tập hai năm ở đó, làm việc bán
thời gian ở Bảo tàng nghệ thuật hiện đại Moma. Chính ở đây anh
đă gặp Paul, người hợp doanh tương lai của anh, người mà hai năm
sau đă cùng anh lập một xưởng kiến trúc. Theo đà phát triển kinh
tế của vùng, công ty cũng dần dần gây được thanh danh, thuê gần
hai mươi người làm việc. Paul phụ trách các “phi vụ”, Arthur vẽ
đồ gỗ, nhà cửa, đồ vật. Mỗi người một lĩnh vực và chưa bao giờ
có một chút gợn giữa hai người bạn mà không ai và không điều ǵ
có thể đẩy rời xa nhau nhiều hơn vài tiếng đồng hồ.
Nhiều điểm chung làm họ gắn bó với nhau. Quan niệm chung về t́nh
bạn, về cách sống và một tuổi thơ đầy những cảm xúc có thể so
sánh với nhau. Những thiếu thốn giống hệt nhau. Cũng như Paul,
Arthur được mẹ nuôi dạy. Nếu như cha Paul đă bỏ rơi gia đ́nh khi
anh 5 tuổi và không bao giờ xuất hiện lại, th́ Arthur được ba
tuổi khi cha anh lên đường sang Châu Âu. “Máy bay của bố bay lên
trời cao đến nỗi nó đă ở lại trên đó, gắn vào những v́ sao” Cả
hai đều lớn lên ở nông thôn. Cả hai đều đă nếm mùi trường nội
trú. Họ đă tự ḿnh nên người. Lilian đă chờ đợi lâu, sau đó đă
để tang, ít ra bề ngoài là như vậy. Mười năm đầu tiên của đời
ḿnh, Arthur sống ở ngoại thành, bên bờ biển gần làng Carmel
xinh đẹp, nơi mà Lili, Arthur gọi mẹ như thế, có một ngôi nhà
to. Làm toàn bằng gỗ trắng, ngôi nhà ch́a ra biển, trên phần đất
cao của khu vườn kéo dài ra đến tận băi tắm. Antoine, một người
bạn cũ của Lili, sống ở căn nhà phụ trong địa phận này. Người
nghệ sĩ không thành đạt đó đă được Lili đón tiếp, những người
hàng xóm th́ nói là “nhặt” về. Ông thực hiện cùngvới bà công
việc chăm sóc bảo dưỡng khu vườn, hàng rào, và những mặt ngoài
bằng gỗ của ngôi nhà mà hầu như năm nào cũng được sơn lại, và cả
những cuộc nói chuyện dài tối tối. Là bạn, là người hùa theo,
đối với Arthur ông là sự hiện diện nam tính mà vài năm trước đă
biến mất khọi cuộc đời cậu bé. Arthur đi học những năm đầu tiên
ở Monterey. Buổi sáng Antoine đưa anh đến trường, buổi chiều
khoảng 4 giờ mẹ anh đến đón về. Đó là những năm quư giá trong
cuộc đời anh. Mẹ anh cũng là bạn thân nhất của anh. Lili đă dạy
anh tất cả những điều mà một trái tim có thể yêu. Đôi khi bà
đánh thức anh dậy vào lúc sáng sớm chỉ để dạy anh ngắm nh́n mặt
trời mọc, lắng nghe những âm thanh lúc một ngày mới bắt đầu. Bà
chỉ cho anh biết các loại tinh dầu hoa. Từ h́nh vẽ một chiếc lá,
bà dạy anh biết cách nhận ra cả cái cây mang chiếc lá này. Trong
khu vườn rộng bao quanh ngôi nhà ở Carmel và kéo dài ra đến tận
biển, bà bắt anh đi khám phá từng chi tiết của một thiên nhiên
mà có những chỗ th́ bà đă “khai hoá”, có những chỗ bà lại cố ư
để hoang. Vào hai mùa được đánh dấu bằng màu xanh lá cây và màu
hổ phách, bà bảo anh đọc thuộc tên những con chim bay đến nghỉ
trên đỉnh những cây cù tùng trong cuộc hành tŕnh dài của chúng.
Trong vườn rau mà Antoine chăm chút một cách thành kính, bà bảo
Arthur hái những cây rau mọc lên như do có phép màu “chỉ hái
những cây đă kịp lớn thôi”. Bên bờ biển, bà bảo anh đếm những
con sóng thỉnh thoảng lại đến vuốt ve những mỏm đá, như để cố
xin tha thứ cho sự dữ dội của chúng vào những mùa khác, “để nắm
bắt được hơi thở của biển, áp lực của nó, tâm trạng của nó”.
“Biển đưa mắt ta, đất đưa chân ta”, bà nói. Dựa vào mức độ của
sự phối hợp giữa mây và gió, bà chỉ cho anh cách đoán thời tiết
sắp đến, và hiếm khi bà nhầm. Arthur biết rơ từng khoảnh đất
vườn nhà, anh có thể nhắm mắt lại mà đi trong đó, thậm chí đi
giật lùi cũng được. Không có một góc nào đối với anh là xa lạ.
Mỗi một cái hốc đều có một tên, và con vật nào muốn chọn đây làm
nơi yên nghỉ măi măi th́ cũng đều có mộ phần. Nhưng hơn tất cả,
bà đă dạy anh biết yêu và biết tỉa hoa hồng. Vườn hoa hồng là
một nơi giống như dấu ấn của phép màu. Hàng trăm mùi hương quyện
lẫn vào nhau ở đó. Lili dẫn anh đến đây để kể cho anh nghe những
câu chuyện trong đó lũ trẻ con th́ mơ thành người lớn c̣n người
lớn th́ ước được trở lại tuổi thơ. Trong tất cả các loại hoa,
đây là loài hoa mà anh yêu nhất.
Một buổi sáng đầu hè, mẹ bước vào pḥng Arthur lúc trời mới
rạng, ngồi xuống giường cạnh đầu cậu bé và vuốt ve những búp tóc
xoăn của cậu.
- Dậy đi, Arthur của mẹ, dậy đi con, mẹ dẫn con đi.
Cậu bé túm lấy những ngón tay của mẹ, xiết chặt trong bàn tay
nhỏ của cậu và quay người lại, áp má vào ḷng bàn tay mẹ. Gương
mặt cậu sáng lên một nụ cười biểu lộ rơ t́nh cảm tŕu mến.
Bàn tay Lili có một mùi hương không bao giờ phai nhạt trong kư
ức khứu giác của Arthur. Đó là sự kết hợp của nhiều loại tinh
dầu hoa mà bà tự pha trộn khi ngồi bên bàn trang điểm của ḿnh,
và sáng nào bà cũng xoa lên cổ.
Đây là một trong những kỷ niệm gắn với kư ức về hương thơm.
- Nào đi thôi, con yêu của mẹ, chúng ta sẽ phải cahỵ đau với mặt
trời. Xuống bếp t́m mẹ trong ṿng năm phút nữa nhé.
Đứa trẻ mặc vào người một chiếc quần vải bông cũ, khoác một
chiếc áo chui cổ rộng lên vai, vừa vươn vai vừa ngáp. Cậu mặc
quần áo trong yên lặng, mẹ cậu đă dạy cậu biết kính trọng sự
tĩnh mịch lúc b́nh minh, cậu đi đôi ủng cao su v́ biết rơ hai mẹ
con sẽ đi đâu sau khi ăn sáng. Khi đă sẵn sàng, cậu vào gian bếp
rộng.
- Đừng làm ồn, Antoine hăy c̣n ngủ.
Mẹ đă dạy cậu biết thích cà phê, vị của nó và đặc biệt là mùi
thơm của nó.
- Con dễ chịu chứ, Arthur của mẹ ?
- Vâng.
- Vậy th́ con hăy mở to mắt và nh́n xung quanh con. Không nên để
những kỷ niệm đẹp tàn phai đi. Con hăy thấu suốt những sắc màu
và chất liệu. Đó sẽ là ngọn nguồn của thị hiếu của con và của
những nỗi nhớ nhung khi nào con đă nên người.
- Nhưng con vẫn là người đấy chứ !
- Mẹ muốn nói là khi con thành người lớn.
- Trẻ con chúng con th́ khác lắm hay sao ?
- Ừ ! Người lớn cũng có những nỗi lo âu mà trẻ con không biết
đến, con muốn gọi đó là nỗi sợ cũng được.
- Mẹ sợ cái ǵ ?
Mẹ giải thích cho cậu là người lớn sợ đủ thứ, sợ già, sợ chết,
sợ cai 1mà họ khôgn trải qua, sợ bệnh tật, đôi khi sợ cả cái
nh́n của trẻ con, sợ bị phán xét.
- Con có biết tại sao mẹ con ḿnh lại tâm đầu ư hợp đến thế
không ? tại v́ mẹ không nói dối con, tại v́ mẹ nói với con như
với một người lớn, tại v́ mẹ không sợ. mẹ tin tưởng con. Những
người lớn sợ là v́ họ không biết tính đến những t́nh huống. Đó
chính là điều mà mẹ đang dạy con. Chúng ta đang tận hưởng một
khoảnh khắc dễ chịu được tạo nên bằng một loạt các chi tiết đa
dạng: hai mẹ con ta, cái bàn này, cuộc tṛ chuyện của chúng ta,
đôi tay mẹ mà con đang nh́n từ năy đến giờ, mùi thơm trong căn
pḥng này, cái khung cảnh thân thuộc đối với con này, sự tĩnh
lặng của ngày đang thức dậy.
Mẹ đứng lên, cầm bát đem đặt vào chiếc bồn rửa tráng men. Sau đó
bà lấy một miếng bọt biển lau bàn, vun những vụn bánh ḿ vào
ḷng bàn tay mà bà đang giơ ra hứng. Gần cửa ra vào có một chiếc
giỏ bằng rơm bện, bên trong đầy dây câu. Trong một mảnh vải cuộn
tṛn đặt phía trên có bánh ḿ, phó mát và xúc xích. Lili đeo giỏ
vào cánh tay và đưa tay dắt Arthur.
- Đi thôi, con yêu của mẹ, khéo chúng ḿnh muộn mất.
Cả hai đi xuống theo con đường dẫn đến bến cảng nhỏ.
- Con nh́n những chiếc thuyền nhỏ đủ các màu sắc kia xem, trông
như một bó hoa trên biển ấy.
Như thường lệ, Arthur bước xuống nước, tháo cái thuyền con ra
khỏi móc và kéo thuyền vào bờ. Lili đặt cái giỏ vào đó và bước
lên thuyền.
- Nào chèo đi, con yêu của mẹ.
Chiếc thuyền nhỏ dần dần rời xa bờ theo nhịp chèo của cậu bé.
Khi bờ biển vẫn c̣n hiện rơ, cậu cất những mái chèo vào trong
thuyền. Lili lấy những dây câu ra khỏi giỏ và đă móc mồi vào
lưỡi câu. Như thường lệ, mẹ chỉ chuẩn bị cho cậu những dây câu
đầu tiên, những dây câu tiếp theo cậu phải tự móc lấy con giun
bé đỏ hỏn cứ vặn vẹo trong những ngón tay cậu làm cho cậu rất
kinh tởm. Cuộn dây câu được đặt kẹp giữa hai chân cậu ngay trên
sàn thuyền, cậu cuốn sợi dây ni lông vào ngón tay trỏ và ném dây
xuống nước, ḥn ch́ nặng nhấn ch́m sợi dây và kéo mạnh con mồi
xuống đáy. nếu chọn được chỗ tốt, chẳng mấy chốc cậu sẽ kéo lên
được một con cá.
Hai mẹ con ngồi đối diện, yên lặng đă vài phút, mẹ nh́n cậu một
cách căng thẳng và hỏi cậu bằng một giọng khác thường: “Arthur,
con biết là mẹ không biết bơi, nếu mẹ ngă xuống nước th́ con sẽ
làm ǵ ?” “Con sẽ nhảy xuống t́m mẹ”, đứa trẻ trả lời. Lili lập
tức tỏ ra bực bội: “Sao con nói ngu ngốc thế !” Arthur sững
người v́ câu trả lời gay gắt.
- Phải cố chèo thuyền về đến đất liền, đó là điều mà con phải
làm !
Lili kêu lên.
- Cuộc sống của con mới là cái quan trọng, đừng bao giờ quên
điều đó, đừng bao giờ phạm sai lầm liều với món quà tặng duy
nhất này cả, con hăy thề đi!
- Con thề với mẹ - cậu bé trả lời sợ sệt.
- Con thấy đấy,- bà nói, vẻ dịu lại – con sẽ phải để cho mẹ ch́m
thôi.
Khi ấy, cậu bé Arthur bật khóc. Lili lấy ngón tay trỏ gạt những
giọt nước mắt của con trai.
- Đôi khi chúng ta bất lực trước những mong muốn, những ước vọng
hay những khao khát bất chợt của ḿnh, và điều đó gây ra sự day
dứt nhiều lúc không chịu nổi. T́nh cảm này sẽ đi theo suốt đời
con, đôi khi con quên nó đi, đôi khi nó lại hiện ra như một sự
ám ảnh. Một phần nghệ thuật sống phụ thuộc vào khả năng của
chúng ta khắc phục sự bất lực của bản thân. Đó là một việc khó,
bởi v́ sự bất lực sinh ra nỗi sợ. Nó làm tiêu tan phản ứng của
chúng ta, trí tuệ của chúng ta, lương tri của chúng ta, nó mở
đường cho sự nhu nhược. Rồi con sẽ biết đến những nỗi sợ. Hăy
đấu tranh chống lại chúng, nhưng đừng thay thế chúng bằng sự do
dự quá lâu. Hăy suy nghĩ, quyết định và hành động ! Đừng có hoài
nghi, khi người ta không có khả năng đảm nhận sự lựa chọn của
chính ḿnh, người ta thường sinh ra ít nhiều chán đời. Mỗi câu
hỏi có thể trở thành một tṛ chơi, mỗi quyết định đưa ra có thể
dạy con tự biết ḿnh, tự hiểu ḿnh.
Hăy khấy động thế giới, thế giới của con ! Hăy nh́n cái khung
cảnh đang bày ra trước mắt con đây, con xem bờ biển được chạm
trổ tinh vi biết bao, tưởng như đó là một mảnh đăng ten, con
thấy mặt trời đang rọi xuống đó hàng ngh́n tia sáng khác nhau.
Mỗi cây rung rinh một kiểu khi được gió vuốt ve. Nhưng điều đẹp
nhất mà trái đất cho chúng ta, điều làm chúng ta trở thành con
người, đó là hạnh phúc được chia sẻ. Người không biết chia sẻ là
người tàn phế trong những cảm xúc của ḿnh. Con thấy đấy,
Arthur, cái buổi sáng mà chúng ta ở bên nhau thế này rồi sẽ khắc
sâu vào kư ức của con. Sau này, khi mẹ không c̣n nữa, con sẽ nhớ
lại, và kỷ niệm này sẽ có đôi chút dư vị ngọt ngào, bởi v́ mẹ
con ḿnh đă cùng nhau chia sẻ khoảnh khắc ấy. Nếu mẹ ngă xuống
nước, con sẽ không nhảy xuống để cứu mẹ, làm như vậy là dại dột.
Điều mà con sẽ làm, đó là đưa tay ra để giúp mẹ trèo lại lên
thuyền, và nếu như con thất bại và mẹ bị chết đuối, con vẫn có
lương tâm thanh thản. Con đă quyết định đúng là không liều mạng
chết vô ích, nhưng con đă t́m đủ cách để cứu mẹ.
Trong khi cậu bé chèo thuyền vào bờ, người mẹ lấy tay ôm đầu cậu
và dịu dàng hôn lên trán cậu.
- Mẹ làm con buồn phải không ?
- Vâng, mẹ sẽ không bao giờ chết đuối nếu có con ở đó. Và dù sao
con vẫn sẽ lặn xuống nước, con đủ khoẻ để đưa mẹ lên.
Lili tắt nghỉ cũng thanh nhă như khi bà sống. Buổi sáng hôm bà
mất, cậu bé lại bên giường mẹ:
- Tại sao?
Người đàn ông đứng bên giường không nói ǵ, ông ngước mắt lên
nh́n đứa trẻ.
- Mẹ con cháu thân nhau đến thế, tại sao mẹ lại không từ biệt
cháu ? Cháu th́ cháu sẽ chẳng bao giờ làm như vậy đâu. Bác là
người lớn, bác có biết tại sao không ? Bác nói cho cháu đi, cháu
cần phải biết, tất cả mọi người đều luôn luôn nói dối trẻ con,
người lớn cứ tưởng rằng trẻ con ngờ nghệch lắm! C̣n bác, nếu bác
là người dũng cảm, hăy nói cho cháu sự thật, tại sao mẹ lại ra
đi như vậy trong khi cháu ngủ ?
