Chương 9 -
Bản phúc tŕnh
thứ hai của bác sĩ Watson
Lâu đài Baskerville, 15 tháng 10
Holmes thân mến,
Tôi đă kết thúc bản phúc tŕnh gần đây bằng việc mô tả tấn kịch
của Barrymore cạnh cửa sổ của căn pḥng trống không. Từ đó đến
nay tôi đă góp được hàng đống tin tức.
Vào buổi sáng sau cuộc trinh sát ban đêm của tôi, tôi có xem xét
căn pḥng mà Barrymore đă vào. Cửa sổ mà ông ta chăm chú nh́n
qua đó rất tiện lợi cho việc nh́n ra khu đầm lầy, hơn tất cả các
cửa sổ khác. Qua khe hở giữa hai hàng cây, khu đầm lầy hiện rơ
mồn một; trong khi đó, từ những ô cửa sổ khác hầu như không nh́n
thấy nó. Bởi vậy, Barrymore chọn cửa sổ này để nh́n ai đó hoặc
cái ǵ đó trên khoảng rộng bao la của khu đầm lầy. Tuy nhiên đêm
tối mịt mù, tôi không biết ông ta có thể phân biệt được cái ǵ.
Rất có thể đó là chuyện dan díu yêu đương nào không? Điều đó có
thể giải thích tính thận trọng trong hành động của ông và nỗi
khổ đau của vợ ông. Một người với vẻ bề ngoài như ông có đủ điều
kiện để quyến rũ trái tim của cô gái thôn quê nào đấy, và v́
vậy, giả thiết này không phải không có cơ sơ. Sau lúc trở về
pḥng ḿnh, tôi nghe thấy tiếng mở cửa ở đâu đó. Có lẽ ông
Barrymore đă đi đến cuộc hẹn ḥ bí mật nào chăng? Sau bữa sáng,
tôi cùng nam tước đi vào pḥng làm việc của ngài. Tại đây tôi đă
kể cho ngài nghe tất cả. Ngài nghe với một thái độ rất điềm
tĩnh.
- Tôi biết Barrymore đêm đêm hay đi dạo và tôi định hỏi ông ấy
từ lâu rồi. Một vài lần tôi có nghe thấy bước chân của ông ta
vào khoảng thời gian như ông vừa nói.
- Rất có thể, nếu thế th́ cần theo dơi xem ông ta làm ǵ ở đấy.
Chẳng biết trong trường hợp này Holmes sẽ làm như thế nào.
- Tôi tin rằng anh ấy cũng sẽ theo sau Barrymore.
- Vậy th́ chúng ta sẽ cùng giám sát ông ta.
- Nhưng ông ấy sẽ nghe thấy chúng ta mất.
- Không, ông ta nghễnh ngăng. Và dẫu sao ta cũng cần bạo dạn mà
làm thôi. Nào, đêm nay chúng ta sẽ đợi ông ấy ở pḥng tôi vậy.
Nam tước thích thú xoa xoa hai tay vào nhau khi nghĩ tới cơ hội
nhỏ nhất làm cho ḍng đời có thêm một vẻ đa dạng nào đó.
Nam tước đă liên lạc với kiến trúc sư, và đồng thời cho mời
người thầu khoán từ London tới. Cho nên ở đây không bao lâu nữa
sẽ có những biến đổi lớn lao. Những họa sĩ trang trí và những
thợ đóng đồ gỗ cũng từ Plymouth đến. Rơ ràng người bạn của chúng
ta đă không tiếc cả công sức lẫn tiền của để tái lập lại sự huy
hoàng xưa kia của ḍng họ ḿnh. Khi ngôi nhà trong tương lai
được sửa sang và xếp đặt lại. Nam tước chỉ c̣n thiếu một người
vợ. Ngài rất say đắm người láng giềng. Tuy vậy mối t́nh không
thật phẳng lặng, hôm nay trên bề mặt của mối t́nh đó xuất hiện
những gợn sóng lăn tăn làm người bạn của chúng ta hoang mang và
lo ngại.
Sau câu chuyện về Barrymore, ngài Henry đội mũ và định đi đâu
đó. Cố nhiên tôi cũng làm y như thế.
- Ông đi với tôi chứ, Watson? - Ngài hỏi sau khi nh́n tôi là lạ
thế nào ấy.
- Nếu đi tới khu đầm lầy th́ tôi đi - Tôi trả lời.
- Tới khu đầm lầy.
- Tôi không muốn cản trở ngài, nhưng Holmes đă không bảo tôi để
ngài ở một ḿnh, nhất là trên khu đầm lầy. Chính ngài cũng được
nghe điều đó.
Với nụ cười hiền dịu, ngài Henry vỗ vào vai tôi nói:
- Bạn thân mến ạ, Holmes không thể thấy rơ mọi chi tiết trong sự
biến chuyển của cuộc sống của tôi ở đây được, ông hiểu tôi chứ?
Vậy chắc không có ai muốn ngăn cản tôi. Không, ông cho phép tôi
đi một ḿnh.
Tự anh cũng thấy được t́nh cảnh của tôi ra sao rồi. Tôi bối rối,
trong lúc ngài đă cầm lấy gậy của ḿnh và đi ra.
Nhưng sau ít phút suy nghĩ, lương tâm bắt đầu hành hạ tôi. Tại
sao tôi cho phép ông ấy đi ra ngoài sự giám sát của ḿnh rồi sau
khi trở lại London tôi sẽ phải thú nhận với anh là sự dễ dăi của
tôi đă đẩy chúng ta tới thảm họa như thế nào? Tôi như bị ném vào
lửa trong ư nghĩ này. Vẫn c̣n chưa muộn, có thể đuổi kịp ông ấy.
Và tôi lập tức đi tới Mernpit.
Tôi rảo bước theo con đường lớn. Vẫn chưa thấy ngài Henry. Vài
phút sau, tôi đến gần chỗ bắt đầu con đường ṃn đi sâu vào khu
đầm lầy. Tôi phân vân không biết nên chọn đường nào. Thế là tôi
trèo lên quả đồi và từ đó nh́n xuống khu đầm lầy.
Tôi đă thấy Nam tước. Ông bước theo con đường ṃn cách tôi chừng
một phần tư dặm, đi cạnh ông là một người phụ nữ: cô Stapleton,
họ bước đi rất chậm. Nh́n theo điệu bộ của cô gái th́ cô đang cố
gắng thuyết phục ngài Henry tin vào điều ǵ đấy. Ngài Henry chăm
chú nghe, thỉnh thoảng lắc đầu. Khi không biết ẩn ḿnh vào đâu,
tôi đành đứng vào giữa các tảng đá. Đuổi theo họ, phá vỡ câu
chuyện thân t́nh này là không thể được. Nhưng nhiệm vụ của tôi ở
đâu? Là ở chỗ không được một giây phút nào rời mắt khỏi ngài
Henry. Thế mà tôi không có cách giải quyết nào khác và cứ tiếp
tục đứng trên đỉnh đồi để quan sát họ. Nhưng như vậy, nếu ngài
đột nhiên bị nguy hiểm th́ tôi không thể giúp ǵ được.
Đi được vài bước, ngài Nam tước và cô gái dừng lại và lúc đó tôi
bất ngờ nhận ra rằng tôi không phải là người duy nhất chứng kiến
cuộc gặp gỡ của họ. Thấp thoáng giữa hai tảng đá có cái ǵ đó
màu xanh lục. Tôi nh́n kỹ và nhận ra đó là một mảnh màu xanh
trên chiếc gậy đi đường. Người mang gậy này đang hướng tới con
đường ṃn. Hóa ra đó là nhà tự nhiên học Stapleton với chiếc vợt
bắt bướm. Ông ta ở gần đôi uyên ương hơn tôi và đang đi thẳng
tới chỗ họ. Vào giây phút ấy, ngài Henry đang ôm chầm lấy cô
Stapleton, nhưng cô ta xoay lưng lại, cố gắng thoát khỏi tay
ngài. Thế rồi ngài cúi xuống gần cô, c̣n cô th́ lánh xa ngài.
Sau đấy, họ nhanh chóng lùi xa nhau ra, ngoảnh lại nh́n phía
sau. Th́ ra Stapleton đang đi tới. Ông ta đang ba chân bốn cẳng
chạy về phía họ, khoa chân múa tay trước mặt cặp t́nh nhân.
Tôi không nghe được ông ta nói ǵ, nhưng h́nh như ông ta đang
lên án ngài Henry, c̣n người này th́ cố phân trần. Cô gái đứng
bên cạnh, hoàn toàn im lặng. Sau cùng Stapleton đột nhiên quay
trở lại, vẫy tay ra lệnh cho em gái; cô ta đưa nhanh đôi mắt
nh́n ngài Henry rồi đi theo sau anh ḿnh. Nhưng cử chỉ bồng bột
của nhà tự nhiên học chứng tỏ rằng ông ta đang trút nỗi giận dữ
của ḿnh lên đầu cô gái. Vị Nam tước nh́n theo họ, rồi ngài chán
nản, lửng thững đi ngược trở lại.
Tôi không hiểu tí nào về cuộc căi vă ấy. Tôi lao nhanh xuống đồi
và gặp Nam tước ở dưới đó. Mặt ngài đỏ bừng v́ giận dừ, đôi lông
mày nhíu lại.
- Chào bác sĩ! Ông ở đâu ra vậy? Có lẽ ông đă theo dơi tôi
chăng?
Tôi buộc phải giải thích cho ngài hiểu rằng tôi cảm thấy không
thể để ngài đi một ḿnh nên đă đi theo ngài và trở thành người
chứng kiến cuộc gặp gỡ. Ngài quắc mắt nh́n tôi nhưng rồi ngài
phá lên cười.
- Cứ như là các ông cố ŕnh xem tôi tán tỉnh cô gái và thất bại
như thế nào ấy! Ông thuê dài hạn cho ḿnh chỗ ngồi nào đấy?
- Trên quả đồi kia ḱa.
- Nghĩa là trên gác thượng. C̣n anh của cô ta th́ được thu xếp ở
những dăy ghế đầu tiên. Ông có nhận thấy ông ta đă mắng chúng
tôi ra sao không?
- Vâng.
- Có bao giờ ông thoáng nghĩ rằng ông ta mất trí không?
- Chưa, chưa bao giờ.
- Tôi cũng vậy. Trước ngày hôm nay, tôi coi Stapleton là một
người phát triển b́nh thường. C̣n bây giờ tôi cảm thấy là cần
t́m một bác sĩ thần kinh cho ông ta hoặc cho tôi. Phải chăng tôi
đă tồi tệ đến thế? Xin ông hăy nói thẳng! Cái ǵ sẽ ngăn cản tôi
trở thành chồng của cô gái ấy.
- Theo tôi, không có ǵ ngăn cản cả.
- Ông ta không thể bắt bẻ về cương vị xă hội của tôi được. Vậy
ông ta có cái ǵ để không đồng ư tôi? Trong đời, tôi không gây
điều ác cho ai cả. Thế mà con người ấy không muốn để tôi đến gần
cô ta.
- Ông ta nói thế à?
- Vâng. Ông biết không, Watson, tôi mới quen cô ta cách đây vài
tuần. Thế mà ngay từ buổi gặp gỡ ban đầu, tôi đă thấy rơ ràng
người này sinh ra là để dành cho tôi. Và cô ta... cô ta cũng sẽ
sung sướng ở cạnh tôi. Tôi sẵn sàng thề như vậy. Đôi mắt của
người đàn bà nói nhiều hơn so với lời của họ. Thế nhưng, ông ta
phản đối sự gần gũi của chúng tôi. Chỉ đến hôm nay tôi mới chọn
được cơ hội nói chuyện riêng với cô ấy. Cô sung sướng chấp thuận
cuộc gặp gỡ này. Nhưng, cô chỉ nói một lời: ở đây nguy hiểm và
cô sẽ không yên ḷng chừng nào tôi chưa đi khỏi lâu dài. Tôi nói
rằng từ sau cuộc gặp gỡ với cô, tôi sẽ không bao giờ rời khỏi
đây, c̣n nếu việc ra đi là cần thiết, th́ cô hăy cùng đi với
tôi. Tóm lại, tôi đă ngỏ lời cầu hôn với cô ta, nhưng cô c̣n
chưa kịp đáp lại th́ vào giây phút ấy, ông anh đă ào tới mắng
chúng tôi. Tôi c̣n làm ǵ được? Giá ông ta không phải là anh của
cô ấy, th́ tôi sẽ biết cách trả lời, nhưng tôi không nỡ làm thế
và chỉ nói rằng không có ǵ là xấu xa trong t́nh cảm của tôi cả,
rằng tôi hy vọng vào một lúc nào đó sẽ gọi cô Stapleton là vợ
của ḿnh. Nhưng, cuối cùng tôi đă không giữ b́nh tĩnh được nữa
và nổi xung lên. Đáng lư không nên nổi nóng khi thấy cô đang
đứng ở đó th́ hơn. Sau đấy, ông ta ra đi cùng với em gái. C̣n
tôi ở lại một ḿnh trong một tâm trạng rất phân vân.
Anh Holmes, câu chuyện này đă khiến tôi không ít băn khoăn. Tước
vị của Nam tước, sự giàu có, tuổi trẻ, tính cách và vẻ ngoài đều
có lợi cho ngài. Có lẽ, ngoài số mệnh đen tối đè nặng lên gia
đ́nh ngài, tôi không thấy ngài có ǵ bất lợi.
Thật là lạ lùng nếu lời cầu hôn của ngài Henry đă bị cự tuyệt
gay gắt. Tuy nhiên, vào ngày hôm ấy, chính Stapleton đă xin lỗi
Nam tước, rồi nói chuyện hồi lâu với ngài trong pḥng làm việc.
Chúng tôi nhận lời mời ăn trưa ở Merripit vào thứ sáu tới.
- Tôi vẫn chưa hết hoài nghi về sự phát triển b́nh thường của
con người này - Ngài Henry nói - Nhưng, cần thừa nhận những lời
xin lỗi của ông ta chân thực, cũng đừng nên gây sự với ông ta
làm ǵ.
- Ông ấy giải thích cơn bột phát của ḿnh như thế nào?
- Em gái đối với ông ta là tất cả. Điều đó th́ chấp nhận được.
Họ đă cùng sống với nhau trong suốt cuộc đời, bởi thế ông ấy sợ
phải xa cách em gái ḿnh. Ông ta rất lấy làm tiếc về những ǵ đă
xảy ra, và nói sẽ không ngăn cản chúng tôi nữa, nếu như tôi hứa
sẽ không nói ǵ về t́nh yêu với cô gái trong ṿng ba tháng sắp
tới, chỉ nên coi như t́nh bạn mà thôi. Tôi đă hứa, và đến đây
th́ câu chuyện chấm dứt.
Holmes, anh thấy đấy, một trong số những bí mật nhỏ nhoi của
chúng ta được sáng tỏ.
Bây giờ, chúng ta sẽ chuyển sang nói về tiếng khóc bí ẩn ban đêm
về bộ mặt bi thảm của bà Barrymore và về thái độ khó hiểu của
viên quản lư với cánh cửa sổ hướng ra khu đầm lầy. Phải cần một
đêm mới giải thích được điều bí mật này bạn ạ.
Tôi nói là “một đêm” nhưng đúng hơn là phải “hai đêm”. Tôi và
ngài Henry đă ngồi trong pḥng làm việc của ngài tới ba giờ
sáng, thế mà không nghe thấy ǵ cả. Sau đó chúng tôi ngủ thiếp
đi cho tới sáng. Tuy vậy, sự thất bại này không làm cho chúng
tôi chán nản mà cương quyết thử lại một lần nữa.
Đêm hôm sau, chúng tôi vặn bớt bấc đèn, ngồi im lặng hoàn toàn.
Thời giờ trôi đi vô cùng chậm chạp.
Chuông đồng hồ điểm một giờ, rồi hai giờ. Chúng tôi đă sắp thất
vọng th́ đột nhiên sự mệt mỏi của chúng tôi bay biến đâu mất.
Tôi và ngài Nam tước đều ưỡn thẳng người lại. Ngoài hành lang có
tiếng cót két của ván sàn nhà. Tiếng những bước chân lén lút đi
ngang qua pḥng chúng tôi rồi dần dần lặng đi ở phía xa. Nam
tước khẽ mở cửa. Chúng tôi bắt đầu lần theo vết con thú săn. Con
thú đă đi qua hành lang nối liền lâu đài, c̣n trong hành lang
này th́ tối om. Hết sức thận trọng, chúng tôi đi đến chái nhà
phía bên kia. Ở đó thấp thoáng h́nh của một người có bộ râu đen.
Hắn rón rén bước dọc theo hành lang. Sau đấy hắn chạy lúp xúp
tới cánh cửa, và một tia sáng vàng mỏng manh trải ra khu hành
lang. Chúng tôi đi tới luồng ánh sáng này, ḍ từng mảnh đất, vậy
mà những tấm ván cũ kỹ vẫn khẽ rên và kêu cót két, nhưng thật là
may, Barrymore nghễnh ngăng, vả lại khi đó công việc thu hút hết
tâm trí của ông ta.
Cuối cùng, chúng tôi cũng bước tới được cửa pḥng, nh́n vào cửa
pḥng. Viên quản tư tay cầm cây nến, đứng ở cạnh cửa sổ, hầu như
mắt ông ta ghé sát vào mặt kính, nghĩa là trong dáng điệu y hệt
như tôi đă trông thấy lần trước.
Nam tước mạnh dạn đi vào pḥng. Barrymore lùi nhanh ra khỏi cửa
sổ, thở hổn hển, toàn thân run rẩy. Nỗi kinh hoàng lờ mờ hiện ra
trong đôi mắt sẫm sáng trên bộ mặt trắng nhợt.
- Barrymore, ông làm ǵ ở đây thế?
- Không làm ǵ cả, thưa ngài - V́ xúc động ông ta nói rất khó
nhọc, cây nến run run trên tay ông hắt những bóng loang lổ trên
tường và lên trần nhà - Cửa sổ, thưa ngài... đêm đêm tôi kiểm
tra xem xét tất cả có được khóa kỹ không.
- Ngay cả trên lầu hai?
- Vâng, cả khu nhà.
- Hăy nghe đây, Barrymore - Ngài Henry nghiêm khắc nói - Chúng
tôi cương quyết t́m cho ra sự thật. Cho nên ông càng mau thú
nhận lỗi lầm th́ càng tốt. Này, ông làm ǵ ở đây?
Người quản gia ném một cái nh́n tuyệt vọng về phía chúng tôi.
- Tôi không làm ǵ xấu xa cả, thưa ngài! Tôi chi soi cây nến vào
cửa sổ.
- Để làm ǵ?
- Xin đừng hỏi tôi, ngài Henry... Xin thề với ngài đấy là bí mật
không phải của tôi. Nếu bí mật này chỉ liên quan đến tôi, tôi sẽ
không giấu giếm điều ǵ cả.
Đột nhiên trong óc tôi thoáng nẩy ra một ư nghĩ bất ngờ, tôi cầm
lấy cây nến ở trên bệ cửa sổ.
- Có lẽ đây là mật hiệu. Bây giờ chúng ta chờ câu trả lời.
Tôi đưa ngọn nến đến gần tấm kính như Barrymore đă làm, tôi nh́n
vào bóng đêm. Mặt trăng ẩn ḿnh sau đám mây. Vào phút đầu tiên,
tôi chỉ trông thấy hàng cây của khu đầm lầy. Đột nhiên tôi reo
lên khi trông thấy trong khung màu đen của cửa sổ một điểm màu
vàng tản ra chọc thủng đêm tối.
- Hăy nh́n này!
- Không, không phải, thưa ngài...
- Chuyển cây nến sang bên phải, Watson. - Nam tước kêu lên -
Nh́n thấy ǵ không? Ở đấy ngọn lửa cũng di động... Này, đồ vô
lại, đó chính là tín hiệu? Hăy tự thú đi, ông mưu toan làm ǵ
đó?
Viên quản lư bất ngờ ném một cài nh́n thách thức về phía ngài.
- Đây là việc của tôi, nó không liên quan ǵ tới ngài. Tôi sẽ
không nói ǵ cả.
- Vậy ông đă bị sa thải.
- Rơ rồi, thưa ngài.
- Tôi tống cổ ông đi một cách đê nhục! Tổ tiên của tôi và của
ông hơn một trăm năm nay sống cùng một căn nhà với nhau, vậy mà
ông định lập mưu kế chống lại tôi.
- Không, thưa ngài! Chúng tôi không chống lại ngài đâu!
Những lời này vang lên the thé. Sau khi ngoảnh lại nh́n, chúng
tôi nhận ra bà Barrymore hồn xiêu phách lạc ở cửa ra vào, vẻ tái
nhợt trên khuôn mặt bà có thể đua tranh với chồng ḿnh.
- Người ta đă sa thải chúng ta, em ạ, tất cả được kết thúc như
thế đấy. Hăy thu xếp đồ đạc đi - Barrymore nói.
- Ḿnh ạ, em đă đẩy ḿnh tới nông nỗi này đấy!... Mọi chuyện đều
là lỗi lầm của tôi thôi, ngài Henry. Chỉ v́ tôi mà ông ấy làm
việc đó, chỉ v́ một ḿnh tôi thôi.
- Bà nói ǵ vậy.
- Em trai tôi đang chết đói trên khu đầm lầy. Chồng tôi dùng tín
hiệu báo cho chú ấy biết là đồ ăn đă được chuẩn bị, c̣n chú ấy
báo cho biết cần mang đồ ăn đến đâu.
- Thế nghĩa là... em bà là...
- Người tù vượt ngục, kẻ giết người, Selden.
- Đấy là tất cả sự thật, thưa ngài - Barrymore khẳng định - Tôi
đă nói với ngài là tôi không thể phanh phui bí mật của người
khác. Và nếu có một âm mưu nào đó th́ nó hoàn toàn không nhằm
làm hại ngài.
Cuộc du ngoạn ban đêm với cây nến được sáng tỏ như vậy đấy! Tôi
và ngài Henry sững sờ nh́n bà Barrymore.
- Đúng vậy. Thưa ngài. Chú ấy là em út của tôi. Chúng tôi cưng
chiều chú ấy ngay từ nhỏ. Thế rồi chú ấy lớn lên, nhập bọn với
đám du thủ du thực và sa vào tội lỗi. Nhưng đối với tôi, thưa
ngài, chú ấy vẫn chỉ là một cậu bé tóc xoăn đáng yêu mà tôi từng
chơi đùa và chăm sóc. Chú đă vượt ngục, biết tôi hiện ở đây. Lúc
lê bước tới đây vào ban đêm, chú ấy mệt mỏi, bụng đói mà lại
đang bị truy lùng. Chúng tôi đă để cho chú vào, giúp đỡ chú ấy
bằng tất cả khả năng của ḿnh. Thế rồi ngài về đây, thưa ngài.
