Chương 1 -
Làm quen với
Sherlock Holmes
Năm 1878, tôi tốt nghiệp tại trường Đại học Y
London, sau đó đến Netley dự khóa tu nghiệp dành cho các bác sỹ
quân y. Học xong, tôi được bổ nhiệm về trung đoàn bộ binh
Northumberland số 5, khi ấy đang đóng tại Ấn Độ. Tôi chưa kịp
tới đơn vị của ḿnh th́ cuộc chiến tranh Afghanistan lần thứ hai
bùng nổ. Đặt chân lên Bombay, tôi được biết đơn vị và tới được
Kandahar an toàn. Tại đây, tôi gặp trung đoàn của ḿnh.
Tôi bị chuyển sang trung đoàn Berkshires và tham dự trận đánh
Maiwand. Trong trận này, tôi bị thương ở vai, nếu không có người
lính hầu xốc tôi lên ngựa và đưa về phía sau chiến tuyến, th́
tôi đă rơi vào tay quân địch rồi.
Kiệt sức, tôi được đưa về bệnh viện hậu phương Peshawar. Tại
đây, tôi b́nh phục dần, và lúc đó có thể ra sưởi nắng ngoài
hiên, th́ lại bị thương hàn. Trong hàng tháng trời, người ta ra
sức cứu sống tôi; đến ngày khỏi bệnh, tôi gầy yếu đến nổi Cục
quân y phải đưa tôi về Anh lập tức. Một tháng sau, tôi đặt chân
lên bến cảng Portsmouth, chính phủ cho tôi nghỉ chín tháng để
lấy lại sức.
V́ không có bà con ở Anh nên tôi được tự do như gió trời, với 11
shillings[1] 6 pence[2] mỗi ngày. Trong t́nh cảnh đó, tôi bị thu
hút về London với một sức mạnh không cưỡng lại nổi. Ở đây, tôi
sống ít lâu tại một khách sạn, nhưng chẳng bao lâu tôi thấy ḿnh
nên đi t́m một nhà trọ xuyềnh xoàng và đỡ tốn kém hơn.
Đúng vào hôm tôi đi đến quyết định này, khi đang ở một quán rượu
th́ bỗng có người vỗ vai tôi. Ngoảnh lại, tôi nhận ra Stamford,
một thanh niên trước đây làm y tá dưới quyền tôi. Trước đây, tôi
chưa bao giờ thật thân với Stamford nhưng bây giờ tôi vồ vập
chào đón anh ta và gặp tôi, Stamford xem chừng cũng hoan hỉ lắm,
tôi mời anh ta đi ăn trưa tại khách sạn. Chúng tôi gọi xe ngựa,
và trong lúc chiếc xe chạy, Stamford hỏi tôi:
- Dạo này ra sao? Trông anh gầy quá.
Tôi phác qua vài nét về những bước thăng trầm của ḿnh. Chuyện
vừa xong th́ xe cũng tới quán ăn.
- Khốn khổ! Thế anh tính sao bây giờ?
- Tôi định t́m một nơi ở tiện nghi với một cái giá phải chăng.
- Lạ thật! Anh là người thứ hai trong ngày hôm nay ngỏ với tôi
cái ư ấy.
- Ai là người thứ nhất?
- Một anh chàng làm việc tại pḥng thí nghiệm hóa học ở bệnh
viện. Sáng nay, anh ta phàn nàn là không t́m được ai để ở chung
hầu giảm được một nửa tiền thuê nhà.
- Tôi cũng vậy. Tôi nghĩ ở chung hay hơn ở một ḿnh.
Stamford cầm ly rượu, nh́n tôi với một vẻ khó hiểu:
- Anh chưa biết Sherlock Holmes. Có thể anh sẽ không thích anh
ta.
- Anh ta có ǵ đáng chê trách?
- Ồ! Anh ta có những ư kiến hơi kỳ quặc. Anh ta nghiên cứu say
mê cuồng nhiệt một vài ngành khoa học. C̣n ngoài ra, anh ta là
một người lịch sự, đúng mực.
- Sinh viên Y khoa?
- Không, tôi không hiểu anh ta định học cái ǵ; rất giỏi về giải
phẫu, về hóa học, nhưng chưa hề theo học một lớp học chính quy
nào. Anh ta học theo lối cóc nhảy, song trong nhiều lĩnh vực,
anh ta đă thu nhập được một số vốn hiểu biết rộng lớn đến nỗi
các giáo sư phải kinh ngạc.
- Anh không hỏi anh ta định theo ngành nghề nào sao?
- Đó là một con người không dễ khơi chuyện, tuy rằng những khi
cao hứng, anh ta cũng thích chuyện tṛ.
- Nếu phải ở chung với ai, tôi muốn đó là một người ham học và
yên tĩnh. Hiện nay tôi chưa khỏe nên rất sợ tiếng ồn. Tôi gặp
bạn anh bằng cách nào?
- Anh ta hiện đang ở pḥng thí nghiệm. Ăn xong, chúng ta sẽ đi
đến đấy.
Trên đường đi, Stamford cho tôi biết thêm một vài chi tiết nữa
về Sherlock Holmes.
- Về Holmes, tôi không biết ǵ hơn ngoài những điều tôi hiểu qua
các buổi gặp gỡ tại pḥng thí nghiệm. Chính anh đă đề xuất ư
kiến ở chung, may nhờ rủi chịu đấy nhé!
- Nếu không hợp, chúng tôi sẽ chia tay nhau. Nhưng, h́nh như có
một lư do nào đó khiến anh muốn phủi tay khỏi việc này. Tính
t́nh người ấy khó chịu đến vậy ư?
- Không dễ diễn đạt được cái không thể diễn đạt nổi. Sherlock
Holmes có tính t́nh gần như lạnh lùng, sắt đá. Anh ta rất có thể
cho một người bạn uống thử một nhúm alkaloide thực vật loại mới
nhất, không phải v́ độc ác mà chỉ v́ muốn biết hiệu lực của chất
độc ấy như thế nào. Công bằng mà nói, tôi tin rằng bản thân anh
ta cũng có thể sẽ dùng thử một thử một cách sốt sắng không kém.
- Thế th́ rất tốt chứ sao?
- Đúng, nhưng việc lấy gậy đánh vào xác chết, th́ phải nói là
quái gở.
- Anh ta đánh xác chết?
- Phải, để xem người ta có thể gây ra những thương tích như thế
nào trên cơ thể một người đă chết. Chính mắt tôi đă nh́n thấy
anh ta làm như thế.
- Vậy mà hồi năy anh nói Holmes không học ngành Y?
- Không mà! Mà thôi, ta đến nơi rồi, anh tự đánh giá nhân vật
ấy.
Chúng tôi đi theo một lối hẹp, qua chiếc cửa phụ nhỏ, bước vào
mé nhà của khu bệnh viện lớn. Gần cuối hành lang có một lối rẽ
nhỏ, dẫn đến pḥng thí nghiệm hóa học. Đấy là một gian pḥng
cao, các giá trên tường để đầy chai lọ. Đây đó có mấy cái bàn
rộng và thấp, mặt bàn bề bộn những b́nh cổ cong, ống nghiệm, đèn
hơi với ngọn lửa xanh lè. Trong pḥng chỉ có mỗi một người đang
chúi mũi xuống một chiếc bàn. Nghe tiếng chân chúng tôi, anh ta
đảo mắt nh́n quanh rồi reo lên một tiếng và vội vă đứng lên.
- Tôi t́m ra rồi! Tôi t́m ra rồi!” Anh ta reo lên với Stamford
và hấp tấp đi về phía chúng tôi, tay cầm một ống nghiệm “Tôi đă
t́m ra một thuốc thử có đặc tính làm kết tủa huyết cầu tố mà
không làm kết tủa bất kỳ chất nào khác.
Giá như anh ta có thấy một mỏ vàng th́ sự vui mừng cũng chỉ đến
thế là cùng. Stamford giới thiệu:
- Đây là bác sỹ Watson, đây là ông Sherlock Holmes.
Holmes thân mật bắt tay tôi với một sức mạnh mà tôi không nghĩ
có thể có ở anh ta.
- Chào ông, ông ở Afghanistan về, phải không?
- Làm sao ông biết? - Tôi kinh ngạc hỏi lại.
- Có ǵ đâu. Cái điều quan trọng bây giờ là huyết cầu tố. Chắc
ông hiểu được phát minh của tôi có tầm quan trọng như thế nào
chứ?
- Một phát minh lư thú về mặt hóa học, nhưng về mặt thực tế...
- Ông nói lạ! Đây là phát minh có giá trị thực tiễn nhất từ bao
nhiêu năm nay trong ngành pháp y. Ông không thấy là nó giúp ta
xác định một cách không thể nhầm lẫn những vết máu à? Mời ông
lại gần đây! - Trong lúc hào hứng, anh ta nắm lấy tay áo tôi,
kéo lại chiếc bàn anh ta đang làm việc.
- Ta lấy một ít máu tươi nhé. - Vừa nói anh ta vừa lấy kim đâm
vào đầu ngón tay, nặn ra một giọt máu và lấy ống hút hút
- Bây
giờ, tôi ḥa chút xíu máu này vào một lít nước. Ông thấy hỗn hợp
ấy trông y như nước, tỷ lệ của máu trong đó không thể quá một
phần triệu. Dẫu vậy, tôi hoàn toàn tin chắc ta sẽ có được phản
ứng đặc trưng.
Nói xong, Holmes thả vào trong b́nh một vài tinh thể trắng rồi
rót thêm vài giọt chất lỏng trong suốt. Một phút sau, hỗn hợp
trong b́nh chuyển thành màu gụ và một thứ bụi màu nâu nhạt kết
tủa dưới đáy b́nh.
- Ha! Ha! Ông nói sao? - Holmes vỗ tay reo lên.
- Theo tôi, đây là một cách thử rất tinh tế.
- Tuyệt vời! Cách thử cũ với chất guaiacone vừa thô kệch vừa
không chắc. Cách t́m các tiểu thể máu trên kính hiển vi cũng
vậy, với lại chỉ cần vệt máu để lâu một vài giờ là phương thức
đó không áp dụng được. C̣n phương pháp này, th́ lúc nào cũng
hiệu nghiệm, dù với máu cũ hay máu tươi.
- Quả vậy!- Tôi lẩm bẩm.
- Những vụ án h́nh sự nhiều khi chỉ c̣n mắc ở khâu này mà thôi.
Một kẻ bị nghi đă nhúng tay vào một vụ án mạng xảy ra trước đó
có khi hàng tháng. Xem xét quần áo hắn, người ta phát hiện ra
những vết màu nâu nhờ nhờ. Đây có phải là những vết máu không,
hay là vết bùn, vết gỉ sắt, vết nhựa trái cây. C̣n bây giờ đă có
phản ứng hóa học này, việc xác định kia không c̣n khó khăn ǵ
nữa.
Đôi mắt Holmes ngời lên trong khi nói, và tay phải đặt lên ngực
trái, anh ta cúi gập người như để chào đáp lại những người
ngưỡng mộ tưởng tượng của ḿnh.
- Ông thật đáng được biểu dương.
- Tôi phụ họa.
- Tôi có thể kể với ông đến hai chục vụ án đă qua mà phản ứng
của tôi có thể đóng vai tṛ quyết định.
- Ông khác nào một quyển niên giám h́nh sự sống. Ông có thể ra
một tờ báo được đấy, lấy tên là “Những vụ án h́nh sự trong quá
khứ”.” - Stamford cười nói.
- Và đó sẽ là một tờ báo rất bổ ích.
- Holmes tiếp lời trong khi
dán một miếng băng dính lên vết kim châm vừa rồi ở đầu ngón tay.
Anh ta quay sang tôi giải thích - Phải cẩn thận như vậy v́ tôi
thao tác khá nhiều loại chất độc.
Stamford ngồi xuống một chiếc ghế đẩu ba chân, đẩy một chiếc
khác về phía tôi, bàn vào việc:
- Ông bạn tôi đây đang t́m chỗ ở. Thấy ông phàn nàn là không
kiếm được ai ở chung nên tôi thấy không có ǵ tốt hơn là để hai
người tiếp xúc với nhau.
Holmes có vẻ bằng ḷng nói:
- Tôi t́m được mấy căn pḥng ở phố Baker, rất thích hợp cho
chúng ta. Tôi mong rằng ông không sợ mùi thuốc lá nặng.
- Tôi cũng hút một thứ thuốc rất nặng.
- Thế th́ được rồi. Tôi quan tâm nhiều đến hóa học và đôi khi
phải làm những thí nghiệm tại nhà. Điều đó có phiền ông không?
- Hoàn toàn không.
- Xem nào! Tôi c̣n tật xấu nào nữa không? Đôi khi tôi lầm ĺ,
mấy ngày liền không hé răng nói một lời nào. Những khi như vậy,
cứ để mặc tôi, chẳng bao lâu tôi sẽ lại vui vẻ. C̣n ông, ông có
điều ǵ cần nói không?
- Tôi cũng có một vài cố tật nhỏ. Tôi không thích ồn ào. Tôi dậy
vào những giờ rất khác thường, ngoài ra tôi rất lười nhác. Khi
khỏe mạnh, tôi lại có một loạt những tính xấu nho nhỏ khác. Hiện
thời, đó là những nét chính.
- Trong chữ ồn ào có gộp cả tiếng đàn vĩ cầm không?
- Tiếng đàn của người chơi giỏi chỉ làm cho người nghe khoan
khoái, chơi tồi th́...
- Ồ, thế th́ được rồi! - Holmes cười vui vẻ
- Như vậy là đă ổn
thỏa, nghĩa là nếu như ông ưng chỗ ở.
- Khi nào th́ ta đi xem?
- Mười hai giờ trưa mai, mời ông đến đây, chúng ta cùng đi xem.
- Xin đúng hẹn, mười hai giờ trưa mai.
- Tôi nói và bắt tay anh.
Chúng tôi để anh làm việc tiếp và trở về khách sạn. Tôi bỗng
dừng lại, quay sang hỏi Stamford:
- Này, làm thế nào mà anh ta biết là tôi ở Afghanistan về nhỉ?
- Anh ta khác người là ở chỗ đó.
Tôi xoa hai tay vào nhau:
- Ồ, một điều bí mật à? Thú vị thật! Tôi rất cám ơn anh cho tôi
có dịp tiếp xúc với anh ta. Như anh biết đấy, đối tượng trong
công cuộc nghiên cứu của loài người chính là con người Thế th́
anh phải nghiên cứu anh ta đi thôi. Thôi xin tạm biệt nhé.
- Xin tạm biệt.
-----------------
[*] Nguyên văn: “A STUDY IN SCARLET”
[1] Đơn vị tiền tệ Anh: 1 Shilling = 12 Penny
[2] Đơn vị tiền tệ Anh: 1 Penny = 1/100 Pound
Chương 2 -
Suy đoán, một môn khoa học
Như đă hẹn, ngày hôm sau chúng tôi cùng đến thăm căn hộ
số nhà 221B phố Baker. Căn hộ gồm hai pḥng ngủ tiện nghi và một
pḥng làm việc rộng lớn, thoáng mát, đồ đạc bày biện vui mắt,
ánh sáng bên ngoài rọi vào qua hai khung cửa sổ lớn. Căn hộ vừa
ư chúng tôi lắm và giá cả cũng vừa túi tiền. Chúng tôi nhận
ngay. Tối hôm ấy, tôi mang đồ đạc đến và sáng hôm sau, Holmes
cũng chuyển đến với nhiều ḥm xiểng và va- li. Sau hai ngày đầu
bận sắp xếp nơi ăn chốn ở cho thuận tiện, chúng tôi nhanh chóng
quen dần với chỗ ở mới.
Holmes sống yên tĩnh với những nếp sinh hoạt đều đặn. Không mấy
khi anh c̣n thức sau mười giờ tối và sáng nào khi tôi dậy, anh
cũng đă ăn sáng và đi đâu rồi.
Đôi khi anh ở ĺ cả ngày trong pḥng thí nghiệm, khi khác th́ ở
trong các pḥng phẩu tích, và thỉnh thoảng có những ngày anh đến
những khu phố nhớp nhúa nhất trong thành phố. Nhưng thỉnh thoảng
anh nằm dài trên chiếc đi- văng trong pḥng làm việc mấy ngày
liền, suốt từ sáng đến tối không hé răng nói một lời nào và hầu
như không có một cử động nào.
Sự quan tâm và ṭ ṃ ban đầu của tôi muốn biết mục đích các công
việc của anh mỗi ngày mỗi thôi thúc tôi hơn. Vóc người anh nhỉnh
hơn một mét tám mươi nhưng mảnh khănh cho nên trông có vẻ cao
hơn thế nhiều. Đôi mắt sắc sảo lamh lợi, cùng với sống mũi thanh
mảnh, hơi khoằm khiến cho nét mặt mang một vẻ nhanh nhẹn và
quyết đoán. Cái cằm vuông ch́a ra phía trước tỏ ra đây là một
con người kiên quyết.
Anh không theo học một lớp nào khả dĩ đem lại cho anh một bằng
cấp trong bất kỳ một lĩnh vực khoa học nào đó. Tuy vậy, sự say
mê nghiên cứu của anh trong một số lĩnh vực thật là đặc biệt;
đến nỗi những ư kiến của anh làm tôi rất đỗi kinh ngạc. Những
người tự học theo lối cóc nhảy không mấy khi có những tri thức
đặc biệt chính xác.
Mặt dốt nát của anh cũng đặc sắc không kém ǵ mặt thông thái của
anh. Về nền văn hóa đương thời, triết học và chính trị, xem
chừng Sherlock Holmes biết rất ít. Sự kinh ngạc của tôi lên đến
tột đỉnh khi tôi phát hiện ra Holmes không biết nhiều về học
thuyết Copernic và cấu tạo của hệ Mặt trời.
- Anh ngạc nhiên à? Khi đă biết lư thuyết ấy rồi, tôi sẽ ra sức
quên nó đi.
- Quên nó đi?
- Bộ óc con người ban đầu như một gian pḥng trống rỗng, ta sẽ
phải xếp vào đấy những đồ đạc ta thích. Kẻ ngu ngốc chồng chất
vào trong đó đủ mọi thứ linh tinh đến nỗi các tri thức có thể
giúp ích cho hắn bị đè bẹp dưới một đống tri thức khác, đến nỗi
khi cần, hắn khó mà lôi ra sử dụng được. Trái lại, người thợ
lành nghề chọn lọc hết sức cẩn thận những thứ xếp vào trong gian
buồng ấy. Anh ta chỉ muốn chứa trong đó những dụng cụ có ích cho
ḿnh trong công việc; cái nào cái nấy sắp đặt một cách thật ngăn
nắp. Thật là sai lầm nếu cho rằng cái gian buồng nhỏ bé ấy có
những bức tường co giăn và nó có thể ph́nh ra vô cùng tận. Anh
hăy tin rằng rồi sẽ đến lúc mà mỗi khi ta thu nhận được một hiểu
biết mới ta sẽ quên mất cái kiến thức ǵ đó đă có trong óc. V́
vậy, chớ có thu nạp những khái niệm vô ích. Chúng ta sẽ đẩy đi
mất những điều có ích.
- Thế nhưng Hệ Mặt trời? - Tôi phản đối.
“Nó can ǵ đến tôi?” Holmes cao giọng “Nếu chúng ta xoay quanh
mặt trăng th́ công việc của tôi có ǵ khác đâu?”
Tôi đă toan hỏi anh công việc đó là cái ǵ vậy, nhưng dáng điệu
anh bảo cho tôi biết câu hỏi ấy không được tiếp nhận. Tuy vậy,
tôi suy nghĩ về buổi nói chuyện ngắn ngủi này và cố rút ra mấy
điều suy đoán. Holmes nói với tôi rằng anh không muốn thu thập
những hiểu biết không liên quan ǵ đến công việc của ḿnh. Vậy
th́, tất cả những tri thức mà anh có đều có thể giúp ích cho
anh. Tôi thầm liệt kê những lĩnh vực mà anh đă để lộ cho thấy
anh thành thạo. Thậm chí, tôi lấy bút ch́ ghi lại những điều đó
ra giấy. Liệt kê đă xong, tôi không khỏi mỉm cười. Bản nhận xét
đó như sau:
Sherlock Holmes; năng lực:
Hiểu biết về văn học: số không
Hiểu biết về triết học: số không
Hiểu biết về thiên văn học: số không
Hiểu biết về chính trị: yếu.
Hiểu biết về thực vật: Tồi. Am hiểu chất thuốc phiện và các loại
chất độc nói chung. Hoàn toàn không biết ǵ về nghề làm vườn.
Hiểu biết về địa chất: Có những hiểu biết thực tế, nhưng hạn
chế. Thoạt nh́n nói được ngay các loại đất khác nhaụ
Hiểu biết về hóa học: Rất sâu sắc.
Hiểu biết về giải phẫu: Chính xác nhưng không có hệ thống.
Hiểu biết về sách báo h́nh sự: Hết sức rộng lớn.
Chơi đàn vĩ cầm: Tốt.
Bậc thầy về tài nghệ Đánh gậy, quyền Anh, và đấu kiếm.
Vận dụng thành thạo luật pháp nước Anh.
Ghi đến đây, thấy rối như tơ ṿ, tôi quẳng mảnh giấy vào lửa,
nghĩ bụng: “Chẳng hiểu con người này nhằm vào mục đích ǵ mà ra
sức phát triển một số năng lực trên. Ḿnh cũng không sao t́m
thấy một nghề nào đ̣i hỏi tất cả những năng lực ấy. Thôi th́
đành bỏ cuộc ngay thôi, cho khỏi mệt người”.
Trong tuần đầu, tôi đă tưởng Holmes không có mấy bạn bè. Nhưng
chẳng bao lâu, tôi nhận ra anh quen biết rất rộng. Đầu tiên, một
anh chàng người nhỏ bé, da tái, mặt choắt, mắt đen, đến ba bốn
lần liền trong một tuần. Một hôm, có cô gái ăn mặc theo thời
trang đến vào buổi sáng và ở chơi chừng một giờ. Ngay chiều hôm
đó có thêm ông khách quần áo xuềnh xoàng, tóc hoa râm, dáng dấp
như một người bán hàng rong.
Và tiếp theo đó là một phụ nữa cao tuổi, xống áo rất cẩu thả.
Một dịp khác có một ông chững chạc, tóc bạc trắng hết cả. Rồi
một người phu khuân vác ở nhà ga trong bộ đồng phục bằn vải
nhung. Mỗi khi có khách đến, Holmes yêu cầu tôi để cho anh được
sử dụng pḥng khách. Lần nào anh cũng không quên xin lỗi tôi.
“Tôi phải dùng gian pḥng này để làm việc. Họ là khách hàng của
tôi.”
Đó là một cơ hội để hỏi thẳng xem công việc của anh ta là ǵ,
nhưng tính tôi vốn dè dặt, nên lại thôi.
Hôm ấy, tôi dậy sớm hơn thường lệ và nhận thấy anh chưa ăn xong
bữa sáng. Người phục vụ đă quen với thói dậy muộn của tôi nên bà
ắt chưa chuẩn bị cho tôi. Tôi rung chuông với một thái độ nóng
nảy và bảo bà ta với giọng khá cộc cằn. Sau đó, tôi cầm lấy một
tờ báo để giết thời giờ. Trên tờ báo có một bài được đánh dấu
bằng bút ch́.
Dưới ḍng tít khá huênh hoang “Cuốn sách cuộc đời”, tác giả bài
báo khoe là có thể đi sâu vào những ư nghĩ thầm kín nhất của con
người, căn cứ vào một vẻ mặt thoáng qua, một cử động của cơ bắp,
một ánh mắt vụng trộm.
Bài báo viết:
“Chỉ từ một giọt nước, người giỏi suy luật có thể suy ra khả
năng của một đại dương hoặc một thác nước, tuy chưa bao giờ tận
mắt nh́n thấy chúng. Như vậy, toàn bộ cuộc sống là môt chuỗi mắt
xích rộng lớn mà ta có thể biết bản chất của nó, nếu ta biết
được một mắt xích. Như tất cả mọi khoa học khác, suy đoán và
phân tích là một khoa học mà ta chỉ có thể làm chủ sau một quán
tŕnh nghiên cứu lâu dài, bền bỉ. Người mới đi vào lĩnh vực này
nên bắt đầu bằng những vấn đề sơ đẳng: gặp bất kỳ ai, chỉ bằng
vào sự quan sát, ta hăy cố t́m hiểu tiểu sử, nghề nghiệp của
người ấy. Tuy có vẻ ấu trĩ, nhưng thực ra sự tập luyện này rèn
giũa các khả năng quan sát của ta và nó dạy cho ta biết ta cần
phải nh́n vào đâu và phải t́m kiếm cái ǵ. Móng tay, những vết
chai ở ngón trỏ và ngón cái, ống tay áo, đầu gối quần, dáng đi,
cách đứng đều là những thứ nói lên nghề nghiệp của một con
người.”
Tôi quăng tờ báo xuống bàn, thốt lên:
“Nhảm nhí! Tôi chưa thấy ai viết nhăng nhít đến vậy.”
“Anh nói về cái ǵ thế?” Holmes hỏi tôi.
“À, bài báo mà anh đă đánh dấu bên cạnh. Tôi không phủ nhận là
bài báo có một lối viết khá, nhưng nó làm tôi khó chịu. Rơ ràng
đây là một lư thuyết do một kẻ vô công rồi nghề nặn ra. Mong sao
gặp hắn trên một toa xe điện ngầm hạng hai để bắt hắn nói ra
nghề nghiệp của tất cả các hành khách trên xe. Tôi dám đánh cuộc
với hắn một ngh́n ăn một.”
“Anh sẽ thua thôi. Bởi v́ tôi là tác giả bài báo đó.”
“Anh?”
“Đúng, tôi. Quan sát và suy đoán là hai thứ mà tôi vốn ham
thích. Những lư thuyết tôi nêu lên trong bài báo là hết sức thực
tế, thực tế đến nỗi tôi lấy nó làm kế sinh nhai.”
“Đó là nghề ǵ?” Tôi buột miệng hỏi
“Tôi kể anh nghe nhé. Tôi có một nghề riêng mà có lẽ trên thế
giới có mỗi ḿnh tôi làm. Nghề của tôi là thám tử cố vấn. Ở
London này có vô số thám tử công, thám tử tư. Khi gặp phải điều
ǵ bí, họ đến gặp tôi và tôi t́m cách gợi cho họ đi đúng hướng.
Các vụ phạm pháp thường có nhiều nét giống nhau, nếu ta thuộc
ḷng các chi tiết của một số vụ th́ rất dễ lần ra đầu mối của vụ
thứ một ngh́n lẻ một. Lestrade là một thám tử khá. Mới đây ông
ta đi nhầm hướng trong việc khám phá một vụ làm bạc giả, v́ vậy
ông ta phải đến đây.”
“C̣n những người khách khác th́ sao?”
“Họ hầu hết là người của các hăng trinh thám tư. Họ mắc mớ ở
điểm này hoặc điểm khác. Tôi nghe họ kể về công việc của họ, c̣n
họ th́ nghe các lời khuyên bảo của tôi và trả tiền công cho
tôi.”
“Phải chăng anh ngồi yên trong pḥng mà vẫn có thể giải quyết
được những mắc mứu mà người khác không tài nào giải quyết nổi.”
“Đúng thế. Tôi có rất nhiều kiến thức đặc biệt để áp dụng vào
lĩnh vực này: những quy tắc suy đoán tŕnh bày trong bài báo mà
anh đă khinh thường, đối với tôi lại có một giá trị không sao
lường hết trong thực hành. Ngay lần đầu gặp anh, tôi đă biết là
anh vừa ở Afghanistan về.”
“Chắc có ai bảo anh.”