Đôi khi cái nh́n của trẻ thơ kéo ta đi sâu vào những kỉ niệm của
ta đến nỗi không thể không trả lời cho một câu hỏi đặt ra.
Antoine đặt tay lên vai cậu bé.
- Mẹ cháu không thể làm khác được, người ta không mời cái chết,
nó tự đến. mẹ cháu thức dậy lúc nửa đêm, cơn đau rất dữ dội, mẹ
cháu đă đợi mặt trời mọc, nhưng mặc dù rất muốn tỉnh táo, mẹ
cháu vẫn từ từ thiếp đi.
- Vậy th́ đó là lỗi của cháu, tại cháu ngủ.
- Không, tất nhiên là không phải vậy, cháu không nên nh́n sự
việc như thế, cháu muốn biết lư do thực sự của việc mẹ cháu ra
đi mà không từ biệt à ?
- Vâng
- Mẹ cháu là một phụ nữ quư phái, tất cả những người phụ nữ quư
phái đều biết ra đi có phẩm cách, để lại những người ḿnh yêu
cho chính họ.
Nh́n thấu vào cặp mắt xúc động của người đàn ông, cậu bé ngờ vực
một mối đồng cảm mà cho đến lúc bấy giờ cậu mới chỉ phỏng đoán.
Cậu theo dơi ḍng nước mắt chảy dài trên má ông, luồn vào bộ râu
lởm chởm. Người đàn ông lấy mu bàn tay quệt ngang mi mắt.
- Cháu thấy bác khóc đấy - ông nói - cháu cũng nên làm như vậy,
nước mắt làm cho nỗi buồn vợi bớt.
- Cháu sẽ khóc sau, nỗi buồn này c̣n gắn cháu với mẹ cháu, cháu
c̣n muốn giữ nó lại. Mẹ là cả cuộc đời cháu.
- Không, cháu ơi, đời cháu là ở phía trước, không phải trong
những kỉ niệm của cháu, đó chính là những điều mẹ cháu đă dạy
cháu, hăy tôn trọng điều đó, Arthur, đừng bao giờ quên điều mà
mới hôm qua mẹ c̣n nói với cháu: “Tất cả những ước mơ đều có
giá của nó”. Với cái chết của mẹ cháu, cháu trả giá cho những
ước mơ mà mẹ cháu đă cho cháu.
- Những ước mơ đó giá đắt quá, bác Antoine ơi, bác hăy để cháu
một ḿnh.
- Nhưng cháu đang một ḿnh với mẹ cháu đó thôi. Cháu hăy nhắm
mắt lại và quên đi sự có mặt của bác, sức mạnh của cảm xúc là ở
đó. Cháu đang một ḿnh với chính cháu, và từ nay sẽ bắt đầu một
con đường dài.
- Mẹ cháu đẹp, có đúng không ? Trước cháu tưởng cái chết sẽ làm
cháu sợ, nhưng bây giờ cháu thấy mẹ đẹp lắm.
Cậu cầm tay mẹ, những đường gân xanh nổi trên làn da thật mềm
mại và trắng trẻo của bà dường như mô tả đường đời bà, dài, náo
động, lắm sắc màu. Cậu kéo bàn tay mẹ lại gần khuôn mặt cậu và
chậm răi giụi má ḿnh vào đó trước khi đặt một cái hôn vào ḷng
bàn tay mẹ.
Có cái hôn đàn ông nào có thể đọ được với ngần ấy t́nh yêu ?
- Con yêu mẹ,- cậu nói - con đă yêu mẹ với t́nh yêu của một đứa
trẻ, giờ đây mẹ sẽ ở trong trái tim người lớn của con, cho đến
tận ngày cuối cùng
- Arthur! – Antoine nói.
- Dạ.
- Có bức thư này mẹ cháu đă gửi lại cho cháu, bây giờ bác để
cháu ở đây.
C̣n lại một ḿnh, Arthur ngửi phong b́ và hít mùi hương thấm
đượm trong đó, rồi cậu bóc thư.
Arthur của mẹ,
Khi con đọc bức thư này, mẹ biết rằng phần nào đó trong thâm tâm
con, con sẽ rất giận mẹ v́ đă chơi khăm con một vố. Arthur của
mẹ, đây là bức thư cuối cùng của mẹ và cũng là di chúc t́nh yêu
của mẹ.
Linh hồn mẹ bay đi, nó được nâng đỡ bằng tất cả những hạnh phúc
mà con đă cho mẹ. Cuộc đời thật tuyệt diệu, Arthur, chỉ khi nó
lặng lẽ bỏ đi người ta mới nhận ra điều đó, nhưng ngày nào cuộc
đời cũng đều được hưởng thụ tuỳ theo ḷng vui sống của ta.
Có những thời điểm, nó làm ta nghi ngờ tất cả, đừng bao giờ chịu
khất phục, con yêu của mẹ. Từ ngày con ra đời, mẹ đă thấy trong
mắt con một nguồn ánh sáng làm con thành một chú bé khác xa
những đứa trẻ khác. Mẹ đă thấy con ngă và mím môi đứng dậy khi
mà những đứa bé khác đều có thể khóc. Ḷng dũng cảm này là sức
mạnh của con nhưng cũng là chỗ yếu của con. Hăy coi chừng điều
đó, những cảm xúc cần phải được chia sẻ, sức mạnh và ḷng dũng
cảm giống như hai cây gậy có thể quay ra chống lại người nào sử
dụng chúng tồi. Người lớn cũng cần được khóc, Arthur ạ, người
lớn cũng có những nỗi buồn.
Kể từ nay, mẹ không c̣n ở đây nữa, để trả lời những câu hỏi trẻ
thơ của con, đó là v́ đă đến lúc để con trở thành người lớn.
Trong cuộc du hành đang chờ đợi con này, đừng bao giờ để mất tâm
hồn trẻ thơ của con, đừng bao giờ quên những ước mơ của con, đó
sẽ là động cơ của đời con, đó là những hương vị sẽ làm nên ban
mai của con. Rồi con sẽ biết đến một thứ t́nh yêu khác so với
t́nh yêu mà con dành cho mẹ, khi ngày ấy đến, hăy chia sẻ nó với
người con gái sẽ yêu con ; những ước mơ chung của cả hai người
sẽ làm nên những kỷ niệm đẹp nhất. Sự cô đơn là một khu vườn ở
đó tâm hồn khô héo đi, những bông hoa mọc lên nơi ấy sẽ không có
hương thơm.
T́nh yêu có một hương vị tuyệt vời, con hăy nhớ là cần phải biết
cho để được nhận ; con hăy nhớ rằng cần phải là chính ḿnh để có
thể yêu. Con của mẹ, hăy nghe theo bản năng con, hăy trung thành
với lương tâm và t́nh cảm của con, hăy sống cuộc đời ḿnh, con
chỉ có một cuộc đời mà thôi. Kể từ nay con sẽ phải chịu trách
nhiệm về chính con và về những người mà con sẽ yêu. hăy sống có
phẩm cách, hăy yêu, đừng để mất đi cái nh́n đă từng làm mẹ con
ḿnh gần gũi nhau đến thế khi chúng ta cùng nhau tận hưởng buổi
b́nh minh. Con hăy nhớ đến những buổi mẹ con ḿnh cùng nhau tỉa
hoa hồng , ngắm trăng, t́m hiểu hương thơm các loại hoa, lắng
nghe những tiếng động quanh nhà để hiểu nó. Đó là những điều
thật giản đơn, đôi khi không hợp mốt, nhưng đừng để cho những kẻ
cau có chán chường làm hỏng mất đi những khoảnh khắc màu nhiệm
này đối với những người biết thưởng thức. Những khoảnh khắc ấy
có một cái tên, Arthur ạ, đó là “đam mê cái đẹp”, và hoàn toàn
chỉ phụ thuộc vào con thôi mà đời con có được đam mê cái đẹp hay
không. Đó là điều thú vị nhất của cuộc hành tŕnh dài đang đợi
con.
Chú bé của mẹ, mẹ tạm biệt con nhé, con hăy bám chắc vào mảnh
đất đẹp đến nhường này. Mẹ yêu con, con đă là lẽ sống của mẹ, mẹ
cũng biết con yêu mẹ đến thế nào, mẹ ra đi trong ḷng thanh
thản, mẹ tự hào về con.
Mẹ của con.
Cậu bé gập bức thư lại và đặt vào trong túi. Cậu hôn lên vầng
trán giá lạnh của mẹ ḿnh. Cậu đi dọc theo giá sách, lấy ngón
tay vuốt lên những b́a sách. “Một nguời mẹ chết là một tủ sách
bị cháy”, mẹ cậu đă từng nói. Cậu đi ra khỏi căn pḥng, bước đi
dứt khoát, như mẹ đă dạy cậu:
“Khi đă ra đi không bao giờ nên
quay trở lại”
Arthur ra vườn, sương sớm rớt xuống mát dịu, cậu bé đi đến bên
những cây hoa hồng và quỳ xuống.
- Mẹ đă đi hẳn rồi, mẹ sẽ chẳng c̣n đến tỉa cành cho các bạn
nữa, giá mà các bạn biết,- cậu nói – giá mà các bạn hiểu được,
tôi có cảm giác là hai cánh tay tôi trở nên nặng quá chừng.
Làn gió làm cho những bông hoa rung rinh cánh như trả lời; khi
ấy và chỉ đến khi ấy, cậu bé mới để cho nước mắt ḿnh tuôn trào
ra trong vườn hoa hồng. Từ phía nhà, đứng dưới cổng, Antoine
nh́n cảnh đó.
- Ôi, Lili, em ra đi quá sớm đối với nó,- ông th́ thầm- vô cùng
quá sớm. Từ nay Arthur thành đơn độc, có ai ngoài em biết cách
đi vào thế giới của nó đâu ? Nếu em có một chút quyền lực nào từ
nơi mà hiện em đang ở, hăy mở cho nó cánh cửa vào thế giới của
chúng ta.
Ở cuối vườn, một con quạ ra sức kêu quang quác.
- Ồ không, lili, không nên thế, - Antoine nói – anh không phải là
bố của Arthur.
Đó là ngày dài nhất mà Arthur từng biết; đến khuya, ngồi dưới
cổng nhà, cậu vẫn c̣n tôn trọng sự yên lặng của khoảnh khắc nặng
nề này.
Antoine ngồi bên cậu bé, nhưng không người nào nói cả. Mỗi người
đều lắng nghe những âm thanh của đêm, ch́m đắm vào kư ức của
những bức tường này. Dần dần trong đầu cậu bé, những nốt nhạc
của một giai điệu cho đến giờ không được biết đến bắt đầu nhảy
múa, nốt móc làm tan đi các từ, nốt trắng – các trạng từ, nốt
đen – các động từ, và dấu lặng - tất cả các câu đă trở nên vô
nghĩa.
- Bác Antoine !
- Ừ, Arthur.
- Mẹ cháu đă cho cháu điệu nhạc của mẹ.
Rồi cậu bé ngủ thiếp đi trong ṿng tay của Antoine.
Antoine cứ ngồi như vậy, bất động, ôm Arthur trong tay, trong
nhiều phút dài, v́ sợ làm cậu thức giấc. Khi ông tin chắc là cậu
bé đă ngủ say, ông bế cậu lên và trở vào nhà. Lili mới ra đi mới
có mấy tiếng đồng hồ, mà không khí đă đổi khác. Một âm vang khó
tả, một vài mùi hương, một vài màu sắc dường như đang nhoà dần
để rồi biến hẳn.
“Phải khắc sâu vào trí nhớ, lưu giữ những khoảnh khắc này”,
Antoine lẩm bẩm khi đi lên cầu thang. Vào đến pḥng của Arthur,
ông đặt cậu bé xuống giường cậu và lấy một cái chăn đắp lên cậu,
cứ để cậu mặc nguyên quần áo. Antoine xoa đầu cậu bé, và rón rén
đi ra...
Trước khi ra đi, Lili đă dự pḥng tất cả. Vài tuần sau khi bà
mất, Antoine đóng cửa ngôi nhà to và chỉ để mở hai pḥng tầng
dưới nơi ông dọn đến sống quăng đời c̣n lại của ḿnh. Ông chở
Arthur ra ga, đến cánh cửa của con tàu sẽ đưa cậu đến trường nội
trú của cậu. Arthur lớn lên một ḿnh ở đó. Trường nội trú là một
nơi dễ chịu, những giáo viên đáng kính, đôi khi đáng yêu. Lili
chắc chắn đă chọn nơi tốt nhất cho cậu. Bề ngoài không một cái
ǵ trong khung cảnh này là buồn tẻ cả. Nhưng Arthur bước vào đó
mang theo những kỷ niệm mà mẹ cậu để lại và nó choán đầy đầu óc
cậu cho đến từng ngóc ngách nhỏ nhất. Cậu đă học được cách b́nh
thản trước mọi điều. Từ những giáo lư của Lili, cậu tạo ra những
thái độ, những cử chỉ, những lư lẽ theo một logic luôn luôn chặt
chẽ. Arthur là một đứa trẻ thanh thản, cậu thiếu niên tiếp theo
vừa giữ nguyên tính cách ấy vừa phát triển một óc quan sát đặc
biêt. Chàng thanh niên mà cậu trở thành dường như không bao giờ
biểu lộ tâm trạng của ḿnh. Cậu là một học tṛ b́nh thường,
chẳng phải xuất chúng cũng không kém cỏi, điểm số của cậu bao
giờ cũng ở quăng trên trung b́nh một chút trừ môn lịch sử là cậu
học xuất sắc, và cậu lặng lẽ vượt qua từng năm học một cho đến
tận kỳ thi tú tài mà cậu đạt được mảnh bằng nhưng không được xếp
hạng cao. Khi những năm học này kết thúc, cậu được bà hiệu
trưởng của trường mời lên gặp, một buổi tối tháng sáu. Bà giải
thích cho cậu rằng mẹ cậu, khi biết là ḿnh mắc phải căn bệnh mà
sẽ chỉ có được một ít thời gian tạm nghỉ trước khi ra đi vĩnh
viễn, đă đến gặp bà hiệu trưởng hai năm trước lúc qua đời. Mẹ
cậu đă dành hàng giờ để giải quyết những chi tiết liên quan đến
việc học tập của cậu. Tiền học cho Arthur được trả trước cho đến
tận khi cậu đă quá tuổi thành niên. Trước khi ra đi , mẹ cậu đă
gửi gắm cho bà Senard, bà hiệu trưởng, nhiều thứ. Những chiếc
ch́a khoá, của ngôi nhà ở Carmel, nơi cậu đă lớn lên, và của một
căn hộ nhỏ trong thành phố. Căn hộ đă được cho thuê cho đến tận
tháng vừa rồi, nhưng đă được trả vào ngày cậu đến tuổi thành
niên, đúng như chỉ dẫn. Tiền cho thuê nhà được gửi vào một tài
khoản mang tên cậu, cùng với số tiền tiết kiệm mà mẹ cậu đă để
lại cho cậu. Một khoản kha khá cho phép cậu học tiếp đại học và
thậm chí hơn thế nữa.
Arthur cầm lấy chùm ch́a khoá mà bà Senard đặt trên bàn. Cái móc
ch́a khoá là một quả cầu bằng bạc có một đường khe ở giữa, và
được gắn một cái móc bấm tí xíu. Arthur bẩy cái van nhỏ, và quả
cầu tách ra, để lộ hai bức ảnh nhỏ ở hai bên. Một bức ảnh là cậu
khi bảy tuổi, bức kia là ảnh của Lili. Arthur khép cái móc ch́a
khoá lại một cách thận trọng.
- Em định học ngành ǵ ở đại học ? – bà giáo hỏi.
- Kiến trúc, em muốn trở thành kiến trúc sư.
- Em không đi Carmel, về lại ngôi nhà ấy à ?
- Không ạ, em chưa đi, cũng c̣n phải lâu nữa.
- Tại sao ?
- Mẹ em biết tại sao, đó là một bí mật.
Bà hiệu trưởng đứng dậy và mời cậu đứng lên theo. Khi họ đến gần
cánh cửa pḥng làm việc của bà, bà ṿng tay ôm Arthur và xiết
chặt. Bà nhét một chiếc phong b́ vào bàn tay Arthur rồi gập
những ngón tay cậu lại.
- Của mẹ em đấy, - bà nói nhỏ vào tai cậu – đó là cho em, mẹ em
yêu cầu cô trao thư này cho em vào đúng thời điểm này.
Bà giáo vừa mở hai cánh cửa pḥng th́ Arthur bước ra luôn, mất
hút trong hành lang, không quay đầu lại, một tay nắm chặt những
chiếc ch́a khoá dài và nặng, tay kia cầm bức thư. Cậu rẽ sang
chiếc cầu thang to, bà giáo bèn khép lại hai cánh cửa pḥng làm
việc của bà.