Chú quyết định đi vào khu đầm lầy. Sau một đêm, chúng tôi lại
kiểm tra xem chú ấy đi hay chưa. Chúng tôi soi đèn qua cửa sổ và
nếu nhận được tín hiệu trả lời th́ chúng tôi mang bánh ḿ và
thịt tới nơi hẹn ước. Chúng tôi mong mỏi từng ngày là chú đă bỏ
đi, nhưng chừng nào chú ấy c̣n ở đây th́ chúng tôi không thể bỏ
rơi. Thưa ngài. Nếu ở đây có điều ǵ xấu xa th́ chồng tôi không
hề có lỗi: ông ấy làm việc đó là v́ tôi thôi?
Bà ta nói với một t́nh cảm khiến người khác không thể không tin
vào bà.
- Có đúng như vậy không, Barrymore?
- Vâng, thưa ngài, từ đầu đến cuối đều là sự thật.
- Tôi không trách ông đă giúp vợ ḿnh. Hăy quên những điều tôi
nói với ông đi. Giờ th́ hai người hăy về pḥng ḿnh, sáng mai
chúng ta sẽ bàn bạc.
Khi họ đi khỏi, ngài Henry mở toang cửa sổ ra, gió lạnh lùa vào
mặt chúng tôi. Xa xa bóng đêm mịt mùng, ngọn lửa nhỏ vẫn c̣n
nhấp nháy.
- Sao hắn không biết sợ - Ngài Henry hỏi.
- Có lẽ chỉ đứng tại đây mới nhận thấy ngọn lửa.
- Cũng có thể. Theo ông th́ hắn ở đâu?
- Ở chỗ nào đó cạnh những cột đá hoa cương.
- Hai dặm?
- Sẽ không hơn thế.
- Đúng, nếu Barrymore mang đồ ăn đến đấy có nghĩa là sẽ không xa
lắm. Và bây giờ, Watson, tôi sẽ đi, và sẽ tóm được tên ác ôn
này.
Chính ư nghĩ này cũng thoáng qua trong óc tôi. Vợ chồng
Barrymore không biến chúng tôi thành những kẻ ṭng phạm được.
Con người này thật nguy hiểm cho xă hội.
- Tôi đi với ngài.
- Vậy hăy cầm súng ngắn theo: Cần khẩn trương lên, nếu không,
hắn sẽ dập tắt ngọn lửa và tẩu thoát mất.
Chưa đầy năm phút sau, chúng tôi đă bước nhanh theo con đường
tối om rậm rạp bóng cây, lắng nghe tiếng rít đơn điệu của ngọn
gió mùa thu và tiếng xào xạc của lá cây. Trong không khí có mùi
hăng hăng của vật thối rữa và sự ẩm ướt. Mặt trăng lúc ẩn lúc
hiện sau những đám mây đen. Mưa lâm thâm. Ngọn lửa nhỏ màu vàng
vẫn nhấp nháy.
- Ngài có cầm cái ǵ đó theo người không?
- Có, roi gân ḅ.
- Hăy hành động thật nhanh, người ta nói hắn rất táo tợn.
- Watson - Đột nhiên Nam tước lên tiếng - Holmes sẽ nghĩ sao
đây? Ông có nhớ không? Vào lúc ban đêm, khi mà uy lực của cái ác
hoàn toàn thống trị...
Và h́nh như để đáp lại những lời nói của ngài, ở một nơi nào đó
rất xa trên khu đầm lầy vang lên âm thanh lạ lùng. Gió đẩy đến
tai chúng tôi, ban đầu là tiếng gầm gừ không rơ, sau là tiếng
rống rồi lại dần dần chuyển sang tiếng rên bi thảm. Những âm
thanh hoang dă, dọa dẫm này được lặp đi lặp lại liên tục, tràn
ngập cả không trung. Nam tước túm lấy vạt áo tôi.
- Trời ơi, Watson, cái ǵ thế?
- Tôi không rơ. Người ta nói rằng âm thanh như vậy thường vang
lên trên khu đầm lầy. Tôi cũng đă từng nghe thấy.
Tiếng kêu lặng dần, rồi hoàn toàn yên lặng. Chúng tôi đứng căng
thẳng lắng nghe, nhưng không có ǵ vang lên nữa.
- Con chó rống đấy! - Nam tước th́ thầm.
Máu trong người tôi như đông lại, giọng của ngài Nam tước run
lên v́ kinh hăi.
- Người ta giải thích âm thanh này ra sao?
- Ai?
- Những người sống ở đây ấy.
- Đấy chỉ là những người dốt nát? Không phải tất cả mọi người
đều giải thích tiếng kêu như thế.
- Watson, họ nói về cái ǵ vậy?
Vào giây phút ấy tôi do dự, nhưng đă đặt vấn đề ra th́ không thể
nào im lặng được.
- Họ nói rằng đấy là tiếng con chó của ḍng họ Baskerville rống.
Ngài Henry bắt đầu rên rỉ:
- Đúng, chỉ có chó mới tru lên như vậy - Sau khi im lặng hồi
lâu, ngài nói - Nhưng con chó ở rất xa, đâu ở hướng kia ḱa!
- Khó có thể xác định tiếng rống từ đâu vọng lại.
- Nó được gió thổi tới. Vùng đầm lầy Grimpen ở đâu? Ở đấy phải
không?
- Đúng.
- Vậy là tiếng kêu từ đó vọng đến, Watson. Chính ông cho rằng
đấy là tiếng rống của con chó, đừng e ngại. Hăy nói thật đi...
- Một lần Stapleton nói rằng có một giống chim nào đó kêu như
thế.
- Không, đấy là con chó. Than ôi! Chẳng lẽ câu chuyện huyền bí
này là sự thật? Chẳng lẽ có một mối nguy hiểm bí ẩn nào đấy đang
đe dọa tôi? Ông không tin vào điều đó sao, Watson?
- Không tin!
- Vậy c̣n bác của tôi? Cạnh thi thể của Người có những vết chân
chó. Tất cả chỉ là một mắt xích mà thôi. Tôi hoàn toàn không
phải kẻ nhát gan, Watson ạ, thế nhưng tôi hết hồn khi nghe thấy
những âm thanh như thế. Hăy rờ vào tay tôi này.
Bàn tay ông giá lạnh.
- Không sao cả, ngày mai tất cả sẽ qua khỏi thôi!
- Không, tôi không bao giờ quên tiếng kêu ấy đâu. Chúng ta cần
làm ǵ bây giờ?
- Ta quay về nhà chăng?
- Sao lại thế! Phải tóm cổ tên đê tiện ấy. Tôi với ông săn đuổi
tên tù khổ sai, c̣n con chó lại săn lùng chúng ta. Mặc! Hăy đi
thôi, Watson!
Chúng tôi tiếp tục lê từng bước chậm chạp. Bên phải và bên trái
chúng tôi chồng chất h́nh thù những quả núi lởm chởm mờ ảo trong
đêm tối. Ngọn lửa màu vàng bé nhỏ vẫn nổi lên mờ mờ xa xa ở phía
trước. Cuối cùng chúng tôi đă nh́n thấy nguồn ánh sáng và hiểu
rằng giờ chúng tôi ở cách đấy không xa. Đó là ngọn nến được đặt
lơ lửng ở kẽ nứt giữa những tảng đá. Những tảng đá này bảo vệ
cây nến, tránh gió và tránh cả ánh mắt của con người, chỉ để hở
một hướng quay về phía lâu đài: Chúng tôi ẩn ḿnh sau tảng đá,
rồi thận trọng nh́n ra ngoài. Kỳ lạ thay, chúng tôi chỉ nh́n
thấy một ngọn nến cô độc giữa đầm lầy. Chung quanh không hề có
dấu hiệu của sự sống.
- Cần làm ǵ bây giờ?
- Chờ một lát. Hắn ở gần đây thôi.
Tôi chưa kịp nói xong th́ đă thấy hắn. Bên trong kẽ đá, nơi đặt
cây nến, ló ra một khuôn mặt xấu xa, trên đấy không hề thấy dấu
vết khuôn mặt người. Bộ mặt bết đầy bùn, râu lởm chởm, mớ tóc
rối tung, trông như một trong số những người tiền sử từng sống ở
đây. Ngọn lửa cây nến phản chiếu trong cặp mắt bé nhỏ ranh mănh,
thâm độc nh́n vào mọi hướng. Đấy đúng là cặp mắt của con thú khi
nhận ra tiếng bước chân của người thợ săn trong đêm tối. Có lẽ
một điều ǵ đấy đánh thức mối hoài nghi ở hắn. Chỉ một loáng sau
hắn đă thổi tắt ngọn nến và lẫn vào trong bóng tối. Tôi chạy về
phía trước, ngài Nam tước chạy sau tôi. Tên tù khổ sai la lên
một tiếng, viên đá bay vèo về phía chúng tôi, văng ra làm nhiều
mảnh sau khi đập vào tảng đá bên cạnh. Tôi kịp nh́n thấy hắn mập
lùn, vai rộng. Đúng vào lúc ấy, mặt trăng hiện ra. Chúng tôi leo
lên quả đồi, c̣n tên tù khổ sai th́ lao nhanh theo sườn bên kia,
nhảy qua những tảng đá với sự khéo léo của một con dê núi. Một
phát đạn có thể làm hắn bị thương, nhưng tôi mang súng ngắn theo
chỉ để pḥng thân chứ không phải để bắn vào lưng một người không
có vũ khí.
Chúng tôi cố sức đuổi theo. Hắn hiện lên hồi lâu ở phía trước và
cuối cùng chuyển thành một điểm nhỏ chuyển động trên sườn đồi.
Khoảng cách giữa chúng tôi và hắn càng tăng thêm, chúng tôi hoàn
toàn kiệt sức, ngồi trên những tảng đá, đưa mắt nh́n bóng hắn
đang mất hút dần.
Chúng tôi quyết định không đuổi theo nữa. Mặt trăng ở bên phải
chúng tôi, đỉnh cột đá hoa cương nổi rơ mồn một. Ngay trên cột
đá này tôi nh́n thấy một h́nh người bất động tựa như bức tượng
bằng gỗ mun. Tôi nh́n thấy rơ đó là một người cao gầy. Hắn đứng,
chân hơi dang ra một chút, hai tay đặt lên ngực, đầu cúi xuống,
h́nh như đăm chiêu ngắm nh́n vương quốc của than bùn ở phía
trước mặt. Đó không phải là tên tù khổ sai. Hắn ở cách xa nơi
tên tù ẩn nấp, đồng thời hắn cao hơn. Tôi rú lên kinh ngạc, chỉ
cho Nam tước xem, nhưng một thoáng sau, người ấy mất hút. Đỉnh
cột đá hoa cương nhọn hoắt vẫn như trước đây, nhưng h́nh người
bất động trên đó th́ không c̣n nữa.
Tôi quyết định đi tới đó, xem xét cột đá này, nhưng Nam tước
không muốn phiêu lưu. Ngài chưa yên ḷng sau tiếng rú kinh hoàng
nhắc ngài nhớ tới truyền thuyết huyền ảo nọ. Hơn nữa, chính ngài
lại không nhận thấy điều ǵ, và không thể chia sẻ xúc động của
tôi.
- Chắc có lẽ là lính canh. Từ khi có vụ vượt ngục, khu đầm lầy
nhan nhản lính canh - Ngài nói.
Có lẽ ngài nói đúng, Holmes thân mến. Hôm nay chúng tôi đă biết
được nơi ẩn nấp của tên tù vượt ngục. Nhưng tiếc là không tóm
được hắn.
Các sự cố trong đêm gần đây là như thế. Holmes thân mến, anh cần
phải thừa nhận đây là bản phúc tŕnh hoàn toàn đầy đủ về sự cố
này. Phần lớn các câu chuyện của tôi không có quan hệ nào tới vụ
án, nhưng tôi coi việc thông báo tất cả những sự kiện trong các
bức thư của ḿnh là việc làm cần thiết. Hăy chọn lựa ở trong đó
những ǵ có lợi cho anh. Chúng ta đă có những thành công nào
đấy. Tuy nhiên, bí mật của khu đầm lầy than bùn vẫn c̣n nguyên.
Có thể trong lá thư tiếp theo, tôi sẽ ít nhiều phanh phui được
tấm màn che trên đó. Tốt hơn cả là anh hăy thân hành đến đấy!
Chương 10 -
Những đoạn
trích từ nhật kư của bác sĩ Watson
Lâu đài Baskerville, 16 tháng 10.
Ngày ảm đạm, mưa lất phất. Những đám mây đen trôi rất thấp trên
lâu đài Baskervilles, đôi khi chúng tản ra, lúc ấy xuyên qua
luồng ánh sáng phía xa nổi lên khoảng rộng của vùng đầm lầy than
bùn, trên đó những sườn núi và những tảng đá ẩm ướt lấp lánh ánh
bạc.
Những ngôi nhà dưới bầu trời hé mở chỉ phủ lên một vẻ sầu thảm ở
khắp mọi nơi. Sau cơn thử thách đêm qua, thần kinh của Nam tước
như chùn lại. Linh cảm về một tai họa không tránh khỏi day dứt
tôi.
Phải chăng không có cơ sở để lo ngại? Chỉ cần nhớ tới chuỗi sự
kiện chứng tỏ sự tồn tại của những lực lượng hắc ám đang vây bọc
chúng tôi. Cái chết của ngài Charles hoàn toàn phù hợp với
truyền thống về gia đ́nh ông, những lời đồn đại giữa các điền
chủ về một con quái vật xuất hiện trên khu đầm lầy. Chính tai
tôi đă hai lần đă nghe những âm thanh giống tiếng chó sủa. Chẳng
lẽ tất cả điều đó lại nằm ngoài qui luật của tự nhiên hay sao?
Con chó hư ảo để lại dấu vết trên mặt đất chính là con chó rống
to lên đó chăng? Không, điều đó thật quá quắt! Stapleton và
Mortimer có thể ngả theo tâm trạng chung, thế nhưng một trí óc
lành mạnh th́ không khi nào tin vào những điều mê tín.
Tuy vậy, sự thực vẫn là sự thực: Tôi đă hai lần có dịp nghe
tiếng rống này. Nếu thực sự có một con chó khổng lồ nào đó chạy
khắp khu đầm lầy th́ sao? Khi ấy tất cả sẽ trở nên dễ hiểu.
Nhưng nó ẩn náu ở đâu, nó ăn ǵ, nó từ đâu sinh ra, tại sao
không một ai nh́n thấy nó ban ngày? Tuy nhiên, nếu gác chuyện
con chó qua một bên, th́ phải giải thích ra sao về những sự kiện
đă xảy ra ở London? Con người bí ẩn trên xe mui, bức thư mà tác
giả của nó van nài ngài Henry đừng đi vào khu đầm lầy. Người này
c̣n ở lại London hay đă theo chúng tôi về đây? Phải chăng...
Phải chăng tôi đă trông thấy hắn trên đỉnh cột đá hoa cương?
Thật ra hắn mới loáng thoáng hiện ra trước mắt tôi, nhưng tôi đă
nhớ lấy một nét ǵ đấy. Hắn không phải là dân địa phương. Giờ
đây, tôi đă biết tất cả láng giềng của ngài Henry. Hắn cao hơn
Stapleton và gầy hơn Frankland. Có thể lẫn hắn với Barrymore,
song Barrymore đang ở lại nhà. Barrymore không thể lẫn đằng sau
chúng tôi đến mức không thể nhận thấy được. Bởi v́, ở đây cũng
như ở London có một kẻ lạ mặt nào đó theo dơi chúng tôi. Nếu như
tôi thành công trong việc săn lùng con người này th́ mọi nỗi băn
khoăn của chúng tôi sẽ được giải quyết. Đấy là mục tiêu của tôi,
và tôi sẽ huy động tất cả sức lực của ḿnh để đạt được mục tiêu
này.
Ư định trước tiên của chúng tôi là cần trao đổi các kế hoạch của
ḿnh với ngài Henry. Nhưng, sau khi suy nghĩ kỹ, tôi quyết định
tiến hành độc lập tṛ chơi này và càng nói ít hơn về nó. Nam
tước im lặng và mải mê với ư nghĩ của ḿnh. Tiếng rống chúng tôi
nghe thấy trên khu đầm lầy tác động tới ngài rất mạnh. Tôi quyết
định không làm tăng thêm nỗi lo ngại của ngài, nhưng tôi sẽ
không rời vũ khí, sẽ hứng chịu mọi trách nhiệm khi hành động.
Hôm nay, sau bữa sáng, Barrymore yêu cầu ngài Henry cho phép
được nói chuyện với ông ta và họ lui đến pḥng làm việc.
Tôi ngồi ở pḥng chơi bi-da, nghe giọng nói cao hơn lúc b́nh
thường của họ. Lát sau cửa pḥng làm việc mở ra, Nam tước gọi
tôi đến, nói:
- Barrymore trách chúng ta đă truy nă em vợ của ông sau khi
chính ông ta cho chúng ta biết điều bí mật.
Barrymore đứng tái mặt, nhưng vẫn giữ được b́nh tĩnh.
- Có lẽ tôi quá nóng nảy, thưa ngài, xin hăy thứ lỗi cho tôi.
Nhưng tôi vô cùng kinh ngạc khi nghe tiếng những bước chân của
các ngài vào lúc rạng sáng, tôi hiểu rằng các ngài muốn lùng bắt
Selden. Cậu ấy đă có quá đủ kẻ thù rồi!
- Nếu ông tự nguyện phát giác Selden th́ đấy là chuyện khác -
Nam tước nói - Nhưng đằng này, chính vợ ông thú nhận do sức ép
của chúng tôi. Ông chẳng phải áy náy một chút ǵ ở trong ḷng
cả.
- Tôi đă không nghĩ là ngài sẽ lợi dụng cơ hội. Thật t́nh, tôi
đă chẳng nghĩ như vậy.
- Selden nguy hiểm cho xă hội. Hắn không chịu dừng chân trước
bất kỳ việc ǵ cả. Ông nên nhớ là nhà cửa ở đây thưa thớt. Hăy
nghĩ tới gia đ́nh Stapleton chẳng hạn. Trong trường hợp bị tiến
công, ông ấy làm sao mà tự vệ được. Không, chừng nào con người
này c̣n chưa bị khoá chân khóa tay th́ chúng ta chưa thể cảm
thấy an toàn.
- Selden không đụng tới một ai đâu, thưa ngài, xin thề với ngài
đấy! Cậu ấy giờ đây không đáng sợ đối với dân địa phương nữa.
Chỉ vài ngày nữa là mọi chuyện sẽ được giải quyết ổn thỏa, cậu
ấy sẽ đến Nam Mỹ. Tôi van ngài, xin đừng báo cho cảnh sát. Họ sẽ
ngừng việc t́m kiếm và cậu ấy có thể yên ḷng chờ tàu thủy. Nếu
ngài tố giác, tôi và vợ tôi không tránh khỏi tai họa đâu.
- Watson, ông nghĩ sao?
Tôi nhún vai:
- Nếu con người này đi khỏi nước Anh th́ những người dân thường
sẽ sống thoải mái hơn.
- Đột nhiên hắn gây ra một tai họa nào đó trước khi đi th́ sao?
- Không thể thế được, thưa ngài! Cậu ấy quả không phải là thằng
điên? Tội ác mới sẽ làm lộ tẩy cậu ấy.
- Đúng vậy - Ngài Henry nói - Được rồi, Barrymore.
- Xin Chúa phù hộ ngài! Nếu cậu ấy bị bắt lại th́ vợ tôi sẽ chết
mất!
- Watson này chúng ta đang che chở một tội phạm. Nhưng nghe
Barrymore van nài, tôi không thể làm khác được. Ông có thể đi
được rồi, Barrymore!
Với giọng run run, viên quản lư lúng búng nói một vài lời cám ơn
và đi ra, nhưng khi đến ngưỡng cửa, ông ta đột nhiên dừng lại:
- Ngài đă đối xử với tôi tốt đến mức tôi muốn trả ơn ngài bằng
cách nào đấy - ông ta bắt đầu không được quả quyết lắm - Tôi có
biết một điều nào đó, ngài Henry. Đáng lẽ tôi phải nói sớm hơn,
nhưng tôi chỉ khám phá ra sau cuộc điều tra... Tôi chưa hề nói
chuyện với ai về chuyện đó về cái chết của ngài Charles.
Tôi và Nam tước cùng nhổm phắt dậy:
- Ông có biết lư do ngài Charles chết?
- Không, thưa ngài.
- Vậy th́ sao?
- Tôi biết tại sao ngài Charles đứng cạnh cửa hàng rào vào thời
gian muộn màng như thế. Ngài có hẹn gặp một người đàn bà.
- Hẹn gặp một người đàn bà? Ngài Charles có hẹn gặp một người
đàn bà?
- Vâng, thưa ngài!
- Người đàn bà ấy là ai vậy?
- Tôi chỉ biết tên bà ta bắt đầu bằng hai chữ “L.L.”.
- Do đâu ông biết được điều này, Barrymore?
- Vào sáng hôm đó, bác ngài có nhận thư. Thường có rất nhiều thư
chuyển đến. Nhưng sáng hôm ấy chỉ có một lá thư chuyển đến nên
tôi nhớ rơ. Nét chữ trên phong b́ là nét chữ đàn bà, trên dấu
bưu điện có hàng chữ Coombe Tracey.
- Rồi sao nữa?
- Tôi sẽ quên hẳn lá thư này nếu không có vợ tôi. Vài tuần sau
đó, cô ấy có lên dọn dẹp pḥng làm việc của ngài Charles. Đó là
lần đầu tiên chúng tôi lên đấy sau khi ngài qua đời. Vợ tôi t́m
thấy trong góc sâu của ḷ sưởi một mảnh giấy nhỏ. Phần lớn mảnh
giấy đă thành tro, nhưng c̣n một mẩu nhỏ - phần cuối cùng th́
nguyên vẹn. Có lẽ đấy là đoạn tái bút, chúng tôi đọc thấy thế
này: “cầu mong ngài xử sự như một bậc quân tử, hăy đốt lá thư
này ở cạnh cửa hàng rào vào lúc 10 giờ tối”. Phía dưới có hai
chữ cái “L.L.”.
- Ông c̣n giữ mảnh giấy đó không?
- Không, nó nát vụn trong tay tôi.
- Trước đấy, ngài Charles có nhận được lá thư nào được viết bằng
nét chữ ấy không?
- Tôi không biết.
- Ông không biết người đàn bà “L.L.” hay sao?