“Không đâu. Lúc ấy cả một loạt những suy nghĩ, xét đoán đă lướt
nhanh qua óc tôi khiến tôi đi thẳng đến kết luận ấy. Tuy vậy, có
tồn tại những chặng đường. Cách lập luận phối hợp của tôi như
sau: vị này thuộc giới bác sỹ, nhưng lại có dáng dấp một quân
nhân, vậy th́ chắc chắn là một bác sỹ quân y. Anh ta vừa mới ở
vùng nhiệt đới về v́ nước da rất sẫm nhưng không phải là da tự
nhiên bởi da ở hai cổ tay rất trắng. Anh ta đă phải trải qua
nhiều ngày kham khổ, đau ốm, điều đó có thể thất rơ trên nét
mặt. Anh ta đă bị thương ở cánh tay v́ cánh tay này cử động hơi
gượng gạo. Một bác sỹ quân y người Anh, sống ở vùng nhiệt đới
nào mà lại bị thương ở cách tay và phải sống kham khổ thiếu
thốn? Tất nhiên là ở Afghanistan. Tất cả chuỗi suy nghĩ này diễn
ra trong không đầy một giây đồng hồ.”
Tôi mỉm cười:
“Giải thích ra th́ thấy rất đơn giản. Anh làm tôi nhớ đến nhân
vật Dupin của Edgar Allan Poe. Tôi tưởng loại người đó chỉ tồn
tại trong các tiểu thuyết chứ làm ǵ có ngoài cuộc đời.”
Holmes đứng dậy, châm tẩu thuốc.
“Có lẽ anh tưởng so sánh tôi với Dupin là khen tôi chăng? Theo
tôi, Dupin là một kẻ rất tầm thường. Ông ta khoe là có thể ḍ
đoán dược ư nghĩ của bạn bè sau một khắc đồng hồ im lặng, nói
như thế, là khoa trương lại là kém cỏi. Ông ta có lẽ có đôi chút
năng khiếu phân tích. Thế thôi!”
“Anh đă đọc sách của Gaboriau chưa? Lecoq có phải là thám tử
không?”
Holmes có một cử chỉ mỉa mai và một giọng bực bội:
“Lecoq à? Ông ta giỏi về tay chân hơn đầu óc. Ông ta chỉ có mỗi
một điều đáng khen là nghị lực. Cuốn sách ấy thực sự làm tôi
phát ngán. Vấn đề đặt ra cho ông ta là xác định thủ phạm trong
một đám tù nhân. Việc ấy, tôi sẽ giải quyết trong hai mươi bốn
giờ, c̣n ông ta đă phải mất một tháng.”
Tôi hơi khó chịu khi thấy hai nhân vật mà tôi khâm phục bị coi
thường. Tôi lại bên cửa sổ nh́n xuống đường phố nhộn nhịp bên
dưới, nghĩ bụng: “Ông bạn nay có thể rất giỏi, nhưng đồng thời
cũng rất tự măn.”
Holmes nói tiếp với giọng luyến tiếc:
“Đầu của tôi bây giờ c̣n biết dùng làm ǵ nữa! Chưa bao giờ có
một vụ án nào dữ dội để tôi khám phá cả! Cùng lắm là vài ba vụ
gian lận vụng về với những động cơ lộ liễu đến nổi ngay một nhân
viên sở cảnh sát cũng nhận ra ngay.”
Sự huênh hoang của Holmes tiếp tục làm tôi khó chịu, tôi thấy
tốt hơn hết là thay đổi câu chuyện. Trên hè đường bên kia có một
gă cao lớn, ăn mặt xuyềnh xoàng, tay cầm một phong b́ lớn đang
chăm chú xem số nhà cần t́m.
Tôi chỉ tay về phía người ấy, lên tiếng hỏi:
“Không biết người kia t́m nhà nào?”
“Anh muốn nói viên đội lính thủy đánh bộ kia phải không?” Holmes
hỏi tôi.
”Lại huênh hoang khoác lác rồi!” Tôi nghĩ bụng. Ư nghĩ ấy vừa
mới lướt qua óc tôi th́ nhân vật đó đă nhận ra số nhà chúng tôi,
rảo bước qua đường. Chúng tôi nghe tiếng gơ cửa ầm ầm, rồi tiếng
bước chân nặng nề lên thang gác.
Người ấy bước vào pḥng chúng tôi, đưa phong b́ cho anh:
“Có thư cho ông Sherlock Holmes.”
Đây là một dịp để hạ bớt thói hợm hĩnh của Holmes. Lúc vừa rồi,
khi đưa ra những lời phỏng đoán liều kia, chắc anh ta không nghĩ
là tôi sẽ có cơ hội giáp mặt người này. Tôi hỏi, giọng nhẹ
nhàng:
“Này anh, anh có thể cho biết anh làm nghề ǵ không?”
“Thừa phái, thưa ông.” Anh ta trả lời cộc cằn “Bộ đồ đồng phục
của tôi đang được đưa đi sửa.”
“Trước đây anh làm nghề ǵ?” Tôi đưa mắt nh́n sang Holmes với vẻ
chế giễu.
“Tôi ở binh chủng lính thủy đánh bộ, đóng lon đội. Ông có điều
ǵ cần hỏi nữa không, thưa ông? Xin chào.”
Anh ta dập hai gót giầy vào với nhau, giơ tay chào chúng tôi rồi
đi.
Chương 3 -
Bí ẩn ở Lauriston Garden
Thú thật tôi hết sức kinh ngạc trước bằng chứng
về giá trị thực hành của những lư thuyết mà Holmes đă nêu. Sự
kính nể của tôi đối với tài phân tích của anh tăng vụt lên. Tuy
vậy, trong óc tôi vẫn c̣n vương vấn một chút hoài nghi là tất cả
câu chuyện này đă được xếp đặt từ trước để ḷe tôi. Nhưng ḷe để
làm ǵ? Quay lại nh́n Holmes, tôi thấy anh đă đọc xong thư. Nét
mặt đăm chiêu và đôi mắt xa vắng.
“Làm thế quái nào mà anh đoán được?”
“Đoán cái ǵ?” Holmes hỏi giật giọng.
“Đoán là một viên đội lính thủy đánh bộ.”
“Xin lỗi anh về những lời cáu kỉnh đó. Hóa ra, anh vẫn không
thấy người đưa thư vốn là một viên lính thủy đánh bộ?”
“Quả là không.”
“Ngay ở bên này đường, tôi đă nh́n thấy một h́nh mỏ neo to xăm
trên mu bàn tay người ấy và bộ râu theo đúng quy định của lính
thủy đánh bộ. Anh chàng có vẻ tự tin và thậm chí có dáng điệu
chỉ huy? Một anh chàng nghiêm nghị, đạo mạo, hơi đứng tuổi,
những chi tiết đó khiến tôi tin rằng anh đă đóng đến lon đội.”
“Thật là tuyệt diệu!” Tôi reo lên.
“Có ǵ đâu.” Tuy nói vậy, song cứ theo vẻ mặt anh, tôi tin rằng
nỗi kinh ngạc và sự khâm phục của tôi rơ ràng làm anh vui thích
“Vừa năy, tôi có nói là thời nay không c̣n những trọng án, nhưng
có lẽ tôi lầm. Anh hăy xem đây.”
Holmes đưa cho tôi bức thư vừa mới nhận.
“Ǵ thế này? Thật khủng khiếp!” Tôi thốt lên.
“Tôi thấy vụ này hơi khác thường đấy. Anh vui ḷng đọc to lên,
chúng ta cùng nghe nào.”
”Ông Sherlock Holmes thân mến!
Đêm qua có một vụ án ghê gớm tại nhà số 3 khu Lauriston Garden
đoạn sát gần đường Brixton. Một nhân viên cảnh sát thấy có ánh
đèn ở ngôi nhà vào khoảng hai giờ sáng. Đây là một ngôi nhà bỏ
hoang nên anh ta đoán là có chuyện ǵ không b́nh thường. Anh ta
thấy cửa ra vào để ngỏ. Ở gian pḥng trông ra mặt đường, anh ta
thấy xác một người đàn ông ăn mặt lịch sự, trong túi có xấp danh
thiếp đề tên “'Enoch J. Drebber, Cleveland, Ohio, U. S. A.”.
Không có cách nào xác định rơ nguyên nhân của cái chết. Trong
gian pḥng có nhiều vết máu, nhưng trên thi thể th́ không có một
thương tích nào. Chúng tôi không biết người này đă vào ngôi nhà
ấy bằng cách nào và nói chung toàn bộ vụ án hăy c̣n là một điều
bí ẩn. Nếu ông có thể đến được hiện trường trước mười hai giờ
trưa, ông sẽ gặp tôi ở đó. Toàn bộ hiện trường sẽ được giữ y
nguyên cho đến khi ông đến. Sẽ rất hân hạnh cho tôi nếu được
biết ư kiến của ông. Xin gửi ông lời chào thân thiết.
Tobias Gregson”
“Gregson là tay sừng sỏ nhất ở Scotland Yard.” Holmes nhận xét
“Hắn và Lestrade được coi là những phần tử ưu tú của một đám
không ra ǵ. Cả hai đều năng nổ, hăng hái, nhưng rất khuôn sáo.
Và ghen tị nhau như một cặp gái lầu xanh.”
Tôi ngạc nhiên thấy Holmes giữ vẻ b́nh thản, lại có vẻ gần như
giễu cợt. Tôi hối hả:
“Ta không được để lỡ phút nào, phải không anh? Tôi đi gọi xe
nhé.”
“Chưa chắc tôi đă đi.”
“Nhưng đây chính là cơ hội mà anh đă mong mỏi từ lâu cơ mà?”
“Giả thử tôi gỡ được vụ này, th́ bao nhiêu công lao đều vào tay
Gregson, Lestrade hết cả. Không phải là người của nhà nước là
phải chịu thiệt tḥi như vậy đấy.”
“Nhưng Gregson yêu cầu anh giúp đỡ cơ mà.”
“Phải, hắn biết tôi giỏi hơn hắn và thừa nhận điều đó với tôi.
Nhưng trước mặt người thứ ba, hắn thà cắt lưỡi đi c̣n hơn phải
công nhận ḿnh là thua kém. Dẫu vậy, chúng ta cũng nên đến đó
xem sao. Nào, ta đi đi!”
Holmes xỏ tay vào chiếc áo khoác ngoài, nhanh nhẹn chuẩn bị.
“Anh cầm lấy mũi đi.”
“Anh muốn tôi cùng đi à?”
“Phải.”
Một lúc sau hai chúng tôi đă ngồi trong một chiếc xe ngựa chạy
nước đại về phía đường Brixton.
Buổi sáng hôm ấy trời đầy mây và sương mù dày đặc. Một tấm màn
tối sầm bao phủ lên các mái nhà và đường như phản chiếu các dăy
phố xám xịt một màu bùn. Holmes rất vui vẻ, chuyện tṛ luôn
miệng về những chiếc đàn vĩ cầm. C̣n tôi cứ nín thinh v́ thời
tiết ảm đạm và v́ sự việc bi thảm vừa xảy ra. Sau cùng tôi phải
cắc ngang bài thuyết tŕnh về âm nhạc của anh:
“Xem chừng anh không để tâm lắm đến cuộc điều tra sắp tới.”
“Đă có dữ kiện ǵ đâu. Một sai lầm cơ bản là cứ đặt trước các
giả thiết trong khi chưa có trong tay các sự việc thực tế. Làm
như vậy khiến cho nhận định của ta dễ bị chệnh lắm.”
“Anh sẽ có ngay các dữ kiện, v́ đường Brixton đây rồi và ngôi
nhà kia ḱa!”
“Đúng rồi! Dừng lại, bác xà ích.”
C̣n một trăm mét nữa mới đến hiện trường nhưng Holmes cứ đ̣i
xuống xe để đi bộ.
Ngôi nhà số 3 khu Lauriston Garden có một vẻ sầu thảm ghê rợn.
Đó là ngôi nhà thứ ba trong một dăy bốn nhà nằm thụt vào trong
một tí. Hai ngôi nhà có người ở, hai ngôi kia bỏ hoang. Hai nhà
bỏ hoang này bày ra hay dău cửa sổ buồn bă và trần trụi, chỉ trừ
thỉnh thoảng đây đó có hai chữ “Cho thuê” để chảy vài vệt sơn
trên các ô cửa kính lem luốc. Từ hè đường vào đến nhà phải qua
một mảnh vườn nhỏ mọc lưa thưa những cây con khẳng khiu, ốm yếu.
Cắt ngang mảnh vườn là một lối đi hẹp, rải sỏi đá trộn lẫn đất
sét màu vàng ệch. Tất cả khu vực này đều sũng nước v́ trời mưa
suốt đêm. Bao quanh mảnh vườn là bức tường gạch cao khoảng một
mét, bên trên lại có hàng rào gỗ. Đứng tựa lưng vào bứa tường
này là một viên cảnh sát cao lớn, xung quanh có đám người rảnh
việc đang cố nghển mắt vào trong nhà.
Tôi tưởng Holmes sẽ xông thẳng vào nhà và lao ngay vào việc.
Nhưng không! Với một vẻ uể oải giả tạo, anh đi di lại lại trên
hè đường, lơ đăng nh́n đất, nh́n trời, nh́n các ngôi nhà bên kia
đường và hàng rao gỗ. Xem xét xong, anh bước trên lớp cỏ mọc ven
lối đi, luôn luôn dán mắt xuống đất. Hai lần anh dừng lại và có
một lần tôi thấy anh thoáng nở một nụ cười và khẽ reo lên một
tiếng vui mừng. Có nhiều vết chân trên nền đất sét ướt, nhưng v́
cảnh sát đă dẫm nát lối đi này rồi, tôi không hiểu bạn tôi có
thể hy vọng rút ra ở đây được điều ǵ.
Ở cửa nhà, chúng tôi được một gă cao lớn đón tiếp. Mặt tái mét,
tóc rối bù, tay cầm một quyển sổ, anh ta vội vă tiến về phía
chúng tôi, nồng nhiệt siết chặt tay Holmes:
“Ông đến, thật tốt quá. Tôi chưa đụng chạm đến ǵ hết.”
“Trừ chỗ này.” Holmes đáp, tay chỉ lối đi “Một đàn ḅ giá xéo
qua đây cũng không thể phá hoại nhiều hơn. Nhưng có lẽ ông đă
rút ra xong những kết luận của ḿnh rồi mới cho phép xảy ra t́nh
trạng này, có phải không, ông Gregson?”
Nhà thám tử nói lảng:
“Tôi quá bận ở bên trong. Ông Lestrade cũng có mặt tại đây. Tôi
tưởng ông ta phải để mắt đến chuyện này.”
Holmes nh́n tôi trợn tṛn mắt, giọng châm chọc:
“Đă có mặt ông và Lestrade rồi, chẳng c̣n ǵ cho người thứ ba
khám phá nữa.”
Gregson xoa hai tay với nhau, vẻ hài ḷng:
“Chúng tôi đă làm tất cả những ǵ có thể làm. Dẫu sao, đây là
một vụ kỳ quặc và tôi biết ông vốn thích những vụ như thế.”
“Ông đến đây bằng xe ngựa?”
“Không.”
“Cả ông Lestrade cũng không chứ?”
“Phải.”
“Thế th́ chúng ta vào trong xem gian pḥng đi.”
Sau ư kiến không ăn nhập ǵ với câu nói vừa rồi, Holmes vào
trong nhà. Gregson bước theo, vẻ mặt ngơ ngác.
Một hành lang nhỏ, bụi bặm dẫn đến nhà bếp và pḥng ăn. Có hai ô
cửa, một ở về phía bên trái và một ở về phía bên phải hành lang.
Rơ ràng một trong hai cửa này đă bị đóng kín từ nhiều tuần naỵ
Cửa kia là cửa mở vào pḥng ăn, nơi đă diễn ra tấn thảm kịch đầy
bí ẩn. Holmes bước vào. Tôi theo ngay.
Đây là một gian pḥng rộng, h́nh vuông, không có thứ đồ đạc nào
nên càng có vẻ rộng. Tường phủ bằng một loại giấy rẻ tiền, có
nhiều chổ ẩm ướt loang lổ và vài ba chỗ giấy bị bong ra, tḥng
xuống, để lộ lớp vữa vàng khè bên trong. Đối diện với cửa ra vào
là một ḷ sưởi, mặt ḷ làm bằng tấm đá giả cẩm thạch trắng. Ở
một mé mặt ḷ sưởi có cắm mẩu nến bằng sáp đỏ. Chiếc cửa sổ duy
nhất của gian pḥng lem luốt đến nỗi ánh sáng mờ đục bên ngoài
rọi qua nhuốm lên khắp gian pḥng một màu xám nhờ nhờ thê lương.
Người chết nằm sóng soài trên sàn, hai con mắt trợn trừng nh́n
lên trần nhà. Nạn nhân khoảng 43, 44 tuổi, người tầm thước, vai
rộng, tóc quăn và đen, râu rậm xén ngắn. Mặc một chiếc áo đuôi
tôm dày nặng, bên trong là chiếc áo gi- lê bằng da tốt, quần dài
màu sáng, cổ áo và cửa tay áo trắng tinh. Một chiếc mũ đứng,
sang trọng và rất sạch nằm ngay trên sàn nhà, cạnh nạn nhân. Hai
bàn tay nắm chặt, cánh tay dang rộng, chân quắp vào nhau cho
thấy cuộc vật lộn với tử thần đă diễn ra hết sức khốc liệt. Trên
nét mặt cứng đờ c̣n in một nỗi kinh hoàng. Nét mặt nhăn nhúm
thành một vẻ độc ác ghê sợ đó, cộng với cái trán ngắn, cái mũi
tẹt di, hàm răng nhô ra, cùng với tư thế kỳ quặc, càng làm cho
người chết có một vẻ rất giống loài khỉ. Tôi đă từng thấy cái
chết dưới nhiều h́nh dạng, nhưng chưa bao giờ thấy nó dưới dạng
thảm khốc đến như vậy.
Lestrade vóc người gầy g̣, mặt choắt, đứng ở cửa chào chúng tôi:
“Vụ này sẽ ồn ào đây. Nó vượt tất cả những vụ tôi đă được chứng
kiến.”
“Không có một vết tích nào.” Gregson nói.
“Không có mảy may.” Lestrade xác nhận.
Holmes đến cạnh xác nạn nhân, quỳ gối xuống và xem xét rất cẩn
thận.
“Hai ông đă kiểm tra kỹ là không có thương tích ǵ chứ?” Holmes
chỉ những giọt máu và những vết máu có rất nhiều xung quanh xác
chết.
Cả hai thám tử của Scotland Yard cùng kêu lên:
“Hoàn toàn chắc chắn.”
“Thế th́ tất nhiên máu này là của một kẻ thứ hai, chắc là của
hung thủ, nếu như đây là một vụ ám sát.”
Trong khi nói, những ngón tay nhanh nhẹn của anh lăng quăng chỗ
này chỗ kia, sờ nắn, lần ṃ, xem xét khắp nơi, c̣n đôi mắt vẫn
đượm cái vẻ xa vắng. Sau cùng Holmes ngửi môi rồi xem đế giầy
người chết.
“Không ai xê dịch xác này chứ?”
“Không.”
“Bây giờ các ông có thể cho chuyển về nhà xác được rồi.”
Gregson đă có sẵn một cái cáng và bốn người giúp việc. Khi cái
xác được xốc lên th́ có một chiếc nhẫn rơi xuống sàn, Lestrade
chộp lấy chiếc nhẫn, ngắm nghía với con mắt kinh ngạc, reo lên:
“Đă có mặt một người đàn bà ở đây! Một chiếc nhẫn cưới đây mà!”
Vừa nói, ông ta vừa ch́a chiếc nhẫn đặt trong ḷng bàn tay của
ḿnh ra cho chúng tôi xem. Không có ǵ nghi ngờ: Chiếc ṿng tṛn
nhỏ xíu một mạc bằng vàng này đă từng trang điểm cho ngón tay
của một cô dâu.
“Thế là càng thêm rắc rối.” Gregson đánh giá.
“Ông có dám chắc là chiếc nhẫn lại không giúp ta chút nào không?
Ngoài ra, ông thấy có những ǵ trong các túi áo, túi quần nạn
nhân?” Holmes nhận xét.
Gregson chỉ những đồ vật được bày ra trên những bậc thang dưới
cùng ngoài cửa buồng:
“Tất cả ở đây. Một chiếc đồng hồ bằng vàng khắc số 97.163 ở cửa
hàng Barkerraud, London. Một dây xà tích vàng, dầy dặn và rất
nặng, một chiếc nhẫn vàng có khắc biểu tượng của một hội kín.
Một chiếc kẹp ca vát bằng vàng, chạm thành h́nh đầu chó, một cái
ví đựng những danh thiếp ghi tên Enoch J.Drebber ở trong thành
phố Cleveland phù hợp với những chữ viết tắc E.J.D thêu trên
quần áo. Không có ví tiền nhưng có mấy đồng tiền, cộng lại là
bảy bảng[1]. Hai bức thư, một bức đề gửi cho E.J.Drebber và bức
kia gửi cho kẻ nào đó tên là Joseph Stangerson.
“Gửi về địa chỉ nào?”
“Gửi đến Sở giao dịch chứng khoán Mỹ. Cả hai bức thư đều là của
công ty vận chuyển tàu biển Guion và cùng nơi đến, ngày giờ khởi
hành các chuyến tàu của họ, xuất phát từ Liverpool. Rơ ràng nạn
nhân sắp sửa lên tàu đi New York.”
- Các ông đă điều tra về một người mang tên là Stangerson này
chưa?
- Điều tra ngay chứ! - Gregson đáp- Tôi đă cho đăng lời nhắn tin
trên tất cả các báo hàng ngày và cử người đến sở giao dịch chứng
khoán Mỹ, nhưng chưa về.
- Các ông đă liên lạc với Cleveland chưa?
- Chúng tôi đă đánh điện sáng nay.
- Các ông đă đặt những câu hỏi như thế nào trong điện?
- Chúng tôi chỉ tường thuật tỉ mỉ vụ án mạng và nói sẽ rất biết
ơn nếu nhận được mọi tin tức có thể giúp chúng tôi làm sáng tỏ
vụ này.
- Ông có hỏi tỉ mỉ về một điểm nào đó mà các ông coi là thiết yếu
không?
- Tôi có nói đến Stangerson.
- Ngoài ra không nói ǵ khác? Liệu có thể có một chi tiết nào đấy
làm đầu mối cho toàn bộ vụ này không? Các ông có nên đánh điện
lại không?
- Tôi đă điện đi tất cả những ǵ cần hỏi rồi. Gregson nói với vẻ
bị xúc phạm.
Holmes cười thầm và h́nh như định có một lời nhận xét th́
Lestrade từ gian pḥng đằng trước quay lại, xoa hai tay với vẻ
hài ḷng, giọng khoa trương:
- Ông Gregson ạ, tôi vừa mới phát hiện một chi tiết hết sức hệ
trọng. Mắt Lestrade sáng lên. Ông ta mừng rỡ ra mặt v́ đă thắng
đồng nghiệp của ḿnh một điểm:
- Mời các ông lại đây! Lestrade hối hả trở lại gian pḥng khi
năy.- Đây, các ông đến đứng ở chổ này này.
Ông ta bật một que diêm và giơ lên cao sát mặt tường, giọng đắc
thắng:
- Các ông nh́n đây!
Ở mé tường này, một mảnh giấy dán lớn đă bị bong, rơi đi đâu
mất, để lộ một khoảng tường trát vữa thô nhám, vàng ệch, h́nh
vuông. Trên khoảng tường trần trụi, có ai đă nguệch ngoạc viết
những chữ mang màu đỏ sẫm bằng máu khô: “Rache”.
Nhà thám tử hồ hởi, nói tiếp:
- Chi tiết này bị bỏ sót v́ đây là chổ tối nhất trong pḥng. Thủ
phạm đă viết chữ này bằng chính máu ḿnh. Ta hăy nh́n vết này,
chỗ máu đă chảy dọc trên tường. Chi tiết này đă loại trừ khả
năng đây là một vụ tự sát. Tại sao hắn viết tại nơi này. Tôi xin
nói lư do. Các ông có thấy ngọn nến trên mặt ḷ sưởi không? Lúc
bấy giờ, ngọn nến này được thắp sáng và chổ này trở thành chổ
sáng nhất trên bức tường.
- Giờ đây, đă phát hiện hết rồi, ông thấy ư nghĩa nó ra sao?
Gregson vặn hỏi với vẻ khâm phục.
- Kẻ này đang định viết tên Rachel, nhưng không kịp viết cho trọn
tên. Các ông hăy nhớ lấy lời tôi: khi vụ này được làm sáng tỏ,
các ông sẽ thấy một người đàn bà tên là Rachel dính líu vào đây.
Ông cứ tin đi, ông Holmes!
- Tôi xin lỗi - Holmes nói với Lestrade khi thấy tiếng cười của
ḿnh đă làm cho anh chàng bực tức. - Ông là người đầu tiên cho
chúng tôi thấy chi tiết này, và xem chừng kẻ viết chữ này là
nhân vật thứ hai trong vụ án. Tôi chưa có dịp xem kỹ gian pḥng,
nhưng bây giờ, mạn phép các ông, tôi sẽ xem xét một lát.
Nói xong, anh rút trong túi ra một cuộn thước dây và kính lúp,
ḍ soát khắp căn pḥng, lúc th́ dừng lại hồi lâu, lúc th́ quỳ
hẳn gối xuống mặt đất; thậm chí có lúc nằm xoài, úp bụng xuống
sàn. Anh bị thu hút vào công việc đến nỗi h́nh như quên hẳn
chúng tôi, v́ anh lầm bầm nho nhỏ một ḿnh, thỉnh thoảng lại khẽ
reo lên, xuưt xoa, làu bàu hay huưt sáo miệng. Những hành động
ấy có thể diễn đạt những hy vọng của anh, song cũng có thể coi
là những lời anh tự khích lệ trong công việc của ḿnh.
Trong hai mươi phút, anh mải mê t́m ṭi, dùng thước đo một cách
tỉ mỉ khoảng cách giữa những dấu vết hoàn toàn vô h́nh đối với
tôi. Đôi khi, anh lại úp cái thước dây vào tường. Ở chổ trên sàn
nhà, anh hết sức thận trọng thu nhặt một nhúm nhỏ thứ bụi xam
xám và cất vào phong b́. Sau cùng anh dùng kính lúp soi từng nét
chữ của cái từ bí ẩn viết trên tường. Sau đó, anh có vẻ hài
ḷng, cất thước dây và kính lúp vào túi, đưa ra một nhận xét:
- Có người bảo rằng thiên tài là sự lao động hết sức kiên tŕ.
Định nghĩa ấy không hoàn toàn chính xác, nhưng áp dụng vào công
việc của người thám tử th́ rất đúng.
Gregson và Lestrade đă theo dơi mơi động tác của nhà thám tử tư
với một vẻ ṭ ṃ. Họ cùng lên tiếng hỏi:
- Ông có ư kiến ǵ không, ông Holmes?
Bạn tôi đáp, giọng đầy châm chọc:
- Cho tôi được phép góp vào một tay có khác ǵ làm hoen mờ vinh
quang của các ông trong vụ này. Các ông sẽ tự giải quyết nó một
cách chóng vánh và trọn vẹn, để một kẻ thứ ba xen vào th́ thật
là đáng tiếc. Dẫu vậy, tôi sẽ lấy làm hân hạnh được giúp các
ông. Trong khi chờ đợi, tôi muốn gặp viên cảnh sát đă phát hiện
ra xác nạn nhân. Các ông có thể cho tôi biết địa chỉ người ấy
được không?
Lestrade nh́n vào quyển sổ tay:
- John Rance. Hiện giờ, anh ta dă hết ca làm việc. Ông có thể lại
nhà anh ta ở số 46 đường Audley, khu Kennington.
Holmes ghi địa chỉ và bảo tôi:
- Bác sỹ Watson, ta đến gặp anh chàng ấy đi.