Chương 11
Xe ôtô chạy nốt những phút
cuối cùng của cái đêm dài ấy, đèn pha rọi sáng những vệt màu da
cam và trắng xen kẽ nhau giữa từng chỗ ngoặt lượn theo vết lơm
cảu vách đá và từng đoạn đường thẳng chạy dọc một đầm lầy hay
một băi biển vắng tanh. Lauren thiu thiu ngủ, Paul lặng lẽ lái
xe, tập trung vào đường và ch́m trong những suy nghĩ của ḿnh.
Arthur lợi dụng khoảnh khắc yên tĩnh này để kín đáo lấy từ túi
ra bức thư mà anh đă nhét vào đó khi lấy chùm ch́a khoá dài và
to trong tủ tài liệu ở nhà anh.
Khi anh bóc thư, một mùi hương đầy kỉ niệm toả ra, đó là hỗn hợp
của hai thứ tinh dầu mà mẹ anh pha trộn trong chiếc b́nh con
bằng pha lê màu vàng có nút bằng bạc mờ. Hương thơm thoát từ
phong b́ đem theo ra cả những kỉ niệm về mẹ anh. Arthur rút thư
từ phong b́ và mở nó ra một cách cẩn thận.
Arthur của mẹ,
Nếu con đọc những ḍng này có nghĩa là cuối cùng con đă quyết
định lên đường về Carmel. Mẹ rất ṭ ṃ muốn biết bây giờ con bao
nhiêu tuổi. Con có trong tay những chiếc ch́a khoá của ngôi nhà
mà ở đó mẹ con ḿnh đă sống cùng nhau những năm thật đẹp. Mẹ
biết rằng con không trở về đây ngay lập tức, rằng con sẽ đợi đến
lúc cảm thấy ḿnh sẵn sàng đánh thức ngôi nhà này dậy.
Arthur của mẹ, con sắp bước qua cánh cửa mà tiếng động của nó
đối với mẹ thân thuộc biết bao. Con sẽ đi khắp từng gian pḥng
chứa đầy những niềm tiếc nhớ. Con sẽ lần lượt mở từng cánh cửa
chớp để cho ùa vào những tia nắng mặt trời mà mẹ sẽ thiếu biết
chừng nào. Con hăy trở ra vườn hoa hồng, hăy nhẹ nhàng đến bên
những đoá hoa. Trong suốt thời gian này, hẳn là chúng đă biến
thành hoa dại.
Con cũng sẽ đi xuống pḥng làm việc của mẹ, con sẽ ngồi vào đó.
Trong tủ con sẽ t́m thấy một chiếc vali nhỏ màu đen, hăy mở nó
ra nếu con muốn, nếu con đủ sức. Nó chứa những cuốn vở đầy những
trang mà mẹ đă viết cho con mỗi ngày cảu tuổi thơ con. Cuộc đời
con ở phía trước con; con là người chủ duy nhất của nó. Hăy xứng
đáng với “tất cả những ǵ mà ta đă yêu”.
Mẹ yêu con từ trên cao này, mẹ chăm chú dơi theo con.
Mẹ Lili của con.
Khi họ đến vịnh Monterey, b́nh minh bắt đầu nhú lên. Bầu trời
choàng một mảnh lụa màu hồng nhạt, kết những dải ruy băng dài
lượn sóng, thỉnh thoảng như lại chạm vào mặt biển ở phía chân
trời.Arthur chỉ đường. Nhiều năm đă trôi qua, anh chưa bao giờ
đi con đường này mà ngồi ở hàng ghế trước của ôtô cả, thế nhưng
mỗi cây số đều có vẻ thân thuộc với anh, mỗi hàng rào , mỗi cái
cổng đi qua đều hướng anh về với kư ức tuổi thơ. Anh lấy tay ra
hiệu khi phải rời đường cái. Sau chỗ ngoặt sắp tới có thể thấy
thấp thoáng khu nhà. Paul đi theo những chỉ dẫn của anh; một
đoạn đường đất bị xói ṃn bởi những cơn mưa mùa đông và được làm
khô lại bởi cái nóng mùa hè. Đến một chỗ ngoặt uốn cong, cánh
cửa sắt màu xanh lá cây hiện ra trước mặt họ.
- Chúng ta đă đến nơi – Arthur nói.
- Mày có ch́a khoá chứ ?
- Tao đi mở cửa đây, mày lái xe đến sát tận nhà và đợi tao, tao
xuống đi bộ.
- Cô ta đi với mày hay ở lại trong ôtô ?
Arthur tḥ đầu vào xe và ung dung trả lời:
- Th́ mày cứ hỏi thẳng cô ấy !
- Không, tao không thích thế.
- Em để anh đi một ḿnh, em nghĩ lúc này như vậy là hơn – Lauren
nói với Arthur.
Arthur mỉm cười và nói với Paul:
- Cô ấy ngồi lại với mày, cái thằng số đỏ !
Ôtô đi xa dần, kéo theo một đám bụi mù ở phía sau. Đứng lại một
ḿnh, anh lặng ngắm khung cảnh xung quanh anh. Những dải đất đỏ
rộng trên trồng một vài cây thông lọng hay cây thông bạc, những
cây cù tùng, những cây lựu và những cây minh quyết, tất cả dường
như chạy dài ra tận biển. Nền đất phủ đầy những chiếc gai đă bị
mặt trời làm cháy xém. Anh đi theo chiếc cầu thang nhỏ bằng đá
bên lể đường. Đi được nửa chừng,anh thấy thấp thoáng phía bên
tay phải ḿnh cái c̣n lại của vườn hồng ngày xưa. Khu vườn bị bỏ
hoang ,vô số mùi hương quyện lẫn vào nhau gợi lên theo mỗi bước
chân một vũ điệu farandole không thể kiểm soát nổi của những kỉ
niệm khứu giác.
Khi anh đi qua, lũ ve sầu im bặt đi giây lát rồi lại tiêp tục hát
say mê hơn. Những cây to cong xuống trước làn gió nhẹ buổi ban
mai. Biển đập một vài con sóng lên các mỏm đá. Trước mặt anh,anh
thấy ngôi nhà đang thiêm thiếp ngủ, hệt như anh đă để lại nó
trong những giấc mơ của ḿnh. Anh thấy nó có vẻ nhỏ hơn, mặt ngoài
bị hư hỏng đôi chút nhưng mái ngói th́ vẫn c̣n nguyên vẹn. Những
cánh chớp đóng kín. Paul đỗ xe trước cổng và đang đợi anh bên
ngoài ô tô.
- Mày mất khá thời gian để đến đấy!
- Hơn hai mươi năm!
- Ta làm ǵ đây?
Họ mang cơ thể Lauren vào qụng làm việc ở tầng dưới cùng. Anh
đặt chiều khoá vào ổ
khoá và vặn không hề do dự. Trí nhớ chứa đựng những mẩu kỷ niệm
mà nó biết tung ra bất cứ lúc nào, không để người ta hiều tại
sao. Tiếng động trong ổ khoá và vặn không hề do dự, đúng như việc
cần làm. Trí nhớ chứa đựng những mẩu kỉ niệm mà nó biết tung ra
bất cứ lúc nào, không để người ta hiểu tại sao. Tiếng động trong ổ
khoá vang lên đối với anh cũng dường như quá nhanh. Anh bước vào
hành lang, mở cửa pḥng làm việc ở bên trái lố vào, đi ngang qua
căn pḥng và mở cửa chớp.Anh cố t́nh không chú ư tí nào đến mọi
thứ xung quanh ḿnh, việc khám phá lại nơi này sẽ để lúc sau,và
anh đă quyết định hưởng trọn vẹn những giây phút ấy. Rất nhanh
chóng những ḥm đồ đạc được tháo dỡ, cơ thể Lauren được đặt nằm
trên đi văng, ống truyền được lắp lại. Arthur khép lại cửa chớp
bằng then móc. Rồi anh cầm lấy cái hộp các tông nhỏ màu nâu, và
rủ Paul theo anh vào bếp: “Tao sẽ pha cà phê cho bọn ḿnh mày
mở hộp ra đi, tao sẽ đun nước nóng”
Anh mở ngăn tủ phía dưới bồn rửa bát,và lôi ra một vật bằng kim
loại,h́nh thù kỳ quặc, gồm hai phần dối xứng và dối lập. Anh
bắt đầu tháo nó ra bằng cách quay từng phần một ngược chiều nhau.
- Cái ǵ thế ? - Paul hỏi.
- B́nh pha cà phê kiểu Italia đấy !
- B́nh pha cà phê kiểu Italia?
Arthur giải thích cho bạn cách vận hành của b́nh cà phê,lợi ích
đầu tiên là không cần dùng giấy lọc và như vậy hương thơm sẽ giữ
lại tốt hơn . Phải cho hai đến ba th́a cà phê đầy vào trong cái
phiễu nhỏ nằm giữa phần dưới được đổ đầy nước và phần trên. Phải
vặn chặt hai khoang lại và đặt tất cả lên bếp đun. Nước sôi sẽ
trào lên, thấm qua cà phê đựng trong cái phễu nhỏ và chuyển sang
phần trên, được lọc chỉ bằng một cái lưới mỏng bằng kim loại. Bí
quyết duy nhất để thành công chỉ là phải kéo b́nh pha cà phê ra
khỏi ngọn lửa đúng lúc, v́ đó không phải là nước nữa, mà là cà
phê rồi, và “cà phê sôi, cà phê ôi!”. Khi anh giải thích xong,
Paul huưt sáo lên một tiếng:
- Này,cần phải là kỹ sư biết hai thứ tiếng mới pha cà phê được
trong cái nhà này à ?
- C̣n cần hơn thế nhiều, ông bạn ơi, phải có tài, đó là cả một
nghi lễ đấy!
Paul vừa bĩu môi tỏ ư nghi ngờ để trả lời câu nói của bạn, vừa
ch́a cho bạn gói cà phê. Athur cúi người xuống để mở b́nh ga đặt
dưới bồn rửa bát. Rồi anh vặn chiếc ṿi ở bên trái cái bếp, và
cuối cùng là núm bật bếp.
- Mày nghĩ vẫn c̣n có ga à ?
- Antoine không bao giờ để lại ngôi nhà với b́nh ga rổng trong
bếp, và tao cuộc với mày là c̣n ít nhất hai b́nh ga đầy nữa ở
trong gara.
Một cách máy móc, Paul đứng lên, đi ra phía công tắc ở cạnh cửa
và ấn một cái. Một làn ánh sáng màu vàng toả khắp căn pḥng.
- Mày làm thế nào mà lại có điện trong căn nhà này được ?
- Hôm kia tao đă điện thoại đến công ty điện để họ cho lại điện,
cả nước cũng thế, nếu như mày lo lắng, nhưng tắt đèn đi, phải
lau bụi ở bóng đèn cái đă, nếu không khi bị nóng lên, nó sẽ nổ
tung đấy.
- Mày học những cái đó ở đâu, pha cà phê kiểu Italia với lại lau
bụi để bóng đèn khỏi nổ?
- Ở đây, ông bạn ạ, trong gian pḥng này, và tao c̣n học vô số
điều khác nữa.
- Thế cà phê được chưa?
Arthur đặt hai cái chén lên chiếc bàn gỗ. Anh rót vào chén nước
cà phê nóng bỏng.
- Đợi đă rồi hăy uống - anh nói.
- Tại sao?
- V́ nếu không mày sẽ bị bỏng, với lại trước tiên mày nên hít
hương cà phê cái đă. Để cho mùi thơm thấm dần vào mũi mày.
- Mày làm tao phát ngấy với cái món cà phê của mày, ông bạn ạ,
chả có cái ǵ thấm vào mũi tao sất ! Đúng là tao đang nằm mơ. Để
cho mùi thơm thấm dần vào mũi mày, nhưng mày kiếm đâu ra được
cái của ấy chứ ?
Paul nâng chén cà phê lên miệng, anh phun vội ra ngay lập tức
chút nước nóng bỏng mà anh vừa uống. Lauren đến đứng sau lưng
Arthur và ṿng tay ôm anh. Cô tựa đầu lên vai anh và nói thầm
vào tai anh:
- Em thích nơi này, em cảm thấy dễ chịu ở đây, khung cảnh thật
là êm dịu.
- Lúc năy em ở đâu?
- Em làm một ṿng quanh khu nhà trong khi các anh triết lư về cà
phê.
- Vậy em thấy sao?
- Mày lại đang nói với cô ta đấy à? - Paul ngắt lời bằng một giọng
bực tức.
Không hề chú ư đến câu hỏi của Paul, Arthur quay sang Lauren:
- Em thích à ?
- Lẽ ra phải tỏ vẻ khó tính, - cô trả lời, - nhưng anh phải kể cho
em nghe nhiều điều bí mật đấy, ở đây đầy những điều bí mật, em
có thể cảm thấy điều đó trong mỗi bức tường, mỗi đồ vật.
- Nếu tao quấy rầy mày th́ mày cứ việc coi như tao không có ở
đây! - ông bạn chí thân của Arthur lại nói.
Lauren không muốn tỏ ra bội bạc nhưng cô rỉ tai anh rằng cô rất
muốn được một ḿnh với anh. Cô nóng ruột muốn được anh dẫn đi
xem các nơi. Cô nói thêm rằng cô rất muốn họ được nói chuyện với
nhau. Anh muốn biết là về điều ǵ, cô trả lời:
“Về nơi này, về
trước đây”
Paul chờ đợi để Arthur cuối cùng cũng hạ cố nói với anh nhưng
Arthur có vẻ lại tiếp tục tṛ chuyện với người bạn vô h́nh của
ḿnh. Paul đành quyết định ngắt lời họ.
- Nào, mày có cần đến tao nữa hay không, không th́ tao quay về
San Fransisco, có nhiều việc ở công ty với lại những cuộc chuyện
tṛ cùa mày với Phantomas làm cho tao khó chịu.
- Đừng có hẹp ḥi thế, được không?
- Xin lỗi! Chắc là tao nghe nhầm. Mày vừa mới bảo một thằng đă
giúp mày đánh cắp một cơ thể người trong bệnh viện vào một tối
chủ nhật, bằng một xe cứu thương lấy trộm, một thằng vừa uống cà
phê kiều Italia ở một nơi cách nhà hắn bốn tiếng đồng hồ, đêm
không được ngủ và mày bào hắn là đứng có hẹp ḥi! Mày thật quá
đáng !
- Tao có định nói thế đâu.
Paul không biết Arthur định nói ǵ nhưng anh muốn trở về trước
khi họ căi lộn “bởi v́ điều đó có thể xảy ra, mày thấy đấy, và
như vậy th́ thật đáng tiếc, v́ đă phải bỏ biết bao công sức cho
đến tận lúc này”. Arthur lo lắng hỏi xem bạn anh có đủ sức để đi
đường không. Paul trấn an bạn, với chén cà phê kiểu Italia (anh
nhấn mạnh từ này một cách mỉa mai) mà anh vừa uống, anh có thể
đi được ít nhất hai mươi tiếng đồng hồ trước khi cái mệt dám làm
anh ríu mắt. Arthur không đáp lại lời châm chọc. Về phần Paul,
anh cũng lo lắng v́ để bạn lại không có ôtô trong ngôi nhà bỏ
hoang này.
- Có cái xe Ford trong gara.
- Cái xe Ford của mày chạy lần cuối cùng khi nào?
- Lâu rồi!
- Liệu nó có nổ máy được không, cái xe Ford ấy.
- Nhất định rồi, tao sẽ thay acquy, nó sẽ nổ thôi.
- Nhất định rồi! Với lại, xét cho cùng th́ nếu mày có bị mắc kẹt
ở đây, mày cứ tự xoay xở lấy. Tao giúp mày đêm nay thế là đủ lắm
rồi.
Arthur tiễn Paul ra tận ôtô.
- Đừng lo cho tao, mày đă giúp tao nhiều rồi.
- Nhưng tất nhiên là tao phải lo cho mày chứ. B́nh thường ra th́
tao sẽ bỏ mặc mày một ḿnh trong ngôi nhà này và tao sẽ khiếp sợ
với ư nghĩ về các hồn ma, nhưng mà mày, đă thế mày lại c̣n mang
thêm hồn ma của mày đến nữa !
- Biến đi !
Paul cho xe nổ máy, anh hạ cửa kính xuống trước khi đi.
- Mày có chắc là sẽ ổn cả không?
- Chắc chắn.
- Vậy th́ tao đi đây.
- Paul !
- Ǵ ?
- Cảm ơn về tất cả những cái mày làm.
- Có ǵ đâu.