- Không, thưa ngài. Nhưng tôi cho rằng giá chúng ta t́m được
người đàn bà này, chúng ta sẽ biết các chi tiết liên quan tới
cái chết của ngài Charles.
- Tôi quả thật không hiểu nổi ông, ông Barrymore ạ? V́ sao ông
giấu những tin tức quan trọng như thế cho đến bây giờ?
- Ngài có biết không, thưa ngài, sau đó một nỗi bất hạnh đă
giáng xuống chính chúng tôi. Ngoài ra tôi và vợ tôi không quên
những ân huệ của ngài Charles. Chúng tôi nghĩ tới bới lại chuyện
cũ mà làm ǵ? Nó sẽ không giúp ích ǵ cho ông chủ bất hạnh của
chúng tôi.
- Được Barrymore, ông có thể đi được rồi.
Lúc viên quản lư đi khỏi, ngài Henry quay lại chỗ tôi.
- Này, Watson, ông nghĩ sao về tia sáng mới mẻ này?
- Theo tôi, nó làm cho bóng tối càng tối hơn.
- Vâng, đúng vậy, nhưng nếu lần ra được cái người đàn bà “L.L.”
ấy th́ mọi chuyện sẽ được sáng tỏ đấy. Chỉ cần t́m được người
đàn bà ấy, nhưng bằng cách nào đây.
- Cho Holmes biết. Có lẽ đây là một chỉ dẫn mà anh ấy c̣n thiếu.
Tôi tin rằng anh ấy sẽ đến đây.
Tôi lui về pḥng làm việc, viết gửi Holmes bản phúc tŕnh chi
tiết về các sự kiện sáng nay.
17 tháng 8
Hôm nay mưa suốt ngày. Những giọt mưa nặng nề xào xạc trong đám
trường xuân. Tôi nhớ đến tên tù khổ sai đang lẩn lút trong vùng
sâu của khu đầm lầy buồn bă và trống trải. Một kẻ đáng thường!
Dù hắn đă gây ra những tội ác ǵ th́ hắn cũng đang chịu thống
khổ để chuộc tội. Và sau đấy, tôi nhớ tới một người, một người
khác... Bộ mặt thấp thoáng trong ô cửa sổ xe mui, thân h́nh mờ
ám. Chẳng lẽ, kẻ bí mật theo dơi khó nhận ra ấy, kẻ tiếp tay cho
bóng đêm ấy lúc này cũng đảng đi lang thang dưới trời mưa tầm
tă.
Buổi chiều, tôi khoác áo mưa, đi vào vùng sâu của khu đầm lầy,
trong óc luôn hiện lên bức tranh đen tối. Mưa tạt vào mặt, gió
rít bên tai. Vào thời tiết như thế này, đến ngay những quả đồi
nhỏ ở đây cũng biến thành băi lầy đặc sệt. Tôi t́m cột đá được
xếp thành những bậc không đều nhau, trên đó có người đứng đưa
mắt nh́n xuống khu đầm lầy. Những ḍng nước mưa chảy xiết đổ
xuống các chỗ thấp màu nâu, và xuyên qua những đám mây nặng xám
đen bay là là mặt đất, và xuyên qua những đám mây là h́nh ảnh
những ngôi nhà kỳ quái hiện ra. Xa xa, từ phía tay phải tôi,
những chiếc tháp hẹp mờ mờ của lâu đài Baskerville nổi lên phía
trên cây cối. Không ở đâu c̣n dấu vết nhỏ nhất của người lạ mà
tôi đă trông thấy hai đêm trước đây trên chính cột đá nọ.
Trên đường tôi quay trở lại, bác sĩ Mortimer đi trên chiếc xe
tải nhỏ từ hướng trang trại Foulmire đă đuổi kịp tôi. Vào thời
gian này, bác sĩ rất quan tâm đến chúng tôi. Hầu như không ngày
nào là ông không tạt qua lâu đài Baskerville thăm hỏi xem chúng
tôi sống ra sao. Bác sĩ mời tôi lên xe và đưa tôi về nhà. Ông
rất buồn v́ con chó săn đă bị thất lạc. Nó chạy vào khu đầm lầy
và không trở về nữa. Tôi an ủi bác sĩ, c̣n chính ḿnh th́ nhớ
lại con ngựa sa lầy ở vùng đầm lầy và cho rằng chưa chắc ông c̣n
có dịp gặp lại con chó.
- Nhân tiện xin hỏi thêm - Tôi nói - Có lẽ ông biết hết những
người ở trong khu vực này chứ?
- Tôi nghĩ ḿnh biết tất cả.
- Vậy chắc ông biết tên, à họ của người đàn bà có các chữ cái
đầu là “L.L.”?
- Không. Có một số người gypsy và những người làm việc ở các
trang trại mà tôi không biết rơ, nhưng trong số những điền chủ
và những nhà quí tộc nhỏ th́ h́nh như không có ai có tên và họ
khởi đầu bằng chữ đó. Hượm đă! - Sau khi ngừng lời, ông thêm -
Cô Laura Lyons nào đó, đấy là “L.L” của ông chăng. Thế nhưng cô
ta sống ở tận Coombe Tracey kia.
- Là ai vậy? - Tôi hỏi.
- Con gái của ông Frankland.
- Ôi! Con gái của lăo gàn dở ấy à?
- Phải. Cô ta lấy một họa sĩ, có họ là Lyons. Hắn là một tên vô
lại và đă bỏ rơi cô ta. Người cha cũng không thừa nhận cô, bởi
v́ cô ta đi lấy chồng không được sự chấp thuận của cha và có thể
không chỉ bởi lư do đó đâu. Tóm lại, đấy là hai kẻ vô công rồi
nghề - một già một trẻ - ra sức đày đọa người đàn bà bất hạnh
bằng tất cả những ǵ có thể làm được.
- Vậy cô ta sống bằng cách nào?
- Ông già Frankland cũng cho cô ta một cái ǵ đó, lẽ tất nhiên
không nhiều. Những cái gọi là tội lỗi của cô chỉ là vậy thôi,
chớ nên làm cho cô ấy bị đẩy xuống thấp hơn mà làm ǵ. Chuyện
này mọi người ở đây đều biết. Những láng giềng, ngay cả
Stapleton và ngài Charles cũng đă giúp cô, tạo điều kiện cho cô
sống một cách lương thiện. Tôi cũng đă quyên góp một cái ǵ đó.
Chúng tôi muốn cô ta tập đánh máy.
Anh Holmes thân mến.
Sáng mai tôi sẽ đi Coombe Tracey, và nếu tôi gặp được người đàn
bà có cái tên ấy, th́ chúng tôi sẽ tiến được một bước đáng kể.
Nhân thể nói thêm, kẻ phục vụ ngoan ngoăn của anh, dần dà đă
biến thành con yêu quái mất rồi. Lúc Mortimer mới gạn hỏi v́ sao
tôi quan tâm tới bà “L.L.” th́ tôi đă chuyển sang hỏi ông ta xem
xương sọ của Frankland thuộc kiểu nào và thế là tôi đă cứu văn
được t́nh thế. Sau đó trên đoạn đường c̣n lại, tôi chỉ c̣n nghe
giảng về môn khoa học nghiên cứu sọ người và động vật.
Để kết thúc lá thư này, tôi xin nhắc lại cuộc tṛ chuyện với
Barrymore.
Mortimer ở lại chỗ chúng tôi, và sau bữa trưa, họ cùng với Nam
tước tổ chức chơi bài. Viên quản lư đem cà phê vào pḥng làm
việc cho tôi, và tôi đă yêu cầu ông ta trả lời một vài câu hỏi.
- Này Barrymore, em vợ ông đă đi khỏi khu đầm lầy chưa?
- Tôi không biết, thưa ngài. Mong sao cậu ấy mau chóng rời khỏi
đây! Từ lúc tôi mang thức ăn cho chú ấy lần cuối cùng cách đây
ba ngày, tôi không biết điều ǵ về chú ấy nữa. - Vậy là ông gặp
anh ta?
- Không, thưa ngài. Nhưng hôm sau tôi không thấy thức ăn ở đó
nữa.
- Một khi thức ăn không c̣n, nghĩa là anh ta vẫn c̣n ở đấy.
- H́nh như thế, thưa ngài, nếu không có một người nào khác đă
lấy thức ăn.
Tôi đang bưng cà phê định uống th́ ngừng lại giữa chừng. Tôi
nh́n thẳng vào Barrymore.
- Ông biết là ở đấy có một người à?
- Vâng, thưa ngài, trên đầm lầy c̣n có một người khác đang lẩn
trốn.
- Ông thấy người ấy ra sao?
- Không, thưa ngài.
- Vậy làm sao ông biết?
- Selden nói cho tôi biết mười ngày trước đây. Hắn cũng trốn
tránh, nhưng theo tôi, con người này không phải là tù khổ sai.
Tôi không ưa chuyện đó, bác sĩ Watson ạ, tôi không ưa chuyện đó
chút nào?
- Ông bạn của tôi, ở đây tôi hành động chỉ theo những yêu cầu
của chủ ông. Tôi đến đây là để giúp ngài. Vậy, Barrymore, ông
hăy nói thẳng ra cho tôi biết: Cái ǵ khiến ông không ưa thích
vậy?
- Tất cả những ǵ đang diễn ra ở đây.
Cuối cùng ông ta thốt lên sau khỉ chỉ vào ô cửa sổ quay ra khu
đầm lầy. Người ta đang toan tính một việc làm mờ ám.
- Giờ đây tôi chỉ muốn nói một điều: Ngài Henry hăy mau chóng đi
ngay, đi tới London.
- Cái ǵ khiến ông lo lắng quá?
- Ông hăy nhớ tới cái chết của ngài Charles! Ban đêm hăy lắng
nghe những ǵ đang xảy ra ở khu đầm lầy. Con người này lẩn lút ở
đấy và theo dơi một người nào đó, ai vậy? Không, điều đó sẽ
không tốt đẹp cho tất cả những ai có cái họ Baskerville. Tôi sẽ
rất sung sướng vào cái ngày những người phục vụ mới của Henry
đến thay chỗ tôi.
- Hăy kể cho tói biết về con người ấy đi! Ông biết ǵ về hắn ta?
Selden nói ǵ vậy? Anh ta biết hắn ẩn nấp ở đâu và để làm ǵ
chứ?
- Selden gặp hắn hai lần, nhưng hắn thận trọng và tinh quái. Ban
đêm, Selden lầm hắn với cảnh sát, rồi sau đấy chú ấy dám chắc
rằng hắn không phải như vậy. Nh́n bề ngoài, hắn có vẻ một người
thành thị, nhưng cậu ta không đoán ra hắn làm ǵ.
- Hắn ẩn nấp ở đâu?
- Trong những hang động cổ xưa trên các triền núi.
- Nhưng hắn sống bằng cách nào?
- Có một chú bé nào thường đi đến chỗ hắn. Cậu ta mang theo đồ
ăn và những thứ khác từ Coombe Tracey tới.
- Thôi được, Barrymore, vào lúc khác chúng ta sẽ nói chuyện thêm
về điều đó.
Lúc viên quản lư ra khỏi pḥng, tôi dừng lại cạnh cửa sổ xuyên
qua tấm kính mờ, tôi đưa mắt nh́n những đám mây đang trôi nhanh
trên bầu trời và những lùm cây đang bị gió quật mạnh. Vào thời
tiết này ngay ở trong nhà c̣n thiếu tiện nghi, nói ǵ đến trong
hang đá ở khu đầm lầy. Ḷng oán thù sôi sục nào đă khiến hắn mai
phục ở một nơi như thế vào thời điểm như vậy? Cái ǵ đă thúc đẩy
con người ấy vào cơn thử thách cực kỳ gian khổ này!
Chương 11 -
Người đứng
trên cột đá hoa cương
Vào tối hôm đó, tôi không kể được cho Nam tước nghe về cô
Laura, v́ bác sĩ Mortimer ngồi chơi bài với ngài đến tận khuya.
Nhưng vào ngày hôm sau, trong lúc ăn sáng, tôi đă thông báo với
ngài về sự khám phá của ḿnh và mời ngài đi Coombe Tracey cùng
với tôi. Ban đầu ngài đồng ư nhưng sau đó ngài cho rằng tôi nên
đi một ḿnh. Cuộc viếng thăm này càng chính thức bao nhiêu th́
tin tức thu được càng ít đi bấy nhiêu.
Khi đến gần Coombe Tracey, tôi bảo dừng ngựa, đi ḍ hỏi về người
đàn bà. Việc t́m kiếm không khó khăn lắm. Ngôi nhà nằm ở ngay
giữa làng. Không cần lễ nghi thủ tục ǵ cả, người gia nhân dẫn
tôi vào pḥng khách, nơi có một người đàn bà đang ngồi sau máy
chữ. Với nụ cười, cô ta đứng dậy đón tôi, nhưng khi nhận ra tôi
là người lạ, cô lại ngồi xuống ghế, hỏi về mục đích cuộc viếng
thăm.
Ngay từ phút đầu tiên, sắc đẹp của cô đă làm tôi kinh ngạc. Cặp
mắt nâu sáng, tóc màu hạt dẻ, nước da mịn màng ửng đỏ trên đôi
má điểm nhiều tàn hương. Đó là nước da tuyệt đẹp của đóa hồng
bạch ẩn giấu trong trái tim. Tôi xin nhắc lại, ấn tượng ban đầu
là rất mạnh mẽ. Tuy nhiên, sau khi nh́n kỹ, tôi cảm thấy dung
nhan của cô có sự thiếu hài ḥa. Trên khuôn mặt ấy có cái ǵ đó
thô thiển, cứng rắn.
- Tôi đă có hân hạnh được quen biết cụ thân sinh - Tôi nói.
- Tôi không c̣n ǵ liên quan đến cha tôi nữa. Tôi đă cắt đứt mọi
quan hệ với ông ấy và tôi không thể coi bạn của ông ấy là bạn
của ḿnh được. Nếu không có ngài Charles và một vài người từ tâm
khác th́ tôi đă chết đói rồi.
- Tôi muốn nói chuyện về ngài Charles.
Những nốt tàn nhang hiện rơ trên khuôn mặt tái nhợt của cô.
- Có chuyện ǵ khiến ngài quan tâm vậy? - Cô ta hỏi, những ngón
tay xúc động chạm vào các phím máy chữ.
- Cô quen biết ngài chứ?
- Nếu tôi c̣n có thể xoay xở mà sống được, đó là nhờ có ngài ấy.
- Cô đă trao đổi thư từ với ngài phải không?
Người đàn bà nh́n tôi rất nhanh và trong đôi mắt bừng lên một
tia lửa độc ác.
- Hăy cho tôi biết mục đích của những câu hỏi này.
- Để tránh một vụ tai tiếng không hay. Nào, chúng ta cùng bàn
chuyện ở đây, nếu không th́ sẽ đến lúc điều đó nằm ngoài khả
năng kiểm soát của chúng ta.
Người đàn bà càng tái nhợt hơn. Cô im lặng hồi lâu. Sau đấy cô
nh́n tôi và nói, giọng thách thức:
- Được, ông muốn biết ǵ nào?
- Cô đă trao đổi thư từ với ngài Charles?
- Vâng, tôi đă hai lần viết thư cảm ơn ngài.
- Cô c̣n nhớ ngày tháng của lá thư ấy không?
- Không.
- Cô ít khi trao đổi thư từ với ngài, ít khi gặp gỡ ngài. Tuy
nhiên ngài lại rất quan tâm tới công việc của cô. Điều ấy giải
thích thế nào?
Không cần phải suy nghĩ, bà ta trả lời ngay câu hỏi hóc búa của
tôi:
- Có nhiều người biết quá khứ đau buồn của tôi, và giúp đỡ tôi.
Một người trong số họ là ông Stapleton: ngài Charles đă quen tôi
là nhờ có ông Stapleton giới thiệu.
- Trong các lá thư gửi cho ngài Charles, bà có hẹn gặp riêng
ngài không?
Cô tức giận đỏ mặt:
- Tôi coi câu hỏi như thế là không thích hợp, thưa ông?
- Hăy thứ lỗi cho tôi, thưa cô, nhưng tôi phải buộc ḷng nhắc
lại câu hỏi đó.
- Được, tôi sẽ trả lời: Tất nhiên, không!
- Ngay cả vào cái ngày mà ngài Charles qua đời cũng thế?
Trong khoảnh khắc, nước da đỏ đắn trên má cô dịu hẳn đi. Nét mặt
quay về phía tôi phủ một vẻ nhợt nhạt. Cặp môi khô lại run run
và tôi đă thấy trước là một tiếng “không” nữa sẽ được thốt ra.
- Trí nhớ đă bội bạc với cô th́ phải. Tôi có thể trích một câu
từ bức thư của bà. Ở đấy viết thế này: “cầu mong ngài xử sự như
một bậc quân tử, hăy đốt lá thư này, và hăy ở cạnh cửa hàng rào
lúc 10 giờ tối!”.
Tôi ngỡ rằng chỉ một giây sau là cô Laura sẽ ngất xỉu đi, thế
nhưng cô đă tự kiềm chế được ḿnh.
- Nghĩa là trên dời này không hề có người đàn ông chân chính?
- Cô thật không công minh với ngài Charles. Ngài đă thực hiện
đúng yêu cầu của cô. Nhưng có người đă đọc lá thư bị cháy. Bây
giờ cô hăy thú nhận đi. Cô đă viết thư cho ngài ngày hôm ấy phải
không?
- Vâng, tôi viết. Tôi làm ǵ phải chối? - Cô thốt lên - Tôi
không hề hổ thẹn v́ lá thư này. Tôi yêu cầu được nói chuyện với
ngài và tin rằng ngài sẽ không từ chối việc giúp đỡ tôi.
- Nhưng tại sao lại vào một giờ khuya khoắt như vậy?
- Tôi vừa biết là hôm sau ngài sẽ đi London, có lẽ phải tới vài
tháng. Tôi không thể đi tới đấy sớm hơn.
- Tại sao là hẹn gặp ngài ở ngoài trời mà không ở trong nhà?
- Theo ông, người đàn bà có thể xuất hiện một ḿnh ở nhà một
người chưa có gia đ́nh vào lúc muộn mằn như thế hay sao?
- Thôi được. Chuyện ǵ đă xảy ra lúc cô đi đến chỗ hẹn?
- Tôi đă không đi tới đó.
- Cô Laura?
- Xin thề với ông, tất cả chuyện ấy là thiêng liêng đối với tôi
tôi đă không đi đâu cả. Tôi đă bị ngăn cản.
- Cái ǵ cản trở cô?
- Đây là việc riêng của tôi, tôi không thể nói được.
- Như vậy, đúng vào lúc ngài chết, cô không có mặt tại điểm hẹn?
- Sự thật là thế!
Tất cả những mưu chước của tôi không dẫn tới đâu cả, cô ta vẫn
đứng nguyên ở vị trí của ḿnh.
- Cô Laura, cô không muốn nói thật và bởi thế cô sẽ chịu trách
nhiệm về điều đó. Nếu tôi nhờ cảnh sát th́ thanh danh của cô sẽ
bị tổn hại. Giả sử là cô không có lỗi lầm ǵ cả, vậy th́ tại sao
ngay từ đầu cô không chịu nhận đă gửi thư cho ngài Charles vào
ngày ngài qua đời?
- Tôi e rằng người ta sẽ hiểu lầm và tôi sẽ gặp những chuyện
chẳng dễ chịu ǵ.
- V́ sao cô khẩn khoản yêu cầu ngài Charles hủy bức thư?
- Nếu đọc lá thư th́ ông đă rơ v́ sao rồi.
- Tôi không nói là tôi đọc lá thư.
- Ông đă nhớ trọn vẹn một câu kia mà.
- Chỉ là phần tái bút thôi. Tôi đă nói với cô là lá thư đă bị
đốt, không ai đọc được toàn bộ lá thư. Xin nhắc lại câu hỏi của
tôi một lần nữa: V́ lẽ ǵ mà cô đă khẩn khoản yêu cầu ngài
Charles hủy lá thư?
- Điều đó chỉ có liên quan đến tôi thôi.
- Vậy th́ cô cần pḥng ngừa cuộc điều tra công khai đấy.
- Được tôi sẽ kể cho ông nghe tất cả. Ông đă biết rằng tôi lấy
chồng một cách hấp tấp và tôi đă phải luyến tiếc về điều đó.
- Vâng, tôi đă biết điều đó.
- Tôi muốn chia tay với người đàn ông độc ác đó. Nhưng hắn cứ ép
buộc tôi phải sống chung. Trước khi viết thư cho ngài Charles,
tôi biết rằng tôi có thể được tự do, nhưng phải có tiền... Biết
rơ tấm ḷng hào hiệp của ngài Chaŕes, tôi nghĩ: “Nếu nói cho
ngài biết về nỗi cay đắng của ḿnh, chắc ngài sẽ không từ chối”.
- Vậy tại sao cô không đến nơi hẹn?
- Bởi v́ tôi đă nhận được sự giúp đỡ của người khác.
- Vậy cần phải viết thư nói rơ v́ sao bà không đến được?
- Tôi đă làm như thế nếu tôi không đọc bài báo viết về cái chết
của ngài vào sáng hôm sau.
Câu chuyện hoàn toàn chặt chẽ; những câu hỏi của tôi không thể
làm lay chuyển vẻ hợp lư của nó. Chỉ có thể kiểm tra tất cả điều
này bằng một cách: làm sao biết được cô Laura có thật sự định ly
dị với chồng vào thời gian xảy ra vụ án mạng hay không.
Tôi từ biệt cô, rối trí và chán chường. Tuy nhiên khi nhớ lại
khuôn mặt của người phụ nữ, cách cư xử của cô vào thời gian nói
chuyện, tôi càng ngày càng tin rằng cô ta c̣n giấu nhiều điều.
Tại sao cô ta đột nhiên tái xanh như thế? Tại sao cô ta buộc
phải thú nhận từng điều chỉ sau khi bị bắt bẻ? Tại sao cô ta
không đến nơi hẹn vào lúc tấn bi kịch xảy ra? Chắc mọi chuyện đó
không đơn giản. Quả không thể làm ǵ thêm ở đây nữa. Buộc phải
lần theo những dấu vết khác đưa tới các hang đá trên khu đầm lầy
vậy.