- Rồi quay sang các
nhà thám tử của nước Anh- Đây là một vụ ám sát, và thủ phạm là
một người đàn ông. Một người đàn ông lực lưỡng, cao hơn 6 feet,
tuổi trung niên. So với tầm vóc th́ chân hơi nhỏ. Hắn đi giày
mũi vuông, hút x́ gà Trichinopoly. Hắn đến đây cùng với nạn nhân
trên một chiếc xe ngựa bốn bánh. Con ngựa kéo xe có ba móng sắt
cũ và một móng sắt mới ở chân trái trước. Thủ phạmcó bộ mặt đỏ
gay, móng bàn tay phải của hắn đặc biệt dài.
Hai thám tử nhà nước nh́n nhau với nụ cười hoài nghi. Gregson
lên tiếng:
- Nếu vậy, nạn nhân bị giết bằng cách nào?
- Bằng thuốc độc - Holmes trả lời vắn tắt rồi ra về, nhưng trước
khi bước qua ngưỡng cửa, anh c̣n quay lại nói thêm:
- C̣n một
chi tiết này nữa; ông Lestrade ạ. Rache trong tiếng Đức có nghĩa
là trả thù, vậy ông đừng mất thời giờ t́m kiếm cô Rachel làm ǵ.
Sau ngón đ̣n nhẹ này, Holmes bỏ về, để lại đằng sau hai địch thủ
há hốc mồm nh́n nhau.
-----------------
[1] Nguyên văn: pound, đơn vị tiền tệ Anh
Chương 4 -
Lời khai của cảnh sát John Rance
Lúc chúng tôi rời ngôi nhà số 3 đường Lauriston th́ đă một giờ
trưa. Holmes kéo tôi đến trạm bưu điện gần nhất, gửi đi một bức
điện dài. Sau đó, anh gọi xe ngựa bảo đánh đến địa chỉ mà
Lestrade đă ghi cho.
- Không ǵ giá trị bằng những nhân chứng trực tiếp. Thực ra, vụ
này đă được xác định rồi, nhưng hỏi để biết thêm vài chi tiết
cũng không thừa. - Có thực các chi tiết mà anh vừa nói là đúng
không?
- Điều đầu tiên tôi nhận ra ngay khi đến hiện trường là một chiếc
xe ngựa đă in bánh thành hai cái rănh sâu cạnh bờ hè. Trước đêm
hôm qua, trời không mưa một tuần. Vậy th́ chiếc xe đă để lại vết
bánh chỉ có thể đỗ ở đây sau cơn mưa đêm qua. Tôi thấy cả các
dấu chân một con ngựa. Một trong những vết chân này sắc nét hơn
cả ba vết chân khác, điều đó chứng tỏ con ngựa có một chiếc móng
mới đóng. Có một chiếc xe ngựa đă đến đây sau khi trời mưa và
theo lời Gregson cho biết sáng nay không thấy nó đâu, ta suy ra
chiếc xe của hắn đă đến rồi rời đi trong đêm và do đó, nó chính
là chiếc xe chở hai người kia đến ngôi nhà.
- Nghe ra khá đơn giản. Nhưng c̣n về tầm vóc của người hung thủ?
- Có ǵ đâu! Ta có thể căn cứ vào chiều dài của bước chân mà suy
ra chiều cao của người. Tôi đă thấy vết chân của người thứ hai
trên lớp đất sét ở ngoài nhà và trên lớp bụi trong gian pḥng.
Ngoài ra, tôi c̣n có một cách khác để kiểm tra cách tính của
tôi. Khi viết trên tường, người ta thường viết ngang tầm mắt
ḿnh. Chữ viết kia, như tôi đo được, ở cách mặt đất đúng 6 feet.
Dễ như bỡn, phải không bác sỹ?
- Thế c̣n tuổi hắn?
- Một người có thể dễ dàng phóng bước 4 feet rưỡi th́ không thể
là người luống tuổi. Đây cũng là chiều dài của một vũng nước
trên lối đi qua vườn mà hắn đă bước qua. Kẻ đi giày sang trọng
cỡ nhỏ đă đi ṿng qua vũng nước c̣n kẻ đi giày thô mũi vuông th́
phóng bước ngang qua. Không có chút ǵ bí ẩn ở điểm này. Tôi chỉ
áp dụng vào trong nếp sống hàng ngày một vài nguyên lư quan sát
và suy đoán mà tôi đă nêu lên trong bài báo của tôi thôi. Có
điều ǵ khác anh thấy khó hiểu nữa không?
- Móng tay và x́ gà?
- Mấy chữ trên tường được viết bằng một ngón tay trỏ nhúng trong
máu. Chiếc kính lúp đă giúp tôi nhận ra là khi viết, ngón tay
người này đă cào mạnh lên lớp vữa trát tường, điều này chỉ có
thể xảy ra nếu người này có móng tay dài. Tôi t́m thấy rải rác
trên sàn một ít tro đen và xốp, chỉ có loại x́ gà Trichinopoly
mới cho một thứ tàn như vậy. Chính những điều vụn vặt vậy làm
cho nhà thám tử có tài khác với loài thám tử như Gregson và
Lestrade.
- C̣n bộ mặt đỏ?
- Bộ mặt đỏ là một kết luận hơi táo bạo. Thôi không nên hỏi
nhiều.
Tôi đưa tay xoa trán:
- Đầu tôi xoay như chong chóng. Càng nghĩ càng không biết đâu mà
lần. Tại sao hai người ấy lại đến một ngôi nhà bỏ không? Người
đánh xe chở họ đến hiện nay ra sao? Làm thế nào người này lại ép
buộc được người kia uống thuốc độc? Máu ở đâu ra? Hung thủ giết
người để làm ǵ? Tại sao lại có một chiếc nhẫn phụ nữ? Tại sao
hung thủ viết chữ “RACHE” trước khi bỏ chạy?
Bạn tôi nở một nụ cười đồng t́nh:
- Anh đă tóm tắt ngắn gọn và chính xác những điều nan giải của vụ
này. Hăy c̣n khá nhiều khía cạnh khó hiểu khác nữa. C̣n về phát
hiện của anh chàng Lestrade kia? Chữ này không phải do một người
Đức viết. Nếu anh chú ư, anh sẽ thấy chữ A được viết hơi theo
kiểu chữ của người Đức. Thế nhưng, người Đức chính cống bao giờ
cũng viết theo dạng chữ Latin, v́ vậy ta có thể khẳng định rằng
những chữ này không phải do một người Đức viết mà là một kẻ muốn
giả làm người Đức, nhưng vụng về. Đây chỉ là một cái mưu nhằm
đánh lạc hướng cuộc điều tra. Nhưng thôi, bác sỹ Watson, cắt
nghĩa hết các phép thuật của ḿnh th́ nhà phù thủy chẳng c̣n ǵ
là cao tay nữa. Cũng vậy, nếu tôi bày tỏ với anh quá nhiều
phương pháp làm việc của tôi, anh sẽ đi đến kết luận là tôi rút
cuộc cũng chẳng có ǵ đặc biệt cả.
- Không khi nào! Anh đă đưa phép suy đoán của anh đến chổ gần
thành một môn khoa học chính xác như chưa từng có trên thế giới
này.
Những lời tôi nói và vẻ khâm phục trên nét mặt tôi khiến Holmes
đỏ mặt v́ sung sướng.
- Tôi xin kể thêm với anh. Kẻ đi giày cỡ nhỏ và kẻ đi giày mũi
vuông cùng đến trên một chiếc xe, cùng đi trên lối đi qua vườn.
Vào nhà, kẻ đi giày nhỏ đi đi lại lại ngang dọc gian pḥng. Tôi
có thể đọc thấy điều đó trên lớp bụi, tôi c̣n có thể đọc được là
càng đi, hắn càng nổi xung lên, có thể thấy rơ ở bước chân ngày
một dài của hắn. Khởi đầu ta đă có một điểm xuất phát đúng, vậy
phải xúc tiến gấp lên thôi, v́ chiều nay tôi muốn đi nghe ḥa
nhạc.
Câu chuyện giữa hai chúng tôi diễn ra trên chiếc xe ngựa đang
lăn bánh. Đến những ngơ ngách bẩn thỉu và gớm ghiếc nhất, chiếc
xe bỗng dừng lại.
- Đến chung cư Audley rồi, ở trong kia ḱa
- Người xà ích chỉ một
khoảng hẹp giữa dăy nhà bằng gạch đen ś. Tôi chờ các ông ở
ngoài này.
Lối đi nhỏ hẹp dẫn chúng tôi đến một cái sân gạch h́nh vuông,
xung quanh là những căn nhà nhớp nhúa. Đi qua một nhóm trẻ Con
rách rưới và một loạt dây phơi quần áo, chúng tôi t́m đến căn hộ
số 46. Bên cửa có một tấm biển nhỏ bằng đồng khắc tên Rance. Hỏi
ra, chúng tôi được biết viên cảnh sát đă đi ngủ. Người nhà đưa
chúng tôi vào chờ ở gian nhà ngoài.
Một lát sau, viên cảnh sát ra tiếp, vẻ hơi cáu kỉnh:
- Tôi đă báo cáo hết ở đồn cảnh sát rồi.
Holmes rút ra một đồng tiền vàng, mân mê với vẻ tư lự:
- Chúng tôi muốn nghe chính anh kể lại.
Viên cảnh sát thay đổi hẳn thái độ:
- Tôi sẵn sàng.
Rance ngồi xuống chiếc ghế đệm, cau mày lại với vẻ mặt của người
không muốn để sót một chi tiết nào.
- Ca đi tuần của tôi là từ 10 giờ tối đến 6 giờ sáng. Vào lúc 11
giờ đêm, xảy ra một vụ đánh nhau ở gần quán rượu “Con hươu
trắng”[1], ngoài ra khá yên tĩnh. Đến 1 giờ, trời bắt đầu mưa và
tôi gặp Harry Murcher, viên cảnh sát đi tuần phía đường Holland
Grove. Chúng tôi nói với nhau dăm ba câu chuyện ở góc phố
Henryetta. Một lát sau vào khoảng 2 giờ, tôi tự nhủ ḿnh phải đi
một ṿng về phía đường Brixton. Phố xá yên tĩnh. Tôi không gặp
ai cả, tuy có thếy một hai chiếc xe. Tôi đi thong thả, vừa đi
vừa nghĩ tới một ly rượu. Bỗng nhiên một vạch ánh sáng lọt ra từ
cửa sổ một ngôi nhà làm tôi chú ư. Tôi vốn biết hai ngôi nhà ở
đường Lauriston vẫn bỏ không. V́ vậy tôi ngờ rằng có một chuyện
ǵ không b́nh thường, khi tôi vào đến cửa nhà...
- ...Th́ anh đứng lại và quay ra chổ cửa vườn. Tại sao?
- Vâng, đúng thế. Nhưng quái lạ, sao mà ông biết? Khi tôi đến cửa
nhà, cảnh vật im ĺm và vắng vẻ đến nỗi tôi phải quay trở lại
cửa vườn, xem có thấy ngọn đèn tuần tra của Harry không. Nhưng
không thấy bóng một ai cả.
- Anh không thấy ai ngoài phố à?
- Không một ai, ngay một con chó cũng không. Lúc bấy giờ, tôi trở
lại, đẩy cánh cửa. Cánh cửa mở ra dễ dàng, bên trong hoàn toàn
yên tĩnh. Tôi bước vào gian pḥng có ánh sáng. Dưới ánh sáng
chập chờn của một ngọn nến trên mặt ḷ sưởi, tôi thấy...
- Được rồi, tôi biết anh thấy những ǵ rồi. Anh đă đi ṿng quanh
gian pḥng vài ba lần, anh đă quỳ gối xuống bên cạnh xác chết,
rồi anh đi ngang qua gian pḥng, thử mở cánh cửa gian bếp và...
Rance bật đứng dậy, nét mặt hoảng hốt, con mắt ngờ vực:
- Ông nấp ở chổ nào mà nh́n thấy hết các hoạt động của tôi?
Holmes cười vui vẻ và đặt tấm danh thiếp của ḿnh lên bàn:
- Chớ bắt giữ tôi về vụ án mạng này. Tôi là một trong những người
săn đuổi con mồi chứ không phải là con mồi đâu. Anh kể tiếp đi.
Sau đó anh làm ǵ?
Rance ngồi xuống, chưa bớt bàng hoàng:
- Tôi trở ra cửa, huưt c̣i. Nghe tiếng c̣i, Harry và hai viên
cảnh sát khác kéo đến.
- Lúc đó ngoài phố vẫn không có ai à?
- Vâng, ít ra là không có ai có thể giúp tôi.
- Anh nói thế là thế nào?
Viên cảnh sát cười nhăn cả mặt:
- Trong đời tôi đă gặp khá nhiều đứa say, nhưng chưa bao giờ thấy
ai say như gă này. Gă đứng ngoài cửa khi tôi ở trong nhà bước
ra. Tựa người vào hàng rào gỗ, gă hát toáng lên một bài hát quen
thuộc ở các quán rượu. Gă đứng cũng không vững, chứ đừng nói đến
giúp tôi một tay.
- Gă đó thuộc dạng người như thế nào?
Rance có vẻ khó chịu trước câu hỏi lạc đề:
- Tôi đă bảo gă là gă say mềm mà, sau khướt, không biết trời đất
là ǵ nữa. Nếu chúng tôi không vướng tay vào vụ này th́ đă đưa
gă về đồn rồi.
- Mặt gă thế nào? Gă mặt quần áo ǵ? Anh có thấy điều ǵ đặc biệt
không? Holmes nôn nóng ngắt lời anh ta.
- Chắc là không có ǵ đặc biệt, v́ tôi và Harry phải đỡ gă. Người
gă cao lớn, mặt đỏ.
- Thôi đủ rồi, sau đó ra sao?
- Lúc bấy giờ chúng tôi đâu có rỗi răi để mà bận tâm đến gă. Viên
cảnh sát trả lời với vẻ mếch ḷng. Tôi cam đoan là gă đi ngay về
nhà.
- Gă mặc quần áo ǵ?
- Áo khoác ngoài màu nâu.
- Tay có cầm cái roi phải không?
- Roi à? Không.
- Hẳn ta đă bỏ quên. Bạn tôi lẩm bẩm. Sau đấy anh không nghe thấy
hoặc nh́n thấy một chiếc xe ngựa nào à?
- Không.
- Xin đăi ông bạn đồng tiền vàng này
- Holmes đứng dậy, tay cầm
lấy mũ. - Anh Rance này, đêm qua lẽ ra anh đă giật được lon đội
trưởng rồi đấy. Gă say rượu là người nắm giữ cái ch́a khóa t́m
ra vụ bí mật này. Chúng tôi đang t́m hắn. Thôi, ta đi đi bác sỹ!
Chúng tôi trở ra xe, để mặc viên cảnh sát ngồi ngẩn người và lo
lắng.
Trong chiếc xe chạy về phố Baker, Holmes nói, giọng ngao ngán:
- Dịp may có một không hai đă đến với hắn mà hắn để tuột mất.
- Tôi vẫn thấy tối như bưng. Đúng là h́nh dáng gă say rượu kia
rất khớp với sự miêu tả của anh về nhân vật thứ hai trong tấn bi
kịch. Nhưng tại sao hắn quay trở lại ngôi nhà sau khi đă bỏ đi
rồi. Đó không phải là thói thường hành động của bọn tội phạm.
- Chiếc nhẫn, bác sỹ ạ, v́ chiếc nhẫn. Đó là lư do v́ sao nó quay
lại. Nếu ta không t́m được cách nào khác để tóm cổ nó, ta có thể
bẫy nó bằng chiếc nhẫn. Rồi tôi sẽ tóm cổ được nó tôi đánh cuộc
với anh đấy. Thôi, bây giờ, ta đi ăn cơm trưa rồi c̣n đi nghe
ḥa nhạc.
-----------------
[1] Nguyên văn: White Hart
Chương 5 -
Cuộc viếng thăm của người khách lạ
Các hoạt động trong buổi sáng hôm đó là quá nhiều, cho
nên đến chiều, tôi thấy mệt. Holmes, đi nghe ḥa nhạc một ḿnh
c̣n tôi nằm dài trên chiếc đi- văng, cố chợp mắt lấy một vài
tiếng, nhưng không sao ngủ được. Trí óc tôi bị kích thích quá
mạnh v́ những sự Việc đă diễn ra và chứa đầy những giả thiết,
những điều tưởng tượng kỳ quái nhất.
Càng nghĩ, tôi càng thấy giả thiết của Holmes cho rằng nạn nhân
đă bị đầu độc là kỳ quái. Nhưng nếu nạn nhân không phải chết v́
thuốc độc th́ v́ cái ǵ, bởi lẽ trên cơ thể không có một thương
tích nào cả. Và máu trên sàn là máu của ai? Chừng nào những câu
hỏi ấy chưa được giải đáp, tôi cảm thấy giấc ngủ khó mà đến
được.
Holmes vắng nhà khá lâu. Anh không thể nào ở nơi ḥa nhạc tất cả
ngần ấy thời gian. Bữa ăn tối dọn ra xong, anh mới về.
- Thật là kỳ thú - Holmes vừa nói vừa ngồi vào bàn ăn
- Darwin cho
rằng khả năng tạo ra âm nhạc và thưởng thức âm nhạc đă tồn tại ở
con người từ lâu, trước khi con người biết nói. Có thể v́ lẽ ấy
mà ngày nay chúng ta chịu ảnh hưởng êm ái của âm nhạc. Trong tâm
hồn chúng ta c̣n lưu lại những kư ức mơ hồ về những thời kỳ mông
muội ấy.
- Đó là một tư tưởng rất vĩ đại
- Tôi nhận xét.
- Tư tưởng của chúng ra phải vĩ đại ngang tầm với tự nhiên khi ta
muốn t́m hiểu tự nhiên. Nhưng sao thế?
- Vụ án mạng là anh bồn chồn à?
- Đúng thế.
- Tôi hiểu tâm trạng anh. Trong vụ này có một khía cạnh bí ẩn nó
kích thích trí tưởng tượng. Khi mà trí tưởng tượng không bị kích
thích th́ ta không thấy khủng khiếp. Anh đă đọc báo buổi chiều
chưa?
- Chưa.
- Bài tường thuật không kể Lại chi tiết khi người ta nhất xác nạn
nhân lên th́ có một chiếc nhẫn rơi ra. Không nói đến chiếc nhẫn
càng hay .
- V́ sao?
- Anh hăy đọc lời nhắn tin này. Sáng nay tôi đă gửi đăng trên các
báo, ở mục “Của rơi”: “Đă nhặt được một chiếc nhẫn cưới trên
đường Brixton, đoạn từ quán rượu “CON HƯƠU TRẮNG” đến góc phố
Holland Grove. Ai đánh rơi, mời đến gặp bác sỹ Watson ở số nhà
221B, phố Baker nhận về, từ tám giờ đến chín giờ tối nay.
- Tôi xin lỗi đă mượn tên anh. Nếu dùng tên tôi th́ thế nào một
trong hai tên ngốc kia cũng nhận ra và lại dính vào đây.
- Không sao cả. Nhưng nhỡ có ai đến, tôi lại không có chiếc nhẫn
nào.
- Ồ, có chứ, nhẫn đây! Holmes đưa cho tôi một chiếc nhẫn. Chiếc
nhẫn này được đấy chứ, giống chiếc kia như in.
- Ai sẽ đến xin lại của rơi này?
- C̣n ai vào đây! Kẻ mặc chiếc áo khoác ngoài màu nâu, có bộ mặt
đỏ đi giày mũi vuông. Nếu hắn không đích thân đến th́ hắn sẽ
phái một tên đồng lơa.
- Liệu hắn có cho là quá nguy hiểm không?
- Không đâu! Con người ấy dám liều mọi chuyện hơn là để mất chiếc
nhẫn. Theo tôi, hắn đă đánh rơi chiếc nhẫn khi cúi xuống trên
xác nạn nhân. Lúc ra khỏi nhà, hắn thấy mất chiếc nhẫn nên vội
vă quay lại, nhưng lúc ấy cảnh sát đă tới v́ hắn vô ư để ngọn
nến vẫn cháy. Lúc bấy giờ hắn đă phải giả vờ say để đánh tan mọi
nghi ngờ do sự Có mặt của hắn. Hắn cho rằng ḿnh đă đánh rơi
chiếc nhẫn sau khi ra khỏi nhà. Trong trường hợp đó, hắn sẽ làm
ǵ? Hắn sẽ hối hả t́m đọc các mục đăng “CỦA RƠI”. Hắn sẽ mừng
lắm. Việc ǵ hắn phải sợ bị bẫy. Hắn sẽ đến cho mà xem. Trong
ṿng một giờ nữa.
- Rồi sao nữa?
- Ồ, khi ấy, anh có thể để mặc tôi với hắn. Anh có súng đấy
không?
- Tôi c̣n giữ khẩu súng ngắn với mấy viên đạn.
- Anh nên lau chùi và nạp đạn vào. Ta sẽ gặp một con người rất
liều mạng.
Tôi về pḥng riêng và làm theo lời khuyên của Holmes. Khi trở
lại với khẩu súng, tôi thấy bàn ăn đă được dọn sạch và Holmes
đang bận với môn giải trí ưa thích của ḿnh: gảy dây đàn vĩ cầm.
Thấy tôi vào, anh nói:
- Câu chuyện thêm nhiều chi tiết đậm đà. Tôi vừa mới nhận được
điện trả lời từ Mỹ. Cách nh́n nhận vấn đề của tôi đă được xác
nhận là đúng.
- Cụ thể là...? Tôi sốt sắng hỏi.
- Cất súng đi. Khi nhân vật của chúng ta xuất hiện, anh hăy nói
chuyện với hắn một cách b́nh thường và để mặc tôi xử sự. Đừng
làm hắn hoảng lên bằng những lời quá gay gắt.
- Bây giờ đă 8 giờ rồi.
- Được, hắn sẽ tới trong vài phút nữa. Anh hé mở cánh cửa một
chút. Thế được rồi. Bây giờ anh tra ch́a khóa vào ổ khóa trong
đi. Cám ơn! A! Nhân vật của chúng ta đến kia rồi.
Trong lúc anh nói, tôi nghe tiếng chuông giật mạnh. Holmes nhẹ
nhàng đứng dậy, kê lại ghế của ḿnh gần cửa. Có tiếng chân người
hầu vang lên trong pḥng tiền sảnh, tiếng ch́a khóa vặn trong ổ
khóa và tiếng cửa mở.
Một giọng thanh thanh nhưng khá rắn rỏi:
- Đây có phải là nhà bác sỹ Watson không?
Chúng tôi không nghe thấy câu trả lời của người hầu, nhưng cánh
cửa khép lại và có người bước lên cầu thang. Bước chân ngập
ngừng, dè dặt. Holmes lắng tai nghe, có vẻ hơi ngạc nhiên. Có ai
đó bước chậm chạp ngoài hành lang rỗi gơ cửa khe khẽ.
- Mời vào! Tôi hét to.
Sau lời mời của tôi, một bà cụ rất già, da nhăn nheo, bước vào.
Bà cụ h́nh như bị chói mắt v́ ánh sáng trong pḥng. Bà cúi đầu
xuống chào rồi cứ đứng nh́n chúng tôi với con mắt hấp háy đầy
ghèn, bàn tay run rẩy lục t́m cái ǵ trong túi. Tôi liếc nhanh
nh́n Holmes. Nét mặt anh biểu lộ một vẻ thất vọng. Bà lăo rút
trong túi ra một tờ báo:
- Thưa các ông quư hóa, tôi đọc được mẩu tin này trên báo nên mới
đến- Bà lăo lại cúi chào một lần nữa- Đó là chiếc nhẫn của con
gái tôi, tên nó là Sally, nó lấy chồng cách đây một năm và chồng
nó hiện đang làm việc trên tàu thủy. Chồng nó sẽ nói sao khi về
thấy vợ không c̣n chiếc nhẫn cưới nữa. Thằng đó vốn là một đứa
không thuần tính, nhất là khi rượu vào. Thưa hai ông, con gái
tôi tối qua nó đi xem xiếc với...
- Đây có phải là chiếc nhẫn của cô ấy không? Tôi hỏi và đưa chiếc
nhẫn ra.
- Xin tạ ơn chúa! Tối nay, con Sally sẽ mừng lắm đấy. Đúng là
chiếc nhẫn của nó.
- Nhà cụ ở đâu? Tôi hỏi và cầm lấy bút ch́.
- Số 13 phố Duncan khu Houndsditch. Xa đây lắm và đi mệt lắm.
Giọng Holmes đanh lại:
- Không có rạp xiếc nào từ Brixton đến khu Houndsditch cả.
Bà cụ quay sang Holmes, nh́n chằm chằm:
- Ông này hỏi nhà tôi. C̣n nhà Sally th́ ở số 3 khu Mayfield
đường Peckham.
- Tên cụ là ǵ?
- Tên tôi là Sawyer, chồng nó là Dennis, Tom Dennis, một đứa
nhanh nhẹn và khá ngoan khi ở biển, ai nấy đều quư hóa. Nhưng
khi nó lên bờ th́ ôi dào, rượu chè, trai gái
- Cụ Sawyer - Tôi ngắt lời bà cụ khi thấy Holmes ra hiệu. Chiếc
nhẫn này đúng là của con gái cụ, tôi rất vui ḷng trả lại cho
chủ của nó.
Lầm bầm măi những lời cảm ơn và chúc tụng, bà cụ cất chiếc nhẫn
vào trong túi rồi lại lê chân bước xuống thang gác.
Holmes lao vội về buồng anh khi bà cụ vừa ra khỏi pḥng. Vài
giây sau, anh trở lại, người trùm trong chiếc áo măng- tô lớn và
một cái khăn quàng kín cổ kín mũi.
- Tôi đi theo bà lăo đấy. Anh chờ tôi ở nhà nhé.
Cổng nhà vừa khép lại sau lưng người khách già th́ Holmes đă
xuống hết cầu thang. Nh́n qua cửa sổ, tôi thấy bà già đang bước
chầm chậm qua đường và bạn tôi ở cách đó không xa
Lúc Holmes đi, kim đồng hồ chỉ 9 giờ tối. Tôi ngồi hút thuốc và
đọc sách. Chuông đồng hồ điểm 10 giờ, tôi nghe tiếng chân những
người hầu gái đi ngủ. Mười một giờ, đến lượt tiếng chân rắn rỏi
hơn của bà chủ nhà lên giường. Gần nửa đêm th́ có tiếng mở khóa
cửa. Holmes vừa mới tḥ đầu vào buồng, tôi đă thấy ngay là hỏng
việc. Nét mặt Holmes có vẻ vừa buồn cười vừa bực bội, hai tâm
trạng đó h́nh như vật lộn với nhau cho đến khi vẻ buồn cười
thắng thế th́ anh bật cười thành tiếng, buông ḿnh xuống chiếc
ghế bành, tự giễu ḿnh:
- Giá mà Scotland Yard biết chuyện này, họ sẽ được một trận cười
chế nhạo.
- Có chuyện ǵ vậy?
- Khi đi được một đoạn đường th́ mụ già bắt đầu đi khập khiễng,
lộ rơ là đau chân. Được một quăng nữa, mụ đứng lại, gọi một
chiếc xe ngựa ngang qua. Tôi vội mon men đến gần, nhưng lo như
vậy là thừa, v́ mụ nói to đến nỗi đứng ở bên kia đường cũng nghe
rơ. Mụ hét lên: “Cho tôi đến nhà số 14 phố Duncan, khu
Houndsditch”. Tôi nghĩ bụng mụ này xem ra có vẻ ngay thật đấy.
Khi đă thấy rơ ràng ràng mụ ngồi vào trong chiếc xe rồi, tôi mới
thu ḿnh nhảy lên ngồi nấp trong nhíp xe: đây là một tṛ mà nhà
thám tử nào cũng sở trường. Thế rồi xe chạy, chạy măi, không
dừng lại một giây nào cho đến khi tới phố Duncan. Sắp đến nhà,
tôi từ chổ ngồi nhảy xuống, đi vẩn vơ ngoài phố, người đánh xe
nhảy xuống. Sán lại gần, tôi thấy hắn đang tức tối xem xét
khoang xe trống không và tuôn ra một tràng câu chửi. Đến hỏi nhà
số 13 tôi được biết chủ nhà là một người làm bánh ngọt tên là
Keswick và ông chưa nghe đến tên Sawyer lẫn Dennis bao giờ.