- Có chứ, nhiều lắm chứ, mày đă phải chịu bao nhiêu mạo hiểm v́
tao, trong khi chưa hiểu rơ hẳn mọi việc, chỉ v́ sự trung thành
và t́nh bạn mà thôi, như vậy là rất nhiều, và tao biết điều đó.
- Tao biết là mày biết. Thôi, tao đi đây, nếu không bọn ḿnh lại
khóc tong tong mất. Nhớ giữ ǵn sức khoẻ và báo tin đến cơ quan
cho tao nhé.
Những lời hứa hẹn tuôn ra, và chiếc Saab nhanh chóng mất hút sau
quả đồi. Lauren bước ra bậc thềm.
- Nào,- cô nói- ta đi một ṿng quanh khu nhà chứ?
- Bên trong hay bên ngoài trước
- Trước hết chúng ta đang ở đâu ?
- Em đang ở trong ngôi nhà của Lili.
- Lili là ai ?
- Lili là mẹ anh, chính ở đây anh đă lớn lên một nửa thời thơ ấu
của ḿnh.
- Mẹ anh mất lâu rồi à ?
- Lâu lắm rồi.
- Và chưa bao giờ anh trở lại đây cả ?
- Chưa bao giờ.
- Tại sao ?
- Vào nhà đi ! Ta sẽ nói chuyện đó sau, khi nào xem nhà xong đă.
- Tại sao ?- cô hỏi vặn.
- Anh quên mất rằng em cứng đầu cứng cổ như một con la. Tại thế
đấy !
- Có phải em đă khiến anh trở lại nơi này không ?
- Em không phải là hồn ma duy nhất của đời anh - anh nói bằng một
giọng dịu dàng.
- Anh phải trả giá đắt khi trở lại đây.
- Nói như vậy là không chính xác, có thể coi là điều đó quan
trọng đối với anh.
- Và anh đă làm như vậy v́ em ?
- Anh làm điều đó v́ đă đến lúc cần phải thử.
- Thử làm ǵ ?
- Mở chiếc vali nhỏ màu đen.
- Anh vui ḷng giải thích cho em về cái vali nhỏ màu đen chứ ?
- Đó là những kỉ niệm.
- Anh có nhiều kỉ niệm ở đây ?
- Gần như là tất cả. Đây là nhà anh mà.
- Thế sau khi ở đây th́ sao ?
- Sau đó anh đă cố làm sao cho mọi thứ trôi qua thật nhanh, sau
đó anh đă tự lớn lên rất nhiều
- Mẹ anh chết đột ngột à ?
- Không, mẹ anh chết v́ bệnh ung thư, mẹ anh biết điều đó, chỉ
có đối với anh là chuyện đó xảy ra quá nhanh thôi. Đi theo anh,
anh sẽ dẫn em ra thăm khu vườn. Hai người đi ra bậc thềm, và
arthur dẫn Lauren đến tận chỗ bờ biển tiếp giáp với khu vườn. họ
ngồi xuống mép đá.
- Nếu em biết được anh đă ngồi ở đây bao nhiêu giờ với mẹ anh,
anh đếm những ngọn sóng và đánh cuộc với mẹ. Hai mẹ con thường
đến xem mặt trời lặn. Nhiều người ở đây ra băi biển buổi tối,
chừng nửa giờ, để xem cảnh này. Mỗi ngày cảnh tượng lại có một
vẻ khác. Do nhiệt độ của biển, của không khí, do đủ mọi thứ mà
màu sắc của bầu trời không bao giờ giống nhau. Cũng như ở thành
phố, mọi người về nhà xem chương tŕnh htời sự trên ti vi vào
những giờ cố định, ở đây th́ dân chúng đi ra xem mặt trời lặn,
đó đă thành một tục lệ rồi.
- Anh sống ở đây lâu không ?
- Hồi ấy anh là một chú nhóc con, anh được mười tuổi th́ mẹ anh
mất.
- Tối nay anh chỉ cho em xem mặt trời lặn nhé !
- Đó là một nghĩa vụ ở đây- anh mỉm cười nói.
Sau lưng họ, ngôi nhà bắt đầu rực lên trong ánh sáng ban mai.
Lớp sơn ở mặt ngoài phía trông ra biển đă bị hư hại, nhưng nh́n
chung ngôi nhà đă kháng cự tốt với tháng năm. Từ ngoài nh́n vào,
không ai có thể tin được rằng nó đă ngủ một giấc dài như vậy.
- Nó đă chống chọi tài đấy chứ ? – Lauren nói.
- Antoine đă chăm chút ngôi nhà như một kẻ ương gàn. Làm vườn,
sửa chữa đồ đạc, câu cá, trông trẻ, gác nhà, đó là một nhà văn
không thành đạt mà mẹ anh đă đón về. Trước khi bố anh bị tai nạn
máy bay, đó là một người bạn của bố mẹ anh. Anh cho rằng bác ấy
luôn luôn yêu mẹ anh, ngay cả khi bố anh c̣n đó. Anh ngờ rằng
cuối cùng họ đă trở thành t́nh nhân, nhưng đó là măi về sau. Bác
ấy ở trong tâm tư mẹ anh khi bà c̣n sống, mẹ anh ở trong tâm tư
bác ấy của những năm để tang. Cả hai người đều ít nói, ít ra là
những khi anh thức, nhưng họ vô cùng đồng điệu. Họ hiểu nhau từ
cái nh́n. Trong sự yên lặng chung của họ, họ chữa lành tất cả
những băo táp của đời ḿnh. Giữa hai người ấy có sự b́nh thản
đến kinh ngạc. Cứ như là cả hai đều đă thề không bao giờ biết
đến t́nh cảm tức giận hay nổi loạn nữa.
- Cuối cùng ông ấy thế nào ?
- Khép ḿnh lại trong pḥng làm việc, nơi đặt cơ thể Lauren bây
giờ, ông đă sống thêm được mười năm sau Lili. Antoine đă dùng
phần cuối của đời ông vào việc bảo dưỡng ngôi nhà. Lili đă để
lại tiền cho ông, đó là phong cách của bà, dự kiến trước mọi
điều, ngay cả điều không thể dự kiến được. Về mặt đó, Antoine
giống bà. Ông mất ở bệnh viện vào đầu một mùa đông. Một buổi
sáng nắng và se lạnh, ông tỉnh dậy trong người mệt mỏi. Khi đang
tra dầu vào bản lề ở cổng, một cơn đau âm ỉ len lỏi vào ngực
ông. Ông đi lại giữa hàng cây để lấy thêm không khí mà đột nhiên
ông cảm thấy thiếu vô cùng. Cây thông già mà dưới bóng nó ông
thường ngủ trưa vào mùa xuân và mùa hè đă đón nhận ông dưới
những cành của nó, khi ông ngă và không thể gượng lại được. Bị
cơn đau quật ngă, ông đă ḅ đến tận nhà và gọi hàng xóm đến
giúp. Được chở đến pḥng cấp cứu Monterey, ông đă tắt thở tại đó
vào ngày thứ hai sau. Có thể nghĩ rằng ông đă chẩun bị trước cho
sự ra đi của ḿnh. Khi ông mất, công chứng viên của gia đ́nh đă
liên lạc với Arthur để hỏi xem anh cần phải làm ǵ với ngôi nhà.
- Ông ta bảo anh ông ta sững cả người khi vào nhà. Antoine đă
thu dọn tất cả, cứ như là bác ấy định đi chơi xa đúng vào ngày
bác ấy bị mệt.
- Có thể ông ấy định như thế thật ?
- Antoine mà lại đi chơi xa à ? Không, chỉ có cái việc đi Carmel
mua đồ thôi mà cũng phải thương lượng với bác ấy trước nhiều
ngày. Không, anh nghĩ là bác ấy đă có cái bản năng của một con
voi già, cảm thấy giờ của ḿnh đă đến hay có thể thấy đă quá đủ
nên buông xuôi.
Để giải thích ư kiến của ḿnh, anh kể lại câu trả lời của mẹ anh
cho một câu hỏi về cái chết mà anh đă đặt ra cho bà. Anh muốn
biết những người lớn có sợ chết hay không, và bà đă có một câu
trả lời mà anh nhớ thuuộc ḷng, bà đă nói:
“Khi con đă trải qua
một ngày tốt đẹp, con dậy sớm theo mẹ đi câu, con chạy nhảy, con
làm việc trong vườn hoa hồng với bác Antoine, buổi tối con mệt
lử, và thế là cuối cùng, tuy rằng con thường ghét đi nằm, con
vẫn sung sướng được chui vào trong chăn để t́m đến giấc ngủ.
Những buổi tối như vậy con không sợ phải ngủ thiếp đi.
Cuộc đời cũng gần giống như một trong những ngày như vậy. Khi nó
đă bắt đầu sớm th́ người ta cảm thấy phần nào thanh thản khi tự
nhủ rằng một ngày kia ta sẽ yên nghỉ. Có lẽ v́ với thời gian, cơ
thể của chúng ta khiến chúng ta làm mọi việc kém phần dễ dàng
đi. Tất cả đều trở nên khó khăn và mỏi mệt hơn, v́ vậy ư nghĩ
ngủ thiếp đi măi măi không làm người ta sợ như trước nữa.”
- Lúc ấy mẹ anh đă bị ốm, anh nghĩ rằng mẹ biết rơ những điều mẹ
nói.
- Anh đă trả lời mẹ thế nào ?
- Anh níu lấy tay mẹ và hỏi mẹ có mệt mỏi không. Mẹ anh mỉm
cười. Tóm lại, anh kể chuyện này cốt để nói rằng anh không tin
là Antoine đă mệt mỏi v́ cuộc sống với cái nghĩa chán đời, anh
nghĩ rằng bác ấy đă đạt đến một h́nh thức sáng suốt.
- Như là những con voi – Lauren hạ giọng nói tiếp.
Họ đi về phía ngôi nhà. Arthur rẽ sang hướng khác, tự cảm thấy
đă sẵn sàng để bước vào vườn hoa hồng !
- Đây chúng ta đang đi vào trái tim của lănh thổ, vườn hoa hồng
!
- Tại sao lại là trái tim của lănh thổ ?
- Đó là nơi thiêng ! Lili mê những bông hồng của bà lắm. Đó là
chủ đề duy nhất mà anh thấy mẹ căi cọ với Antoine. Mẹ anh biết
từng bông hoa một, em không thể nghĩ đến chuyện cắt một bông hoa
mà bà ấy không nhận thấy đâu. Trong vườn có nhiều loại hoa đến
mức không thể tưởng tượng nổi. Bà đă đặt mua những cành giâm
theo catalog và lấy làm hănh diện v́ đă trồng các loài hoa có ở
khắp thế giới, nhất là khi trong bản hướng dẫn nêu rơ những điều
kiện khí hậu cần thiết để hoa nở rất khác với ở đây. Điều đó đă
trở thành một sự đặt cược: làm cho ư kiến của các nhà làm vườn
trở thành sai sự thật và nuôi lớn thành công các cành giâm.
- Có nhiều loại hoa đến thế kia à ?
-Anh đă đếm được đến một trăm ba mươi lăm loại. Một lần có cơn
mưa như trút nước, mẹ anh và Antoine dậy vào giữa đêm, họ chạy
ra gara và lấy một mảnh bạt có thể dễ dàng căng ra được mười mét
chiều rộng và ba mươi mét chiều dài. Hết sức cấp tốc, Antoine đă
căng mảnh bạt thành ba cạnh trên những cái cọc to, c̣n cạnh thứ
tư th́ hai người cầm tay giữ, một người đứng trên chiếc ghế đẩu,
người kia đứng trên chiếc ghế kiểu trọng tài tennis. Họ đă trải
qua một phần đêm như vậy để lắc tấm bạt ngay khi nó trở nên quá
nặng, chứa quá nhiều nước mưa. Cơn băo kéo dài hơn ba tiếng.
“Nếu như có bị cháy trong nhà, anh chắc rằng mẹ và bác ấy cũng
không kích động đến thế. Giá mà em nh́n thấy họ sáng hôm sau, có
thể nói là thân tàn ma dại được”. Nhưng vườn hoa hồng đă được
cứu thoát.
- Anh nh́n này,- Lauren nói khi đi vào khu vườn- vẫn c̣n đầy
hoa!
- Ừ, đó là những bông hồng dại, những bông hoa này th́ chả sợ cả
nắng lẫn mưa, và em phải chú ư đeo găng nếu em muốn cắt chúng,
chúng nhiều gai lắm.
Họ đă dành cả ngày khám phá khu vườn rộng bao quanh ngôi nhà.
Arthur giới thiệu những cây, những vết khắc mà anh đă để lại ở
một số vỏ cây. Đến cạnh một cây thông lọng, anh chỉ cho cô nơi
anh đă từng bị găy xương đ̣n.
- Anh làm sao mà lại thế ?
- Anh chín, nên anh rơi từ trên cây xuống !
Ngày trôi qua mà họ không nhận thấy. Vào giờ đă nói trước, họ
lại đi ra bờ biển, ngồi trê những tảng đá và chiêm ngưỡng cái
cảnh mà nhiều người từ khắp mọi nơi đến xem. Lauren dang rộng
hai cánh tay và thốt lên: “Michel- Ange chiều hôm nay thật
tuyệt!” Arthur nh́n cô và mỉm cười. Đêm xuống rất nhanh. Họ vào
trong nhà. Arthur làm những công việc chăm sóc thân thể của
Lauren. Sau đó họ nhóm lửa trong ḷ sưởi ở căn pḥng khách nhỏ,
nơi cả hai ngồi sau bữa ăn tối nhẹ.
- Thế cái vali đen là ǵ vậy ?
- Không có ǵ qua mắt em được !
- Đâu có, em lắng nghe, thế thôi.
- Đó là một chiếc vali của mẹ anh, mẹ anh xếp vào đó tất cả thư
từ, tất cả những vật kỉ niệm của bà. Quả thực, anh nghĩ rằng
chiếc vali này chứa đựng cái cốt lơi của đời mẹ anh.
- “Anh nghĩ” là như thế nào?
- Chiếc vali này là một bí ẩn lớn. Tất cả ngôi nhà đều thuộc về
anh, trừ cái tủ có chứa chiếc vali. Cấm ngặt không được đụng
đến. “Và anh dám chắc với em rằng anh chả dại ǵ mà liều cả”
- Chiếc vali đó ở đâu ?
- Trong pḥng làm việc bên cạnh.
- Và anh chưa bao giờ trở lại đây để mở nó ra à ? Em không thể
tin được !
- Nó có lẽ chứa toàn bộ cuộc đời mẹ anh, anh không bao giờ muốn
thúc đẩy vội thời điểm đó, anh tự nhủ rằng anh cần phải trưởng
thành và thực sự sẵn sàng nhận lấy mạo hiểm mở chiếc vali ấy ra
để có thể hiểu.
Trước những nếp nhăn hoài nghi trên trán Lauren, anh thú nhận
“ừ, thật sự là anh luôn luôn sợ.”
- Tại sao ?
- Anh không biết, sợ rằng điều đó sẽ thay đổi h́nh ảnh mà anh
giữ về mẹ, sợ nỗi buồn sẽ tràn ngập trong ḷng ḿnh.
- Anh đi lấy vali đi !
Arthur không nhúc nhích. Cô một mực bảo anh đi lấy vali, anh
không việc ǵ phải sợ. Nếu như Lili đă đặt cả đời bà vào trong
một vali, đó là để con trai bà biết bà là người như thế nào. Bà
không thích anh sống với kỷ niệm về một h́nh ảnh:
“Cái mạo
hiểm của việc yêu, đó là yêu cả những nhược điểm lẫn ưu điểm,
hai mặt đó không tách rời nhau được. Anh sợ cái ǵ kia chứ, sợ
phải phán xét mẹ anh à ? Anh không có tâm hồn của một quan toà.
Anh không thể không biết những điều về mẹ anh, anh làm sai quy
ước của mẹ anh....Mẹ anh để lại chiếc va li này để anh biết mọi
điều về bà, để kéo dài cái thời gian đă không cho phép bà làm,
để anh thực sự biết rơ bà, không chỉ như một đứa trẻ, mà với con
mắt và trái tim đàn ông của anh !”