Barrymore nói rằng người lạ ẩn náu tại một trong những hang động
bỏ hoang, nhưng ở đây có vô số hang động. May mắn là tôi đă nh́n
thấy con người ấy trên đỉnh cột đá hoa cương. Như vậy, cần bắt
đầu t́m kiếm ở đấy Tôi sẽ khám xét từng hang động ở chỗ đó, tôi
sẽ buộc hắn phải tự xưng danh, phải thú nhận là tại sao hắn lại
đeo đẳng việc theo dơi chúng tôi. Nếu cần, tôi sẽ phải dùng
súng. Hắn đă thoát khỏi tay Holmes trên đường phố đông người
Regent; c̣n ở đây, trên khu đầm lầy trống không này, hắn sẽ
không làm nổi điều đó. Tôi sẽ rất hân hoan nếu truy lùng được
hắn và làm vẻ vang cho ông thầy của tôi. Biết bao lần sự may mắn
đă chống lại chúng tôi, nhưng giờ đây nó đă quay lại giúp tôi
dưới bộ cánh của ông Frankland.
- Chào bác sĩ Watson! - ông Frankland chào hỏi hết sức vui vẻ -
Hăy cho ngựa nghỉ ngơi chút đă? Rẽ vào đây uống cạn chén, mừng
tôi.
Sau khi biết mối quan hệ của ông Frankland với cô con gái, tôi
không thể có t́nh thân ái với ông. Tuy nhiên, v́ tôi cần cho
người đánh xe ngựa trở về nhà, để đi một ḿnh nên tôi trườn ra
khỏi xe ngựa, dặn người đánh xe ngựa báo cho ngài Henry biết là
tôi sẽ trở về vào lúc ăn trưa, rồi theo Frankland đến thẳng
pḥng ăn.
- Hôm nay là một ngày trọng đại - ông ta nói trong tiếng cười
thích thú - Tôi thắng hai vụ kiện liền. Bây giờ, bọn người ở đây
sẽ hiểu rằng luật pháp là luật pháp, rằng tôi sẵn sàng giáng đ̣n
trừng phạt xuống đầu những kẻ không biết điều. Tôi đă đạt được
quyền tự do đi qua vườn của ông già Middleton. Họ thật đáng
nguyền rủa! Họ hăy biết rằng không một ai được phép chà đạp lên
những luật lệ hương thôn mà không bị trừng trị. Ngoài ra, tôi
cũng đă rào con đường đi vào rừng, nơi bọn người của lăo
Fernworthy thường đến cắm trại. Họ tưởng rằng họ có thể để lại
những chai không và những mẩu giấy vụn ở đâu cũng được! Hai vụ
án đă kết thúc và cả hai đều có lợi cho tôi, thưa bác sĩ Watson.
Từ lâu tôi chưa có một ngày sung sướng như thế kể từ khi tôi bắt
ngài John Morland phải chịu trách nhiệm về việc săn bắn trái
phép ngay trong rừng săn của ông ta.
- Ông đạt được điều đó bằng cách nào vậy?
- Ngài hỏi cái pḥng lưu trữ của ṭa án ấy, thưa ngài. Đáng công
đọc lắm, thưa ngài. - Frankland chống Morland - Vụ án sẽ lan tới
London. Nó làm tôi tốn phí đến 200 bảng, nhưng tôi đă thắng ông
ta.
- Vụ này đem lại cho ông cái ǵ?
- Không có ǵ cả, hoàn toàn không có ǵ cả. Tôi chỉ thực hiện
cái nghĩa vụ công dân của ḿnh. Nhưng đêm nay dân làng sẽ lại
đốt h́nh nộm của tôi, nhà chức trách ở địa phận chúng ta xử sự
hoàn toàn đáng hổ thẹn, thưa ngài? Tôi có quyền nhờ cậy vào sự
bảo trợ của họ, thế mà họ đă không bảo vệ tôi? Ngài hăy nhớ đấy,
rồi đây vụ án “Frankland chống Nữ hoàng” sẽ thu hút sự chú ư của
xă hội cho mà coi.
- Bằng cách nào vậy?
Ông già ném cho tôi một cái nh́n nhiều ư nghĩa:
- V́ tôi có thể cho họ biết một chuyện mà họ thèm khát muốn
biết. Nhưng tôi sẽ không giúp những tên vô lại ấy.
Tôi nóng ḷng t́m cớ nào để mau chóng thoát khỏi ông già ba hoa
này, thế nhưng những lời nói sau cùng của ông ta đă khiến tôi
lưu tâm. V́ vậy, khi ông vừa ngừng lời, tôi đă hỏi với giọng
dửng dưng:
- Có lẽ lại vụ săn bắn trái phép chứ ǵ?
- Ha ha? Không, ông bạn của tôi ơi, đấy là một công việc cực kỳ
nghiêm trọng. Nó liên quan tới tên tù khổ sai vượt ngục kia!
Tôi giật thót ḿnh:
- Ông biết chỗ hắn ẩn náu?
- Chỗ chính xác th́ tôi không biết, nhưng tôi có thể đưa cảnh
sát lần theo dấu vết của hắn. Chẳng lẽ để lùng bắt hắn, chúng ta
không cần biết ai mang đồ ăn cho hắn hay sao?
Ông già càng đến gần sự thật, tôi càng tỏ ra e dè:
- Vâng, đúng vậy. Nhưng làm sao ông biết được tên tù khổ sai vẫn
c̣n lẩn lút ở trong đầm lầy?
- Th́ chính mắt tôi đă trông thấy người mang đồ ăn kia mà.
Tim tôi thắt lại khi nghĩ tới Barrymore. Nếu ông ta rơi vào tay
lăo già này th́ t́nh thế của ông sẽ rất nguy nan.
- Ngài hăy tưởng tượng xem, một thằng nhóc mang đồ ăn -
Frankland tiếp tục - Hàng ngày tôi nh́n thấy hắn qua ống viễn
kính ở trên mái nhà tôi. Nó luôn luôn theo một con đường và vào
thời gian nhất định. Nó đi gặp ai, nếu không phải là tên tù khổ
sai?
Tôi thở phào nhẹ nhơm, mừng cho Barrymore. Thế là cuối cùng cái
may mắn đă đến.
Nghĩa là Frankland đă lần ra dấu vết của một người trốn trong
khu đầm lầy, nhưng đó không phải là người tù khổ sai. Nếu tôi có
thể moi ở ông già tất cả những ǵ ông ta biết th́ điều đó sẽ
giúp tôi đỡ nhọc ông và đỡ tốn thời giờ.
- Thế mà tôi cứ tưởng đấy là con trai của một người chăn cừu nào
ở đấy. Có lẽ chú ta mang đồ ăn cho cha ḿnh.
Ông già hách dịch trợn mắt nh́n tôi:
- Ngài tưởng thế à? - ông chỉ tay về phía khu đầm lầy, nói tiếp
- Ngài có nh́n thấy cột đá hoa cương kia không? Rồi quả đồi phía
sau đó nữa? Đó là một nơi nhiều đá nhất trên cả khu đầm lầy, ở
đấy th́ làm ǵ có cừu? Giả thiết của ngài quả là không có cơ sở,
thưa ngài.
Tôi nh́n nhận là tôi không để ư tới điểm này. Frankland thích
chí, tiếp tục nói huyên thuyên:
- Thưa ngài, ngài có thể tin rằng không bao giờ tôi lại đưa ra
những kết luận vội vàng cả. Đâu có phải là lần đầu tôi trông
thấy chú bé. Mỗi ngày, cứ hai lần nó... Gượm đă, ngài Watson?...
Đây là ảo giác hay có một cái ǵ đang chuyển động trên sườn đồi
thế kia?
Thật vậy, ở cách tới vài dặm có một điểm đen nhỏ trên sườn đồi.
- Hăy lên đây, thưa ngài, hăy lên đây! - ông già vừa kêu vừa
theo cầu thang leo lên trên - Ngài sẽ tận mắt ḿnh nh́n thấy nó.
Trên mái nhà bằng phẳng có một kính viễn vọng cỡ lớn. Frankland
lao nhanh tới ống kính, la thét ầm ĩ:
- Mau lên, bác sĩ Watson, mau lên! Nó lẫn vào sau núi mất.
Quả vậy, một chú bé với tay nải sau vai đang chậm chạp theo sườn
núi leo lên trên. Rồi chú lên đến đỉnh núi. H́nh dáng của chú in
lên trên khoảng trời xanh biếc. Chú bé lén lút đưa mắt nh́n khắp
mọi hướng, rồi lẩn vào sau núi.
- Thế nào, tôi có đúng không?
- Đúng là một cậu bé đang làm một việc bí mật.
- Tôi thề sẽ không hé răng nói nửa lời cho cảnh sát biết, bác sĩ
Watson ạ, ngài cũng phải im lặng. Ngài có hiểu không? Tuyệt đối
im lặng!
- Tùy ư ông thôi.
- Họ coi thường tôi. Khi mọi t́nh tiết của vụ án “Frankland
chống Nữ hoàng” được phơi bày th́ làn sóng công phẫn sẽ nổi lên
trên khắp đất nước. Thế nào, đă đến lúc ngài cần đi rồi phải
không? Lẽ nào ngài không nốc hết b́nh rượu để chào mừng sự kiện
đáng vui này hay sao?
Tôi từ chối lời mời uống thêm rượu và cũng thuyết phục ông khỏi
phải đưa tôi về. Khi ông ta c̣n có thể nh́n thấy tôi th́ tôi đi
theo đường lớn, nhưng sau đấy tôi rẽ thẳng tới quả núi nhiều đá,
nơi chú bé lẩn vào đó.
Lúc tôi lên đến đỉnh núi th́ mặt trời đă khuất. Những triền đồi
thoai thoải bên kia đă ch́m trong bóng tối xa xa, ở phía chân
trời, một đám sương mù bay là là và từ đó hiện ra h́nh dáng
huyền ảo của thị trấn Belliver và Vixentor. Chung quanh vắng vẻ
và yên tĩnh. Chỉ có con chim lớn màu xanh tựa như chim hải âu
đang lượn lờ trên bầu trời xanh thẳm. Con chim và tôi, đấy là
hai sinh vật duy nhất giữa ṿm trời rộng lớn và vùng đất hoang
vắng. Khoảng rộng bao la trần trụi của khu đầm lầy, sự thiếu
vắng con người, bí mật chưa được khám phá, tầm quan trọng của
nhiệm vụ đặt ra cho tôi, tất cả đă làm buốt giá trái tim tôi.
Không trông thấy chú bé ở đâu cả. Nhưng ở giữa các quả núi ngay
phía dưới tôi, có những hang đá cổ sơ mà giữa ṿng cung của
chúng có một cái hang, ṿm mái vẫn c̣n nguyên vẹn có thể che chở
con người vào lúc thời tiết xấu. Tim tôi đập mạnh khi nhận ra
cái hang này.
Tôi len lén đến gần cái hang đá vắng vẻ đó. Tôi đi đến gần hơn
và tin rằng nơi đấy có người ở. Một lối ṃn hiện lên lờ mờ giữa
tảng đá dẫn tới khe hở dùng làm lối ra vào. Bên trong hoàn toàn
im lặng. Con người bí ẩn này hoặc đă trốn tránh ở đây hoặc đang
đi lang thang trên khu đầm lầy. Thần kinh tôi căng đến tột độ
trong khi chờ cuộc đụng độ. Tôi quẳng điếu thuốc đi, tay nắm
chắc chuôi súng lục, tiến nhanh tới lối ra vào, rồi nh́n vào bên
trong: hang đá trống không.
Trên chiếc giường đá của người thời đại đồ đá có cái mền được
bọc trong áo mưa. Trong bếp ḷ là một đống tro, cạnh đó có nồi
niêu và một chiếc thùng c̣n đến một nửa nước. Đống vỏ đồ hộp
rỗng không, chứng tỏ có người sống ở đây không phải ngày đầu
tiên. Và khi mắt đă quen với cảnh tranh tối tranh sáng, tôi nh́n
thấy ở trong góc chiếc ca sắt và một chai rượu nặng. Ở giữa là
phiến đá bằng phẳng dùng làm bàn, trên bàn có chiếc tay nải nhỏ.
Trong tay nải có bánh ḿ và nước trái cây. Sau khi xem xét tất
cả những thứ ấy, tôi có ư đặt tay nải trở lại chỗ cũ, đột nhiên
trái tim tôi thắt lại. Trên phiến đá có một mảnh giấy viết những
hàng chữ ǵ đó. Tôi cầm lấy tờ giấy, và sau khi phân biệt rất
khó nhọc những nét chữ viết ngoáy bằng bút ch́, tôi đă đọc được
những từ này:
“Bác sĩ Watson đă di đến Coombe Tracey”.
Đứng bất động với mẩu giấy trong tay, tôi suy ngẫm về ư nghĩa
của lá thư ngắn này. Kẻ lạ mặt không phải đang săn đuổi tôi
chăng? Không phải chỉ một ḿnh hắn theo dơi tôi, mà hắn và một
người khách, có lẽ là chú bé này. Và đây chính là bản báo cáo
mới nhất của người ấy? Có lẽ từng bước đi của tôi đều bị theo
dơi từ lúc tôi sống ở đây? Vậy mà trong suốt thời gian ấy, tôi
không hề có cảm giác rằng ở đây có những lực lượng đang hoạt
động, và những lực lượng đó đă giăng những tấm lưới tinh vi nhất
mà măi tới bây giờ mới cảm thấy sự rung động mỏng mảnh của tấm
lưới ấy!
Tôi đưa mắt nh́n khắp mọi phía nhưng không t́m thấy cái ǵ thêm
nữa. Tôi không t́m được những dấu vết qua đó có thể phán đoán về
hắn, về những ư định của hắn. Chỉ có thể nói như sau về hắn: Hắn
h́nh như là một kẻ khổ hạnh, hắn không coi các tiện nghi sinh
hoạt có ư nghĩa ǵ đáng kể. Nhớ lại những trận mưa vào những
ngày gần đây, nh́n khe đá toang hoác ở cửa ra vào của hang đá,
tôi hiểu rằng hắn đă bị cuốn hút vào công việc của ḿnh thật ghê
gớm. Hắn là ai vậy? Tôi thề là sẽ không rời khỏi hang đá khi
chưa t́m hiểu tất cả chuyện đó đến nơi đến chốn.
Mặt trời đă lặn, bầu trời ở phía tây đỏ rực, ánh hoàng hôn trải
ra trên mặt nước phía xa của vùng đầm lầy những vệt đỏ sẫm. Xa
xa nổi lên những chiếc tháp của lâu đài. Cách xa những chiếc
tháp này là một làn khói nhẹ bay lơ lửng trên mái nhà Grimpen.
Giữa mái nhà đó và lâu đài Baskerville, phía sau quả đồi, là
ngôi nhà của anh em Stapleton. Buổi chiều đem lại cho tất cả
cảnh vật vẻ êm ả thanh b́nh. Nhưng tôi lo ngại về sự bất ngờ
khủng khiếp đang đến gần từng giây. Thần kinh tôi căng thẳng,
nhưng tôi ngồi trong hang tối với vẻ hoàn toàn quả quyết, kiên
tŕ chờ đợi kẻ trú ngụ trong hang.
Và cuối cùng, tôi nghe hắn tới. Gót giày hắn đụng phải đá. Một
lần... Lại lần nữa... Tiếng những bước chân càng gần hơn, gần
hơn nữa... Tôi lùi nhanh vào góc tối nhất, lên c̣ súng ngắn. Bên
ngoài, tất cả đều im ắng, dường như hắn đă dừng lại. Rồi tiếng
những bước chân lại nổi lên, và bóng của ai đó che khuất cửa
hang. Bỗng có một giọng nói rất quen thuộc vang lên:
- Một buổi chiều thật tuyệt vời, anh Watson! Tại sao lại ngồi
tại một nơi ngột ngạt như thế, ở ngoài trời dễ chịu hơn nhiều.
Chương 12 -
Cái chết trên
khu đầm lầy
Tôi đứng lặng đi trong một lúc, không tin vào tai ́nh,
tôi không thể thở được. Sau đấy tài ăn nói mới trở lại với tôi
và tôi cảm thấy một sức nặng lớn đă trút khỏi vai tôi. Giọng nói
xỏ xiên ấy trên khắp thế giới này, chỉ có thể thuộc về một người
mà thôi!
- Holmes! - Tôi kêu lên - Sherlock Holmes!
- Hăy ra đây. Và hăy cẩn thận với khẩu súng đấy!
Từ trong hang, tôi ḅ lần ra và nhận ra anh. Holmes ngồi trên
phiến đá, nh́n gương mặt kinh ngạc của tôi với vẻ tinh nghịch
trong cặp mắt xám của ḿnh. Vào thời gian này, anh gầy xọp đi,
thế nhưng trông anh vẫn điềm tĩnh, bàn tay đầy sinh lực, khuôn
mặt ngả màu đồng thau v́ rám nắng. Trong bộ quần áo thể thao và
mũ cát, trông anh như một du khách nhàn nhă. Thậm chí anh vẫn
c̣n giữ được sự ưa thích vẻ sạch sẽ của loài mèo nữa: Râu được
cạo nhẵn nhụi, áo sơ mi không có một vết dơ. Tưởng như mọi
chuyện diễn ra trên phố Baker vậy.
- Không có sự xuất hiện nào làm cho tôi sung sướng bằng - Tôi
vừa nói vừa siết chặt lấy anh.
- Đồng thời ngạc nhiên nữa chứ?
- Vâng, đúng vậy.
- Nhưng không phải chỉ một ḿnh anh ngạc nhiên đâu Tôi không thể
nào ngờ rằng anh sẽ t́m ra nơi ẩn của tôi, mà cũng không nghĩ
được rằng lại gặp anh ở đây, trước lúc tôi ở cách hang đá hai
mươi bước.
- Anh trông thấy dấu giày của tôi ư?
- Không! Nếu anh muốn đánh lừa tôi, th́ trước tiên hăy thay đổi
hiệu thuốc lá đi. Mẩu thuốc hút dở của anh nằm lăn lóc cạnh
đường ṃn. Chắc anh ném nó đi từ lúc anh quyết định đột nhập vào
đây.
- Phải.
- Tôi nghĩ như vậy đấy... Và đoán ra rằng anh đă mai phục ở
trong hang, với cây súng ngắn. Có đúng là anh lầm tôi với kẻ
phạm tội không?
- Tôi quyết định t́m hiểu người khách lạ của đầm lầy.
- Thật tuyệt. Mà anh phát hiện ra nơi ẩn trú của tôi bằng cách
nào vậy? Có lẽ anh đă nh́n thấy tôi vào lúc anh đuổi bắt người
tù khổ sai?
- Vâng, tôi đă trông thấy anh lúc đó.
- Anh đă lùng sục lần lượt tất cả các hang trước khi chưa đụng
phải cái hang này, phải không?
- Không, cậu bé đă đưa tôi t́m đến dấu vết của anh. Ở đây có một
ai đó theo dơi cậu ta.
- A, ông già quư phái với ống kính viễn vọng! Tôi nh́n thấy mặt
trời lấp lánh trên ống kính. Ban đầu tôi không thể đoán nổi đấy
là cái ǵ cả. A ha! Cậu bé Cartwright đă có mặt ở đây. Mảnh giấy
ǵ đây? À, anh đi Coombe Tracey phải không?
- Vâng.
- Đến thăm cô Laura Lyons?
- Phải.
- Tuyệt lắm! Tôi và anh rơ ràng là tiến hành song song với nhau.
Bây giờ ta cần trao đổi những tin tức đă thu lượm được.
- Tôi rất vui là anh đă ở đây! Thần kinh của tôi bắt đầu chùn
lại dưới gánh nặng những bí ẩn và trọng trách đặt lên tôi. Nhưng
anh lọt vào đấy bằng cách nào? Và anh... làm ǵ ở đây vậy? Thế
mà tôi cứ nghĩ rằng anh đang ngồi ở đường Baker kia đấy?
- Tôi muốn chính anh nghĩ như vậy!
- Thế nghĩa là anh nhờ cậy sự giúp đỡ của tôi mà lại không tin
vào tôi. Tôi nghĩ là tôi xứng đáng được hơn thế chứ?
- Ông bạn, trong vụ án này cũng như trong nhiều vụ án khác, sự
giúp đỡ của anh đối với tôi là vô giá. Nếu anh cảm thấy là tôi
đă lừa gạt anh th́ xin anh tha lỗi! Chân thành mà nói, tôi cảm
thấy là anh đang lâm vào ṿng nguy hiểm, nên tôi đă đến đây. Nếu
tôi ở cùng một chỗ với anh và ngài Henry th́ kẻ thù sẽ cảnh giác
đề pḥng. C̣n ngược lại, tôi có thể hành động rất tự do khi đứng
ở sau cánh gà và sẵn sàng bước vào sân khấu vào giờ phút nguy
kịch nhất.
- Nhưng v́ lẽ ǵ anh lại phải giấu tôi?
- Nếu anh biết tôi th́ chẳng những không lợi ǵ mà rất có thể sẽ
bị phát giác? Thật vậy, lúc đó anh có thể muốn kể cho tôi nghe
một cái ǵ đấy, hoặc là anh sẽ nảy ra ư định thu xếp tiện nghi
cho tôi ở đây. Tôi mang theo chú bé Cartwright. Chú phục vụ tôi
một cách tuyệt vời. Anh biết những nhu cầu đơn giản của tôi rồi
đấy: Mẩu bánh ḿ và chiếc cổ áo sạch sẽ. Người ta c̣n cần ǵ hơn
nữa? Ngoài ra, Cartwright c̣n có cặp mắt rất tinh nhạy và đôi
chân rất nhanh nhẹn.
- Thế nghĩa là tất cả những bản phúc tŕnh của tôi được viết ra
một cách vô ích - Tôi run run nói, sau khi nhớ lại biết bao công
sức và niềm tự hào đă được đặt vào những bản tường tŕnh ấy.
Holmes rút từ trong túi ra một đống thư tín.
- Nó đây này, bạn ơi. Chúng đă được nghiên cứu tỉ mỉ nhất. Tôi
sắp xếp khéo léo đến mức chúng đến với tôi chỉ sau một ngày. Xin
nồng nhiệt chúc mừng anh. Ḷng kiên tŕ và tài quan sát mà anh
đă bộc lộ trong công việc cực kỳ khó khăn này cao hơn bất cứ lời
ngợi khen nào.
Những lời nói nồng nhiệt của Holmes đă làm nguôi cơn tức giận
của tôi. Tự trong thâm tâm, tôi thừa nhận rằng v́ những đ̣i hỏi
của vụ án, tôi không cần thiết phải biết sự có mặt của anh ở tại
đây.
- Vậy đấy! - Holmes vừa nói vừa nh́n vào khuôn mặt đă tươi tỉnh
của tôi - C̣n bây giờ, hăy kể cho tôi nghe cuộc viếng thăm của
cô Laura Lyons đi! Tôi đoán ra ngay là anh sẽ đến chỗ ấy, v́ tôi
đă rơ đấy là người duy nhất mà chúng ta có thể khai thác được
một cái ǵ đó. Thú thật là nếu hôm nay anh không ở đây th́ chắc
có lẽ ngày mai tôi sẽ phải thân chinh đến chỗ cô ta.