Tôi kinh ngạc :
- Mụ già đă chuồn khỏi xe trong khi xe đang chạy mà anh và người
đánh xe đều không biết?
- Để cho bị lừa như vậy chính chúng ta mới là bà già. Đó chắc là
một gă trai trẻ, nhanh nhẹn, đóng kịch giỏi, cải trang khéo. Có
lẽ hắn biết hắn bị theo dơi nên đă dùng cái mẹo ấy để lừa tôi.
Điều đó chứng tỏ rằng nhân vật mà chúng ta t́m kiếm có những
người bạn tài ba. Thôi bây giờ, anh có vẻ mệt đấy, bác sỹ ạ. Anh
nên đi ngủ đi.
Tôi để Holmes ngồi một ḿnh bên ḷ sưởi, và rất khuya tôi c̣n
nghe thấy những âm thanh nỉ non khe khẽ trên cây đàn của anh.
Tôi biết anh đang suy ngẫm về bài toán kỳ quặc mà anh muốn giải
đáp.
Chương 6 -
Gregson t́m thấy ǵ
Các báo hôm sau đăng đầy những bài viết về "vụ án bí ẩn ở
Brixton". Dưới đây là nội dung tóm tắt của một số bài.
Tờ "Tin điện hằng ngày" nhận xét:
"Trong lịch sử khoa h́nh sự, chưa mấy khi xảy ra một tấn bi kịch
với những t́nh tiết kỳ quặc hơn thế. Nạn nhân mang tên Đức,
những chữ bằng máu trên tường, động cơ ám sát không có. Tất cả
những chi tiết ấy cho thấy án mạng này là do những kẻ tị nạn
chính trị và những kẻ hoạt động xă hội gây ra. Các đảng phái cấp
tiến có nhiều chi nhánh hoạt động tại Mỹ, và nạn nhân có lẽ đă
vi phạm các luật lệ không thành văn của các đảng phái ấy nên đă
bị trừng trị".
Bài báo kết thúc bằng lời khiển trách chính phủ và yêu cầu chính
phủ giám sát chặt chẽ hơn các ngoại kiều trú ngụ trên đất Anh.
Tờ " Lá Cờ " b́nh luận:
"Những vụ trọng án như vụ này đă diễn ra dưới một chính thể tự
do. Chúng sinh ra từ sự hỗn tạp trong dân chúng và sự suy yếu
của chính quyền. Nạn nhân là một người Mỹ đă sinh sống ít lâu
tại London. Ông ta đă ở trọ một thời gian tại nhà bà Charpentier
khu Camberwell. Thư kư riêng của ông ta là Stangerson đă cùng đi
với ông ta trong các chuyến đi. Hai người đă từ biệt bà chủ trọ
hôm thứ ba, ngày mồng 4 tháng này và đă đi ra ga Euston để đáp
chuyến tàu tốc hành đi Liverpool. Sau đó ít lâu, người ta thấy
hai người đứng với nhau trên sân ga. Sau nữa th́ không biết ǵ
về họ cho đến khi người ta t́m thấy xác ông Drebber trong một
ngôi nhà bỏ trống trên đường Brixton cách nhà ga Euston hàng mấy
dặm đường. Nạn nhân đă đến đây bằng cách nào và đă chết như thế
nào? Những câu hỏi này hăy c̣n nằm trong màn bí mật. Chúng tôi
vui mừng được biết các thanh tra Gregson và Lestrade đă cùng bắt
tay vào vụ án và tin rằng hai quan chức mẫn cán và tài năng ấy
sẽ sớm rọi sáng vào vụ khó hiểu này ".
Tờ "Tin Hàng Ngày" kết luận:
"Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, đây là một vụ án chính trị. Sự
chuyên chế của chính quyền các nước ở lục địa châu Âu đă xua
đuổi về bờ biển nước ta nhiều người có thể trở thành những công
dân tốt nếu họ không bị ám ảnh kích động bởi những kư ức về
những nỗi đau khổ và gian truân của họ. Trong đám người ấy có
một luật lệ hết sức nghiêm ngặt, nó kết án tử cho bất cứ ai vi
phạm nó. Cần phải t́m cho ra viên thư kư Staggerson để hỏi một
số chi tiết liên quan đến nạn nhân. Cuộc điều tra đă tiến được
một bước khi t́m ra được địa chỉ nhà trọ của nạn nhân. Sự khám
phá ấy hoàn toàn nhờ tài năng của ông Gregson".
Holmes và tôi rất buồn cười khi đọc những ḍng này.
- Tôi đă bảo với anh mà, anh dù có thế nào, Lestrade và Gregson
vẫn được tán dương. Một anh ngốc bao giờ cũng t́m được một anh
ngốc hơn để khâm phục ḿnh.
- Nhưng ǵ thế này - Tôi kêu lên th́ vừa vặn lúc ấy có nhiều
tiếng bước chân ở dưới nhà cùng với những lời gắt gỏng của bà
chủ nhà.
- Đó là đội cảnh sát nghiệp dư ở phố Baker.
- Holmes nghiêm trang
trả lời. Cùng lúc đó khoảng hơn một chục đứa trẻ lem luốc, ùa
vào pḥng chúng tôi.
- Nghiêm - Holmes hô lên và bọn trẻ con xếp thành hàng như một
dăy những bức tượng nhỏ- Lần sau các cháu đợi cả ở ngoài phố
nhé, chỉ để cho một ḿnh Wiggins lên báo cáo thôi. Wiggins có
t́m thấy không?
- Không ạ, chúng cháu chưa t́m ra! - Một đứa trong bọn trẻ thưa.
- Kém thế! Tiếp tục đi cho đến khi t́m ra. Tiền thù lao đây
-
Holmes chia cho mỗi đứa 1 shilling bây giờ, các cháu hăy tỏa
nhanh đi khắp nơi rồi trở về đây với một báo cáo có kết quả hơn.
Bọn trẻ chạy ào xuống cầu thang, một lát sau đă nghe thấy tiếng
chúng léo nhéo ngoài phố.
- Mấy đứa trẻ này c̣n hữu ích hơn một tá cảnh sát. Nh́n thấy ai
có vẻ là người nhà nước, người ta đă lo giữ miệng rồi. Trái lại,
bọn trẻ này len lỏi được khắp mọi nơi và nghe được đủ mọi
chuyện. Chúng không bị ai để ư và luồn lách nhanh như chạch.
- Anh sử dụng chúng cho vụ Brixton đấy à?
- Đúng. Có một điểm tôi muốn t́m hiểu. Đây chỉ là vấn đề thời
gian, rồi thể nào cũng ra. Thế nào? Ai kia như Gregson ngoài
phố. Anh ta mang hai chữ "hớn hở" ghi từng nét trên mặt. Anh ta
đến chỗ ta đây.
Có tiếng chuông giật mạnh và vài ba giây sau, nhà thám tử có mái
tóc vàng lên cầu thang, bước ba bậc một, và lao vào pḥng chúng
tôi như một tia chớp. Gregson vồ lấy tay Holmes, siết chặt và
reo lên:
- Ông Sherlock Holmes thân mến, ông hăy khen ngợi tôi đi. Tôi đă
làm sáng tỏ hết, rơ như ban ngày.
H́nh như có một thoáng lo lắng lướt qua gương mặt diễn cảm của
bạn tôi. Holmes hỏi:
- Ông muốn nói là ông đă t́m được hướng đúng rồi à?
- Hướng đúng! Ồ, chúng tôi đă tóm được hung thủ rồi.
- Tên hắn là ǵ?
- Arthur Charpentier, thiếu úy hải quân[1] - Gregson dài giọng,
ưỡn ngực, xoa hai tay vào nhau.
Holmes thở phào, hé nở một nụ cười và nói:
- Mời ông ngồi và thử một điếu x́ gà đi. Chúng tôi rất muốn biết
ông đă tiến hành công việc như thế nào. Ông dùng một cốc whisky
pha nước nhé.
- Xin vâng. Những nỗ lực ghê gớm mà tôi đă phải bỏ ra trong hai
ngày qua làm tôi bải hoải cả người.
- Chúng tôi rất hân hạnh được ông quá bộ đến chơi
- Holmes nói,
giọng nghiêm trang- Xin ông cho biết ông đă làm thế nào để đi
đến kết quả hết sức đáng khen ấy.
Gregson ngồi sâu trong chiếc ghế bành, khoan khoái rít x́ gà,
rồi bỗng nhiên vỗ đùi đánh tét một cái:
- Trong vụ này, anh chàng Lestrade ngốc nghếch cứ tưởng ḿnh khôn
ngoan, đă hoàn toàn đi nhầm đường. Anh ta đi t́m viên thư kư
Stangerson mà Stangerson th́ dính líu đến vụ này không hơn ǵ
một đứa trẻ chưa ra đời. Hẳn bây giờ Lestrade đă tóm cổ hắn rồi.
Ư nghĩ ấy khiến cho Gregson cười sằng sặc măi.
- Ông đă t́m ra hướng của ông như thế nào?
- Holmes hỏi.
- Khó khăn đầu tiên đặt ra với tôi là t́m cho ra tung tích nạn
nhân. Có người cứ ngồi ở nhà chờ người ta đọc các lời nhắn tin
của ḿnh trên báo mà đến cung cấp tin tức cho ḿnh. Gregson th́
không làm việc như thế. Ông bác sỹ, ông c̣n nhớ chiếc mũ bên
cạnh nạn nhân khong?
- Có, chiếc mũ của cửa hàng Underwood và con số 129, đường
Camberwell - Holmes trả lời.
- Tôi tưởng ông không để ư. Ông đă đến cửa hàng chưa?
- Gregson
chột dạ, hỏi.
- Tôi không đến - Holmes đáp.
- À - Gregson thở phào yên tâm - Chớ bao giờ coi thường một cơ
hội, dù là nhỏ.
- Đối với bộ óc lớn không có ǵ là nhỏ
- Giọng Holmes triết lư.
- Đúng thế! Tôi đến cửa hàng Underwood hỏi chủ hiệu, xem ông ta
đă bán cho ai một chiếc mũ kiểu như vậy. Chủ hiệu xem sổ sách
cho thấy người mua tên là Drebber, trọ tại nhà bà Charpentier.
- Giỏi lắm, rất giỏi! - Holmes khẽ nói.
- Tôi đến gặp bà Charpentier. Tôi thấy bà ta mặt tái mét và buồn
rầu. Cô con gái hai mắt đỏ hoe và miệng run rẩy khi nghe tôi hỏi
chuyện. Chi tiết ấy không thoát khỏi con mắt quan sát của tôi.
Ông Sherlock Holmes, ông biết đấy khi ta ḍ đến gần hướng đúng
.... các dây thần kinh của ta như run lên. Tôi mới hỏi hai mẹ
con: "Bà và cô biết ǵ về cái chết của ông Drebber không?".
Ngươi mẹ gật đầu. Cô con gái ̣a khóc. Tôi hỏi:
- Ông Drebber rời nhà bà ra tàu vào lúc mấy giờ?
Bà ta cho biết là vào lúc tám giờ. Người thư kư của ông ấy là
Stangerson nói có hai chuyến tàu, một chuyến chạy vào lúc 9 giờ
15 và chuyến kia vào lúc 11 giờ. Họ phải kịp chuyến thứ nhất.
- Đó là lúc bà gặp ông ta lần cuối cùng phải không?
- Tôi lại hỏi.
Người mẹ có vẻ hốt hoảng. Mấy giây sau bà ta mới nói lên được
một tiếng "vâng".
Mấy phút im lặng trôi qua, cô con gái nói:
- Mẹ ạ, ta nên nói thẳng với quư ông đây. Chúng tôi đă lại gặp
ông Drebber.
Bà Charpentier giơ hai tay lên trời, gieo ḿnh xuống ghế, kêu
lên:
- Cầu chúa tha tội cho con! Con giết anh con đó!
- Anh Arthur muốn ta nói thẳng ra sự thật
- Cô con gái đáp với
giọng rắn rỏi.
Tôi bảo họ:
- Bà và cô nên kể hết với tôi. Những lời khai nửa vời c̣n tệ hại
hơn là không khai ǵ cả.
Bà mẹ mắng con:
- Mong sao tai họa rơi xuống đầu mày
- Rồi quay sang tôi: - Tôi
xin kể hết. Ông đừng nghĩ rằng tôi đang lo cho thằng con trai
tôi. Nó hoàn toàn vô tội. Tôi lo là lo rằng dưới con mắt ông và
con mắt người khác, nó có thể bị coi có liên can. Dù sao, chắc
chắn là không thể nào có chuyện đó. Tính t́nh nó, nghề nghiệp
nó, những hành vi đă qua của nó sẽ chứng minh cho nó.
- Tốt nhất là bà đừng có giấu giếm ǵ hết. Hăy tin rằng nếu con
bà vô tội th́ không v́ thế mà nó có tội đâu.
Bà mẹ bao con gái:
- Có lẽ con để mặc mẹ với ông khách th́ hơn
- Cô con gái đi ra và
bà nói tiếp: - Thưa ông, tôi không có ư định kể với ông, nhưng v́
con gái tôi đă nói hở, tôi không c̣n cách nào khác.
- Đó là điều tốt nhất. - Tôi nói.
- Ông Drebber đă ở trọ nhà tôi trong ba tuần cùng với ngươi thư
kư là ông Stangerson. Ông này là một ngươi điềm tĩnh, kín đáo,
nhưng ông chủ của ông ta, th́ thô lỗ, hung tợn. Ngay tối hôm đầu
đến trọ, ông ấy đă tỏ ra rất xấu tính. Ông ấy có những cử chỉ và
lời ăn tiếng nói sàm sỡ với các chị hầu. Và với cả con gái tôi.
Có lần, bất thần ông ấy ôm chặt lấy nó và hôn nó.
- Việc ǵ bà phải chịu đựng những chuyện ấy. Tôi nghĩ bà có thể
tống khứ họ đi chứ?
- Lạy Chúa! Giá mà tôi không nhận cho ông ấy trọ ngay sau tối đầu
tiên! Nhưng ông ấy trả tiền trọ cao, mà hiện nay đang là mùa
vắng khách! Tôi ở góa, thằng con trai tôi trong hải quân tốn kém
cho tôi lắm. V́ vậy tôi cố chịu đựng. Nhưng sự lăng mạ cuối cùng
này th́ quá lắm. V́ thế, tôi đă bảo ông ấy đi t́m chổ trọ khác.
Và hai thầy tṛ ông ấy đă bỏ đi.
- Rồi sao nữa?
- Nh́n họ ra đi, tôi thấy nhẹ người. Thằng con trai tôi lúc này
đang nghỉ phép. Tôi không hé răng với nó về chuyện này v́ tính
nó nóng nảy và rất quư em gái. Nhưng! Không đến một giờ sau, có
người giật chuông ngoài cửa và tôi thấy ông Drebber quay lại.
Ông ấy cứ xông vào buồng nơi tôi đang ngồi với con gái tôi, làu
bàu những câu không đầu không đuôi, đâu như nói về chuyến tàu mà
ông ấy nhỡ th́ phải. Sau đó ông ấy quay qua con gái tôi, rủ nó
đi trốn. Con gái tôi hoảng sợ, toan bỏ đi, nhưng ông ấy nắm lấy
cổ tay nó, cố kéo nó về phía cửa. Tôi kêu lên và đúng lúc ấy
thằng Arthur chạy đến. Chuyện ǵ đă diễn ra lúc bấy giờ, tôi
không biết nữa. Tôi nghe thấy những lời chửi rủa và tiếng xô
xát. Tôi sợ quá, không dám ngẩng đầu lên. Đến khi dám nh́n th́
tôi thấy con trai tôi đang đứng ở giữa cửa, tay cầm một cái gậy,
cười to. Nó nói: "Thằng này chừa rồi, không dám quấy rầy nhà
ḿnh nữa đâu. Để con đi theo xem nó ra sao". Sau đó, nó cầm lấy
mũ và ra đi. Sáng hôm sau, chúng tôi nghe tin ông Drebber đă
chết một cách bí ẩn.
Lời khai ấy do chính mồm bà Charpentier nói ra kèm theo những
tiếng thở dài và những chỗ ngắt quăng. Tôi đă ghi bằng tốc kư
lời khai của bà ấy để khỏi có sự nhầm lẫn sai sót.
- Rất lư thú - Holmes nói và cố gh́m một cái ngáp
- Rồi sau ra
sao?
- Khi bà Charpentier khai xong, tôi thấy vụ này quy lại c̣n có
mỗi một điểm. Tôi chiếu luồng mắt của ḿnh vào bà ta theo cách
mà tôi thường thấy có hiệu quả đối với phụ nữ, tôi hỏi con trai
bà ta về nhà lúc nào.
- Thưa, tôi không biết.
- Bà không biết à?
- Vâng, nó có ch́a khóa cửa riêng.
- Nó về sau khi bà đă đi ngủ?
- Vâng.
- Bà đi ngủ vào lúc mấy giờ?
- Khoảng mười một giờ.
- Như vậy con trai bà đă vắng nhà ít nhất hai giờ?
- Vâng.
- Cũng có thể là vắng bốn hoặc năm giờ?
- Vâng.
- Nó đă làm ǵ trong thời gian ấy?
- Tôi không biết - Bà ta trả lời, mặt lại tái đi.
Cố nhiên, sau đó tôi đă t́m ra thiếu úy Arthur. Tôi đem theo hai
viên cảnh sát và đă bắt giữ hắn. Khi tôi đụng vào vai hắn, hắn
hỏi tôi, hăy c̣n hăng như một con gà chọi:
- Chắc ông bắt tôi v́ tội đồng lơa trong cái chết của tên vô lại
Drebber chứ ǵ?
Chúng tôi đă nói ǵ với hắn đâu mà hắn đă đoán ra. Câu hỏi ấy,
rơ là rất đáng ngờ.
- Rất đáng ngờ - Holmes đồng t́nh,
- Hắn c̣n giữ cái gậy to mà theo lời khai của mẹ hắn, hắn đă cầm
khi đuổi theo Drebber. Một cái gậy to bằng gỗ sồi.
- Vậy giả thiết của ông là thế nào?
- Hắn đă theo Drebber đến tận đường Brixton. Đến đấy, giữa hai
người lại căi nhau nữa, và trong lúc xô xát, Drebber bị một gậy
vào bụng, và chết ngay tức khắc, không để lại dấu vết ǵ. Đêm
hôm ấy trời mưa, đường vắng nên Arthur đă lôi xác nạn nhân đến
tận ngôi nhà trống. C̣n về ngọn nến, những vết máu và chữ viết
trên tường, chẳng qua chỉ là những cái mẹo nhằm đánh lạc hướng
nhà chức trách thôi.
- Rất hay! - Holmes khích lệ - Ông Gregson, quả thực ông tiến bộ
đấy. Ông sẽ c̣n đi xa hơn nhiều.
Nhà thám tử trả lời với vẻ kiêu hănh:
- Tôi tự hào là đă giải quyết vụ án này khá suôn sẻ. Gă thanh
niên khai ngay rằng hắn đi theo Drebber được một lúc th́ Drebber
phát hiện ra hắn và nhảy lên một chiếc xe để bỏ xa hắn. Điều làm
tôi thích thú là Lestrade đang lao theo một hướng tắc tị. Ông ta
sẽ chẳng thu lượm được ǵ nhiều. Nhưng, ơ ḱa, thiêng chưa, vừa
nói đến th́ ông ấy đă xuất hiện.
Quả vậy, Lestrade đi lên cầu thang trong khi chúng tôi mải
chuyện tṛ, và bây giờ ông đă ở trong pḥng. Vẻ tự tin và ung
dung thường có của ông, nay đă biến đi đâu mất. Nét mặt lo lắng,
quần áo xộc xệch, rơ ràng Lestrade đến với ư định nhờ Holmes
giúp đỡ, và khi nhận ra đồng nghiệp của ḿnh cũng có mặt ở đây,
Lestrade tỏ ra ngại ngùng, lúng túng. Lestrade đứng như trời
trồng giữa pḥng, tay mân mê chiếc mũ không biết để đâu, cuối
cùng nói:
- Đây quả là vụ án cực kỳ khác thường, không tài nào hiểu được.
- A! Ông tưởng thế à, ông Lestrade? - Giọng Gregson đắc thắng
-
Tôi cũng đă đoán rằng ông sẽ đi đến kết luật ấy. Ông có t́m được
viên thư kư Stangerson không?
- Viên thư kư Stangerson - Giọng Lestrade nghiêm trọng
- Đă bị
ám sát vào lúc 6 giờ sáng nay tại khách sạn Holiday.
-----------------
[1] Nguyên văn: sub- lieutenant
Chương 7 -
Một tia sáng trong đêm tối
Cả ba chúng tôi đều sững người. Gregson bật dậy khỏi ghế
đánh đổ chỗ rượu whisky c̣n sót trong ly. Tôi lặng lẽ nh́n
Holmes, thấy anh mím môi, cau mày lẩm bẩm:
- Câu chuyện thêm rắc rối.
- Mà nó đă khá rắc rối rồi - Lestrade làu bàu, ngồi xuống ghế.
- Tôi đến đúng lúc mọi người đang bàn luận th́ phải.
- Này, ông Lestrade, tin ấy có ... chính xác không? Gregson ấp
úng hỏi.
- Tôi vừa mới có mặt ở pḥng của Stangerson. Tôi là người đầu
tiên thấy xác ông ấy.
- Chúng tôi vừa mới được nghe cách h́nh dung vấn đề của ông
Gregson - Holmes nói - Ông Lestrade, ông có thể cho chúng tôi
biết ông đă thấy và đă làm những ǵ không?
- Tôi thú nhận là tôi nghi Stangerson có dính líu vào cái chết
của Drebber. V́ vậy nên tôi cố t́m ra tông tích viên thư kư.
Ngày mồng 3, người ta thấy hai thầy tṛ họ đứng cùng với nhau
tại nhà ga Euston vào lúc tám giờ rưỡi. Đến hai giờ sáng th́
thấy xác Drebber tại đường Brixton. Vấn đề đặt ra với tôi là đi
xác định xem Stangerson đă làm ǵ và ở đâu từ lúc 8 giờ rưỡi tối
đến lúc xảy ra án mạng và sau đó anh ta làm ǵ. Tôi đă đánh điện
đi Liverpool, miêu tả h́nh dáng Stangerson và yêu cầu cảnh sát
sở tại kiểm tra các tàu biển nhổ neo đi Mỹ. Sau đó, tôi sục sạo
tất cả các khách sạn, các quán trọ xung quanh nhà ga Euston. Tôi
tự bảo rằng nếu hai người chia tay nhau th́ Stangerson sẽ đi
kiếm một khách sạn khu vực lân cận để qua đêm và sáng hôm sau
trở lại nhà ga.
- Rất có thể hai người đă hẹn trước với nhau ở một nơi nào đó
-
Homles đưa ra ư kiến của ḿnh.
- Đúng thế ... tôi đă mất cả tối hôm qua đi điều tra mà không kết
quả. Sáng nay, tôi lại bắt tay vào việc từ sớm và khoảng tám
giờ, tôi đến khách sạn Holiday. Khi tôi hỏi trong khách sạn có
người khách nào tên là Stangerson không th́ người ta trả lời là
có.
- Ông là người mà ông ta đang chờ phải không?
- Người ta hỏi tôi
- Ông ấy chờ một người từ hai hôm nay.
- Hiện thời ông ấy ở đâu?
- Đang ở trong pḥng ông ấy, trên gác. Ông ấy yêu cầu chúng tôi
lên gọi ông ấy vào chín giờ sáng.
Chú bé đánh giày trong khách sạn dẫn tôi đến pḥng Stangerson,
chỉ cho tôi cửa pḥng và toan đi xuống th́ bỗng tôi nh́n thấy
một ḍng máu đỏ rỉ qua khe cửa, chảy ngang qua hành lang và đọng
lại thành một vũng nhỏ dọc tấm gỗ lát chân tường, mé bên kai
hành lang. Tôi kêu lên một tiếng và chú bé đánh giày quay lại.
Cửa buồng khóa phía trong. Chúng tôi lấy vai xô tung ra. Cửa sổ
gian buồng để mở và bên cạnh cửa sổ là xác một ngươi đàn ông mặc
đồ ngủ ở tư thế nằm phủ phục. Nạn nhân chết khá lâu v́ tay chân
cứng và lạnh. Lật xác lên, nhân viên khách sạn nhận ra ngay đó
là người thuê pḥng dưới cái tên Stangerson. Nạn nhân bị một
nhát dao găm đâm vào dưới sườn. Mũi dao sâu đến tận tim. Bây
giờ, đây là điều quái gở nhất trong vụ này. Các ông tưởng tượng
xem có ǵ bên dưới cái xác.
Holmes cắt lời:
- Chữ " Rache " viết bằng máu.
- Đúng thế - Nỗi khiếp sợ lộ rơ trong giọng nói của Lestrade và
tất cả chúng tôi đền lặng đi một lúc- Trong các hành động của tên
hung thủ lạ mặt kia có một cái ǵ tuần tự và bí hiểm làm cho các
tội ác của hắn càng thêm khủng khiếp:
Lestrade nói tiếp:
- Có ngươi đă trong thấy hung thủ. Một người bán sữa đến cửa hàng
của ḿnh bằng lối đi men theo các chuồng ngựa ở mé sau khách
sạn. Anh ta thấy một cái thang, thuờng vẫn để nằm dưới đất, nay
được dựng lên áp vào một cửa sổ mở rộng ở tầng hai. Anh ta đă đi
qua chổ cái thang rồi bỗng ngoái lại th́ thấy một người đang
tuột xuống. Người đó b́nh thản, ngang nhiên, khiến anh bán sữa
tưởng là một bác thợ mộc đến làm việc cho khách sạn. Anh ta
phảng phất thấy người kia có vóc dáng cao lớn, mặt đỏ sậm và mặc
bộ đồ nâu. Hung thủ có lẽ đă ở lại trong pḥng một thời gian
ngắn sau khi hạ sát nạn nhân v́ chúng tôi t́m thấy chậu nước mà
hắn đă rửa tay nhuộm màu máu, và thấy có những vết máu trên khăn
trải giường hắn đă b́nh tĩnh chùi dao.
Tôi nh́n sang Holmes khi nghe lời miêu tả h́nh dáng hung thủ rất
khớp với sự miêu tả của bạn tôi. Anh hỏi:
- Ông có t́m thấy ǵ trong pḥng khả dĩ cho biết thêm về hung thủ
không?
- Không có ǵ. Stangerson c̣n có trong túi ví tiền của Drebber
nhưng h́nh như đó là điều thông thường giữa hai người v́
Stangerson là ngươi chi tiêu mọi thứ. Ở hai vụ án này, động cơ
chắc chắn không phải là tiền bạc. Không có giấy tờ, sổ sách ǵ
trong túi nạn nhân, ngoài một bức điện gửi từ Cleveland cách đây
một tháng ghi vẻn vẹn: "J.H. đang ở châu Âu". Bức điện không kư
tên.
- C̣n ǵ khác nữa không? - Holmes hỏi tiếp.
- Một cuốn tiểu thuyết đặt trên giường, cái tẩu thuốc để trên một
chiếc ghế cạnh giường. Trên bàn có một cốc nước, và trên bậc cửa
có một cái hộp nhỏ đựng hai viên thuốc.
Holmes ngồi bật dậy, reo lên vui vẻ:
- Khâu cuối cùng! Cuộc điều tra của tôi thế là trọn vẹn!
Hai nhà thám tử kia nh́n anh khó hiểu.
Bạn tôi nói với vẻ tin tưởng:
- Tôi đă có trong tay tất cả những sợi dây đă đan bện với nhau
một cách rắc rối. Tất nhiên, c̣n có những cho tiết cần phải bổ
sung. Tôi sẽ dẫn ra đây một bằng chứng về những điều tôi biết.
Ông có đem theo mấy viên thuốc ấy không?