Arthur suy nghĩ một lát về những điều cô vừa nói với anh. Vừa
nh́n cô anh vừa đứng dậy, đi ra pḥng làm việc và mở chiếc tủ
thân thuộc ấy. Anh ngắm chiếc vali nhỏ màu đen đặt trên ngăn tủ
trước mặt anh, cầm chiếc quai đă cũ ṃn và mang tất cả cái quá
khứ này vào hiện tại. Trở vào pḥng khách nhỏ, anh ngồi khoanh
chân cạnh Lauren, họ nh́n nhau như hai đứa trẻ vừa mới t́m được
cái ḥm của lăo Râu đỏ. Sau khi hít một hơi, anh kéo hai cái
chốt, và nắp vali bật mở. Vali đầy những phong b́ đủ các cỡ,
trong có chứa những bức thư, những tấm ảnh, vài đổ vật nhỏ, một
chiếc máy bay nhỏ bằng bột nặn mà Arthur đă làm nhân ngày Hội
các bà Mẹ, một cái gạt tàn bằng bột nặn, đó là dịp Noel, một
chuỗi ṿng cổ bằng vỏ ṣ, không rơ nguồn gốc, chiếc th́a bạc và
những đôi giày vải của trẻ sơ sinh. Thật là một cái hang của
Alibaba. Phía trên vali có một bức thư gập lại được găm bằng một
cái kẹp giấy. Lili viết bằng chữ hoa ARTHUR. Anh cầm bức thư và
mở ra.
Arthur của mẹ,
Thế là con đang ở trong nhà của con. Thời gian làm lành mọi vết
thương, dù rằng nó không tránh khỏi cho ta một vài vết sẹo.
Trong chiếc vali này con sẽ thấy tất cả những kỷ vật của mẹ,
những thứ mà mẹ có từ con, những thứ có trước con, những thứ mà
mẹ đă không thể kể cho con nghe v́ con hăy c̣n là một đứa trẻ.
Con sẽ phát hiện ra mẹ con dưới một cái nh́n khác, con sẽ biết
được rất nhiều điều, mẹ đă là mẹ của con, và mẹ đă là một phụ
nữ, với những nỗi lo sợ của ḿnh, những mối ngờ vực của ḿnh,
những thất bại của ḿnh, những điều hối tiếc của ḿnh và những
thắng lợi của ḿnh. Để có được những lời khuyên mà mẹ đă cho con
rất nhiều, mẹ cũng đă phải lầm lẫn, và điều đó thường xảy ra với
mẹ. Cha mẹ giống như những quả núi mà cả đời ta cứ thử trèo lên,
không biết rằng có ngày chính ta lại giữ vai tṛ giống thế.
Con biết không, chẳng có ǵ phức tạp hơn là nuôi dạy một đứa
trẻ. Suốt đời, người ta đem cho con cái tất cả những ǵ mà người
ta nghĩ rằng tốt nhất, tuy biết rằng ta vẫn thường nhầm lẫn.
Nhưng đối với phần đông cha mẹ, tất cả những cái này đều xuất
phát từ t́nh yêu cả, mặc dù người ta đôi khi không tránh khỏi
ích kỷ phần nào. Sống cũng không phải là một thiên chức. Cái
ngày mẹ đóng chiếc vali này lại, mẹ đă sợ làm con thất vọng. Mẹ
đă không để cho con có thời gian của những phán xét tuổi thiếu
niên. Mẹ không biết con sẽ bao nhiêu tuổi khi đọc bức thư này.
mẹ h́nh dung con là một chàng trai trẻ đẹp quăng ba mươi tuổi,
có thể hơn một chút. Mẹ ao ước được sống tất cả những năm này
bên con biết chừng nào. Giá như con biết, cái ư nghĩ không được
nh́n thấy con nữa mỗi sáng khi con mở mắt, không được nghe thấy
giọng nói của con nữa khi con gọi mẹ, đă làm ḷng mẹ trống trải
đến mức nào, ư nghĩ này làm cho mẹ đau đớn hơn cả cái căn bệnh
đang mang mẹ đi xa con đến thế.
Mẹ luôn luôn yêu Antoine bằng một t́nh yêu thực sự, nhưng mẹ đă
không nếm trải t́nh yêu ấy. Bởi v́ mẹ đă sợ, sợ bố con, sợ làm
bố con đau ḷng, sợ phá hủy cái mà mẹ đă gây dựng, sợ tự thú
nhận với chính ḿnh là ḿnh đă nhầm lẫn. Mẹ sợ trật tự đă được
thiết lập, sợ phải bắt đầu lại, sợ rằng điều đó không thành, sợ
rằng tất cả chỉ là một giấc mơ. Không được sống với mối t́nh ấy
là một cơn ác mộng. Ngày và đêm mẹ nghĩ đến bác ấy, và mẹ tư
ngăn cấm ḿnh. Khi bố con chết, nỗi sợ vẫn tiếp tục, sợ phản
bội, sợ cho con. Tất cả cái đó là một điều dối trá ghê gớm.
Antoine đă yêu mẹ như mọi người đàn bà từng mơ ước được yêu như
vậy ít nhất một lần trong đời. Và mẹ đă không biết đền đáp lại
t́nh yêu ấy, v́ một sự hèn nhát kinh khủng. mẹ đă tự tha thứ
những yếu đuối của ḿnh, mẹ đă thoả măn trong tấn kịch lâm ly rẻ
tiền nà, và mẹ đă không biết rằng đời ḿnh trôi đi rất nhanh và
mẹ đă để lỡ nó. Bố con là một người tốt, nhưng Antoine là người
đàn ông duy nhất dưới mắt mẹ, không có ai nh́n mẹ như bác ấy,
không có ai nói với mẹ như bác ấy; ở bên bác ấy, không điều ǵ
có thể xảy ra với mẹ cả, mẹ cảm thấy được bảo vệ khỏi tất cả mọi
thứ. Bác ấy hiểu từng mong ước của mẹ, từng ư muốn của mẹ và
không ngừng t́m cách làm thỏa măn những điều đó. Cả đời bác ấy
dựa trên sự hài hoà, sự dịu dàng, nghệ thuật cho, trong khi mẹ,
mẹ lại đi t́m kiếm những sự đấu tranh như là lẽ sống, và không
hay biết đến nghệ thuật đón nhận. Mẹ đă sợ sệt, mẹ bắt ḿnh phải
tin rằng hạnh phúc này là điều không có được, rằng cuộc đời
không thể ngọt ngào đến vậy. Mẹ và bác ấy đă yêu nhau một đêm,
lúc ấy con năm tuổi. Mẹ đă có mang, và mẹ đă không giữ lại, mẹ
không bao giờ nói với bác ấy, thế nhưng mẹ tin chắc rằng bác ấy
biết. Bác ấy đoán được tất cả mọi điều về mẹ.
Có lẽ như vậy lại tốt hơn cho bây giờ, do điều đang xảy ra với
mẹ, nhưng mẹ cũng nghĩ rằng căn bệnh này chưa chắc đă phát triển
nếu tâm hồn mẹ thanh thản với chính ḿnh. Chúng ta đă sống tất
cả những năm qua dưới bóng những điều dối trá của mẹ, mẹ đă đạo
đức giả với cuộc đời và cuộc đời đă không tha thứ cho mẹ. Con đă
biết nhiều hơn về mẹ của con, mẹ đă do dự khi nói cho con tất cả
những điều này, mẹ vẫn sợ sự phán xét của con, nhưng chẳng phải
là mẹ đă từng dạy con rằng sự dối trá tệ nhất là sự dối trá với
chính ḿnh hay sao? Có nhiều thứ mà mẹ ước muốn được chia sẻ với
con, nhưng chúng ta không có thời gian. Antoine đă không nuôi
dạy con là do mẹ, do tất cả sự dốt nát của mẹ. Khi mẹ biết rằng
ḿnh mắc bệnh th́ đă quá muộn để làm lại từ đầu. Con sẽ t́m thấy
đủ mọi thứ trong cái chợ mà mẹ để lại cho con đây, những bức ảnh
của con, của mẹ, của Antoine, những bức thư của bác ấy, con đừng
đọc, những bức thư ấy thuộc về mẹ, chúng nằm đây v́ mẹ không bao
giờ dứt khoát chia tay với chúng được. Con sẽ tự hỏi tại sao
không có ảnh của bố con, mẹ đă xé hết trong một đêm tức giận và
thất vọng điên cuồng, mẹ tức giận chính ḿnh...
Mẹ đă làm điều mà mẹ có thể làm, con yêu của mẹ, điều mà người
phụ nữ ấy có thể làm, với những ưu điểm và nhược điểm của ḿnh,
nhưng con hăy biết rằng con đă là cả cuộc đời mẹ, là toàn bộ lẽ
sống của mẹ, là điều đẹp nhất và mạnh mẽ nhất từng đến với mẹ.Mẹ
cầu mong một ngày con sẽ biết đến cái cảm giác duy nhất là cảm
giác khi có một đứa con, con sẽ hiểu ra nhiều điều.
Niềm tự hào lớn nhất của mẹ là được làm mẹ của con, măi măi.
Mẹ yêu con,
Lili.
Anh gập bức thư lại và đặt nó lên chiếc vali. Lauren thấy anh
khóc, cô đến bên anh và lấy ngón tay trỏ gạt nước mắt cho anh.
Sửng sốt, anh ngước mắt lên, và tất cả nỗi khổ tâm của anh tan
đi trong cái nh́n âu yếm của cô. Rồi ngón tay cô trượt dần xuống
cằm anh. Đến lượt anh đặt tay lên má cô, rồi ṿng tay sau cổ cô,
kéo gương mặt cô lại gần anh. Khi môi họ khẽ chạm vào nhau, cô
lùi lại.
- Tại sao anh làm điều đó cho em Arthur ?
- V́ anh yêu em và điều đó không có quan hệ ǵ đến em cả.
Anh cầm tay cô và dắt cô ra ngoài nhà.
- Ta đi đâu ? - cô hỏi
- Ra biển.
- Không, ở đây cơ, - cô nói - ngay bây giờ
Cô đứng trước anh và cởi cúc áo sơ mi của anh.
- Nhưng em làm thế nào, em không thể...
- Đừng hỏi, em không biết.
Cô để áo anh tuột khỏi vai anh, lấy tay vuốt ve lưng anh. Anh
cảm thấy bối rối: làm sao thoát y cho hồn ma được ? Cô mỉm
cười, nhắm mắt và lập tức khoả thân.
- Chỉ cần em nghĩ đến một kiểu váy là em có nó trên người ngay
lập tức, giá như anh biết em đă tận hưởng điều đó đến thế nào...
Ờ ngay cửa vào nhà, cô quấn lấy người anh, và ôm hôn anh.
Linh hồn Lauren được xuyên thấu bởi cơ thể đàn ông của anh, và
đến lượt nó đi vào cơ thể Arthur, trong một cái ôm xiết chặt,
như trong sự thần diệu của nguyệt thực... Chiếc vali để mở.
Chương 12
Thanh tra Pilguez
có mặt ở bệnh viện vào lúc mười một một giờ. Bà trưởng ca trực
đă gọi điện cho sở cảnh sát ngay khi nhận giao ca hồi sáu giờ
sáng. Một bệnh nhân bị hôn mê đă biến mất khỏi bệnh viện, đây là
một vụ bắt cóc. Pilguez t́m thấy thông báo trên bàn làm việc của
ông khi đến sở, ông nhún vai tự hỏi tại sao những vụ việc kiểu
này bao giờ cũng rơi vào đầu ḿnh. Ông nổi đoá lên gắt gỏng với
Nathalia, người điều phối những cú điện thoại ở trung tâm.
- Này cô, tôi đă làm ǵ cô mà cô lại cho tôi những việc như vậy
vào một buổi sáng thứ hai ?
- Lẽ ra anh c̣n có thể gặp những cái hết hơi hơn nữa vào đầu
tuần cơ- cô trả lời với nụ cười tươi tắn, vẻ biết lỗi.
- Câu trả lời hay nhỉ, tôi hy vọng là cô thích cái ghế quay của
cô, v́ tôi cảm thấy là cô c̣n phải dính vào đó lâu !
- Anh quả là một pho tượng mô tả sự nhă nhặn, George !
- Đúng, chính thế, và chính v́ vậy mà tôi có quyền chọn những
com chim sẻ ị lên đầu tôi !
Và ông quay gót. Một tuần lễ xấu bắt đầu, tiếp nối một tuần lễ
xấu khác vừa kết thúc hai ngày trước đó.
Đối với Pilguez một tuần lễ tốt gồm những ngày mà người ta chỉ
gọi cảnh sát đến để giải quyết những chuyện va chạm hàng xóm
láng giềng hay vi phạm Luật dân sự. Sự tồn tại của pḥng h́nh sự
là một điều vô nghĩa, bởi v́ điều đó có nghĩa là trong thành phố
này có khá nhiều thằng điên để giết người, hiếp dâm, trộm cướp
và bây giờ th́ bắt cóc những người đang hôn mê ở trong bệnh
viện. Đôi khi, ông tưởng rằng sau ba mươi năm trong nghề ông đă
thấy đủ mọi thứ, nhưng mỗi một tuần lại đẩy lùi thêm giới hạn
của sự điên rồ của con người.
- Nathalia !- từ bàn làm việc của ḿnh, ông kêu lên.
- Ǵ vậy George ? – cô phụ trách điều phối trả lời- Anh vừa có
một kỳ nghỉ cuối tuần tệ lắm hay sao ?
- Cô có thể chạy xuống dưới kia kiếm cho tôi mấy cái bánh rán
được không ?
Mắt dán vào quyển sổ biên bản. miệng gặm cây bút, cô lắc đầu từ
chối. “Nathalia!” ông lại kêu lên. Cô đang ghi lại mă số của
những báo cáo hồi đêm vào trong cột dành cho mục này. V́ những ô
kẻ quá hẹp, vị thủ trưởng của
“Quân khu bảy”, cấp trên của cô,
như cô thường gọi ông một cách mỉa mai, có tính ương gàn, cho
nên cô nắn nót viết những chữ nhỏ tí xíu để khỏi vượt ra ngoài
cột. Không buồn ngẩng đầu lên, cô trả lời ông:
“Vâng, Goerge,
cứ thông báo là anh sẽ về hưu tối nay đi”. Ông nhảy phắt dậy và
ra đứng trước mặt cô.
- Thế này th́ tệ thật !
- Anh có muốn mua một cái ǵ đó để trút hết bực dọc vào không ?
- Không, tôi sẽ trút hết lên đầu cô th́ có, cô ăn năm mươi phần
trăm tiền lương để làm việc này.
- Tôi sẽ tương những cái bánh rán của anh lên mặt anh cho mà
xem, biết chưa hả vịt ?
- Chúng ta là gà (tiếng lóng gọi cảnh sát) chứ có phải là vịt
đâu !
- Anh th́ khác, anh là một con vịt xấu xí thậm chí đếch biết
bay, anh bước lạch bạch như vịt ấy. Thôi anh đi làm việc đi và
để cho tôi yên.
- Cô đẹp lắm Nathalia ạ.
- Th́ đúng vậy, anh cũng vừa đẹp vừa vui tính.
- Nào, mặc cái áo ghilê của bà nội cô vào đi, tôi đưa cô xuống
dưới kia uống cà phê.
- Thế c̣n điều phối, ai làm cho ?
- Đợi đấy, đừng nhúc nhích, tôi sẽ cho cô thấy.
Ông quay lưng bước vội về phía anh chàng thực tập trẻ tuổi đang
ngồi xếp hồ sơ ở một góc pḥng. Ông cầm tay anh ta và kéo anh ta
đi qua gian pḥng rộng đến chiếc bàn ở cạnh cửa ra vào.
- Này, cậu bạn, cậu sẽ ngồi bắt rễ vào cái ghế xoay có tay vịn
này, hai tay vịn bọc vải hẳn hoi nhé, v́ cô đây được thăng chức
mà lại. Cậu có quyền được quay người trên đó, nhưng không được
quay quá hai ṿng theo cùng một hướng, cậu nhấc máy điện thoại
khi nghe thấy nó kêu, cậu nói: “Xin chào, đây là Sở cảnh sát,
pḥng h́nh sự, tôi nghe đây”, câu nghe, cậu ghi lại tất cả vào
giấy, và cậu không đi tè trước khi chúng tôi trở lại. Và nếu có
ai hỏi Nathali ở đâu, cậu nói là cô ấy bất th́nh ĺnh có những
vấn để của đàn bà con gái nên cô ấy đang chạy ra hiệu thuốc. Cậu
thấy liệu có đủ sức làm việc đó không ?
- Để không phải đi uống cà phê cùng ông, đến việc lau chùi
toalét tôi cũng làm được, thưa ông thanh tra !
George không đáp lại, ông quay sang Nathalia và kéo cô ra cầu
thang.
- Cái áo ghi lê này chắc hợp với bà nội cô lắm nhỉ ! – ông vừa
nói với cô vừa mỉm cười.
- Khi nào người ta tống anh về hưu, công việc này sẽ làm tôi
ngấy đến tận cổ, George ạ !
