Tấn Thảm Kịch Của Tàu Korosko Pages  1  2  3  Next   
                                     - Arthur Conan Doyle

Chương 1:

Có lẽ công chúng sẽ tự hỏi tại sao các báo chí không bao giờ kể lại câu chuyện những hành khách trên tàu Korosko. Ở vào một thời đại như thời đại của chúng ta, khi mà các hăng thông tin, báo chí nh́n soi mói vào khắp vũ trụ để t́m ṭi những chuyện giật gân, thật không thể tin được là sự bí ẩn đă che đậy được lâu như vậy một sự cố quốc tế có tầm quan trọng như thế. Ta đành phải nói rằng sự kín tiếng này đă có cơ sở trên những lư do hết sức giá trị, cả về mặt chính trị lẫn về mặt riêng tư. Tuy nhiên, một số người nào đó đă biết rơ các sự việc, một lập luận của những người này đă xuất hiện ngay cả trong một nhật báo tỉnh lẻ và nó đă lôi theo ngay tức th́ một bài cải chính. Bây giờ đây là những sự việc được ghi chép dưới dạng một bài thuật sự. Sự chính xác của chúng được bảo đảm bởi những lời khai báo được đưa ra qua sự tuyên thệ của đại tá Cochrane Cochrane, thuộc câu lạc bộ Lục quân và Hải quân, bởi các lá thư của cô Adams, ở Boston, Mass, cũng như bởi lời khai chúng thu lượm được trong quá tŕnh điều tra mật của chính phủ được thực hiện ở Le Caire với đại úy Archer, và những lính cưỡi lạc đà người Ai Cập. Ông James Stephens đă khước từ việc thông báo cho chúng tôi lập luận về sự vụ của ông ấy trên giấy trắng mực đen; nhưng v́ các bản in thử của tập sách này đă được gửi cho ông ấy xem, v́ ông ấy đă không đưa ra một sự đính chính hay xóa bỏ nào, chúng tôi có quyền giả thiết là ông ấy đă không nêu ra được một sự sai trái cụ thể nào, và những sự phản kháng của ông ấy đối với sự công bố của chúng tôi đă xuất phát phần lớn từ những sự thận trọng, áy náy riêng tư.

Tàu Korosko có một cái bụng ch́m dưới nước h́nh mai rùa, mũi tàu ph́nh ra, phần lái tàu tṛn, tầm nước là tám mươi cen-ti-mét và trắc diện bằng một cái bàn là (bàn ủi). Ngày 13 tháng 2 năm l895, nó nhổ neo từ Shellal, ở gần thác nước thứ nhất, để đi tới Quadi-Halfa. Tôi có được bản danh sách những hành khách của chiếc tàu tuần dương này; đây là bản danh sách đó:

Đại tá Cochrane Cochrane _ Luân đôn

Ông Cecil Brown __________ Luân đôn

John H Headingly _________ Boston, Hoa kỳ

Cô Adams _________________ Boston, Hoa kỳ

Cô S. Adams ______________ Worcester, Mass, Hoa kỳ

Ông Fardet _______________ Paris

Ông và Bà Belmont ________ Dublin

James Stephens ___________ Manchester

Giáo sĩ John Stuart ______ Birmingham

Bà Shlesinger,cô vú em và 1 đứa nhỏ __ Florence

Đó là những du khách khởi hành từ Shellal, với ư

định là đi ba trăm ba mươi cây số ngược ḍng sông Nil của nước Nubie, quăng sông ngăn cách thác nước thứ nhất và thác nước thứ hai.

Nước Nubie này, một xứ sở kỳ lạ! Chiều ngang của nó thay đổi trong khoảng vài cây số và vài mét, v́ cái tên của nó chỉ được dùng cho một dải đất hẹp cầy cấy được. Với một màu xanh lục, không có bề dày và với những cây cọ mọc bao quanh, nó chạy dài ở mỗi bên của con sông rộng màu cà phê. Ở tít xa kia, trên bờ thuộc nước Libye, là chỗ khởi đầu của sa mạc hoang dă chạy dài trên suốt bề ngang của Châu Phi. Trên bờ bên kia, một phong cảnh cũng hoang vu như vậy tỏa rộng ra tới măi Hồng Hải xa xôi. Nằm vào giữa hai miền mênh mông cằn cỗi này, nước Nubie trải dài ra dọc theo con sông như một con giun đất xanh ŕ. Ở nhiều chỗ nó bị đứt đoạn: tại đó sông Nil chảy vào giữa, những ḥn núi đen x́ và rạn nứt v́ trời nắng; những đụn cát di động màu cam là vật để trang trí cho các thung lũng. Ở khắp nơi người ta phát hiện ra các dấu vết của những giống người đă mất tích và những nền văn minh đă bị ch́m ngập. Những ngôi mộ kỳ dị in dấu trên các sườn đồi hoặc nổi bật lên trước chân trời; các Kim Tự Tháp, những mộ xây bằng đá, những khối đá dùng làm mộ chí, nhưng ở khắp mọi nơi, toàn là mồ mả. Nơi này, nơi nọ, khi con tàu đi ṿng quanh một mũi đất có nhiều núi, người ta nh́n thấy ở trên đỉnh cao một thành phố bỏ hoang, những cái nhà, những bức tường thành, những bờ lũy; ánh nắng xuyên qua các cửa sổ hoặc các lỗ hổng vuông. Người ta biết rằng thành phố đă được xây dựng bởi người La-mă, hoặc bởi người Ai Cập; có điều là tên nó và nguồn gốc của nó đă bị mất đi không c̣n cứu văn được. Người ta thấy sửng sốt; người ta tự hỏi tại sao một giống người, dù họ là giống người nào đi nữa, lại đi xây dựng trong một cảnh hoang vắng thô lỗ như thế này. Người ta phải chấp nhận một cách khó khăn, cái thuyết theo đó th́ các kiến trúc này không có mục đích nào khác hơn là bảo vệ lối vào vùng đồng bằng ph́ nhiêu chống lại bọn đạo tặc và bọn man rợ ở miền Nam. Nhưng dù sao th́ chúng vẫn c̣n đứng nguyên, những thành thị im ĺm và dữ tợn này; và ở đỉnh các ngọn núi, ta có thể nh́n thấy những nấm mộ ở đó các cư dân của chúng đă được chôn cất, nh́n từ xa chúng giống như những cửa sổ nhỏ của một chiếc thiết giáp hạm. Đó là miền bí ẩn, không sinh khí mà những du khách đi ngược ḍng sông tới biên giới Ai Cập đă đi qua trong lúc vừa hút thuốc, vừa nói chuyện dông dài, vừa tán tỉnh nhau.

Những hành khách trên tàu Korosko đă rất ăn ư với nhau. Họ đă tất cả cùng nhau đi gần hết đoạn đường từ Le Caire tới Assouan; sông Nil có khả năng làm xúc động được tất cả mọi thứ lănh đạm kể cả thứ bền bỉ nhất: sự lănh đạm của dân Anh. Họ đă có một dịp may bất ngờ: nhóm họ đă không có một kẻ tính nết khó chịu, một kẻ mà ở trên một con tàu nhỏ cũng đủ làm hỏng sự vui thích của mọi người. Trên một chiếc tàu chỉ quan trọng hơn chiếc tàu phụ lớn đôi chút th́ một kẻ quấy rầy, một kẻ trơ tráo, một kẻ càu nhàu làm mưa làm gió với tất cả hành khách. May mắn thay chiếc Korosko đă không chở trên tàu một người nào giống như một kẻ quấy rầy cả. Đại tá Cochrane Cochrane, một trong các sĩ quan mà chính phủ Anh, đúng như qui luật, đă tuyên bố là không có khả năng trong ngành hiện dịch ở một độ tuổi nào đó, và đă chứng tỏ giá trị của qui luật bằng cách cống hiến phần c̣n lại của đời họ để đi thám hiểm nước Maroc hay đi săn bắn sư tử ở Somalie. Nước da nâu, đứng rất ngay ngắn, ông đại tá đă tự ư biểu hiện lối xă giao lễ độ, nhưng cái nh́n của ông có vẻ lạnh lùng của một nhiệm vụ điều tra; rất kỹ càng trong lối ăn mặc, chính xác trong các thói quen, ông là một người quí phái tới tận đầu móng tay. Thực hành sự chán ghét của người Anh đối với việc thổ lộ tâm t́nh, ông đă tự giới hạn ḿnh trong một sự thận trọng mà thoạt nh́n có vẻ như sự lănh đạm thờ ơ, nhưng đôi khi ông thấy khó chịu phải che dấu ḷng tốt và những t́nh cảm của con người là những thứ có ảnh hưởng tới các hành động của ông. Đối với những bạn đồng hành của ông, ông đă gợi lên nhiều sự tôn kính hơn là ḷng cảm mến; thật sự tất cả mọi người đều có cảm tưởng rằng ông không phải là người để cho sự liên hệ trong một chuyến tàu nảy sinh ra thành t́nh bạn. Tuy nhiên, một khi đă được đồng ư th́ t́nh bạn này sẽ trở thành một bộ phận của bản thân ông. Râu mép ông đă lốm đốm bạc, trông rất ra vẻ nhà binh, nhưng ông giữ được mái tóc đen một cách khác thường ở vào tuổi ông. Trong khi tṛ chuyện không bao giờ ông nhắc tới rất nhiều chiến dịch trong đó ông đă tỏ ra xuất sắc; ông giải thích sự kín đáo này bằng cách nói rằng chúng đă diễn ra từ hồi khởi đầu kỷ nguyên của Nữ hoàng Victoria, và ông đă hiến tế sự vinh quang về binh nghiệp của ông lên bàn thờ của thời thanh xuân bất diệt của ông.

Ông Cecil Brown (tôi lấy các danh tính theo thứ tự của bản danh sách) là một nhà ngoại giao trẻ tuổi thuộc về một ṭa đại sứ ở trên lục địa; chưa hoàn toàn đoạn tuyệt hẳn với phong thái ở Oxford, ông đă phạm phải chút ít lỗi lầm v́ sự tỉ mỉ thái quá, nhưng sự nói chuyện của ông th́ rất thú vị và chứng tỏ một tŕnh độ văn hóa vững chắc. Ông có một bộ mặt xinh đẹp, buồn bă, một bộ ria mép nhỏ mà ông bôi sáp một cách kỹ càng ở các đầu chót, một giọng nói trầm trầm, và một sự lơi là về tâm tính mà một lối mỉm cười duyên dáng đủ đền bù lại mỗi khi ông đi quá trớn trong tính t́nh kỳ lạ của ông. Ông đă cố gắng kiềm chế những nhiệt t́nh ấu trĩ rất tự nhiên của ông bằng một sự hoài nghi có tính cách đùa cợt; trong trạng huống này ông bất chấp sự thật hiển nhiên để nói ra những ư nghĩ làm phật ḷng người vừa mới gặp. Trong chuyến du hành, ông đă mang theo những sách của Walter Pater, và suốt cả ngày ông ngồi lại trong căn lều vải với một cuốn tiểu thuyết và một cuốn tập vẽ để bên ḿnh, trên một cái ghế đẩu. Tư cách riêng của ông đă không cho phép ông tán tỉnh làm quen với những người khác, nhưng nếu các bạn đường của ông muốn tới nói chuyện với ông, th́ ông tỏ ra vừa lịch sự, vừa khả ái.

Những người Mỹ đă lập thành một nhóm riêng biệt. Vốn quê quán ở Nowvelle-angletrre và tốt nghiệp tại Harvard (một đại học danh tiếng ở Mỹ), John H Headingly bổ sung sự học vấn của ḿnh bằng cuộc du lịch thế giới. Ông đă tượng trưng một cách toàn hảo cho người thanh niên Mỹ, sinh động, có đầu óc quan sát, nghiêm túc, thèm khát sự hiểu biết, và gần như không bị các thành kiến trói buộc, sôi động với một t́nh cảm đẹp đẽ về tôn giáo, không một chút đầu óc bè phái hẹp ḥi, ông giữ đầu óc lạnh lùng ở giữa những cơn giông tố th́nh ĺnh của tuổi thanh xuân. Ông có vẻ kém trí thức hơn nhà ngoại giao của Oxford, nhưng thật sự ra ông c̣n trí thức hơn nữa, v́ những cảm xúc sâu sắc hơn của ông đă bù lại cho những kiến thức ít phần chính xác. Cô Adams là cô của cô Sadie Adams : một người con gái già ở Boston, nhỏ bé, đầy nghị lực, với bộ mặt khó thương, cô đă đè nén một cách khó khăn sự tŕu mến lớn lao chưa bao giờ được dùng tới; đây là lần đầu tiên cô rời khỏi nước Mỹ, và trong tất cả các nhiệm vụ có một nhiệm vụ làm cô say mê, kéo Đông - Phương lên ngang hàng với Massa Chusetts. Vừa mới đặt chân lên đất Ai Cập, cô đă thấy rằng nước này cần được khai hóa; cô lo lắng về chuyện này một cách nóng nảy. Những con lừa lưng bị tróc da, những con chó đói, những con ruồi bám quanh mắt lũ trẻ nhỏ, những đứa bé trần truồng, những kẻ hành khất quấy rầy, những người đàn bà quần áo tả tơi, tất cả đều như thách thức lương tâm cô; do đó cô đă dũng cảm lao ḿnh vào một công cuộc cải cách. Tuy nhiên v́ cô không nói được một chữ của ngôn ngữ bản xứ. và v́ cô không thể làm cho người ta hiểu được cô, nên chuyến đi ngược ḍng sông Nil của cô đă để Đông - Phương ở lại gần như trong t́nh trạng mà cô đă phát hiện ra nó, nhưng ngược lại đă cung cấp cho các bạn đồng hành của cô nhiều đề tài để vui đùa. Cháu gái Sadie của cô, người đă cùng chia sẻ với bà Belmont danh dự là nữ hành khách được ưa chuộng nhất trên tàu Korosko, không phải là người cuối cùng thích bông đùa giải khuây về chuyện này. Rất trẻ, vừa mới rời khỏi trường Smith College, cô c̣n giữ được phần lớn những tính tốt và tính xấu của tuổi ấu thơ, cô có một sự thành thật và một niềm tin hơi ngây thơ, sự ngay thẳng ngây thơ, sự dũng cảm, và cả tính nói nhiều và sự bất kính của lứa tuổi cô, nhưng ngay các tính xấu này cũng làm người ta vui thích, càng vui thích hơn khi mà cô con gái cao lớn và xinh đẹp này có vẻ già hơn là tuổi tác thật sự của cô, v́ những lon tóc thấp viền quanh tai cô và những đường nét no đầy của thân ḿnh cô. Tiếng xột xoạt của váy cô, giọng nói cương quyết và thành thật, tiếng cười vui tai của cô bao giờ cũng được hoan nghênh trên tàu Korosko. Ông đại tá biểu lộ tính lịch sự hào hiệp với cô, và nhà ngoại giao của Oxford thôi không c̣n hoa mĩ ḷe loẹt khi cô Sadie Adams ngồi bên cạnh ông.

Chúng tôi sẽ nói ngắn gọn hơn về những hành khách khác. Có vài người tỏ ta đặc sắc hơn những người khác, nhưng tất cả bọn họ đều đứng đắn và có tư cách đàng hoàng. Ông Fardet, một người Pháp hiền ḥa mặc dầu có tính hay tranh luận, chủ tŕ những định kiến liên quan tới các mưu đồ chính trị của nước Anh, và sự bất hợp pháp của vị thế của nước này tại Ai Cập. Ông Belmont, một người Ái-nhĩ-lan khỏe mạnh với mái tóc hoa râm, là người đă thắng hầu hết các cuộc thi bắn súng ở Wimbledon và Bisky; ông mang theo bà vợ, một người đầy sức quyến rũ và đài các, rất tao nhă, và vui vẻ một cách tế nhị như tính t́nh mọi người dân ở Ái Nhĩ Lan. Bà Shlesinger, một goá phụ ở độ tuổi trung b́nh, hiền ḥa và nhu ḿ, người chỉ chăm chú vào đứa con sáu tuổi của ḿnh. Giáo sĩ John Stuart là một vị mục sư phi quốc giáo ở Birmingham, thuộc trưởng lăo giáo phái hay tự trị giáo đoàn. Ông được tạo hóa phú cho một sự ph́ nộn đáng nể kèm theo một sự chậm chạp lề mề; ông cũng có một cái vốn hài hước giản dị, mà theo những tin tức tôi được biết, đă làm cho ông trở thành một nhà truyền giáo thành công và một diễn giả hữu hiệu khi ông nói trên các diễn đài cực cấp tiến, mặc dù ông bị bệnh suyễn.