- Tôi có đây - Lestrade liền giơ ra một cái hộp trắng nhỏ
- Tôi
giữ lấy nó cùng với cái ví và bức điện, định đem về nộp cho Sở
Cảnh Sát. Tôi đem theo những viên thuốc này cũng là t́nh cờ thôi
v́ tôi coi chúng không có ǵ quan trọng.
- Xin ông đưa cho tôi - Holmes bảo - Này, bác sỹ, đây có phải là
những viên thuốc thông thường không?
Hai viên thuốc trông rất giống những viên thuốc thông thường. Đó
là những viên thuốc tṛn, nhỏ, màu ngọc xám và gần như trong
suốt. Tôi nhận xét:
- Viên thuốc trong suốt và nhẹ, tôi nghĩ nó dễ ḥa tan trong
nước.
- Đúng thế - Holmes nói - Bây giờ, xin các anh làm ơn xuống nhà
đem hộ tôi lên đây con chó già ốm yếu mà hôm qua bà chủ nhà nhờ
anh giúp nó sớm về chầu tổ tiên.
Tôi xuống nhà, ôm con chó lên. Mắt nó lờ đờ, hơi thở hổn hển.
Thực vậy, mơm nó trắng như tuyết cho thấy nó đă sống quá cái
thời hạn sống thông thường của một con chó. Tôi đặt nó xuống tấm
nệm rơm.
- Bây giờ tôi sẽ bẻ một trong hai viên thuốc này ra làm đôi
-
Holmes vừa nói vừa làm - Tôi cất đi một nửa vào trong hộp để
dùng về sau. Một nửa kia, tôi bỏ vào chiếc cốc này cùng với một
th́a nước. Ta sẽ thấy ông bạn bác sỹ của chúng ta đă đoán đúng
là nó dễ tan trong nước.
- Nó có dính dáng ǵ đến cái chết của Stangerson đâu?
- Lestrade
nói, giọng bực tức.
- Kiên nhẫn một chút! Có dính dáng nhiều lắm. Bây giờ tôi pha
thêm một chút sữa cho dễ uống. Đem cho chó, ta thấy nó vội vă
tớp ngay.
Con vật uống hết chỗ nước pha sữa ấy, rồi liếm đĩa. Vẻ nghiêm
trang của Holmes đă khiến chúng tôi im lặng quan sát con vật. Nó
nằm xuống trên chiếc đệm, hơi thở nặng nề, sức khỏe của nó không
tăng lên hoặc giảm đi sau khi uống.
Holmes rút đồng hồ ra xem và mỗi phút trôi qua, sự bực bội và
thất vọng càng hiện rơ trên nét mặt anh. Anh bặm môi, gơ tay lên
bàn, thể hiện sự nôn nóng cao độ. Tôi thấy thương anh trong khi
các nhà thám tử kia nở một nụ cười giễu cợt.
- Không thể có chuyện ngẫu nhiên - Cuối cùng Holmes kêu lên, từ
chiếc ghế bành bật đứng dậy, lồng lộn như một con thú trong
pḥng - Đây không thể là một việc ngẫu nhiên được. Chính những
viên thuốc mà tôi đă ngờ tham dự vào cái chết của Drebber, ta đă
gặp lại chúng ở cái chết của Stangerson. Vậy mà hiện giờ chúng
lại không có tác dụng ǵ cả, thế là làm sao? A! tôi đoán ra rồi!
Reo lên một tiếng mừng rỡ, Holmes nhảy bổ về phía hộp thuốc, bẻ
viên thuốc thứ hai làm đôi, lại thả một nửa vào cốc nước, cho
thêm sữa rồi cho con chó uống. Lưỡi con chó chỉ vừa mới chạm vào
chỗ nước ấy là toàn thân nó đă co giật dữ dội rồi nó nằm vật ra
ngay đơ.
Holmes hít một hơi thở dài, quệt mồ hôi đọng trên trán:
- Trong hai viên thuốc vừa rồi, một viên chứa thuốc độc cực mạnh
c̣n viên kia th́ vô hại. Lẽ ra tôi phải hiểu điều đó ngay trước
khi mở hộp.
Lời khẳng định này quá đỗi kỳ dị khiến tôi khó mà tin rằng bạn
tôi c̣n đầy đủ lư trí. Tuy nhiên con chó chết nằm kia, nó chứng
tỏ giả thiết của Holmes là đúng.
Tôi thấy h́nh như đám sương mù trong đầu tôi dần dần tan đi.
- Những điều này đối với các ông có vẻ lạ lùng
- Holmes nói tiếp
- Ấy là v́ ngay từ cuộc điều tra, các ông đă không nắm được các
dấu vết quan trọng ở trước mắt các ông. Tôi có cái may mắn là đă
không để lọt cái dấu vết ấy và tất cả những sự việc diễn ra sau
đấy đều xác nhận giả thiết đầu của tôi. Việc khám phá vụ án này
sẽ vô cùng khó khăn nếu như ta t́m thấy xác nạn nhân trên hè
đường không kèm theo chi tiết nào trong số những chi tiết phụ lạ
lùng và khác thường. Những chi tiết kỳ quái ấy, không làm cho vụ
án khó khăn thêm mà ....
Gregson nghe bài diễn văn nhỏ của Homles với vẻ hết sức nôn
nóng, cuối cùng không ḱm được thêm nữa:
- Chúng tôi thừa nhận là ông có những phương pháp làm việc riêng
rất độc đáo. Nhưng, giờ đây vấn đề là phải bắt được hung thủ.
Bây giờ chúng tôi xin hỏi thẳng là ông đă biết hung thủ là ai
chưa?
Lestrade phụ họa thêm:
- Gregson nói có lư, ông Holmes ạ. Chúng tôi đă cố công gắng sức,
nhưng đều đă thất bại.
Tôi cũng thêm ư kiến:
- Mọi sự chậm trễ trong việc bắt giữ hung thủ có thể làm cho nó
có thời gian gây thêm án mạng mới.
Bị mọi người dồn ép như vậy, Holmes có vẻ lưỡng lự. Anh tiếp tục
đi đi lại lại trong pḥng, đầu gục xuống ngực, hai hàng lông mày
nheo lại như thói thường ở anh trong những lúc mải mê suy nghĩ.
Cuối cùng, Holmes đột ngột dừng lại, nh́n thẳng vào mặt chúng
tôi:
- Sẽ không xảy ra án mạng nào nữa. Các ông hỏi tôi có biết tên
hung thủ không. Có, tôi biết, tôi đă dự định bắt hắn từ lâu rồi,
nhưng đây là một việc cần phải thận trọng, v́ hắn là một kẻ lực
lưỡng, khôn ngoan, liều lĩnh và được một kẻ khôn khéo giúp sức.
Chừng nào hung thủ chưa biết chúng ta đă nắm trong tay mọi bằng
chứng tố cáo hắn th́ ta c̣n có cơ hội bắt hắn, nhưng nếu hắn có
một chút nghi ngờ nào th́ hắn sẽ thay tên đổi họ và tan biến vào
bốn triệu người dân thành phố này ngay. Tuy không muốn làm tổn
thương đến ḷng tự ái của hai ông, nhưng sự thật tôi coi những
người ấy c̣n mạnh hơn cảnh sát của Scotland Yard, bởi vậy tôi
không yêu cầu các ông giúp đỡ. Nếu thất bại, một ḿnh tôi chịu.
Trong lúc này, khi nào tôi có thể thông báo với các ông mà không
phương hại đến các sự bố trí của tôi th́ tôi sẽ làm ngay.
Gregson, và Lestrade, một người đỏ mặt đến tận chân tóc, một
người mắt long lên v́ ṭ ṃ và ác cảm. Tuy nhiên, cả hai người
chưa kịp nói lời nào th́ đă có tiếng gơ cửa. Thằng bé Wiggins ló
đầu vào, giơ tay chào:
- Thưa ông, cháu đă gọi được một chiếc xe dưới nhà.
- Giỏi lắm! - Holmes nhẹ nhàng khen, rồi lôi trong ngăn kéo ra
một ṿng khóa tay bằng thép, nói tiếp: - Các ông ở Scotland Yard
sao không dùng loại khóa tay này nhỉ. Các ông xem ḷ xo bật có
lẹ không: ṿng khóa bập vào trong nháy mắt.
Lestrade mỉa mai:
- Cái khóa kiểu cũ cũng khá tốt nếu như ta t́m được người để
khóa.
- Được rồi, được rồi
- Holmes cười mỉm - Bác đánh xe sẽ giúp tôi
một tay để buộc những chiếc va- li này. Wiggins bảo bác đánh xe
lên đây.
Tôi ngạc nhiên thấy bạn tôi nói năng như thể sắp đi đâu xa mà
chẳng nói trước ǵ với tôi cả. Trong pḥng có một chiếc va- li
nhỏ. Holmes cầm lấy chiếc va- li t́m cách xiết chặt cái dây đai.
Anh đang mải làm th́ người đánh xe vào.
- Bác đánh xe. Giúp tôi một tay thắt mấy cái đai này
- Holmes
nói, không quay đầu lại.
Anh đang quỳ gối xuống sàn, cúi người trên chiếc va- li. Người
đánh xe bước lại, vẻ lầm ĺ và ngờ vực, ấn tay lên chiếc va- li.
Ngay lúc ấy, có tiếng ḷ xo bật đánh tách một cái và Holmes đứng
thẳng ngươi lên, mắt sáng ngời:
- Thưa các vị, tôi xin giới thiệu đây là Jefferson Hope, kẻ đă
giết Drebber và Stangerson.
Toàn bộ sự việc diễn ra trong nháy mắt, nhanh đến nỗi tôi không
kịp nhận ra. Tôi c̣n nhớ như in giây phút đó, vẻ mặt đắc thắng
và giọng nói vang vang của Holmes, gương mặt bàng hoàng và dữ
dội của ngươi đánh xe khi anh ta nh́n thấy cái khóa tay sáng
loáng như có phép thần thông đang xiết chặt lấy hai cổ tay anh
ta. Tất cả chúng tôi đứng ngay ra như phỗng dễ đến một hai phút.
Gầm lên một tiếng, người đánh xe vùng ra khỏi tay Holmes, lao
ḿnh ra cửa sổ. Các ô cửa mỏng manh gẫy tan cùng với các ô kính
nhưng hắn chưa nhô được hẳn người ra ngoài th́ cả Gregson,
Lestrade lẫn Holmes đă chồm lên ngươi hắn, lôi ngược hắn và
trong pḥng. Gă đánh xe khỏe và hung dữ đến nỗi hắn đă nhiều lần
vùng ra được khỏi tám bàn tay chúng tôi. Mặt và bàn tay hắn bị
rách toạc nhiều chỗ khi hắn lao qua cửa kính, nhưng sự chống cực
của hắn không hề giảm đi chút nào. Măi đến khi Lestrade thọc tay
được. vào sau cổ áo hắn, làm hắn suưt nghẹt thở, hắn mới im. Dù
sao chúng tôi phải trói cả chân tay hắn lại mới cảm thấy yên
tâm. Sau đó, chúng tôi đứng dậy mệt nhoài.
- Ta có chiếc xe của hắn bên dưới kia. Ta dùng xe ấy giải hắn.
Bây giờ, nào các ông - Holmes tươi cười
- tấm màn bí ẩn đến đây
đă được vén lên rồi. Các ông muốn hỏi tôi câu ǵ th́ hỏi.
Chương 8 -
B́nh nguyên chết
Nằm ở phần giữa Bắc Mỹ là một dải đất hoang vu và
cằn cỗi. Trong nhiều năm dài, nó như một cái hàng rào ngăn chặn
bước tiến cửa nền văn minh. Suốt từ dăy núi Sierra Nevada đến
bang Nebraska, từ con sông Yellowstone ở phía Bắc đến bang
Colorado ở phía Nam, là cả một vùng hoang vắng im ĺm. Cảnh vật
trên thay đổi tùy theo từng vùng. Nơi là những rặng núi hùng vĩ
với những đỉnh cao đầy tuyết, nơi là những thung lũng tối đen,
sầu thảm. Nơi lại là những con sông chảy xiết với ḍng nước ào
ào băng qua những hẻm núi và những cánh đồng bao la, mùa đông
tuyết trắng, mùa hè xám xịt. Tuy nhiên, tất cả những cảnh vật
rất khác nhau ấy đều có chung những đặc điểm là cằn cỗi, là hiểm
ác, là đói khát.
Không ai sinh sống tại cái xứ sở vô vọng này. Họa hoằn mới có
một toán người da đỏ vượt qua nó, đi t́m những vùng đất săn bắn
mới, song họ cũng phải lánh xa những cánh đồng ấy và trở lại
những đồng cỏ cũ của họ. Con sói náu ḿnh trong bụi cây xơ xác,
con chim ó đập cánh nặng nề trên không và con gấu xám vụng về lê
chân trong những khe núi u tối. Đó là những dân cư hiếm hoi ở
dải đất hoang vu này.
Trên khắp thế giới, không thể có cảnh tượng nào sầu thảm hơn
cảnh tượng trải ra dưới mắt khi ta đứng ở triền phía bắc rặng
núi Sierra Blanco nh́n xuống. Trải dài ra xa đến tận cùng của
tấm mắt là một vùng đồng bằng mênh mông phẳng ĺ, nham nhở những
khoanh đất và những bụi cây lùn tịt. Ở tận cùng chân trời nổi
lên một dăy núi dài với sườn núi dựng đứng và đỉnh núi loang lổ
tuyết. Trên cả vùng đất bao la, không có một dấu hiệu về sự
sống, không có lấy một cánh chim trên bầu trời xanh biếc, không
có lấy một vật di động trên mặt đất thê lương. Bao trùm lên tất
cả sa mạc mênh mông này, chỉ có sự im lặng, ghê rợn.
Ở trên vừa nói là không có một thứ ǵ liên quan đến sự sống trên
dải đất này. Điều đó không hoàn toàn đúng. Khi đứng trên rặng
núi Sierra Blanco nh́n xuống dưới, ta nhận thấy có một con đường
ṃn nhỏ xíu, như một sợi chỉ ngoằn ngoèo uốn khúc qua sa mạc và
ch́m đi ở cuối tầm mắt. Những bánh xe đă in hằn xuống thành rănh
trên con đường này, bàn chân của nhiều kẻ phiêu lưu đă dẫm trên
đó. Rải rác dọc con đường có rất nhiều vật ǵ trăng trắng, bóng
lên dưới ánh nắng mặt trời và nổi lên trên lớp đất buồn thảm.
Hăy lại gần, nh́n xem. Đó là những khúc xương. Khúc th́ to và
thô kệch, khúc th́ nhỏ hơn, xương to là xương ḅ, xương nhỏ là
xương người. Suốt con đường dài trên hai ngh́n kilômet, rải rác
hài cốt của những kẻ đă ngă xuống.
Ngày 4 tháng 5 năm 1847, có một người bộ hành cô đơn đứng ở đúng
vị trí nói trên nh́n xuống cảnh ấy. Khó nói được tuổi ông ta
khoảng bốn mươi hay sáu mươị Khuôn mặt gầy dũ tợn, xương trồi
lên nhọn hoắt dưới lớp da đen sạm và nứt nẻ, tóc dài và đen, râu
có nhiều sợi bạc, hai con mắt lơm sâu trong hia hốc mắt rực lên
một ánh khác thường, và bàn tay xương xẩu nắm lấy khẩu súng
trường. Ông ta đứng đó, dựa người vào khẩu súng, bộ mặt chỉ c̣n
da bọc xương cũng như bộ quần áo rộng thùng th́nh trên đôi chân
và đôi tay khẳng khiu chỉ rơ nguyên nhân của vẻ tàn tạ, và già
nua: người sắp chết v́ đói khát.
Ông ta lần bước xuống khe núi rồi lại leo lên tận mỏm đồi thấp
này để nh́n xem chỗ nào có dấu hiện của nước. Ông ta lo lắng
nh́n về phương Bắc, phương Đông rồi phương Tây và hiểu rằng
những cuộc hành tŕnh tứ xứ của ḿnh sẽ kết thúc ở đây, trên
tảng đá cằn cỗi này.
- Tại sao lại không phải là ở đây, sau hai mươi năm nữa?
- Ông ta
th́ thào rồi ngồi xuống dưới bóng một tảng đá.
Trước khi ngồi, ông ta đặt khẩu súng và túi đồ buộc trong chiếc
khăn quàng. Tức th́ từ cái túi ấy vọng ra một tiếng rên nho nhỏ
và một gương mặt hiện ra.
- Bác là cháu đau rồi đấy, - Một giọng trẻ thơ khẽ trách.
- Thật ư, cháu? - Người đàn ông trả lời, ân hận
- Bác lỡ tay mà.
Vừa nói ông ta vừa cởi tấm khăn xám, để lộ một bé gái khoảng năm
tuổi. Đôi giày nhỏ nhắn với chiếc váy hồng đỏm dáng dưới chiếc
tạp đề nhỏ nói lên sự chăm sóc của một người mẹ. Đứa trẻ xanh
xao và mệt mỏi, nhưng không bị suy sụp bằng người đồng hành của
nó.
- C̣n đau không, cháu? - Người đàn ông lo lắng hỏi, v́ đứa bé vẫn
xoa những búp tóc quăn vàng óng rối bù đằng sau gáy.
- Bác hôn vào đây chữa đền cháu đi - Đứa bé nói với vẻ nghiêm
trang thật sự, tay chỉ vào chỗ đau
- Mẹ cháu vẫn làm thế. Mẹ
cháu đâu rồi?
- Mẹ cháu đi rồi. Tí nữa cháu sẽ gặp mẹ cháu.
- Đi rồi ạ? Lạ nhỉ, mẹ cháu đi mà không chào cháu. Bác ơi, khát
quá? Không có nước sao? Bác không có ǵ để an sao?
- Không có, cháu a.. Cháu cố chờ một chút rồi sẽ ổn. Cháu dựa đầu
vào bác đây, như thế cháu sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Cháu có cái
ǵ đấy?
- Cháu có cái này đẹp lắm - Đứa bé reo lên, giơ ra hai mẩu mi- ca
óng ánh - Khi về đến nhà, cháu sẽ cho anh cháu.
- Rồi cháu sẽ thấy những thứ c̣n đẹp hơn thế. Chỉ cần cố nán chờ
một lát. Cháu c̣n nhớ lúc chúng ta rời khỏi ḍng sông không?
- Dạ có.
- Thế đấy! Lúc ấy chúng ta tính sẽ gặp được một con sông khác.
Nhưng chúng ta không gặp sông. Nước mỗi lúc một ít. Chỉ c̣n một
hai giọt cho các cháu nhỏ, và .. và ....
- Và bác không rửa mặt được, - Đứa bé xen ngang, giọng nghiêm
trang, mắt nh́n chằm chằm vào bộ mặt nhem nhuốt của ông già.
- Đến nước uống c̣n không có, cháu ạ. Ông Bender là người đầu
tiên ra đi, rồi đến anh da đỏ Pete, rồi bà McGregor, rồi Johnny
Hones, và sau cùng là mẹ cháu.
- Thế là mẹ cháu ... Mẹ cháu cũng chết rồi!
- Đứa bé kêu lên, lấy
tạp dề che mặt và khóc nức nở.
- Phải, tất cả đă chết hết, chỉ c̣n lại có bác cháu tạ Lúc đó ta
tưởng may ra có thể t́m thấy nước ở mạn này.
- Bác bảo là cháu và bác sẽ chết nốt à?
- Đứa bé thôi khóc, ngẩng
bộ mặt đầm đ́a nước mắt lên.
- Ta nghĩ chắc sẽ gần như vậy.
- Sao bác không nói ngay? Đứa bé reo lên với một tiếng cười vui
vẻ - Bác đă làm cháu sợ quá! Nếu bác và cháu chết th́ sẽ được
gặp mẹ cháu.
- Phải, cháu sẽ đến với mẹ cháu.
- Cả bác nữa. Cháu sẽ kể là bác tốt với cháu biết baọ Mẹ cháu sẽ
đón bác ngay cổng thiên đường, với một cái xô đầy nước và những
chiếc bánh ngọt bằng lúa mạch thật nóng. C̣n lâu nữa không bác?
- Không lâu lắm đâụ
Trên bầu trời xuất hiện ba cái chấm nhỏ đang tiến về phía họ,
mỗi lúc một to hơn. Chẳng mấy chốc, ba cái chấm ấy trở thành ba
con chim nâu to lớn, chúng bắt đầu lượn thành ṿng tṛn trên đầu
hai kẻ lang thang, rồi đậu trên những tảng đá mọc ch́a ra. Đó là
những con ó của miền Tây, những con chim báo hiệu cái chết.
- Ô, gà, bác ḱa! Đứa bé kêu lên vui vẻ, chỉ về phía những con
chim mang điềm gở, vỗ hai tay vào với nhau để xua chúng Baynes
đị - Bác ơi, có phải là Chúa tạo ra vùng này không?
- Ừ.
- - Chúa đă tạo ra vùng đất đằng kia, ở bang Illinois. Chúa đă tạo
ra bang Missouri - Đứa trẻ nói tiếp.
- Chắc là một Chúa khác đă tạo ra đất này. Đất ở đây c̣n xa mới
bằng được các nơi kiạ Chúa đă quên làm cho ở đây có nước và cỏ
cây.
- Này, bác cháu ta cầu kinh nhé? - Người đàn ông dè dặt hỏi.
- Đă đến tối đâu.
- Không cần đến tối.
- Thế sao bác không cầu kinh một ḿnh? - Đứa bé hỏi, đôi mắt ngạc
nhiên.
- Ta không thuộc. Ta đă không đọc kinh từ khi ta mới cao bằng nửa
khẩu súng này. Cháu cầu kinh đi, bác đọc theo.
- Thế th́ bác phải quỳ xuống - Đứa bé rải tấm khăn xuống đất để
quỳ - Bác phải đặt bàn tay như thế này. Như thế là ngoan hơn.
Hai người quỳ gối bên cạnh nhau trên tấm khăn nhỏ. Gương mặt bầu
bĩnh của đứa trẻ và bộ mặt gân guốc dũ tợn của người đàn ông
dùng ngửa lên bầu trời. Cầu kinh xong, họ lại trở về ngồi bên
bóng của tảng đá cho đến khi đứa trẻ ngủ thiếp đi. Đă ba ngày
đêm liền, ông ta không cho phép ḿnh dừng bước hoặc nghỉ ngơi Từ
từ mí mắt ông ta cụp xuống, đầu cũng gục xuống mỗi lúc một thấp
hơn cho đến khi bộ râu ḥa vào những búp tóc vàng và cả hai đi
vào một giấc ngủ sâu lắng, không mộng mị.
Nếu thức thêm nửa giờ nữa, ông ta sẽ được thấy một cảnh tượng kỳ
la.. Từ xa, từ rất xa, bốc lên một đám bụi nhỏ mờ mờ, rất nhỏ và
rất nhẹ đến nổi khó phân biệt nó với lớp sương mù. Những đám bụi
ấy tiếp tục bốc lên, lớn dần cho đến khi tạo thành một đám mây
bụi rơ rệt. Rồi đám mây ấy cũng không ngừng lớn dần. Ở những
mảnh đất ph́ nhiêu hơn, ai thấy cảnh ấy cũng sẽ cho rằng đây là
đàn ḅ rừng đang tiến về phía ḿnh. Nhưng ở vùng đất hoang vắng
này, điều đó không thể có. Khi đám mây bụi đến hiện ra những mui
ṿm phủ bạt của những chiếc xe ngựa vượt sa mạc, và h́nh bóng
thấp thoáng của những người cưỡi ngựa có vũ khí, cho thấy đây là
một đoàn xe rất dài đang tiến về phía Tây. Đầu đoàn xe đă tới
chân núi mà đuôi đoàn xe vẫn c̣n ch́m khuất ở cuối đường chân
trời. Phụ nữ bước đi khó nhọc dưới gánh nặng trên vai. Trẻ em
chạy lon ton bên cạnh các cỗ xe hoặc ṭ ṃ nh́n vào những thứ
dưới mui vải bạt. Từ khối người to lớn này vang lên một tiếng ́
ầm hỗn độn, xen lẫn tiếng ngựa hí và tiếng bánh xe rầm rập.
Tiếng ́ ầm ấy lớn đến vậy song vẫn không đánh thức nổi hai bác
cháu.
Đi đầu đoàn người di cư là một nhóm khoảng hai mươi người cuơi
ngựa. Đến chân tảng đá, họ dừng ngựa, quay lại với nhau, dường
như để hội ư.
Một người không râu, tóc hoa râm, nét mặc độc ác nói:
- Giếng nước ở về phía bên phải, giáo hữa a..
Một người khác nói tiếp:
- Ở về phía bên rặng núi Sierra Blancọ Theo đường đó, chúng ta sẽ
tới con sông Rio Grande. Người thứ ba nói lớn:
- Ta chớ sợ hăi trước sự xuất hiện của ḍng nước. Đấng tối cao đă
làm cho ḍng nước tuôn ra từ đá, sẽ không từ bỏ đám dân mà Người
đă tuyển chọn.
- Amen! Amen! - Cả nhóm người đáp lại.
Họ sắp sửa lại lên đường th́ một người reo lên kinh ngạc và chỉ
tay về tảng đá ở phía trên đầu họ. Ở chổ ấy có một mẩu vải màu
hồng phất phới bay. Nh́n thấy thế, họ gh́m ngựa lại, cầm súng
lăm lăm trong khi những người khác phi ngựa đến tăng cường.
Những tiếng "bọn da đỏ" được lan truyền cửa miệng mọi người.
- Ở đây không có bọn da đỏ - Một người đứng tuổi xem chừng là thủ
lĩnh nói: - Ta đă vượt núi.
- Giáo hữu Stangerson, tôi xin đi trinh sát - Một người trong
toán nói.
- Tôi nữa. Tôi nữa - Khoảng một chục giọng nói khác cùng vang
lên.
Người tên là Stangerson trả lời:
- Các bạn trẻ hăy để ngựa lại đây, chúng ta sẽ chờ.
Thoáng một cái, mấy người trai trẻ đă xuống ngựa, chạy Baynes
lên sườn đồi dốc đứng. Sau một thóang, bóng của họ nổi bật trên
nền trời. Người thanh niên đă báo động cho cả đoàn dẫn đầu, cả
toán theo saụ Bỗng họ thấy gă giơ cả hai tay lên trời với động
tác của một người quá đỗi ngạc nhiên. Khi họ đến chỗ gă, họ cũng
không kém kinh ngạc.
Nằm dựa trên tảng đá là một người đàn ông và một bé gái. Đầu đứa
bé đặt trên mảnh áo nhưng trên ngực người đàn ông. Đôi chân bụ
bẫm mang tất dài xỏ trong một đôi giày xinh xắn tương phản với
đôi chân khẳng khiu, khô đét của người đàn ông. Đậu trên đỉnh
tảng đá, nh́n xuống cặp lữ khách kỳ quặc này, là ba con ó lớn.
Thấy đám người mới đến, chúng kêu lên những tiếng thất vọng, rồi
không chờ đợi nữa, nặng nề vỗ cánh bay đi
Tiếng kêu của những con chim, đă đánh thức hai người. Họ nh́n
xung quanh với một vẻ cực kỳ sửng sốt. Người đàn ông lảo đảo
đứng dậy, nh́n xuống b́nh nguyên, thấy đám người chen chúc, ông
ta đưa bàn tay xương xẩu lên dụi mắt, lẩm bẩm:
- Ta mê sảng chăng?
Đứa bé gái nắm lấy gấu tạp dề, im lặng nh́n khắp xung quanh.
Một người trong đám ấy đặt đứa bé lên vai ḿnh, trong khi những
người khác d́u người đàn ông về chỗ các xe ngựa. Người đàn ông
nói:
- Tôi tên là John Ferrier. Cả một đoàn hai mươi mốt người chỉ c̣n
lại có tôi và đứa trẻ này. Những người kia đă chết ở đằng kia,
phía phương Nam.
- Có phải con gái ông đấy không?