- Ở góc phố, một biển hiệu với ḍng chữ bằng đèn nê-ông đỏ, kiểu
những năm năm mươi, đang nhấp nháy. Những chữ cái rực sáng “The
Finzy Bar” toả một quầng ánh sáng nhợt nhạt xuống tủ kính của
quán rượu lâu đời này. Quán Finzy đă có một thời vẻ vang. Từ cái
nơi cũ rích này chỉ c̣n lại những trang trí trên các bức tường
và trên trần nhà ố vàng, ở những bậu cửa sổ bằng gỗ đă phai màu
v́ thời gian, ở những thanh gỗ lát sàn cũ ṃn v́ hàng ngh́n bước
chân say rượu và những gót giày nện của những cuộ gặp gỡ tối
nào. Từ vỉa hàng đối diện nh́n sang, nơi này trông giống như một
bức tranh của Hooper. Họ băng qua đường, ngồi vào cái quầy gỗ cũ
và gọi hai cốc cà phê loăng.
- Anh vừa có một ngày chủ nhật tệ thế cơ à, gấu to của tôi ?
- Kỳ nghỉ cuối tuần tôi buồn chán lắm cô bé ạ, giá như cô biết
được ! Tôi cứ loanh quoanh luẩn quẩn một chỗ.
- Ấy là chủ nhật tôi không thể cùng đi ăn với anh được, phải
không ?
Ông gật đầu công nhận.
- Sao anh không đi thăm viện bảo tàng, đi ra ngoài một chút chứ.
- Nếu tôi đi thăm viện bảo tàng, chỉ trong hai giây tôi sẽ phát
hiện ra ngay mấy cái thằng móc túi, và tôi lại có mặt ở sở ngay
lập tức.
- Đi xem phim vậy.
- Trong bóng tối tôi sẽ ngủ gật thôi.
- Thế th́ đi dạo.
- Ừ, ư hay đấy, tôi sẽ đi dạo, như vậy tôi sẽ không có vẻ là một
thằng ngốc lang thang trên hè phố. Anh làm ǵ vậy? Chả làm ǵ
hết, tôi dạo chơi ! Thế mà cô gọi là kỳ nghỉ cuối tuần à ? Mọi
việc trôi chảy với anh chàng bồ mới của cô chứ ?
- Không có ǵ đặc sắc cả, nhưng cũng có việc mà làm.
- Cô có biết cái ǵ là nhược điểm của đàn ông không ?
- Không, những ǵ vậy?
- Với một cô gái như cô, bọn đàn ông lẽ ra phải không biết thế
nào là buồn chán; giá tôi trẻ đi mười lăm tuổi, tôi sẽ ghi tên
vào danh sách bạn nhảy của cô !
- Nhưng anh trẻ hơn mười lăm tuổi so với cái mà anh tưởng đấy,
George !
- Tôi có thể coi đó là một lời tán tỉnh được không ?
- Anh cứ coi là một lời khen, thế đă không phải là xoàng rồi.
Thôi, tôi đi làm việc đây và anh th́ đi đến bệnh viện đi, họ có
vẻ hốt hoảng đấy.
George gặp nữ y tá trưởng Jarkowiski. Bà chăm chú nh́n người đàn
ông râu không cạo kỹ, người tṛn trịa nhưng lịch lăm.
- Thật là khủng khiếp,- bà nói- chưa bao giờ từng xảy ra một
việc như vậy cả.
Vẫn bằng giọng như vậy, bà nói thêm là chủ tịch hội đồng đang
hết sức xúc động, và muốn gặp ông chiều nay. Ông ấy cần phải
tŕnh bày vấn đề với các cấp quản lư vào buổi tối.
“Ông sẽ t́m
được cô ấy cho chúng tôi chứ, ông thanh tra ?”
- Nếu bà bắt đầu bằng việc kể cho tôi nghe tất cả từ đầu th́ có
thể được.
Jarkowski kể rằng vụ bắt cóc chắc chắn là xảy ra vào lúc giao
ca. C̣n chưa liên hệ được với cô y tá trực buổi tối, nhưng cô
trực ca đêm th́ khẳng định rằng giường bệnh đă trống khi cô đi
một ṿng kiểm tra vào lúc quăng 2 giờ. Cô tưởng rằng bệnh nhân
đă chết và giường th́ chưa được dành cho bệnh nhân khác, theo
tục lệ là phải để trống giường hai mươi tư giờ sau khi một bệnh
nhân qua đời. Chính là trong khi đi kiểm tra ṿng đầu tiên mà
Jarkowski nhận ra ngay lập tức tai hoạ và lên tiếng báo động.
- Có thể cô ấy tỉnh dậy khỏi cơn hôn mê và cô ấy đă chán ngấy
cái khách sạn này, cô ấy bèn đi dạo chơi, điều đó cũng chính
đáng thôi nếu như cô ấy đă phải nằm lâu quá rồi.
- Tôi rất thích sự khôi hài của ông, ông nên để cho bà mẹ cô ấy
cùng hưởng với, bà ấy đang trong pḥng làm việc của một người
lănh đạo khoa chúng tôi, vài phút nữa bà ấy sẽ đến đây thôi.
- Vâng, tất nhiên rồi – Pilguez vừa nói vừa nh́n xuống đôi giày
của ḿnh.- Nếu đó là một vụ bắt cóc th́ nhằm lợi ích ǵ ?
- Biết chuyện đó th́ được ǵ cơ chứ ?- y tá trưởng trả lời bằng
một giọng bực bội, như thể là họ đang làm mất thời gian.
- Bà biết đấy,- ông vừa nói vừa tiếp tục nh́n xuống- dù điều đó
kỳ lạ đến thế nào chăng nữa, th́ chín mươi chín phần trăm các vụ
phạm tội là có động cơ. Điều đó có nghĩa là, về nguyên tắc,người
ta không đến xoáy một bệnh nhân đang hôn mê một tối chủ nhật mà
cốt chỉ để đùa cho vui thôi. À mà bà có chắc là cô ấy không được
chuyển sang một khoa khác không ?
- Tôi biết chắc, có những phiếu chuyển viện thường trực, cô ấy
được chở đi bằng xe cứu thương.
- Công ty nào vậy ?- ông vừa hỏi vừa rút bút ch́ ra.
- Chẳng phải công ty nào cả.
Sáng nay khi bà đến, bà hoàn toàn không nghĩ tới chuyện có vụ
bắt cóc. Được báo là pḥng 505 đă trống, bà liền đi ra thường
trực ngay, “tôi cho là không thề chấp nhận được việc người ta
chuyển viện mà không báo cho tôi biết, nhưng ông biết đấy, thời
buổi bây giờ th́ sự tôn trọng cấp trên c̣n có được coi ra ǵ nữa
đâu”. Cô thường trực trao cho bà các giấy tờ, và bà “thấy ngay
lập tức” là có cái ǵ đó không ổn. Thiếu mất một loại giấy, và
tờ xanh chưa điền hết. “Tôi tự hỏi là làm sao mà cái con ngu ấy
lại để cho bị lợi dụng...” Pilguez muốn biết “con ngu” là ai.
Cô ta tên là Emmanuelle và trực hôm qua ở cửa ra vào.
“Chính cô
ta đă để xảy ra chuỵên đó”
George đă phát ngấy những lời lẽ của y tá trưởng, và do bà ta
vắng mặt khi xảy ra sự việc, ông ghi lại địa chỉ của toàn bộ
nhân viên trực hôm đó rồi chào bà ta.
Từ trong ôtô của ḿnh, ông gọi điện thoại cho Nathalia và yêu
cầu cô mời tất cả những người này ghé qua sở cảnh sát trước khi
đi làm việc.
Đến cuối ngày, ông đă nghe tất cả mọi người và được biết rằng,
đêm chủ nhật sang ngày thứ hai, một bác sĩ giả mặc áo blu đánh
cắp của một bác sĩ thật, ông này hơn thế nữa lại rất khó tính,
bác sĩ giả đă xuất hiện cùng một nhân viên tải thương, đem theo
những giấy tờ chuyển viện giả. Hai tên này đă mang đi không chút
khó khăn cơ thể của cô Lauren Kline, một bệnh nhân bị hôn mê kéo
dài. Những lời khai muộn màng của một sinh viên ngoại trú đă làm
ông phải sửa lại những báo cáo của ḿnh: bác sĩ giả này có thể
là một bác sĩ thật, anh ta đă bị anh sinh viên nói trên gọi đến
giúp, và đă giúp rất hiệu quả. Theo lời của cô y tá có tham dự
vào cái cảnh không lường trước này, th́ việc người ấy đặt đường
truyền ở tĩnh mạch trung tâm một cách rất chính xác khiến cho cô
nghĩ rằng anh ta phải là bác sĩ phẫu thuật hay chí ít cũng phải
làm việc trong một khoa cấp cứu. Pilguez hỏi rằng một y tá b́nh
thường có thể làm việc này được không, câu trả lời mà ông nghe
thấy là y tá có được đào tạo để làm việc này, nhưng dù sao đi
nữa th́ cách lựa chọn giải pháp, những chỉ dẫn cho anh sinh viên
và những động tác điêu luyện cho thấy người này thuộc về giới
bác sĩ th́ đúng hơn.
- Thế anh đă t́m được cái ǵ về vụ này rồi ? – Nathalia hỏi khi
đang chuẩn bị ra về.
- Có cái ǵ đó không b́nh thường. Một bác sĩ đi đánh cắp một phụ
nữ hôn mê trong bệnh viện. Một công việc chuyên nghiệp, xe cứu
thương vờ, giấy tờ hành chính giả mạo.
- Anh nghĩ đến cái ǵ ?
- Có thể là vụ buôn bán các bộ phận cơ thể người. Bọn chúng ăn
cắp cơ thể, chuyển vào một pḥng thí nghiệm bí mật, mổ xẻ, lấy
ra những bộ phận mà chúng cần, gan ,thận, tim, phổi, và tất cả
sẽ được đem bán lại với giá đắt cho những bệnh viện ít thận
trọng, nhưng cần tiền.
Ông yêu cầu cô t́m cách kiếm cho ông danh sách tất cả các bệnh
viện tư có một pḥng phẫu thuật xứng đáng với cái tên này và có
những khó khăn tài chính.
- Hai mươi mốt giờ rồi, ông bạn quư ơi, tôi muốn đi về, chuyện
đó để đến mai cũng được, những bệnh viện của anh họ không nộp
báo cáo tổng kết ban đêm chứ ?
- Cô có thấy là cô hay thay đổi ư kiến đến thế nào không, sáng
nay cô vừa ghi tên tôi vào danh sách bạn nhảy của cô và đến giờ
th́ cô lại từ chối ở lại cùng tôi một buổi tối tuyệt vời. Tôi
cần cô, Nathalia, giúp tôi một tay nào, cô vui ḷng chứ ?
- Anh là một người mưu mô, George ạ, sáng nay anh có nói bằng
cái giọng như thế này đâu.
- Ừ, nhưng bây giờ là tối cơ mà, cô giúp tôi chứ ? Cởi cái áo
ghilê của bà nội cô ra thôi và lại đây giúp tôi.
- Anh thấy đấy, yêu cầu một cách dễ thương như vậy th́ thật khó
mà từ chối. Chúc anh một buổi tối tốt lành nhé.
- Nathalia !
- Vâng, George !
- Cô tuyệt lắm !
- George, tim tôi không phải dành để được chinh phục đâu.
- Tôi có định nhằm cao đến thế đâu, cô bạn thân mến ạ !
- Câu đó anh tự nghĩ ra đấy à ?
- Không !
- Tôi cũng đă nghĩ là như vậy.
- Thôi, cô đi về nhà đi, tôi sẽ tự xoay xở.
Nathalia tiến về phía cửa, quay người lại:
- Anh có chắc là mọi việc sẽ ổn không ?
- Có chứ, đi về mà chăm sóc con mèo của cô đi !
- Tôi dụ ứng với mèo.
- Thế th́ ở lại giúp tôi.
- Chúc anh một đêm tốt lành. George.
Cô chạy nhanh xuống cầu thang, bàn tay lướt trên lan can.
Đội trực đêm đóng ở tầng dưới cùng. C̣n lại một ḿnh trên gác,
Pilguez bật màn h́nh máy vi tính và nối vào bộ phận lưu trữ dữ
liệu trung tâm. Ông gơ từ “bệnh viện tư” lên bàn phím và châm
một điếu thuốc lá trong khi đợi máy chủ thực hiện việc t́m kiếm.
Vài phút sau máy in bắt đầu nhả ra chừng sáu mươi trang giấy in.
Người đàn ông dáng dấp thô kệch bèn đi gom lại xấp giấy rồi đem
về bàn làm việc của ḿnh. “A, chỉ cần có thế thôi 1 Và để xác
định những bệnh viện có thể đang gặp khó khăn, chỉ cần phải liên
hệ với khoảng một trăm nhà băng trong vùng để hỏi xem danh sách
những cơ sở tư nhân đă xin vay tiền trong ṿng mười tháng qua.”
Ông nói to thành tiếng, và ở lối ra vào dưới ánh đèn mờ ảo, ông
nghe thấy tiếng Nathalia hỏi:
- Tại sao lại mười tháng vừa qua ?
- Tại v́ bản năng cảnh sát là như thế. Tại sao cô quay lại ?
- Tại v́ bản năng phụ nữ là như thế.
- Cô thật tốt bụng.
- Tất cả phụ thuộc vào việc sau đó anh sẽ đưa tôi đi ăn tối ở
đâu. Anh nghĩ là anh đă có một hướng rồi à ?
Ông cảm thấy hướng hiện tại có vẻ quá đơn giản. Ông muốn
Nathalia gọi điện cho pḥng điều phối xe tuần tra của thành phố
và hỏi xem trong hồ sơ của họ có lưu trữ dấu vết ǵ từ một báo
cáo đêm chủ nhật về một chiếc xe cứu thương không.
“Bao giờ
cũng có thể gặp may được”, ông nói. Nathalia nhấc máy điện
thoại. Ở đầu bên kia dây nói viên cảnh sát trực thử t́m trên máy
vi tính, nhưng không thấy một báo cáo nào cả. Nathalia yêu cầu
anh ta mở rộng phạm vi t́m kiếm ra cả vùng, nhưng màn h́nh máy
vi tính vẫn im bặt như cũ. Viên cảnh sát trực lấy làm áy náy,
nhưng không có một chiếc xe cứu thương nào là đối tượng của một
vụ vi phạm pháp luật hay bị kiểm tra vào đêm chủ nhật sang ngày
thứ hai cả. Cô yêu cầu anh ta báo cho biết mọi thông tin mới
liên quan đến chuyện này rồi dập máy.
- Tôi rất tiếc, họ chẳng có ǵ cả.
- Thế th́ tôi sẽ đưa cô đi ăn tối, v́ các nhà băng sẽ chẳng cho
ta biết ǵ tối nay đâu
Họ đên quán Perry và ngồi vào gian pḥng có cửa mở ra ngoài
phối.
George nghe Nathalia một cách lơ đăng, thả cái nh́n bồng bềnh
xuyên ra ngoài cửa kính.
- Chúng ta quen nhau bao lâu rồi nhỉ,George nhỉ ?
- Đó là loại câu hỏi không bao giờ nên đặt ra,cô bé ạ.
- Tại sao vậy ?
- Khi người ta yêu, người ta không tính.
- Bao lâu rồi?
- Đủ để cho cô dung thứ được tôi,chưa đủ để cho cô không chịu
nổi tôi!
- Không c̣n lâu hơn thế nhiều!
- Chuyện các bệnh viện tư có vẻ như không ăn nhập mấy.Tôi vấp
phải vấn đề động cơ,có lợi ích ǵ ở đây?
- Anh đă gặp bà mẹ chưa?
- Chưa, sáng mai mơi gặp.
- Có thể đó là bà ta,bà ta đă chán ngấy đi đến bệnh viện.
- Đừng có nói ngớ ngẩn thế, không thể là người mẹ được, như vậy
quá mạo hiểm.
- Tôi muốn nói là có thể bà ấy muốn chấm dứt cho xong. Ngày nào
cũng phải đến nh́n con ḿnh trong t́nh trạng này. Đôi khi người
ta phải muốn thôi điều đó đi c̣n hơn chấp nhận ư nghĩ về cái
chết.
- Thế cô có thấy người mẹ nào dựng lên một cú như vậy để giết
con gái ḿnh không ?
- Không, anh có lư, như vậy th́ quá điên rồ.
- Không có động cơ th́ ta không thể t́m ra được.
- Vẫn c̣n hướng các bệnh viện tư của anh đấy.
- Tôi nghĩ đó là ngơ cụt, tôi không cảm thấy ǵ ở đây cả.
- Tại sao anh nói thế ? Lúc trước anh muốn tôi ở lại làm việc
cùng anh tối nay cơ mà !
- Tôi muốn cô ăn tối với tôi hôm nay đấy chứ ! Tại v́ việc này
quá rơ ràng. Bọn chúng sẽ không thể tiếp tục được, tất cả các
bệnh viện trong vùng sẽ rất cảnh giác, và tôi không nghĩ giá của
một cơ thể duy nhất đáng để phải liều, bao nhiêu tiền một quả
thận nhỉ ?
