết 
			xong phong b́ này với ư định báo cho ông biết cách giải mă, tôi đă 
			giấu được cái b́ thư đi. Nhưng tôi đọc trong mắt lăo, thấy lăo 
			nghi ngờ tôi. tôi xin ông hăy đốt bức mật mă đi, v́ bây giờ nó chẳng 
			c̣n có ích ǵ cho ông nữa" F. Por.  
			Holmes ngồi xuống, ṿ nát bức thư trong tay mắt nh́n sững vào ngọn 
			lửa trong ḷ sưởi.  
			"Có lẽ hắn tự biết là hắn đă phản bội chủ hắn, nên hắn tưởng tượng 
			ra lời buộc tội trong mắt của lăo kia".  
			- Lăo kia là lăo giáo sư Mori? - Tôi hỏi.  
			- Khi một tên trong cái băng này nói đến "lăo ta" th́ mọi người đều 
			hiểu là ai rồi. Đối với bọn chúng, chỉ có một "lăo ta" mà thôi.  
			- Nhưng lăo có thể làm ǵ được?  
			- Khi người ta là một trong những bội óc lớn nhất của Châu Âu và 
			được những quyền lực đen tối nhất sùng bái, th́ người ta đă 
			nắm trong tay những khả năng vô hạn. Por đang hoảng sợ. Anh đem so 
			sánh chữ trong bức thư với chữ trên phong b́ mà xem. 
			Chữ ở cái phong b́ th́ viết rắn rỏi, c̣n trong bức thư th́ run quá.
			 
			- Thế hắn viết thư làm ǵ? Hắn chỉ việc bỏ rơi tất cả là xong.  
			- Hắn sợ rằng nếu đột nhiên hắn lại câm bặt đi th́ rồi ḿnh sẽ đi 
			điều tra xem tại sao, và điều đó có thể gây phiền phức cho hắn.  
			- Anh nói có lư, lẽ dĩ nhiên là...  
			Tôi cầm bức mật mă lên quan sát thật cẩn thận:  
			-... Bực thật, một điều bí mật rất quan trọng đă được viết trên mảnh 
			giấy này, mà lại không làm sao đọc được.  
			Holmes đẩy mâm thức ăn ra, rồi đốt cái tẩu thuốc.  
			- Anh thử xem lại. Liệu có một vài cho tiết nào đó mà cái bộ óc quỉ 
			quái của anh đă để lọt lưới chăng? - Tôi đề nghị.  
			- Nào, ta hăy xét bài toán này về phương diện lư trí thuần tuư xem 
			sao. Thằng Por nó chỉ cho ta là phải chiếu vào một cuốn sách 
			nào đó. Đấy. Điểm bắt đầu là từ đấy.  
			- Cũng mơ hồ quá đi thôi.  
			- Th́ chúng ta làm cho rơ hơn? Chúng ta có những chỉ dẫn ǵ về cuốn 
			sách này?  
			- Chẳng có ǵ cả.  
			- ồ, ồ, bản mật mă bắt đầu từ con số 534 phải không? Ta đặt giả 
			thiết đây là con số của trang sách. Như thế th́ cuốn sách này khá
			dầy đấy. Thử xem có c̣n những chỉ dẫn nào nữa về cuốn sách này 
			không? Mă hiệu thứ nh́ là chữ C2. Anh nghĩ ǵ về chữ C2 
			này.  
			- Chương 2, chắc thế.  
			- Tôi ngờ là không phải, v́ đă ghi số trang th́ số chương không cần 
			thiết nữa. Vả lại nếu trang 534 mà lại mới chỉ ở chương 2, th́ 
			bề dày của cuốn sách là không thể tưởng tượng được.  
			- Không phải chương 2, mà là cột - tôi kêu lên.  
			- Hoan hô, sáng nay óc anh sáng chói như một ánh chớp vậy. Ta đă 
			h́nh dung ra một cuốn sách dày, in hai cột, mỗi cột khá dài. 
			V́ trong bản mật mă của ta có một chữ mang đến con số 203.  
			Nếu đây không phải là một cuốn sách thường dùng, th́ nó đă gửi cho 
			ḿnh cuốn đó. theo trong thư th́ trước khi bị "lăo kia" bắt 
			gặp, nó có ư định gửi cho ta cái khoá giải mă ở ngay trên b́ thư 
			này. Điều này có nghĩa đây là một cuốn sách mà ḿnh có thể dễ 
			dàng có được ngay. Một cuốn sách mà nó có, và nó nghĩ rằng ḿnh cũng 
			có, nghĩa là một cuốn sách rất phổ biến.  
			- Có lư lắm.  
			- Vậy cái diện điều tra sẽ được giới hạn vào một cuốn sách dầy, in 
			hai cột, và thông dụng.  
			Tôi kêu lên một cách đắc thắng:  
			- Cuốn Kinh Thánh.  
			- Tốt, tốt. Nhưng mà không tốt lắm. Kinh Thánh th́ có biết bao nhiêu 
			là bản in khác nhau, làm sao mà Por biết được là bản của nó 
			với bản của ḿnh có cùng một số trang như nhau. Không. Đây phải là 
			một cuốn sách in đồng loạt, và Por phả biết chắc chắn rằng 
			số trang 534 là có trong cuốn sách của ḿnh kia.  
			- Như thế là có thể thu nhỏ diện tích t́m kiếm lại nữa.  
			- Đúng thế. Cuộc t́m kiếm của chúng ta hướng về những cuốn sách in 
			hàng loạt mà nhà nào cũng có.  
			- Cuốn "Chỉ dẫn giờ tàu hoả".  
			- Ngôn ngữ trong cuốn này quá khô khán., không dễ ǵ dùng những chữ 
			ở trong đó để tạo nên một bức thơ. Chúng ta loại bỏ cuốn 
			"Chỉ dẫn giờ tàu hoả". Cũng loại bỏ cuốn tự điển v́ những lư do đó. 
			Thế th́ c̣n ǵ nữa nào?  
			- Một cuốn Lịch niên giám.  
			- Xuất sắc. Nào ta thử xét cuốn Lịch niên giám xem, nó rất thông 
			dụng, nó có đủ số trang đ̣i hỏi, nó in trên hai cột, ở quăng đầu 
			th́ ngôn ngữ của nó có hạn chế thật, nhưng phần cuối nó cũng hùng 
			biện lắm đấy...  
			Holmes giật lấy cuốn sách để trên bàn.  
			- Đây , trang 534 cột 2, ḿnh thấy một bài văn tràng giang đại hải 
			nói về nền thương mại và những tài nguyên của xứ ấn độ thuộc 
			Anh, Watson, anh ghi các chữ này lại đi. Số 13 là chữ "Ma". Hứ, cái 
			bắt đầu này có vẻ bất lợi rồi, chữ số 127 là "Chính phủ"
			cũng c̣n có ư nghĩa một chút, nhưng chẳng có liên can ǵ đến chúng 
			ta và giáo sư Mori cả. Bây giờ cứ thử nữa xem, Chính phủ 
			làm ǵ? Than ôi, chữ sau là "lông heo" thôi thế là hết. Chúng ta đă 
			thua cuộc...  
			Holmes nói với một giọng hài hước nhưng cay đắng. Nản ḷng, tôi cũng 
			ra ngồi cạnh ḷ sưởi. Sự im lặng kéo dài, bỗng nhiên bị 
			phá vỡ bởi một tiếng kêu của Holmes. Anh chạy vội đến chiếc tủ đứng 
			và moi ra một cuốn sách dày cộm khác, b́a màu vàng.  
			- Tại v́ chúng ta muốn đi trước thời đại. Hôm nay là ngày mùng 7 
			tháng giêng, cho nên chúng ta mới đi tra cứu một cuốn lịch niên 
			giám năm mới. Nhưng chắc chắn là Por đă dùng một cuốn lịch năm 
			ngoái, và có lẽ nó đă nói rơ cho chúng ta biết điều này nếu 
			như nó viết được lá thơ chỉ dẫn. Nào, thử xem cái trang 534 có cái 
			ǵ nào?  
			Số 13 là chữ "một". A, có vẻ hứa hẹn rồi. Số 127 là "nguy hiểm".  
			Mắt Holmes long lanh lên. Những ngón tay thon nhọn của anh cứng đờ 
			ra trong lúc anh lẩm bẩm đếm chữ.  
			- à. Một nguy hiểm... Ghi lại đi Watson, ghi "một nguy hiểm... cấp 
			bách... đe doạ một người tên là... ở đây chúng ta có chữ 
			"Du-gia" một người tỉnh nhỏ giàu có ở tại Birlstone. Xác thực. Nguy 
			hiểm. Khẩn cấp...". Đó watson. Nếu anh bạn tạp hoá ở đầu 
			phố mà có bán một ṿng hoa th́ tôi sẽ cho đi mua về để tự tặng 
			thưởng cho ḿnh.  
			Tôi đọc lại bức thư kỳ lạ mà tôi đă ghi nguệch ngoạc trên giấy khi 
			Holmes đang giải mă, và thở dài:  
			- V́ sao lại t́m một cách phức tạp đến thế này để viết vài câu.  
			- Trái lại, thằng Por đă hành động xuất sắc đấy. Nếu định t́m chữ 
			trong một cột thôi th́ sẽ khó mà t́m cho đủ chữ để nói hết ư 
			nghĩ. ở đây trái lại, nội dung thư là hoàn toàn rơ ràng. Người ta 
			đang âm mưu chống lại một người nào đó tên là Du-gia, chắc chắn 
			là một tay địa chủ giầu có ở tỉnh. Por biết đích xác là sự nguy hiểm 
			rất cấp bách. (Nó không t́m thấy chữ "đích xác" trong cột in 
			chữ nên phải dùng chữ "xác thực").  
			- Chúng ta vừa làm được một công tŕnh kiệt tác về phân tích.  
			Holmes vui như một nghệ sĩ chân chính trước một tác phẩm thành công 
			nhất của ḿnh, và anh đang c̣n giữ một nụ cười trên môi, 
			khi Bili mở cửa để cho viên thanh tra mật thám Dona bước vào.  
			Chuyện này xảy ra vào những năm 1800. Vào thời ấy, Dona là một trinh 
			thám trẻ, năng nổ, cũng đă có đôi chút thành tích trong 
			một vài vụ án... Cả cái vóc người to lớn, cũng chứng tỏ sức mạnh phi 
			thường của anh ta. Trán rộng, đôi mắt sáng nằm sâu trong 
			hai hốc mắt, lông mày rậm ŕ. Đó là một chàng trai ít nói, tính t́nh 
			nghiêm nghị, đứng đắn. Holmes đă có dịp giúp anh ta thành 
			công một đôi lần và không chịu nhận bất cứ một ơn huệ nào. Điều này 
			giải thích được tại sao người thanh tra xứ Ecosse này kính 
			trọng và yêu mến anh bạn đồng nghiệp tài tử của ḿnh.  
			Holmes đon đả chào hỏi:  
			- Ông là một loài chim dậy sớm, xin chúc ông nhiều may mắn trong khi 
			đi săn sâu bọ sáng nay, nhưng tôi sợ rằng ông đến vào giờ 
			này không khéo lại có một chuyện chẳng lành xảy ra.  
			Dona trả lời với một nụ cười tâm lư:  
			- Ông Holmes, nếu ông thay chữ "tôi sợ rằng" bằng chữ "tôi mong 
			rằng" th́ có lẽ ông gần sự thật hơn. Không, tôi không hút 
			thuốc đâu, cám ơn. Tôi phải lên đường ngay bây giờ, v́ những giờ đầu 
			tiên của một vụ án là những giờ có ích lợi nhất, nhưng...  
			Viên thanh tra bỗng ngưng bặt, ông ta vừa thấy tờ giấy trên đó tôi 
			đă ghi lại lời giải mă, ông ta há hốc mồm nh́n tờ giấy.  
			- Du-gia, Birlstone, thế này là thế nào, ông lấy những cái tên này ở 
			đâu ra vậy?  
			- Đây là một bức mật mă mà bác sĩ watson và tôi vừa giải ra. Nhưng 
			sao những cái tên này làm ông phải bối rối?  
			- Một ông tên là Du-gia ở lâu đài Birlstone vừa bị ám sát sáng hôm 
			nay. - Dona nói. 
			 