- Bây giờ nó mới là con tôi. Kể từ hôm nay, nó mang tên là Lucy
Ferrier. Thế c̣n các ông là ai? - Ông ta ṭ ṃ nh́n những người
đă cứu ḿnh.
Một trong số những người trai trẻ kia đáp:
- Chúng tôi gần mười ngh́n người. Chúng tôi là những đứa con bị
ngược đăi của Chúa, những người dân được thiên thần Moroni tuyển
chọn.
Người đàn ông đáp:
- Tôi chưa bao giờ được nghe nói. Vị thiên thần ấy tuyển chọn quá
nhiều đấy.
- Không được giễu cợt những điêu thiêng liêng
- Giọng người kia
nghiêm khắc - Chúng tôi là những tín đồ tin ở các Thánh kinh của
thiên thần Moroni. Chúng tôi xuất phát từ Nauvoo bang Illionis,
nơi chúng tôi đă dựng lên ngôi đền của đạo chúng tôi. Chúng tôi
đi t́m một nơi ẩn náu xa bọn người bạo tàn vô Chúa, một nơi mà
chúng tôi sẽ phải t́m ra ở trung tâm sa mạc.
Cái tên Nauvoo gợi lại một vài kư ức cho John. Ông nói:
- Tôi biết rồi. Các ông là người Mormons.
- Phải - Đám người kia đồng thanh trả lời.
- Các ông định đi đâu?
- Chúng tôi không biết. Bàn tay của Chúa dẫn dắt chúng tôi thông
qua các vị giáo chủ. Ông phải ra tŕnh diện trước giáo chủ.
Lúc đó, họ đă xuống đến chân đồi. Nhiều tiếng kêu kinh ngạc và
thương xót vang lên khi họ thấy hai người lạ mặt kiệt quệ. Đám
người kia không dừng lại mà dẫn họ đi tiếp tới một chiếc xe khác
biệt hẳn với các xe khác. Chiếc xe này có sáu ngựa kéo trong khi
các xe khác chỉ hai hoặc bốn ngựa. Ngồi bên cạnh người đánh xe
là một người đàn ông tuổi không quá ba mươi, nhưng cái đầu bề
thế và nét mặt kiên nghị cho thấy đó là một kẻ biết điều khiển
người khác. Khi đám người kéo tới, người ấy bỏ quyển sách xuống,
chăm chú nghe kể lại. Sau đó, người ấy quay sang hai kẻ phiêu
bạt:
- Nếu các người muốn được nhập vào đoàn th́ ta chỉ có thể nhận
các người như những tín đồn thuộc đạo giáo chúng tạ Thà để cho
xương các người phơi trắng trên sa mạc hơn là để cho các người
trở thành một vết đen trong đoàn chúng tạ Các người có muốn gia
nhập với điều kiện ấy không?
- Tôi xin gia nhập với bất kỳ điều kiện nào.
- Giáo hữu Stangerson, hăy mang đồ ăn và thức uống đến cho hắn,
và cả đứa trẻ nữa. Giáo hữu c̣n có nhiệm vụ dạy cho hắn tín
ngưỡng của chúng ta. Thôi, ta đi thôi. Tiến lên! Tiến về Zion!
- Tiến lên! Tiến về Zion! Đám người Mormons đồng thanh nhắc lại,
và những tiếng đó truyền đi từ miệng người này sang miệng người
khác dọc theo cả đoàn người dài dằng đặc cho đến khi ch́m đi
thành một âm thanh mơ hồ ở tít xa xa. Tiếng roi ngựa quất, tiếng
xe kẽo kẹt chuyển ḿnh, cỗ xe lớn lăn bánh trước, rồi cả đoàn xe
một lần nữa lại ra đi theo con đường ṃn lượn khúc trên b́nh
nguyên. Stangerson đưa họ đến cỗ xe của ḿnh, ở đó đă dọn sẵn
một bữa cơm.
- Các người chớ quên rằng bây giờ và măi măi sau này các người là
thành viên của đạo giáo chúng tôi.
Chương 9 -
Bông hoa Utah
Từ bờ sông Mississippi đến triền phía tây của rặng
núi đá, những người dân cư Mormons không ngừng đấu tranh với thú
dũ, đói khát, bệnh tật, và những đoàn người thù địch ... Tất cả
đều đă vượt qua nhờ ở tính kiên tŕ và quả cảm của giống người
Anglo- Saxon. Tuy vậy cuộc hành tŕnh dài cùng với những nổi
thống khổ đă làm lung lay cả những trái tim vững vàng nhất.
Không ai không quỳ xuống, lầm rầm đọc một bản kinh cầu tạ ơn khi
họ nh́n thấy thung lũng Utah rộng lớn và ngập nắng mà giáo chủ
của họ bảo rằng sẽ vĩnh viễn thuộc về họ.
Young là một nhà cai trị khôn khéo và kiên quyết. Ông ta cho vẽ
bản đồ, lập quy hoạch cho thành phố tương lai, phân chia đất đai
tùy theo địa vị của từng người. Ai giỏi nghề nào tiếp tục làm
nghề ấy. Họ ngả cây, đốn gỗ, san đất, cắm rào, đào mương, xẻ
rănh và mùa hè năm sau đất đai đă được phủ một màu vàng óng của
lúa chín. Mọi sự trồng trọt và làm ăn đều phồn thịnh. Ngôi đền
lớn dựng lên ở chính giữa thành phố mơi ngày một cao hơn, rộng
hơn. Từ b́nh minh cho đến hoàng hôn, tiếng búa, tiếng cưa không
ngừng vang lên trong nhà thờ.
Cô bé Lucy được ngồi trên chiếc xe của tông đồ Stangerson cùng
với ba người vợ và con trai mười hai tuổi của ông ta. Với sức
bật của tuổi thơ, cô bé vượt qua được nỗi đau buồn mất mẹ và
chẳng bao lâu, cô bé thích nghi với cuộc sống trong ngôi nhà di
động của ḿnh và được các phụ nữ Mormons yêu quư. Sức khỏe của
John cũng đă được phục hồi, ông ta tỏ ra là một ngươi dẫn đường
hữu ích và một người đi săn không mệt mỏi.
Ông nhanh chóng được những người đồng hành quư trọng khi đến
vùng đất hứa, họ nhất trí cấp cho ông một khoảnh đất to bằng
phần đất của những kẻ hưởng nhiều đặc quyền, chỉ kém có giáo chủ
và bốn tông đồ: Stangerson, Kemball, Johnston và Drebber.
Trên phần đất của ḿnh, John dựng lên một ngôi nhà gỗ vững chăi,
rồi xây thêm dần và chẳng bao lâu ngôi nhà ấy trở thành một biệt
thự rộng lớn. Ông là một người khéo léo và nhanh nhẹn trong mọi
công việc, làm việc suốt từ sáng đến tối. Sau ba năm, ông vượt
hẳn những người láng giềng. Sau sáu năm, ông rất sung túc và sau
chín năm, ông trở nên giàu có. Và sau mười hai năm kể từ ngày
những người Mormons đến sinh cơ lập nghiệp tại đây, không có tới
mười người có thể sánh kịp ông.
Ở ông, chỉ có một điều duy nhất khiến các người đồng giáo nghi
ngờ: ông chưa để phụ nữa đến sống với ông theo phong tục đa thệ
Ông không đưa ra một lư do ǵ, mà chỉ kiên quyết giữ vững ư định
của ḿnh. Người th́ trách ông là không thiết tha với đạo giáo,
người th́ cho rằng ông muốn làm giàu nên mới sống độc thân. Có
người lại nói đến một chuyện t́nh xưa, một cô gái tóc vàng đă
chết bên bờ Đại Tây Dương. Mặc ai muốn nói ǵ th́ nói, ông dứt
khoát sống với đứa con gái nuôi. Ngoài chuyện này ra, về tất cả
mọi mặt khác, ông nổi tiếng là một tín đồ chính thống, công bằng
chính trực.
Cô gái lớn lên trong ngôi nhà gỗ, giúp đỡ người bố nuôi trong
mọi công việc. Nhờ không khí trong lành vùng núi và hương thơm
của cây cỏ, Lucy ngày càng cao lớn, khỏe mạnh, đôi má hồng hào,
bước chân dẻo dai, uyển chuyển. Như vậy đó, cái nụ hoa đă trở
thành một bông hoa.
Một buổi sáng tháng sáu, trên con đường cái bụi mù có hàng đoàn
dài la chở đầy hàng đi về hướng Tây v́ cơn sốt vàng vừa mới bùng
lên ở Californiafornia. Con đường đến đó lại chạy qua thành phố
Salt Lake. Trên đường c̣n có những đàn cừu và bê ăn cỏ ở những
cách đồng xa về và nhiều đoàn người di cư. Lucy cỡi ngựa ra phố,
hai má đỏ bừng bừng, mái tóc dài vàng óc Baynes phất phới. Cô
lách đường đi qua giữa đám người và vật đông đúc kia với tài
nghệ của một người thành thạo. Như mọi lần, nàng cho ngựa phi
như bay, chỉ nghĩ đến chuyện hoàn thành công việc cho bố. Người
ta nh́n nàng với con mắt khâm phục và kinh ngạc; ngay cả những
người da đỏ cũng x́ xào về vẻ đẹp của nàng.
Khi ra tới ŕa thành phố th́ đường bị nghẽn v́ có đàn ḅ lớn đi
từ đồng cỏ về, nàng thúc ngựa theo một lối hở trong đàn ḅ.
Nhưng vừa mới lọt vào trong đó th́ đàn ḅ đă khép ngay lại và
nàng bị vây vào giữa một biển di động những con ḅ sừng cong
dài. Đă quen với việc chăn nuôi ḅ, ngựa, Lucy không hốt hoảng
mà vẫn thúc ngựa tiến lên. Rủi thay, cặp sừng của một con ḅ húc
mạnh vào sườn con ngựa. Nó hí vang, lồng lên, đứng thẳng trên
hai vó sau, nếu nàng không giỏi tất đă bị hất ngă xuống rồi. Mà
ngă xuống th́ sẽ bị cả đàn ḅ giẫm nát ngaỵ T́nh thế rất nguy
hiển. Con ngựa càng lồng, càng va đụng vào những chiếc sừng nhọn
hoắt của ḅ, và nó càng điên lên. Cô gái cố giữ ḿnh trên lưng
ngựa, nhưng chẳng mấy chốc, ngột ngạt v́ bụi cuốn lên mù mịt và
hơi nước nồng nặc phả ra từ đàn ḅ, nàng choáng váng, đầu óc
quay cuồng, tay cương lỏng đi. May thay, vừa vặn lúc ấy có một
bàn tay rắn chắc nắm lấy hàm thiếc con vật hoảng loạn, vạch lối
qua đàn ḅ, đưa nàng đến ŕa thành phố.
- Cô có bị thương không?
Lucy ngước mắt lên nh́n gương mặt rám nắng, cương nghị rồi cười
gịn giă:
- Ồ, không, may quá! Tôi bị một phen hú viá.
- Cũng may là cô c̣n ngồi vững trên yên - Người thanh niên kia có
dáng dấp của người quen sống ở nơi hoang dă, vóc người cao lớn,
cường tráng. Anh mặc bộ đồ đi săn dày, cưỡi con ngựa nâu cao
khoẻ, vai đeo khẩu súng dài - Chắc cô là con gái ông John. Tôi
đă thấy cô đi ngựa từ nhà ra. Nhờ cô về hỏi cụ nhà có nhớ ông
Hope ở Saint Louis không. Nếu đúng là ông John ấy th́ cha tôi và
cụ nhà là bạn thân với nhau.
- Sao anh không đến chơi, rồi hỏi thẳng cha tôi.
Anh thanh niên mừng rỡ trước lời mời gián tiếp:
- Tôi rất muốn đến, nhưng anh em chúng tôi vừa mới ở trên núi về,
quần áo chưa được chỉnh tề, gia đ́nh phải miễn thứ cho chúng tôị
- Cha tôi phải cám ơn anh nhiều, cả tôi nữa. Cha tôi rất quư tôi.
Nếu tôi bị làm sao, chắc ông sẽ buồn lắm.
- Cả tôi nữa.
- Cả anh nữa? Ô hay, anh đă quen biết ǵ tôi đâu?
- Giọng cô gái
vẫn mang vẻ nghịch ngợm, trêu chọc.
Nghe thấy vậy, gương mặt rám nắng của anh thanh niên tối sầm lại
khiến Lucy bật cười:
- Ấy không, tôi không cố ư nói thế đâu. Anh đă là bạn của cả gia
đ́nh rồi. Anh phải đến chơi đấy nhé, c̣n bây giờ tôi phảii đi
đây. Tạm biệt!
- Tạm biệt!
Chàng trai tiếp tục đi theo mấy người bạn. Họ mới thăm ḍ được
một mỏ bạc trên vùng núi Nevada và giờ đây họ về Salt Lake t́m
chỗ vay mượn tiền để khai thác. Hope say mê kinh doanh, nhưng
đến hôm nay, cuộc gặp gỡ này làm đảo lộn nếp sống của anh. H́nh
ảnh cô gái tươi mát và lành mạnh như ngọn gió đă lay động trái
tim rắn rỏi của anh. Khi nàng đi khuất, anh bỗng nhận ra một
biến cố mới xảy ra trong đời anh, bây giờ tất cả mọi công việc
đều không quan trọng bằng vấn đề mới mẻ vừa được đặt ra.
Chàng đến thăm ông John ngay tối hôm đó và nhiều buổi khác nữa.
Bị giam chân ở thung lũng v́ công việc, ông John háo hức muốn
biết những tin tức bên ngoài trong mười hai năm qua. Những câu
chuyện mà chàng kể, làm say mê cô gái lẫn người cha. Anh đă từng
làm đủ các nghề: hướng đạo, săn thú, t́m vàng, chăn ḅ. Ở đâu có
những chuyện phiêu lưu mạo hiểm đ̣i hỏi sự gan dạ và ḷng quả
cảm là ở đó có mặt chàng.
Một buổi chiều hè, chàng gh́m ngựa trước cổng trang trại của ông
John. Lucy ra đón, chàng vắt dây cương lên hàng rào và rảo bước
vào nhà. Nắm lấy hai bàn tay cô gái anh bảo:
- Lucy, anh có việc buộc phải đi xa, em a.. Anh chưa thể xin cha
em cho em đi cùng. Nhưng, hứa với anh đi, em sẽ đợi anh về nhé.
- Anh đi đâu, và bao giờ th́ về? - Cô gái hỏi, lo lắng và thẹn
thùng.
- Bọn anh bắt đầu đi khai thác những vùng mỏ mới ở Nevada, việc
này chỉ mất độ hai tháng là xong thôi.
Buổi chia tay diễn ra vội vàng, song nhiều bịn rịn.
Chàng lên đường đă được ba tuần. Ông John thấy ḷng se lại khi
nghĩ đến ngày trở về của chàng rể và việc ḿnh phải xa đứa con
gái nuôi. Tuy vậy, gương mặt ngời sáng của nàng đă làm ông vui
ḷng với hôn ước này. Trong thâm tâm, ông vẫn không chịu để nàng
lấy một người Mormons. Theo ông, một hôn nhân kiểu ấy là một
điều ô nhục, riêng về điểm này, không ǵ có thể lay chuyển ông
được. Tuy nhiên, ông giữ kín quyết tâm ấy, nếu không, ông sẽ gặp
nguy hiểm.
Đúng, một điều nguy hiểm. Nguy hiểm đến nỗi ngay cả những người
ngoan đạo nhất cũng chỉ dám th́ thầm những ư kiến của ḿnh về
tín ngưỡng, tôn giáo. Cả ṭa án dị giáo thời trung cổ ở Tây Ban
Nha, lẫn những hội kín ở Ư đều chưa biết một bộ máy nào ghê gớm
bằng cái bộ máy đang phủ bóng đen lên toàn bộ vùng đất Utah.
Nó như có tai mắt ở khắp mọi nơi và có quyền lực vạn năng. Kẻ
nào có ư tưởng thù nghịch với giáo phái sẽ bị mất tích một cách
bí hiểm. Vợ con họ chờ họ ở nhà nhưng họ không bao giờ trở về để
kể lại cho vợ con biết họ đă bị xét xử như thế nào.
Trước hết, cái thế lực mơ hồ và ghê gớm này giáng xuống những kẻ
dao động, những kẻ đă quy theo đạo Mormons mà sau đó lại muốn
sửa đổi hoặc từ bỏ đạo này. Nhưng chẳng bao lâu, cái thế lực ấy
mở rộng phạm vi hoạt động của nó. Số phụ nữ trưởng thành trong
cộng đồng giảm dần, nhưng nếu thiếu đàn bà con gái th́ chế độ đa
thê trở thành một giáo nghĩa vô giá. Đến khi ấy bắt đầu có những
tin đồn lạ lùng: có những người di cư bị giết hại, những khu
trại bị cướp phá ở những nơi không bao giờ thấy bóng người da
đỏ. Tại nhà các tông đồ thấy xuất hiện những người phụ nữ mới,
nét mặt ủ ê, c̣n đượm rơ nỗi kinh hoàng....
Một buổi sáng, John sắp sửa đi thăm đồng bỗng nghe thấy chốt
cổng ngoài hàng rào mở mạnh. Một người đàn ông mở cổng bước vào.
Ông giật thót người, v́ đấy chính là vị thủ lĩnh tối cao của
người Mormons. Ông lo ngại, vội chạy ra cổng chào đón giáo chủ.
Young lạnh lùng nhận lời chào của ông và theo ông vào pḥng ăn,
vẻ mặt nghiêm khắc.
Young ngồi xuống một chiếc ghế, nh́n chăm chăm vào John:
- Giáo hữu John, các tín đồ đă cư xử như những người bạn tốt với
ông. Chúng ta đă cứu vớt ông lúc ông sắp chết, chúng ta đă chia
sẻ cơm ăn áo mặc cho ông, chúng ta đă cấp cho ông một phần đất
rộng lớn. Có đúng không?
- Thưa đúng.
- Để đổi lấy tất cả những ân huệ đó, chúng ta chỉ đặt ra có mỗi
một điều kiện là ông hăy tuân theo mọi quy định của đạo giáo.
Ông đă hứa tuân theo, nhưng cứ như những điều ta nghe được th́
ông đă không tuân theọ
- Có điều ǵ mà tôi không tuân theo. Tôi đă chẳng đóng góp vào
quỹ chung hay sao? Tôi đă chẳng siêng năng đi lễ hay sao?
- Vợ ông đâu? - Young hỏi, đưa mắt nh́n xung quanh
- Ông hăy bảo
những người vợ của ông ra đây để ta chào.
- Đúng là tôi chưa lấy vợ. Nhưng phụ nữ ở đây rất hiếm và có
nhiều người khác được quyền ưu tiên hơn tôi. Vả lại đă có con
gái tôi trông nom tôi rồi.
- Ta muốn nói với ông về đứa con gái này. Nó đă lớn, nó đă trở
thành một bông hoa của Utah và nhiều người quyền cao chức trọng
đă nh́n nó với con mắt ưa thích.
John thầm rên rỉ trong ḷng.
- Người ta bảo rằng con gái ông đă được ước hôn với một kẻ ngoại
đạo. Có lẽ đó chỉ là những lời đồn đại nhảm nhí. Điều răn thứ
mười ba của Joseph Smith dạy ǵ? "Con gái ngoan đạo phải lấy một
trong những người được Chúa tuyển chọn làm chồng, v́ lấy kẻ
ngoại đạo là một trọng tội". Ông là tín đồ của Chúa, sao lại có
thể để cho con gái vi phạm lời răn đó được?
John không trả lời, tay chỉ mân mê cái roi ngựa. Giáo chủ nói
tiếp:
- Cô gái c̣n ít tuổi, chúng tôi không muốn nó lấy một mái đầu
bạc. Chúng ta cũng không muốn ngăn cản nó chọn lựa. Stangerson
có một con trai và Drebber cũng có một con trai. Nó hăy chọn một
trong hai người ấy làm chồng. Họ đều giàu có, đều là những tín
đồ chân chính. Ông có ǵ cần thưa lại với ta nữa không?
John im lặng một lát, vầng trán nhăn lại, cuối cùng ông nói:
- Xin giáo chủ hăy tha cho chuyện đó. Con gái tôi tuổi c̣n non.
Young đứng dậy:
- Nó được một tháng để chọn lựa. Sau thời hạn ấy, nó phải quyết
định.
Bước qua ngưỡng cửa, Young c̣n quay lại, nét mặt hầm hầm, giọng
vang vang:
- John! Ông và con gái ông, các người thà cứ nằm phơi xương trên
dải Sierra Blanco c̣n hơn là chống lại những lệnh của "Các vị
Thánh Ngày Cuối".
Sau một cử chỉ hăm dọa, Young quay đi và John nghe thấy tiếng
chân nặng tŕnh trịch trên lớp sỏi.
Ông vẫn c̣n ngồi đó, tỳ khuỷu tay lên đầu gối suy tính, th́ một
bàn tay dịu dàng khẽ đặt lên bàn tay ông. Ngước mắt lên, thấy
gương mặt hoảng hốt của Lucy, ông hiểu là cô đă biết sự t́nh.
Ông an uỉ:
- Con đừng lo, cha sẽ thu xếp. Con không chịu khuất phục trước ư
muốn của con người vừa rồi chứ?
Lucy chỉ đáp lại bằng tiếng sụt sịt và nắm tay ông siết mạnh.
- Tất nhiên rồi. Cha cũng không muốn con chịu khuất phục. Hope
rất xứng đáng với con, nó hơn tất cả bọn con trai ở đây gộp lại.
Ngày mai có một toán người đi Nevada, cha sẽ t́m cách nhắn tin.
Nếu nó đúng là con người như cha đă biết, nó sẽ trở về nhanh hơn
điện tín.
Lucy cười qua những giọt nước mắt trước sự so sánh của người cha
già.
- Khi anh ấy về, anh ấy sẽ giúp được cha con ḿnh. Nhưng con chỉ
lo cho cha. Người ta kể những chuyện ghê sợ về những ai dám
cưỡng lại mệnh lệnh của giáo chủ.
- Nhưng ta đă cưỡng lại đâụ Ta c̣n một tháng. Đến thời hạn ấy,
chúng ta đă đi khỏi nơi này rồi.
- Rời bỏ nơi đây?
- Chỉ c̣n cách đó.
- C̣n trang trại th́ sao?
- Cha sẽ chuyển thành tiền được càng nhiều càng tốt, c̣n th́ bỏ
lại hết, con ạ; cha không chịu cúi ḿnh như những người ở đây.
- Họ không để cho ḿnh đi đâu, cha ạ.
- Chờ Hope về, ta cùng thu xếp. Từ nay đến lúc đó, con không có
ǵ lo sợ, và cũng đừng khóc. Nếu không, khi gặp cha, nó sẽ trách
cha đấy.
John nói với con bằng một giọng tin tưởng, tuy vậy, Lucy vẫn
nhận thấy rằng tối hôm đó, ông cài cửa cẩn thận hơn mọi hôm, nạp
đạn vào khẩu súng và treo trong pḥng ngủ.
Chương 10 -
Chạy trốn
Sáng hôm sau, John ra thành phố nhắn tin cho Hope. Về đến
nhà, ông ngạc nhiên thấy hai con ngựa buộc ở hai cái cọc bên
cổng. Ông càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy trong pḥng ăn có hai
người trẻ tuổi. Một người mặt tái mét, dài ngoẵng, ngồi lút
trong chiếc ghế đu, chân gác lên bếp ḷ. Người kia cổ to như cổ
ḅ mộng, khuôn mặt ph́ nộn, đứng trước cửa sổ, tay đút túi, huưt
sáo một bài hát. Cả hai nghiêng đầu chào khi John bước vào, và
kẻ đang nằm dài trên chiếc ghế đu khơi chuyện:
- Có lẽ ông không biết chúng tôi. Đây là Enoch Drebber, con trai
ông Elder Drebber; c̣n tôi là Joseph Stangerson, con trai
Stangerson. Tôi đă đi cùng ông khi Chúa ch́a bàn tay ra và đưa
ông trở lại bầy đàn chân chính.
- Nơi người sẽ dắt dẫn mọi dân tộc, vào giờ phút thích đáng
- Gă
con trai kia nói tiếp bằng giọng mũi.
John lạnh lùng gật đầu.
Stangerson nói tiếp:
- Chúng tôi đến đây để xin con gái ông về làm vợ cho một trong
hai người chúng tôi. Tôi mới có bốn vợ, và giáo hữu Elder
Drebber bảy vợ. Như vậy tôi có lẽ được quyền ưu tiên hơn.
- Không! Không! - Gă kia vội kêu lên - Vấn đề không phải ở chỗ đă
có bao nhiêu vợ, mà là có thể nuôi được bao nhiêu vợ. Cha tôi
vừa mới cho tôi mấy nhà xay thóc, nên tôi là người giàu hơn.
- Nhưng triển vọng gia sản của tôi lại lớn hơn
- Gă kia hung hăng
đáng lại - Khi Chúa gọi cha tôi về hầu, tôi sẽ được thừa hưởng
sản nghiệp thuộc da của cha tôi. Lúc đó tôi sẽ là tông đồ cấp
cao hơn anh trong giáo hội.
- Cứ để cô gái quyết định - Elder Drebber nói, cười mỉm với h́nh
ảnh của ḿnh trong gương.
Trong lúc hai gă đối đáp nhau, John cố gh́m nén cơn giận để khỏi
quất chiếc roi ngựa lên lưng họ.
- Này, các anh, khi nào con gái tôi gọi các anh đến th́ các anh
mới được đến. Nó chưa gọi th́ đừng vác mặt tới đâỵ
Hai gă trẻ tuổi nh́n nhau, ngơ ngác. Theo họ, đây là một vinh dự
lớn cho người cha lẫn cô gái. John quát lên:
- Có hai lối ra khỏi pḥng này, ra bằng cửa lớn và ra bằng cửa
sổ. Các anh muốn ra bằng cửa nào?
Gương mặt và hai bàn tay John đượm vẻ hung tợn, đến nỗi hai gă
đứng bật dậy, vội vă bỏ về. John theo chân chúng đến tận cổng
ngoài.
Stangerson tức sùi bọt mép:
- Ông sẽ hối hận cho đến khi nhắm mắt.
- Bàn tay Chúa sẽ giáng xuống đầu ông. Chúa sẽ trừng trị ông
-
Drebber cũng hét lên trước khi hai gă phóng ngựa bỏ đi.
Ông già quay vào nhà, lấy bàn tay chùi mồ hôi trên trán, nói với
con:
- Bọn chó má! Cha thà thấy con nằm trong nấm mồ c̣n hơn làm vợ
một trong hai đứa.
- Con cũng quyết thế - Cô gái trả lời với giọng rắn rỏi. Nhưng
anh Hope chắc sắp về rồi.
- Ừ, chắc cũng không lâu, nhưng sớm ngày nào tốt ngày ấy.
Quả vậy, người trại chủ mạnh khỏe cần có người giúp đỡ. Trong
suốt lịch sử của cộng đồng này, chưa từng có trường hợp nào
chống lại uy quyền của giáo chủ một cách ngang nhiên như vậy.
Những lỗi lầm nhỏ mọn mà c̣n bị trừng trị ghê gớm th́ số phận
của kẻ bất phục tùng này sẽ ra sao? John biết rằng tài sản và
danh tiếng của ông chẳng giúp ông được ǵ. Đă có những người
khác, giàu có và tiếng tăm như ông, bị thủ tiêu và gia tài th́
bị sung vào quỹ của giáo hội.
Sáng hôm sau, ông thấy một mẩu giấy gài trên tấm chăn ông đắp,
đúng ngang ngực. Trên mẫu giấy có ḍng chữ in đậm nét:
"Ngươi c̣n hai mươi chín ngày để sửa ḿnh".
Mẩu giấy ấy làm John lo sợ hơn bất kỳ lời đe dọa nào. Hai mươi
chín ngày rơ ràng là thời hạn mà Young dành cho ông. Bàn tay đă
gài mẩu giấy này rất có thể cắm một mũi dao vào giữa tim ông.