Mặt trời đă khuất sau núi, hoàng hôn bao phủ lên khu đầm lầy.
Ngoài trời đột nhiên lạnh lẽo, chúng tôi đi vào trong hang. ở đó
tôi ngồi cạnh Holmes, kể cho anh nghe câu chuyện của ḿnh với cô
Laura. Anh chú ư đến câu chuyện này tới mức nhiều điều phải nhắc
lại đến hai lần. Lúc tôi ngừng lời, anh nói:
- Tất cả chuyện đó là rất quan trọng. Trong vụ án có một khoảng
trống mà cho tới lúc này, chúng ta vẫn không sao lấp cho đầy
được. Có lẽ anh biết Stapleton rất thân t́nh với cô Laura chứ?
- Không, tôi không hề nghe nói ǵ về chuyện đó.
- Đó là sự thực. Họ gặp nhau, trao đổi thư từ với nhau. Nói
chung, giữa họ có sự đồng cảm hoàn toàn, và điều đó trao vào tay
chúng ta con chủ bài quan trọng. Nếu đưa con bài này tới vợ của
ông ta...
- Vợ của ông ta?
- Phải, cô Stapleton ấy, thực chất là vợ của ông ta.
- Chúa ơi, Holmes! Vậy mà ông ấy lại cho phép ngài Henry yêu cô
ta?
- Những t́nh cảm lăng mạn của ngài Henry chỉ đem lại tai họa cho
chính ngài thôi! Anh không nhận thấy là Stapleton bảo vệ cô ta
một cách chặt chẽ hay sao. Tôi nhắc lại, người đàn bà ấy là vợ
của Stapleton.
- Nhưng họ làm cái chuyện rắc rối ấy để làm ǵ cơ chứ?
- Nguyên do thế này: Stapleton nh́n thấy trước là trong vai tṛ
người đàn bà tự do, cô sẽ có lợi nhiều hơn cho ông ấy.
Tất cả những mối ngờ vực chưa được sáng tỏ, mọi điều mách bảo
của linh cảm tự nhiên lộ hết ra ngoài và tập trung vào nhà tự
nhiên học. Từ con người trầm tĩnh với chiếc mũ ghê gớm, mưu mô
và kiên nhẫn, đi liền với nụ cười trên môi và sự độc ác thâm
hiểm trong ḷng.
- Nghĩa là đây chính là đối thủ của chúng ta? Nghĩa là hắn đă
theo dơi chúng ta ở London?
- Đúng, tôi đă phanh phui điều bí ẩn này.
- C̣n bức thư cảnh giác...? Có phải do cô ta gởi không?
- Đúng.
- Anh có chắc không, Holmes? Do đâu mà anh biết cô ấy là vợ của
hắn?
- Vào cuộc gặp gỡ đầu tiên với anh, Stapleton đă nói cho anh
biết một phần tiểu sử của ḿnh. H́nh như cho đến giờ, hắn vẫn
c̣n hối hận về chuyện đó. Hắn quả thật có một trường học ở miền
Bắc nước Anh. T́m kiếm tin tức một người thầy giáo là một công
việc chẳng khó khăn ǵ. Để làm việc đó có những cơ sở thông tin
ngành sư phạm. Tôi đă ḍ hỏi và chẳng bao lâu đă biết đúng là có
những việc không may xảy ra trong một trường học. Hiệu trưởng
của nó (họ của ông ta không giống như vậy) đă cùng vợ trốn đi.
Mọi dấu hiệu trùng hợp hoàn toàn với nhau và khi tôi biết hắn
c̣n ham mê côn trùng học th́ tôi không c̣n nghi ngờ ǵ nữa.
Bóng tối che phủ lấy tôi bắt đầu dần dần tản ra, nhưng nhiều
điều vẫn c̣n nằm trong bóng râm.
- Nếu người đàn bà ấy là vợ của hắn. Th́ cô Laura Lyons giữ vai
tṛ ǵ? - Tôi hỏi.
- Sau chuyến đi của anh tới Coombe Tracey, nhiều điều đă bắt đầu
sáng tỏ. Ví như, cô Laura muốn ly dị chồng để kết hôn với
Stapleton. Bởi v́ cô không ngờ rằng hắn đă có vợ.
- Khi nào cô ta sẽ được biết sự thật?
- Khi người đàn bà trẻ ấy trở nên thật có lợi đối với chúng ta.
Ngày mai, cả hai chúng ta cần đến thăm cô ta. C̣n bây giờ, chỗ
của anh là ở lâu đài Baskerville.
Những tia đỏ cuối cùng của hoàng hôn đang phai dần ở phía tây,
và đêm tối đă buông xuống khu đầm lầy. Những ngôi sao nhấp nháy
yếu ớt trên bầu trời tím nhạt.
- C̣n một câu hỏi cuối cùng - Tôi vừa đứng lên vừa nói - Tất cả
chuyện đó nghĩa là thế nào? Hắn đang đeo đuổi mục đích ǵ?
- Một vụ giết người. Một vụ giết người được b́nh tĩnh cân nhắc
một cách kỹ lưỡng. Stapleton lừa ngài Henry vào lưới của ḿnh,
c̣n tôi th́ lừa hắn vào lưới của tôi. Với sự giúp đỡ của anh,
hắn hầu như đang nằm trong tay tôi. Chỉ có một mối nguy hiểm
đang đe dọa chúng ta: Hắn có thể hành động trước. C̣n một ngày,
quá lắm là hai ngày nữa thôi, tôi đă chuẩn bị mọi thứ để đến lúc
đó sẽ che chở ngài Henry như người mẹ yêu thương bảo vệ đứa con.
Sự vắng mặt của anh hôm nay hoàn toàn tha thứ được, nhưng tôi
thích anh đừng để ông ấy ở lại một ḿnh. Anh nghe thấy ǵ không?
Một tiếng gào thét kinh hăi kéo dài, ghê sợ và đau đớn, phá tan
bầu không khí trên khu đầm lầy tĩnh mịch. Máu tôi như đông lại.
- Chúa ơi! Cái ǵ vậy? Đó là cái ǵ vậy?
Holmes nhổm phắt dậy, bóng dáng cao của anh che khuất lối vào
hang. Anh cúi người đứng đó. Và sau khi ngoái cổ ra, anh vừa
chăm chú nh́n vào bóng đêm vừa chỉ kịp thầm th́ với tôi.
- Im lặng! Hăy im lặng!
Tiếng kêu khiến chúng tôi kinh ngạc bởi nó vọng tới từ trong
ḷng sâu của khu đầm lầy. Nhưng nó vang lên mỗi lúc một gần hơn
và rơ hơn...
- Ở đâu vậy? - Holmes th́ thào và giọng của anh run run. Đó là
giọng của một người có một thần kinh vững vàng hay sao? Tôi hiểu
tiếng thét xuyên vào tận đáy tâm hồn anh - Tiếng kêu ở đâu vậy,
Watson?
- Phía này - Tôi đưa tay chỉ vào bóng đêm.
- Không phải, ở phía kia cơ!
Tiếng kêu hấp hối lại vang lên trong đêm yên tĩnh, nhưng giờ nó
ở gần và rơ hơn nữa. Hoà trộn vào đó là những âm thanh khác, gầm
gừ, trầm trầm.
- Con chó đấy! - Holmes kêu lên - Chạy đi Watson, chạy đi! Chúa
ơi, chỉ mong sao đừng có muộn quá.
Anh chồm vào bóng tối, tôi bám theo sau anh. Rồi đột nhiên ở một
nơi nào đó vang lên một tiếng la tuyệt vọng và sau đó là tiếng
động nặng nề, trầm đục. Chúng tôi dừng lại, lắng nghe. Nhưng
không c̣n tiếng động nào phá tan bầu không khí im ắng trong đêm
lặng gió nữa.
Tôi thấy Holmes ôm đầu, dậm chân xuống đất như người mất trí.
- Watson! Chúng ta đă muộn mất rồi!..
- Không, không thể có chuyện đó được!
- Tôi tŕ hoăn để làm ǵ, đồ ngốc! C̣n anh, anh có thấy hậu quả
việc để Nam tước ở lại một ḿnh chưa? Nhưng nếu không thể cứu
chữa được nữa th́ tôi sẽ giết tên chó má ấy!
Không phân biệt đường sá ǵ cả, chúng tôi lao tới nơi tiếng kêu
khủng khiếp vọng đến. Chúng tôi trèo lên đỉnh dốc, rồi chạy
xuống. Trong bóng tối, chúng tôi đụng phải những tảng đá nằm lọt
vào giữa lùm cây. Mỗi khi lên được một chỗ cao, bạn tôi đều đưa
mắt nh́n khắp bốn phía, nhưng lớp sương mù dày đặc, chúng tôi
không thấy có sự di động nhỏ nhặt nào.
- Anh có trông thấy ǵ không?
- Không thấy ǵ cả.
- Suỵt! Lắng nghe xem!
Tiếng rên rỉ vọng đến, đâu đó từ phía bên trái. Dăy đá đột nhiên
bị đứt đoạn, ở giữa tảng đá có một vật ǵ đó đen thẫm. Chúng tôi
càng chạy đến gần th́ cái vật đen thẫm đó càng rơ nét. Đó là một
người nằm úp mặt xuống đất, đầu cụp xuống, hai vai hơi nâng lên,
lưng cong xuống, như chuẩn bị nhảy. Chúng tôi cúi ḿnh trên
người đó: không có tiếng thở, cũng không có qua một cử động nào.
Holmes đụng vào tấm thân bất động. Anh kêu lên và rụt tay lại.
Anh quẹt một que diêm và chúng tôi thấy những ngón tay đầm đ́a
máu và cái sọ bị dập nát. Trong ánh sáng của que diêm, chúng tôi
nhận ra ngài Henry đang nằm trước mặt chúng tôi.
Chúng tôi không thể quên bộ quần áo màu cỏ úa hơi đặc biệt mà
Nam tước đă mặc trong lần đầu tiên xuất hiện trên đường Baker.
Chỉ trong tích tắc cũng đủ để chúng tôi nhận ra ông. Sau đấy que
diêm lại được bật sáng, rồi tắt lịm, như tia hy vọng cuối cùng
trong ḷng chúng tôi. Holmes bắt đầu rên rỉ, thậm chí ngay trong
bóng tối tôi vẫn nh́n thấy khuôn mặt của anh nhợt nhạt ra sao.
- Đó dă man! Đồ dă man! - Tay tôi siết lại thành nắm đấm -
Holmes, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho ḿnh v́ đă bỏ rơi ông
ta.
- Tội lỗi của tôi c̣n lớn hơn, Watson ạ! Tôi đă hy sinh tính
mệnh của người khác chỉ để tính toán xem làm thế nào giải quyết
vụ án này nhanh gọn hơn. Tôi đă pḥng ngừa từ trước, thế mà ông
ta vẫn cả gan một ḿnh đi vào khu đầm lầy.
- Chúng ta nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của ông ta mà không
thể đến giúp ông được! Con chó quái quỷ ấy lẩn đi đâu rồi? C̣n
Stapleton th́ ở đâu? Hắn sẽ phải chịu trách nhiệm về việc này!
- Đúng. Tôi sẽ bắt hắn phải trả lời? Bác và cháu, cả hai người
đều bị giết. Một người chết v́ kinh hăi khi nh́n thấy con quái
vật mà ông coi đấy là một sinh vật siêu phàm; c̣n người kia chết
khi không thoát khỏi con quái vật Nhưng bây giờ chúng ta cần
phải xác minh mối liên quan giữa con người và con chó. Chúng ta
nghe thấy tiếng rống của nó, nhưng đó chưa phải là bằng chứng,
bởi v́ rơ ràng ngài đă chết v́ té ngă.
Sau đó, lúc ánh trăng từ đám mây ló ra, chúng tôi leo lên dăy đá
mà từ đó người bạn của chúng tôi rơi xuống rồi đưa mắt nh́n khu
đầm lầy. Xa xa nổi lên ngọn lửa màu vàng cạnh Grimpen. Ngọn lửa
chỉ có thể phát ra từ ngôi nhà biệt lập của gia đ́nh Stapleton.
Tôi giơ nắm đấm về phía đó, nguyền rủa.
- Sao không tới bắt ngay hắn?
- Một bước đi hấp tấp là tên vô lại sẽ lọt khỏi tay chúng ta.. -
Vậy khi nào mới dám hành động Ngày mai cũng không sao C̣n hôm
nay chúng ta phải làm bổn phận cuồl cùng với người đă mất.
Chúng tôi đi xuống sườn dốc dựng đứng, đến bên tử thi, trái tim
thắt lại và mắt nhoà đi.
- Sẽ phải gọi người đến giúp đỡ thôi, Holmes ạ. Chúng ta không
đưa ông ấy về đến nhà được. Chúa ơi, anh làm sao vậy Anh mất trí
rồi!...
Holmes rú lên, cúi ḿnh trên thi thể Henry. Rồi anh nhảy nhót,
cười khanh khách và lắc lắc tay tôi. Phải chăng đây là bạn tôi,
một người luôn luôn tự kiềm chế được ḿnh?
- Có râu! Ông ta có râu!
- Có râu à?
- Đây không phải là ngài Henry!... Chúa ơi, đây là người tù khổ
sai.
Chúng tôi cuống cuồng lật thi thể trở lại. Không c̣n hoài nghi
nữa. Trán thấp, mắt hoắm như loài khỉ.
Trong khoảnh khắp, tôi hiểu ra tất cả. Tôi có nhớ Nam tước đă
tặng cho Barrymore hầu như toàn bộ những trang phục cũ của ḿnh.
Nghĩa là Barrymore đă cho Selden để hắn mặc trong lúc ra đi. Đôi
giày, áo sơ mi và mũ cát-két. Nhưng dẫu sao người tù này đáng
nhận cái chết do các tội lỗi của anh ta. Đứng ngồi không yên v́
vui sướng, tôi giải thích cho Holmes nghe mọi chuyện đă xảy ra
như thế nào.
- Nghĩa là kẻ bất hạnh đă chết v́ bộ quần áo - Anh nói - Chắc
chắn người ta đă cho con chó đánh hơi vật ǵ đó của ngày Henry.
Có lẽ chính chiếc giầy bị thất lạc ở khách sạn. Và con chó đă
lần theo vết của người tù khổ sai. Chỉ c̣n một điều chưa được
rơ: Làm sao Selden trông thấy con chó rượt đuổi theo hắn trong
bóng tối.
- Có lẽ hắn nghe thấy.
- Nghe thấy con chó chạy khắp khu đầm lầy và đă kêu cứu hay sao?
Ông ta đang c̣n bị săn lùng kia mà. Không, đúng ra là thế này:
Selden trông thấy con chó theo ḿnh.
- Theo tôi, có những việc c̣n quái lạ hơn thế nữa. Tại sao con
chó này được thả ra? Cứ cho rằng những giả thiết của chúng ta là
đúng...
- Tôi không hề giả thiết như thế.
- Được. Vậy tại sao người ta thả con chó này vào khu đầm lầy vào
đêm nay?
- Thôi được, chúng ta sẽ t́m hiểu sau. Bây giờ chúng ta không
thể để tên này ở đây làm mồi cho cáo và diều hâu được.
- Khi chúng ta chưa báo cho cảnh sát th́ cứ đặt hắn nằm trong
bất kỳ hang đá nào.
- Đúng. Nh́n ḱa, Watson! Cái ǵ vậy? Phải chăng chính hắn?
Không, lẽ nào hắn lại liều mạng như thế.
Một người đang đi đến gần chỗ chúng tôi. Hắn hút thuốc, đốm lửa
của điếu thuốc lập ḷe từ xa. Mặt trăng chiếu vào hắn rất rơ.
Ngay lập tức, tôi nhận ra thân h́nh gầy guộc và dáng đi nhanh,
nhún nhảy của nhà tự nhiên học. Nhận ra chúng tôi, hắn dừng lại,
rồi bắt đầu đi về phía trước.
- Bác sĩ Watson! Phải ông đấy không? Tôi chẳng thể nghĩ rằng lại
gặp ông tại đây vào ban đêm đấy? Ủa, cái ǵ thế này? Chuyện ǵ
đă xảy ra thế này? Có ai bị thương phải không? Lẽ nào đây là bạn
của chúng ta, ngài Henry?
Stapleton chạy qua tôi, cúi người trên thi thể...
Tôi nghe tiếng thở mạnh, điếu thuốc từ tay hắn rơi xuống đất.
- Ai... Ai đấy? - Hắn ấp úng, nói lắp bắp.
- Đấy là tên tù khổ sai đă vượt ngục.
Stapleton xoay bộ mặt tái nhợt về phía chúng tôi, nhưng cố che
giấu vẻ ngạc nhiên và tuyệt vọng. Cái nh́n chăm chú của hắn dừng
lại trước tiên ở Holmes và sau đó ở tôi.
- Chúa ơi, thật là kinh khủng! Làm sao mà y chết vậy?
- Có lẽ hắn ngă từ triền núi kia xuống và bị găy cổ. Tôi và bạn
tôi đang đi dạo trên khu đầm lầy th́ nghe thấy tiếng kêu.
- C̣n tôi cũng nghe thấy tiếng kêu và chạy tới đây. Tưởng là
tiếng kêu của ngài Henry nên tôi rất lo.
- Tại sao là ngài Henry? - Tôi không ḱm ḷng được, phải hỏi.
- Hôm nay ngài có hứa là sẽ rẽ vào chỗ chúng tôi, nhưng ngài lại
không đến. Điều đó làm tôi rất ngạc nhiên. Lúc nghe thấy tiếng
kêu th́ tự nhiên tôi rất lo cho ngài. Tiện thể xin hỏi -
Stapleton lại chuyển cái nh́n từ tôi sang Holmes - Ngoài những
tiếng kêu này ra, các ông có nghe thấy tiếng nào khác nữa không?
- Không. Thế c̣n ông?
- Cũng không.
- Vậy tại sao ông hỏi như vậy?
- Ôi, ông không biết đấy thôi, ở chỗ chúng tôi người ta có kể về
con chó ma quái! Các điền chủ địa phương nói rằng h́nh như đêm
nào con chó cũng lang thang khắp khu đầm lầy. Tôi muốn biết xem
có thể các ông nghe thấy tiếng của nó chăng?
- Không, chúng tôi không nghe thấy ǵ như thế cả.
- Vậy kẻ bất hạnh này chết như thế nào?
- Đầu óc hắn quay cuồng v́ sợ bị săn lùng. Và có lẽ trong cơn
mất trí, hắn chạy khắp khu đầm lầy rồi cuối cùng ngă xuống sườn
núi găy cổ.
- Vâng, hoàn toàn có thể như thế - Hắn nói và thở phào nhẹ nhơm
- C̣n ông, ông nghĩ thế nào về điều đó, ông Holmes?
- Thật tinh ư làm sao! - Bạn tôi cúi người chào hắn và nói.
- Chúng tôi chờ ông từ lâu rồi. Ông đến đúng lúc tấn thảm kịch
xảy ra?
- Vâng! Tôi tin rằng bạn tôi giải thích đúng tấn thảm kịch này.
C̣n tôi, ngày mai tôi sẽ trở về London với kỷ niệm đáng buồn.
- Thế nào, mai ông sẽ đi à?
- Tôi có ư định như thế.
- Nhưng sự có mặt của ông sẽ rọi ánh sáng vào những sự cố đă đẩy
chúng tôi vào ngơ cụt.
Holmes nhún vai:
- Sự thành công không phải luôn luôn nằm trong tầm tay ta. Tôi
vẫn chưa rút ra một điều ǵ từ vụ án này.
Bạn tôi nói bằng giọng điệu tự nhiên nhất và vẻ thật thà nhất.
Stapleton chăm chú nh́n anh. Sau đấy, hắn hướng về phía tôi.
- Tôi vui ḷng đề nghị chuyển thi thể về nhà chúng tôi, nhưng em
gái tôi sẽ sợ hăi. Chúng ta sẽ lấy cái ǵ đó đậy lên mặt hắn và
để hắn lại đây thôi! Cho tới sáng sẽ không có ǵ xảy ra với cái
xác chết này đâu.
Công việc được tiến hành như thế. Tôi và Holmes từ chối lời mời
rẽ vào nhà của Stapleton. Chúng tôi để cho hắn trở về nhà một
ḿnh và đi về phía lâu đài Baskerville.
- Thế là cuối cùng chúng ta đă đánh giáp lá cà - Holmes bước
cạnh tôi và nói - Hắn thật là điềm tĩnh! Hắn tự kiềm chế mới
giỏi làm sao! Cú đấm thật điếng người. Chúng ta c̣n chưa có dịp
nào đọ sức với đối thủ xứng đáng hơn thế!
- Dẫu sao đáng tiếc là hắn đă nhận ra anh!
- Nhưng biết làm sao được!
- Cuộc gặp gỡ này có ảnh hưởng tới những dự định của hắn không?
- Chắc thế, hắn sẽ hành động thận trọng hơn nếu điều đó không
thúc đẩy hắn tới những quyết định tuyệt vọng tức th́. Như phần
lớn những tên tội phạm xuất sắc khác, Stapleton h́nh như rất
trông cậy vào sự khôn khéo của ḿnh, và tưởng tượng ra rằng hắn
đă khéo đánh lừa chúng ta.
- V́ sao anh c̣n chưa muốn bắt hắn?
- Giả sử là đêm nay hắn bị bắt, th́ thử hỏi điều ấy đem lại cho
chúng ta cái ǵ nào? Chúng ta không chứng minh được ǵ cả. Đấy,
sự tinh ranh, quỷ quyệt của hắn là ở đấy. Nếu kẻ tiếp tay cho
Stapleton là con người, chúng ta phải t́m cho ra những bằng cớ
nào đó, nhưng đằng này là con chó. Lời khai của nó là ǵ?
- Nhưng một phần lớn của tội ác đă rơ rồi kia mà?
- Tất cả chỉ là những phỏng đoán, những giả thiết. Tại phiên
ṭa, chúng ta sẽ bị cười cợt nếu chúng ta đến đấy bằng câu
chuyện hoang đường, không có chứng cớ.
- C̣n ngài Charles?
- T́m được xác chết, nhưng không phát hiện ra dấu vết bạo hành.
Tôi với anh biết ông ta chết v́ kinh hăi, và ta cũng biết ông ta
kinh sợ cái ǵ. Nhưng liệu 12 ông thẩm phán có tin vào chuyện đó
hay không? Những vết cắn của con chó ở đâu? Tôi và anh đều biết
là con chó chưa cắn chết người, và ngài Charles chết trước lúc
nó nhảy xổ vào ông ta. Cần phải chứng minh điều đó, mà hiện giờ
chúng ta chưa thể chứng minh được.