			Ông Sherlock Holmes Diễn Thuyết : 
			 
			Nói rằng một cái tin kỳ lạ như vậy làm anh ta phải bối rối hay xúc 
			động th́ là nói ngoa. Mặc dù là người không có tính độc ác, 
			nhưng v́ sống măi trong những cái "giật gân" thành ra cũng chai 
			người đi rồi. Và nếu những xúc cảm của anh có bị cùn nhụt đi th́
			trái lại sự thông minh của anh lại tăng thêm.  
			Holmes nói lớn:  
			- Phi thường. Thật phi thường.  
			- H́nh như ông không ngạc nhiên ǵ th́ phải?  
			- Tại sao tôi lại phải ngạc nhiê? Tôi nhận được một bức thư nặc danh 
			báo cho biết là có một sự nguy hiểm đang đe doạ một người 
			nào đó. Rồi một giờ sau, tôi hay tin rằng sự nguy hiểm đó đă thành 
			sự thật và người kia đă chết. Vậy th́ tôi có chú ư, chớ không 
			hề ngạc nhiên.  
			Holmes kể lại cho viên thanh tra nghe chuyện chúng tôi vừa giải mă 
			bức thư. Dona ngồi xuống hai tay đỡ lấy cằm, và hai con mắt 
			chỉ c̣n như hai cái khe màu vàng. Ông ta nói:  
			- Tôi định sáng nay sẽ đi xuống lâu đài. Tôi rẽ vào đây để hỏi xem 
			ông có cùng đi không? Nhưng bây giờ làm việc ở Luân Đôn có 
			lẽ có kết quả hơn.  
			- Tôi không nghĩ thế. - Holmes nói.  
			- Ông hăy xem, chỉ ngày mai hay ngày kia thôi, là báo chí sẽ làm rùm 
			beng lên về câu chuyện bí mật ở lâu đài đó. Nhưng bí mật ở 
			đâu kia chứ, v́ ngay tại Luân Đôn, đă có người báo tin trước khi án 
			mạng xảy ra. Vậy chúng ta hăy tóm cổ cái vị tiên tri ấy, th́ 
			mọi việc c̣n lại sẽ tuồn tuột theo ra cả thôi.  
			- Chắc chắn là thế. Nhưng làm cách nào mà ông tóm cổ được cái tên 
			Por này?  
			Dona lật ngược lá thư mà Holmes vừa đưa cho anh ta.  
			- Thùng thư ở trạm bưu điện Camberwell. Điều này cũng không giúp 
			được ǵ? Theo ông th́ cái tên này là tên giả? Có phải ông nói 
			rằng ông có gửi tiền cho hắn ta phải không?  
			- Hai lần.  
			- Bằng cách nào?  
			- Gửi qua bưu điện  
			- Ông không bao giờ đi xem mặt người lĩnh số tiền đó.  
			- Không.  
			Viên thanh tra tỏ ra hơi ngạc nhiên và khó chịu.  
			- Tại sao lại không?  
			- Bởi v́ bao giờ tôi cũng giữ đúng lời hứa, Khi hắn viết thư cho tôi 
			lần đầu tiên, tôi đă hứa với hắn là sẽ không t́m cách theo dơi 
			hắn.  
			- Ông có nghĩ rằng có một người nào khác đằng sau hắn không?  
			- Tôi không nghĩ, mà tôi biết chắc kia.  
			- Cái vị gíao sư mà ông đă nói với tôi?  
			- Đúng đấy.  
			Dona mỉm cười và nháy mắt với tôi  
			- Ông Holmes ạ. Chính tôi đă đích thân điều tra về ông ta: mọi cái 
			đều cho thấy rằng đây là một con người rất đáng kính, một nhà 
			bác học đầy tài năng.  
			- Tôi thật sung sướng thấy ông nêu lên những tài năng của ông ta.
			 
			- Thật vậy, người ta chỉ c̣n biết cúi đầu kính chào ông ta mà thôi. 
			Tôi có lần ngồi nói chuyện với ông ta về nguyệt thực, nhật thực, 
			mà thật quái quỷ: tôi cũng không hiểu bằng cách nào câu chuyện lại 
			quay sang đến vấn đề đó. Nhưng thực t́nh chỉ với một cái 
			đèn và một quả điạ cầu, ông ta đă cắt nghĩa tất cả cho tôi hiểu 
			trong có một phút đồng hồ. Ông ta có cho tôi mượn một cuốn sách, 
			nhưng nó quá cao đối với tôi. Ông ta có một bộ mặt nhẵn nhụi, mái 
			tóc hoa râm, và cách ăn nói hơi trịnh trọng đủ để làm một ông 
			bộ trưởng.  
			Holmes phát ra một tiếng cười, xoa hai bàn tay vào nhau:  
			- Thật là tuyệt, có phải cuộc đàm đạo mê ly và xúc động ấy là ở ngay 
			trong buồng làm việc của giáo sư phải không?  
			- Đúng thế.  
			- Một căn pḥng rất đẹp  
			- Rất đẹp, đúng thế.  
			- Ông ngồi trước bàn làm việc của ông ta  
			- Vâng  
			- Mặt trời chiếu vào mắt ông, c̣n mắt của giáo sư th́ ở trong bóng 
			tối.  
			- Lúc đó à vào buổi tối, cái đèn quay về phía tôi.  
			- Tất nhiên là như thế. Ông có nhận thấy ở trên đầu chỗ giáo sư có 
			treo một bức tranh không?  
			- Vâng, bức tranh. Một người phụ nữ trẻ tuổi, hai tay ôm đầu và liếc 
			nh́n xuống người xem tranh.  
			- Bức tranh của hoạ sĩ Greuse đấy.  
			Viên thanh tra chăm chú nghe, Holmes ngả người vào lưng ghế, chụm 
			đầu các ngón tay vào nhau , nói tiếp:  
			- Greuse là một hoạ sĩ người Pháp. Các nhà phê b́nh hiện đại đánh 
			giá cao hoạ sĩ này.  
			Hai mắt của viên thanh tra dăn ra:  
			- Có lẽ tốt hơn hết là chúng ta hăy...  
			Holmes cắt ngang ngay:  
			- Tất cả những điều tôi nói với ông đều có một mối liên quan với cái 
			bí mật của lâu đài Birlstone đấy. Thực ra, chúng ta đang đứng 
			ở trung tâm của lối bí này.  
			Dona miễn cưỡng mỉm cười và nh́n tôi:  
			- Ông suy nghĩ có hơi nhanh quá. Ông nhảy mất một hay hai bước. 
			Thành ra tôi không theo kịp ông nữa. Làm sao lại có thể có 
			một mối liên hện giữa nhà họa sĩ của thế kỉ trước với vụ án này 
			được.  
			- Sự kiện một bức tranh của Greuse đem ra bán giá bốn ngh́n bảng 
			không đủ làm chuyển bánh cả một đoàn tàu dài những suy 
			nghĩ trong chất xám của ông sao?  
			Không biết có phải là chuyển bánh không? Nhưng thấy viên thanh tra 
			găi đầu ghê quá, Holmes lại tiếp tục:  
			- Lương giáo sư Mori là 700 bảng Anh một năm. Vậy th́ làm sao mà ông 
			ta có thể mua được bức tranh?  
			Đoàn tàu của viên thanh tra bây giờ đang chạy hết tốc lực:  
			- Thật hấp dẫn. Tôi rất thích nghe ông nói chuyện.  
			Holmes mỉm cười. Anh ta rất khoái những sự tán thưởng ngây thơ như 
			vậy.  
			- Thế ở lâu đài đă xảy ra chuyện ǵ? Holmes hỏi.  
			- Chúng ta có th́ giờ ông ạ. Có một xe ngựa đợi tôi ở dưới đường 
			kia. Về chuyện bức tranh.... Ông Holmes ạ, có lần ông đă khẳng 
			định với tôi là ông chưa hề gặp mặt giáo sư bao giờ.  
			- Đúng. Tôi chưa hề gặp mặt ông ta.  
			- Thế th́ làm sao ông biết được căn buồng của ông ta.  
			- Tôi đă đến nhà ông ta ba lần: Hai lần tôi đă kiếm cớ ngồi chờ ông 
			ta, và tôi đă đi khỏi trước khi ông ta về; C̣n một lần... chính 
			lần đó tôi đă tự cho phép tôi đọc qua những giấy tờ của ông ta và 
			kết luận thật là bất ngờ.  
			- Ông có t́m thấy một cái ǵ phạm pháp không?  
			- Tuyệt đối không có. Chính điều đó làm tôi bối rối. Nhưng mà ông đă 
			thấy tầm quan trọng của chi tiết bức tranh rồi chứ, chi tiết 
			ấy nói lên rằng ông giáo sư rất giàu. Nhưng ông ta làm ǵ mà lại 
			giàu thế? Ông ta không lấy vợ. Em ông ta là một người xếp ga 
			quèn ở miền Tây.  
			- Vậy th́ sao?  
			- Suy luận ra cũng đơn giản thôi.  
			- Ông cho rằng ông giáo sư có những nguồn thu nhập lớn, và những 
			nguồn này là bất hợp pháp phải không?  
			- Đúng là như thế. Cái ư nghĩ này, tất nhiên không phải là chỉ có 
			dựa trên bức hoạ của Greuse thôi, Tôi có cả tá những sợi tơ mong 
			manh dẫn tôi đến trung tâm của màng nhện, là nơi con vật đó đứng im 
			ŕnh mồi. Sở dĩ tôi nêu lên chuyện bức hoạ, cũng chỉ v́ nó 
			nằm trong giới hạn tầm mắt của ông mà thôi.  
			- Những điều ông vừa nói là hết sức đáng chú ư. Nhưng nếu có thể, 
			chúng ta thử đào sâu thêm một tư xem sao. Có phải ông ta đă 
			làm giàu bằng mánh mung, lừa đảo làm bạc giả....  
			- Ông đă có bao giờ đọc một cái ǵ nói về Jona chưa?  
			- Có phải là tên của một nhân vật tiểu thuyết không không? Trong đó 
			các ngài thám tử đều làm được những việc rất kỳ diệu.  
			- Jona không phải là thám tử cũng không là một nhân vật tiểu thuyết. 
			Đó là một tên tội phạm bậc thầy đă sống vào khoảng năm 
			1750. Ông Dona, ông nên đọc lại tất cả những tài liệu ghi chép lại 
			các vụ án. Tất cả mọi việc đều chỉ lặp lại mà thôi, kể cả lăo giáo
			sư Mori nữa. Jona là sức mạnh của những tên tội phạm của Luân Đôn. 
			Hắn đă bán bộ óc cho bọn này lấy 15% hoa hồng trong 
			mỗi vụ. Tất cả những chuyện đă làm trước đây, sẽ c̣n được làm lại 
			nữa. Tôi sẽ kể cho ông nghe một vài việc về Mori mà có lẽ sẽ 
			làm ông vui thích.  
			- Tôi xin dỏng cả hai tai lên.  
			- Tôi đă t́m hiểu được ai là khâu đầu tiên của sợi xích. Một sợi dây 
			xích mà đầu này là một tên tôi phạm thượng thặng, c̣n đầu 
			kia là cả trăm tên ăn cắp, móc túi, những tên đi tống tiền, những 
			tên bợm cờ bạc. ở giữa hai đầu sợi xích đó, là tất cả các loại tội
			 
			ác. Tham mưu trưởng của bọn chúng là tên đại tá Mô-ran. Theo ông th́ 
			lăo giáo sư trả lương cho hắn ta bao nhiêu tiền?  
			- Tôi muốn biết điều đó lắm.  
			- Sáu ngh́n bảng Anh một năm. Tôi cũng Tôi cũng t́nh cờ mà biết được 
			chi tiết này thôi. Ngài đại tá Mo-ran lương c̣n cao hơn 
			cả thủ trưởng, những cái cái séc b́nh thường để trả tiền sinh hoạt 
			trong nhà thôi. Nó được trả vào tài khoản của sáu ngân hàng 
			khác nhau. Chi tiết này có làm cho ông phải suy nghĩ không?  
			- Tất nhiên cũng đáng chú ư thật. Nhưng từ đó ông suy luận ra những 
			ǵ?  
			- Những ǵ à, là hắn không muốn ai bép xép ǵ về của cải của hắn, 
			hắn có khoảng 20 tài khoản ở ngân hàng, và phần lớn tài sản 
			của hắn th́ kư gửi ở Pháp hoặc Đức.  
			Dona ngồi lặng đi, ch́m đắm trong một suy nghĩ sâu lắng, nhưng rồi 
			cái óc thực tế xứ Ecosse lại kéo anh ta đứng lên.  
			- Hiện giờ, th́ lăo ta có thể cứ tiếp tục. Ông đă kéo chúng tôi đi 
			quá xa với những câu chuyện cổ tích của ông rồi. Tôi chỉ c̣n ghi 
			nhận được cái điều cốt yếu là có một sự liên hệ nào đó giữa giáo sư 
			với tội ác. Vậy xin hỏi ông, liệu chúng ta có thể đi xa hơn thế 
			không?  
			- Ông đă nói với chúng tôi rằng vụ án mạng này hiện giờ chưa giải 
			thích được. Nếu chúng ta giả thiết, rằng nguồn gốc của nó là 
			như chúng ta đă nói, th́ có thể phải xét đến hai động cơ khác nhau. 
			Trước hết, Mori cai quản cái thế giới của lăo bằng một cây roi 
			sắt. Bộ luật h́nh của hắn chỉ gồm có một h́nh phạt: Xử tử. Như vậy 
			có thể Du-gia đă phản bội sếp của hắn. H́nh phạt đă được thi 
			hành, và cái chết này sẽ thổi một luồng gió sợ hăi vào những tên c̣n 
			sống trong băng của lăo.  
			- Đó là một gợi ư, thưa ông Holmes  
			- Giả thiết thứ hai, là vụ án mạng đă được Mori dựng lên như một vụ 
			thông thường mà thôi. ở đó có mất ǵ không, ông Dona?  
			- Tôi không nghe nói có mất ǵ cả.  
			- Nếu có mất đồ th́ điều này chống lại giả thiết thứ nhất và sẽ phù 
			hợp hơn với giả thiết thứ hai. Mori có thể đă bị đẩy đến chỗ 
			phải gây ra vụ án mạng này để chia phần, hoặc là hắn đă được bọn nào 
			đó thuê tiền để tổ chức vụ án. Cả hai khả năng này đều có 
			thể cả. Nhưng dù sao, th́ cũng phải đến đó mới t́m được lời giải.
			 