- Hai thận, một gan, một lá lách, một tim ,tất cả có thể được
chừng một trăm năm mươi ngh́n đôla.
- Thế th́ đắt hơn ở hàng thịt đấy chứ !
- Anh thật là kinh tởm
- Cô thấy không, điều đó cũng không hợp lư, đối với một bệnh
viện đang gặp khó khăn th́ một trăm năm mươi ngh́n đôla chẳng
thay đổi được ǵ hết. Đây không phải là chuyện tiền bạc.
- Có thể đó là chuyện cần dùng.
Cô tŕnh bày ư của ḿnh: một người có thể sống hay chết tuỳ
thuộc vào việc có t́m được một bộ phận cơ thể phù hợp hay không.
Có người chết do không thể kiếm được kịp thời một quả thận hay
một lá gan mà họ cần. Một người có đủ năng lực tài chính có thể
trả tiền thuê bắt cóc một bệnh nhân hôn mê vô vọng để cứu con họ
hay cứu chính họ. Pilguez cho rằng hướng này phức tạp nhưng có
cơ sở. Nathalia không thấy thuyết của cô phức tạp ở chỗ nào. Nó
phức tạp với Pilguez. Một hướng như vậy sẽ mở rộng đáng kể danh
sách những kẻ bị t́nh nghi, họ sẽ không nhất thiết đi t́m một kẻ
tội phạm nữa. Để sống được hay để cứu sống con ḿnh, nhiều người
có thể bị cám dỗ bởi việc loại bỏ một người đă được công nhận là
chết về mặt lâm sàng. Tác giả có thể tự cảm thấy được gột sạch
khỏi khái niệm giết người, khi xét đến mục đích cuối cùng của
hành động của ḿnh.
- Anh nghĩ là phải đi tất cả các bệnh viện tư để nhận diện một
bệnh nhân kinh tế khá giả đang đợi ghép một bộ phận à ?- cô hỏi
- Tôi không mong thế v́ đó là một việc công phu trong một lănh
vực nhạy cảm.
Máy điện thoại di động của Nathalia reo lên, cô xin lỗi và nhấc
máy, nghe chăm chú, ghi lại trên khăn trải bàn, và cám ơn nhiều
lần người đối thoại của ḿnh.
- Ai thế ?
- Anh chàng trực ở pḥng điều phối, người mà tôi gọi điện cho
lúc năy ấy.
- Thế có chuyện ǵ ?
Nhân viên điều phối đă nảy ra ư nhắn tin cho các xe tuần tra ban
đêm, chỉ cốt kiểm tra xem có đội nào thấy ǵ đáng nghi ngờ ở một
xe cứu thương, nhưng không đáng ghi lại vào biên bản không.
- Thế rồi sao ?
- Vậy là anh ta đă có một sáng kiến rất hay, v́ có một xe tuần
tra đă giữ lại rồi theo dơi một xe cứu thương kiểu từ hồi sau
chiến tranh, cái xe này cứ lượn đi lượn lại ở khu vực Green
street, Filbert, Union street tối hôm qua.
- Có vẻ hấp dẫn đấy nhỉ, thế đội tuần tra nói ǵ ?
- Nói rằng họ đă đi theo người lái xe cứu thương này, anh ta kể
là cái xe đang đi về hưu sau mười năm phục vụ tận tuỵ. Họ nghĩ
là người lái xe quyến luyến cái xe của ḿnh nên anh ta lôi nó đi
lang thang trước khi đưa nó đến xưởng sửa chữa lần cuối cùng.
- Đó là xe ǵ vậy ?
- Xe Ford 71.
Pilguez nhẩm tính nhanh trong đầu. Nếu chiếc xe Ford được cho về
vườn tối qua sau mười năm hoạt động là xe 71 th́ điều đó có
nghĩa là nó đă nằm trong vỏ bọc mười sáu năm trước khi được đem
ra sử dụng. Người lái xe đă cho mấy cảnh sát ăn quả lừa rồi. Ông
đă có một hướng.
- Tôi c̣n có cái hay hơn nữa cơ- nữ đồng nghiệp của ông nói
thêm.
- Ǵ vậy ?
- Họ đă đi theo anh ta đến tận xưởng mà anh ta để xe vào. Và họ
có địa chỉ xưởng này.
- Cô biết không, Nathalia, thật may mà chúng ta không sống cùng
nhau, cô và tôi.
- Tại sao bây giờ anh lại nói thế ?
- Tại v́ nếu không th́ bây giờ tôi sẽ có một bằng chứng là tôi
bị mọc sừng.
- Anh biết không, George ? Anh là một thằng ngu chính cống. Anh
muốn đi đến đó ngay bây giờ à ?
- Không, sáng mai, xưởng sửa chữa chắc phải đóng cửa rồi và
không có lệnh th́ tôi chẳng làm ǵ được cả. Với lại tôi thích
đến đó mà không gây chú ư hơn. Tôi không định tóm cái xe mà là
tóm những kẻ đă sử dụng nó. Đến đó tham quan th́ tốt hơn là làm
cho lũ thỏ rừng chạy trốn vào hang.
Pilguez trả tiền ăn và cả hai đi ra ngoài hè phố. Nơi mà chiếc
xe cứu thương bị kiểm tra nằm cách chỗ họ vừa ăn một ngă tư
đường, và George nh́n góc phố như đang t́m kiếm một h́nh ảnh.
- Anh biết điều ǵ có thể làm cho tôi vui ḷng không ?
- Không, nhưng cô sẽ cho tôi biết.
- Đó là anh đến ngủ ở nhà tôi, tôi không muốn ngủ một ḿnh tối
nay
- Cô có một cái bàn chải đánh răng chứ ?
- Tôi có cái của anh !
- Tôi rất thích chọc ghẹo cô, chỉ có với cô là tôi vui đùa được.
Lại đây, ta đi thôi, tôi cũng vậy, tôi muốn ở lại với cô tối
nay. Đă lâu rồi đấy nhỉ.
- Từ thứ năm trước
- Tôi cũng bảo thế.
Khi họ tắt đèn, một tiếng rưỡi sau đó, George đă tin chắc rằng
ông sẽ giải quyết được điều bí ẩn này, và những niềm tin của ông
thường là cứ hai lần là có một lần đúng sự thực. Thứ ba là một
ngày làm việc hiệu quả. Sau khi gặp bà Kline, ông loại bỏ mọi
nghi ngờ đối với người đàn bà ấy, ông được biết rằng chính các
bác sĩ cũng đề nghị chấm dứt ca bệnh này. Từ hai năm nay luật
pháp nhắm mắt trong những trường hợp tương tự. Người mẹ đă có
thái độ hợp tác, trông bà rơ ràng là rất xáo động, và Pilguez
biết phân biệt những người thành thực với những kẻ cố tạo ra đau
đớn tinh thần. Bà hoàn toàn không phù hợp với một kẻ có khả năng
tổ chức một phi vụ như vậy. Ở xưởng sữa chữa, ông đă xác định
chiếc xe mà bọn tội phạm sử dụng. Khi đi vào xưởng, ông đă bị
bất ngờ: ở đây chuyên sửa chữa các loại xe cứu viện; xưởng
thùng xe này chỉ có toàn những xe cứu thương phải tu sửa thôi.
Bốn mươi thợ cơ khí và quăng một chục nhân viên hành chính làm
việc ở đây. Tổng cộng lại, có gần năm mươi con người có thể bị
t́nh nghi. Ông chủ xưởng, vẻ hoài nghi, nghe câu chuyện của viên
thanh tra xong và thắc mắc là điều ǵ có thể thúc đẩy tác giả
của vụ tội phạm ngoan ngoăn mang xe về trả mà không phi tang nó
đi. Pilguez trả lời rằng việc xe bị mất trộm sẽ báo động cảnh
sát và cảnh sát có thể t́m ra môi liên hệ. Một người làm việc
trong xưởng có thể tham gia vào âm mưu này và đă hy vọng rằng
việc “mượn tạm” sẽ không bị phát hiện.
Chỉ cần xem ai đă dính vào đây. Theo ông giám đốc th́ không có
ai cả, ổ khoá không có dấu vết bị bẻ và không ai có ch́a khoá
xưởng để đi vào đó ban đêm. Ông hỏi chủ xưởng xem điều ǵ đă có
thể khiến cho những kẻ đi “mượn” chọn cái xe kiểu cũ ấy, ông này
giải thích rằng đó là cái xe duy nhất mà cách lái xe giống một
ôtô b́nh thường. Pilguez thấy đó là một dáu hiệu thêm nữa chứng
tỏ rằng một nhân viên của xưởng là ṭng phạm trong “vụ án của
ông”. Trả lời câu hỏi liệu có khả năng là một người thó ch́a
khoá và đánh lại một ch́a khác trong ngày được không, chủ xưởng
trả lời là được: “Có thể là thế được, vào buổi trưa, khi chúng
tôi đóng cửa chính.” Như vậy tất cả đều là đối tượng t́nh nghi.
Pilguez yêu cầu đem cho ông hồ sơ nhân sự, và ông xếp lớp trên
cùng hồ sơ của những nhân viên đă rời xưởng trong ṿng hai năm
qua. Ông trở về sở cảnh sát vào quăng mười bốn giờ. Nathalia đi
nghỉ ăn trưa vẫn chưa quay lại, ông đắm ḿnh vào việc phân tích
kỹ càng năm mươi bảy túi hồ sơ màu nâu mà ông đặt trên bàn. Cô
đến quăng mười lăm giờ, trang điểm bằng một kiểu tóc mới và sẵn
sàng lănh chịu những lời châm chọc của ông bạn đồng nghiệp của
ḿnh.
- Im miệng nhé, George, anh lại sắp nói một nhảm nhí đấy- cô nói
khi vừa mới bước vào, thậm chí chưa kịp đặt túi của ḿnh xuống
nữa.
Ông rời mắt khỏi chồng giấy của ḿnh, nh́n cô chăm chú và nở một
nụ cười. Trước khi ông kịp nói bất cứ điều ǵ, cố đến gần ông và
đặt ngón tay trỏ của ḿnh lên miệng ông để ông không thốt được
một lời: “Có một cái sẽ làm anh quan tâm hơn kiểu tóc của tôi
nhiều, và tôi chỉ nói cho anh biết nếu anh miễn cho mọi lời b́nh
luận, đồng ư chứ?” Ông làm ra vẻ bị bịt miệng và phát ra một
tiếng làu nhàu đồng nghĩa với sự chấp thuận của những điều kiện
giao kèo.
- Bà mẹ của cô gái gọi điện đến, bà ấy nhớ ra một chi tiết quan
trọng cho việc điều tra của anh và bà ấy muốn anh gọi điện lại
cho bà ấy. Bà ấy ở nhà và đợi cú điện thoại của anh.
- Nhưng tôi mê kiểu tóc của cô lắm, nó rất hợp với cô
Nathalia mỉm cười và trở về bàn làm việc của ḿnh ở máy điện
thoại, bà Kline báo cho Pilguez biết về cuộc nói chuyện kỳ lạ
của bà với một người đàn ông trẻ tuổi t́nh cờ gặp ở khu Marina,
người này đă thuyết giáo rất sôi nổi cho bà về euthanasie.
Bà kể cho ông từng chi tiết về cuộc gặp gỡ với một kiến trúc sư
mà có thể Lauren đă quen ở khoa cấp cứu v́ một vết thương do dao
rọc giấy. Anh ta bảo rằng thường ăn trưa với con gái bà. Mặc dù
con chó có vẻ nhận ra anh ta, nhưng bà thấy không chắc một khi
con gái bà không bao giờ nói về anh ta cả, nhất là nếu đúng như
anh ta nói th́ họ đă gặp nhau từ hai năm trước đây. Chi tiết này
hẳn là sẽ làm cho cuộc điều tra trở nên dễ dàng hơn. “Xem nào”,
viên cảnh sát tức khắc lầm bầm. “Đại thể là, - ông kết luận – bà
yêu cầu tôi đi t́m một kiến trúc sư bị một vết thương cách đây
hai năm, được con gái bà chữa trị, và chúng ta cần phải nghi
ngờ, v́ trong cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên với bà, anh ta đă tỏ ra
phản đối euthanasie ?”
- Ông không thấy đó là một hướng đáng chú ư à ? - bà hỏi.
- Không, không thật đáng chú ư lắm, - và ông dập máy.
- Thế nào, có chuyện ǵ vậy ? - Nathalia hỏi.
- Dù sao th́ kiểu tóc lửng của cô trông cũng được lắm.
- Đồng ư, vậy là mừng hụt.
Ông lại lao vào đống hồ sơ của ḿnh, nhưng không một hồ sơ nào
có điều ǵ nghi vấn. Bực ḿnh, ông vớ lấy ống điện thoại, kẹp
giữa tai và cằm, rồi bấm số máy tổng đài của bệnh viện. Cô trực
tổng đài trả lời sau hồi chuông thứ chín.
- Này, tốt nhất là không nên chết với cô !
- Không, để chết th́ ông cứ gọi thẳng đến nhà xác – cô trực tổng
đài đối lại chan chát.
Ông tự giới thiệu, và hỏi cô gái xem liệu hệ thống máy tính ở
chỗ cô có cho phép t́m kiếm về những ca được nhận vào khao cấp
cứu theo nghề nghiệp và loại thương tích không. “Chuyện đó phụ
thuộc vào khoảng thời gian mà ông t́m kiếm”, cô trả lời. Rồi cô
nói thêm là dù sao th́ luật bí mật y tế cũng ngăn cô tiết lộ
thông tin, nhất là qua điện thoại. Ông dập phắt máy điện thoại,
lấy áo khoác và đi ra cửa. Chạy nhanh xuống cầu thang, ông đi ra
chỗ đậu xe, và hối hả bước về phía xe ôtô của ḿnh. Ông phóng xe
qua thành phố, miệng không ngớt chửi rủa, đèn xoay sáng lên trên
mái và c̣i ôtô rú lên ầm ĩ. Chưa đầy mười phút sau ông đă đến
bệnh viện Memorial và đứng trước quầy đón tiếp.
- Các vị yêu cầu tôi t́m một cô gái bị hôn mê mà người ta nẫng
đi của các vị đêm chủ nhật này; hoặc là ở đây các vị giúp đỡ
tôi, và đừng làm tôi bực ḿnh với cái bí mật thầy lang nhảm nhí
của các vị, hoặc là tôi đi làm việc khác.
- Tôi có thể làm ǵ được cho ông ?- bà Jarkowski vừa xuất hiện ở
cửa bèn hỏi.
- Cho tôi biết là liệu máy vi tính của các ông bà có thể t́m một
kiến trúc sư mà có vẻ là đă từng bị thương và từng được người
hiện đang mất tích của các ông bà nhận chữa được không ?
- Lúc nào ?
- Cứ cho là trong ṿng hai năm trở lại đây ?
Bà nghiêng người xuống máy vi tính và gơ vào mấy phím trên bàn
phím.
- Ta sẽ xem những ca nhập viện, và t́m một kiến trúc sư-bà nói-
việc này sẽ mất vài phút.
- Tôi đợi.
Màn h́nh trả lời sau sáu phút. Không có một kiến trúc sư nào
được chữa về loại vết thương này trong ṿng hai năm qua.
- Bà có chắc không?
Bà khẳng định dứt khoát, mục “nghề nghiệp” là bắt buộc phải
khai, do việc bảo hiểm và để làm thống kê về những tai nạn nghề
nghiệp. Pilguez cảm ơn bà và quay ngay về sở cảnh sát. Trên
đường về, câu chuyện này bắt đầu làm ông day dứt không yên. Kiểu
day dứt mà chỉ trong chốc lát đă huy động toàn bộ sự tập trung
của ông và làm ông quên đi tất cả những hướng có thể khác, ngay
khi ông cảm thấy có được một mắt xích thực sự trong chuỗi điều
tra của ḿnh. Ông lấy điện thoại di động và bấm số máy của
Nathalia.
- T́m cho tôi xem có kiến trúc sư nào sống ở trong khu vực mà
chiếc xe cứu thương bị phát hiện không. Tôi đợi ở máy.
- Đó là Union, Filbert và Green phải không ?
- Và Webster nữa, nhưng mở rộng t́m kiếm thêm ra cả hai phố bên
cạnh.
- Tôi sẽ gọi lại cho anh, cô nói rồi dập máy.