- C̣n đêm nay th́ sao?
- Cũng không có mối liên quan trực tiếp giữa con chó với cái
chết của người tù. Không một ai trông thấy con chó này. Quả thật
chúng ta có nghe thấy tiếng của nó, nhưng chúng ta không có bằng
chứng về việc con chó săn lùng người tù, mà cũng không có lư do
ǵ để nó đuổi theo anh ta.
- Anh định bắt tay vào việc ǵ?
- Tôi đặt nhiều hy vọng vào cô Laura. Khi cô ta biết rơ t́nh
trạng gia đ́nh của Stapleton, có lẽ cô sẽ giúp chúng ta. Ngoài
ra, tôi c̣n có kế hoạch khác. Dù thế nào, tôi cũng hy vọng là
ngày mai, chiến thắng sẽ đến với chúng ta.
Tôi không moi thêm được ở Holmes điều ǵ nữa.
Trước khi đến chỗ rẽ vào lâu đài Baskerville, anh bước đi im
lặng, đắm ch́m trong cái ư tưởng của ḿnh.
- Anh có rẽ vào không?
- Có. Giờ th́ không cần tránh mặt nữa. Nhưng c̣n điều này,
Watson, anh đừng nói với ngài Henry về con chó. Cứ gán cái chết
của Selden cho các nguyên nhân mà Stapleton đă gợi ư cho chúng
ta vậy? Như thế, ông ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn khi đi ăn trưa
ở Merripit.
- Nhưng người ta cũng mời tôi đến đấy.
- Vậy anh phải từ chối. Hăy để ông ấy đi một ḿnh và điều đó dễ
sắp xếp...
Chương 13 -
Giăng lưới
Sự xuất hiện của Holmes khiến ngài Nam tước rất vui
sướng, v́ ông tin rằng Holmes không c̣n có thể ngồi lỳ ở London
được nữa. Tuy nhiên ông ngạc nhiên khi được biết bạn tôi chẳng
mang hành lư theo.
Sau bữa tôi muộn màng, chúng tôi nói cho Nam tước biết một phần
cuộc phiêu lưu của chúng tôi mà ông cần phải biết. Và đến lúc
này tôi buộc phải báo cho vợ chồng Barrymore biết về cái chết
của Selden. Viên quản lư tiếp nhận cái tin này với cảm giác nhẹ
nhơm, nhưng bà vợ lấy tạp dề che mặt khóc một cách cay đắng. Bà
vẫn coi hắn là một cậu bé ngỗ nghịch, một đứa trẻ vào tuổi thơ
ấu từng níu lấy tay bà.
- Từ lúc ông đi khỏi, Watson ạ, tôi ngồi lỳ ở nhà và buồn đến
nẫu ruột - Nam tước nói - Nếu ông không căn dặn là đừng vào khu
đầm lầy một ḿnh th́ tôi đă đến nhà Stapleton để hưởng một buổi
tối vui vẻ.
- Vâng, tôi cũng tin là có lẽ ngài hưởng được một buổi tối thật
vui vẻ - Holmes lạnh lùng nói - Nhưng ngài có biết chắc rằng lúc
nh́n thấy thi thể ngài, chúng tôi đă khóc hay không?
Ngài Henry trợn trừng mắt:
- Chuyện như thế nào?
- Bởi lẽ người bất hạnh mặc quần áo của ngài. Cảnh sát có thể sẽ
hỏi thăm người giúp việc cho ngài đấy!
- Tốt hơn là hăy soát lại công việc của chúng ta - Nam tước nói
- ông đă thành công trong việc tháo gỡ mớ ḅng bong này chưa?
- Vụ án cực kỳ khó khăn và rối rắm. Cho đến giờ c̣n một đôi điều
cần được làm sáng tỏ, nhưng cuối cùng chúng ta sẽ thành công.
- Watson h́nh như có cho ông biết là tôi đă nghe thấy ǵ trên
khu đầm lầy rồi chứ? - Nam tước nói - Ở Mỹ, tôi đă từng có công
việc với loài chó, đừng ḥng mà lừa nổi tôi. Tôi không thể không
nhận ra tiếng chó tru được. Nếu ông đeo được rọ bịt mơm con chó
này và xích được nó, tôi sẽ coi ông là người thám tử kiệt xuất
nhất thế giới.
- Nó sẽ bị bịt mơm, và sẽ bị xích, nếu ngài chịu giúp tôi.
- Tôi sẽ làm tất cả những ǵ ông ra lệnh.
- Tốt lắm! Nhưng tôi yêu cầu phục tùng một cách tuyệt đối. Không
được hỏi v́ sao, tại sao?
- Đồng ư.
- Nếu vậy, chúng ta sẽ thành công. Tôi không nghi ngờ rằng...
Đột nhiên, Holmes ngưng bặt và chăm chăm nh́n ở đâu đó trên đầu
tôi. Ngọn đèn chiếu thẳng vào mặt anh. Bộ mặt căng thẳng, biểu
lộ sự tập trung tựa như bộ mặt của pho tượng cổ điển.
- Có chuyện ǵ vậy? - Tôi và ngài Henry cùng thốt lên.
Holmes quay nh́n chúng tôi, và tôi cảm thấy anh đang gắng kiềm
chế xúc động của ḿnh. Khuôn mặt anh vẫn c̣n căng thẳng, nhưng
cặp mắt th́ long lanh v́ vui sướng.
- Thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi không thể kiềm nổi thích thú của
ḿnh được - Anh vừa nói vừa chỉ lên những bức chân dung treo
trên bức tường đối diện - Watson đă cả quyết rằng tôi không am
hiểu hội họa, nhưng điều đó chỉ v́ chúng tôi không hợp nhau
trong việc đánh giá các tác phẩm nghệ thuật. Nhưng các bức chân
dung quả thật là tuyệt vời.
- Tôi vui ḷng khi nghe ông nói thế - Ngài Henry ngạc nhiên nh́n
bạn tôi và nói - Tôi không được thông thạo về tranh lắm. Thế
nhưng, ai có thể nghĩ được rằng ông c̣n có thời giờ để quan tâm
đến nghệ thuật.
- Tôi biết đánh giá những tác phẩm có giá trị. Tôi đảm bảo người
đàn bà trong chiếc áo lụa màu xanh da trời kia và người đàn ông
trong bộ tóc giả có lẽ là những bức chân dung ḍng họ.
- Vâng, tất cả đều là những người trong ḍng họ.
- Ngài có biết tên của họ không?
- Từ lâu Barrymore kèm tôi môn học này và dường như tôi có thể
trả lời lưu loát bài học của ḿnh.
- Người đàn ông với chiếc kính viễn vọng kia là ai vậy?
- Đấy là phó đô đốc Baskerville phục vụ ở Tây Ấn. C̣n người
trong bộ lễ phục màu xanh và cầm cuộn giấy là ngài William
Baskerville, chủ tịch hạ viện trong chính phủ Pitt[1].
- C̣n người kỵ mă mặc áo ngắn nhung đen thêu đăng ten đối diện
với tôi là ai?
- Ôi, ông cần làm quen với ông ta. Đấy chính là Hugo, kẻ gây ra
mọi nỗi bất hạnh và đă đặt cơ sở đầu tiên cho truyền thuyết về
con ehó của ḍng họ Baskerville.
Tôi nh́n bức chân dung với vẻ chăm chú và có phần phân vân,
Holmes nói:
- Sao trông bề ngoài ông ta có vẻ hiền từ và b́nh thản thế kia.
Chỉ cặp mắt quả là có ǵ quỷ quyệt. Thế mà tôi đă h́nh dung Hugo
của ngài là một chàng trai vạm vỡ với dáng vẻ kẻ cướp cơ đấy?
- Chân dung chính xác, không mảy may có sự nghi ngờ nào đâu.
Đằng sau bức họa có ghi tên ông ta và năm tháng - 1647.
Suốt buồi tối c̣n lại, Holmes ít nói, nhưng h́nh như bức chân
dung của Hugo cuốn hút tâm trí của anh. Suốt bữa ăn, anh không
thôi th́n nó. Lúc ngài Henry đă về pḥng, Holmes cầm cây nến đến
gần bức chân dung và đă thẫm lại v́ thời gian.
- Anh có nhận thấy cái ǵ không?
Tôi quan sát hồi lâu chiếc mũ rộng vành có ngù lông, chiếc cổ áo
đính đăng-ten màu trắng, mái tóc xoăn dài, khuôn mặt nghiêm
khắc.
- Ông ta không nhắc anh nhớ tới ai hay sao?
- Phần dưới của khuôn mặt có hao hao giống ngài Henry.
- Đúng, chút xíu thôi. Nhưng hăy chờ một lát.
Anh đứng lên ghế tay trái cầm cây nến, tay phải khum lại che
chiếc mũ rộng vành và mớ tóc xoăn dài.
- Chúa ơi! - Tôi thốt lên kinh ngạc.
Bộ mặt của Stapleton từ bức tranh nh́n tôi.
- A ha! Giờ th́ anh thấy rồi đấy. Mắt tôi đă quen khảo sát bộ
mặt thật chứ không phải những trang điểm của bộ mặt.
- Đáng ngạc nhiên thật. Cứ như là bức chân dung của chính hắn.
- Đúng vậy, một ví dụ hay về chứng phản biến di truyền cả về
h́nh thể lẫn tinh thần. Hắn cũng là Baskerville. Điều đó hoàn
toàn rơ rệt.
- Và ngấp nghé kế thừa gia tài.
- Cố nhiên. Bức chân dung này là mắt xích c̣n thiếu. Giờ đây
chúng ta đă phát hiện ra nó. Phải, giờ đây chúng ta đă phát hiện
ra nó rồi. Xin thề với anh rằng vào đêm mai hắn sẽ sa vào lưới
của chúng ta như những con bướm sa vào vợt của hắn. Kim găm, nút
chai, nhăn hiệu - Bộ sưu tập trên đường Baker sẽ c̣n được bổ
sung một mẫu vật nữa. - Holmes cười khanh khách và lùi ra khỏi
bức chân dung. Mỗi khi tôi có dịp nghe tiếng cười của anh, tôi
biết rằng đó là điềm báo trước một tai họa ghê gớm sẽ giáng
xuống đầu một tên hung bạo nào đó.
Vào sáng hôm sau, lúc đang mặc quần áo, tôi nh́n ra cửa sổ thấy
Holmes h́nh như dậy từ sớm tinh mơ.
- Chúng ta sẽ có một ngày thật bận rộn - Anh vừa nói vừa sung
sướng xoa tay khoan khoái - Lưới đă được giăng ra. Tới chiều tối
sẽ rơ là con cá măng vùng vẫy ở trong đó hay là bị sổng mất.
- Anh đă kịp đến khu đầm lầy?
- Tôi đến Grimpen và chuyển bức điện tới Princetown thông báo về
cái chết của Selden. Ngoài ra, tôi cũng đă liên lạc với
Cartwright, kẻo chú ấy cũng sẽ chết ở cửa hàng như con chó nằm
trên nấm mộ của chủ ḿnh.
- Hôm nay, anh sẽ bắt đầu từ đâu?
- Trước hết phải nói cho ngài Henry biết. Đấy, ông ta đến rồi
ḱa!
- Chúc buổi sáng tốt đẹp, ông Holmes! - Nam tước nói - Ông cứ
như là vị tướng đang trao đổi với tham mưu trưởng về kế hoạch
của trận đánh sắp tới.
- Có một trận đánh như thế. Watson theo lệnh, đă có mặt.
- Tôi cũng vậy.
- Thật tuyệt. Nếu tôi không lầm, hôm nay Stapleton mời ngài tới
ăn tối th́ phải?
- Mong rằng các ông cũng sẽ đi chứ? Họ là những người mến khách;
họ sẽ rất vui khi gặp các ông.
- Đáng tiếc là tôi cùng Watson cần phải trở về London.
- Về London sao?
- Vâng.
Mặt Nam tước buồn thiu.
- Tôi tưởng các ông ở lại với tôi tới khi xong vụ này chứ. Sống
một ḿnh ở đây không được ấm cúng lắm.
- Ngài cần phải tin tôi, và làm đúng những ǵ tôi yêu cầu ngài.
Hăy nói với những người bạn của chúng ta rằng nếu không có những
công việc khẩn cấp ở London th́ chúng tôi sẽ đến dự. Tuy vậy,
không bao lâu nữa, ,chúng tôi sẽ quay trờ lại đây. Ngài đừng
quên thông báo với họ.
- Nếu ông đă muốn như thế.
- Xin cam đoan với Ngài là không có cách nào khác.
Cứ theo vẻ nhăn nhó của Nam tước, tôi hiều là ông ta đă phật ư
và coi chuyến đi của chúng tôi là hành vi đào ngũ.
- Các ông định đi lúc nào? - Ông ta lạnh nhạt hỏi.
- Ngay bữa sáng. Chúng tôi sẽ đến Coombe Tracy bằng ngựa. Tội
nghiệp Watson! Nghèo đến thế này? Nhưng Watson sẽ gửi đồ đạc lại
đây để đàm bảo là anh ấy sẽ trở lại. Watson, anh hăy viết cho
Stapleton vài ḍng, cáo lỗi là anh không thể dự tiệc.
- Tôi cũng muốn đi London. - Nam tước nói - V́ sao tôi phải ngồi
ở đây một ḿnh kia chứ?
- Bởi v́ ngài đă hứa với tôi là sẽ luôn tuân theo ư muốn của
tôi, và bây giờ tôi nói với ngài: Ngài hăy ở lại đây!
- Được, tôi sẽ ở lại.
- C̣n một yêu cầu nữa. hăy đi đến Merripit bằng xe, rồi ra lệnh
cho xe ngựa quay trở lại và nói với gia đ́nh Stapleton là ngài
sẽ đi bộ về nhà.
- Đi bộ qua khu đầm lầy?
- Vâng.
- Nhưng chính ông đă nhiều lần ngăn tôi làm việc đó?
- Bây giờ ngài có thể đi qua đấy tuyệt đối an toàn. Tôi yêu cầu
ngài như thế chỉ v́ tôi tin vào ḷng can đảm của ngài. Nhưng
ngài cần làm như thế.
- Được tôi sẽ làm như thế.
- Nếu ngài c̣n quư trọng cuộc đời ḿnh th́ đừng có đừng ra khỏi
đường ṃn dẫn từ Merripit tới con đường Grimpen.
- Được tôi sẽ làm như thế.
- Thế th́ tốt lắm. C̣n chúng tôi sẽ gắng đi ngay sau khi ăn sáng
xong, để tới London vào ban ngày.
Chẳng mấy chốc, chúng tôi chia tay với Nam tước. Hai giờ sau,
chúng tôi cho xe ngựa trở về nhà và bước vào sân ga ở Coombe
Tracy. Một chú bé vóc người không lớn đă đợi chúng tôi ở đấy.
- Ông có mệnh lệnh ǵ cho cháu không?
- Hăy ngồi vào tàu hoả đi London. Lúc tới nơi, ngay tức khắc,
nhân danh ta mà chuyển điện tới ngài Henry. Nội dung điện tín
hỏi ngài có t́m thấy cuốn sổ tay của ta hay không. Nếu ngài t́m
thấy, hăy chuyển nó bằng bưu kiện bảo đảm tới đường Baker giùm.
- Rơ rồi, thưa ông.
- C̣n bây giờ, hăy xem tại văn pḥng nhà ga có cái ǵ mang tên
ta không?
Chú bé nhanh chóng trở lại với bức điện trong tay. Holmes đọc
xong và đưa cho tôi xem. Bức điện như sau:
“Đă nhận được điện. Sẽ ra lệnh bắt. Sẽ tới lúc 5 giờ 40.
Lestrade”.
- Đây là câu trả lời bức điện lúc sáng của tôi, chúng ta sẽ cần
tới sự giúp đỡ của Lestrade. Anh Watson, chúng ta vẫn c̣n thời
gian để tới thăm cô Laura Lyons chứ?
Kế hoạch của chiến dịch được Holmes sắp đặt mỗi lúc một sáng tỏ.
Với sự giúp đỡ của Nam tước, Stapleton sẽ tin rằng chúng tôi
không có ở đây, nhưng thật ra chúng tôi sẽ trở về đúng lúc. Nếu
ngài Henry cho hắn biết bức điện của Holmes th́ điều đó sẽ xóa
sạch những mối hoài nghi cuối cùng của Stapleton. Và tôi mường
tượng ra tấm tưới của chúng tôi ngày càng được căng ra quanh con
cá hung dữ.
Cô Laura Lyons ngồi trong pḥng làm việc của ḿnh. Holmes khởi
đầu bằng câu chuyện thẳng thắn và cởi mở đến mức khiến cô trợn
tṛn mắt.
- Tôi đang điều tra về cái chết của ngài Charles - Holmes nói -
Bạn tôi đă cho tôi rơ tất cả những ǵ bà đă nói và những ǵ bà
chưa muốn nói.
- Tôi chưa nói về điều ǵ vậy? - Cô xấc xược hỏi.
- Bà thú nhận là bà đă mời ngài Charles tới cửa hàng rào vào lúc
10 giờ tối. Ngài đă chết tại đó, vào giờ đó. Bà chưa nói tới mối
liên hệ giữa hai sự kiện này.
- Giữa chúng, không có mối liên hệ nào cả.
- Nhưng tôi nghĩ rằng rồi cuối cùng chúng tôi cũng sẽ xác định
được mối liên hệ này. Tôi sẽ hoàn toàn thành thật với bà, bà
Laura. Chúng tôi đang nói về vụ giết người, mà các tang chứng
nếu được xác minh, sẽ không chỉ liên lụy tới bạn bà, tới ông
Stapleton, mà c̣n liên lụy tới vợ của ông ta nữa.
Cô Laura nhổm phắt dậy.
- Vợ ông ta!
- Điều này không c̣n bí mật với bất kỳ ai nữa. Cái người mà ông
ta nhận là em gái, thực ra là vợ ông ta.
Cô Laura buông ḿnh xuống ghế bành, những ngón tay bám chặt vào
tay vịn đến mức các móng tay trắng bệt.
- Vợ của ông ta? Vợ của ông ta? Nhưng ông ta độc thân kia mà!
Holmes nhún vai.
- Ông Holmes, ông hăy chứng minh điều đó đi! Nếu ông trưng ra
được bằng chứng th́...
Những tia mắt giận dữ ở cô nói nhiều hơn bất cứ lời nào.
- Vâng, việc ǵ cũng phải có bằng cớ chứ - Holmes rút từ trong
túi ra những tờ giấy ǵ đó - Đây là bức ảnh của cặp vợ chồng này
chụp hồi 4 năm trước ở Yorkshire. Mặt sau có ḍng chữ: ông bà
Vandeleur. Nhưng chắc bà sẽ nhận ra cả ông ta lẫn người phụ nữ
này, nếu bà có dịp gặp lại. C̣n đây là ba tài liệu được những
người đáng tin cậy khác nhau kư, hên quan đến ông và bà
Vandeleur vào thời đó, lúc họ đang điều khiển trường học St.
Oliver. Đọc xong những tài liệu này, bà sẽ thấy rơ mọi chuyện.
Cô Laura nh́n thoáng qua những tờ giấy đặt trước mặt rồi nh́n
chúng tôi, nét mặt ảm đạm, tuyệt vọng.
- Tên đê tiện ấy đă hứa sẽ lấy tôi, nếu tôi li dị xong. Vậy là
hắn đă luôn lừa gạt tôi? Tôi nghĩ hắn chỉ quan tâm tới tôi thôi.
Th́ ra, tôi là công cụ trong tay hắn. V́ sao phải trung thành
với một kẻ tráo trở như thế? V́ sao phải che chở hắn? Hắn phải
đền mạng về hành vi tội lỗi của ḿnh? Tôi sẽ không giấu giếm ǵ
cả. Xin thề với ông là khi tôi viết bức thư ấy, tôi tuyệt nhiên
không ngờ rằng điều đó sẽ khiến ngài Charles phải chết!
- Tôi tin vào từng lời của bà,, thưa bà - Holmes nói - Chắc có
lẽ bà cảm thấy nặng nề nếu phải kể lại chuyện đó. Hay là thế này
vậy: Tôi sẽ nói, và nếu tôi lầm lẫn một điều chủ yếu nào đấy th́
bà sẽ sửa lại giúp tôi. Bức thư chắc được viết theo sự gợi ư của
Stapleton.
- Theo lời hắn đọc.
- Có lẽ hắn nói với bà rằng ngài Charles sẽ cho tất cả các khoản
chi phí của vụ li dị chứ?
- Vâng.
- C̣n sau khi lá thư được chuyển đi, hắn thuyết phục bà đừng đến
chỗ hẹn.
- Hắn nói là hắn không đáng được kính trọng, nếu để cho một
người khác chu cấp tiền cho việc tiến hành vụ li dị. Hắn thề
rằng hắn sẽ hiến đồng xu cuối cùng để tiêu diệt chướng ngại ngăn
cách chúng tôi.
- Hắn rất nhất quán trong các hành vi của ḿnh. C̣n những sự
kiện sau đó, bà đă nghe và biết điều ǵ đấy về cái chết của ngài
Charles chỉ qua báo chí hay sao?
- Vâng.
- Và Stapleton bắt bà hứa không được thổ lộ về cuộc gặp mặt định
trước với ai chứ?
- Vâng. Hắn nói cái chết của ngài Charles xảy ra trong những
t́nh huống rất bí ẩn, và nếu người ta biết về lá thư th́ tôi sẽ
bị ngờ vực. Hắn đe dọa tôi, và buộc tôi phải im lặng.
- Thế đấy, tôi hiểu rồi. Nhưng dẫu sao, bà cũng vẫn hoài nghi
điều ǵ chứ?
Bà Laura đưa mắt nh́n xuống, h́nh như không dám trả lời.
- Tôi biết rơ con người này - Cuối cùng bà nói - Nhưng nếu hắn
không lừa dối tôi th́ tôi cũng không tố giác hắn làm ǵ.
- Nói chung, bà đă thoát nạn - Holmes nói - Bà nằm trong tay hắn
và hắn biết rơ như vậy, mà bà vẫn c̣n sống được? Những tháng gần
đây, bà đă đi quanh bờ vực thẳm. C̣n bây giờ, bà Laura ạ, xin
chúc bà mọi sự tốt đẹp. Chúng ta sẽ c̣n gặp lại nhau.