			Dona bật đứng dậy, reo lên:  
			- Vậy th́ phải đi tới lâu đài Birlstone thôi.  
			Holmes vừa thay áo vừa nói:  
			- Trong khi đi đường, xin ông Dona kể lại cho chúng tôi nghe tất cả.
			 
			Chữ "tất cả" này thật ra là quá ít ỏi. Nhưng cũng đủ để cho Holmes 
			phải chăm chú nghe. Những chi tiết lặt vặt đă làm cho anh cứ
			xoa măi hai tay vào nhau, mặt hồng hào hẳn lên. Chúng tôi vừa mới 
			sống mấy tuần lễ quá tẻ nhạt, và hôm nay mới lại đứng trước 
			một bí mật xứng đáng với những tài năng của Holmes. Viên thanh tra 
			cũng nói rơ rằng đây chỉ là những chi tiết anh ta lấy từ một 
			bản báo cáo vội vă mới gửi theo chuyến tàu sớm nhất. Người trinh sát 
			của cơ quan Công an địa phương đó là bạn của ông ta. V́ 
			vậy ông ta được tin rất sớm, khác hẳn với mọi lần. Dona đọc to cho 
			chúng tôi nghe bức thư của Maso.  
			"Dona thân mến, những tài liệu chính thức cần cho các bộ phận công 
			tác của ông đă được gửi trong một bao b́ riêng. Thư này là 
			gửi riêng cho một ḿnh ông. Hăy điện ngay cho tôi biết ông đi chuyến 
			tàu nào xuống đây để tôi ra đón. Đây là một bài toán sẽ 
			làm cho ông phải đau đầu. Xin ông hăy xuống ngay. Nếu ông có thể mời 
			được cả ông Holmes th́ hay quá. Thực t́nh, tôi thấy 
			phức tạp quá".  
			Holmes nhận xét:  
			- Gớm, ông bạn của ông có vẻ sắc mắc nhỉ?  
			- Vâng đúng thế, thưa ông. Maso xưa nay vẫn là con người tích cực 
			lắm.  
			- Được. Thế ông có tin ǵ khác nữa không, ông Dona.  
			- Không, khi nào đến nơi, Maso sẽ cho biết.  
			- Thế th́ tại sao ông lại biết Du-gia bị ám sát.  
			- Trong bản báo cáo chính thức có nêu tên Du-gia và ghi rơ là đă bị 
			giết bởi một viên đạn súng săn bắn vào giữa đầu. Cũng có ghi 
			cả giờ báo động là trước lúc nửa đêm hôm qua một chút. Báo cáo nói 
			thêm là đây chắc chắn là một vụ án mạng rồi., nhưng chưa 
			bắt giữ ai, và vụ án này có một vài khía cạnh kỳ lạ làm cho người ta 
			phải bối rối.  
			- Vâng, ông Dona, nếu ông cho phép th́ chúng ta tạm ngưng ở đây. 
			Hiện giờ th́ tôi mới chỉ thấy có hai điều là: có một bộ óc lớn 
			ở Luân Đôn và một cái xác chết ở Sussex. Vấn đề là phải t́m được sợi 
			dây xích nối hai cái này lại với nhau. 
			 
			Tấn Bi Kịch Ở Birlstone  
			 
			Làng Birlstone là một nơi thưa thớt những căn nhà nhỏ bé nửa gỗ, nửa 
			gạch ở b́a phía bắc quận Sussex. Trong hàng thế kỷ trước, 
			ngôi làng vẫn giữ nguyên phong cách cổ xưa, nhưng vào khoảng vài năm 
			gần đây, đă có nhiều địa chủ giàu có đến dựng những 
			biệt thự ở chung quanh. Trong các cánh rừng bọc theo bờ của khu rừng 
			lớn Weald chạy dài măi đến tận chân những ngọn đồi đá 
			vôi ở bờ biển.  
			Lâu đài nằm cách làng khoảng 800 thước, trong một khu vườn cũ nổi 
			tiếng về những cây giẻ gai cực lớn. Một phần của toà lâu đài 
			này đă được dựng lên từ thời Đệ nhất thập tự chiến. Năm 1534, một 
			trận hoả tai đă thiêu trụi tất cả. Một số gạch đá ám khói c̣n 
			sót lại, đến thời các vị vua Jacques, đă được dùng để xây nên một 
			toà lâu đài khác trên nền của toà lâu đài cũ. Toà lâu đài mới này
			với những đầu hồi chi chít và những khuôn cửa sổ có lắp những mảnh 
			kích h́nh quả trám, gợi lại h́nh ảnh của nền kiến trúc vào 
			thế kỷ thứ 17. Về hai đường hào trước đây th́ nay chỉ c̣n lại đường 
			bên trong. Đường hào ngoài đă được tát khô, và bây giờ trở 
			thành một mảnh vườn trồng rau. Đường hào c̣n lại bao quanh cả toà 
			lâu đài dài, rộng đến 12 thước nhưng sâu không quá một 
			thước. Nước trong hào là từ một ḍng sông nhỏ chảy vào, nên không 
			hôi thối. Những cửa sổ của tầng dưới cũng chỉ cao hơn mặt 
			nước khoảng 30 phân. Lối đi duy nhất để vào lâu đài là một cây cầu 
			rút, đă hư hỏng từ lâu. Nhưng người chủ lâu đài hiện nay cho 
			sửa chữa lại để buổi sáng th́ hạ xuống, đến chiều tối lại rút lên: 
			sự phục hồi lại truyền thống của thời phong kiến đă biến toà nhà 
			ban đêm thành một ḥn đảo.  
			Khi gia đ́nh Du-gia đến làm chủ toà lâu đài này th́ nó đang sắp đổ 
			nát. Gia đ́nh chỉ gồm hai người: Du-gia và vợ ông ta.  
			Du-gia khoảng 50 tuổi, có một cái quai hàm thật khoẻ, nét mặt rắn 
			rỏi, một bộ râu hoa râm, một đôi mắt xám rất sắc, vóc người lực 
			lưỡng, dáng điệu cứng cỏi. Những gia đ́nh lân cận có học thức hơn, 
			đă tiếp đăi ông với một sự ṭ ṃ và có phần dè dặt, nhưng 
			ông th́ lại rất được ḷng người dân ở trong làng. Ông tham gia đóng 
			góp rất rộng răi vào tất cả mọi hoạt động ở địa phương, phụ 
			trách các buổi hoà nhạc, và vốn có một giọng nam trầm, bao giờ ông 
			cũng sẵn sàng giúp vui bằng một bài hát thật hay. H́nh như 
			ông có khá nhiều tiền, và người ta đồn rằng ông đă làm giàu trong 
			các mỏ vàng ở xứ Cali.  
			Điều đó th́ không biết có đúng không, nhưng chỉ cần nghe ông nói 
			chuyện cũng biết ông đă sống cả một phần đời ở bên Mỹ, 
			người ta lại càng kính trọng ông hơn v́ ông hoàn toàn coi thường sự 
			nguy hiểm. Mặc dù cưỡi ngựa rất tồi, nhưng mỗi khi có 
			những cuộc thi ngựa là thế nào ông cũng tham dự, và cái tính bướng 
			bỉnh đó đă đem lại cho ông mấy lần ngă ngựa đến kinh hồn.  
			Khi bên nhà thờ bị cháy, lính cứu hoả địa phương đă bó tay, ông một 
			ḿnh xông vào cứu những đồ đạc ra. Cứ như thế, trong ṿng 
			năm năm trời, Du-gia trở thành một nhân vật nổi tiếng ở Birlstone.
			 
			Vợ ông ta cũng được bạn bè kính nể, ở đây, bà ít đi lại chơi bời. 
			Nhưng số ít bạn bè này là đă quá đủ cho một bà chủ nhà vốn có 
			tính dè dặt, và h́nh như chỉ để hết thời gian chú ư, săn sóc chồng. 
			Người ta biết rằng bà phu nhân người Anh này thuộc tầng lớp 
			xă hội thượng lưu, và đă làm bạn với ông ở Luân Đôn khi ông này goá 
			vợ. Bà rất đẹp, vóc người cao lớn, thanh mảnh, tóc màu 
			nâu, trẻ hơn chồng đến 20 tuổi, bà thường tỏ ra rất kín đáo về quá 
			khứ của chồng ḿnh. H́nh như bà ta không hiểu biết ǵ nhiều 
			lắm về ông ta. Một vài người c̣n thấy bà vợ có vẻ bồn chồn, lo lắng 
			mỗi khi ông chồng về trễ. Trong một vùng nông thôn thanh 
			b́nh như thế này, người ta rất thích thú bàn tán về những câu chuyện 
			mách lẻo, và khi vụ án xảy ra th́ dư luận càng xôn xao và 
			cho rằng đúng là những điều nhận xét ấy có một ư nghĩa rất đặc biệt.
			 
			Trong lâu đài c̣n có một nhân vật nữa, tuy không sống ở đó một cách 
			thường xuyên. Đó là ông Bar. Cái dáng cao lênh khênh rất 
			quen thuộc trong làng, v́ ông ta hay đến lâu đài, và được người ở đó 
			quí mến lắm. Người ta nói rằng ông là người nhân chứng duy 
			nhất biết về quá khứ của ông Du-gia. Bar chắc chắn là một người Anh 
			rồi, nhưng qua những câu chuyện của ông ta, th́ có thể 
			hiểu được rằng, ông ta quen biết Du-gia trước đây là ở bên Mỹ và lúc 
			đó hai người sống với nhau thân thiết lắm. H́nh như ông ta 
			cũng giàu có lớn th́ phải và hiện vẫn chưa lập gia đ́nh. Ông ta trẻ 
			hơn ông Du-gia, chỉ trạc độ 45 tuổi là hết mức, người cao lớn, 
			lưng thằng, thân h́nh nở nang, mặt mũi nhẵn nhụi, không để râu. Ông 
			ta có hai hàng lông mày đen nhánh và nhất là đôi mắt đen 
			áp đảo người khác.  
			Ông ta không đi săn, không cưỡi ngựa, suốt ngày cứ ngậm cái tẩu 
			thuốc đi dạo chung quanh làng. Nếu không th́ lại dong xe đi 
			vào các vùng nông thôn với ông chủ nhà, và khi nào ông này vắng, th́ 
			với bà chủ nhà. Người đầu bếp Am trong lâu đài nói "Đó là 
			một vị thượng lưu vô tư hào phóng". Nhưng cũng bổ xung thêm "Nhưng 
			thực t́nh, tôi không bao giờ lại dại dột muốn căi lại ông 
			ta. Ông ta rất nhiệt t́nh với ông Du-gia, và cũng không kém phần 
			nhiệt t́nh với vợ ông Du-gia."  
			C̣n đối với những người khác cùng ở trong lâu đài, th́ tôi chỉ cần 
			kể đến anh đầu bếp Am, nhanh nhẹn, đứng đắn đáng kính; bà 
			A-len tươi tắn phốp pháp, một tay giúp việc đắc lực cho bà chủ nhà. 
			C̣n sáu người gia nhân khác th́ không dính dáng ǵ đến 
			những sự kiện xảy ra trong đêm đó.  
			Đồn cảnh sát địa phương được báo tin vào 12 giờ kém 15 phút đêm. Lúc 
			đó là buổi trực của thượng sĩ Will thộc cảnh sát quận 
			Sussex. Ông Bar, đă đến đập cửa và kéo chuông ầm ầm, báo tin rằng 
			ông Du-gia đă bị ám sát. Báo xong, ông lại vội vă trở về lâu 
			đài. Sau khi đă báo lên thượng cấp, thượng sĩ Will đến ngày hiện 
			trường. Khi đến nơi, Will thấy chiếc cầu đă được hạ xuống, các 
			cửa sổ đều sáng đèn; và toàn thể lâu đài ở trong một t́nh trạng rối 
			loạn. Các gia nhân, mặt mũi xám ngoét, đứng sát vào nhau ở 
			pḥng ngoài, c̣n anh đầu bếp, cứ vặn hai bàn tay vào nhau trên bực 
			cửa, chỉ một ḿnh ông là có vẻ tự chủ và ḱm được nỗi xúc 
			động. Ông mở cửa ở pḥng ngoài, và mời thượng sĩ đi theo ông.  
			Cùng lúc đó bác sĩ Wu ở trong làng, cũng đến. Cả ba người bước vào 
			căn pḥng đă xảy ra tấn thảm kịch. Anh đầu bếp theo vào, 
			đóng cửa lại.  
			Nạn nhân nằm ngửa. chân tay duỗi thẳng ở giữa buồng, trên người chỉ 
			có một cái áo choàng màu hồng, phủ ra ngoài bộ quần áo 
			ngủ, chân đi giày vải. Vị bác sĩ cầm cây đèn đặt lên bàn và quỳ 
			xuống bên cạnh xác chết; thoáng nh́n qua ông lắc đầu: Du-gia đă 
			chết. Một thứ vũ khí ḱ lạ được đặt tréo ngực ông ta: Đó là một khẩu 
			súng ngắn mà nóng đă được cưa ngắn đi, chỉ cách c̣ súng 
			khoảng 30 phân. Trông rơ ràng là ông ta đă bị bắn rất gần, và bị 
			trúng đạn vào ngay giữa mặt. Cả hai c̣ súng đă được nối liền với 
			nhau bằng một sợi dây thép, để lúc bắn th́ cả hai ṇng đều bắn một 
			lượt làm cho sức công phá càng ghê gớm.  
			Viên cảnh sát nói thất thanh:  
			- Không ai được sờ mó vào một tư ǵ ở đây, trước khi cấp trên của 
			tôi đến.  
			Ông Bar nói dứt khoát:  
			- Chưa có ai đụng vào đây cả, tất cả mọi vật đều vẫn y nguyên như 
			lúc đầu.  
			- Vào lúc mấy giờ?  
			Viên thượng sĩ đă rút cuốn sổ tay ra.  
			- Vào lúc 11 giờ rưỡi. Lúc đó tôi vẫn ngồi trước ḷ sưởi ở trong 
			pḥng tôi, th́ nghe thấy tiếng nổ. Nổ không to lắm. H́nh như có 
			cái ǵ bịt kín lại vậy. Tôi vội đâm bổ xuống dưới nhà. Tôi nghĩ rằng 
			từ trên đó xuống đến đây không quá 30 giây đồng hồ.  
			- Lúc đó cửa có mở không?  
			- Cửa mở, ông Du-gia th́ nằm đúng như thế này. Ngọn nến trong buồng 
			vẫn cháy sáng ở trên bàn làm việc. Sau đó một chút th́ 
			chính tối đă thắp cây đèn lên.  
			- Ông có trông thấy ai không?  
			- Không. Tôi nghe thấy tiếng bà Du-gia ở trên lầu chạy xuống sau 
			tôi, và tôi đă ngăn bà lại để cho bà khỏi trông thấy cảnh thương 
			tâm này. Bà hầu pḥng A-len cũng chạy đến và đă d́u bà chủ đi lên. 
			Rồi anh đầu bếp Am đến, và tôi với ông ta cùng đi vào trong 
			pḥng.  
			- Tôi tưởng rằng cây cầu rút đêm nào cũng kéo lên kia mà.  
			- Đúng thế. Nhưng chính tôi đă hạ nó xuống để đi báo cho ông.  
			- Nhưng vậy th́ tên sát nhân làm sao trốn ra được. Phải đặt vấn đề 
			khác đi thôi: Có thể là ông Du-gia tự tử chăng?  
			- Chúng tôi cũng đă có nghĩ đến điều đó. Nhưng ông xem đây này....
			 