Sau hết là ông James Stephens một luật sư ở Manchester (một người trong số các cộng sự viên của hăng Hickson, Ward và Stephens), người đi du lịch để làm tiêu tan hết các hậu quả của một bệnh cúm tệ hại. Stephens là người tự thân lập thân, ông đă bắt đầu từ việc lau rửa những ḥn gạch vuông của công ty trước khi điều khiển công việc, trong ba mươi năm trời, ông đă tận tụy với một công việc khô khan, chuyên môn, và ông chỉ sống để làm vừa ḷng những thân chủ cũ và lố kéo những thân chủ mới. Tinh thần và linh hồn ông đều thấm nhuần chủ nghĩa h́nh thức và sự nghiêm ngặt của luật pháp mà ông có nhiệm vụ phải giải thích. Tuy vậy tính t́nh của ông cũng không thiếu sự cao cả và ḷng trắc ẩn; nhưng các đức tính này đă bắt đầu tàn úa, cũng như tất cả các tính tốt của con người đă tàn úa ở chốn thị thành. Ông làm việc theo thói quen, và sống độc thân, ông không quan tâm tới một điều ǵ khác; tâm hồn ông đă chai ĺ, giống như thân ḿnh một vị nữ tu thời Trung Cổ đôi khi ngẫu nhiên ông bị đau ốm, tạo hóa đă xô đẩy, tống xuất ông ra khỏi nơi ẩn náu của ông, và ném ông vào thế giới bao la, xa cách Manchester và cái thư viện đầy những chứng điển, tiền lệ được đóng bằng da bê. Lúc đầu ông rất nhớ tiếc cái thư viện đó. Rồi dần dà mắt ông được mở rộng, và ông cảm thấy một cách mơ hồ rằng công việc của ông quá tầm thường bên cạnh cái vũ trụ kỳ diệu, đa dạng, không thể giải thích được này, mà ông đă không biết ǵ tới. Ngay cả có lúc ông đă tự hỏi liệu cái lúc ngưng nghỉ này trong nghề nghiệp của ông có thể tỏ ra quan trọng hơn chính bản thân nghề nghiệp của ông không. Những lợi ích mới tràn ngập ḷng ông, và vị luật gia gần năm mươi tuổi này cảm thấy trong ông bùng lên những ngọn lửa cuối cùng của một thủơ thanh xuân mà việc đọc quá nhiều sách vở đă làm tắc nghẹt. Ông rất ương bướng không chịu nh́n nhận rằng các phong cách của ông lúc nào cũng khô khan, khúc chiết và ông đă dùng một ngôn ngữ hơi mô phạm. Tuy nhiên ông đẵ đọc, đă suy ngẫm và nhận xét; ông gạch ngang dưới hàng chữ và ghi chú sách của Bredeker, cũng như thời trước ông đă gạch ngang dưới hàng và ghi chú các sách về luật của ông. Ông đă lên tàu ở Le Caire, và ông đă kết thân với cô Adams và cháu gái cô ấy. Lối nói năng thành thật và sự mạnh dạn của cô thiếu nữ Mỹ làm ông thích thú; để đáp lại, Sadie đă dành cho ông sự kết hợp của ḷng tôn trọng và ḷng thương do các kiến thức và các sự giới hạn của ông. Thế là họ trở thành những người bạn thân, và người ta mỉm cười khi nh́n thấy bộ mặt u ám của vị luật sư và khuôn mặt rạng rỡ của cô thiếu nữ cúi xuống trên cùng một quyển sách chỉ nam.

Con tàu Korosko nhỏ bé chạy ngược ḍng sông Nil trong khi tung lên những luồng khói và bọt nước. Với năm hải lư một giờ, nó đă gây ra nhiều tiếng ồn và nhiều trắc trở hơn là một con tàu xuyên Đại Tây Dương lúc ganh đua giành kỷ lục. Trên boong tàu, dưới tấm lều vải dày, cái tiểu gia đ́nh của các hành khách ngồi ở đó, thường thường là sau vài giờ đồng hồ, con tàu tấp vào bờ để cho hành khách thăm viếng một loạt các đền đài mới thấy. Nhưng các cảnh hoang tàn đă trở nên mỗi lúc mỗi kém cổ kính đi, những du khách là những người đă được thỏa măn ở Gizeh và Sakara khi ngắm nghía những đền đài cổ xưa nhất được con người xây dựng lên, đă bắt đầu chán nản với những ngôi đền mới có nhiều lắm là vào lúc khởi đầu kỷ nguyên cơ đốc giáo. Ở Ai Cập, người ta khó t́m ra những cảnh hoang tàn mà ở bất cứ nước nào khác đă là một nơi được sự sùng bái lạ thường. Do đó các du khách chỉ có những cái nh́n uể oải dành cho nghệ thuật nửa phần Hy Lạp của những h́nh chạm nổi ở Nubie; họ leo lên chóp đỉnh của tàu Korosko để xem cảnh mặt trời mọc trên sa mạc hoang vu của Đông Phương; họ đồng t́nh cảm phục ngôi đền lớn Abon-Simbel, v́ một chủng tộc cổ xưa đă đào vào một quả núi như đào một cục phô mai vậy. Sau cùng, buổi chiều của ngày thứ tư trong cuộc du hành, họ tới Quadi-Halfa, thành phố biên thùy, với vài giờ chậm trễ gây ra bởi một sự trục trặc nhỏ trong các máy móc. Quadi-Halfa cũng là một thành phố có quân trú pḥng. Sáng hôm sau, họ phải đi du ngoạn trên núi Abousir lừng danh, ở đó người ta có được một cái nh́n tuyệt mĩ trên

thác nước thứ hai. Lúc tám giờ rưỡi, khi các hành khách đang ngồi trên boong sau bữa ăn tối, th́ Mansoor, người thông ngôn, một người Syrie lai ở Copte, đi tới để loan báo, như mỗi buổi tối, chương tŕnh của ngày hôm sau.

Anh ta nói :

- Thưa các quí bà và các quí ông, ngày mai xin quí vị chớ quên thức dậy vào tiếng kẻng đầu tiên để cho cuộc du ngoạn được kết thúc vào buổi trưa. Khi chúng ta tới chỗ những con lừa đang chờ đợi chúng ta th́ chúng ta sẽ cưỡi chúng để đi sâu vào sa mạc tám cây số; chúng ta sẽ đi qua trước một ngôi đền của Ammonra, đă có từ triều đại thứ mười tám, rồi chúng ta sẽ tới núi Abousir mà sự lừng danh là độc nhất vô nhị. Khi quí vị tới nơi, quí vị sẽ thấy rằng quí vị đang ở chỗ ranh giới của nền văn minh, ngoài ra, đi thêm vài cây số xa hơn nữa, quí vị sẽ thấy ḿnh ở trong xứ sở của các tu sĩ Hồi giáo; quí vị sẽ rơ điều này khi quí vị lên tới ngọn núi cao. Từ trên đó, quí vị sẽ thấy rơ thác nước thứ hai trong một khung cảnh gồm đủ mọi vẻ đẹp hoang dại của thiên nhiên. Tất cả các danh nhân trên thế giới đều đă khắc tên tuổi họ trên đá; vậy xin quí vị đừng bỏ qua nghi lễ này...

Mansoor chờ đợi một tiếng cười nhỏ bị ḱm hăm lại; anh ta nghiêng ḿnh khi nghe thấy tiếng cười.

-...Quí vị sẽ trở lại Quadi-Hafta sau đó, ở đó quí vị sẽ trải qua hai giờ với đàn quân lạc đà; quí vị sẽ dự khán sự trải lông các con vật, quí vị sẽ đi một ṿng ở hiệu tạp phẩm. Tôi kính chúc quí vị một đêm vui vẻ và tốt đẹp.

Những cái răng trắng ởn của anh ta lóng lánh trước ánh đèn; rồi cái quần dài sậm màu, cái áo vét ngắn may theo kiểu ăng-lê và cái khăn bịt đầu đỏ của anh ta nối tiếp nhau mà biến dạng ở chân cầu thang. Tiếng ŕ rầm nói chuyện, mà sự xuất hiện của anh ta đă làm gián đoạn, lại tiếp nối rôm rả hơn.

CÔ Sadie Adams nói:

- Ông Stephens ạ, tôi trông cậy vào ông để biết được mọi thứ ở Abousir. Tôi rất thích biết rơ vật mà tôi nh́n khi tôi đang nh́n nó, chớ không phải sáu giờ sau đó trong pḥng của tôi trên tàu. Chẳng hạn, tôi đă không nhớ được bao nhiêu về Abon-simbel và những bức bích họa, mặc dù ḥm qua tôi đă nh́n thấy chúng.

"Tôi th́ không bao giờ hy vọng biết được chuyện ǵ" bà cô của nàng nói. "Khi tôi trở về b́nh an vô sự trong Đại lộ Commonwealth, và khi không c̣n anh thông ngôn nào để xô đẩy tôi, tôi sẽ có nhiều th́ giờ để đọc sách, lúc đó tôi có thể say mê và mong muốn trở lại nơi này. Nhưng ông Stephens ạ, ông thật sự rất đáng yêu khi đă cố gắng cung cấp các tài liệu cho chúng tôi".

"Tôi nghĩ rằng bà và cô muốn có vài tin tức chính xác v́ vậy tôi đă soạn thảo cho bà và cô một bản tóm tắt nhỏ" Stephens trả lời và đưa cho Sadie một tờ giấy.

Nàng liếc mắt nh́n vào tờ giấy dưới ánh sáng của ngọn đèn trên boong tàu và tiếng cười trẻ trung của nàng lan ra thành một tràng cười lớn.

Nàng đọc.

- Re Abousir! Này ông hiểu từ Re là cái ǵ hả ông Stephens? Ông đă viết "Re Ramses II" trên tờ giấy cuối cùng mà ông đă đưa cho tôi mà!

Stephens nói.

- Cô Sadie ạ, đó là một thói quen mà tôi mắc phải. Một tục lệ trong nghề nghiệp mà tôi làm khi người ta viết một giác thư.

- Một cái ǵ hở ông Stephens?

- Một giác thư... Một bị vong lục, nếu cô thích vậy. Chúng tôi viết Re này hay Re nọ, để chỉ ra vật ǵ mà chúng tôi nói tới. "Tôi cũng muốn tin rằng đó là một phương pháp tốt", Sadie nói, "Nhưng đối với tôi nó có vẻ hơi lạ, khi nó được áp dụng vào các phong cảnh hay vào các vị hoàng đế Ai Cập Re Cheops... Ông không thấy như thế là buồn cười à?"

- Không, tôi không thể nói là tôi thấy nó buồn cười.

Cô thiếu nữ nói lẩm bẩm:

- Tôi tự hỏi có phải người Anh có ít tinh thần hài hước hơn người Mỹ không, hoặc có phải đó là một dạng hài hước khác chăng?

Nàng có một lối phát biểu ư kiến trầm tĩnh, trừu tượng, nàng cho người ta một cảm tưởng là nàng suy tưởng rất cao xa.

-...Tôi tin rằng họ có ít tính hài hước hơn, nhưng khi người ta suy nghĩ kỹ th́ Dickens, Thackeray, Barrie và một số các nhà văn hài hước khác mà chúng ta cảm phục đều là người Anh. Hơn nữa, ở rạp hát, tôi chưa từng bao giờ nghe một công chúng cười lớn hơn là công chúng ở Luân Đôn. Nghe đây: chúng tôi có ở đằng sau chúng tôi một khán giả mà mỗi lúc ông ta cười đă gây ra một luồng không khí mạnh đến nỗi cô tôi phải quay lại để nh́n xem có phải một cái cửa đă bị để ngỏ không. Nhưng ông đă sử dụng một vài thành ngữ buồn cười đấy, ông Stephens ạ!

- Cô Sadie, cô c̣n thấy cái ǵ buồn cười nữa?

- Này nhé, khi ông gởi cho tôi cái vé vào thăm ngôi đền và tấm thiệp nhỏ ông đă khởi đầu lá thư: "Kèm theo đây, xin vui ḷng t́m ra...". Và ở cuối lá thư, ông đă ghi giữa hai ngoặc đơn "Hai tấm vé đính liền nhau".

- Thưa cô, đó là những công thức hiện hành trong các việc giao dịch.

"Trong các việc giao dịch!", Sadie nhắc lại, giả bộ làm ra vẻ nghiêm trọng.

Một sư yên lặng đột ngột.

"Có một điều mà tôi mong muốn!" cô Adams dơng dạc nói với một dạng cứng cỏi và lanh lảnh để che dấu trái tim hiền dịu của cô. "Đó là việc được gặp Quốc hội của nước này và được tŕnh bày với họ một số sự việc. Một đạo luật bắt buộc việc sử dụng thuốc đau mắt nước sẽ là một trong các kiến nghị của tôi. Một kiến nghị nữa là hủy bỏ những thứ mạng che mặt mày, là thứ đă biến đổi các phụ nữ thành những kiện bông có dùi lỗ để làm hai mắt"

Sadie nói :

- Tôi không hiểu tại sao họ lại đeo mạng che mặt. Cho tới ngày mà tôi thấy được một người kéo mạng che mặt của cô ta lên. Lúc đó th́ tôi đă hiểu!

Cô Adams bực bội kêu lên.

- Họ làm tôi mệt mỏi, những người phụ nữ này! Cũng như truyền giảng về nghĩa vụ, về phép lịch sự và về sự thanh khiết cho một khúc gỗ vậy! C̣n nhớ không, ông Stephens mới hôm qua thôi ở Abou-simbel, tôi đi qua trước một trong các căn nhà của họ (nếu ông có thể gọi là căn nhà cái đống bùn đó); tôi thấy hai đứa bé con trên bậc cửa với một đống ruồi thường lệ chung quanh hai mắt chúng, và những lỗ thủng lớn trên những cái áo dài nhỏ bé, nghèo nàn, màu xanh của chúng! Tôi từ trên con lừa tụt xuống; tôi xắn tay áo lên; tôi lấy khăn mùi xoa lau mặt cho chúng; tôi khâu lại áo cho chúng. Trong xứ sở này, khi lên khỏi tàu giá để tôi mang theo một hộp đồ may vá chắc c̣n tốt hơn là mang theo một cái dù trắng, ông Stephens ạ! Thế là tôi phấn khởi với công việc và tôi đi vào trong nhà. Cái nhà mới tệ làm sao! Tôi lùa những người ở trong đó ra ngoài và tôi dọn dẹp như một cô đầy tớ. Tôi đă không c̣n nh́n thấy đền Abou-Simbel như là tôi đă chưa bao giờ rời khỏi Boston. Ngược lại, tôi đă trông thấy nhiều bụi bặm và cáu bẩn trong một căn nhà lớn như một cái buồng tắm ở New York, hơn là trong bất kỳ một căn hộ nào ở Mỹ. Giữa cái khoảnh khắc mà tôi xắn tay áo lên với cái khoảnh khắc mà tôi ra đi, với bộ mặt đen như đám khói này, đă không mất hơn một giờ đồng hồ; có lẽ tối đa là một tiếng rưỡi! Nhưng tôi đă để lại cái nhà này sạch sẽ cũng như một cái hộp mới. Tôi có mang theo một tờ báo New York Herald tôi trải nó lên trên cái kệ của họ. Và này, ông Stephens, tôi đi rửa tay ở bên ngoài, và khi tôi trở vào, lũ trẻ con vẫn c̣n những con mắt bám đầy ruồi, và chúng không thay đổi ǵ cả, trừ việc mỗi đứa đội trên đầu một cái mũ nhỏ của lính sen đầm làm bằng tờ báo New York Herald của tôi. Nhưng Sadie này, sắp mười giờ rồi, và cuộc du ngoạn ngày mai khởi hành sớm đó!

"Thật là tuyệt đẹp, bầu trời đỏ tía và những ngôi sao lớn bàng bạc!" Sadie lẩm bẩm nói "Hăy nh́n băi sa mạc im ĺm, và những bóng đen của các ngọn núi. Thật là đáng sợ!" Nhưng cũng khủng khiếp nữa. Khi người ta nghĩ rằng chúng ta đang thật sự ở chỗ ŕa của nền văn minh, như anh thông ngôn vừa mới nói, không có ǵ khác hơn là sự man rợ và máu chảy tràn trề ở nơi xa kia mà cḥm sao chữ thập chiếu sáng một cách quá đẹp này; người ta có cảm tưởng là đang đứng trong thế thăng bằng trên miệng một ngọn núi lửa!"

"Suỵt, Sadie! con ơi, chớ có nói nhảm nhí!" người cô kêu lên. "Con có thể gây ra mối lo sợ cho những ai nghe thấy con nói đó".

- Nhưng cô ơi, chính cô không cảm thấy điều đó à? Hăy nh́n băi sa mạc lớn này, nó biến mất trong đêm tối mịt mù. Cô hăy nghe tiếng ś sào buồn bă của cơn gió đang thổi bên trén! Cháu chưa bao giờ nh́n thấy một quang cảnh thiêng liêng hơn!

- Cô lấy làm sung sướng là sau cùng chúng ta đă t́m thấy một điều ǵ làm cho cháu trở nên trang nghiêm, cháu thân mến ạ! Đôi khi cô nghĩ... nhân danh những người c̣n sống, điều đó là ǵ vậy?

Từ một nơi nào đó giữa các bóng đen của những ngọn núi, ở phía bên kia mặt nước, một tiếng kêu sắc nhọn vang lên. Tiếng kêu vút lên trên bầu trời đầy sao, và chấm dứt bằng sự tắt nghẹn đi trong một thứ rên rỉ ai oán.