- Thế đấy, tất cả đang dần dà sáng tỏ, sương mù đang tản đi -
Holmes nói khi chúng tôi lại bước vào sân ga tới cửa ra vào của
tàu tốc hành London - Chẳng bao lâu nữa, tôi có thể cho diễn lại
tội ác này từng điểm một. Đây chính là tội ác gây chấn động mạnh
nhất vào thời đại chúng ta.
Chuyến tàu tốc hành London rầm rập tiến vào ga. Từ toa tàu hạng
nhất nhảy xuống sân ga một con người nhỏ bé mà chắc nịch. Chúng
tôi chào hỏi nhau.
- Thế nào, vụ án nghiêm trọng chứ? - Lestrade nhanh nhẩu hỏi.
- Đă lâu chưa có vụ nào như thế! Chúng ta c̣n có hai giờ để dự
pḥng. Nào, hăy dùng thời gian đó để ăn trưa. Chưa khi nào ông ở
đây phải không? Vậy th́ ông hăy làm quen với miền đất này.
------------
[1] Pitt William (1708-1778): Nhà hoạt động nhà nước Anh; từ
1776 đến 1778 là thủ tướng.
Chương 14 -
Con chó của
ḍng họ Baskerville
Một trong những khiếm khuyết của Holmes là măi cho đến
tận lúc thực hiện anh vẫn không chia sẻ với ai về những kế hoạch
của ḿnh. Sự kín đáo này một phần là do bản tính cao ngạo của
anh, mặt khác, cũng do tính thận trọng nghề nghiệp. Dầu sao điều
này đă gây nhiều khó chịu cho những ai hành động chung với anh.
Bản thân tôi cũng thường chịu khổ sở về điều đó. Chúng tôi đă
trải qua biết bao thử thách, đợi chờ lúc giáng quả đấm quyết
định xuống kẻ độc ác. Thế mà Holmes vẫn im lặng. Tôi chỉ có thể
đoán ṃ về những ư định của anh. Đúng lúc thần kinh tôi căng
thẳng đến tột độ th́ đột nhiên những luồng gió lạnh phả vào mặt
chúng tôi. Qua bóng đêm, tôi nhận ra khoảng không vắng vẻ trải
ra hai phía con đường hẹp và hiểu rằng chúng tôi lại đang ở trên
khu đầm lầy. Mỗi bước đi của ngựa, mỗi chỗ rẽ của xe lại đưa
chúng tôi đến gần điểm kết thúc.
Không thể bàn tính công việc trước mặt người xà ích thuê ở
Coobme Tracy được. Và mặc dầu rất hồi hộp, chúng tôi vẫn nói về
những chuyện tầm phào nào đó. Tôi thở phào nhẹ nhơm lúc qua khỏi
vi-la của Frankland. Từ đây tới biệt thự Baskerville c̣n chừng
hai ba dặm. Không dừng lại ở cạnh cổng ra vào, chúng tôi đi đến
cửa hàng dậu dẫn tới con đường rợp bóng cây. Sau khi thanh toán
tiền cho người đánh xe, chúng tôi cho ông ta quay trở lại Coombe
Tracey và bắt đầu đi về hướng Merripit.
- Ông có mang theo vũ khí không, Lestrade?
Người thám tử mỉm cười:
- Từ lúc tôi mặc quần dài, nghĩa là lúc có túi sau, th́ trong
túi sau của tôi chẳng bao giờ trống rỗng cả.
- Vậy th́ tốt, tôi với Watson cũng đă chuẩn bị xong.
- Tôi nhận thấy ông kín đáo quá, ông Holmes, tṛ chơi này đ̣i
hỏi chúng ta cái ǵ?
- Ḷng kiên nhẫn. Chúng ta sẽ cố chờ.
- Vùng này quả thật không lấy ǵ làm vui lắm - Viên thám tử vừa
nói vừa rùng ḿnh - Mà có lửa sáng ở chỗ kia ḱa.
- Đấy là nhà Stapleton, đích cuối cùng của chuyến đi này. Bây
giờ các vị bước lặng lẽ hơn và hăy nói thật khẽ thôi.
Chúng tôi thận trọng bước theo lối ṃn dẫn tới ngôi nhà, nhưng
khi c̣n cách ṭa nhà chung hai trăm yard th́ Holmes dừng lại.
- Không cần tiếp tục đi nữa. Những tảng đá kia có thể làm chỗ
che chở tốt cho chúng ta.
- Chúng ta sẽ chờ ở đây sao?
- Chúng ta mai phục. Hăy đứng vào đó, Lestrade! Watson, ô cửa sổ
có khung lưới kia là pḥng nào vậy?
- Nhà bếp.
- C̣n cửa sổ kế liền sang sáng kia?
- Pḥng ăn.
- Họ không buông rèm. Anh biết cách lẻn tới đó. Hăy nh́n qua cửa
sổ, xem họ làm ǵ. Chỉ cần im lặng, đừng để họ nghe thấy anh
đấy!
Tôi nhón chân len lén tới gần hàng rào thấp bằng đá bao quanh
khu vườn cằn cỗi của gia đ́nh Stapleton. Thế rồi tôi lẫn vào
bóng tối tiến đến chỗ có thể nh́n vào ô cửa sổ không buông rèm.
Trong pḥng có hai người đàn ông: Ngài Henry và Stapleton. Họ
ngồi đối diện với nhau quanh bàn tṛn, quay nghiêng về phía tôi,
hút thuốc. Trước mặt họ bày mấy tách cà phê và chai rượu vang.
Stapleton đang sôi nổi nói về chuyện ǵ đó, nhưng Nam tước ngồi
nghe hắn nói, lơ đăng, mặt mày buồn thiu. Có lẽ ư nghĩ về việc
phải quay trở về nhà qua khu đầm lầy đă khiến ông không yên tâm.
Trong lúc tôi đang ŕnh rập, Stapleton bỗng đứng lên, ra khỏi
pḥng. Ngài Henry rót đầy ly và dựa ghế nút x́ gà. Tôi nghe
tiếng mở cửa và tiếng chân rào rạo trên sỏi. Tiếng chân đi dọc
theo bức tường tôi đang núp. Tôi rón rén nhỏm lên và thấy nhà tự
nhiên học dừng chân trước một gian chái ở góc vườn. Ông ta mở
khóa và vào trong. Có tiếng xô đẩy trong đó vọng ra. Ông ta chỉ
ở lại trong đó một hai phút. Rồi tôi lại nghe tiếng khóa cửa.
Ông ta quay lại, đi dọc bức tường rồi vào nhà. Tôi ḅ trở lại
chỗ Holmes.
- Anh nói bà Stapleton không có mặt? - Holmes hỏi.
- Bà ta không có trong nhà.
- Bà ta có thể ở đâu nhỉ, v́ ngoài nhà bếp ra th́ không c̣n chỗ
nào có đèn sáng?
- Tôi cũng tự hỏi như thế.
Trên không Grimpen lúc này sương mù dày dặc. Màn sương bay tới
chỗ chúng tôi như một bức tường chắn. Holmes lo lắng, lẩm bẩm.
- Màn sương đi thẳng tới phía ḿnh.
- Như vậy có hại ǵ? - Tôi hỏi.
- Có hại lắm chứ! Sương mù là nhân tố duy nhất có khả năng làm
xáo trộn kế hoạch của tôi. Không thể tŕ hoăn được nữa. Đă 10
giờ rồi. Sự thành công của chúng ta và cả sinh mạng của ông ấy
đều tùy thuộc vào chỗ ông ấy có ra về trước khi sương mù che
khuất hay không.
Trong nhà bếp lúc này đèn ḍm đă tắt, gia nhân đă ra khỏi đó.
Chỉ c̣n ánh đèn sáng ở pḥng ăn. Chủ nhà sát nhân và người khách
ngây thơ tiếp tục tâm sự và rít thuốc. Bức màn sáng trắng lan
tỏa khắp nơi và bắt đầu bao phủ các góc nhà. Holmes đặt nắm tay
run rẩy lên tảng đá trước mặt chúng tôi và dậm chân.
- Nếu 15 phút nữa mà ông ta chưa về th́ ta không thể nh́n thấy
cả bàn tay của ḿnh.
- Có lẽ ta phải lui lại một chút, t́m một chỗ cao hơn.
- Tôi cũng nghĩ như vậy th́ tốt hơn.
Chúng tôi dừng lại ở chỗ cánh ngôi nhà nửa dặm. Nhưng màn sương
cũng tiếp tục đuổi theo.
- Ta đi quá xa rồi - Holmes nói - Coi chừng ông ta bị đuổi kịp
trước khi đến chỗ chúng ta. Phải dừng lại ở đây thôi!
Anh quỳ xuống, đặt sát tai xuống đất:
- Cảm ơn Chúa. Tôi nghĩ là ông ấy đang tới gần.
Từ phía sau những tảng đá, chúng tôi cúi xuống dán mắt nh́n qua
bức tường trăng trắng đă tiến sát chúng tôi. Tiếng bước chân gần
hơn, rồi từ màn sương hiện ra con người chúng tôi đang đợi. Ông
ta nh́n xung quanh. Sau đó, ông rảo bước trên con đường ṃn,
vượt qua chỗ chúng tôi và bắt dầu leo lên sườn dốc thoai thoải
ngay sau những tảng đá. Trong lúc đi, ông thường ngoảnh nh́n ra
phía sau, có vẻ lo lắng.
- Trời! - Holmes th́ thào lên c̣ súng đến rộp một cái - Hăy chú
ư! Con chó đấy!
Tiếng dậm th́nh thịch đều đều vang lên ngay trong đám sương mù
tiến gần đến chỗ chúng tôi. Bức tường sương ở cách chúng tôi
chừng 50 yard, cả ba chúng tôi đều cùng dán mắt vào đó. Và đột
nhiên Holmes nh́n chăm chú và nghiêm nghị, c̣n miệng anh th́ hé
mở v́ kinh ngạc. Lestrade rú lên v́ sợ hăi, rồi ngă vật xuống
đất. Tôi rướn thẳng người lên, hầu như bị tê liệt khi nh́n thấy
con vật đang chạy tới. Tôi đưa tay nắm lấy khẩu súng lục. Đúng
rồi! Đấy là con chó khổng lồ, đen tuyền. Nhưng chưa một ai trong
chúng tôi trông thấy một con chó như thế. Ngọn lửa phun ra từ
cái mơm rộng toang hoác của nó, đôi mắt sáng rực như than hồng,
mơm và bốn chân th́ có ánh sáng nhấp nhánh. Con vật dữ tợn đang
từ màn sương mù chồm về phía chúng tôi.
Con quái vật vừa đánh hơi vừa nhảy vun vút theo vết của Nam
tước. Chúng tôi chỉ kịp lấy lại b́nh tĩnh khi con vật qua khỏi
chỗ chúng tôi, cả tôi và Holmes đồng loạt nổ súng. Tiếng rống
đinh tai vang lên liền sau đó khiến chúng tôi tin rằng ít nhất
cũng có viên đạn trúng đích. Nhưng con chó vẫn không dừng lại mà
tiếp tục phóng về phía trước. Chúng tôi nh́n thấy ngài Henry
ngoảnh đầu lại, mặt tái xanh, hai tay chới với giơ lên cao v́
kinh hăi. Thế rồi ông đứng lặng đi, mắt không rời khỏi con quái
vật đang chồm lên về phía ḿnh.
Nhưng tiếng kêu đau đớn của con chó đă làm tiêu tan nỗi khiếp
đảm của chúng tôi. Nếu nó đă bị thương th́ nó không phải là ma
quỷ ǵ, và nếu chúng tôi đă bắn trúng nó th́ cũng có thể giết nó
được. Tôi thường được xem là người chạy giỏi, vậy mà Holmes vượt
cả tôi.
Chúng tôi chạy như điên, nghe thấy tiếng kêu của ngài Henry và
tiếng rống khàn khàn của con chó. Chúng tôi đến đúng lúc con vật
đang chồm lên miếng mồi của ḿnh. Nhưng Holmes đă nă vào hông nó
năm phát súng liền. Con chó tru lên lần cuối cùng, ngă vật ra,
cả bốn chân co giật rồi nằm im bất động. Tôi thở hổn hển, cúi
nh́n con vật dí ṇng súng ngắn vào chiếc mơm lóng lánh gớm
ghiếc. Nhưng tôi không phải bóp c̣ nữa, con chó khổng lồ đă tắt
thở.
Ngài Henry nằm bất tỉnh nhân sự ở ngay chỗ con vật. Chúng tôi mở
nút cổ áo cho ông. Thế rồi mí mắt của ngài động đậy, ngài khẽ
cựa ḿnh, Lestrade đút miệng b́nh rượu brandy vào giữa hai hàm
răng của ông. Một lúc, ngài mở mắt, nh́n chúng tôi, vẫn c̣n kinh
hăi.
- Cái ǵ thế này? Nó đâu rồi? - Nam tước th́ thào.
- Nó đă chết rồi Cái bóng ma theo đuổi ḍng họ của ngài đă bị
kết liễu vĩnh viễn - Holmes nói.
Con quái vật nằm trước mặt chúng tôi thật ra vẫn c̣n có thể làm
bất kỳ ai kinh hăi bởi kích thước và sức mạnh của nó. Dường như
con vật này là sự pha trộn giữa giống chó ngao và chó chăn ḅ
vạm vỡ, với sức mạnh của con sư tử cái trẻ trung. Cái mơm to sụ
của con vật dường như vẫn c̣n tỏa ra nhưng tia lửa màu lam nhạt,
c̣n đôi mắt hung dữ sâu hoắm của nó được phủ những ṿng lửa
chung quanh. Tôi đụng vào cái đầu lấp lánh của nó, và sau khi
rụt tay lại, tôi nhận thấy những ngón tay tôi bỏng rát và cũng
nhấp nhánh sáng trong bóng tối.
- Lân tinh! - Tôi nói.
- Đúng vậy một loại chế phẩm đặc biệt nào đó - Holmes đưa mũi
lại gần và khẳng định - Hăy thứ lỗi cho chúng tôi, ngài Henry,
v́ chúng tôi đă bắt ngài trải qua cơn thử thách khủng khiếp đến
mức này. Tôi tin là sẽ trông thấy một con chó nhưng không ngờ
rằng con quái vật này lại như thế. Sương mù cản trở nên chúng
tôi không thể đón đầu con chó được.
- Các ông đă cứu sống tôi.
- Sau khi đă đặt ngài vào t́nh thế nguy hiểm, thế nào, bây giờ
ngài có thể đứng dậy được chứ?
- Cho tôi một hớp brandy nữa... Bây giờ chúng ta làm ǵ?
- Tạm thời, chúng tôi để ngài ở đây cho đến khi ngài hồi tỉnh
lại, rồi một người nào đó trong chúng tôi sẽ cùng trở về nhà với
ngài.
Nam tước thử đứng lên nhưng không được. Mặt tái mét như gà bị
cắt tiết, toàn thân run rẩy. Chúng tôi đỡ ngài đến gần tảng đá.
Ngài ngồi xuống đó, cả người vẫn run rẩy, hai tay che mặt.
- C̣n bây giờ chúng ta phải đi thôi - Holmes nói - Cần kết thúc
công việc. Th́ giờ cấp bách: tiếng súng đă báo động cho y.
- Hắn không c̣n ở trong nhà nữa - Holmes cùng chúng tôi bước
nhanh trên lối ṃn, tiếp tục nói - Hắn không thể không nghe thấy
tiếng súng và hắn hiểu là tṛ chơi đă bị thất bại.
- Tiếng súng ở cách xa ngôi nhà, hơn nữa sương mù làm nhỏ âm
thanh đi.
- Anh có thể tin chắc là hắn cũng lao theo sau con chó, bởi hắn
cần kéo con chó ra khỏi thi thể. Không, chúng ta sẽ không gặp
hắn. Nhưng dẫu sao cũng cần phải lục lọi khắp mọi nơi.
Cửa ra vào mở toang. Chúng tôi chạy vào trong nhà, nhanh chóng
xem xét từ pḥng này tới pḥng khác khiến người hầu già rất ngạc
nhiên. Chỉ có ánh sáng ở trong pḥng ăn, nhưng Holmes đă cầm đèn
lùng sục mọi xó xỉnh trong nhà. Con người chúng tôi đang t́m
kiếm đă không cánh mà bay. Tuy vậy, cửa vào trong những pḥng
ngủ ở lầu hai bị khóa chặt.
- Có người ở trong này! - Lestrade kêu lên.
Trong pḥng có tiếng loạt soạt và tiếng rên rỉ yếu ớt. Holmes
đạp vào ổ khóa th́ cánh cửa mở toang ra. Lăm lăm súng lục trong
tay, chúng tôi ập vào.
Thế nhưng tên vô lại không có ở đây. Thay thế hắn, hiện ra trước
mắt chúng tôi là một h́nh thù kỳ lạ.
Căn pḥng này là một bảo tàng nhỏ. Chỗ bức tường chỉ chất đầy
toàn những hộp kính bảo quản bộ sưu tập bướm và côn trùng. Giữa
pḥng có một cây cột chống để đỡ trần nhà mục nát. Một người bị
trói vào cây cột, tấm vải trải giường quấn chặt lấy người đó từ
đầu đến chân. Một mảnh vải quấn quanh cổ, mảnh vải khác che phần
dưới của khuôn mặt, chỉ có cặp mắt mở to là nh́n chúng tôi ḍ
hỏi và tràn ngập nỗi khiếp đảm và xấu hổ. Chúng tôi nhanh chóng
tháo bỏ dây buộc, lấy giẻ bịt miệng ra. Đó chính là bà
Stapleton. Bà ngă gục xuống chân chúng tôi. Tôi trông thấy nhưng
vết roi lằn đỏ trên cổ bà.
- Quân đê tiện! - Holmes thốt lên - Lestrade, brandy đâu? Hăy
đặt bà ấy lên ghế. Bất kỳ ai chịu sự tra tấn như thế cũng chết
ngất cả thôi.
Bà Stapleton mở mắt ra.
- Ông ấy có được cứu thoát không? Ông ấy đă chạy đi rồi sao?
- Ông nhà sẽ không bao giờ thoát khỏi tay chúng tôi, thưa bà.
- Không, không, tôi không hỏi về hắn. Ngài Henry có được cứu
sống không?
- Thoát rồi.
- C̣n con chó?
- Đă b́ giết.
Bà bật ra tiếng thở phào nhẹ nhơm.
- Cảm ơn Chúa! Ôi! Quân chó má! Các ông thấy hắn đă đối xử với
tôi như thế đấy? - Bà vén tay áo lên và chúng tôi trông thấy tay
bà bầm tím - Nhưng điều đó cũng không sao... Hắn đă giày ṿ, đă
đày đọa tâm hồn tôi. Trong khi tôi vẫn hy vọng là hắn c̣n yêu
tôi, tôi đă chịu đựng tất cả: sự đối đăi ngang ngược, cảnh cô
độc, cuộc sống tràn ngập những điều giả tạo... Nhưng hắn đă
lường gạt tôi, biến tôi thành công cụ trong tay hắn - Không ḱm
ḷng được, bà ta khóc nức nở.
- Đúng vậy, thưa bà. Đừng giấu chúng tôi, cần t́m hắn ở đâu? Nếu
bà đă từng là kẻ tiếp tay cho hắn th́ hăy tận dụng thời cơ này
để làm giảm nhẹ lỗi lầm của ḿnh.
- Ngay giữa đầm lầy có một ḥn đảo nhỏ. Hắn giữ con chó tại đó.
Cũng tại đó, hắn chuẩn bị mọi thứ để pḥng ngừa trường hợp buộc
phải ẩn ḿnh vào đấy.
Holmes soi đèn vào cửa sổ. Sương mù buông trắng dính đầy vào
kính.
- Hăy trông ḱa! Đêm như thế này không một ai có thể lọt vào đầm
lầy Grimpen được đâu.
Bà Stapleton bật cười, cặp mắt nhấp nháy những tia lửa hằn học.
- Hắn sẽ t́m thấy đường vào nhưng sẽ không quay trở lại được nữa
- Bà reo lên - Làm sao hắn có thể nhận ra cột mốc vào một đêm
như thế này. Chúng tôi đă cùng đặt những cột mốc để đánh dấu lối
ṃn sang vùng đầm lầy. Ôi! Nếu hôm nay tôi có thể thu dọn chúng
đi! Th́ hắn đă nằm trong tay các ông rồi!
Không thể nghĩ đến chuyện đuổi bắt vào một đêm như thế. Chúng
tôi để Lestrade ở lại canh chừng ngôi nhà c̣n chúng tôi đưa ngài
Henry quay trở lại lâu đài Baskerville.
Tuy nhiên, cơn chấn động trải qua trong đêm ấy đối với ngài
Henry vẫn chưa qua khỏi. Ông nằm mê man tới sáng dưới sự chăm
sóc của bác sĩ Mortimer. Có lẽ cần một cuộc du lịch ṿng quanh
thế giới th́ ngài Henry mới phục hồi được.
Giờ đây câu chuyện kỳ lạ của tôi sắp kết thúc. Ghép lại câu
chuyện này, tôi cố gắng để bạn đọc chia sẻ cùng chúng tôi mọi
nỗi khủng khiếp cùng những phán đoán mơ hồ đă phủ lên cuộc sống
của chúng tôi lâu đến thế và đă được kết thúc bằng tấn kịch như
vậy.
Đến sáng, sương mù tản đi. Bà Stapleton đưa chúng tôi tới nơi
bắt đầu lối ṃn đi qua đầm lầy. Chúng tôi theo bà trên dải than
bùn hẹp lấn sâu vào vùng đầm lầy thành một bán đảo nhỏ. Những
cành cây nhỏ trụi lá cắm khắp nơi làm thành lối ṃn uốn lượn
theo h́nh chữ chi từ mô đất này tới mô đất khác, giữa những
khoảng trống có phủ lá cây chắn ngang con đường ở mọi chỗ. Hơi
độc bốc lên từ lau sậy mục ruỗng và từ những cây rong bị phủ bùn
bay là đà trên mặt đầm lầy. Thỉnh thoảng chúng tôi trượt ngă,
đầu gối lê trên khu đất lầy đen sẫm. Bùn lầy nhầy nhụa bám vào
chân chúng tôi. Trên mô đất mọc lên một loại cỏ đầm lầy c̣n in
hằn những vệt thẫm. Holmes nhoài người tới đó và ngay lập tức
anh bị thụt đến ngang nách trong vũng lầy, và nếu không có chúng
tôi th́ chưa chắc anh đă thoát chết. Anh cầm trong tay chiếc
giày đen cũ kỹ. Bên trong có đóng dấu: “Meyers, Toronto”.
- Thu hồi được cái này th́ tắm bùn một trận cũng đáng - Anh nói
- Chiếc giày thất lạc của người bạn chúng ta đấy.
- Bị Stapleton vội vàng quẳng đi chăng?