			Ông Bar kéo tấm rèm để lộ một khuôn cửa sổ cao mở toang.  
			- Và mời ông xem cái này nữa.  
			Ông Bar đưa cái đèn lại gần thành cửa sổ, nơi đó có một vết máu 
			giống hệt như h́nh đế của một chiếc giầy.  
			- Rơ ràng là có người đă trèo qua đây.  
			- Có phải ông muốn nói rằng có người đă chạy trốn bằng cách vượt qua 
			con hào này, phải không? Nhưng mà nếu chưa đầy nửa 
			phút sau vụ án, ông đă có mặt ở đây, th́ người ấy lúc đó c̣n phải 
			đang lội nước.  
			- Chắc chắn là như vậy. Ôi tiếc quá, không hiểu sao lúc đó tôi không 
			nhẩy bổ ngay qua cửa sổ. Bị cái rèm cửa này che khuất, 
			thành ra tôi không nghĩ ra nữa.  
			Vị bác sĩ cũng lẩm bẩm nói khẽ:  
			- Tôi chưa bao giờ trông thấy một vết thương nát bấy ra như vậy.  
			Viên thượng sĩ vẫn cứ ngắm maĩ khuôn cửa sổ mở rộng.  
			- Nhưng mà này, câu chuyện có người lội nước qua khe hào nghe thú vị 
			thật, nhưng hắn làm cách nào để vào được lâu đài, v́ 
			chiếc cầu rút đă bị kéo lên rồi mà.  
			- à vâng. Đó, tất cả vấn đề là ở chỗ đó. - Ông Bar nói.  
			- Thế mấy giờ th́ người ta kéo cầu lên?  
			- Lúc đó là gần 6 giờ chiều. - Ông Am trả lời.  
			- Tôi nghe nói là ở đây vẫn thường rút câu lên vào lúc mặt trời lặn. 
			Như thế vào mùa này th́ gần 4 giờ rưỡi hơn là gần 6 giờ chứ. - 
			Viện thượng sĩ lại nhấn mạnh.  
			- Hôm nay bà chủ tiếp khách. Tôi không thể đụng đến cây cầu khi các 
			vị khách chưa ra về. Chính tay tôi đă rút cây cầu lên. - Anh 
			Am giải thích  
			- Nếu như có những người từ bên ngoài vào lâu đài th́ họ phải đi qua 
			cầu trước sau giờ, rồi trốn ở trong này, v́ ông chủ măi sau 
			11 giờ đêm mới bước vào căn buồng này  
			- Đúng như thế. Đêm nào, trước khi đi ngủ, ông Du-gia cũng đi một 
			ṿng quanh lâu đài để xem đă tắt hết đèn chưa? Chính trong 
			khi đi ṿng như vậy, ông đă vào căn buồng này. Tên sát nhân đă đợi 
			ông ta ở đây, và bắn thẳng vào ông ta. Rồi hắn trốn bằng 
			cách leo qua cửa sổ, bỏ lại cây súng. - Bar giải thích.  
			Viên thượng sĩ cúi xuống nhặt một mẩu b́a cứng ở bên cạnh xác chết 
			trên có ghi ba chữ T.L.V và một con số 341, chữ viết rất thô 
			kệch. Ông ta giờ mẩu b́a lên hỏi:  
			- Cái ǵ thế này?  
			Ông Bar nh́n mẩu b́a một cách ṭ ṃ:  
			- Tôi cũng không để ư thấy nó. Có lẽ tên hung thủ lúc chạy trốn đă 
			bỏ rơi lại.  
			- T.L.V. 341. Tôi chẳng hiểu ǵ cả.  
			Viên thượng sĩ cứ xoay đi xoay lại măi mẩu b́a.  
			- T.V.L? Có lẽ là những chữ đầu tiên của một người nào đây chăng. 
			Bác sĩ Wu, bác sĩ có cái ǵ đó.  
			Ông bác sĩ đă nhặt được một chiếc búa khá to trước ḷ sưởi. Ông Bar 
			chỉ vào một hộp dính dầu bằng đồng trên mặt ḷ sưởi, giải 
			thích:  
			- Ngày hôm qua, ông Du-gia có thay đổi chỗ treo mấy bức tranh. Tôi 
			thấy ông ta đứng trên chiếc ghế này để treo bức tranh lớn 
			bên trên. Việc đó cắt nghĩa tại sao lại có chiếc búa trên đây.  
			Viên thượng sĩ găi đầu ra vẻ khó nghĩ:  
			- Có lẽ chúng ta nên để lại chiếc búa ở nơi t́m thấy nó th́ hơn. 
			Phải những cái đầu giỏi nhất ở Scotland Yard mới hiểu thấu đáo 
			được mọi việc.  
			Rồi ông ta cầm lấy chiếc đèn từ từ đi quanh căn pḥng.  
			- Có người đă trốn ở đây, chắc chắn là như thế.....  
			Ông thượng sĩ hạ cây đèn thấp xuống: ở một góc, thấy những vết giầy 
			có dính bùn rất rơ.  
			- Việc phát hiện này là phù hợp với gỉa thiết của ông, ông Bar ạ. Có 
			thể là tên hung thủ đă vào lâu đài sau 4 giờ chiều khi những 
			tấm rèm cửa sổ đă được buông xuống; và trước sáu giờ, khi cây cầu 
			được rút lên. Nó lẩn ngay vào đây, trốn đằng sau bức rèm này. 
			Rất có thể ư định của nó là vào ăn trộm, nhưng chẳng may ông Du-gia 
			lại bắt gặp nó, thế là nó giết ông ta và chạy trốn.  
			- Tôi cũng nghĩ gần giống như vậy. Nhưng ông có thấy rằng chúng ta 
			đă mất bao nhiêu thời giờ quí báu rồi không? Tại sao chúng 
			ta không kéo cả mọi người ra đi lùng sục khám xét khắp xung quanh, 
			trước khi hung thủ có thể trốn thoát được. - Bar đề nghị.  
			Viên thượng sĩ cắn môi suy nghĩ một lát:  
			- Không có chuyến tàu nào chạy trước sáu giờ sáng. Vậy nó không thế 
			trốn thoát đi bằng đường tàu hoả. Nếu nó đi đường bộ th́ 
			với cái quần ướt sũng, thế nào nó cũng bị người ta để ư. Nhưng dù 
			sao tôi cũng không thể rời khỏi đây được trước khi có người 
			đến thay tôi.  
			Vị bác sĩ lại cầm lấy cây đèn để khám lại tử thi một lần nữa. Ông 
			bỗng hỏi:  
			- Cái vết này là cái ǵ đây. Nó có liên quan ǵ đến vụ án này không?
			 
			Cánh tay áo bên phải của người chết đă được kéo lên khuỷu tay, ở 
			giữa cánh tay thấy nổi lên trên da h́nh màu nâu của một tam 
			giác nằm trong một ṿng tṛn.  
			Bác sĩ Wu nói:  
			- "Đây không phải là một vết xâm. Tôi coi bộ như ngựi này đă bị 
			đánh dấu bằng một cái khuôn nung đỏ, giống như người ta 
			đánh dấu đàn gia súc vậy." Bác sĩ nói thêm: "Thế này là thế nào?"
			 
			- Tôi không hiểu được. Có điều là từ mười năm nay, tôi đă nhiều lần 
			nh́n thấy cái dấu này trên tay ông Du-gia. - ông Bar nói.  
			- Tôi cũng thấy nhiều lần khi ông chủ xắn tay áo lên. - Anh đầu bếp 
			nói  
			- Nếu như vậy th́ nó không có dính dáng ǵ đến vụ án mạng này rồi. 
			Nhưng dù sao th́ nó cũng thật kỳ lạ. Trong vụ này không có 
			cái ǵ là b́nh thường cả. Tôi cũng không hiểu bây giờ c̣n xảy ra 
			những ǵ nữa đây - Viên thượng sĩ kết luận 
			Anh đầu bếp vừa thốt kêu lên kinh ngạc và chỉ vào bàn tay duỗi thẳng 
			của người chết, nói lắp bắp:  
			- Nó tháo mất chiếc nhẫn cưới của ông rồi.  
			- Cái ǵ?  
			- Ông chủ tôi đeo chiếc nhẫn bằng vàng ở bên trong một chiếc nhẫn 
			khác có gắn một hạt ngọc, chiếc nhẫn có hạt ngọc c̣n đây 
			nhưng chiếc nhẫn cưới th́ biến mất.  
			- Anh ấy nói đúng đấy. - Bar lên tiếng  
			- Ông vừa khai là chiếc nhẫn cưới đeo ở trong chiếc nhẫn có gắn 
			ngọc., - Viên thượng sĩ hỏi lại.  
			- Thưa vâng.  
			- Thế th́ hung thủ đă tháo chiếc nhẫn có ngọc ra, rồi sau đó nó mới 
			đoạt lấy chiếc nhẫn cưới, rồi lại đeo lại chiếc nhẫn có hạt ngọc 
			vào tay người chết.  
			- Như vậy đó.  
			Viên thượng sĩ lắc đầu lia lịa:  
			- Chúng ta hăy báo cáo tất cả về Luân Đôn. Ông Maso là một tay cừ 
			khôi. Chưa bao giờ có một vụ án nào làm ông phải lúng túng 
			cả. C̣n về phần tôi, tôi xin thú nhận là vụ này vượt quá sức hiểu 
			biết của tôi. 
			 