"Đó chỉ là một con chó rừng, cô Adams ạ" Stephens giải thích. "Tôi đă nghe thấy một con chó rừng kêu như vậy khi chúng tôi đi xem tượng Sphinx dưới ánh trăng sáng.

Nhưng cô gái Mỹ đă đứng lên, nét mặt cô biểu lộ một sự bối rối sâu đậm.

Cô nói.

- Nếu có một chuyến du lịch nữa, cô sẽ không xuống quá phía bên kia Assouan. Cô không biết cái ǵ đă xui khiến cô đưa cháu đến tận nơi này, Sadie ạ, mẹ cháu sẽ nghĩ rằng cô đă hoàn toàn điên rồ, và nếu có một sự cố rắc rối nào xảy ra th́ chắc không bao giờ cô c̣n dám nh́n thấy mặt mẹ cháu nữa. Cô đă nh́n thấy trên con sông này tất cả những ǵ mà cô muốn nh́n; cô muốn quay trở về Le Caire ngay.

Sadie phản đối:

- Ô ḱa. cô ơi! Nhút nhát như vậy thật chẳng giống cô một chút nào!

- Sadie này, cô không biết cô có những tính ǵ, nếu không phải là những dây thần kinh bị căng thẳng, và cái con thú kêu meo meo ở đằng kia là quá lắm rồi. Cô tự an ủi khi nghĩ rằng ngày mai chúng ta sẽ quay về sau khi xem ngọn núi này hoặc ngôi đền này, cô không biết hơn nữa. Cô đă chán ngấy với núi non và đền đài rồi. Ông Stephens ơi! Tôi sẽ rất sung sướng nếu tôi không nh́n thấy thêm một trái núi, một ngôi đền nào nữa trong suốt đời tôi. Lại đây, Sadie! Chúc ngủ ngon!

- Chúc ngủ ngon! Chúc ngủ ngon, Cô Adams!

Bà cô và người cháu gái trở về pḥng của họ.

Ông Fardet thầm th́ to nhỏ nói chuyện văn với Headingly, chàng thanh niên vừa tốt nghiệp ở Harvard giữa hai hơi thuốc lá, ông cúi khom người xuống để giải bày tâm sự với ông ta.

"Những tu sĩ Hồi giáo à, ông Headingly?" ông nói với một thứ tiếng Anh tuyệt hảo, nhưng thường tách rời các vần như phần lớn những người Pháp. "Nhưng không có các tu sĩ Hồi giáo đâu. Những tu sĩ Hồi giáo không hiện hữu mà!".

Ông người Mũ trả lời:

- Tôi th́ tôi tin rằng sa mạc đầy rẫy các tu sĩ Hồi giáo đó. Ông Fardet ném một cái nh́n xéo tới chỗ mà đóm lửa đỏ của điếu x́ gà của đại tá Cochrane đang lập ḷe trong bóng tối mù mịt. Ông nói lẩm bẩm.

- Ông là người Mỹ, và ông không thích người Anh. Tất cả mọi người trên lục địa đều biết rằng người Mỹ hận thù người Anh.

- "Thú thật" Headingly nói với một giọng thong thả và chín chắn.

"Tôi không chối căi là chúng tôi đă có những xích mích nhỏ, và một số người trong các đồng bào của tôi nhất là những người gốc gác Ái Nhĩ Lan, là những người bài Anh một cách điên cuồng; tuy nhiên đại đa số người Mỹ không nghĩ một điều ǵ xấu về mẫu quốc. Đôi khi những người Anh có thể làm chúng tôi tức giận, nhưng họ là người trong gia đ́nh chúng tôi, không bao giờ chúng tôi quên điều đó."

Ông người Pháp nói:

- Cho là thế đi! Ít nhất tôi đă có thể thổ lộ tâm t́nh với ông v́ tôi không thể nói thế với những người khác mà không làm họ phật ư. Và tôi nhắc lại rằng không làm ǵ có những tu sĩ Hồi giáo. Những tu sĩ Hồi giáo đă được bịa đặt ra bởi Lord Cromer năm 1885.

Headingly kêu lên.

- Ông nói năng không nghiêm chỉnh đấy!

- Đó là một việc ai cũng biết ở Paris; nó đă được công bố bởi tờ La Patrie và những nhật báo thạo tín khác.

- Nhưng chuyện này là quan trọng đó! ông Fardet này, có phải từ việc này ông muốn nói rằng cuộc bao vây Khartoun và cái chết của Gordon, và tất cả những chuyện c̣n lại đều thuộc về một sự bịp bợm lớn lao không?

- Tôi không chối căi là một vụ bạo động đă xảy ra, nhưng vụ đó chỉ là một sự cố địa phương, ông hiểu chứ? Một sự cố đă bị quên lăng từ lâu rồi. Từ đó nước Soudan đă được hưởng một nền ḥa b́nh thật sự.

- Nhưng, thưa ông Fardet, tôi có nghe nói về những vụ cướp bóc và tôi đă đọc những báo cáo về các trận đánh nhau nữa, khi người Ả Rập toan tính xâm chiếm Ai Cập. Ngày hôm kia chúng ta đă vượt khỏi Toski; anh thông ngôn đă nói cho chúng ta biết là một trận đánh đă diễn ra ở đó. Việc này cũng là bịp bợm?

- Hừm, ông bạn của tôi ơi, ông không biết người Anh đâu! Ông nh́n thấy họ hút ống píp và nét mặt rạng rỡ, rồi ông nói: "Đây thật là những người dũng cảm, những con người giản dị, những người không làm thương tổn cả đến một con ruồi!" Nhưng lúc nào họ cũng đắn đo suy nghĩ, họ ŕnh rập, họ thảo ra những kế hoạch. "Đây là nước Ai Cập yếu kém, họ nói. Chúng ta hăy tới đó!"

và họ chồm vào nước này như một con chim âu chồm lên một miếng bánh. Cả thế giới lên tiếng phản kháng. "Các ông không có quyền ǵ trên nước Ai Cập. Các ông cút đi!" Nhưng nước Anh đă bắt đầu thiết lập trật tự khắp nơi, giống hệt như cô Adams tốt bụng kia khi cô ấy chiếm cứ căn nhà một người Ả Rập. "Các ông cút đi!". mọi người trên thế giới nhắc lại câu nói "nhất định rồi, nước Anh đáp lại. Hăy đợi một phút thôi, để tôi có th́ giờ làm cho tất cả đều sạch sẽ và gọn ghẽ". Rồi thế giới chờ đợi trong một năm hay hai năm, rồi họ lại nhắc nhở "Các ông hăy cút đi!" Và nước Anh lại trả lời: "Hăy kiên nhẫn một chút: có sự lộn xộn ở Khartoum; khi nào sự yên tĩnh được văn hồi, tôi sẽ rất hài ḷng để đi khỏi". Và thế giới kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng khi sự lộn xộn ở Khartoum đă chấm dứt, thế giới lại đ̣i nước Anh phải ra đi. Nước Anh hỏi: "Làm sao tôi có thể ra đi khi c̣n những vụ cướp bóc và những trận chiến đang diễn ra? Nếu tôi đi khỏi th́ Ai Cập sẽ làm mồi cho lũ man di!" Và thế giới lấy làm kinh ngạc: "Không có những vụ cướp bóc, không có cả những trận đánh nhau!" Lúc đó nước Anh nói: "À, không có thật à?" Và trong tuần lễ sau đó báo chí của họ đă tràn đầy những bài tường thuật về các trận đột kích và các cuộc chinh phạt của các tu sĩ Hồi giáo. Không phải tất cả chúng tôi đều mù, ông Headingly ạ! Chúng tôi hiểu rất rơ cách thức người ta xếp đặt các công việc: một vài tên Bédonins, một khoản tiền thưởng nhỏ, nhưng viên đạn không đầu ch́, và hăy chú ư một vụ cướp bóc!

"Được, được!" ông người Mỹ nói "Tôi lấy làm hân hạnh, được biết sự thật về vụ này, v́ nó thường làm cho tôi quan tâm tới, nhưng trong vụ này th́ nước Anh được lợi lộc ǵ?"

- Thưa ông, một đất nước.

- Tôi biết. Ông muốn nói là chẳng hạn là có một quan thuế biểu ưu đăi cho các hàng hóa của nước Anh phải không?

- Thưa ông, không ạ. Quan thuế biểu giống nhau cho tất cả mọi nước.

- Vậy th́ hẳn là người Anh đă kư được các hợp đồng?

- Thưa ông, đúng như vậy.

- Thí dụ con đường sắt mà người ta làm dọc theo con sông và nó chảy ngang qua nước này đă là đối tượng một hợp đồng béo bở cho một công ty Anh phải không?

Ông Fardet có đầu óc tưởng tượng, nhưng ông ấy là người thật thà.

- Thưa ông, đó là một công ty của người Pháp đă kư được hợp đồng làm con đường sắt.

Ông người Mỹ ngạc nhiên, ông nói:

- Người Anh không có vẻ là đă kiếm được nhiều lợi lộc so với những khó khăn mà họ phải gánh chịu. Nhưng cuối cùng họ cũng phải hưởng được một vài mối lợi gián tiếp, chẳng hạn chắc chắn là Ai Cập phải trả tiền phí tổn cho tất cả những binh lính mặc y phục màu đỏ đó ở Le Caire chứ ǵ?

- Thưa ông, Ai Cập à? Không, những binh lính đó do nước Anh trả lương.

- Được rồi, không phải nhiệm vụ của tôi để nói với người Anh rằng họ làm cách nào để điều hành các quyền lợi của họ, nhưng tôi có cảm tưởng là họ tự làm khổ ḿnh rất nhiều cho những thứ chẳng đáng bao nhiêu ! Nếu họ thích duy tŕ trật tự và bảo vệ biên cương với giá một cuộc chiến liên miên chống lại các tu sĩ Hồi giáo, th́ tôi không hiểu tại sao có người lại lấy việc này ra để công kích. Sự thịnh vượng của đất nước đă gia tăng một cách đáng kể từ khi họ đến đây: những bản thống kê về sự thu nhập đă chứng tỏ điều này. Người ta cũng bảo đảm với tôi rằng hiện nay những dân nghèo đă được thừa nhận quyền lợi, điều này chưa từn bao giờ đă đến với họ.

"Nhưng nếu vậy th́ họ ở đây làm ǵ?" ông người Pháp tức tối la lên. "Họ hăy trở về hải đảo của họ đi! chúng ta không thể dung thứ được việc họ cứ lan tràn như vậy trên khắp thế giới".

- Dĩ nhiên là người Mỹ chúng tôi, chúng tôi sống ở nước chúng tôi trên mảnh đất của riêng chúng tôi, chúng tôi thấy khó chịu phải nh́n nhận rằng các ông, những dân tộc âu châu, lúc nào các ông cũng tràn lan, vào những nước khác là những nước hoàn toàn xa lạ với các ông. Tất nhiên chúng tôi dám mạnh miệng nói như vậy, v́ dân tộc chúng tôi có nhiều đất đai hơn sự cần thiết. Khi nào chúng tôi bắt đầu thặng dư dân số, chúng tôi cũng sẽ phải tiến hành các cuộc thôn tính. Nhưng hiện giờ th́ chỉ riêng ở Bắc Phi thôi đă thấy nước Ư ở Abyssinie, nước Anh ở Ai Cập, nước Pháp ở Algerie...

Ông Fardet nói lớn tiếng:

- Nước Pháp! nhưng Algerie là thuộc về nước Pháp! Thưa ông, ông cười à? Tôi rất hân hạnh chúc ông một đêm ngủ ngon!

Bực bội trong ḷng tự tôn ái quốc bị xúc phạm, ông đứng dậy đi về pḥng ḿnh.

Chương 2:

Người đàn ông Mỹ ngẩn ngơ một lát ông muốn lên bộ để gửi bưu điện bài tường thuật về những cảm tưởng trong chuyến du hành mà ông thường gửi hàng ngày cho chị gái ông, nhưng những điếu x́ gà của đại tá Cochrane và Cecil Brown vẫn c̣n đỏ lập ḷe ở đầu bên kia của boong tàu, và ông th́ lúc nào cũng ŕnh rập để lấy các tin tức. Ông không biết cách làm thế nào xen vào cuộc đàm thoại của họ, nhưng ông đại tá đă đẩy lại phía ông một cái ghế đẩu và gọi ông.

- Headingly, lại đây! Đây là nơi lư tưởng cho một sự giải độc. Tôi tin chắc rằng Fardet vừa mới nói với ông về chính trị.

"Tôi luôn luôn nhận ra lối đề cập tới vấn đề chính trị quốc tế của ông ấy, chỉ cần trông thấy ông ấy cúi vai xuống để xông vào những cuộc bàn bạc thân mật", nhà ngoại giao sang trọng nói. "Nhưng đó là một sự xuẩn ngốc quá chừng vào một buổi tối như tối hôm nay! Mặt trăng mọc trên sa mạc thế này hứa hẹn với chúng ta một bầu trời đêm kỳ diệu màu xanh và trắng bạc. Trong một bản nhạc của Mendel-Sohn đă có một t́nh cảm h́nh như bao gồm được tất cả những điều đó: một sự cảm xúc về vô biên, về sự nhắc nhở, tiếng gió hú bên các khoảng không vô tận. Âm nhạc là nghệ thuật diễn dịch các cảm hứng vi diệu mà các từ ngữ không diễn tả được".

Ông người Mỹ đă ra nhận xét:

- Đêm hôm nay tôi thấy phong cảnh có vẻ man rợ hơn, dữ tợn hơn bao giờ hết. Nó cho tói cảm giác của một sức mạnh tàn nhẫn, giống hệt như Đại Tây Dương vào một ngày lạnh lẽo và u ám của mùa đông. Có lẽ cảm giác này nảy sinh ở việc là chúng ta biết rằng chúng ta đang ở chỗ ranh giới cùng cực của tất cả các loại pháp luật và các nền văn minh. Thưa đại tá Cochrane, theo ư ông th́ chúng ta c̣n cách những tu sĩ Hồi giáo bao xa?

Vị đại tá trả lời.

- Trên mạn bờ thuộc Ả Rập, chúng ta có đồn binh Ai Cập ở Sarras vào khoảng sáu mươi cây số về phía Nam của chúng ta. Bên ngoài nơi đó là những miền đất rất hoang vu nằm dài một trăm cây số trước mặt đồn canh của các tu sĩ Hồi giáo ở Akashek. Nhưng ở bờ bên kia th́ không có một vật ǵ giữa họ và chúng ta.

- Abousir nằm ngay trên bờ bên đó phải không?

- Phải. Đó là lư do tại sao hồi năm ngoái chuyến du hành đă bị ngăn cấm. Nhưng bây giờ th́ sự yên tĩnh đă trở lại.

- Ai có thể ngăn không cho bọn tu sĩ Hồi giáo tràn vào nơi này?

"Hoàn toàn không có ǵ cả"!. Cecil Brown đáp lại với một giọng hững hờ.

- Không có ǵ cả, ngoại trừ sự sợ hăi. Chắc chắn là họ có thể đến không khó khăn ǵ! Nhưng sự trở về sẽ nguy hiểm hơn: những con lạc đà kiệt sức của họ sẽ là những mồi ngon cho những con ngựa khỏe mạnh của đạo quân đồn trú ở Ouadi-Halfa. Họ cũng biết rơ điều này như chúng ta vậy : đó là lư do tại sao không bao giờ họ dám liều lĩnh làm việc đó.

Brown nói lớn:

- Suy luận về một cảm giác sợ hăi của những tu sĩ Hồi giáo là một điều không hợp lư. Không bao giờ chúng ta được quên rằng họ không tuân theo các động lực giống như những dân tộc khác. Họ đông người và mong mỏi được chết, và họ nhất trí tin tưởng một cách mù quáng vào định mệnh, người ta có thể coi họ là một sự ngoan cố tột cùng của tất cả các điều dị đoan, và chính đó là bằng chứng cho thấy sự cuồng tín và dị đoan đă dẫn con người thẳng tới t́nh trạng man rợ!

Ông người Mỹ hỏi:

- Ông có tin rằng dân tộc này tiêu biểu cho một sự đe dọa thật sự đối với Ai Cập không? Tôi đă từng nghe thấy nhiều ư kiến khác nhau về vấn đề này, chẳng hạn như ông Fardet, ông ấy không nghĩ rằng mối hiểm nguy là rất cấp bách.

Đại tá Cochrane trả lời, sau một sự yên lặng ngắn ngủi.

- Tôi không phải là người giàu có, nhưng tôi sẵn sàng đánh cuộc tất cả những ǵ mà tôi có là trong ba năm sau khi các sĩ quan Anh đi khỏi, những tu sĩ Hồi giáo sẽ tới bờ biển Địa Trung Hải. Lúc đó th́ nền văn minh Ai Cập sẽ ra sao? Hàng trăm triệu bạc đă được đầu tư vào nước này sẽ ra sao? Và những đền đài mà cả thế giới đều ngưỡng mộ và sùng kính và đó là những công tŕnh quí giá nhất của cổ thời sẽ ra sao?

Headingly cười lớn phản đối:

- Này, ông Đại tá! Không phải là ông cũng định nói rằng họ sẽ phá hủy các Kim Tự Tháp đấy chứ?