Sáng hôm sau, John c̣n hoảng hốt hơn. Hai cha con vừa ngồi vào
bàn ăn buổi sáng th́ Lucy kêu lên một tiếng kinh ngạc, giơ tay
chỉ lên trần nhà. Ngay giữa trần có ai đă viết, có lẽ bằng một
cái que c̣i lửa, con số "28".
Lucy chắc không thể hiểu ư nghĩa của con số đó, và John cũng
không nói cho con hay. Duy có điều, đêm hôm ấy, ông cầm súng
canh rất khuya. Ông không thấy bóng dáng một ai, không nghe thấy
một tiếng động nào, thế mà sáng hôm sau trên mặt ngoài cánh cửa
đă có một con số "27".
Cứ như vậy, ngày tiếp ngày, ông nhận thấy các kẻ thù vô h́nh của
ông đă tính sổ đều đặn và ghi số ngày trong thời hạn dành cho
ông. Những con số đó được viết khi th́ trên tường, khi th́ trên
sàn, thỉnh thoảng lại ghi trên những tấm b́a nhỏ đính ở cửa vườn
hoặc ngoài hàng rào. Một cảm giác hăi hùng xâm chiếm lấy ông mỗi
khi nh́n thấy những con số đó.
Con số 20 trở thành 15, rồi 10, vẫn không có tin tức ǵ về Hope.
Mỗi lần có tiếng vó ngựa qua đường, người trại chủ già lại vội
vă chạy ra hàng rào xem. Nhưng đến khi ông thấy con số 5 bị thay
thế bằng 4 rồi 4 bị thay thế bằng 3 th́ ông hết hy vọng. Một
thân một ḿnh không thông thuộc đường đi trên các dăy núi bao
quanh vùng, ông biết ḿnh bất lực.
Một buổi tối, ông ngồi một ḿ nh suy nghĩ miên man, vô vọng.
Sáng hôm ấy, con số 2 đă hiện trên tường và hôm sau sẽ là ngày
của thời hạn đáng nguyền rủa. Trong bầu không khí im lặng buổi
tối, ông bỗng nghe thấy tiếng gơ cửa rất nhẹ. John nhảy vọt đến
cửa, rút chốt, mở toang cánh cửa.
Bên ngoài, cảnh vật rất yên tĩnh. Trong vườn, ngoài nhà, không
thấy bóng một ai. Bỗng nh́n xuống chỗ gần chân ḿnh, ông thấy
một người nằm áp bụng xuống đất, vặn vẹo ḅ vào trong nhà, nhanh
và lặng lẽ như một con rắn. Vào đến trong nhà, người ấy đứng bật
dậy, đóng cửa lại và John nhận ra là Hope. Giọng anh khản đặc:
- Bác có ǵ ăn không? - Anh sà vào bàn, ăn nốt chỗ thức ăn của
bữa chiều c̣n lại, vừa ăn vừa hỏi chuyện
- Lucy có khỏe không
bác?
- Nó khoẻ. Nhưng sao cháu lại đến đây bằng cách ấy.
- Nhà bác đă bị vây kín. Cháu phải ḅ từ xa đến đâỵ Chúng ghê
lắm, nhưng vẫn không bắt nổi một thợ săn của vùng rừng núi.
John phấn chấn xiết chặt bàn tay người thanh niên:
- Chúng ta tính sao đây?
- Ngày mai là ngày cuối cùng, nếu ta không đi ngay đêm nay th́
hỏng mất. Cháu có một con la và hai con ngựa buộc ở chỗ hẻm Đại
Bàng. Bác hiện có bao nhiêu tiền?
- Bảy ngh́n dollars.
- Thế là đủ. Cháu cũng có chừng ngần ấy. Ta phải đi về phía thành
phố Crason qua đường núi. Bác đánh thức Lucy dậy đi.
Một lát sau, lợi dụng lúc một đám mây bay qua làm đêm tối thêm,
ba người thận trọng mở cửa sổ, vượt qua vườn, rồi nín thở, khi
th́ gập người lại làm hai, khi th́ dán bụng xuống đất, tiến dần
đến hàng rào, nơi có một khe hở mở ra cánh đồng.
Bỗng chàng vội kéo hai người nấp vào một chỗ khuất. Kinh nghiệm
của người thợ săn đă giúp cho chàng có đôi tai của mèo rừng. Ba
người vừa nấp xong vào một chổ tối đen, đă nghe thấy cách chỗ họ
vài yard một tiếng hú buồn thảm của cú mèo. Một tiếng hú khác
cũng ngay gần đấy đáp lại. Cùng lúc đó, một bóng người lờ mờ từ
khe rào mà họ định tiến tới hiện ra, và tiếng hú áo năo kia lại
nổi lên. Lúc ấy có một bóng người khác nhô ra từ trong tối.
Chiếc bóng đầu tiên, có vẻ là một kẻ chỉ huy, nói:
- Ngày mai, vào lúc nửa đêm, khi chim kêu ba tiếng.
- Rơ. Có cần nói lại với giáo hữu Drebber không?
Bóng kia đáp lại:
- Báo cho Drebber biết mật hiệu và chuyển lại cho các giáo hữu
khác. Chín c̣n bảy?
- Bảy c̣n năm - Bóng kia đáp lại rồi hai bóng người đi về hai
hướng khác nhau.
Tiếng bước chân của chúng vừa mới ch́m đi xa, cả ba người liền
đứng dậy, vượt qua khe rào, chạy thật nhanh qua cánh đồng tới
đường cái.
Ra tới đường cái, họ đi nhanh hơn. Trên đường, họ chỉ găp có mỗi
một người và kịp nấp tránh xuống bờ ruộng ven đường. Gần đến chỗ
vào thành phố, người thợ săn rẽ sang một con đường đất gồ ghề
nhỏ hẹp đi lên núi. Hiện ra lờ mờ trong bóng tối phía trên đầu
họ là hai mỏm núi, giữa hai mỏm núi đó là hẻm Đại Bàng. Qua một
ḷng suối cạn nước, họ tới chỗ ẩn khuất đằng sau mấy tảng đá
lớn, thấy ngựa và la vẫn c̣n. Cô gái ngồi lên lưng la, ông già
với bọc tiền ngồi lên một con ngựa, c̣n người thợ săn dắt con
ngựa kia.
Đường đi rất nguy hiểm, nhiều chỗ hẹp đến nỗi họ phải đi theo
hàng một. Tới một chỗ hoang vắng và hiểm trở nhất của hẻm núi,
bỗng Lucy khẽ kêu lên một tiếng, giơ tay chỉ lên mỏm núi. Một
h́nh người đứng trên tảng đá mọc ch́a ra bên trên con đường, nổi
bật thành một bóng đen trên nền trời. Cùng lúc đó, người gác kia
cũng nh́n thấy họ. Một tiếng "Ai?" lạnh sống lưng vang lên trong
hẻm im ĺm.
- Lữ khách đi Nevada - Hope đáp, tay đặt lên khẩu súng treo ở yên
ngựa.
Họ thấy người gác lăm lăm khẩu súng, nh́n họ như chưa hài ḷng
với câu trả lời.
- Được phép ai chưa?
- Được phép của "Các vị Thánh Ngày cuối"
- John đáp. Những năm
tháng sống với người Mormons đă dạy cho ông biết đấy là quyền
lực cao nhất mà ông có thể viện ra.
- Chín c̣n bảy - Tên gác hỏi mật hiệu.
- Bảy c̣n năm - Hope đáp lại ngay, nhớ lại mật hiệu nghe được ở
hàng rào bên vườn.
- Đi đi, và cầu Chúa phù hộ cho các người!
Sau khúc đó, con đường rộng dần ra, bằng phẳng hơn và họ có thể
cho ngựa đi nước kiệu. Ngoái lại đàng sau, họ thấy bóng người
gác chống súng xuống đất, họ biết là họ đă được tự do.
Chương 11 -
Báo oán
Những người chạy trốn đi suốt đêm, qua những
đường đèo hiểm trở, dốc ngược và lởm chởm đá. Nhiều lần lạc
đường, nhưng nhờ chàng trai thông thuộc vùng núi này nen họ lại
t́m được phương hướng. Đến lúc trời rạng sáng, họ dừng lại bên
một thác nước cho ngựa uống và để ăn vội bữa sáng, Lucy và ông
John rất muốn nghỉ lâu hơn, nhưng người thợ săn nhắc nhở:
- Hiện giờ chúng đă bắt đầu đuổi theo. Thoát được. hay không là
tùy ở tốc độ của chúng ta. Tới được thành phố Carson là thoát.
Suốt ngày hôm ấy họ đi theo những con đường cheo leo, những hẻm
núi nhỏ hẹp và đến chiều, họ tính đă ở cách xa kẻ thù khoảng ba
mươi dặm. Đêm đến, chọn chỗ ghỉ ở chân một tảng đá mọc nhô ra để
che bớt gió, và nép người vào với nhau để có chút hơi ấm. Trước
khi trời sáng, họ đă lên đường. Không thấy một dấu hiệu nào có
người đuổi theo, Hope cho rằng họ đă thoát ra ngoài tầm tay của
cái tổ chức khủng khiếp đó.
Đến khoảng trưa ngày thứ hai, chỗ lương thực ít ỏi, mang theo
bắt đầu cạn. Chàng trai không lo lắng. Chọn chỗ khuất, anh chất
đống một ít cành cây khô, nhóm đống lửa lớn để ông John và Lucy
sưởi: gió thổi mạnh và giá lạnh. Buộc ngựa xong, chàng khoác
súng lên vai, đi kiếm thức ăn cho cả nhóm.
Chàng đi vài dặm [1] vào một hẻm núi, rồi đi tiếp sau một hẻm núi
khác, mà không gặp được một loại chim thú nào. Cuối cùng, sau
hai giờ t́m kiếm, chàng nản chí, đă toan quay trở lại, bỗng nh́n
thấy một con sơn dương, nó quay đầu về hướng khác, không thấy
chàng. Chàng ngửa người, t́ súng lên mép một tảng đá ngắm cẩn
thận rồi mới bóp c̣. Con vật lảo đảo bên bờ vực rồi lăn xuống
đáy thung lũng. Chàng xẻo lấy một phần thịt, rồi vội vă quay trở
lại chỗ cũ. Nhưng đường về bây giờ t́m mới khó v́ lúc mải mê,
chàng đă đi quá những hẻm núi quen thuộc. Trên núi, đêm ập xuống
nhanh và lúc trời tối mịt, chàng mới nhận ra đường về.
Về đến đầu đường đèo
- nơi chàng đă để ông John và Lucy ngồi chờ
bên đống lửa - chàng bắt tay lên miệng hô vang một tiếng " hôôôô
". Nhưng không có một tiếng hô nào đáp lại. Hô tiếp một tiếng
nữa. Vẫn không thấy có tiếng đáp, chàng cảm thấy một nỗi lo sợ
mơ hồ khó tả, vội vứt bỏ tảng thịt, lao chạy về phía trước.
Sau một chỗ ngoặt, chàng nhật ra rơ đây là nơi ḿnh đă nhóm lửa.
Dưới đất hăy c̣n một đống than cháy dở, nhưng xung quanh người
và ngựa đă biến đi đâu mất!
Chàng khơi lại ngọn lửa và xem xét khu vực xung quanh. Nền đất
có nhiều vết chân ngựa cho thấy một toán đông cưỡi ngựa đă đuổi
kịp rồi sau đó đă lại rút đi. Cách đống lửa không xa có một mô
đất mà lúc trưa không thấy có. Rơ ràng là một ngôi mộ vừa mới
đắp. Bước lại gần, chàng thấy có một cái gậy cắm vào giữa ngôi
mộ, trên đầu gậy gài một tờ giấy ghi vỏn vẹn:
“John Ferrier
Trước ở thành phố Salt- Lake
Chết ngày 4 tháng 8 năm 1860”
Đau đớn, chàng hối hả t́m khắp xung quanh xem có ngôi mộ nào nữa
không, nhưng không thấy, Lucy đă bị bắt đi rồi. Nàng sẽ là vợ
của con trai một tông đồ Mormons nào đó. Khi hiểu ra số phận của
vị hôn thê, chàng trai muốn lấy cái hẻm núi này làm nơi an nghỉ
cuối cùng của ḿnh. Nhưng bản tính kiên cường lại trỗi dậy. Nếu
như đời chàng từ nay không c̣n ư nghĩa ǵ nữa, th́ ít ra chàng
vẫn có thể dùng nó để trả thù cho vợ. Cùng với bản tính kiên
cường và nhẫn nại, chàng c̣n có một chí căm thù bền bỉ mà chàng
đă học được ở những người da đỏ. Gương mặt tái nhợt và dữ tợn,
chàng quay trở lại chỗ đă bỏ tảng thịt, nhóm lửa, chuẩn bị cho
ḿnh đủ thịt ăn trong vài ngày rồi đứng lên, lần đường t́m về
thành phố Salt Lake.
Đến ngày thứ sáu, chàng về tới hẻm Đại Bàng. tại đó, chàng có
thể nh́n thấy nơi ở của Các vị Thánh ngày tận thế. Chàng thấy có
cờ Baynes phất phới ở một vài đường phố chính và một dấu hiệu
khác là có cuộc vui hay buổi lễ ǵ đó, trong thành phố. Bỗng
chàng nghe tiếng vó ngựa và thấy một người đi về phía ḿnh.
Chàng nhận ra đó là Cowper, người mà ḿnh đă có lần giúp một vài
việc. Khi người đó tới gần, chàng bước lại:
- Anh c̣n nhớ tôi không. Tôi là Hope đâỵ
Người Mormons này không giấu nổi vẻ ngạc nhiên. Quả thực, khó mà
nhận ra một kẻ lang thang, rách rưới, râu rậm tóc bù, mặt nhợt
nhạt và dễ sợ này... Rồi vẻ ngạc nhiên mau lẹ chuyển thành vẻ lo
ngại.
- Anh điên hay sao mà đến đâỵ Có lệnh bắt anh v́ anh đă giúp hai
cha con ông John chạy trốn.
- Tôi không sợ. Chỉ xin anh, v́ t́nh bằng hữu cho tôi biết Lucy
hiện nay ra sao.
- Hôm qua, người ta đă làm lễ cưới cho cô ấy. Ḱa, can đảm lên
chứ. Trông anh như người mất hồn.
- Anh khỏi phải bận tâm về tôi - Giọng Hope yếu ớt. Đôi môi tái
nhợt, ngồi bệt xuống một tảng đá
- Anh bảo sao, lễ cưới ư?
- Lễ cưới được tổ chức hôm qua, v́ vậy mới treo cờ. Con trai
Drebber và con trai Stangerson tranh nhau khá găng. Cả hai đều
nằm trong nhóm người đă đuổi theo họ và Stangerson là kẻ đă giết
người cha của cô gái. V́ vậy, Stangerson có vẻ được ưu tiên,
nhưng khi việc này được đưa ra hội đồng th́ phái nhà Drebber
thắng và giáo chủ đă trao cô gái cho Drebber. Dầu vâỵ, chẳng ai
giữ cô ấy được lâu đâu v́ hôm qua tôi đă thấy màu chết trên sắc
mặt cô ấy rồi. Thế nào, anh đi đấy à.
- Vâng, tôi đi đây - Hope đứng dậy, gương mặt đanh lại và đôi mắt
ánh lên một vẻ điên dại.
- Anh đi đâu?
- Đi đâu cũng vậy thôi - Hope đáp lại, rồi vác súng lên vai, rảo
bước về phía đường đèo, tiến sâu vào trong ḷng núi.
Lời tiên đoán của Cowper quả không sai: trong không đến một
tháng. Lucy héo hon rồi chết. Drebber không tỏ ra đau buồn khi
Lucy chết, v́ hắn lấy Lucy chủ yếu v́ của cải của ông bố. Nhưng
những người vợ khác của y thương khóc cô, và theo phong tục của
người Mormons, họ thức trông xác cô suốt đêm trước hôm mai táng.
Đang ngồi xung quanh quan tài vào lúc trời chưa sáng, họ bỗng
kinh ngạc và khiếp sợ khi thấy cửa bật mở và hiện ra một người
đàn ông ăn mặc rách rưới, mặt sạm đen, con mắt điên dại, bước
thẳng đến chỗ đặt thi hài, cúi đầu kính cẩn đặt môi lên vầng
trán giá lạnh rồi đỡ lấy bàn tay người chết, rút chiếc nhẫn cưới
ra khỏi ngón tay và nói bằng một giọng giống tiếng gầm rít của
loài thú nhiều hơn tiếng người:
- Không thể để cho người ta chôn cất nàng cùng với chiếc nhẫn
này. Trong lúc đám phụ nữ chưa biết nên làm ǵ th́ người đó đă
biến mất.
Trong nhiều tháng, người ta kể có một kẻ kỳ quặc thường hay lẩn
quẩn ở những cánh đồng bên ngoài thành phố hoặc trong những hẻm
núi hoang vắng. Một hôm, một viên đạn bắn qua cửa sổ nhà
Stangerson đập vào tường cách đầu y có một foot. Lại một dịp
khác, Drebber đang đi dưới chân một dốc núi th́ một tảng đá lăn
về phía y, y phải bổ nhào úp sấp mặt xuống đất mới thoát chết.
Hai gă thanh niên ấy sớm phát hiện ra người tiếng hành những vụ
mưu sát này, và chúng dẫn người đi t́m Hope nhiều lần nhưng
khôngbắt được chàng. Chúng phải cắt người canh gác nhà chúng,
chúng không bao giờ ra khỏi nhà một ḿnh hoặc khi trời tối. Sau
một thời gian, những biện pháp này được nới lỏng: người ta không
c̣n thấy bóng dáng Hope đâu và chúng nghĩ rằng thời gian đă làm
nguôi mối thù ở trong ḷng người thợ săn trẻ tuổi ấy.
Nhưng chí báo thù đă chiếm lĩnh toàn bộ tâm hồn chàng trai,
không c̣n chỗ cho một t́nh cảm nào khác len vào nữa. Nhưng cuộc
sống phơi sương dăi nắng, chẳng mấy chốc làm hao ṃn sức khỏe
của chàng. Nếu chàng chết trên núi như con chó hoang th́ ai sẽ
báo thù cho? Mà nếu chàng cứ ở măi trên núi th́ không thể tránh
khỏi kết cục đó. V́ vậy, chàng trở lại vùng mỏ Nevada để phục
hồi sức khỏe và thu nhặt một ít tiền để rồi có thể theo đuổi
chuyện báo oán.
Chàng định tạm nén mối thù lại độ một năm là cùng, nhưng nhiều
t́nh huống không lường trước không cho phép chàng rời khỏi khu
mỏ trước năm năm. Tuy nhiên, sau thời gian ấy, kư ức về nỗi đau
buồn ḷng khao khát báo thù vẫn mănh liệt. Cải trang, chàng trở
lại thành phố Salt Lake dưới một cái tên giả và được biết những
tin đáng chú ư. trước đó vài tháng đă xảy ra một sự phân liệt
trong đám người được Chúa tuyển chọn. Một vài thanh niên trẻ của
giáo phái Mormons đă nổi dậy, chống lại quyền lực của các tông
đồ và kết quả là một số đă ly khai, bỏ Utah ra đi, trở thành
những kẻ ngoại đạo. Trong số đó có Drebber và Stangerson. Không
ai biết chúng đi đâu. Người ta kể rằng Drebber đă khéo thu xếp,
chuyển hầi hết tá sản của hắn ra thành tiền đem đi, c̣n
Stangerson th́ không được sung túc bằng.
Nhiều người cho rằng dù ḷng báo thù có cháy bỏng đến đâu, có lẽ
cũng đă phải từ bỏ ư định của ḿnh trước ngần ấy khó khăn, nhưng
Hope th́ không. Với số tiền ít ỏi đă có, chàng đi hết thành phố
này đến thành phố khác trong khắp nước Mỹ t́m kiếm tung tích của
kẻ thù, vừa đi vừa nhận làm những công việc lặt vặt để có thêm
tiền sinh sống. Thời gian trôi đi, mái tóc đen đă lốm đốm bạc
nhưng ông vẫn cứ đi, không biết mệt mỏi, không hề nản chí, ḍ
t́m dấu vết của kẻ thù như một con chó săn say mồi. Một hôm, ông
thoáng nh́n thấy một nét mặt qua một khung cửa sổ, và biết đó là
người mà ông lùng đuổi hiện đang ở tại thành phố Cleverland,
bang Ohio. Ông trở về căn buồng, sắp đặt kế hoạch báo thù. Thế
nhưng Drebber khi nh́n qua cửa sổ nhà hắn, cũng đă nhận ra kẻ
lang thang ngoài phố kia và thấy ư định giết người trong ánh mắt
người ấy. Hắn vội vă cùng với Stangerson
- khi ấy đă trở thành
thư kư riêng của hắn - đến nhà một vị thẩm phán khai rằng hắn
đang bị một kẻ t́nh địch cũ dọa giết.
Tối hôm ấy, Hope bị tống giam v́ ông sống lang thang, không nhà
cửa, không nghề nghiệp nhất định. Ông bị giam mấy tuần. Đến khi
được thả, ông thấy nhà Drebber bỏ trống và được biết hắn đă sang
châu Âu cùng với tên thư kư riêng.
Một lần nữa, người báo oán thất vọng, nhưng cũng một lần nữa mối
thù dồn tụ qua năm tháng lại đẩy ông tiếp tục hành động. Không
đủ tiền đi xa, ông lại phải kiếm việc làm, dành dụm từng dollar
một cho cuộc hàng tŕnh sang châu Âu. Sau cùng, khi có tạm một
ít tiền để đủ sống, ông lên đường, đuổi theo các kẻ thù của ḿnh
từ thành phố này đến thành phố khác ở châu Âu, nhận làm bất cứ
việc ǵ để sống. Từ thành phố St. Petersburg của Nga, Thủ đô
Paris của Pháp, Copenhagen của Đan Mạch; cuối cùng ông theo
chúng tới thủ đô London nước Anh, và hạ sát được chúng.
-----------------
[1] Nguyên văn: miles
Chương 12 -
Phần tiếp trong nhật kư của bác sĩ Watson
Tuy chống cự kịch liệt, nhưng người đánh xe tỏ ra không hằn thù ǵ chúng
tôi. Ông ta nở một nụ cười thân thiện và tỏ ư mong ông ta không
gây thương tích ǵ cho chúng tôi trong lúc xô xát. Ông ta nói
với Sherlock Holmes:
- Tôi chắc các ông sẽ dẫn tôi về Sở cảnh sát. Xe của tôi để dưới
ḷng đường. Nếu các ông vui ḷng cởi trói chân cho tôi, tôi sẽ
tự ḿnh xuống.
Gregson và Lestrade nh́n nhau suy nghĩ. Nhưng Sherlock Holmes
cởi ngay dây trói.
Holmes bảo hai nhà thám tử:
- Các ông nên đi cùng với tôi.
- Tôi đánh xe cho - Lestrade nói.
- Tốt lắm. Ông Gregson ngồi trong xe cùng với tôi, bác sỹ Watson,
cả anh nữa.
Tất cả chúng tôi ra xe. Hope ngoan ngoăn bước lên xe. Tới sở
cảnh sát, viên thanh tra làm nhiệm vụ của ḿnh một cách b́nh
thản, buồn tẻ:
- Can phạm sẽ bị đưa ra xét xử ngay trong tuần. Trong khi chờ
đợi, Hope, anh có muốn khai ǵ không?
Hope từ tốn nói:
- Lời khai của tôi khá dài. Tôi muốn được kể hết với các ông.
- Ông có thể để đến khi ra ṭa khai cũng được.
- Có lẽ tôi sẽ không ra ṭa đâu. Các ông chớ hoảng hốt. Tôi không
có ư định tự tử. Ông có phải bác sỹ không?
- Ông ta quay đôi mắt
u tôi và cháy bỏng sang phía tôi.
- Phải.
- Thế th́ xin ông đặt tay vào đây - Với một nụ cười hé nở trên
môi, ông ta đưa hai cổ tay bị khóa lên ngực.
Làm theo yêu cầu của ông ta, tôi cảm thấy ngay những tiếng tim
đập dữ dội. Lồng ngực ông ta rung lên bần bật như một ṭa nhà
mảnh mai bên trong đang chạy một động cơ quá mạnh. Trong bầu
không khí im lặng của gian pḥng, tôi có thể nghe thấy tiếng
thổi và tiếng rung cũng xuất phát từ đó.
- Ủa, ông bị bệnh ph́nh động mạch chủ hả
- Tôi thốt lên.
- Đúng vậy - Hope b́nh thản đáp - Tuần trước tôi đă đi khám bệnh,
bác sỹ bảo không lâu nữa nó sẽ vỡ tung. Bệnh đă nặng lên từ lâu
trong những năm tôi phải sống ở ngoài trời, ăn không no, ngủ
không yên giấc. Tôi đă làm xong cái việc cần làm, dù có phải ra
đi sớm cũng không có ǵ hệ trọng. Tuy nhiên, tôi muốn kể lại câu
chuyện của tôi để người ta đừng nghĩ tôi là một tên sát nhân bỉ
ổi.
Viên thanh tra và hai nhà thám tử hội ư chớp nhoáng với nhau,
xem có nên cho can phạm được phép kể như ông ta yêu cầu không.
Viên thanh tra hỏi tôi:
- Bác sỹ có cho rằng tính mạng can phạm có thể bị nguy không?
- Rất có thể.
- Trong trụng hợp nhiệm vụ của chúng tôi là phải lấy lời khai
của can phạm. Ông Hope, chúng tôi cho phép ông bắt đầu khai.
- Tôi xin phép được ngồi - Hope noi - Bệnh ph́nh động mạch này
làm tôi dễ mệt lắm, nhất là sau cuộc vật lộn hồi năy. Tôi đang ở
bên bờ cơi chết. V́ vậy, tất cả những lời tôi sẽ nói ra đây đều
là hoàn toàn sự thật.
Tiếp đó, Hope bắt đầu kể câu chuyện của ḿnh. Ông ta nói với một
giọng b́nh thản, từ tốn:
- Hai kẻ ấy đă gây ra cái chết của hai cha con
- Một cô gái và
người cha - và v́ thế, chúng rất đáng tội chết. Tuy nhiên, từ
ngày đó đến nay, tôi không có đủ bằng chứng để đưa ra trước bất
kỳ một ṭa án nào. V́ vậy tôi đă quyết định đảm nhiệm cả vai tṛ
quan ṭa lẫn đao phủ.
Cô gái đă thiệt mạng mà tôi đă nói ở trên lẽ ra làm vợ tôi cách
đây hai mươi năm. Nàng đă bị ép buộc phải lấy tên Drebber này.
Khi rút chiếc nhẫn khỏi ngón tay vợ tôi, tôi đă thề rằng trước
lúc chết, con mắt của Drebber sẽ phải nh́n chiếc nhẫn này. Tôi
đă săn đuổi bọn chúng qua hai lục địa.
Khi tôi đến London, túi tôi hầu như không c̣n một xu nào, tôi
cần t́m một nghề. Cưỡi ngựa, đánh xe đối với tôi tự nhiên như đi
bộ. Tôi đến gặp một chủ xe, xin thuê một chiếc xe. Tiền kiếm
được cũng đủ sống. Cái khó nhất là thuộc đường v́ các thành phố
này là cái mê cung rắc rối. Nhưng tôi kiếm được một cái bản đồ,
và dần dần quen thuộc đường sá.
Tôi phải mất một thời gian mới t́m được địa chỉ của chúng. Chúng
trọ tại một gia đ́nh ở Camberwell. Phát hiện ra chỗ ở của chúng,
tôi biết là đă nắm được chúng trong tay. Tôi để râu dài, và kiên
tŕ theo dơi, mà chúng không nhận ra tôi.
Bất kể chúng đi đâu, tôi đều theo sát gót, khi th́ bằng xe ngựa,
khi th́ bằng chân. Theo bằng xe tốt hơn v́ chúng không thể bỏ xa
tôi được.