			Tối Ṃ  
			 
			Ông Maso trông có vẻ b́nh tĩnh và thoải mái. Ông mặc một bộ quần áo 
			vải tuưt rộng thùng th́nh, chân đi ghệt. Trông ông giống 
			như một ông chủ trại cỡ nhỏ, một người gác rừng đă về hưu, hơn là 
			giống một người đại diện cơ quan cảnh sát h́nh sự cấp tỉnh.  
			Ông không ngừng nhắc đi nhắc lại:  
			- Đây là một vụ án làm đau đầu đây, thưa ông Dona. Tôi mong rằng 
			chúng ta sẽ làm tốt được nhiều việc, trước khi bọn kư giả rúc 
			mũi vào cuộc điều tra làm hỏng hết các dấu vết. Có nhiều chi tiết có 
			lẽ sẽ làm ông vui ḷng., thưa ông Holmes. Cả đối với ông 
			cũng thế, thưa ông bác sĩ Watson. Buồng của các ông đă được đăng kư 
			trước ở khách sạn "Huy hiệu của Tây Thành". Thôi để bác 
			khuân vác trông coi hành lư và xin mời các ông vui ḷng đi theo tôi.
			 
			Chỉ sau 10 phút là chúng tôi đă có pḥng ở và 10 phút sau nữa, chúng 
			tôi đă ngồi cả trong pḥng khách của khách sạn. Ông Dona 
			giở sổ tay ra ghi. C̣n Holmes th́ có dáng điệu của một nhà thực vật 
			học vừa ngạc nhiên vừa ngắm nghiá một bông hoa. Sau khi 
			nghe xong câu chuyện, anh ta reo lên:  
			- Tuyệt. Thật là tuyệt. Chưa có một vụ nào kỳ lạ như vụ này.  
			Ông Maso hớn hở:  
			- Vâng, tôi đă tŕnh bày với các ông tất cả những ǵ mà thượng sỹ 
			Will báo cáo với tôi. Thượng sĩ đă nắm được hết mọi sự kiện.  
			Tôi đă có kiểm tra lại, suy nghĩ, và có bổ sung thêm chút ít.  
			- Thế ông có biết thêm điều ǵ mới nữa không? - Holmes hỏi.  
			- Trước hết, tôi xem xét chiếc búa, không t́m thấy một dấu vết ǵ 
			của bạo lực cả.  
			Ông thanh tra Dona lưu ư:  
			- Trong nhiều vụ án mạng, nạn nhân bị đập bằng búa, mà trên chiếc 
			búa có thấy dấu vết ǵ đâu.  
			- Đúng như vậy. Sau đó tôi xem xét đến khẩu súng. Súng được lắp đạn 
			ghém, hai c̣ súng được buộc với nhau, chỉ cần bóp c̣ th́ 
			cả hai viên đạn ở hai ṇng để nổ một lúc. Ṇng súng bị cưa ngắn đi, 
			như vậy có thể dễ dàng mang nó theo dưới một áo khoác.  
			Toàn bộ tên của nhà sản xuất th́ không thấy có, nhưng trên những 
			đường góc giữa hai ṇng súng thấy c̣n lại chữ "PEN", các 
			chữ khác th́ bị cưa đi mất rồi.  
			Holmes hỏi luôn.  
			- Một chữ P hoa có vẽ hoa lá bên trên, và một chữ E, một chữ N nhỏ 
			hơn có phải không ạ?  
			- Đúng đấy ạ.  
			- Hăng sản xuất súng Mỹ tên là "Pennsyl-vania Small arm Company"  
			Ông Maso nh́n Holmes với cặp mắt của một ông thầy thuốc nông thôn 
			nh́n một đại chuyên gia trong ngành y tế.  
			- Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, đúng là một khẩu súng Mỹ rồi. Tôi có 
			đọc đâu đấy rằng súng săn cưa ṇng, chính là một loại vũ khí 
			thường dùng trong một số vùng nào đó ở bên Mỹ. Như vậy có rất nhiều 
			khả năng là cái tên đă lọt vào trong lâu đài và đă giết ông 
			chỉ nhà là ngướ Mỹ.  
			Ông Dona gật gù:  
			- Ông đi mau quá đấy, tôi chưa có chứng cớ ǵ để tin rằng có một kẻ 
			lạ mặt đă lọt vào trong này.  
			- Cửa sổ mở toang, vết máu trên thành cửa, mẩu b́a cứng, vết giày ở 
			góc nhà, khẩu súng...  
			- Mấy thứ đó chẳng có cái ǵ mà không bố trí trước được? Ông Du-gia 
			vốn là một người Mỹ, ông Bar cũng thế, vậy th́ đâu nhất 
			thiết phải đưa một người Mỹ khác từ ngoài lọt vào để giải thích 
			những chi tiết Mỹ đó.  
			- Am, người đầu bếp...  
			- Anh ta có đáng tin cậy không?  
			- Anh ta đă ở với gia đ́nh Du-gia từ 5 năm nay. Anh ta chưa hề trông 
			thấy khẩu súng này trong nhà.  
			- Khẩu súng này không phải là thứ đem trưng bày cho mọi người thấy. 
			Chính v́ thế người ta mới đem cưa ṇng của nó đi. Nó có 
			thể đem cất giấu vào bất cứ một cái hộp nào. Làm sao anh Am lại có 
			thể đoán chắc được rằng trong nhà không có một khẩu súng 
			loại này.  
			- Nhưng dù sao th́ tôi cũng chưa trông thấy nó bao giờ.  
			Dona vẫn lắc đầu không chịu:  
			- Tôi vẫn chưa tin là có một người lạ mặt vào đây. Tôi xin các ông 
			hăy thử suy nghĩ xem hậu quả sẽ như thế nào khi giả thiết rằng 
			khẩu súng này là do một người từ bên ngoài mang vào và người này đă 
			hành động như các ông vừa nói.  
			Holmes lấy cái giọng rất "chánh án" chỉ Dona, nói:  
			- Ông Dona, toà nghe lời khai của ông.  
			- Hung thủ không phải là một tên ăn trộm tầm thường. Chuyện chiếc 
			nhẫn và mẩu b́a cứng đă chứng tỏ rằng đây là một vụ giết 
			người có âm mưu, v́ một lư do cá nhân nào đó mà ta chưa rơ.  
			- "Vậy hung thủ đă lẩn vào trong nhà với ư định gây ra một vụ án". 
			Maso nói. "Hắn biết sẽ gặp khó khăn khi muốn thoát ra v́ lâu 
			đài được bao bọc bởi một đường hào đầy nước. Vậy th́ hắn sẽ chọn thứ 
			vũ khí ǵ? Chắc các vị sẽ trả lời tôi: Một vũ khí thầm lặng. 
			Dùng vũ khí đó, th́ sau khi gây ra án mạng, hắn có thể hy vọng chui 
			nhanh qua cửa sổ, lội qua con hào rồi b́nh tĩnh chạy trốn. 
			Như vậy, th́ tôi có thể chấp nhận được, C̣n nói hắn chọn một khẩu 
			súng, trong khi hắn biết tiếng nổ sẽ làm cho mọi người trong 
			nhà đổ xô đến và hắn sẽ bị phát hiện trưóc khi lội qua con hào. Liệu 
			luận cứ này có lư không, thưa ông Holmes".  
			Anh bạn tôi suy nghĩ một lát rồi đáp:  
			- Tất nhiên là ông đă tŕnh bày sự việc một cách không thể căi được. 
			Nhưng mà phải có chứng minh. Tôi xin phép được hỏi ông 
			Maso, không biết ông có xem xét ngay bờ bên kia của đường hào để t́m 
			dấu vết của một người từ dưới nưóc lội lên không?  
			- ở đó không có một dấu vết nào. Bờ bên kia xây bằng đá, thành ra 
			cũng khó thấy.  
			- Không có một cái vết, không có một dấu in nào, không có ǵ cả hay 
			sao?  
			- Tuyệt đối không.  
			- A, thế nếu bây giờ tất cả chúng ta cùng đi ngay ra đấy xem lại.
			 