Ba văn pḥng kiến trúc sư và nhà ở của một kiến trúc sư phù hợp
với yêu cầu, chỉ có nhà của kiến trúc sư là nằm trong phạm vi
nghiên cứu đầu tiên. Một văn pḥng th́ nằm ở phố sát bên cạnh,
hai văn pḥng khác th́ cách đó hai phố. Về đến pḥng làm việc
ông bèn liên hệ với ba văn pḥng này để tính số người làm việc
tại đó. Hai mươi bảy người cả thảy. Tóm lại, đến lúc mười tám
giờ ba mươi phút ông đă có gần tám chục đối tượng t́nh nghi, một
người trong số đó có thể đang đợi được ghép một bộ phận cơ thể
hoặc có người thân đang trong t́nh trạng đó. Ông suy nghĩ giây
lát rồi nói với Nathalia.
- Dịp này ta đang có thừa một thực tập sinh phải không ?
- Ta chả bao giờ có thừa người cả ! Nếu không tôi đă có thể về
nhà sớm sủa được, và tôi sẽ không phải sống như một cô gái già.
- Cô cứ tự làm khổ ḿnh, cô bạn thân mến ạ, cô cử cho tôi một
người đi cắm chốt trước cửa cái nhà gă sống trong khu vực ấy, và
bảo thử chụp cho tôi một bức ảnh của gă khi nào gă đi về nhà.
Sáng hôm sau Pilguez được biết rằng cậu thực tập sinh đă tốn
công vô ích, người kiến trúc sư ấy đă không về nhà ban đêm.
- Ra vậy,- ông nói với chàng thực tập sinh trẻ - tối nay cậu
phải cho tôi tất cả thông tin về gă này, gă bao nhiêu tuổi. xem
gă có phải là pêđê không, có x́ ke ma tuư hay không, gă làm việc
ở đâu, gă có nuôi chó mèo hay nuôi vẹt, hiện giờ gă đang ở đâu,
việc học hành của gă thế nào, gă có từng vào quân đội hay không,
tất cả những thói tật của gă. Cậu gọi điện cho bên quân đội, cho
FBI, ǵ cũng được, tôi mặc kệ, nhưng tôi muốn biết tất cả.
- Tôi chính là pêđê đấy, thưa ông thanh tra ! - cậu thực tập trả
lời với đôi chút hănh diện.- Nhưng điều đó không ngăn cản công
việc mà ông yêu cầu tôi.
Viên thanh tra, vẻ mặt cau có, cả phần c̣n lại của ngày dùng vào
việc lập ra một bảng tổng hợp những hướng mà ông đă có, nhưng
không có ǵ cho phép ông lạc quan được cả. Nếu như chiếc xe cứu
thương đă được nhận diện nhờ một sự may mắn bất chợt, th́ không
có một hồ sơ nhân sự nào của xưởng sửa chữa chỉ ra được một đối
tượng nghi vấn giả định, điều đó dẫn đến việc phải dự kiến một
số lượng lớn các cuộc thẩm vấn ở địa bàn đă được phát hiện. Hơn
sáu chục kiến trúc sư sẽ bị hỏi v́ đă làm việc ở những vùng phụ
cận hay sống chính trong khu vực nơi chiếc xe cứu thương lượn đi
lượn lại buổi tối xảy ra vụ bắt cóc.
Một người trong số họ có thể bị nghi ngờ v́ đă vuốt ve con chó
của bà mẹ nạn nhân, và đă tỏ rơ sự phản đối của euthanasie, điều
mà, Pilguez tự thú nhận với chính ḿnh, không thể xác định được
là động cơ của vụ bắt cóc. Đúng là “một cuộc điều tra chết
tiệt”, nói chính xác theo cách của ông th́ là như vậy.
Buổi sáng thứ tư ấy, mặt trời nhô lên ở phía làng Carmel đang bị
phủ một làn sương mỏng. Lauren thức dậy sớm. Cô ra đi khỏi pḥng
để khỏi làm Arthur thức giấc, và bực bội v́ không thể chuẩn bị
được cho anh dù chỉ một bữa sáng đơn giản. Sau cùng, nếu phải
lựa chọn, cô tự thú nhận rằng cô biết ơn v́ trong cái t́nh trạng
bất b́nh thường như thế này mà anh vẫn có thể chạm vào cô, cảm
thấy cô, và yêu cô như một phụ nữ hoàn toàn cuộc sống của ḿnh.
Có cả một loạt hiện tượng mà cô sẽ không bao giờ hiểu và cũng
chẳng t́m cách hiểu làm ǵ nữa. Cô nhớ lại điều mà một hôm cha
cô nói với cô:
“Không có ǵ là không thể, duy chỉ có những giới hạn trí tuệ
chúng ta là xác định một số thứ như là không thể tưởng tượng
được mà thôi. Phải thường xuyên giải quyết nhiều phương tŕnh để
chấp nhận một lập luận mới. Đó là một vấn đề của thời gian và
của những giới hạn trong bộ óc của chúng ta. Ghép tim, làm cho
một chiếc máy bay nặng ba trăm năm mươi tấn bay được, đi trên
mặt trăng, những cái đó đ̣i hỏi rất nhiều công lao, nhưng nhất
là phải có trí tưởng tượng. V́ thế khi các nhà thông thái của
chúng ta tuyên bố rằng không thể ghép năo, bay với tốc độ ánh
sáng, nhân bản một con người, bố nghĩ rằng rốt cục họ không biết
ǵ hết về những hạn chế của chính họ, hạn chế trong việc dự kiến
rằng tất cả đều có thể và đó chỉ là vấn đề thời gian, thời gian
để hiểu làm sao mà có thể được”
Tất cả những ǵ mà cô đang nếm trải và thử nghiệm đều phi logic,
không thể giải thích được, trái với mọi nền tảng tri thức khoa
học của cô, nhưng nó đă xảy ra. Và từ hai ngày nay, cô làm t́nh
với một người đàn ông và có những cảm xúc và cảm giác mà cô chưa
từng biết đến, ngay cả khi cô sống b́nh thường, khi linh hồn và
thể xác chỉ là một. Cái quan trọng nhất đối với cô, khi cô ngắm
nh́n quả cầu lửa đang nhô lên phía chân trời kia, đó là điều này
kéo dài.
Anh dậy sau cô một lát, t́m cô trong giường, khoác vào người
chiếc áo choàng mặc nhà và đi ra thềm. Những sợi tóc của Arthur
rối tung chả ra nề nếp ǵ cả, anh bèn lấy tay vuốt lên để thiết
lập lại trật tự. Anh ra gặp cô bên bờ vách đá và ôm gh́ lấy cô
khi cô c̣n chưa kịp trông thấy anh.
- Thật là một cảnh gây ấn tượng, anh nói.
- Anh biết không, em nghĩ là nếu như không thể dự kiến được
tương lai, ta có thể khép lại chiếc vali và sống với hiện tại.
Anh có muốn uống một tách cà phê không ?
- Anh nghĩ đó là điều nhất thiết phải làm. Sau đó th́ dẫn em đi
xem những con sư tử biển bơi ở phía mũi đá.
- Sư tử biển thật à ?
- Cả chó biển nữa, và chim bồ nông, và... trước kia em chưa bao
giờ đến đây à ?
- Em đă thử một lần nhưng điều đó chẳng đem lại ǵ cho em cả.
- Cái ấy cũng tương đối thôi, c̣n phụ thuộc vào chuyện em nh́n
sự việc dưới góc độ nào nữa. Với lại, anh tưởng rằng chúng ta
phải khép lại những chiếc vali và sống với hiện tại chứ ?
Cũng buổi sáng thứ tư ấy, anh thực tập sinh đặt, không một tiếng
động, tập hồ sơ dày mà anh ta đă tập hợp lên trên bàn làm việc
của Pilguez.
- Kết quả thế nào?- Pilguez hỏi trước khi đọc lướt qua.
- Ông sẽ thất vọng và đồng thời sẽ vui mừng.
Để biểu lộ sự sốt ruột của ḿnh đă đến sát ranh giới của sự bực
tức, Pilguez vỗ vỗ vào nút cavát của ông: “Một hai, một hai, tốt
rồi anh bạn ạ, micro của tôi dùng được rồi, tôi ngeh cậu!” Anh
thực tập đọc những ǵ đă ghi chép của ḿnh: gă kiến trúc sư của
ông chẳng có ǵ đáng ngờ cả. Đó là một người mọi thứ đều b́nh
thường, anh ta không x́ ke ma tuư, anh ta có quan hệ tốt với
hàng xóm láng giềng, tất nhiên là không có tiền án. Anh ta đă
học ở California, đă sống một thời gian ở Châu âu trước khi trở
về lập nghiệp ở thành phố quê hương ḿnh. Anh ta không thuộc về
một đảng phái chính trị nào, không phải là thành viên của một
giáo phái nào, không tham gia ủng hộ một hoạt động nào. Anh ta
trả thuế, trả tiền phạt đầy đủ, và thậm chưa hề bị phạt trong
t́nh trạng say rượu hay lái xe quá tốc độ. “Tóm lại đó là một gă
nhạt nhẽo”
- Thế tại sao tôi sẽ vui mừng ?
- Anh ta thậm chí không phải là pêđê nữa!
- Nhưng tôi có phản đối pêđê đâu chứ, thổ tả, thôi cái tṛ ấy đi
! C̣n có cái ǵ nữa trong báo cáo của cậu ?
Địa chỉ cũ của anh ta, ảnh anh ta, hơi cũ một chút, tôi lấy được
ở pḥng đăng kư xe, ảnh này cách đây bốn năm, anh ta cần phải
đổi bằng lái xe mới vào cuối năm nay; môt bài báo mà anh ta đăng
trong Architectural Digest, bản sao bằng cấp của anh ta, và danh
sách các tài sản nhà băng cùng các giấy chứng thực quyền sở hữu
của anh ta.
- Làm thế nào cậu có được những cái đó ?
- Tôi có thằng bạn làm việc ở Sở thuế. Gă kiến trúc sư của ông
mồ côi cha mẹ, và anh ta được thừa kế một ngôi nhà ở vịnh
Monterey.
- Cậu nghĩ là anh ta đang đi nghỉ ở đó à ?
- Anh ta đang ở đó, và cái duy nhất sẽ làm ông bị kích động, đó
chính là cái lều này.
- Tại sao ?
- Tại v́ ở đó anh ta không có điện thoại, điều mà tôi cảm thấy
ḱ lạ đối với một ngôi nhà biệt lập, điện thoại bị cắt từ hơn
mười năm nay và chưa bao giờ được nối lại cả. Ngược lại, anh ta
đă yêu cầu cho lại điện hôm thứ sáu tuần trước, cả nước cũng
thế. Anh ta trở lại ngôi nhà này lần đầu tiên kể từ rất lâu rồi
vào cuối tuần vừa qua. Nhưng đó không phải là một tội ác.
- Này, cậu thấy đấy, chính cái thông tin cuối cùng này làm cho
tôi vui ḿnh !
- Th́ chính thế !
- Cậu đă làm việc cừ đấy, nhất định cậu sẽ thành một cảnh sát
tốt một khi đầu óc cậu gàn dở như vậy.
- Từ miệng ông phát ra, tôi chắc rằng tôi cần phải coi đó là một
lời khen.
- Cậu có thể coi như thế được ! - Nathalia nói.
- Cậu mang bức ảnh đến gặp bà Kline đi, và hỏi xem đó có phải là
người không thích euthanasie ở khu Marian không, nếu bà ấy nhận
diện đúng anh ta th́ ta sẽ có một đầu mối quan trọng đấy.
Anh thực tập rời sở cảnh sát và Goerge pilguez vùi đầu vào tập
hồ sơ của Arthur. Sáng ngày thứ năm có rất nhiều kết quả. Vào
những giờ đầu tiên, anh thực tập báo cáo với ông rằng bà Kline
đă nhận diện dứt khoát người trong ảnh. Nhưng cái tin mới thực
sự th́ xuất hiện với ông đúng trước khi ông đưa Nathalia đi ăn
trưa. Chi tiết này ở dưới mắt ông từ lâu nhưng trước đây ông
không nh́n thấy mối liên hệ. Địa chỉ của cô gái trẻ bị bắt cóc
chính là địa chỉ của người kiến trúc sư trẻ. Điều đó làm nên quá
nhiều dấu hiệu để anh ta không xa lạ với vụ này.
- Anh cần phải vui mừng chứ, cuộc điều tra của anh có vẻ tiến
triển cơ mà. Tại sao anh lại cau có thế ?- Nathalia vừa hỏi vừa
nhấm nháp Coca.
- Tại v́ tôi không thấy lợi ích của anh ta ở đâu. Anh chàng này
không có vẻ là một kẻ loạn óc. Người ta không đi xoáy một cơ thể
hôn mê trong bệnh viện một cách vô cớ để chọc cười bạn bè. Cần
phải có một lư do thực sự. Thêm nữa theo lời của những người ở
bệnh viện th́ cần phải có một kinh nghiệm nhất định để đặt cái
cầu trung tâm này.
- Đó là đường truyền trung tâm, không phải là cầu. Anh ta có
phải là bồ của cô gái không ?
Bà Kline đă đảm bảo điều trái lại, và bà ấy hết sức khẳng định
về điểm này. Bà gần như chắc chắn rằng họ không quen nhau.
- Có mối quan hệ ǵ với căn hộ không ?
- Cũng không có nốt, viên thanh tra nói tiếp, anh ta là người
thuê nhà và theo như hăng bất động sản th́ hoàn toàn t́nh cờ anh
ta dọn vào chỗ ấy. Anh ta đangd 9ịnh kư một hợp đồng thuê cái
nhà khác ở Filbert cơ, và chính một nhân viên sốt sắng của hăng
đă nhất quyết muốn chỉ cho anh ta xem cái nhà này “mà vừa vào lô
của họ “..đúng trước lúc anh ta kư. Cô biết đấy, loại người khác
đời, hơi tỏ vẻ, muốn lấy ḷng tin của khách hàng bằng cách thực
sự tận tâm.
- Như vậy là không hề có chủ ư trước đối với chuyện địa chỉ.
- Không, đó thực sự là trùng hợp thôi.
- Thế th́ liệu có phải là anh ta được không ?
“Không, không thể nói là phải được”, ông trả lời ngắn gọn, không
một yếu tố nào riêng biệt chứng tỏ rằng anh ta có dính líu.
Nhưng sự chồng chéo của các mảnh làm thành bức tranh ghép th́
thật đáng bàng hoàng. Điều đó có nghĩa là không t́m được động cơ
th́ Pilguez không thể làm ǵ được cả. “Không thể buộc tội một
người v́ vài tháng nay anh ta thuê căn hộ của một phụ nữ bị bắt
cóc đầu tuần này. Rút cục tôi sẽ khó ḷng t́m được một vị kiểm
sát trưởng chịu nghe lời tôi. Cô gợi ư ông thẩm vấn anh ta và
làm anh ta không chịu được nữa phải phun ra “dưới ánh đèn”. Viên
cảnh sát già cười khẩy.
- Tôi h́nh dung ra phần đầu cuộc thẩm vấn của tôi: Thưa ông, ông
thuê căn hộ của một phụ nữ trẻ đang bị hôn mê, người này đă bị
bắt cóc đêm ngày chủ nhật rạng sáng ngày thứ hai. Ông đă cho nối
lại điện và nước ngôi nhà ở làng của ông ngày thứ sáu trước khi
xảy ra vụ tội phạm. Tại sao thế ? Thế là anh ta giương mắt lên
mà nh́n tôi rồi bảo rằng anh ta không hoàn toàn tin là đă hiểu ư
nghĩa câu hỏi của tôi. Tôi chỉ c̣n nước là nói toẹt ra với anh
ta rằng anh ta là đầu mối duy nhất của tôi và sẽ rất tiện cho
tôi nếu anh ta đă làm cái vụ ấy.
- Dành hai ngày để theo dơi anh ta xem !
- Không có ư kiến của kiểm sát trưởng, tất cả những ǵ tôi mang
về đều vô hiệu và coi như không có.
- Không phải vậy nếu anh mang được cơ thề về và cô ta hăy c̣n
sống !
- Cô tin đó là anh ta à ?
- Tôi tin vào sự nhạy bén của anh, tôi tin vào các dấu hiệu, và
tôi tin rằng khi anh có vẻ mặt như vậy tức là anh biết rằng anh
đă có thủ phạm nhưng anh c̣n chưa biết làm sao tóm được hắn.
George, điều quan trọng nhất là t́m được cô gái, dù đang bị hôn
mê th́ đó cũng là một con tin, anh thanh toán tiền rồi đến làng
ấy đi.
Pilguez đứng dậy, hôn lên trán Nathalia, đặt tiền lên bàn và đi
ra phố một cách vội vă.
Trong ba tiếng rưỡi đồng hồ đưa ông đến Carmel, ông không ngừng
t́m kiếm một động cơ tội phạm, rồi ông nghĩ về cách tiếp cận con
mồi của ḿnh mà không làm cho hắn sợ hăi, không khêu gợi sự chú
ư của hắn.
o0o
|