Chúng rất gian ngoan. Có lẽ chúng nghi bị theo dơi nên không bao
giờ ra khỏi nhà một ḿnh và cũng như lúc đêm khuya. Trong hai
tuần liền, ngày nào tôi cũng dùng xe theo chúng, nhưng không bao
giờ tôi thấy có tên nọ mà không có tên kia. Drebber gần như lúc
nào cũng say, nhưng Stangerson th́ luôn luôn tỉnh táo và cảnh
giác. Theo dơi măi, tôi vẫn chưa t́m thấy cơ hội nào.
Một hôm, vào lúc xế chiều, khi đang đi lại trên phố Torquay
Terrace, nơi chúng trọ, tôi bỗng thấy một chiếc xe ngựa đến đỗ
trước cửa nhà chúng. Một lúc sau, có người khiêng hành lư ở
trong nhà ra xe, rồi Drebber và Stangerson lên xe và chiếc xe
lăn bánh. Tôi cho xe đuổi theo. Đến ga Euston, chúng xuống xe.
Tôi nhờ một đứa trẻ trông ngựa cho tôi và theo chúng ra sân ga.
Tôi nghe thấy chúng hỏi giờ tàu đi Liverpool. Nhân viên nhà ga
báo cho chúng biết là tàu vừa mới chạy, và phải mất một tiéng
đồng hồ nữa mới có chuyến sau. Stangerson tỏ ra bực ḿnh,
Drebber trái lại có vẻ mừng rỡ. Tôi xán đến gần chỗ chúng.
Drebber nói là y có công việc nhỏ cần phải giải quyết và y bảo
tên kia chờ, y sẽ quay trở lại ngay, Stangerson trách móc, nhắc
nhở là hai đứa đi đâu cũng phải có đôi. Drebber trả lời rằng đây
là một việc tế nhị nên y phải đi một ḿnh. Tôi không nghe
Stangerson đáp lại như thế nào mà chỉ thấy Drebber chửi rủa rồi
nhắc nhở cho Stangerson biết rằng y chỉ là một kẻ tôi tớ. Thấy
vậy, Stangerson không kèo nèo thêm nữa và hai đứa thỏa thuận là
nếu Drebber không kịp trở lại tàu th́ y sẽ đến gặp Stangerson
tại khách sạn Holiday. Sau đó Drebber đi một ḿnh ra khỏi nhà
ga.
Khi đi cùng với nhau, chúng có thể bảo vệ lẫn nhau, nhưng nếu
chúng tách riêng từng đứa th́ đời chúng sắp tàn. Tuy thế, tôi
không hành động hấp tấp. Trong sự báo thù, sẽ không có niềm sung
sướng nếu kẻ thù của ḿnh không biết v́ sao nó phải đền tội và
ai là người bắt nó đền tội. Trước đó mấy ngày, một ngươi chịu
trách nhiệm trông nom mấy ngôi nhà ở đường Brixton đă đánh rơi
ch́a khóa của một ngôi nhà trên xe của tôi. Tôi đă trả lại cho
ông ta chiếc ch́a khóa, nhưng trước đó, tôi đă nhờ làm thêm một
chiếc. Với chiếc ch́a ấy, tôi đă có một nơi ra vào, một nơi có
thể tự do hoạt động. Nhưng việc đưa Drebber đến ngôi nhà ấy, là
điều rất khó khăn.
Ra khỏi ga, Drebber sà vào một hai quán rượu. Ở quán thứ hai, y
lưu lại đến gần nửa giờ. Ở quán này ra, chân y bước không vững.
Có một chiếc xe ngựa đỗ ngay trước xe tôi. Y vẫy vẫy gọi và lên
xe đi. Tôi đi theo chiếc xe này sát đến nỗi suốt quăng đường,
mũi con ngựa xe tôi gần như chạm vào cuối đuôi xe trước. Hai xe
cứ đi ṿng vèo một lúc lâu rồi cuối cùng lại trở lại đúng cái
phố mà Drebber đă ở trọ. Tại đó chiếc xe ngựa kia dừng lại, cho
người xuống xe rồi xe ra đi. Tôi cho xe ḿnh đỗ cách nhà chừng
một trăm mét, và ngồi chờ. Các ông cho tôi xin cốc nước. Tôi khô
cả họng.
Tôi đưa cho ông ta một cốc nước.
- Xin cám ơn! Drebber vào nhà, tôi b́nh tĩnh ngồi chờ khoảng 15
phút. Một lát sau, tôi bỗng nghe thấy tiếng căi cọ trong nhà,
rồi cửa bật tung và hiện ra hai ngươi đàn ông. Một là Drebber,
và người thứ hai là một thanh niên tôi chưa gặp bao giờ. Anh
thanh niên này nắm lấy cổ áo Drebber, kéo y ra tới bậc thềm, xô
mạnh một cái và co chân đạp bồi thêm một cái nữa làm y ngă lăn
sang tận bờ hè bên kia. Anh ta giơ gậy lên dọa: "Đồ chó má! Tao
sẽ dạy cho mày chừa thói lăng nhục một ngươi con gái lương
thiện". Drebber chạy đến góc phố, trông thấy xe tôi, nhảy lên
xe, bảo tôi: "Đến khách sạn Holiday". Lúc ấy tim tôi đập rộn lên
v́ mừng rỡ. Tôi cho xe chạy từ từ, cân nhắc trong đầu nên làm
ǵ. Tôi có thể đưa y ra thẳng ngoại ô và trên một quăng đường
vắng sẽ cho y giáp mặt lần cuối với tôi. Bỗng y bảo tôi đỗ xe
trước một quán rượu. Y ở lại trong quán cho đến giờ đóng cửa, và
khi y bước ra, chân nam đá chân xiêu, tôi biết tôi đă có một
thuận lợi trong tay.
Các ông đừng nghĩ rằng tôi sẽ giết y một cách chóng vánh. Đă từ
lâu, tôi tự bảo tôi sẽ dành cho y một cơ hội sống sót, nếu y
muốn. Trong quăng đời lang thang ở Mỹ, tôi đă làm nghề gác cổng
kiêm việc quét dọn cho một pḥng thí nghiệm của York College.
Một hôm, trong buổi giảng dạy về các chất độc, một vị giáo sư đă
giới thiệu với sinh viên một loại alkaloid mà ông ta đă chiết
xuất từ một thứ cây, có độc tính mạnh đến nỗi chỉ cần một chút
bằng hạt đậu nhỏ cũng đủ làm chết người ngay tức khắc. Tôi đánh
dấu bằng mắt cái lọ đựng thuốc độc ấy và khi mọi người ra về,
tôi lấy trộm một chút. Tôi cũng ít nhiều biết cách chế biến các
hóa chất và với một chút alkaloid ấy, tôi dập thành hai viên
thuốc nhỏ dễ ḥa tan trong nước. Đồng thời tôi cũng làm ra hai
viên thuốc khác, y hệt như hai viên này nhưng không có chứa chất
độc. Tôi bỏ một viên độc và một viên vô hại vào trong một cái
hộp. Lúc bấy giờ, tôi đă quyết định là, một buổi giáp mặt cuối
cùng, mỗi kẻ thù của tôi sẽ phải uống một viên trong hộp và tôi
sẽ uống viên thứ hai c̣n lại. Từ sau hôm đó, lúc nào tôi cũng
mang theo người hai hộp ấy và chờ có lúc sử dụng.
Lúc bấy giờ đă gần một giờ sáng. Đêm tối đen như mực. Mưa như
trút nước và gió thổi dữ dội. Ngoài trời th́ ảm đạm nhưng trong
ḷng tôi sung sướng, hân hoan. Nếu ai đă từng mong mỏi thiết tha
một cái ǵ đó, trong suốt hai mươi năm trời, rồi bỗng có cái đó
ngay trong tầm tay th́ người ấy sẽ hiểu được những cảm xúc của
tôi lúc bấy giờ. Tôi châm một điếu thuốc để b́nh tâm lại. Vừa
đi, tôi vừa như thấy ông John và nàng Lucy nh́n tôi và mỉm cười
với tôị Tôi dừng xe lại trước ngôi nhà ở đường Brixton. Suốt phố
không một bóng người, không một tiếng động, chỉ trừ tiếng mưa
rơi. Nh́n vào trong xe, tôi thấy Drebber đang ngủ như chết, v́
say. Tôi lay vai y:
- Đến nơi rồi.
- Tốt! - Y đáp lại.
Tôi cho rằng y ngỡ là đă đến khách sạn, v́ y xuống xe và đi theo
tôi vào vụn không nói một lời nào. Tôi phải đi cạnh y, đỡ y.
Tới cửa nhà, tôi mở cửa, đưa y vào gian nhà ngoài.
- Tối quá! - Drebber dậm chân gắt gỏng.
- Sáng ngay bây giờ đây - Tôi nói, đánh diêm châm một ngọn nến
tôi mang theo - - Này! Enoch Drebber - Tôi nói tiếp, quay mặt về
phía y và giơ ngọn nến sát mặt tôi - Ta là ai đây?
Y nh́n tôi một lúc bằng con mắt lờ đờ của kẻ say và tôi thấy
hiện lên trong mắt y một nỗi kinh hoàng làm nhăn nhúm cả mặt y.
Y lùi lại, lảo đảo, mặt tái nhợt, mồ hôi nhỏ giọt trên trán, hai
hàm răng đập lập cập vào nhau.
Tôi dựa lưng vào cánh cửa. Tôi cười rất to và khá lâu, rồi bảo
Drebber:
- Đồ chó đẻ! Tao đă săn đuổi mày suốt từ Salt Lake đến St.
Petersburg. Nhưng lần này, mày không c̣n chạy đi đâu được nữa,
v́ một trong hai ta, tao hoặc mày, sẽ không nh́n thấy mặt tró
sáng maịi.
Y lùi lại khi nghe tôi nói, và tôi có thể đọc được trên nét mặt
y là y tưởng tôi điên. Đúng là lúc ấy tôi điên thật. Thái dương
tôi đập th́nh th́nh, tôi nghĩ có lẽ tôi sẽ bị một cơn thần kinh
nếu đă không bị chảy máu mũi làm cho người tôi nhẹ đi nhiều. Tôi
đóng cửa lại, vung chiếc ch́a khóa trước mặt y.
- Mày nghĩ ǵ về cô gái Lucy Ferrier bây giờ nào? Sự trừng phạt
đến tuy có muộn, nhưng cuối cùng cũng phải đến chứ.
Tôi thấy môi y mấp máy, xin tôi tha tội:
- Ông định ám sát tôi ư? - Drebber ấp úng.
- Ai lại ám sát một con chó dại? Mày có thương xót ǵ cô gái khi
mày giằng nàng ra khỏi xác cha nàng.
- Không phải tôi giết cha nàng! - Y kêu lên.
- Nhưng chính mày đă làm tan nát cơi ḷng con ngươi trong trắng
ấy - Tôi gần như thét lên và giơ chiếc hộp thuốc trước mặt
Drebber - Mày hăy chọn lấy một viên và nuốt đi. Ở một viên là
cái chết, c̣n ở viên kia là sự sống. Để xem có công lư trên quả
đất này không, hay chỉ là chuyện may rủi.
Drebber lùi vào một góc pḥng kêu lên những tiếng man rợ, xin
tôi rủ ḷng thương, nhưng tôi rút dao ra kề sát cổ y, làm y cuôi
cùng phải uống thuốc. Tôi nuốt viên thuốc c̣n lại, chúng tôi đối
diện nhau trong một phút, chờ xem ai sống và ai sẽ chết. Có lẽ
tôi không bao giờ quên được nét mặt y, khi những cơn đau đầu
tiên báo cho y biết thuốc độc đang lan khắp người. Nh́n thấy
thế, tôi cười khanh khách và giơ chiếc nhẫn của nàng ra trước
mắt y. Phút đó quá ngắn ngủi v́ tác động của chất alkaloid rất
mau lẹ. Y quằn quại v́ đau đớn, toàn thân và các cơ mặt co giật,
rồi ngă vật ra sàn. Tôi lấy mũi giầy hất người y lại, đặt tay
trên ngực y. Y đă chết hẳn rồi. Máu ở mũi tôi ộc ra nhiều nhưng
tôi không để ư. Không biết lúc đó tôi nghĩ ǵ, mà lấy máu tôi
viết lên tường. Có lẽ định đùa trêu cảnh sát, đánh lạc hướng của
cảnh sát, v́ lúc đó ḷng khoang khoái tôi nhớ lại vụ một người
Đức bị ám sát tại New York, bên trên xác nạn nhân có chữ "Rache"
làm báo chí kết luật là một án mạng do những hội kín gây ra. Tôi
nghĩ chuyện bí ẩn đối với người New York chắc cũng sẽ là bí ẩn
đối với người London. Tôi bèn nhúng ngón tay vào chính máu
tôi,viết lên tường vào chỗ thuận tiện. Sau đó tôi trở ra xe.
Đường vẫn không có một bóng người và trời vẫn mưa gió ào ào. Tôi
đă đi được. một quăng, bỗng đút tay vào túi, không thấy chiếc
nhẫn đâu. Tôi hoảng hốt, cho rằng có lẽ đă đánh rơi khi cúi
xuống trên xác Drebber, tôi quay trở lại, để xe ở một ngách phố
nhỏ và đánh liều trở lại ngôi nhà. Tới nơi, tôi chạm trán ngay
phải một viên cảnh sát ở trong nhà đi ra, tôi phải giả vờ say
mới khỏi bị nghi ngờ.
Lúc bấy giờ tôi chỉ c̣n có một việc, là thanh toán nốt
Stangerson. Tôi biết Stangerson đang ở khách sạn Holiday. Tôi đă
lảng vảng quanh đó suốt ngày, nhưng không thấy y ló mặt ra. Tôi
sớm phát hiện được cửa sổ buồng y, và sáng hôm sau, nhân có mấy
cái thang ở lối đi đằng sau khách sạn, tôi dựng lên, gác vào cửa
sổ buồng y và trèo vào. Tôi đánh thức y dậy, bảo y phải trả lời
về tội ác mà y đă gây ra cách đây hai mươi năm. Tôi mô tả lại
với y cái chết của Drebber, rồi tôi cũng cho y được chọn một
trong hai viên thuốc. Y nhảy bổ vào tôi, định bóp cổ tôi. Ở vào
thế tự vệ, tôi đă đâm y.
Sau đó, tôi trở lại nghề đánh xe như trước, với ư định tiếp tục
cho đến khi nào dành dụm đủ tiền để trở về nước Mỹ. Tôi đang đậu
xe ở một nơi th́ một đứa bé đến hỏi có người đánh xe nào tên là
Hope không, và bảo có người ở số 221B phố Baker muốn thuê xe.
Coi là chuyện b́nh thường, tôi đi theo nó đến địa chỉ kia. Đến
nơi, chưa hiểu đầu đuôi ra sao th́ ông này đă thừa lúc tôi sơ ư,
khóa ngay cổ tay tôi lại. Thưa các ông, đó là toàn bộ câu chuyện
của tôi.
Nghe xong câu chuyện, chúng tôi ngồi im lặng mất một lúc, chỉ có
tiếng bút ch́ sột soạt ghi nốt phần cuối bản tốc kư. Sau cùng
Holmes nói:
- Có một điểm tôi muốn biết thêm. Người đến nhận chiếc nhẫn cho
anh là ai vậy?
- Tôi không thể làm liên lụy đến những người giúp tôi. Tôi đọc
được tin nhắn của ông. Tôi nghĩ đây có thể là một cái bẫy, nhưng
cũng có thể đúng là chiếc nhẫn mà tôi muốn t́m lại. H́nh như bạn
tôi đă khéo léo làm xong nhiệm vụ của ḿnh.
- Đúng thế - Holmes tươi cười đáp.
Viên thanh tra trịnh trọng tuyên bố:
- Thứ năm tuần tới can phạm sẽ được đem ra xét xử. Tất cả các ông
sẽ phải có mặt tại phiên ṭa. Từ nay đến khi ấy, tôi sẽ chịu
trách nhiệm giam giữ can phạm.
Nói xong, ông gọi hai viên cảnh sát đến dẫn Hope đi, c̣n Holmes
và tôi lên xe về nhà.
Chương kết -
Kết thúc
Người ta dặn chúng tôi phải có mặt tại ṭa vào hôm thứ
năm, nhưng ngay đêm hôm bị bắt, động mạch của Hope bị vỡ và sáng
hôm sau, người ta thâư ông nằm dài trên sàn pḥng giam, với một
nụ cười thanh thản trên môi.
Tối hôm ấy, tṛ chuyện với nhau ở nhà, Holmes bảo tôi:
- Gregson và Lestrade sẽ tức tối trước cái chết này. Nó làm cho
họ mất một dịp khoe khoang thành tích của họ.
- Họ có thành tích ǵ trong vụ này đâu?
- Nhưng mà thôi. Không có anh th́ suưt nữa tôi đă bỏ lỡ mất vụ án
lư thú này. Tuy đơn giản nhưng nó có nhiều điểm rất bổ ích.
- Anh nói đơn giản ư?
- Thực ra, cũng khó đánh giá nó khác được
- Holmes mỉm cười trước
vẻ ngạc nhiên của tôi - Bằng chứng về sự đơn giản của nó là,
không cần sự trợ giúp nào, chỉ chờ đến một vài sự suy đoán rất
b́nh thường, trong ba ngày tôi đă tóm cổ được thủ phạm.
- Ừ, mà đúng.
Để giải quyết một vấn đề như vậy, cái quan trọng là lập luận
ngược chiều. Đây là một phép tư duy rất bổ ích và rất dễ, nhưng
ngày nay người ta không thực hành mấy nữa. Trong công việc hàng
ngày, lập luận theo chiều thuận thường là dễ hơn, v́ vậy người
ta quên mất cách lập luật theo chiều ngược.
- Thú thực tôi chưa hiểu.
- Con người ta, khi được nghe tŕnh bày một chuỗi sự việc hầu hết
sẽ tiên đoán kết cục của những sự việc đó. Họ có thể tập hợp
những sự kiện đó trong óc rồi suy ra điều sẽ phải xảy ra. Nhưng
không có mấy người, sau khi nghe nói đến cuối cùng, có khả năng
suy ra những sự việc nào dẫn đến kết cục ấy.
- Tôi đă hiểu.
- Đây là trường hợp người ta nói cho anh biết cái kết cục và tự
anh phải t́m ra tất cả những sự việc đă dẫn đến kết cục ấy. Tôi
xin kể lại với anh các giai đoạn khác nhau trong cách lập luận
của tôị Như anh đă biết, tôi đă đi bộ khi gần đến hiện trường,
đầu óc hoàn toàn không có một dự kiến hay thiên kiến ǵ. Tôi bắt
đầu xem xét đoạn đường dẫn đến ngôi nhà, và ở đó, tôi thấy rơ
những vệt bánh xe, loại xe nhỏ hai chỗ chở thuê, và qua một vài
câu hỏi, tôi biết chắc là xe này đă đậu ở đấy đêm trước. Tôi
biết đây không phai là một chiếc xe nhà mà là xe chở thuê, căn
cứ ở Khoảng cách hẹp giữa hai bánh xẹ Chiếc xe chở thuê thông
thường ở London nhỏ hẹp hơn nhiều so với xe nhà.
Sau đó tôi đă chầm chậm đi theo lối qua vườn mà nền đất là một
loại đất sét, rất dễ nhận vết chân, đối với con mắt nhà nghề của
tôi th́ mỗi dấu vết mang một ư nghĩa. Lấy vết chân là một ngành
trong khoa học h́nh sự rất quan trọng nhưng cũng bị coi nhẹ. Tôi
đă thấy những vết chân nặng nề của các viên cảnh sát, nhưng tôi
cũng thấy những vết chân của hai ngươi đă đi qua khu vườn này
trước đám cảnh sát kia: ở một đôi vết chân của hai người bị
những vết chân cảnh sát đè lên, xóa đi. Qua đó, nó cho tôi biết
đă có hai người lạ mặt đến đây hồi đêm, một người rất cao lớn
-
căn cứ theo chiều dài của bước chân và ngươi kia ăn mặc sang
trọng, căn cứ theo vết giầy nhỏ nhắn, thanh mảnh.
Vào trong nhà, người đi giầy sang trọng nằm đó. Vậy th́, người
cao lớn là kẻ đă gây ra án mạng. Không có thương tích trên người
nạn nhân, nhưng qua những nét kinh hoàng lưu lại trên mặt, tôi
đoán hẳn nạn nhân đă được báo về số phận ḿnh trước khi chết.
Những người chết v́ bệnh tim hoặc v́ một nguyên nhân tự nhiên
nào khác không bao giờ nét mặt lại nhăn nhúm đến vậy. Ngửi môi
nạn nhân, tôi thấy có mú chua chua: tôi kết luận, nạn nhân đă
bị cưỡng bức uống thuốc độc. Chính vẻ căm thù và khiếp sợ biểu
lộ trên mặt đă dẫn tôi đến suy đoán ấy. Tôi đi đến kết luận này
bằng phương pháp loại trừ, v́ không có một giả thiết nào khác có
thể giải thích được tất cả những chi tiết kia. Cưỡng bức nạn
nhân của ḿnh uống thuốc độc hoàn toàn không phải điều mới trong
lịch sử h́nh sự
Tiếp theo đó là câu hỏi lớn: tại sao có vụ ám sát này. Tiền bạc
không phải là động cơ. Vụ này dính đến chính trị hay đến phụ nữ?
Trước hết tôi ngả về giả thiết thứ hai. Những kẻ ám sát chính
trị một khi làm xong nhiệm vụ th́ vội bỏ đi ngay. Ở đây ngược
lại, thủ phạm đă để dấu vết trong khắp gian pḥng, chứng tỏ y đă
lưu lại đây khá lâu. Vậy đây là một vụ thanh toán do hận thù cá
nhân chứ không phải là một vụ án chính trị. Khi phát hiện ra
những chữ viết trên tường, tôi càng tin chắc sự suy đoán của tôi
là đúng; đây quá rơ là một mưu mẹo nhằm đánh lạc hướng. Đến khi
t́m thấy chiếc nhẫn th́ tôi coi việc xác định giả thiết là đă
xong. Rơ ràng thủ phạm đă dùng chiếc nhẫn này để gợi lại với nạn
nhân một người phụ nữ đă chết hoặc vắng mặt. Chính là khi đó tôi
hỏi Gregson xem trong bức điện gửi đi Cleveland, ông ta có hỏi
một chi tiết ǵ đặc biệt về quá khứ của Drebber không. Chắc anh
c̣n nhớ Gregson đă trả lời tôi là không.
Sau đó, tôi xem xét tỉ mỉ gian pḥng. Việc này giúp tôi thấy rơ
tầm vóc loại thuốc lá và móng tay dài của thủ phạm v́ không có
dấu vết vật lộn nào nên tôi kết luận chỗ máu giây ra trên sàn
nhà hẳn là máu mũi của thủ phạm lúc bị quá khích. Tôi thấy những
vết máu này trùng hợp với những vết chân của thủ phạm. Không mấy
ai, trừ phi là người thuộc tạng rất thừa máu, lại chỉ v́ xúc cảm
mà chảy máu mũi. V́ vậy, tôi dám nghĩ rằng thủ phạm chắc là một
người lực lưỡng, mặt đỏ v́ xung huyết. Thực tế đă chứng minh là
tôi đoán đúng.
Ở ngôi nhà đó ra về, tôi đă vội vàng làm cái việc mà Gregson bỏ
qua. Tôi điện cho sở cảnh sát thành phố Cleveland, hỏi về những
t́nh huống xung quanh cuộc hôn nhân của Drebber. Bức điện trả
lời cho biết Drebber đă nhờ cảnh sát thành phố che chở cho ḿnh
khỏi bị một kẻ tên là Hope ám hại. Kẻ này là t́nh địch của
Drebber trong một chuyện yêu đương cũ và hiện nay kẻ này đang có
mặt tại Châu Âu. Đến lúc ấy, tôi biết là đă nắm trong tay tất cả
các đầu mối, chỉ c̣n có việc tóm cổ thủ phạm nữa thôi.
Tôi đă tin chắc rằng người ấy đi cùng với Drebber vào ngôi nhà
và người đánh xe chỉ là một. Vết chân ngựa day đi day lại tren
đường cho thấy không có người giữ cương nó. Vậy th́ người đánh
xe lúc ấy ở đâu nếu không phải là ở trong nhà? Bởi không có ai
dám gây ra một án mạng ngay trước mắt một người thứ ba để về sau
người đó sẽ tố cáo ḿnh. Cuối cùng, giả sử thủ phạm muốn theo
dơi nạn nhân của ḿnh qua các phố ở London th́ liệu y c̣n t́m
được cách nào tốt hơn là đóng vai người đánh xe ngựa không? Tất
cả những khía cạnh ấy buộc tôi phải t́m Hope trong số những
người đánh xe ngựa ở London.
Nếu y làm nghề đánh xe th́ không có lư do ǵ y lại không tiếp
tục nghề ấy. Trái lại, theo cách nh́n của y, mọi sự thay đổi đột
ngột có thể làm cho người ta chú ư đến y. Chắc y cũng tiếp tục
nghề cũ, ít nhất trong một thời gian. Cũng không có lư do ǵ để
giả thiết rằng y sống dưới cái tên giả. Y cần ǵ phải đổi tên ở
một nước không có ai quen biết? Tôi đă nhờ đến mấy chú bé lang
thang, phái chúng đến tất cả các chủ xe London cho đến khi t́m
được người mà tôi t́m. Chúng đă t́m được. Vụ giết Stangerson là
một việc hoàn toàn bất ngờ, nhưng dù sao cũng không thể ngăn
ngừa được. Anh thấy không, tất cả những điều đó là một chuỗi sự
việc logic móc nối nhau liên tục, không một chỗ nào gián đoạn.
- Thật là tuyệt vời! - Tôi kêu lên - Công lao của anh đáng được
mọi người biết đến. Phải đăng một bài báo về vụ này. Nếu anh
không viết th́ tôi sẽ viết thế anh.
- Anh làm ǵ th́ tùy. Nhưng anh hăy xem đâỵ
Holmes đưa cho tôi một tờ báo. Đó là tờ "Tiếng vang" số ra trong
ngày, và bài báo anh chỉ cho tôi chính là một bài báo nói về một
vụ án. Bài báo viết:
"Với cái chết đột ngột của Hope, kẻ bị t́nh nghi là thủ phạm gây
ra hai án mạng: giết Enoch Drebber và Joseph Stangerson, công
chúng đă mất một dịp được biết nhừng t́nh tiết giật gân của một
vụ án bí ẩn. Có lẽ người ta sẽ không bao giờ được biết những
t́nh tiết ấy, tuy rằng theo nguồn đáng tin cậy, chúng ta được
biết rằng hai án mạng này là kết cục của một mối thù oán lâu năm
có dính dáng đến t́nh yêu và giáo phái Mormons. H́nh như thời
trao trẻ hai nạn nhân đă thuộc về giáo phái "Các vị Thánh ngày
cuối" và thủ phạm Hope cũng là người gốc gác ở thành phố Salt
Lake. Tuy vụ này không đi đến kết cục công khai tại toà, song ít
nhất nó cũng nêu bật lên cách làm việc có hiệu quả của ngành
cảnh sát nước ta. Không ai không biết rằng công lao này hoàn
toàn thuộc về hai thanh tra nổi tiếng của Scotland Yard là các
ông Gregson và Lestrade.Thủ phạm h́nh như đă bị bắt giữ tại nhà
một người tên Sherlock Holmes. Bản thân người này
- với tư cách
thám tử nghiệp dư, - cũng đă tỏ ra có đôi chút tài năng. Hy vọng
rằng, được những người như hai thanh tra kể trên d́u dắt, với
thời gian, Sherlock Holmes sẽ học hỏi được nhiều và sẽ tấn tới
hơn nữa.
Chúng tôi tin chắc rằng hai thanh tra Gregson và Lestrade đă
được khen ngợi xứng đáng với những thành tích xuất sắc của họ ".
Sherlock Holmes cười lớn:
- Th́ tôi đă bảo ngay từ đầu rồi mà.
HẾT
|