			- Tôi cũng định đề nghị như vậy. Nhưng có lẽ tốt hơn cả, tôi thông 
			báo hết mọi chuyện để ông nắm trước khi ra đấy.  
			Maso nh́n Holmes, không tin tưởng ǵ lắm.  
			Ông thanh tra Dona nói:  
			- Tôi đă có làm việc với ông Holmes và ông đă chịu vào cuộc với 
			chúng ta rồi.  
			Holmes cười tủm tỉm:  
			- Tôi vào cuộc nhưng với quan niệm riêng của tôi về cách chơi. Tôi 
			có chú ư đến một vụ nào cũng cốt là để giúp đỡ công lư và 
			công việc của cảnh sát mà thôi. Nếu tôi có đứng ngoài cơ quan cảnh 
			sát th́ cũng chỉ v́ cơ quan này gạt tôi ra ngoài. Nói rơ như thế 
			rồi, tôi đ̣i hỏi quyền được làm việc theo những phương pháp riêng và 
			khi nào thấy có thể được, tôi sẽ xin thông báo với ông 
			những kết quả toàn bộ làm một lần, chứ không phải từng phần một.  
			Ông Maso nói:  
			- Chúng tôi rất hân hạnh về sự có mặt của ông, bác sĩ Watson, chúng 
			tôi hy vọng rằng sau này chúng tôi sẽ được ông dành cho 
			một chỗ trong những tác phẩm của ông.  
			Chúng tôi đi xuôi xuống một con đường làng giữa hai hàng cây dương 
			đă hớt ngọn. ở phía dưới hai cây cột bằng đá phủ rêu c̣n 
			dấu vết của con sư tử đá ngày xưa. Sau một khúc quẹo gấp cuối cùng, 
			chúng tôi trông thấy toà nhà cổ thấp xây bằng gạch cũ. Toà 
			lâu đài đă qua ba thế kỷ, chứng kiến biết bao sự ra đời, bao lần đi 
			xa trở về tổ ấm, bao nhiêu cuộc khiêu vũ, bao nhiêu cuộc hẹn 
			ḥ. Nay những bức tường cổ kính này lại phải chứng kiến một tấn thảm 
			kịch thương tâm.  
			Maso chỉ cho chúng tôi:  
			- Đó, cửa sổ đó. Cái cửa ở ngay bên phải sát cây cầu rút. Nó được mở 
			toang ra đúng như trong đêm hôm qua.  
			- Nó hẹp quá, làm sao một người chui qua được.  
			- Tên hung thủ chắc không mập lắm. Ông và tôi, chúng ta đều chui qua 
			được một cách dễ dàng.  
			Holmes đi tới con hào, xem xét băi cỏ cùng bờ đá. Maso nhắc lại:  
			- Tôi đă xem kĩ lắm rồi, không có bất cứ một dấu vết ǵ chứng tỏ có 
			một người từ dưới nước đi lên.  
			- Ở đây cứ luôn đục bùn thế này?  
			- Thường th́ nước có màu này. Gịng nước sông đưa phù sa vào.  
			- Nó sâu bao nhiêu.  
			- Ở gần bờ th́ khoảng 60 phân, c̣n giữa th́ một thước.  
			- Như vậy chúng ta có thể loại bỏ giả thiết là hắn bị chết đuối khi 
			lội qua hào.  
			- Trẻ con cũng không chết đuối.  
			Chúng tôi bước qua chiếc cầu rút và một nhân vật xương xẩu ra mở cửa 
			cho chúng tôi: Đó là Am. Anh chàng vẫn c̣n run rẩy.  
			Thượng sĩ ngồi cạnh trong căn pḥng xảy ra án mạng.  
			Ông bác sĩ Wu đă về.  
			Ông Maso hỏi:  
			- Có ǵ mới không, thượng sĩ Will?  
			- Thưa ông, không có ǵ.  
			- Thế th́ anh có thể về nhà. Khi nào cần anh, sẽ báo sau. Anh bảo 
			anh đầu bếp hăy đi báo cho ông Bar, bà Du-gia và bà hầu 
			pḥng rằng chúng tôi cần gặp họ. Bây giờ, tôi xin tŕnh bày quan 
			điểm riêng của tôi, sau đó các ông sẽ nói lên quan điểm của các 
			ông...  
			Cái ông cảnh sát ở tỉnh nhỏ này coi bộ mới đàng hoàng làm sao. Ông 
			ta nắm rất vững mọi sự kiện và có một bộ óc sáng suốt, lạnh
			lùng, nhất định ông ta sẽ tiến rất xa về nghề nghiệp. Holmes nghe 
			ông ta nói một cách chăm chú.  
			-... Đây là một vụ tự sát? Hay là một vụ ám sát? Nếu đây là một vụ 
			tự sát th́ chúng ta phải tin rằng người nay bắt đầu tháo chiếc 
			nhẫn cưới của ḿnh ra, đem giấu đi./ Rồi người đó đi xuống đây, đặt 
			đôi giày có dính bùn vào đằng sau bức rèm cửa để làm cho 
			người ta tưởng là có ai đứng đợi ở đó, sau đó mở toang cửa sổ ra, 
			bôi máu lên thành...  
			Ông Dona cắt ngang:  
			- Chúng ta có thể gạt bỏ giả thiết này.  
			- Vậy th́ đă xảy ra một án mạng. Chúng ta phải t́m xem hung thủ là 
			người trong nhà hay từ ngoài vào.  
			- Chúng tôi xin nghe lập luận của ông.  
			- Trong cả hai trường hợp đó, chúng ta đều vấp phải những khó khăn 
			to lớn. Nhưng không thể có một giả thiết thứ ba. Chỉ một
			trong hai giả thiết đó thôi. Trước hết chúng ta hăy giả thiết: hung 
			thủ là người ở ngay trong lâu đài này. Chúng đă hạ ông Du-gia 
			trong một thời điểm mà tất cả mọi sự đều yên tĩnh, nhưng chưa ai ngủ 
			cả.  
			Mặt khác, chúng đă gây án mạng bằng một vũ khí lạ nhất và ầm ĩ nhất, 
			để sau đó mọi người đều biết. Một vũ khí mà trước đó, 
			chưa ai nh́n thấy ở trong nhà. Như vậy thật cũng khó tin quá.  
			- Vâng khó tin thật.  
			- Tất cả mọi lời khai đều khớp với sự kiện này. Sau khi báo động, 
			chỉ chưa đầy một phút, th́ mọi người đă có mặt ở hiện trường. 
			Như vậy th́ liệu các ông có tin được rằng trong một khoảng thời gian 
			rất ngắn mà hung thủ đă làm rất nhiều việc: in các dấu chân 
			trong góc nhà, mở cửa sổ, làm vấy máu lên thành cửa, rút chiếc nhẫn 
			cưới ra rồi lại gắn vào....  
			Holmes tán thành:  
			- Ông đặt vấn đề một cách rất rơ ràng.Tôi ngả theo quan điểm của 
			ông.  
			- Như vậy, chúng ta bắt buộc phải trở lại giả thiết do một người ở 
			ngoài gây ra. Tên sát nhân đă lọt vào nhà trong khoảng thời gian 
			từ 4 giờ rưỡi đến 6 giờ chiều. Hôm đó có tiếp khách, cửa mở rộng, 
			nên không có ǵ ngăn được nó. Cũng có thể nó chỉ là một tên 
			ăn trộm tầm thường thôi. Cũng có thể nó là một người có hận thù 
			riêng ǵ với ông Du-gia. Nó đă chui vào căn pḥng này và đă 
			trốn ở đằng sau bức rèm cửa. Nó đứng ở đó đến quá 11 giờ đêm. Vào 
			giờ này ông Du-gia bước vào pḥng. Cuộc đối thoại với tên 
			sát nhân rất ngắn ngủi, v́ bà Du-gia khai rằng chồng bà mới đi xuống 
			chừng vài phút thôi là bà đă nghe thấy tiếng súng.  
			- Cây nến cũng phù hợp với điều đó. - Holmes nói.  
			- Đồng ư. Cây nến c̣n mới, chỉ cháy khoảng 1 phân rưỡi, chắc ông ta 
			đă đặt nó lên bản trước khi bị tấn công; nếu không, nó đă 
			rơi xuống đất khi ông ta ngă. Điều này cũng chứng tỏ là ông ta không 
			bị tấn công ngay khi vừa bước vào pḥng.  
			- Tất cả đều rơ ràng.  
			- Bây giờ chúng ta có thể h́nh dung lại diễn biến của vụ án.: Ông 
			Du-gia bước vào pḥng, đặt cây nến lên bàn. Một người từ sau 
			bức rèm hiện ra. Hắn có mang cây súng. Hắn đ̣i chiếc nhẫn cưới. Ông 
			Du-gia đưa nhẫn cho hắn. Thế là hắn bắn ông Du-gia v́ 
			ông này đă vớ được cái búa để trên thảm. Hắn bỏ rơi khẩu súng xuống, 
			và cả mẩu b́a cứng có mang chữ "TLV 341". Rồi hắn 
			chạy trốn qua cửa sổ và lội qua hào giữa lúc ông Bar phát hiện ra vụ 
			án mạng. Ông nghĩ thế nào ông Holmes?  
			- Rất hay, nhưng chưa thuyết phục được người nghe.  
			Ông Dona kêu lên:  
			- Ông bạn thân mến, tôi sẽ chứng minh cho ông thấy là nó sẽ hành 
			động theo một cách khác. Tại sao nó dám dùng một khẩu súng 
			sau khi nó biết rằng muốn thoát ra th́ phải dùng một vũ khí thầm 
			lặng. Nào, ông Holmes bây giờ xin ông cho biết ư kiến.  
			Holmes hết liếc mắt từ phải qua trái rồi từ trái sang phải. Anh đứng 
			dậy, đến quỳ bên xác chết.  
			- Tôi muốn có thêm một vài sự kiện bổ xung, trước khi đi vào một giả 
			thiết, thưa ông Dona. Những vết thương này thật là khủng 
			khiếp. Chúng ta có thể cho anh đầu bếp vào đây một lát được không, 
			các ông... Anh Am, tôi chắc rằng anh đă được nh́n thấy 
			nhiều lần cái h́nh rất ḱ lạ này, một tam giác trong một đường tṛn, 
			áp bằng sắt nung đỏ lên cẳng tay của ông Du-gia phải không?  
			- Vâng, thưa ông, nhiều lần ạ.  
			- Anh có bao giờ nghe thấy một lời nói nào có thể giải thích được ư 
			nghĩa của cái dấu ấy không?  
			- Thưa ông, không.  
			- Chắc lúc mới áp vào phải đau đớn lắm đấ., Rơ ràng là một vết bỏng. 
			Này anh Am, bây giờ tôi trông thấy một miếng băng dính ở 
			dưới cằm ông Du-gia. Anh có nhận thấy không?  
			- Thưa ông có ạ. Sáng hôm qua, ông ấy đă bị đứt khi cạo mặt.  
			- Ông ấy có hay bị đứt như vậy khi cạo mặt không?  
			- Thưa ông, hầu như không.  
			- Rất hay. Tất nhiên đây chỉ là một sự ngẫu nhiên thôi. Nếu không, 
			nó chứng tỏ ông ta đang lo lắng về một mối nguy hiểm nào đó. 
			Anh Am, ngày hôm qua anh có nhận thấy có một cái ǵ đó khác thường 
			trong sinh hoạt của ông chủ không?  
			- Ông chủ tôi có hơi bồn chồn và cáu gắt.  
			- À, thế th́. H́nh như chúng ta đă tiến thêm được vài bước. Ông 
			Dona, ông có muốn đích thân hỏi thêm ǵ nữa không?  
			- Không, xin nhường cho những người cao minh hơn.  
			- Vậy th́ chúng ta quay sang mẩu b́a "TVL 341". Đây là một loại b́a 
			"TLV 341". Đây là một loại b́a tồi, ở trong nhà có thứ b́a 
			nào giống thế này không?  
			- Thưa ông, không ạ.  
			Holmes đi lại bên bàn giấy, lấy mỗi lọ mực, đổ vài giọt lên giấy 
			thấm.  
			- Những chữ này không phải viết ở đây rồi. Viết bằng mực đen, c̣n 
			mực ở đây màu đỏ gạch, vả lại viết bằng một ngó bút to nét, 
			c̣n những ng̣i bút ở đây đều nhỏ nét cả.  
			- Không, những chữ này đă được viết ở nơi khác rồi. Anh Am, anh có 
			cho rằng những chữ này có ư nghĩa ǵ không?  
			- Thưa ông, tôi không biết.  
			- Ông nghĩ thế nào, ông Dona?  
			- Nó làm tôi nghĩ đến một hội kín. Cái dấu ở trên cánh tay kia cũng 
			thế.  
			- Tôi cũng nghĩ như vậy. - Ông Maso lên tiếng.  
			- Chúng ta chọn giả thiết đó. Một thành viên của một hội kín lọt vào 
			trong lâu đài, chờ ông Du-gia và bắn vỡ sọ ông ta, rồi trốn ra 
			bằng đường hào, sau khi đă vứt lại bên cạnh nạn nhân một mẩu b́a 
			cứng có ghi những chữ mà khi báo chí đăng lên sẽ báo tin cho 
			các thành viên khác của hội biết rằng việc trả thù đă hoàn thành. 
			Tất cả mọi cái đều khớp.  
			- Nhưng tại sao lại dùng súng, mà không dùng bất cứ vũ khí nào khác?
			 
			- Đúng thế.  
			- Và tại sao chiếc nhẫn cưới lại biến mất?  
			- Đồng ư.  
			- Tại sao người ta lại chưa bắt được người nào? Bây giờ là 14 giờ 
			rồi, tôi chắc rằng từ rạng đông đến giờ tất cả cảnh sát đang truy
			lùng một người lạ mặc quần áo ướt và lấm bùn.  
			- Vâng, ông không nhầm, ông Holmes ạ.  
			- Nếu hắn không có một nơi ẩn nấp ở gần đây, và nếu hắn không thay 
			được quần áo, th́ cảnh sát không để lọt lưới. ấy vậy mà cho 
			đến giờ này, hắn đă lọt lưới thật....  
			Holmes đi lại phía cửa sổ, và rút chiếc kính lúp ra, xem xét vết máu 
			trên thành cửa.  
			- Đúng là vết in của một bàn chân. To hơn b́nh thường. Phải nói là 
			giống như một bàn chân phẳng. Một điều ḱ lạ khác nữa: Cái 
			vết chân dính bùn ở góc nhà kia lại có vẻ b́nh thường hơn vết này. 
			Nói cho ngay ra, th́ tất cả đều mờ nhạt không rơ ràng. C̣n cái 
			ǵ ở dưới gầm chiếc bàn con thế kia?  
			- Những qủa tạ của ông Du-gia. - Am đáp.  
			- Chỉ thấy có một quả thôi, C̣n quả kia đâu?  
			- Thưa ông, tôi không biết. Có thể là chỉ có một quả thôi, Đă hàng 
			tháng nay tôi không nh́n xuống đó.  
			Holmes nói một cách trầm ngâm:  
			- Một quả tạ....  
			Một tiếng gơ cửa đă ngắt lời anh. Một người đàn ông cao lớn, mặt cạo 
			râu nhẵn nhụi, da rám nắng, trông thông minh, lanh lẹ bước 
			vào. Đó là Bar. Đôi mắt quen ra lệnh của ông ta đảo nh́n chúng tôi 
			một lượt.  
			- Tôi xin lỗi đă làm gián đoạn cuộc họp, nhưng tôi muốn báo các ông 
			một tin cuối cùng,  
			- Đă bắt được rồi ư?  
			- Chưa. Nhưng người ta đă t́m thấy chiếc xe đạp, hung thủ đă bỏ nó 
			lại. Chỉ cách cửa ngoài không đầy một trăm thước thôi.
			Mấy gia nhân cùng những người hiếu ḱ đang ngắm nghiá một chiếc xe 
			đạp mà người ta vừa lôi ở trong một bụi cây ra. Cái túi sau 
			yên xe đựng một chiếc cờ lê và một lọ dầu nhớt, nhưng không có một 
			chỉ dẫn nào về người chủ của nó. ông thanh tra thở dài, nói:  
			- Công việc sẽ đơn giản biết bao nếu xe này có mang biển số. Nhưng 
			chúng ta sẽ biết được ngay chủ nó mang xe từ đâu đến.  
			Nhưng mà, tại sao hắn lại vứt bỏ chiếc xe đạp? Làm thế, hắn không đi 
			xa được. Ông Holmes này, h́nh như chúng ta chưa có được 
			một tia sáng nào.  
			- Chính tôi cũng đang tự hỏi như vậy. - Holmes đáp. 
			 