- Không thể đoán trước được là họ sẽ làm ǵ! Không có một kẻ bài trừ thánh tượng nào lại điên cuồng hơn là một tên Hồi giáo cuồng tín. Trong cuộc xâm nhập cuối cùng của họ vào Ai Cập, các tu sĩ Hồi giáo đă đốt cháy thư viện ở Alexandrie: Ông biết rằng kinh Coran đă cấm đoán tất cả mọi sự h́nh dung cái mặt của con người. Do đó dưới mắt họ một pho tượng là một vật chống tôn giáo. Và bọn người man rợ này coi các cảm tính của Âu Châu như một điều xui xẻo. Ngược lại: họ càng lăng nhục chúng th́ họ càng khoan khoái. Tượng Sphinx sẽ bị hạ xuống, pho tượng Colorse sẽ bị hạ xuống! Giống hệt như ở nước Anh, trước các quân lính của Cromwell, các vị thánh đều bị quăng xuống đất.

"Ta hăy xét kỹ một chút" Headingly nói với sự chậm chạp chín chắn của ông ấy. "Ta hăy chấp nhận rằng bọn tu sĩ Hồi giáo có đủ khả năng chinh phục Ai Cập và ta cũng chấp nhận là người Anh các ông ngăn cản họ làm việc đó. Nhưng v́ lư do nào mà các ông chi ra nhiều triệu đô la đó và các ông hy sinh bao nhiêu sinh mạng người Anh như vậy? Các ông kiếm được bao nhiêu lợi lộc hơn là nước Pháp, nước Đức hoặc bất cứ một nước nào không gánh chịu một sự rủi ro nào và không tiêu tốn một xu nào?

Cecil Brown trả lời:

- Nhiều người Anh hiền lành cũng đặt ra câu hỏi như vậy. Theo ư tôi th́ từ khá lâu rồi chúng tôi đă là những viên cảnh sát của thế giới: chúng tôi đă quét sạch bọn kẻ cướp và bọn buôn nô lệ khỏi các đại dương; hiện nay chúng tôi giải phóng trái đất khỏi tay các tu sĩ Hồi giáo và tất cả những lũ giặc cướp đe dọa nền văn minh. Nếu những người Kurdes quấy rối trật tự công cộng ở Tiểu Á-tế-á, nhân dân trên thế giới muốn biết rằng tại sao Anh Quốc lại không trừng trị họ. Nếu xảy ra một cuộc binh biến ở Ai Cập hay ở Soudan, cũng vẫn là Anh Quốc có nhiệm vụ dẹp tan nó. Và tất cả công việc đó giữa những lời nói xấu cùng một giọng điệu khắp nơi, giống như một nhân viên cảnh sát đă nghe thấy khi anh ta bắt giữ một tên côn đồ trong một ngơ hẻm tối tăm. Chúng tôl chỉ nhận được những lời nói xấu và không có một lời cám ơn nào. Tại sao phải kiên tŕ như thế? Tốt nhất là ta nên để cho Âu Châu tự ḿnh hoàn thành cái công việc bạc bẽo này.

"Thú thật là" đại tá Cochrane nói trong khi bắt chéo chân lên và khom ḿnh về phía trước với vẻ cương quyết của một người đă có một ư kiến vững vàng "tôi không đồng ư với ông một chút nào, ông Brown ạ! và tôi cho rằng sự hẹp ḥi trong lư luận của ông không phù hợp với những bổn phận của Anh Quốc. Tôi nghĩ rằng đằng sau các quyền lợi quốc gia, đằng sau công việc ngoại giao và tất cả mọi thứ c̣n lại, c̣n có một mănh lực chủ đạo nữa (thực sự là một thiên mệnh) là điều từ xưa vẫn luôn luôn gạn lọc lấy phần tinh hoa nhất của mỗi dân tộc và dùng nó để làm điều tốt đẹp cho cả loài người. Khi một dân tộc thôi không tuân theo điều này tức là nó đă cằn cỗi để nằm trong cơn bệnh hoạn vài ba thế kỷ, như kiểu nước Tây Ban Nha hay nước Hy-Lạp: đó là v́ những phẩm chất tốt đă rời bỏ họ, một người hay một quốc gia không phải chỉ được sinh ra trên trái đất này để làm việc ǵ thích thú hay việc ǵ mang lại lợi lộc. Thường khi người ta đ̣i hỏi chúng ta phải làm những việc vừa buồn chán, vừa tốn kém, nhưng nếu công việc là chính đáng th́ chúng ta phải tiến lên và không lẩn tránh... "

Headingly gật đầu tán thành.

-... Mỗi nước có một sứ mạng riêng của ḿnh ! Nước Đức th́ vượt trội trong tư tưởng trừu tượng; nước Pháp th́ trong văn chương, trong nghệ thuật và sự thanh lịch. Nhưng các ông và chúng tôi (tất cả những người nói tiếng Anh đều ở trên một con tàu), chúng ta có trong giới thượng lưu của chúng ta một quan niệm cao cả hơn về tinh thần đạo đức và về nhiệm vụ chung so với bất kỳ một dân tộc nào khác mà đó là hai đức tính cần phải có để dẫn dắt một chủng tộc yếu kém hơn. Các ông không thể giúp đỡ các dân tộc yếu kém bằng tư tưởng trừu tượng hoặc bằng các nghệ thuật mua vui, nhưng chỉ có thể bằng cái tinh thần đạo đức này, nó giữ thăng bằng cho cán cân công lư và nó tự giữ được trong trắng, tránh khỏi mọi hoen ố. Đó là cách mà chúng tôi cai trị Ấn Độ. Chúng tôi đă tới nơi đó bởi kết quả của một thứ luật thiên nhiên, giống hệt như không khí ùa vào để lấp kín một chỗ trống. Ở khắp mọi nơi trên thế giới, đi ngược lại với quyền lợi trực tiếp của chúng tôi và bất chấp những ư định có sẵn của chúng tói, chúng tôi đă bị đưa đẩy tới chỗ phải làm cùng một việc như vậy. Điều này rồi sẽ đến với cả các ông đó: áp lực của định mệnh sẽ ép buộc các ông phải điều khiển tất cả Mỹ Châu, từ Mễ Tây Cơ cho tới mũi Horn.

Headingly bật ra một tràng huưt gió.

"Những anh ái quốc cuồng tín hẹp ḥi của chúng tôi sẽ rất sung sướng được nghe ông nói đấy, đại tá Cochrane ạ!", ông ta nói. "Họ bỏ phiếu cho ông ở Thượng viện và sẽ làm ông trở thành một ủy viên của ủy ban ngoại vụ đấy!"

- Thế giới th́ nhỏ bé, và mỗi ngày nó một thu nhỏ hơn. Nó tạo ra một cơ thể duy nhất: sự thối mục ở một địa phương sẽ có thể lan truyền và làm ung thối tất cả toàn thể. Trên trái đất không có chỗ cho những chính phủ gian lận, không làm tṛn những lời cam kết, chuyên chế, vô trách nhiệm. Sự tồn tại của họ bao giờ cũng là nguồn gốc của các vụ lộn xộn và hiểm nguy. Nhưng nhiều chủng tộc có vẻ như quá bất lực trong sự tiến bộ khiến ta không thể hy vọng một ngày nào đó họ có được một chính quyền tốt. Vậy th́ ta phải làm ǵ? Ngày xưa Thượng đế giải quyết vấn đề bằng sự tận diệt một Attila, một Tamerlan đă tỉa bớt những cành yếu kém nhất. Ngày nay th́ những qui luật ít nghiêm ngặt hơn đă được thay vào đó: những Phó Vương ở Trung Á và những Quốc gia bảo hộ ở Ấn Độ là bằng chứng về điều này. V́ công cuộc này phải được hoàn thành, và bởi v́ chúng tôi là những người có trang bị tốt nhất để thành công trong việc này, tôi nghĩ rằng bác - khước chúng tôi sẽ là một sự hèn nhát và một tội ác.

Ông người Mỹ phản đối.

- Nhưng ai giải quyết vấn đề để biết rằng các ông có phải là những người được trang bị tốt nhất để can thiệp hay không? Bất kỳ một quốc gia ăn cướp nào cũng có thể sử dụng chiêu bài này để thôn tính toàn thể trái đất.

- Chính những biến có sẽ giải quyết vấn đề. Những biến cố tàn khốc và không thể tránh được. Thí dụ ông hăy xem vụ Ai Cập đó. Vào năm 1881, ở nước chúng tôi không ai nghĩ tới việc can thiệp ở Ai Cập. Vậy mà năm 1882 chúng tôi đă chiếm giữ nước này. Sự tiếp diễn của các biến cố không để cho chúng tôi một sự lựa chọn. Một vụ tàn sát trong các phố ở Alexandrie, việc bố trí các súng đại bác để xua đuổi hạm đội của chúng tôi đang có mặt tại đó để làm tṛn các trách vụ thiêng liêng của - một thỏa ước, như ông đă biết đó, đă khơi ng̣i cho cuộc oanh kích. Cuộc oanh kích đă khai mào cho một cuộc đổ quân nhằm giải cứu thành phố khỏi bị hủy diệt. Cuộc đổ bộ dẫn tới sự mở rộng các cuộc hành quân... Và chúng tôi đang ở đây để trông nom, săn sóc đất nước này. Khi những vụ lộn xộn bùng lên, chúng tói đă khẩn cầu, năn nỉ người Pháp và nhiều nước khác tới giúp chúng tôi văn hồi trật tự : họ đều ngoảnh mặt làm lơ, nhưng họ đă sẵn sàng để công kích chúng tôi. Khi chúng tôi định ra khỏi cái tổ ong ṿ vẽ này th́ vụ nổi loạn của các tu sĩ Hồi giáo bùng ra, và chúng tôi đă phải trụ lại một cách vững chắc hơn bao giờ hết. Chúng tôi đă không đ̣i hỏi nhiệm vụ này; nhưng khi chúng tôi bị bắt buộc phải hoàn thành nó, th́ ít nhất chúng tôi cũng phải làm cho tốt. Chúng tôi đă thiết lập công lư, thanh lọc bộ máy cai trị, bảo vệ những dân nghèo. Nước Ai Cập, đă tiến bộ nhiều hơn trong ṿng mười hai năm qua, so với suốt cuộc xâm lăng của Hồi giáo từ thế kỷ mười bảy. Ngoài số lương của hai trăm người, những người này lại tiêu tiền của họ ở ngay trong nước Anh Quốc đă không lấy đi một cách trực tiếp hay gián tiếp, một xu nào trong suốt công cuộc này. Tôi không tin rằng ông lại có thể t́m ra trong lịch sử một sự nghiệp thành công tốt đẹp và vị tha hơn thế.

Headingly hít một hơi thuốc lá trong khi suy nghĩ.

"Ở Boston có một ngôi nhà gần với nhà chúng tôi" ông nói, "đă làm hư hại tất cả vẻ đẹp trên vùng biển. Những cái ghế bành cũ nát quăng bừa băi trên sân đất trước nhà, những bức tường sụp đổ, khu vườn là một băi bụi hoang, nhưng tôi không nghĩ rằng những người hàng xóm có ư định xâm nhập bằng bạo lực để cư ngụ tại đó và để xếp đặt các đồ vật theo sở thích của họ".

Ông đại tá hỏi:

- Nhưng nếu ngôi nhà bốc cháy th́ sao?

Headingly cười lớn và đứng lên ông nói.

- Thưa ông đại tá, trường hợp này không được tiên liệu bởi chủ thuyết Monroe! Tôi bắt đầu nhận thức được rằng nước Ai Cập hiện đại cũng hoàn toàn thú vị như nước Ai Cập cổ đại và rằng vua Ramsès đệ nhị đă không phải là người đàn ông cuối cùng sống ở nước này.

Đến lượt họ, cả hai người Anh cùng đứng lên.

- Phải, đó là một sự mỉa mai của định mệnh đă xui khiến những cư dân một ḥn đảo nhỏ trên Đại Tây Dương cai trị mảnh đất của các vị Hoàng đế Ai Cập". Cecil Brown đưa ra lời nhận xét. "Đến lượt chúng ta, chúng ta sẽ tự tàn lụi, và chúng ta sẽ không để lại một kỷ niệm đặc biệt nào trong số những chủng tộc khác nhau đă cai trị đất nước này, v́ người Anh không có thói quen khắc các hành động của họ lên đá. Những dấu vết của một hệ thống thoát nước ở Le Caire chắc chắn sẽ là vết tích duy nhất của sự dừng chân của chúng tôi ở đây. Vậy mà rất có thể là sau đây một ngàn năm những nhà khảo cổ sẽ cho rằng công tŕnh này đă được thực hiện bởi triều đại Hyksos. Nhưng ḱa những bạn đồng hành khác của chúng ta đi dạo chơi thành phố đă trở về rồi.

Thật vậy, ở phía dưới họ, họ đă nghe thấy giọng nói Ái Nhĩ Lan êm ái của bà Belmont và tiếng nói trầm trầm của ông chồng bà. Ông Stuart vị mục sư to lớn của Birmingham đang tranh căi về vấn đề những đồng bạc với một anh chàng dắt lừa lắm mồm; những ư kiến và lời khuyên can tuôn ra từ khắp mọi phía. Rồi sự thỏa thuận được dàn xếp xong, tiếng ồn ào giảm dần, những người về muộn leo lên cầu thang, những tiếng "Chúc ngủ ngon" được trao đổi, những cánh cửa sập mạnh và con tàu nhỏ trở lại yên lặng trong bóng tối của bờ cao của con sông. Ở bên kia cái điểm cùng cực này của nền văn minh và sự tiện nghi, trải dài một băi sa mạc vô biên, man rợ, vĩnh cửu, màu rơm dưới ánh trăng, lốm đốm những bóng đen x́ của những dăy núi.


Chương 3:

“Đứng lại! Lui lại" viên hoa tiêu người bản xứ quát bảo anh thợ máy người Âu Châu.

Cái phần mũi ph́nh ra của con tàu xẹp xuống trên vũng bùn trơn tuột màu nâu, và ḍng nước đă đẩy con tàu đi song song với bờ sông. Ngay sau khi cái cầu phao dài được thả xuống, sáu người lính lực lưỡng của đoàn hộ tống người Soudan đă bắt tay vào công việc. Dưới ánh sáng trong trẻo của buổi ban mai, họ có dáng bộ rất đẹp, với những bộ đồng phục màu xanh nhạt viền vàng và những chiếc mũ ca rô màu đỏ và vàng. Trên bờ sông, những con lừa được sắp đứng thành hàng, và lũ trẻ con làm ngột ngạt không khí với những tiếng reo ḥ của chúng. Những lời reo ḥ này là dành cho người nào bằng một kiểu cách bén nhọn nhất biểu dương được các phẩm chất của con lừa của ḿnh và dèm pha các phẩm chất của con bên cạnh.

Đại tá Cochrane và ông Belmont cùng đứng trên mũi tàu, họ đội cái mũ trắng rộng vành cùng với cái khăn che mặt của khánh du lịch. Cô Adams và người cháu gái đứng tựa vào tấm lan can tàu bên cạnh họ.

Ông đại tá nói:

- Tôi lấy làm tiếc rằng quí phu nhân đă không cùng đi với chúng ta, ông Belmont ạ.

- Tôi nghĩ rằng hôm qua bà ấy đă bị ngă nắng qua loa; bà ấy nhức đầu lắm.

Ông ấy có giọng nói của cái bóng của ông ấy : mạnh mẽ và mập mạp.

"Tôi t́nh nguyện ở lại để bầu bạn với bà ấy, ông Belmont ạ" cô gái già người Mỹ nói. "Nhưng tôi nghe nói là bà Shlesinger thấy cuộc du ngoạn quá dài và bà ấy có nhiều thư từ phải viết để hôm nay gửi bưu điện, như vậy là bà Belmont sẽ không cảm thấy quá đơn độc nữa".

- Cô rất khả ái, cô Adams ạ. Có lẽ chúng tói sẽ quay về vào lúc hai giờ đó.

- Chắc vậy không?

- Chắc chắn mà. Chúng tôi không mang theo bữa ăn sáng. Chúng tôi sẽ đói ngấu!

"Phải, tôi có cảm tưởng là chúng tôi sẽ chạy xô tới một cốc rượu vang Rhin và nước có hơi" ông đại tá phát biểu đồng t́nh. "Bụi ở sa mạc sẽ làm cho chúng tôi thấy thứ rượu vang tệ nhất cũng khoái khẩu rồi!"

"Bây giờ, thưa các quí bà và các quí ông!" Mansoor, anh thông ngôn đang đi tới và nói lớn (người ta có thể nói đó là một vị linh mục với cái áo dài của anh ta bay phất phới trước gió và bộ mặt cạo nhẵn nhụi của anh ta) "Chúng ta phải khởi hành sớm để tránh cái nóng buổi trưa...".

Cái nh́n tŕu mến của anh lướt qua nhóm du khách ít ỏi.

- Cô Adams, xin cô hăy đeo kính màu vào, v́ trong sa mạc sự phản xạ rất mạnh. À, ông Stuart, tôi đă dành cho ông một con lừa! Một con lừa hảo hạng đấy, thưa ông, con lừa mà tôi thường vẫn để dành cho vị khách nào cường tráng nhất. Quí vị không cần đem theo vé. Bây giờ, thưa các quí bà và các quí ông, xin quí vị vui ḷng!