			Những Nhân Vật Của Tấn Thảm Kịch  
			 
			Khi chúng tôi bước ra khỏi pḥng, ông Maso c̣n hỏi lại:  
			- Các ông đă xem kỹ căn pḥng này chưa?  
			- Hiện nay th́ đủ rồi. - ông thanh tra đáp.  
			Holmes cũng gật đầu đồng ư.  
			- Bây giờ th́ chắc các ông muốn nghe lời khai của một vài người ở 
			trong lâu đài này. Anh Am, chúng tôi sẽ làm việc ở trong 
			pḥng ăn. Trước hết, anh hăy cho chúng tôi nghe tất cả những ǵ mà 
			anh biết.  
			Câu chuyện của anh đầu bếp kể lại đă thuyết phục được người nghe. 
			Anh ta đă được nhận vào làm 5 năm trước đây, khi ông 
			Du-gia vừa đến ở Birlstone. Ông Du-gia là một người có của và đàng 
			hoàng, đă từng làm giầu trước đây ở bên Mỹ, ông tỏ ra là 
			một ông chủ tốt và hào phóng, ông Du-gia ra lệnh mỗi buổi chiều phải 
			kéo cây cầu lên là để nối tiếp lại một phong tục cũ của toà 
			lâu đài cổ này. Ông rất ít khi đi Luân Đôn, và cũng ít khi rời khỏi 
			làng. Nhưng một ngày, trước hôm xảy ra án mạng, ông đi lên 
			Tunbridge Wells để mua sắm một ít đồ vật. Ngày hôm sau, chính Am 
			nhận xét thấy ông Du-gia có vẻ hơi nóng nảy, cáu gắt và 
			điều này thật là khác thường. Lúc xảy ra án mạng, Am đang ở trong 
			bếp, đang cất dọn các đồ chén bát. Chính lúc đó anh nghe 
			tiếng kéo chuông thật mạnh, nhưng không nghe thấy tiếng súng nổ v́ 
			từ bếp lên đến căn pḥng ấy c̣n phải qua một dăy hành 
			lang dài và mấy lớp cửa đóng. Tiếng chuông quá mạnh cũng làm cho bà 
			hầu pḥng phải chạy ra, và hai người cùng chạy lên nhà 
			trên. Khi đến chân cầu thang, th́ bà Du-gia ở trên lầu đang đi 
			xuống. Không, bà ta không có dáng vội vàng. Và Am có cảm giác 
			là bà ta không bối rối. Khi bà Du-gia xuống đến bậc cầu thang cuối 
			cùng, th́ ông Bar từ trong pḥng chạy ra, ngăn bà lại và xin 
			bà trở lên. Ông ấy kêu lên:  
			- Chị hăy trở lên pḥng ngay đi. ảnh đă chết rồi. Chị lên đi.  
			Ông Bar phải nói măi bà Du-gia mới chịu lên pḥng. Bà không khóc. Bà 
			không làm ồn ào. Bà hầu pḥng A-len đă d́u bà lên và ở 
			trong pḥng với bà. Am và ông Bar lúc đó mới đi vào trong căn pḥng. 
			Bấy giờ ngọn nến khôngcháy, mà cây đèn lại cháy. Cả hai 
			người nh́n qua cửa sổ, nhưng đêm tối đen như mực, và không nghe thấy 
			ǵ cả. Họ đổ xô ra buồng ngoài và Am đă hạ cây cầu rút 
			xuống để ông Bar đi báo cảnh sát.  
			Lời khai của bà hầu pḥng A-len cũng khớp với lời khai của Am. Buồng 
			riêng của bà hầu pḥng ở gần phía nhà trên hơn là chỗ 
			bếp của Am. Bà đang đi ngủ, th́ nghe tiếng chuông kéo thật mạnh. Bà 
			có hơi nặng tai. Không biết có phải v́ thế mà bà không 
			nghe thấy tiếng súng chăng? Khi ông Am chạy lên nhà trên, th́ bà 
			cũng chạy theo ông ta. Bà có trong thấy ông Bar mặt bối rối từ 
			trong pḥng đi ra.Ông ta chạy đến trước mặt bà Du-gia lúc đó ở trên 
			cầu thang đi xuống. Ông ta năn nỉ mời bà Du-gia đi lên, và 
			bà ta có trả lời lại điều ǵ đó mà bà A-len nghe không rơ. Ông Bar 
			ra lệnh cho bà:  
			- Bà đưa bà chủ lên lầu đi. Và ở luôn đó với bà chủ.  
			Bà đưa bà chủ lên lầu về pḥng và cố khuyên bà chủ b́nh tĩnh lại. Bà 
			Du-gia, chân tay run bắn, nhưng cũng không muốn đi 
			xuống nữa. Bà mặc chiếc áo khoác, ngồi vào bên ḷ sưởi, hai tay ôm 
			lấy đầu. Bà A-len đă ở lại đó cả đêm với bà.  
			C̣n các gia nhân khác, th́ họ đều đi ngủ cả, và chỉ được báo động 
			trước lúc cảnh sát đến một chút thôi.  
			Đến lượt ông Bar. Về những sự kiện xảy ra đêm hôm qua, ông cũng khai 
			y như đă khai với thượng sĩ Will. Riêng ông, ông tin 
			rằng tên sát nhân đă trốn qua cửa sổ. Theo ông th́ vết máu ở trên 
			thành cửa sổ không cho phép người ta nhgi ngờ điều đó. Nhưng 
			ông ta không hiểu v́ sao hung thủ lại có thể biến đi được, hoặc tại 
			sao nó lại không chịu trốn bằng xe đạp, nếu chiếc xe ấy là của 
			nó.  
			Về vụ án mạng này, ông có thể có một quan điểm rất rơ ràng. Ông 
			Du-gia là người ái Nhĩ Lan di cư sang Mỹ từ thời c̣n thanh 
			niên, đă làm ăn phát đạt và Bar đă quen biết ông ta ở Cali. Hai 
			người chung vốn khai thác một cái mỏ, kết quả hết sức tốt đẹp. Đột
			nhiên Du-gia bán lại phần của ông ta và trở về Anh. Lúc đó Bar vừa 
			goá vợ. ít lâu sau, Bar chuyển hết tài sản ra thành tiền mặt rồi 
			về Luân Đôn, v́ thế hai người lại nối lại t́nh bạn cũ. Du-gia làm 
			cho Bar có cảm giác rằng có một mối nguy hiểm nào đó đang 
			treo trên đầu ḿnh, và Bar vẫn nghĩ rằng việc Du-gia đột ngột rời bỏ 
			Cali là có liên quan đến mối nguy hiểm đó. Bar tưởng tượng 
			một hội kín nào đó, có mối thù không đội trời chung với Du-gia. 
			Chính một vài câu nói của Du-gia đă làm nẩy nở ư nghĩ này trong 
			đầu Bar, chứ bản thân Bar th́ chưa bao giờ hỏi ǵ về cái hội kín 
			này. Bar đoán rằng những chữ viết trên mẩu b́a cứng là có liên 
			quan đến hội kín.  
			Ông thanh tra Dona hỏi:  
			- Ông đă sống với ông Du-gia trong bao lâu ở Cali?  
			- Khoảng 5 năm.  
			- Lúc đó Du-gia sống độc thân?  
			- Goá vợ.  
			- Bà vợ thứ nhất của Du-gia là người nước nào?  
			- Thuỵ Điển. Tôi có thấy ảnh của bà ta. Đó là một phụ nữ rất đẹp, 
			chết trước khi chúng tôi quen nhau một năm.  
			- Liệu ông có thể xác định được quá khứ của bà ta ở một vùng nào cụ 
			thẻ bên Mỹ không?  
			- Du-gia có nói với tôi là ở Chicago. Ông ta biết rất rơ thành phố 
			này và đă làm việc ở đó, Ông ta cũng có nói với tôi về những 
			vùng mỏ khai thác than và sắt.  
			- Ông Du-gia có làm chính trị không? Cái hội kín này có mục đích 
			chính trị không?  
			- Không. Ông ấy không bao giờ để ư đến chính trị.  
			- Ông có nghĩ rằng đây là một cái hội phạm pháp không?  
			- Tuyệt đối không. Tôi chưa thấy một người nào lại thẳng thắn và dứt 
			khoát như ông Du-gia.  
			- Ông có thể cho chúng tôi biết những chi tiết ǵ đặc biệt về cuộc 
			đời của Du-gia ở Cali được không?  
			- Lúc đó ông ta sống ru rú trong khu mỏ và chỉ đi đến những nơi đông 
			người khi nào đặc biệt lắm mà thôi. Khi ông ta đột ngột bỏ 
			về Châu Âu, th́ một tuần lễ sau có sáu người đến t́m ông ta.  
			- Loại người như thế nào?  
			- Những người trông có vẻ bất trị lắm. Họ kéo nhau đên khu mỏ và 
			muốn biết Du-gia đang ở đâu. Tôi nói là ông ta đă trở về Châu 
			Âu và tôi không biết địa chỉ.  
			- Họ là người Mỹ? Người Cali?  
			- Cali th́ tôi không biết. Nhưng người Mỹ th́ chắc chắn rồi, không 
			phải là dân thợ mỏ.  
			- Cách đây có đến sáu năm không?  
			- Gần bẩy năm.  
			- Thế mà hai ông đă sống với nhau 5 năm ở Cali. Vậy th́ cái vụ hội 
			kín này phải cách đây ít nhất đến 11 năm.  
			- Đúng thế.  
			- Một mối thù dai dẳng.  
			- Tôi nghĩ rằng mối thù này lúc nào cũng lởn vởn trong đầu ông ta.
			 