Người này nối theo người nọ, các du khách đi qua cầu tàu. Ông Stephens đi đầu, người gầy g̣, khô khỏng, nghiêm nghị, đầu đội một cái mũ rơm, quyển sách hướng dẫn cắp trong cánh tay, ông giúp cho cô Sadie và bà cô của nàng leo lên bờ và tiếng cười của cô thiếu nữ vang lên tươi mát và trong trẻo khi quyển sách hướng dẫn tuột ra và rơi xuống ŕa vũng bùn. Ông Belmont và đại tá Cochrane đi theo sau, những cái vành mũ của họ chạm vào nhau v́ họ tranh luận với nhau về các ưu điểm của các loại súng Mauser, Lebel và Lee-Metford. Đằng sau họ Cecil Brown bước đi một cách lơ đăng, với cái nh́n châm chọc, lặng lẽ. Vị mục sư cao lớn dùng th́ giờ để leo lên đỉnh cao của bờ dốc. Vừa leo vừa càu nhàu về thân h́nh ph́ nộn của ông.

"Tôi thuộc vào loại những người mang tất cả mọi thứ ở phía trước họ", ông vừa rên rỉ vừa nhăn nhó nh́n thân thể tṛn vo của ông. Những lời nói đùa của chính ông đă làm ông tươi tỉnh lại và ông cố nén một tiếng cười nhỏ.

Headingly, người cao và gầy, lưng hơi gù, và Fardet, người dân thành phố Paris, người thích lư luận, là hai người đi sau cùng.

Người đàn ông Pháp th́ thầm với ông người Mỹ.

- Ông thấy đó, hôm nay chúng ta có một toán hộ tống!

- Vâng, tôi đă nhận ra việc này.

- Hừm! Tại sao lại không có một toán hộ tống giữa Paris và Versailles? Sự trang tri là một phần của căn pḥng, ông Headingly ạ. Không ai bị lầm đâu, nhưng với căn pḥng đó th́ phải có sự trang trí này. Này, anh thông ngôn, tại sao chúng ta phải dẫn theo những anh lính kỳ cục đó?

Vai tṛ của người thông ngôn là làm vui ḷng tất cả mọi người, do đó anh ta thận trọng nh́n quanh ḿnh trước khi trả lời; anh muốn biết chắc rằng mấy người Anh không nghe thấy anh ta nói.

- Thưa ông, đúng là buồn cười đó! Nhưng ông muốn ǵ? Đó là lệnh chính thức của giới chức Ai Cập.

Ông người Pháp kêu lên.

- Các giới chức Ai Cập à? Ư anh muốn nói các giới chức Anh hả! Lúc nào cũng là những người Anh đó!

Trong khi đó, các du khách đă chọn xong lừa, ngựa của họ, và những chiếc bóng của họ ngồi trên lưng ngựa nổi bật trên nền trời màu xanh xẫm. Belmont ngồi một cách ngay ngắn, vững vàng trên một con lừa trắng bé nhỏ, vung vẩy cái mũ với bà vợ ông ấy vừa đi ra trên boong con tàu Korosko. Cochrane giữ rất thẳng người, với một cách ngồi nghiêm ngặt của nhà binh: hai bàn tay thấp xuống, đầu ngẩng cao lên, hai gót chân chỉ xuống đất. Bên cạnh ông, nhà ngoại giao trẻ, người đă được đào tạo ở Oxford, đang quan sát phong cảnh với một cái nh́n nặng nề và cao ngạo, như thể ông ta nghi ngờ sự đáng kính của sa mạc nói riêng và của vũ trụ nói chung. Ở phía sau, các du khách khác tiến bước theo hàng dọc, dọc theo bờ dốc, khi th́ vất vả ít nhiều, khi th́ thoải mái đôi chút. Mỗi con lừa đều có một người dắt: những thằng nhỏ vừa ồn ào, vừa chai ĺ. Trên boong tàu màu ch́, chiếc khăn mùi xoa của bà Belmont vẫn c̣n nhấp nhánh. Ḍng sông nâu vẽ ra những ṿng lớn tới tận tám cây số đằng xa; những đồn canh trắng, vuông ở trên những trái núi đen x́ và lởm chởm chỉ rơ miền ven của Ouadi-Halfa, nơi mà các du khách đă ra đi buổi sáng.

Sadie kêu lên một cách vui thích:

- Không phải là kỳ diệu hả? Tôi có một con lừa chỉ thích phi nước đại thôi, và các vị nh́n đây, cái yên của tôi mới sang trọng làm sao! Các vị đă từng nh́n thấy cái ǵ tinh xảo hơn những các hột kết thành chuỗi này và những thứ nhỏ nhặt khác quấn quanh cổ nó không? Chắc ông phải làm một bản bị vong lục về con lừa đó, ông Stephens ạ! Tôi sử dụng từ ngữ pháp lư có đúng không đó?

Stephens quay lại phía khuôn mặt xinh đẹp, sinh động đang nh́n ông dưới cái nón rơm đỏm dáng và ông rất muốn nói chính nàng mới là kỳ diệu, nhưng ông rất sợ làm phật ḷng nàng và làm tan vỡ sự thân mật vui vẻ của họ nên thay v́ tất cả những lời khen ngợi, ông chỉ tặng nàng một nụ cười.

Ông nói:

- Cô có vẻ rất sung sướng!

- Xem ḱa! Ai có thể không cảm thấy sung sướng với không khí khô ráo và lành mạnh này, bầu trời xanh này, băi cát vàng lạo xạo này, và một con lừa tuyệt diệu để chở bạn đi? Tôi đă có đủ tất cả mọi thứ cần có để làm cho tôi sung sướng!

- Tất cả mọi thứ?

- Tóm lại, tất cả mọi thứ tôi cần có trong lúc này.

- Tôi nghĩ là cô không biết thế nào là buồn bă phải không?

- À, khi tôi cảm thấy buồn khổ, tôi buồn khổ quá đi, không thể nói sự buồn tủi nên lời! Trong bao nhiêu ngày, hết ngày này tới ngày khác, tôi đă không ngừng khóc ở Smith College; các cô con gái khác hỏi nhau tại sao tôi khóc và tại sao tôi không muốn nói với họ lư do mà tôi phải khóc. Lư do thật sự là chính tôi cũng không biết tại sao tôi khóc. Ông biết đó; đôi khi một bóng đen lớn tới lơ lửng bên trên người ông, ông không biết một chút ǵ về nó cả; nhưng ông chỉ c̣n có cách là tự xét lại ḿnh và tự cảm thấy buồn khổ thôi.

- Nhưng cô đă không bao giờ có một lư do thật sự để buồn rầu mà?

- Không, ông Stephens ạ. Suốt cả đời tôi, tôi đă có rất nhiều thời kỳ tốt đẹp khiến cho khi tôi nh́n lại phía sau, tôi không tin là tôi đă từng có một lư do thật sự để buồn phiền.

- Được rồi, cô Sadie này, tôi hết ḷng hy vọng rằng cô vẫn sẽ có thể nói điều này khi cô tới độ tuổi của bà cô của cô. Nhưng tôi nghe thấy tiếng bà ấy gọi chúng ta!

"Ông Stephens này, tôi muốn ông trừng trị tên dắt lừa của tôi bằng cái roi của ông nếu hắn c̣n đánh con vật khốn khổ của tôi!", cô Adams nói lớn, v́ cô đă vớ phải một con lừa cao lớn chỉ có da bọc xương. "Nè, anh thông ngôn! nói với thằng ranh con này là tôi sẽ không dung thứ việc nó hành hạ những con vật: nó phải biết hổ thẹn chứ! Nó trưng ra với tôi những nụ cười như là một tấm h́nh quảng cáo của thợ làm răng vậy. Ông Stephens, ông có tin rằng nếu tôi đan một đôi bít tất len cho anh lính da đen này, th́ anh ấy sẽ được phép mang không? Tên quỷ khốn khổ này chỉ có những băng vải quấn quanh chân!"

"Đó là những cái xà cạp, cô Adams ạ" đại tá Cochrane quay lại giải thích. "Ở Ấn Độ chúng tôi đă nhận thấy rằng không có thứ ǵ tốt hơn để làm cho việc đi bộ được dễ dàng. Đối với một người lính th́ những cái xà cạp đượ ưa thích hơn những bít tất len rất nhiều".

- Vậy th́ chúng ta không nói tới chuyện đó nữa! nhưng người ta nói một con ngựa bị thương. Tôi thấy chúng ta rất oai vệ với đoàn hộ tống có vơ trang này. Nhưng ông Fardet khẳng định với tôi rằng chúng ta không có ǵ phải lo sợ cả.

"Ít nhất đó là ư kiến riêng của tôi, thưa cô!" người đàn ông Pháp vội vă đính chính. "Rất có thể là đại tá Cochrane lại có một ư kiến khác biệt"

"Ư kiến của ông Fardet trái ngược với ư kiến của những sĩ quan chịu trách nhiệm bảo đảm an ninh ngoài biên giới", vị đại tá lạnh lùng trả lời. "Nhưng tôi nghĩ là tất cả chúng ta đều đồng ư để thấy rằng sự hiện diện của những người lính này sẽ đóng góp thêm vào sự tráng lệ của khung cảnh".

Bên phía tay phải của họ, sa mạc kéo dài những luống cát mềm mại mấp mô của nó, trông giống như những cồn cát bao quanh một cái biển cổ xưa đă bị quén lăng. Khi các du khách leo lên những cồn cát này, từ trên cao họ nh́n thấy những chóp đỉnh đen x́ của những núi lửa kỳ quái đứng sững trên bờ sông về phía Libye. Những người lính tiến lên bằng những bước mau lẹ, khẩu súng lăm lăm trong tay, lúc th́ những bóng của họ hiện lên trên các đỉnh cao, lúc th́ chúng mất dạng trong các hang hơm.

"Họ được tuyển mộ ở đâu vậy?" Sadie hỏi. "Họ có cùng một màu da như những người gác thang máy ở Mỹ".

"Tôi đă nghĩ là cô sẽ đặt với tôi một câu hỏi về họ". Ông Stephens nói, ông là người không bao giờ hài ḷng hơn là khi đoán trước được một ư nguyện của cô gái Mỹ xinh đẹp. "Sáng hôm nay tôi đă thực hiện một vài sự sưu khảo trong thư viện của con tàu. Đây này... Ré.. Tôi muốn nói: Vấn đề những người lính da đen. Theo những điều ghi chép của tôi, họ thuộc về tiểu đoàn mười người Soudan trong quân đội Ai Cập. Họ được tuyển mộ trong các bộ lạc da đen Dinkas và Shilluks sinh sống ở miền Nam của xứ sở các thầy tu Hồi giáo, gần đường xích đạo".

"Làm cách nào mà các tân binh có thể đi qua xứ sở của những thầy tu Hồi giáo?" Headingly hỏi.

"Tôi nghĩ họ đă không gặp quá nhiều khó khăn đâu". Ông Fardet nói lẩm bẩm và nháy mắt với người đàn ông Mỹ.

- Những chiến binh lăo luyện là những người sống sót của hai tiểu đoàn già nua lính da đen. Một vài người đă phục vụ dưới quyền của Gordon ở Khartoum và họ đă dành được một huy chương ở đó, những người khác th́ phần lớn là các đào binh của đạo quân ở Mahdi.

Cô Adams nói:

- Thú thật là khi mà chúng ta không cần tới sự phục vụ của họ th́ trông họ cũng khá dễ thương trong bộ đồng phục xanh dương này. Nhưng khi gặp sự bực bội, tôi tưởng rằng ta nên cầu chúc cho họ đỡ phần trang trí đi và trắng hơn lên một chút!"

"Tôi không tin chắc ở điều đó, thưa cô", ông đại tá trả lời. "Tôi đă nh́n thấy những người này trên trận địa; người ta có thể tin ở sự dũng cảm của họ trong khói lửa"

"Nhưng này, tôi thích tin ở ông qua lời nói chứ không phải qua việc thực hiện một kinh nghiệm!" cô Adams tuyên bố với một giọng làm mọi người mỉm cười.

Con đường chảy dài theo bờ sông Nil, nước sông bị xao động bởi những xoáy nước dưới sâu, chảy theo sức mạnh của những thác nước ở thượng nguồn. Có chỗ đà chảy của ḍng nước bị vỡ tung v́ một tảng đá đen x́ óng ánh ướt sũng những bọt nước. Ở trên cao hơn, các du khách nh́n thấy rơ ràng sự lấp lánh như bạc của những cái thác nước, những bờ sông đă bắt đầu hóa thành những bờ dốc thẳng đứng. Chẳng bao lâu một núi đá h́nh bán nguyệt hiện ra sừng sững. Người thông ngôn đă không cần phải nói rơ đó là ngôi đền có tên trong chương tŕnh du ngoạn của họ. Một con đường bằng phẳng dẫn tới ngôi đền. Những con lừa đi vào con đường với nước kiệu nhỏ, ở giữa những tảng đá đen trên nền màu cam, những khúc cột chỉ thẳng lên trời, cũng như một quăng tường thành c̣n sót lại có mang những ḍng chữ, cứ theo màu da xám xịt của nó và sự vững chăi của nó th́ h́nh như nó đă được tạo ra bởi tạo hóa chứ không phải bởi con người. Chàng thông ngôn Mansoor đă xuống ngựa và đợi cho những người đi chậm bắt kịp anh ta.

"Thưa quí ông và quí bà ngôi đền này", anh nói lớn với điệu bộ một nhân viên đấu giá đang chuẩn bị lần rao giá cuối cùng, "là một kiểu mẫu mỹ thuật rất đẹp dưới triều đại thứ mười tám. Đây là khuôn ảnh của Hoàng đế Thotmes Đệ Tam!" anh lấy cán roi ngựa chỉ vào những chữ tượng h́nh khắc sâu trong vách đá. "Ngài đă sống sáu trăm năm trước chúa cơ đốc, và tấm bia kư này là để kỷ niệm chuyến du ngoạn đắc thắng của ngài ở Mesopotamie. Trên những h́nh chạm nổi kia chúng ta có lịch sử của ngài, từ thuở ngài sống với mẹ cho tới khi ngài hồi cung với những tù nhân bị cột vào xe của ngài. Chỗ này quí vị trông thấy ngài được tấn phong bởi Ai Cập Hạ, và chỗ kia bởi Ai Cập Thượng, nước đă dâng một thánh lễ lên thần Ammon-Ra, để tôn vinh chiến thắng của ngài. Chỗ này những tù nhân đứng trước mặt ngài, và mỗi tên đều bị ngài cắt mất bàn tay phải. Trong góc kia, quí vị nh́n thấy một đống nhỏ, chỉ nguyên những bàn tay phải.

"Lạy chúa tôi, chắc tôi không muốn có mặt ở nơi này vào thời gian đó!" cô Adams nói.

"Này, không có ǵ thay đổi cả!" Cecil Brown đưa ra nhận xét. "Đông phương bao giờ cũng là Đông phương. Tôi không nghi ngờ chút nào rằng, cách chỗ mà hiện giờ cô đang đứng chừng một trăm năm mươi cây số hoặc có thể là ít hơn thế nữa... "

"Ông hăy im đi!" ông đại tá nói nhỏ.

Các du khách đi dọc theo bức tường thành trong khi ngẩng đầu lên và hất những cái mũ lớn của họ ra phía sau. Đằng sau họ mặt trời đổ vào bức tường cổ xưa này một ánh sáng màu đồng và chiếu lên các tảng đá những cái bóng đen của các du khách lẫn lộn với những chiến binh da đen. Cái bóng đồ sộ của cha John Stuart ở Birmingham trong một lúc bao trùm cả ông vua ngoại đạo và vị thượng đế mà ông tôn thờ.

"Cái ǵ đây?" ông hỏi với giọng sắc nhọn trong khi giơ thẳng cái ba tôn màu vàng ở Assouan lên.

"Một con trâu nước" anh thông ngôn trả lời.

Và tất cả các du khách cố nén một tiếng cười nhỏ v́ con vật này có một nét nào đó của ông Stuart.

"Nhưng nó không lớn hơn một con heo con!" ông phản đối. "Hăy nh́n ḱa, ông vua xiên nó trên ngọn giáo một cách dễ dàng".

"Nó đă được vẽ rất nhỏ, để chứng tỏ rằng so sánh với nhà vua nó chỉ là một vật bé nhỏ" anh thông ngôn giải thích. "cũng như quí vị có thể trông thấy các tù nhân chỉ đứng tới đầu gối nhà vua; đó không phải v́ ông ấy có một thân h́nh đồ sộ mà v́ ông ấy có rất nhiều quyền lực hơn họ. Xin hăy nh́n nữa đây, ông ấy to hơn con ngựa của ông ấy v́ ông ấy là vua và một con ngựa chỉ là một con ngựa. Một thí dụ nữa: những người đàn bà bé bỏng mà quí vị nhận ra ở chỗ này hay chỗ khác đều là những người vợ tầm thường của ông ấy!"

"Thật đẹp mặt!" Cô Adams la lên với sự giận dữ. "Nếu người ta khắc được linh hồn của vị vua này, th́ hẳn ta phải có một cái kính hiển vi để xem cái linh hồn đó. Liệu ta có thể chấp nhận được rằng ông ấy đă cho phép các bà vợ ông ấy được trưng bày ra theo cái cách thật lố bịch này không?"

"Nếu ông ấy sống vào thời đại chúng ta" ông người Pháp nói. "th́ trong lĩnh vực này ông ấy sẽ vấp phải nhiều khó khăn hơn là ông ấy đă từng gặp phải ở Mésopotamie. Nhưng thời gian sẽ đem lại những sự phục hận. Có thể là rồi đây chúng ta sẽ nh́n thấy h́nh ảnh một người đàn bà cường tráng và người chồng bé nhỏ tầm thường của bà ta, phải không?"

Cecil Brown và Headingly đứng ở phía sau, v́ những lời b́nh luân điên đảo thị phi của anh thông ngôn và những câu nói dông dài vô bổ của các du khách đă làm ngột ngạt cảm giác về sự trang nghiêm của họ. Họ lặng lẽ đứng nh́n cái đám rước kỳ quái của những chiếc mũ che nắng và những chiếc khăn trùm đầu màu xanh này diễu hành trước bức tường thành xám x́ cổ lỗ. Bên trên đầu họ hai con chim sẻ quạt vừa bay chập chững vừa gọi nhau ở giữa những cây cột trụ đổ nát hoang tàn.

"Đó có phải là một sự báng bổ không?" cuối cùng người đàn ông xuất thân từ Oxford lẩm bẩm nói.

"Này, tôi hài ḷng với cảm tưởng của ông! Nó tương hợp với ư của tôi" Headingly trả lời. "Tôi không biết rơ người ta phải tiếp cận loạt sự vật này như thế nào, một khi ta chấp nhận rằng họ phải tiếp cận chúng, nhưng chắc chắn đây không phải là cách đúng. Tóm lại tôi ưa thích những cảnh hoang phế mà tôi chưa nh́n thấy hơn là những cảnh mà tôi đă thấy... ".

Nhà ngoại giao trẻ ném cho ông ta một cái nh́n đầy nhiệt t́nh, mỉm cười, nhưng rồi ông lấy lại ngay bộ mặt của con người đă quá chai ĺ.

"... Tôi có một tấm bản đồ" ông người Mỹ nói tiếp, "Đôi khi ở rất xa mọi sinh vật, ở tận giữa băi sa mạc, không có nước, không có đường ṃn, tôi đọc thấy "phế tích" hay "di tích một đền đài". Ngôi đền của Jupiter Ammon chẳng hạn, một trong những đền đài danh tiếng nhất trên thế giới lại ở cách xa hàng trăm cây số với bất cứ một vật nào. Đó là những phế tích hẻo lánh bị che dấu, tồn tại qua nhiều thế kỷ, làm kích động trí tưởng tượng của con người. Nhưng khi tôi xuất tŕnh một tấm vé ở ngoài cửa và khi tôi đi vào như tôi đă đi vào trong gánh xiếc Barnum, th́ tất cả vẻ thơ mộng, tất cả sự vi diện đều tan biến".

"Hoàn toàn đúng! " Cecil Brown trả lời trong khi nh́n ra sa mạc bằng một con mắt ảm đạm và khắt khe. "Nếu người ta có thể đi chơi ở đây một ḿnh thôi, do sự t́nh cờ mà đi tới, và trong sự hiu quạnh hoàn toàn đứng trước những bức phù điêu kỳ quặc này th́ thật là không thể cưỡng được. Có lẽ người ta sẽ muốn quỳ lạy trong sự kinh hăi và cảm mến. Nhưng khi Belmont rít cái ống vổ kếch xù của ông ấy, khi Stuart bắt người ta phải nghe cái giọng kḥ khè hen suyễn của ông ấy, khi cô Sadie Adams phá lên cười...".

" Và khi con chim cà cưỡng thông ngôn này đọc bài của anh ấy!" Headingly thở dài. "Tôi chỉ có một mong muốn, ngồi im lặng và suy ngẫm, tôi đă không bao giờ thỏa măn được sự mong muốn đó. Đă có lúc tôi gần phạm phải tội sát nhân khi tôi đang đứng trước Kim Tự Tháp lớn và tôi đă không có thể hưởng được một khoảnh khắc yên tĩnh, v́ người ta đă làm tôi điên đầu lên với những lời rao hàng. Tôi đă nện cho gă bán hàng một cái đá, cái đá này suưt nữa đă giết chết hắn ta trên mũi giày! Khi tôi nghĩ rằng tôi đă thực hiện một chuyến đi từ Mỹ Châu để xem Kim Tự Tháp, và một khi đứng trước nó, tôi đă chẳng thấy ǵ tốt đẹp hơn là việc tặng cho anh chàng người Ả Rập một cái đá!"

Người cựu sinh viên Oxford cười một cách dịu dàng. Ông nói:

- Họ lại lên đường ḱa!

Rồi họ thúc những con lừa của họ đi về phía trước để đi vào phía sau đám rước buồn cười này, bây giờ th́ đám rước đi vào giữa những núi đá lớn, giữa những ngọn đồi lởm chởm đá. Một con đường nhỏ hẹp và ngoằn ngoèo len lỏi giữa những tảng đá. Phía sau các du khách chân trời bị che khuất bởi những ngọn đồi khác trông đen ng̣m và kỳ quái như những đống bă quặng ở một cái giếng khai mỏ. Sự yên lặng ngự trị trong toán người. Nét mặt thường ngày vui vẻ của Sadie sa sầm lại như để suy ngẫm về sự phũ phàng của tạo hóa. Đoàn hộ tống xích lại gần nhau, tiến bước theo hàng một. Ông đại tá và Belmont vẫn phi ngựa đi tiên phong.

"Ông Belmont, ông có biết không?" ông đại tá hạ thấp giọng nói. "Có lẽ ông sẽ cho tôi là ngu ngốc, nhưng tôi không thích cái chuyến du ngoạn nhỏ nhặt này".

Belmont phát ra một tiếng cười gằn nhỏ.

"Từ trong pḥng của tàu Korosko nh́n ra th́ mọi thứ đều có vẻ hoàn hảo. Bây giờ khi chúng ta ở đây chúng ta cảm thấy một cách mơ hồ một cái ǵ đó trong không khí", ông ta nói. "Tuy nhiên tuần lễ nào các du khách cũng tới đây, và chưa từng bao giờ xảy ra một sự cố nhỏ nhặt nào".

"Tôi tự ư chấp nhận các sự rủi ro khi tôi đi trên con đường của chiến tranh", ông đại tá trả lời. "Chiến tranh rất thành thật, người ta biết rằng với nó th́ người ta phải chạm trán với cái ǵ. Nhưng khi ta dẫn theo các phụ nữ, và khi ta được ban tặng một toán hộ tống tồl tệ như toán này, th́ đúng là chơi đùa với lửa! Tất nhiên là có chín mươi chín phần trăm vận may là mọi việc sẽ suông sẻ, nhưng nếu điều trái ngược xảy ra... Tốt nhất là đừng nghĩ tới chuyện đó! Điều đáng khen là họ hoàn toàn không biết rằng xứ sở này rất nguy hiểm".

"Tôi à, tôi rất thích những cái áo dài của người Anh để đi bộ đường dài, ông Stephens ạ!" Sadie cất tiếng nói đằng sau họ. "nhưng với một cái áo dài để mặc buổi chiều th́ tôi tin rằng các thợ may người Pháp có nhiều kiểu cách hơn là các đồng nghiệp người Anh của họ. Những người tạo mẫu thời trang của các ông có những sở thích nghiêm ngặt, và họ ít biết khai thác những dây băng và những cái nơ".

Ông đại tá mỉm cười.

"Dù sao th́ cô ấy cũng có một tâm hồn trong sáng!" ông nói với Belmont. "Tôi sẽ không nhắc lại với ai điều mà tôi vừa nói với ông, và tôi hy vọng rằng những nỗi lo sợ của tôi sẽ tự phơi bày ra là không có cơ sở vững chắc".

Belmont trả lời:

- Xin ông hiểu cho là tôi cũng tưởng tượng rằng những băng đảng thầy tu Hồi giáo đang đi trộm cướp kiếm mồi nhưng sẽ không thể có chuyện là chúng đợi đúng cái ngày mà chúng ta đi qua nơi này.

- Biết rằng một cuộc quảng cáo rầm rộ đă được tung ra về các sự di chuyển của chúng ta và rằng mọi người đều biết trước một tuần các cuộc du ngoạn được xếp đặt cho chương tŕnh của chúng ta, th́ sự trùng hợp sẽ không có ǵ là kỳ lạ!

"Sự rủi ro một phần trăm, ông đă nói mà!" Belmont lẩm bẩm nói, trong thâm tâm ông thấy vui thích khi biết rằng bà vợ ông được an toàn trên con tàu.

Chả mấy lúc họ ra khỏi vùng ngổn ngang sỏi đá, chỗ làm cản trở bước đi của những con lừa, bây giờ th́ băi cát vàng, mịn trải dài ra cho tới chân quả đồi h́nh chóp đứng sững trước mặt họ. "Ây-a! Ây-a!" những người dắt lừa vừa quát vừa lấy roi đánh vào mông các con vật, những con vật này chạy nước đại và lao ḿnh vào trong cánh đồng. Chúng chỉ dừng lại ở dưới chân con đường nhỏ leo lên núi, theo lệnh của anh thông ngôn.

- Thưa quí bà và quí ông, bây giờ chúng ta đă tới chân ngọn núi Abousir lừng danh. Đứng trên đỉnh núi này, quí vị sẽ phát hiện ra một toàn cảnh rất đa dạng, nhưng trước hết quí vị sẽ nhận thấy trên vách đá các bậc vĩ nhân đă khắc tên của họ vào đá, những vị này đă đi qua đây trong các cuộc hành tŕnh của họ, có khi c̣n trước cả lúc Chúa Ki Tô giáng sinh.

"Ông có Moise không?" Cô Adams hỏi:

"Cô ơi, cô làm cháu kinh ngạc đó!" Sadie kêu lên.

- Tại sao, hở cháu cưng? Ngài ở nước Ai Cập, đó là một bậc vĩ nhân, rất có thể là ngài đă du ngoạn ở nơi này.

"Rất có thể là tên của Moise có ở đó, cũng như tên của Hérodote", anh thông ngôn tuyên bố một cách nghiêm trọng, "nhưng cả hai đều đă phải gánh chịu sự phũ phàng của thời gian, ngược lại ở đằng kia, trên tảng đá màu nâu, quí vị sẽ đọc thấy tên của Belzoni. Trên cao hơn là tên của Gordon. Không có một nhân vật nổi tiếng nào ở Soudom mà quí vị không thể t́m thấy tên nếu quí vị chịu khó t́m một chút. Và bây giờ, với sự cho phép của quí vị chúng ta sẽ để những con lừa ở đó để đi bộ leo lên bằng con đường này, từ trên đỉnh núi quí vị sẽ nh́n thấy con sông và sa mạc...".

Sau hai hay ba phút leo trèo các du khách đă tới chỗ bằng phẳng h́nh bán nguyệt nằm trên ngọn núi. Phía dưới chân họ, ở một bên, một ghềnh đá đen x́ đứng thẳng, cao tới năm chục mét, cắm sâu xuống những xoáy nước sủi bọt của sông Nil. Tiếng ầm ́ inh tai của con sông và tiếng rít lên của nước sông chảy ồ ạt giữa các tảng núi đá vang lên một cách quái dị trong không khí oi nóng và im ĺm. Đằng xa ở thượng nguồn hay hạ nguồn, họ trông thấy ḍng sông rộng tới bốn trăm mét, mạnh mẽ, sâu thẳm và gần như đen kịt. Ở mạn bên kia, trải ra một khoảng bao la hoang vu, đó đây rải rác những tảng đá đen x́, vốn là những thứ đá vụn do sông Nil mang tới khi nó chảy tràn khỏi ḷng sông. Không một nơi nào có vết tích của đời sống con người.

"Ở đằng kia", người thông ngôn chỉ về hướng Đông "là con đường quân sự đi từ Ouadi-Halfa tới Sarras. Sarras ở về phía Nam, dưới cái núi đen này. Hai quả núi xanh mà quí vị trông thấy ở chân trời đều nằm trong sứ Dongola, cách Sarras hơn một trăm cây số. Con đường xe lửa dài sáu mươi lăm cây số, nhưng nó đă chịu thiệt hại nhiều v́ bọn thầy tu Hồi giáo, bọn này rất thích chế biến các đường rầy thành những ngọn giáo. Chúng cũng rất thích những sợi dây của máy điện báo. Bây giờ nếu quí vị muốn quay trở về, tôi sẽ giải thích với quí vị những ǵ quí vị sẽ có thể nh́n thấy ở mạn bên kia...".

Đó là một toàn cảnh mà ta không thể quên được sau khi đă nh́n thấy một lần. Cái dải sa mạc hoang dă và liên tu bất tận này có phải là thuộc về một hành tinh đă tiêu ṃn và nguội lạnh hay thuộc về trái đất khoan dung của chúng ta? Nó kéo dài cho tới một đám sương mù nhẹ màu tím có vẻ như là chỗ tận cùng của thế giới. Ở lớp thứ nhất, cát có một màu vàng đẹp rực rỡ mà nắng làm thành chói ḷa. Sáu người lính trung thành da đen dừng lại ở phía dưới, họ im ĺm bất động tựa vào những khẩu súng của họ, mỗi người chiếu ra một cái bóng có vẻ cũng chắc nịch như chính con người của họ vậy. Ở bên ngoài cái cánh đồng vàng hoe này những đống cặn kim loại đen x́ xếp thành từng hàng, được phân cách nhau bởi những thung lũng cát thổ hoàng. Những đống cặn kim loại này bị che lấp bởi những quả đồi cao hơn và có h́nh dạng kỳ quái hơn, những quả đồi này xếp thành tầng và kề sát nhau cho tới lúc tan biến vào trong màn sương mù xa xôi, tím ngắt. Trong những quả đồi này, không quả nào có được một độ cao đáng kể; quả cao nhất có thể được một trăm năm mươi hay hai trăm mét; nhưng các chóp đỉnh h́nh răng cưa của chúng, những vách dựng đứng bằng đá đă bị nắng nung chín đă cho chúng một vẻ tàn bạo, khủng khiếp.

"...Băi sa mạc của nước Libye" anh thông ngôn loan báo trong lúc giơ tay lên một cách kiêu hănh. "Một sa mạc lớn nhất thế giới. Giả dụ quí vị đi từ chỗ này về hướng Tây, và quí vị không rẽ ngang về hướng Bắc hay về hướng Nam, th́ những cái nhà đầu tiên mà quí vị nh́n thấy sẽ là những căn nhà ở nước Mỹ. Thưa cô Adams, tôi nghĩ rằng sự giả thiết này làm cho cô nhớ nhà phải không?".

Nhưng cô gái già người Mỹ đă không nghe anh nói nữa. Sadie đă nắm lấy cánh tay cô và với bàn tay kia nàng chỉ cho cô một vật ǵ trong băi sa mạc.

"Ồ, đây là mức tột độ của sự mỹ lệ!", cô kêu lên, mặt đỏ bừng v́ bị khích động. "Ông Stephens, hăy nh́n ḱa! Chỉ c̣n thiếu một vật nữa là quang cảnh được hoàn hảo! Hăy nh́n những người ngồi trên lưng lạc đà đang nhô ra từ các ngọn đồi!".

Lúc đó tất cả bọn họ đều trông thấy một hàng dài những kỵ binh quấn khăn đỏ đang thúc những con lạc đà ra khỏi một khe núi. Một sự im lặng chụp xuống, im lặng quá đến nỗi họ có thể nghe rơ được tiếng vo ve của những con ruồi. Đại tá Cochrane vừa bật một que diêm, rồi ông đứng im bất động không nghĩ tới việc châm lửa vào điếu thuốc lá, và ngọn lửa làm bỏng các ngón tay ông, Belmont huưt sáo qua các khe răng. Anh thông ngôn đứng há hốc mồm ra, cặp môi béo mọng và đỏ thắm của anh ta, trở nên xám ngoẹt. Những người khác nh́n nhau, khó chịu trước màn phụ diễn bất ngờ của chương tŕnh. Ông đại tá phá tan sự im lặng.

Ông nói:

- Ông Belmont này, nhờ ơn trên phù hộ, tôi nghĩ rằng đây là một phần trăm sự rủi ro đă xuất hiện đó!

Chương 4:

"Mansoor, thế này là nghĩa làm sao?" Belmont kêu lớn với một giọng thô lỗ, "những người đó là ai, và tại sao anh đứng hai mắt trợn trừng như thể anh đă hóa thành pho tượng bằng muối vậy?"

Anh thông ngôn, trước khi trả lời, thè lưỡi liếm vào cặp môi khô khan của anh ta . Anh ta nói ấp úng: "Tôi không biết họ là ai".