			- Khi một người cảm thấy ḿnh bị đe doạ, th́ người đó phải nhờ cảnh 
			sát bảo vệ chứ?  
			- Có thể đây là một mối nguy hiểm mà các cơ quan cảnh sát không làm 
			ǵ được cũng nên, Nhưng có một điều này các ông cần 
			phải biết: ông Du-gia không khi nào đi ra ngoài lại không mang vũ 
			khí. Nhưng hôm qua ông ấy lại mặc chiếc áo khoác ở nhà, và 
			để súng ở trong buồng. Có lẽ v́ thấy chiếc cầu rút đă kéo lên, nên 
			ông ta cho thế là an toàn chăng?  
			Ông Dona hỏi thêm:  
			- Ông Du-gia đă rời Cali đă sáu năm rồi. Đến năm sau th́ ông cũng bỏ 
			đi nốt phải không?  
			- Vâng, đúng thế.  
			- Ông ta lấy vợ khác từ năm năm nay. Vậy th́ ông trở về Anh vào lúc 
			ông ta cưới vợ chứ?  
			- Một tháng trước ngày cưới. Tôi là người làm chứng của ông ta.  
			- Thế ông có quen biết bà Du-gia trước khi cưới không?  
			- Không. Tôi đă rời khỏi nước Anh từ mười năm rồi.  
			- Nhưng từ đó đến nay ông đă gặp bà ta nhiều lần rồi chứ?  
			Bar nh́n ông thanh tra một cách hết sức nghiêm trang:  
			- Tôi đă gặp ông ta nhiều lần, từ ngày cưới đến giờ. C̣n nếu tôi có 
			gặp bà ta đi nữa th́ bới v́ không thể ở trong nhà một người mà 
			lại không biết đến vợ người đó. Nếu ông tưởng tượng rằng có một mối 
			liên quan nào đó....  
			- Tôi chẳng tưởng tượng ǵ cả. Tôi có nhiệm vụ phải t́m tất cả những 
			ǵ có thể liên quan đến vụ án. Nhưng tôi không muốn làm 
			mất ḷng ai.  
			Bar đáp lại một cách khô khốc:  
			- Có những cái t́m kiếm làm mất ḷng người khác đấy, ông thanh tra 
			à.  
			- Chúng tôi chỉ muốn có các sự kiện. Nếu những sự việc này được 
			tŕnh bày ra đây một cách sáng tỏ, th́ điều này chỉ có lợi cho 
			ông, cho mọi người. Ông Du-gia có hoàn toàn tán thành t́nh bạn của 
			ông đối với với vợ ông ta không?  
			Bar tái mặt, hai bàn tay nắm chặt vào nhau, nói to tiếng:  
			- Ông không có quyền hỏi tôi những câu như vậy. Việc này có liên 
			quan ǵ đến vụ án mà ông đang điều tra?  
			- Tôi có phải nhắc lại câu hỏi này không, thưa ông?  
			- Ông cứ nhắc lại, c̣n tôi, tôi không trả lời.  
			- Ông có thể không trả lời, nhưng ông phải biết chính cái việc từ 
			chối đă là một câu trả lời rồi. Bởi v́ ông sẽ chịu trả lời nếu ông
			không có điều ǵ dấu diếm.  
			Bar ngồi im lặng một lát, nét mặt căng thẳng. Rồi ông ta trở lại thư 
			thái hơn, nh́n chúng tôi mỉm cười:  
			- Thôi được, tôi thấy thật ra các ông cũng chỉ làm nhiệm vụ của ḿnh 
			thôi. Tôi muốn nói với các ông rằng Du-gia có một tính xấu 
			là hay ghen. Ông ta rất quí mến tôi, Và ông ta cũng quí vợ ông ta 
			lắm. Mỗi lần tôi đến đây, ông ta đều rất vui ḷng. Lâu tôi không 
			đến chơi là ông liền cho người đi gọi. Tuy vậy, khi ông thấy vợ ông 
			và tôi ngồi nói chuyện với nhau th́ ông ta nổi nóng đến mức 
			nói tôi chẳng ra ǵ nữa. Đă nhiều lần tôi thề rằng sẽ không đặt chân 
			đến đây nữa. Nhưng khi tôi hờn dỗi th́ ông ấy lại viết cho tôi 
			những bức thư rất dễ thương làm tôi không thể giận lâu hơn được nữa. 
			Và sau đây là lời nói cương quyết của tôi: Không có một 
			người phụ nữ nào lại yêu chồng và chung thuỷ như bà Du-gia.  
			Ông thanh tra Dona hỏi:  
			- Ông có biết chiếc nhẫn cưới của nạn nhân đă bị rút ra khỏi ngón 
			tay của người ấy không?  
			- H́nh như thế.  
			- Tại sao ông lại nói là "h́nh như thế". Ông biết rơ đây là một việc 
			có thật kia mà.  
			Bar có vẻ lúng túng:  
			- Khi tôi nói "h́nh như thế" là tôi muốn nói rằng cũng có thể chính 
			nạn nhân đă tự ḿnh rút chiếc nhẫn đó ra.  
			- Việc chiếc nhẫn cưới biến mất, đă gợi ư cho mọi người thấy rằng có 
			một mối liên quan nào đó giữa đám cưới của ông Du-gia và 
			vụ án này. Có phải không ông?  
			Bar nhún vai trả lời:  
			- Tôi sẽ không đi t́m xem nó gợi ư cái ǵ, nhưng nếu ông muốn ám chỉ 
			rằng việc đó làm tổn thương đến danh dự bà Du-gia th́.....  
			Hai mắt ông ta long lanh sáng quắc, và ông ta phải dùng tất cả nghị 
			lực để ḱm hăm xúc cảm.  
			-.... Th́ ông đă đi lầm đường rồi đấy, Có thế thôi.  
			Ông thanh tra Dona lạnh nhạt nói:  
			- Tạm thời bây ǵ tôi không có ǵ hỏi thêm ông nữa...  
			Holmes vội bác ngay:  
			- Xin ông một chi tiết nhỏ, thưa ông Bar. Khi ông bước vào trong 
			pḥng, th́ chỉ có một ngọn nến thắp để trên bàn, có phải hông?  
			- Vâng.  
			- Chính nhờ ánh sáng của ngọn nến đó mà ông đă trông thấy là có một 
			việc khủng khiếp vừa xảy ra,phải không?  
			- Đúng thế.  
			- Ông đă tức khắc kéo chuông ngay để báo động.  
			- Vâng.  
			- Và mọi người đă đổ ngay đến đấy chỉ sau một khoảng thời gian rất 
			ngắn, Có phải không?  
			- Chỉ sau không đầy một phút.  
			- ấy thế mà khi mọi người vào đây lại thấy ngọn nến được tắt đi và 
			ngọn đèn đă được thắp lên, như vậy có lạ lùng không ông?  
			Một lần nữa, Bar lại tỏ ra hơi lúng túng. Ông ta im lặng một lát rồi 
			mới trả lời:  
			- Thưa ông tôi không thấy có ǵ lạ lùng. Ngọn nến chiếu ánh sáng lu 
			mờ quá. ư nghĩ đầu tiên của tôi là phải có một ánh sáng tốt 
			hơn. Cái đèn lúc đó để trên bàn, tôi đă thắp nó lên.  
			- Và ông đă tắt ngọn nến đi.  
			- Vâng.  
			Holmes không hỏi thêm, và Bar - sau một cái nh́n thách thức về phía 
			mỗi người chúng tôi, đă rời căn pḥng đi ra.  
			Dona viết một mảnh giấy nhỏ báo cho bà Du-gia biết là ông sẽ lên gặp 
			bà, nhưng bà đă trả lời là bà sẽ xuống.  
			Đó là một phụ nữ khoảng 30 tuổi, cao lớn, rất đẹp, dáng điệu chín 
			chắn, và hết sức tự chủ, khác hẳn với h́nh ảnh một người bi 
			thảm và ră rời mà tôi h́nh dung ra trong đầu. Bà lần lượt nh́n chúng 
			tôi, với một biểu hiện ḍ hỏi. Rồi đôi mắt ḍ hỏi đó, nhường 
			chỗ cho một câu hỏi đột ngột:  
			- Các ông đă t́m ra ǵ chưa?  
			Trong giọng nói của bà chứa đựng sự sợ sệt nhiều hơn là niềm hy 
			vọng.  
			- Thưa bà, chúng tôi đă làm những việc cần làm. Xin bà cứ yên tâm. - 
			Dona trả lời.  
			- Xin các ông đừng ngại tốn kém tiền bạc. - bà Du-gia nói, giọng 
			thều thào.  
			- Không biết bà có đem lại cho chúng tôi một chút ít ánh sáng nào 
			không?  
			- Thưa, tôi sẵn sàng làm tất cả những ǵ mà các ông cần.  
			- Ông Bar cho biết rằng bà không bước chân vào căn pḥng xảy ra án 
			mạng.  
			- Vâng. Ông ta đă bắt tôi phải đi lên và trở về pḥng riêng.  
			- Bà nghe tiếng súng nổ, và bà đă tức khắc xuống ngay?  
			- Tôi mặc áo khoác ngoài và tôi chạy xuống.  
			- Từ lúc bà nghe tiếng nổ đến lúc ông Bar ngăn bà lại, mất khoảng 
			bao nhiêu.  
			- Có lẽ độ hai phút. Trong những lúc như vậy thật khó tính được thời 
			gian.  
			- Bà có thể dự tính được khoảng thời gian từ lúc chồng bà đi xuống 
			nhà đến lúc bà nghe tiếng súng nổ không?  
			- Thưa ông, chồng tôi đi từ buồng tắm ra nên tôi không nghe thấy 
			tiếng anh ấy đi xuống.  
			- Bà đă quen ông ấy ở Anh có phải không?  
			- Thưa vâng, đă 5 năm rồi.  
			- Bà có bao giờ nghe thấy ông ấy nói về một chuyện ǵ xảy ra ở bên 
			Mỹ và dự cảm về một mối nguy hiểm nào không?  
			Bà Du-gia suy nghĩ lung lắm trước khi trả lời. Măi một lúc sau bà 
			mới nói:  
			- Thưa có. Tôi vẫn có linh tính là có một sự nguy hiểm đe doạ chồng 
			tôi. Anh không chịu bàn luận ǵ với tôi về việc này cả, v́ anh 
			ấy chủ tâm tránh cho tôi mọi sự sợ hăi.  
			- Vậy làm sao bà lại biết được?  
			Nét mặt bà Du- gia hồng tươi hẳn lên trong một nụ cười:  
			- Tôi biết được bí mật này là nhờ vào nhiều dấu hiệu: v́ anh ấy 
			không chịu nói ǵ với tôi về một vài quăng đời của anh khi c̣n ở 
			bên Mỹ. V́ tôi thấy anh ấy có những biện pháp tự vệ riêng. V́ đôi 
			lúc anh ấy không kiềm chế được và nói lỡ vài lời. V́ thấy cái 
			cách anh ấy nh́n những người lạ mặt bất chợt đến đây. Tôi hoàn toàn 
			chắc chắn là anh ấy có những kẻ thù ghê gớm, mà anh ấy 
			cho là đang ḍ t́m tung tích của anh, và anh luôn luôn cảnh giác đề 
			pḥng.  
			- Ông ấy đă lỡ mồm nói ra điều ǵ làm bà phải chú ư. - Holmes hỏi.
			 
			- "Thung lũng khủng khiếp". Có một lần anh ấy dùng h́nh tượng này để 
			nói với tôi. Khi tôi thấy anh ấy nghiêm nghị hơn b́nh 
			thường, tôi có hỏi: "Có bao giờ chúng ta ra khỏi được cái "Thung 
			lũng khủng khiếp" ấy không? " Và anh ấy đă trả lời rằng: " Có
			lẽ chúng ta không bao giờ ra khỏi được".  
			- Tất nhiên là bà có hỏi ông nhà xem ông muốn nói ǵ bằng h́nh tượng 
			"Thung lũng khủng khiếp".  
			- Vâng, tôi có hỏi. Nhưng anh ấy sa sầm mặt lại và lắc đầu nói: "Cầu 
			trời cho cái bóng ấy không bao giờ phủ cả lên em nữa". Đó là
			cái thung lũng thực sự chứ không phải là một h́nh tượng. Anh ấy đă 
			sống ở đó và một sự khủng khiếp đă xảy ra có liên quan đến 
			anh.  
			- Thế ông ấy có nêu lên một người nào không?  
			- Cách đây ba năm, anh ấy bị sốt cao. Trong cơn mê, anh ấy luôn luôn 
			nhắc đến một tên người. Cái tên ấy là Ganh-ty trưởng toán.  
			Lúc anh ấy b́nh phục, tôi có hỏi trưởng toán Ganh-ty là ai. Anh ấy 
			cười trả lời: "Nhờ trời, nó chưa bao giờ làm trưởng cái toán của 
			anh". Nhưng chắc có một mối liên hệ nào đó giữa người trưởng toán đó 
			và thung lũng khủng khiếp.  
			Ông thanh tra Dona nói:  
			- Bà đă gặp ông Du-gia trong nhà trọ một gia đ́nh ở Luân Đôn và hai 
			ông bà đă hứa hôn với nhau cũng ở đó. Trong việc lập gia 
			đ́nh, có một yếu tố nào bí mật hay cần phải giữ kín không? Hay là 
			một yếu tố lăng mạn?  
			- Lăng mạn à? Vâng, thưa có. Bao giờ thfi cũng có yếu tố lăng mạn. 
			Không có cái ǵ là bí mật cả.  
			- Ông ấy có t́nh địch không?  
			- Thưa không. Lúc đó tôi hoàn toàn tự do.  
			- Việc mất chiếc nhẫn cưới, có gợi cho bà một ư nghĩ ǵ không? Nếu 
			kẻ thù cũ đă đến đây và ám hại ông, th́ có lư nào chúng lại 
			tháo chiếc nhẫn.  
			Trong một thoáng, tôi chợt thấy một cái ǵ đó như là một nụ cười rất 
			kín đáo trên đôi môi bà Du-gia. Bà ta b́nh tĩnh trả lời:  
			- Tôi tuyệt đối không hiểu ǵ cả. Thật là kỳ lạ.  
			Ông Thanh tra nói:  
			- Thưa bà, chúng tôi không giữ bà lâu hơn nữa và rất tiếc đă quấy 
			rầy bà. Tất nhiên c̣n một số điều nữa phải xem xét thêm, nhưng 
			chúng tôi sẽ xin kêu gọi sự giúp đỡ của bà khi nào cần thiết.  
			Bà ta đứng lên, và tôi lại bất chợt một lần nữa thấy đôi mắt sắc sảo 
			nh́n chúng tôi một cách ḍ hỏi. Rồi bước ra khỏi pḥng ăn.  
			Khi hai cánh cửa pḥng đă khép lại, ông thanh tra Dona khe khẽ nói 
			một cách trầm ngâm: "Một người đàn bà đẹp. Một người đàn 
			bà rất đẹp. Cái tay Bar này là một người được phụ nữ ưa thích. Cậu 
			ta công nhận rằng Du-gia có tính hay ghen. Biết đâu rằng cái 
			ghen này không phải là vô căn cứ. Rồi lại c̣n chuyện cái nhẫn cưới 
			nữa. Chúng ta không thể coi thường chi tiết ấy được. Một 
			người mà đă rút cái nhẫn cưới ra khỏi bàn tay của một xác chết. Ông 
			nghĩ thế nào, ông Holmes".  
			Holmes ngồi yên lặng, hai tay ôm đầu. Anh đứng dậy ra giật chuông, 
			và khi người đầu bếp vào, anh hỏi:  
			- Anh Am, ông Bar hiện giờ ở đâu?  
			- Thưa ông, để tôi đi xem.  
			Một lát sau, anh ta trở lại báo cáo ông Bar hiện đang ở ngoài vườn.
			 
			- Anh Am, anh cố nhớ lại xem, đêm hôm qua khi anh vào gặp ông Bar 
			th́ ông ta đi ǵ ở chân?  
			- Ông ta đi giày vải. Tôi đă mang giày da đến cho ông ta thay để đi 
			báo cảnh sát.  
			- Thế đôi giày vải ấy bây giờ ở đâu rồi?  
			- Dưới gầm ghế ở pḥng ngoài.  
			- Rất tốt, việc phân biệt giữa những vết chân của ông Bar và của một 
			người ở ngoài là rất quan trọng chứ? Anh có đồng ư không.  
			- Thưa ông, vâng, tôi nhận thấy các vết chân của ông Bar đều đầy dấu 
			máu. Nhưng cả những vết chân của tôi cũng thế.  
			- Đó là điều b́nh thường, nếu căn cứ vào t́nh trạng căn buồng lúc 
			đó. Chúng tôi lại sẽ gọi chuông khi nào cần đến anh.  
			Vài phút sau chúng tôi đă trở lại căn buồng có án mạng. Holmes đă 
			nhặt mang theo đôi giày vải để ở buồng ngoài, đôi giày đỏ 
			ḷm máu.  
			Holmes cầm đôi giày ra đứng trước cửa sổ chăm chú xem xét, vừa xem 
			vừa nói khẽ một ḿnh.  
			- Kỳ cục. Thực là kỳ cục.  
			Anh ta nhẹ nhàng cúi xuống và đặt chiếc giày cải lên vết máu trên 
			khung thành cửa sổ: KHớp đúng như in. Anh ta mỉm cười, nh́n 
			mọi người.  
			Ông thanh tra bối rối đến cực độ, hét lên như người điên:  
			- Chính tay Bar này đă in dấu ǵay trên thành cửa sổ. Nó rộng hơn 
			một dấu chân b́nh thường. Tôi nhớ rằng ông đă có nói đây là 
			một bàn chân phẳng. Bây giờ mới hiểu tại sao. Nhưng này ông Holmes, 
			thế hắn định chơi cái tṛ ǵ đây?  
			Holmes cũng nhắc lại một cách trầm ngâm:  
			- Vâng, vâng. Tṛ ǵ nào?  
			Maso tủm tỉm cười: xoa măi hai bàn tay vào nhau với một niềm vui 
			thích hoàn toàn có tính cách nghề nghiệp:  
			- Tôi đă báo trước cho các ngài biết mà. Gay go hóc búa lắm chứ có 
			phải chơi đâu. 
			 
			 
			 
			 
  |