"Họ là ai?" ông người Pháp quát lớn. "Anh chỉ cần nh́n cho rơ. Đó là những người có vơ trang cưỡi lạc đà: những người Bédouins như là những người mà chính quyền trên biên giới thường thuê mướn".

"Xin ơn trên phù hộ, có lẽ ông ấy nói đúng, Cochrane ạ!" Belmont quay lại phía viên đại tá và nói: " Tại sao những người kia lại không phải là những bằng hữu?"

"Chúng ta không có bằng hữu trên bờ bên này của sông Nil", ông đại tá trả lời với một giọng quả quyết. "Tôi hoàn toàn biết chắc về việc đó. Chúng ta sẽ sai lầm khi tự lừa dối ḿnh. Chúng ta phải chuẩn bị cho điều tệ hại nhất".

Bất kể những lời nói này, các du khách vẫn im ĺm bất động, đứng sát vào nhau và nh́n xuống cánh đồng. Sự kinh động bất ngờ này đă làm họ điếng người, họ đang sống trong một giấc mộng không có bản ngă của họ, mơ hồ và phi thực tại. Những kỵ binh đă đi ra từ một khe núi ở cách con đường họ vừa đi qua chừng một ngàn năm trăm mét, như thế là chúng đă cắt hết đường rút lui của họ. Theo như đám bụi bốc lên và chiều dài của đám người th́ người ta có thể nói là cả một đoàn quân đang xuất hiện từ những quả đồi. Thật t́nh th́ bảy mươi người cưỡi trên lưng lạc đà cũng che phủ được một mảng đất lớn.

Sau khi chúng đă tới cánh đồng cát, chúng xếp thành hàng và sau một hồi kèn chát chúa chúng xông lên theo hàng ngang, những cái bóng sặc sỡ nhiều màu của chúng chao đảo trên những cái yên của chúng; cát bốc tung lên thành một đám mây vàng lăn theo dưới chân những con lạc đà. Vừa nh́n thấy những sự việc này, sáu anh lính da đen đă lùi lại và ẩn ḿnh trên sườn đồi đằng sau những tảng đá, như những binh sĩ đă thành thạo trong việc tập luyện, những hộp cơ bẩrn kêu lách cách cùng một lúc khi viên hạ sĩ ra lịnh cho họ nạp đạn vào súng.

Sự hoảng hốt đầu tiên của các du khách lúc đó đă nhường chỗ cho sự thi triển lớn lao về nghị lực, vừa cuồng nhiệt, vừa bất lực. Tất cả bọn họ đều bắt đầu chạy trên khoảng đất bằng trong sự vội vă không có mục đích, trông họ giống như một đàn gà vịt bị hoảng sợ trong sân chuồng. Họ đă không có thể quyết định nh́n nhận là họ không c̣n một phương cách nào để thoát hiểm cả. Đă nhiều lần họ cúi xuống bên trên cái mép của ghềnh đá lớn đâm sâu xuống sông Nil, nhưng người trẻ nhất và người táo bạo nhất trong nhóm họ cũng không bao giờ có thể tụt xuống chiều cao của cái vách đá nhẵn thín này. Hai người đàn bà níu chặt lấy tay của Mansoor trong lúc anh này run lẩy bẩy, như thể các cô cho là anh ta phải chính thức chịu trách nhiệm về sự an toàn của mọi người. Stephens, người đại diện cho thân chủ trước ṭa án, không rời khỏi Sadle Adams và nói thầm th́ như một cái máy hát: "Đừng sợ cô Sadle ạ! Đừng sợ!" việc này cũng không ngăn cản được ngay chính ông ta đang run rẩy cả chân tay. Ông Fardet dậm chân, láy đi láy lại những chữ "r" khi lúng búng nói những câu không ai hiểu được và ném những cái nh́n bực bội vào các bạn đồng hành, ông thấy ḿnh đă bị họ phản bội một phần nào đó. Ông mục sư to lớn đứng rất ngay ngắn dưới cái dù của ông và cặp mắt to, hoảng sợ của ông đang quan sát sự di chuyển của những gă kỵ binh. Cecil Brown đang xoắn bộ ria ngắn của ông; ông tái người đi nhưng vẫn có vẻ khinh khỉnh. Ông đại tá, Belmont và nhà khoa bảng trẻ tuổi của Harward vận giữ được sự điềm tĩnh; họ là những người có nhiều thủ đoạn.

"Tốt nhất là chúng ta cùng đứng lại với nhau", ông đại tá nói, "không c̣n cách nào để tránh khỏi bọn chúng, do đó tốt nhất là chúng ta đừng rời xa nhau".

"Chúng đứng lại" Belmont loan báo.

"V́ chúng quan sát chúng ta, chúng bịết chắc rằng chúng ta nằm trong quyền sinh sát của chúng; do đó chúng không vội vă. Tôi không nh́n thấy điều ǵ mà chúng ta sẽ có thể làm được".

"Nếu chúng ta dấu các phụ nữ đi có được không?" Headingly đề nghị. "Chắc chắn là chúng không biết chúng ta có bao nhiêu người. Khi chúng đă bắt được chúng ta rồi, các phụ nữ sẽ có thể ra khỏi nơi ẩn nấp và trở lại tàu thủy".

"Tuyệt diệu!" ông đại tá kêu lên. "Cô Adams, xin cô vui ḷng lại đây. Mansoor, hăy mời các bà tới chỗ này! Không c̣n một giây phút nào để bỏ mất nữa".

Một phần của khoảng đất bằng không thể nh́n thấy được từ bên dưới, những người đàn ông cuống cuồng dựng lên một chỗ trú ẩn nhỏ bằng những tảng đá, những tảng đá th́ không thiếu; không cần phải lâu la ǵ để dựng nghiêng một tảng đá lớn nhất vào một núi đá; và theo lối đó làm thành một thứ mái che, rồi lấp kín hai bên bằng hai tảng đả khác cùng một màu với núi đá; thoạt mới nh́n chỗ ẩn nấp không quá lộ liễu đâu. Hai người đàn bà chui vào chỗ ẩn nấp và ngồi xuống. Sadie ôm choàng lấy bà cô trong hai cánh tay. Khi đă dựng xong chỗ trú ẩn, những nguời đàn ông đi ra nh́n những việc đang diễn ra trong cánh đồng với một tấm ḷng nhẹ nhơm hơn. Lúc tới gần ŕa của khoảng đất bằng, họ nghe thấy những phát súng đầu tiên; đó là toán hộ tống của họ bắn; nhưng những phát súng rời rạc đó đă mau chóng bị nhận ch́m trong một tiếng ầm ́ inh tai, và không khí tràn đầy tiếng rít của những viên đạn. Tất cả các du khách đều nằm nép xuống sau các tảng đá, ngoại trừ anh chàng người Pháp th́ cứ tiếp tục dậm chân và lấy tay đấm mạnh vào cái mũ rơm của ḿnh. Belmont và Cochrane ḅ xuống nơi mà những người lính Soudan đang bắn một cách b́nh tĩnh và theo đúng phương pháp, với những khẩu súng kê trên các tảng đá.

Bọn nghười Ả - Rập dừng lại ở khoảng năm trăm mét, sự ung dung trong các cử động của chúng chứng tỏ rằng chúng đă biết rơ t́nh thế tuyệt vọng của các du khách. Chúng chỉ dừng lại để đếm số du khách trước khi xông lên tấn công, một phần lớn bọn chúng ngồi trên mông lạc đà mà bắn, nhưng một vài tên đă tụt xuống đất và qú xuống. Những vết trắng nhỏ, lung linh của chúng hiện rơ ràng trên những sắc vàng của hậu cảnh. Lúc th́ chúng bắn lẻ tẻ, lúc th́ chúng bắn hàng loạt. Quả đồi kêu gầm gừ như một bọng ong; những viên đạn văng vào núi đá với một tiếng khô khan.

“Ông đứng phơi ḿnh ra như vậy chẳng có ích lợi ǵ đâu", Belmont nói.

Ông kéo ông đại tá vào phía sau một tảng đá lớn, gồ ghề, nơi đă có ba người lính Soudan ẩn núp.

"Một viên đạn là điều mà chúng ta có thể hy vọng là tốt nhất", Cochrane trả lời với một nụ cười ảm đạm. "Belmont ạ, tôi thật là ngu ngốc quá chừng khi không phản đối một cách cương quyết hơn cuộc du ngoạn kỳ cục này! Tôi hoàn toàn xứng đáng với những ǵ xảy ra

với tôi, nhưng khi tôi nghĩ tới những người bất hạnh kia, họ không nghi ngờ tới một chút hiểm nguy nào..."

- Tôi giả thiết rằng chúng ta không thể hy vọng có sự giải cứu?

- Không có một chút nào.

- Ông có nghĩ rằng những tràng súng này có thể gợi ư cho những toán quân ở Ouadl-Halfa tới đây không?

- Ờ, nếu chúng ta không trở về, tàu thủy sẽ báo động!

- Và trong thời gian đó chúng ta sẽ ở đâu?

"Norah khốn khổ của tôi! Em bé Norah khốn khổ!" Belmont nói lẩm bẩm đằng sau bộ ria mép lốm đốm bạc của ông.

Sau một lúc yên lặng, ông hỏi:

- Ông Cochrane này, theo ư ông th́ chúng sẽ làm ǵ với bọn ta?

- Chúng sẽ cắt cổ họng chúng ta, hoặc đưa chúng ta tới Khartoun để làm nô lệ. Tôi không biết trong hai cách đó th́ cách nào dễ chịu hơn. Ḱa dù sao th́ một người trong bọn chúng ta cũng đă rũ sạch hết phiền muộn rồi !

Anh lính đang bắn bên cạnh họ vừa ngă ngồi phệt xuống, đầu anh ta gục xuống giữa hai đầu gối. Anh ta vừa bị một viên đạn bắn trúng giữa đầu. Anh ấy không động đậy nữa. Anh ấy không thốt ra một tiếng rên rỉ nào. Các bạn của anh cúi xuống bên trên xác của anh, rồi họ nhún vai và lại quay đầu về phía những tên Ả Rập. Belmont lượm lấy khẩu súng của người chết cũng như cái bao đạn của anh.

"Hơn ba b́ đạn. Cochrane ạ!" ông nói và để ba khúc đồng nhỏ lên ḷng bàn tay. "Chúng ta đă để cho họ bắn quá sớm và bắn nhiều quá. Lẽ ra chúng ta phải đợi cho bọn thầy tu xông lên tấn công đă".

"Ông đă nổi tiếng là xạ thủ thuợng thặng đó, Belmont ạ !" ông đại tá lẩm bẩm nói. "Ông không tin là ông sẽ có thể bắn hạ được tên chỉ huy của bọn chúng à?"

- Tên đó là thằng nào ?

- Tôi nghĩ nó là tên đang ngồi trên con lạc đà trắng ở bên phải. Tên đó đang nh́n về phía chúng ta, lấy hai bàn tay che lên mắt.

Belmont nạp đạn vào súng và điều chỉnh thước ngắm. Ông nói:

- Ánh sáng xấu quá khó mà ước định khoảng cách. Được, tôi sẽ thử ở khoảng năm trăm mét!...

Ông bắn, nhưng không có ǵ nhúc nhích cả, cả con lạc đà trắng, cả người ngồi trên lưng nó.

-... ông có trông thấy cát bay lên không ?

- Không, tôi không trông thấy ǵ cả.

- Tôi chắc rằng tôi đă bắn quá xa.

- Hăy thử lại một lần nữa đi.

Belmont ngắm với một sự tin chắc hoàn toàn, nhưng con lạc đà và tên chỉ huy vẫn không động đậy. Phát thứ ba chắc đă đi qua gần hơn, v́ con vật nhích nhiều bước về bên phải như kiểu nó muốn di chuyển. Belmont ném khẩu súng hết đạn xuống trong khi thốt ra một tràng than chán nản.

"Đúng là tự cái ánh sáng chết tiệt này ! " ông nói lớn, mặt đỏ bừng v́ bực bội. "Cứ cho rằng tôi đă bắn uổng ba b́ đạn! Ở Bisley th́ chắc tôi đă bắn rơi cái khăn của nó rồi, nhưng sự phản quang chết tiệt này... Điều ǵ đă xảy ra với anh chàng người Pháp?".

Ông Fardet dậm chân trên băi cát với bộ điệu một người vừa bị ong ṿ vẽ đốt

"Đồ chết toi!", ông gào lên. "Đồ chết toi!".

Những cái răng trắng ởn của ông lóng lánh dưới bộ ria mép đen. Ông vặn xoắn một cách dữ dội bàn tay phải của ông và máu chảy dọc theo các ngón tay của ông. Một viên đạn đă làm sượt cổ tay ông. Headingly phóng ḿnh ra khỏi nơi trú ấn mà ông đă nấp, chắc chắn là ông có ư định bắt buộc anh chàng người Pháp nằm xuống mặt đất, nhưng ông chưa đi được ba bước th́ một viên đạn đă bắn vào lưng ông, ông ngă gục xuống giữa những ḥn đá. Ông muốn đứng dậy, ông lảo đảo, rồi lại ngă xuống cùng một chỗ đó. Ông vùng vẫy tứ chi như một con ngựa bị găy lưng vậy.

"Chúng bắn trúng rồi!" ông ấp úng nói.

Ông đại tá chạy tới cứu ông, nhưng Headingly không động đậy nữa, đôi má trắng bệch của ông t́ lên những ḥn đá đen x́. Một năm trước đây, khi ông đi dạo chơi dưới những cây du của trường Cambridge, không bao giờ ông nghĩ rằng cuộc đời trần thế của ông sẽ bị chặt đứt trong sa mạc Libye bởi viên đạn của một tên hồi giáo cuồng tín.

Tiếng súng của toán hộ tống đă ngưng, những người lính đă hết đạn. Một người lính thứ hai đă bị giết, và một người thứ ba, người làm chức năng của hạ sĩ, đă bị một viên đạn vào đùi, anh ta ngồi trên một mảnh đá và băng bó vết thuơng với vẻ nghiêm trọng, chăm chú của một bà già đang cố gắng gắn lại những mảnh của một cái đĩa bị vỡ. Ba người khác cắm lưỡi lê lên ṇng súng, họ quyết tâm bán mạng sống của họ càng đắt giá càng tốt.

"Chúng nó tới!" Belmont kêu lớn, ông đang quan sát cánh đồng.

"Được, chúng cứ tới đi!" ông đại tá trả lời trong khi cho hai bàn tay vào túi quần. "Ồ, lũ súc sinh! Lũ súc sinh chết toi!l".

Chính số phận, những tên dắt lừa khốn khổ đă làm mất sự điềm tĩnh của người quân nhân già. Trong lúc những phát súng được bắn qua, bắn lại, lũ trẻ bụi đời nằm chất đống lên nhau, làm thành một nhóm người đáng thuơng giữa các tảng đá, dưới chân đồi. Khi chúng nh́n thấy bọn thầy tu Hồi giáo xung kích, chúng nghĩ rằng chúng có nguy cơ trở thành những nạn nhân đầu tiên; thế là chúng nhảy tót lên lưng lừa, miệng th́ gào thét v́ sợ hăi, và chúng t́m cách chạy trốn qua cánh đồng. Nhưng tám hay mười kỵ binh đứng gác bên hông đă tiến lên trong lúc súng nổ. Chúng xông ngay vào lũ trẻ dắt lừa và chém chúng thành từng mảnh với một sự hung bạo lạnh lùng, một thằng nhỏ bụi đời chạy thoát khỏi bọn truy sát được một lúc, nhờ những bước chân dài của chúng, nhưng con lạc đà cuối cùng cũng bắt kịp con lừa của nó, con lừa này không c̣n trẻ trung nữa, và một tên Ả-Rập đă phóng ngọn giáo của y cắm sâu vào cái lưng đang cúi xuống. Những cái xác bé nhỏ mặc đồ trắng trông giống như một đàn cừu đang gặm cỏ trong băi sa mạc.

Nhưng các du khách đă không có th́ giờ để thuơng xót cho số phận những đứa bé dắt lừa. Chính ngay cả ông đại tá, sau sự bùng nổ của cơn giận dữ, ông cũng quên ngay bọn chúng. Bọn kỵ binh của toán tiền phong đă cho những con lạc đà phi xuống tới chân đồi; ở đó chúng nhảy xuống đất, và để mặc cho những con vật qú phục xuống một cách lặng lẽ, chúng tiến bước trên con đường nhỏ dẫn tới chỗ đất bằng. Chúng có năm mươi tên nhảy nhót từ tảng đá này sang tảng đá nọ. Không một phát súng, không chậm trễ, chúng tràn ngập ba người lính da đen, giết chết một người, và dẫm lên hai người khác, rồi chúng xuất hiện trên nền đất bằng, nơi đó một cuộc chống cự bất ngờ đă chặn chúng lại một lúc.

Đứng sát vào với nhau, các du khách đang chờ đợi bọn Ả Rập tới, mỗi người một tâm trạng khác nhau. Ông đại tá, tay đút trong túi quần, đang gắng gỏi huưt sáo miệng, mặc dù môi ông đă khô khổng. Belmont th́ khoanh tay đứng tay vào một tảng đá, đầu cúi gằm, ông cau mày một vẻ bực bội, trí năo con người đă được sinh ra như vậy, cho nên anh chàng người Ái Nhĩ Lan cảm thấy bối rối v́ ba viên đạn đă mất và v́ một t́ vết vào danh tiếng xa thủ thuợng thặng hơn là v́ cái số phận đang chờ đợi ông. Cecil Brown đứng thẳng người, cứng nhắc, nôn nóng kéo những cái đầu của những sợi râu mép lưa thưa. Ông Fardet vừa làu bàu vừa nh́n cái cổ tay đầy máu me của ông. Ông Stephens lắc đầu trong lúc suy nghĩ tới sự bất lực cực nhọc của ông và tiêu biểu khá đúng cho cái trật tự và luật pháp đang bị nhạo báng.

Ông Stuart, lúc nào cũng được che kín bởi cái dù của ông, th́ có một bộ mặt lầm ĺ và một cái nh́n chăm chú. Headingly th́ nằm bất động trên tảng đá : cái mũ của ông đă rơi mất; ông có vẻ rất trẻ với mái tóc vàng hoe bù xù và những đường nét rất rơ ràng. Anh chàng thông ngôn th́ ngồi trên một ḥn đá và vặn xoắn hai bàn tay một cách bồn chồn, nôn nóng. Đó là t́nh trạng của họ mà bọn Ả Rập đă bắt gặp trên ḷng đường khi chúng tràn ra.

Và rồi trong lúc những tên xung kích đầu tiên xông tới để bắt những nạn nhân của chúng th́ một sự cố hoàn toàn bất ngờ đă chặn chúng lại. Từ lúc nh́n thấy bọn thầy tu Hồi giáo, vị mục sư to béo của Birmingham đă cho người ta ấn tượng một người toàn thân bị cứng đơ. Ông đă không nhúc nhích, ông đă không há miệng ra nhưng bất th́nh ĺnh ông nhảy chồm lên với một khí lực vừa dũng mănh, vừa oai hùng. Phải chăng ông đă bị thúc đẩy bởi ruột thứ cuồng điên nảy sinh từ sự hoảng sợ? Ḍng máu của một vị tổ tiên đă đột ngột thức dậy trong các mạch máu của ông chăng? Sự thật là ông đă phát ra một tiếng kêu man dại, cướp lấy một cây gậy và bắt đầu đánh những tên Ả Rập với một sự hung hăn c̣n dữ tợn hơn cả sự hung hăn của chúng. Một người trong các nhân chứng của cảnh này đă khẳng định với tôi rằng trong tất cả những h́nh ảnh đă làm sáng rực kư ức của ông, không có h́nh ảnh nào được lưu lại rơ ràng hơn cái h́nh ảnh của con người to lớn này, ḿnh đẫm mồ hôi và nhảy nhót với một sự mau lẹ không thể tưởng tượng được, dùng hết tay này tới tay khác đánh vào những tên Ả Rập vừa thoái lui, vừa la hét om ṣm. Rồi từ phía sau một tảng đá một ngọn giáo bay từ thấp lên cao, và vị mục sư ngă quị xuống, rồi cả đàn những tên xung kích chạy ùa ra dẫm lên trên xác ông để bắt giữ các du khách. Những con dao lấp lóe sáng, nhưng bàn tay thô cục nắm lấy cổ tay họ và cổ họ, họ bị xô đẩy và đem đi một cách thô bạo trên con đường nhỏ, mà phía dưới nó những con lạc đà đang đứng đợi.

"Quốc vương vạn tuế!" Tù trưởng vạn tuế!" anh chàng người Pháp kêu lên trong lúc vung vẩy cái bàn tay không bị trói của anh ta.

Một nhát báng súng vào lưng bắt ông ta im lặng.

Vào lúc này th́ cái nhóm nhỏ các khách du ngoạn đang đứng dưới chân núi Abousir, nếu bọn người Ả Rập không vung vẩy những khẩu súng của chúng th́ họ đă có thể tưởng rằng họ bị sa vào tay những tên man rợ của thế kỷ thứ bảy. Thật sự không có một chút ǵ khác biệt giữa những kẻ bắt cóc họ với những chiến binh của sa mạc là những người đầu tiên đă mang biểu tượng lưỡi liềm ra ngoài nước Ả Rập. Đông phương là bất biến. Những tên kẻ cướp thầy tu Hồi giáo vẫn không kém dũng cảm, kém hung bạo, kém cuồng tín hơn là tổ tiên của chúng. Chúng đứng thành ṿng tṛn, tựa lên những khẩu súng hay những ngọn giáo của chúng, và ngắm nghía những kẻ bị bắt với những cái khăn đỏ thắt nút quanh cổ và quanh đầu, đến nỗi mà những cái nh́n hung hăn của chúng nom như toé lên từ một cái khung đỏ sẫm, những đôi giày màu vàng bằng da sống, một cái áo dài trắng với những mảnh nâu và vuông ghép lại với nhau. Tất cả bọn chúng đều được vỏ trang bằng súng, một tên trong bọn chúng nó một cái tù và đeo dưới nách. Một nửa trong bọn chúng là người da đen: hai gă đàn ông đẹp trai, ḿnh đầy bắp thịt, những chàng Hercules da đen chính cống. Những tên Ả Rập bagarras họp thành một nửa kia; người nhỏ bé, da nâu khô khan, nóng nẩy, với những con mắt hung ác và những cặp môi mỏng dính. Tên chỉ huy cũng là một tên Bagarra nhưng y to lớn hơn những đồng bào của y, và một cḥm râu đen dài xuống tới ngực y; dưới cặp lông mày rậm rạp đen x́ đôi mắt lạnh lùng và cương nghị của y sáng long lanh như thủy tinh trong khi y kiểm tra các tù nhân của y. Ông Stuart đă được khiêng xuống phía dưới; ông đă bị mất cái mũ, ông vẫn c̣n bộ mặt đỏ bừng v́ giận dữ, và ở một chỗ cái quần của ông bị dính vào cẳng chân. Hai người lính Soudan c̣n sống sót, những y phục màu xanh đầy các vết máu, đang đứng yên, không nhúc nhích và rất chăm chú, bên cạnh cái nhóm người xơ xác này.

Tên chỉ huy lần lượt nh́n vào mặt họ, từng người một trong khi lấy tay vuốt ve bộ râu của y. Sau đó y thốt ra mấy tiếng với một giọng khàn khàn, oai vệ, và Mansoor bước ra, lưng khom xuống và những ḷng bàn tay cầu khẩn. Bao giờ cũng có một cái ǵ đó hài hước trong cái váy của hắn kêu xột xoạt trước ngọn gió và trong cái kiểu áo tơi không có tay che phủ hai vai của hắn; nhưng lúc này, dưới ánh nắng buổi trưa, ở giữa ṿng vây của những bộ mặt hung tợn, cái bóng của hắn đă cho thêm vào cảnh trí môt phần bổ sung kỳ cục của sự kinh hoàng. Chàng thông ngôn chào đi, chào lại như một con búp bê máy trước khi đột ngột ngă lăn ra, mặt úp xuống đất, sau một câu nói ngắn ngủi của tên chỉ huy. Anh ta vùi kín trán và hai bàn tay vào trong cát.

"'Thế là nghĩa làm sao, Cochrane?" Belmont hỏi. "Tại sao hắn lại làm cho người ta chú ư như vậy nhỉ?"

Ông đại tá trả lời:

- Theo chỗ tôi hiểu th́ tất cả đều chấm dứt với chúng ta.

"Nhưng thật là vô lư!" anh chàng người Pháp bị hoàn toàn khích động, kêu lớn lên. "Tại sao những người kia lại làm cho tôi phải đau khổ, dù là một chút ít thôi? Tôi chưa bao giờ làm hại họ cả. Ngược lại, lúc nào tôi cũng đă là bạn của họ. Nếu tôi có thể nói chuyện với họ, tôi sẽ làm cho họ hiểu được tôi. Ê này anh thông ngôn! Mansoor!..."

Những điệu bộ đầy nhiệt t́nh của ông Fardet đă lôi kéo sự chú ư của tên chỉ huy bagarra. Tên này lại phát ra một câu hỏi ngắn gọn. Mansoor qú gối dưới chân y, trả lời y.

-... Nói với ông ấy rằng tôi là người Pháp, anh thông ngôn! nói với ông ấy rằng tôi là một người bạn của Quốc Vương, nói với ông ấy rằng các đồng bào của tôi không bao giờ có xích mích với ông ấy, mà những kẻ thù của ông ấy cũng là kẻ thù của chúng tôi!

Mansoor nói:

- Ông chỉ huy hỏi ông theo tôn giáo nào. Ông ấy nói Quốc vương không cần chút nào tới t́nh bạn của những kẻ ngoại đạo và những kẻ vô tín ngưỡng.

- Hăy giải thích cho ông ấy rằng ở Pháp chúng tôi coi tất cả các tôn giáo đều tốt cả.

- Ông chỉ huy nói rằng chỉ có con chó báng bổ tôn giáo và đứa con trai của một con chó mới khẳng định rằng tất cả mọi tôn giáo cũng đều tốt như nhau. Ông ấy nói rằng nếu ông đích thực là bạn của Quốc Vương, th́ ông sẽ tiếp nhận kinh Coran và sẽ trở thành ngay tại nơi đây một tín đồ chân chính. Trong trường hợp đó, ông ấy sẽ gởi ông về Khartoum b́nh an vô sự.

- Nếu không th́ sao?

- Nếu không th́ ông sẽ chiu chung số phận với những người khác.

- Vậy th́ hăy tŕnh lên ông chỉ huy những lời chúc tụng của tôi và nói với ông ấy rằng người Pháp không có thói tục thay đổi tôn giáo dưới sự cưỡng ép.

Viên chỉ huy nói ra một vài tiếng, rồi quay lại bàn bạc với một tên Ả Rập thấp lùn đứng bên cạnh y.

"Ông ấy nói, thưa ông Fardet" anh chàng thông ngôn nói tiếp, "nếu ông c̣n nói nữa th́ ông ấy sẽ làm ông biến thành một miếng thịt băm để cho chó ăn. Xin ông đừng nói ǵ thêm làm cho ông ấy nổi giận, v́ ông ấy đang quyết định số phận của chúng ta".

"Hắn là ai vậy?" ông đại tá hỏi.

- Ali Vabrahim. Chính là người năm ngoái đă mở cuộc hành quân vào làng của người Nubie và là người đă tàn sát tất cả dân làng ở đó.

“Tôi đă nghe nói tới hắn ta", ông đại tá nói. Hắn ta đă nổi danh là một trong những tên trùm thầy tu Hồi giáo gan dạ nhất và cuồng tín nhất. Cảm ơn Thượng đế là các phụ nữ đă không lọt vào tay chúng!"

Hai tên Ả Rập trao đổi vài câu với sự dè dặt khắc khổ làm người ta kinh ngạc trong một chủng tộc ở miền Nam, chúng quay lại phía anh thông ngôn vẫn c̣n qú gối trên băi cát. Chúng đưa ra nhiều câu hỏi linh tinh về các tù nhân trong khi chỉ chỏ hết người này tới người nọ. Chúng lại bàn bạc với nhau một lần nữa, và sau cùng th́ chúng nói với Mansoor một vài tiếng, cùng lúc kèm theo một cử chỉ khinh mạn bằng bàn tay để biểu thị rằng y có thể dịch những câu này cho các du khách.

"Thưa Quí vị, ta hăy tạ ơn trời, v́ tôi tin rằng chúng ta được thoát nạn trong lúc này!" Mansoor nói th́ thào trong khi chùi cái trán lem luốc cát của y. "Ali Wad lbrahim nói rằng một kẻ vô tín ngưỡng chỉ đáng lănh một nhát kiếm của người con trai của đấng tiên tri, nhưng đấng bề trên Omdurman cho rằng có số vàng mà gia đ́nh các quí vị trả cho các quí vị th́ tốt hơn. Cho tới khi nộp khoản tiền chuộc đó, quí vị sẽ có thể làm việc như những người nô lệ của Quốc Vương trừ khi ngài quyết định bắt quí vị phải chết. Quí vị sẽ leo lên lưng lạc đà và quí vị sẽ cùng đi với đoàn quân.

Chờ tới khi chấm dứt việc thông dịch, tên chỉ huy ra một cái lệnh ngắn gọn, một tên da đen bước một bước về phía trước và giơ cao lên một thanh gươm mũi cong, dài. Anh chàng thông ngôn co dúm người lại như một con thỏ khi trông thấy một con chồn đen và y lại phủ phục xuống trên băi cát.

"Việc ǵ xảy ra vậy, Cochrane?" Cecil Brown hỏi. Quả thực viên đại tá đă từng phục vụ ở Đông Phương và ông là người duy nhất trong bọn du khách đă có một vài hiểu biết về tiếng Ả Rập.

- Theo chỗ mà tôi hiểu được th́ hắn ta nói giữ lại mạng sống của anh thông ngôn thật là vô ích, v́ không có ai quan tâm tới chuyện trả tiền chuộc cho anh ta, và anh ta lại quá mập để làm một tên nô lệ tốt.

"Rơ tội nghiệp!" Brown kêu lên "Này, Cochrane, hăy nói với bọn chúng tha mạng cho anh ta. Chúng ta sẽ không để cho anh ấy bị sát hại trước mắt chúng ta chứ? Báo cho chúng biết là chúng ta sẽ gom góp tiền bạc trong chúng ta. Tôi đồng ư với bất cứ một số tiền phải chăng nào".

"Tôi cũng tham gia cho tới giới hạn các khả năng của tôi". Belmont la lớn.

"Chúng ta sẽ kư một tờ bảo chứng", ông luật sư nói. "Nếu tôi có được một tờ giấy và một cái bút ch́, tôi sẽ thảo văn bản trong một lát, và tên chỉ huy này sẽ có thể tin vào hiệu lực của nó".

Nhưng tiếng Ả Rập của ông đại tá c̣n kém quá và chính Mansoor th́ lại quá hoảng sợ không c̣n hiểu được cái đề nghị mà anh ta là đối tượng. Tên da đen nh́n lăo chỉ huy để hỏi ư kiến, rồi cái tay dài tḥng, đen đúa của y dăn ra. Nhưng anh chàng thông ngôn gào lên một câu làm nhát chém ngừng lại, tên chỉ huy và gă phụ tá bước tới gần hắn. Những tên khác làm thành một ṿng tṛn chung quanh con người đang phủ phục van xin ḷng thương.

Ông đại tá không hiểu nguyên do của sự thay đổi đột ngột này, nhưng một bản năng đă cảnh báo Stephens làm ông tái mét đi v́ hoảng sợ.

"Ôi đồ khốn kiếp! " ông la lớn mặt tái nhợt đi. "Câm miệng mi lại, đồ khốn nạn! Im miệng đi! thà rằng chết... Phải, chết một ngàn lần!"

Đă quá trễ rồi. Những du khách đă đoán ra với phương sách đê tiện nào tên hèn nhát hy vọng cứu văn mạng sống của hắn; hắn sẽ tiết lộ những người đàn bà. Họ nh́n tên chỉ huy, mà nét mặt để lộ ra sự khinh bỉ của một con người dũng cảm, ra một dấu hiệu cao ngạo

tỏ sư ưng thuận; rồi Mansoor nói một cách vội vă trong lúc chỉ lên đỉnh núi! Theo một hiệu lệnh của tên chỉ huy, hơn mười tên chiến binh leo lên con đường nhỏ và trở lại chỗ nền phẳng; tới đó các du khách không c̣n nh́n thấy chúng nữa, họ nghe thấy một tiếng kêu sắc nhọn, một tiếng gào thét kéo dài của sự kinh ngạc và khủng khiếp. Một vài lát sau bọn man rợ tái hiện, chúng đi vây quanh hai người đàn bà. Sadle là người có đôi chân nhanh nhẹ nên đi xuống sườn đồi cùng với những tên đi đầu và cổ vũ người cô bằng cách quay đầu nh́n lại phía bà ấy! Người con gái già vùng vẫy chống cự giữa bọn chiến binh mặc đồ trắng, nàng có dáng điệu một con gà nhép bị lôi ra khỏi ổ.

Cặp mắt đen của tên chỉ huy, thản nhiên trước cảnh tượng của cô Adams, nhưng lại bốc lửa lên khi y nh́n thấy cô thiếu nữ. Theo lệnh của y, các tù nhân được dẫn tới chỗ những con lạc đà đang qú gối. Họ đă bị lục soát, các vật dụng trong túi họ được ném vào một cái bao mà Aail Wad Ibrahim đă tự tay ḿnh lấy dây buộc lại.

"Này Cochrane" Belmont th́ thầm nói. "chúng đă không phát hiện được khẩu súng lục nhỏ mà lúc nào tôi cũng mang trong người. Nếu tôi bắn hạ tên không ngôn khốn kiếp kia về tội đă tố cáo các phụ nữ có được không?"

Ông đại tá lắc đầu.

"Tốt nhất là ông hăy giữ nó đấy". Ông trả lời với một giọng ảm đạm "Các phụ nữ sẽ có thể rất cần tới nó trước khi kết thúc mọi chuyện này!”.



 

Pages  1  2  3  Next