- Rất đúng. Hắn đă cho con chó đánh hơi chiếc giày khi hướng dẫn
nó lần theo vết ngài Henry. Rồi hắn cầm chiếc giày chạy trốn,
sau đó hắn ném đi. Ít nhất chúng ta cũng biết được là hắn đă lọt
đến chỗ này b́nh yên vô sự.
Nhưng chúng tôi không biết được ǵ thêm nữa, mặc dầu có thể
phỏng đoán nhiều điều. Không thể nào nhận ra những dấu vết trên
con đường ṃn. Bùn lầy ngay tức khắc phủ kín lấy chúng. Chúng
tôi t́m kiếm dấu vết ở chỗ khô ráo hơn, nhưng mọi sự t́m kiếm
đều vô ích. Nếu đất mà nói đúng sự thật th́ Stapleton đă không
tới được cù lao. Con người lănh đạm nhẫn tâm này đă vĩnh viễn bị
chôn vùi ngay giữa trung tâm vùng đầm lầy Grimpen.
Chúng tôi t́m thấy thật nhiều dấu vết sinh hoạt của hắn trên
đảo. Cái tời khổng lồ, giếng ḷ lưng lửng đá dăm và chứng tỏ vào
thời gian nào đó ở đấy đă có công trường khai thác mỏ. Cạnh đó
là những túp lều đổ nát của thợ mỏ. Ở một trong những túp lều
này, chúng tôi t́m thấy một cái ṿng treo trên tường, dây xích
và rất nhiều xương bị gặm. Có lẽ Stapleton giữ con chó của ḿnh
tại đây. Lăn lóc giữa rác rưởi là bộ xương chó hung hung c̣n lại
một nhúm lông trên ḿnh.
- Một con chó. - Holmes thốt lên - Đúng là con chó lông xoắn.
Bác sĩ Mortimer sẽ không bao giờ t́m thấy con chó đáng yêu của
ḿnh nữa. C̣n thứ bột nhăo trong hộp sắt tây này là hợp chất
phát sáng mà hắn đă bôi vào con chó của ḿnh. Chính truyền
thuyết về con chó của ḍng họ Baskerville đă nảy ra trong óc hắn
ư nghĩ đó và hắn đă quyết định thanh toán ngài Charles bằng cách
này. Đến giờ chẳng có ǵ đáng ngạc nhiên là v́ sao tên tù khổ
sai bất hạnh vừa tháo chạy vừa la hét khi con ngáo ộp từ trong
bóng đêm nhảy bổ vào hắn. Stapleton quả ranh mănh! V́ ngoài khả
năng giết chết nạn nhân, con chó này làm người ta hoảng sợ. Khi
đă trông thấy nó một lần - và may mắn thoát chết - th́ c̣n ai
dám mạo hiểm đi t́m nó nữa?
Chương 15 -
Hồi tưởng
Đă cuối tháng 11. Vào một tối sương mù u ám, tôi và
Holmes ngồi cạnh ḷ sưởi cháy rừng rực trong pḥng làm việc tại
đường Baker. Từ sau chuyến đi của chúng tôi đến Doveonshire tới
giờ, bạn tôi đă điều tra xong hai vụ án rất nghiêm trọng nữa.
Tâm trạng Holmes vô cùng phấn chấn.
Đồng thời vào những ngày này, ngài Henry và bác sĩ Mortimer cũng
đang ở London. Họ chuẩn bị đi du lịch ở nước ngoài theo lệnh của
các bác sĩ nhằm hồi phục tinh thần sa sút của Nam tước. Sau khi
họ đi rồi, tôi thấy đă đến lúc gợi chuyện về đề tài cần thiết.
Holmes nói:
- Từ đó đến giờ, tôi đă hai lần nói chuyện với bà Stapleton và
mọi chuyện đă sáng tỏ. Tôi nghĩ hiện giờ không c̣n điều bí ẩn
nào cả. Anh có thể xem qua những ghi chép của tôi về vụ án này
trong hồ sơ có chữ “B”.
- Anh có thể tŕnh bày tóm tắt các sự kiện chỉ dựa vào trí nhớ
được không?
- Rất vui ḷng, mặc dầu không dám bảo đảm là tôi nhớ hết mọi chi
tiết. Nếu tôi có quên một điều ǵ th́ anh hăy nhắc giùm tôi.
Những tài liệu thu thập được đă khiến tôi tin chắc rằng bức chân
dung của ḍng họ Baskerville cho biết một sự thật rằng Stapleton
thuộc ḍng họ Baskerville, con trai của ngài Rodger Baskerville,
em út của ngài Charles. Ông Rodger phải chạy sang Nam Mỹ, lập
gia đ́nh và sau đó sinh được một người con mang họ cha. Chàng
trai này kết hôn với Béry Garcia, một trong những mỹ nhân ở
Costa Rica. Hắn tham ô một khoản tiền của nhà nước, nên sau khi
đổi họ thành Vandeleur, hắn trốn về Anh quốc, nơi không lâu sau
đó hắn mở một trường học ở phía đông Yorkshire. Hắn chọn loại
hoạt động này v́ hắn biết lợi dụng những tri thức và kinh nghiệm
của một nhà giáo mà hắn quen trên đường về Anh quốc. Thế nhưng
người bạn của hắn đă lâm vào giai đoạn cuối cùng của bệnh ho lao
và chẳng bao lâu đă chết. Công việc của nhà trường càng ngày
càng sa sút. Hai vợ chồng có ư định đổi họ và từ đấy bắt đầu
mang danh là Stapleton. Thời gian sau, với phần dư tài sản của
ḿnh, với những dự định mới trong tương lai, và với ḷng ham
thính môn côn trùng học, Stapleton dọn đến ở miền Nam nước Anh.
Tôi đă ḍ hỏi Viện bảo tàng Anh và được biết hắn trở thành người
có uy tín, được mọi người thừa nhận trong lĩnh vực này.
Stapleton t́m hiểu rất cặn kẽ và biết rằng giữa hắn với thái ấp
rộng lớn chỉ có hai sinh mệnh tất cả. Lúc mới chuyển đến
Devonshire, các kế hoạch của hắn có lẽ c̣n mơ hồ. Nhưng rồi ư
định độc ác từ đầu, hắn nhận vợ ḿnh là em gái. Ư định lợi dụng
cô ta làm con mồi đă nảy ra ngay trong óc hắn. Mục đích cuối
cùng của hắn là phải nhận được thái ấp. Để khởi đầu, cần chuyển
đến ở gần lâu đài Baskerville hơn, và sau đấy sẽ đặt mối quan hệ
thân thiết với ngài Charles cùng các láng giềng khác.
Chính Charles đă kể cho hắn nghe truyền thuyết về con chó, nghĩa
là Charles tự ḿnh dọn đường đi đến cái chết. Stapleton biết
rằng tim ông già bị đau, rằng chỉ một xao động mạnh cũng có thể
làm ngài chết. Hắn biết được điều này là do bác sĩ Mortimer.
Ngoài ra, hắn cũng biết là ngài Charles là một người mê tín. Đầu
óc linh hoạt của Stapleton đă nhanh chóng mách bảo hắn phương kế
giết ngài Charles mà chính hắn sẽ không hề bị nghi ngờ.
Stapleton đă bắt tay thực hiện ư định đó với tất cả sự sành sỏi.
Một tên giết người tầm thường trong trường hợp này có lẽ hài
ḷng với một con chó độc, nhưng hắn tạo ra một con quỷ dữ! Hắn
mua con chó theo con đường phía Bắt trở về Devonshire, đi ṿng
qua khu đầm lầy, mang con chó về nhà mà không bị ai để ư. Trong
thời gian đi bắt bướm, hắn phát hiện ra con đường đi sâu vào đầm
lầy Grimpen và t́m ra một nơi nhốt con chó dữ. Hắn đă để con chó
ở đây, xích lại và chờ đợi thời cơ.
Nhưng chờ đợi lâu mà thời cơ vẫn chưa xuất hiện: Không thể lừa
ngài Charles đi ra ngoài thái ấp vào ban đêm nổi. Nhiều lần,
Stapleton mang chó theo ngồi ŕnh ông già, nhưng đều uổng ông.
Lúc đó, Stapleton đặt tất cả niềm hy vọng của ḿnh vào ngươi vợ.
Nhưng lần ấy bà ta đă từ chối. Bà không chịu quyến rũ ông
Charles khi biết rằng việc đó có thể huỷ hoại đời ông. Cả dọa
dẫm lẫn đánh đập, vẫn không đem lại kết quả. Bà không muốn tham
gia vào âm mưu thâm độc của chồng. Thế là Stapleton rơi vào t́nh
trạng bế tắc.
Nhưng rồi lối thoát cho Stapleton đă được t́m thấy. Ngài Charles
biểu lộ t́nh cảm thân ái đặc biệt đối với Stapleton, đă phái hắn
đi gặp Laura Lyons với tư cách là người trung gian của ḿnh.
Nhận là ḿnh chưa có gia đ́nh, hắn hoàn toàn chinh phục được
người đàn bà bất hạnh này và làm cho cô ta tin rằng hắn sẽ lấy
cô làm vợ nếu cô ly dị chồng. Hắn phải hành động thật khẩn
trương. Khi hắn hay tin ngài Charles sửa soạn đi London theo yêu
cầu khẩn khoản của bác sĩ Mortimer th́ hắn cũng làm ra vẻ tán
thành. Hắn thấy ḿnh không thể chậm trễ; nếu không thế, miếng
mồi có thể bị mất. Hắn đă ép cô Laura viết thư cho ngài Chaŕes,
van nài ngài cho gặp trước khi ngài đi khỏi lâu đài Baskerville.
Sau đấy làm bộ cao thượng, hắn khuyên cô không đi đến cuộc gặp
mặt. Thế là thời cơ chờ đợi bấy lâu nay đă xuất hiện.
Chiều hôm đó, sau khi từ Coombe Tracy trở về, hắn kịp chạy tới
chỗ con chó, bôi lên người nó chất lân tinh rồi dẫn nó tới nơi
ngài Charles sẽ phải đến. Con chó bị chủ kích thích, nhảy qua
cửa hàng giậu, lao theo ngài Charles. Ông quư tộc già vừa chạy
vừa kêu cứu. Cảnh tượng hẳn là khủng khiếp! Chung quanh là bóng
đêm. Rượt theo sau ông trong bóng đêm ấy, là một con vật khổng
lồ mơm phát sáng, c̣n mắt th́ rực lửa. Tim của ngài Charles
không chịu nổi, ông đă ngă xuống tắt thở. Sau khi ngài Charles
ngă, h́nh như con chó có ngửi rồi bỏ đi mà không đụng vào người
ông. Bác sĩ Mortimer có nhận ra những dấu vết này. Stapleton gọi
con chó của ḿnh, vội vàng dắt nó trở lại rồi đi sâu vào vùng
đầm lầy.
Đấy là tất cả những ǵ có liên quan tới cái chết của ngài
Charles. Hai người đàn hà bị lôi kéo vào vụ này, bà Stapleton và
cô Laura Lyons đều nghi ngờ kẻ giết ngài Charles là ai. Bà
Stapleton biết là người chồng đang mưu toan chống lại ông già và
c̣n biết về sự hiện diện của con chó. Tuy cô Laura Lyons không
hề mảy may biết về điều này, nhưng cái chết của ngài đă gây ấn
tượng mạnh. Mặc dầu vậy, cả hai người hoàn toàn nằm trong sự
thao túng của hắn, hắn có thể không e ngại ǵ họ. Như thế, nửa
đầu của nhiệm vụ đă được thực hiện thành công, c̣n nửa thứ hai
của nhiệm vụ đó th́ khó hơn nhiều.
Ban đầu, rất có thể Stapleton không nghĩ tới sự tồn tại của
người thừa kế tài sản ở Canada. Nhưng hắn đă biết ngay về điều
đó từ bác sĩ Mortimer, ông này đồng thời cũng là người báo cho
hắn biết ngày trở về của ngài Henry. Ư nghĩ nảy ra trước tiên
trong đầu hắn là liệu có thể thanh toán người đàn ông Canada trẻ
tuổi này ở London trước khi ông ta đến Devonshire được hay
không. Stapleton không thuyết phục vợ nữa v́ hắn c̣n nhớ là bà
ta đă cự tuyệt việc lôi cuốn ông già Charles vào bẫy của ḿnh.
Để bà ta ở lại một ḿnh, hắn cũng không dám. Điều đó có thể hoàn
toàn làm tổn hại uy quyền của hắn trước người vợ. Thế là vợ
chồng hắn cùng đi London. Như sau này tôi được rơ th́ cả hai
người nghỉ chân tại khách sạn Mexborough trên phố Craven nơi cậu
Cartwright có rẽ vào khi đi t́m trang báo Times bị cắt rời.
Stapleton nhốt vợ trong pḥng thuê ở khách sạn, c̣n bản thân hắn
th́ mang bộ râu giả theo dơi bác sĩ Mortimer tới đường Baker,
đến sân ga, và đến tận khách sạn. Bà Stapleton hoài nghi về
rthững ư định của chồng nhưng bà sợ hắn, sợ tới mức không dám
viết thư cho ngài Henry mà bà biết đang bị đe doạ. Nếu lá thư
rơi vào tay Stapleton th́ hắn sẽ giết bà ta. Cuối cùng, như
chúng ta đă biết, bà cắt những chữ cần thiết trong tờ báo và
viết địa chỉ bằng nét chữ đă thay đổi. Bức thư đến tay Nam tước
và lần đầu tiên nhà quư tộc phải đề pḥng. Stapleton cần xoay xở
để đoạt bằng được bất kỳ một thứ trang phục nào của ngài Henry
để cho con chó ngửi trước khi lần theo dấu vết của ông. Vẫn như
mọi khi, hắn hành động khôn khéo và mau lẹ, chắc chắn là tên hầu
pḥng hoặc người nhân viên đánh giày đă nhận một món tiền thưởng
hào phóng để giúp hắn. Chẳng may là chiếc giày đầu tiên lại là
giày mới, bởi thế nó thành vô ích. Hắn đă trả lại và nhận cái
khác thay thế. Từ sự kiện có ư nghĩa này, tôi suy luận chúng ta
đang đối đầu với một con chó thực sự, v́ chỉ điều đó mới giải
thích được tại sao tên lưu manh lại cố gắng đoạt được chiếc giày
cũ.
Sáng hôm sau, những người bạn tới thăm chúng ta. Stapleton đă
ngồi trên xe mui theo dơi họ. Rơ là hắn đă biết mặt tôi, biết
địa chỉ của tôi và căn cứ vào tính khí của hắn, tôi cho rằng sự
nghiệp tội phạm của hắn không chỉ giới hạn ở vụ án Baskerville.
Chẳng hạn 3 năm trở lại đây ở các tỉnh phía tây xảy ra bốn vụ
cướp giật lớn mà không phát hiện ra tội phạm. Vụ cướp giật sau
cùng trong số đó xảy ra ở Folkstone vào tháng 5. Kẻ cướp mang
mặt nạ đă dùng súng quật ngă một chú bé bất chợt bắt gặp hắn.
Hiện giờ, tôi hầu như chắc chắn rằng Stapleton đă khôi phục sự
nghiệp tài chính bằng cách như vậy, rằng đă từ lâu hắn là một
tên tội phạm nguy hiểm.
Buổi sáng hôm đó, chính hắn đă khéo léo thoát khỏi tay chúng ta
rồi sau đó đă táo bạo mạo danh tôi v́ hắn biết rơ thế nào tôi
cũng sẽ t́m được chiếc xe mui này. Từ lúc đó, hắn hiểu là ở
London sẽ không thành công được. Hắn lui về Grimpen, chờ Nam
tước đến đấy.
- Khoan đă - Tôi ngắt lời Holmes - C̣n một điểm tôi chưa được
rơ. Con chó sẽ ra sao sau khi chủ của nó đi London?
- Vấn đề rất quan trọng. Chính tôi cũng nghĩ tới, chắc chắn hắn
có người tâm phúc. Anh c̣n nhớ người phục vụ ở Merripit, ông già
Anthony không? Ông ta sống trong gia đ́nh Stapleton nhiều năm,
ngay cả khi họ c̣n cai quản trường phổ thông kia. Tất nhiên ông
ta biết họ là vợ chồng. Thế rồi, chính ông lăo Anthony này đă
biệt tăm, không c̣n thấy ông ta ở Anh nữa. Cũng rất thú vị khi
biết rằng cái tên Anthony không phải là một cái tên phổ biến của
người Anh như cái tên Antonio của người Tây Ban Nha hoặc người
châu Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha. Ông ta, cũng như Stapleton, nói
tiếng Anh rất sơi nhưng vẫn c̣n lơ lớ. Chính mắt tôi đă trông
thấy ông ta đi vào vùng đầm lầy Grimpen theo lối ṃn do
Stapleton đánh dấu. Cho nên rất có thể khi người chủ vắng mặt,
Anthony đă nuôi con chó, mặc dầu có thể ông ta không ngờ tới là
người ta giữ con chó ở đây với mục đích ǵ.
Thế là vợ chồng Stapleton đă quay về Devonshire và không bao lâu
sau, anh cùng ngài Henry đi tới đó. Có lẽ anh c̣n nhớ là khi bóc
lá thư chuyển cho ngài Henry ra, tôi đă lưu ư xem có h́nh lồng ở
trong đó không. Tôi đem giấy đến gần mắt và phát hiện ra mùi
nước hoa “white jessamine[1]” thoang thoảng. Có 75 loại nước hoa
mà người thám tử dày dạn cần phải phân biệt. Nếu có mùi hoa
nhài, chứng tỏ tác giả của lá thư là đàn bà, và lúc đó tôi đă
nghi ngờ vợ chồng Stapleton. Vậy là tôi đă biết con chó trong vụ
này và đoán ra ai là thủ phạm, trước khi đến Devonshire, kế
hoạch của tôi là phải theo dơi Stapleton. Nhưng nếu tôi theo các
anh về lâu đài th́ hắn sẽ đề pḥng ngay lập tức. Tôi buộc phải
lừa dối tất cả mọi người, trong đó có anh. Tôi nói là tôi ở tại
London nhưng chính tôi lại xuất hiện sau anh. Thật ra tôi sống ở
Coombe Tracy, c̣n hang đá ở khu đầm lầy chỉ được dùng đến khi
cần phải ở gần nơi hành động hơn. Cậu bé Cartwright đến
Devonshire cùng tôi. Khi đi lại khắp nơi với dáng dấp của một
chú bé thôn quê, Cartwright đă giúp tôi rất nhiều. Ngoài ra, chú
c̣n cung cấp đồ ăn và quần áo sạch cho tôi, theo dơi anh khi tôi
bận để mắt tới Stapleton.
Anh đă biết là các bản phúc tŕnh của anh được mau chóng chuyển
từ đường Baker đến Coombe Tracy. Tôi thu nhận được rất nhiều
điều từ chúng, đặc biệt là tiểu sử của Stapleton. Nhờ đó, tôi
xác định được cá nhân của họ, và tôi đă hiểu ḿnh đang đương đầu
với ai. Tuy nhiên, cuộc điều tra đă trở nên phức tạp bởi một
điểm phụ: đó là vụ vượt ngục của tên tù khổ sai và mối liên hệ
giữa hắn với vợ chồng Barrymore. Nhưng anh đă gỡ nút này ra. Khi
anh gặp tôi trong hang đá th́ tôi đă hiểu rơ vụ án, nhưng hồ sơ
buộc tội th́ chưa đầy đủ. Thậm chí vụ mưu hại không thành công
của Stapleton đối với ngài Henry được kết thúc bằng cái chết của
tên tù, không thể xem là bằng chứng buộc tội Stapleton. Tôi chỉ
c̣n một cánh duy nhất: Dùng ngài Henry làm con mồi để bắt quả
tang hắn ngay tại nơi gây ra tội ác. Nam tước phải đi một ḿnh
và làm như không được ai bảo vệ cả. Chúng ta đă làm như thế, và
chúng ta không chỉ kết thúc cuộc điều tra mà c̣n đẩy Stapleton
đến cái chết.
Bây giờ tôi chỉ c̣n kể về vai tṛ của bà Stapleton. Tôi tin chắc
là Stapleton hoàn toàn bắt bà tuân phục ḿnh. Người phụ nữ đồng
ư nhận ḿnh là em gái của hắn, nhưng bà ta khăng khăng cự tuyệt
việc trở thành kẻ ṭng phạm tích cực với kẻ giết người. Bà đă
nhiều lần toan báo động cho ngài Henry về mối nguy hiểm đang đe
dọa ông, mà không phải tố giác chồng ḿnh. Về phần Stapleton, y
có thể ghen tuông. Khi Nam tước bắt đầu biểu lộ t́nh cảm tŕu
mến đối với người đàn bà đó th́ Stapleton không ḱm hăm nổi ḷng
ḿnh được, mặc dù điều này nằm trong kế hoạch của hắn. Trong cơn
giận dữ, hắn đă bộc lộ toàn bộ bản tính trước đó được che đậy
một cách khéo léo. Tuy nhiên hắn vẫn khích lệ sự săn đón của
ngài Henry để đưa ngài vào tṛng và rồi sớm muộn ngài cũng sẽ
rơi vào tay hắn. Nhưng vào giờ phút quyết đ́nh th́ bà ta nổi
loạn. Bà đă nghe biết về cái chết của tên tù khổ sai vượt ngục,
biết rằng vào tối hôm đó ngài Henry đến ăn cơm th́ người ta đă
đưa con chó tới nhà chứa củi ở ngoài sân. Cuộc căi vă dữ dội xảy
ra liền sau đó. Bà Stapleton nói rằng bà biết chồng có t́nh
nhân. Bà gọi chồng là kẻ giết người. Ḷng thủy chung trước đây
nhường cho ḷng căm ghét. Stapleton hiểu ngay rằng vợ hắn sẽ tố
giác hắn, và thế là hắn ta trói bà lại để không thể báo trước
cho ngài Henry. Có lẽ hắn hy vọng rằng sau khi biết về cái chết
của Nam tước, người ta sẽ tin đó là do lời nguyền của ḍng họ
Baskerville. Thế là hắn sẽ lại đoạt sự phục tùng của người vợ và
sẽ bắt bà im lặng. Stapleton đă tính lầm.
- Lẽ nào Stapleton không hy vọng ǵ ngài Henry cũng chết v́ sợ
hăi khi trông thấy con ngáo ộp đó? - Tôi hỏi.
- Con chó rất hung dữ, và c̣n bị bỏ đói. Nếu ngài Henry không
chết ngay tại chỗ th́ cái t́nh cảnh khủng khiếp như thế, cũng có
thể làm tê hệt sức lực của ông, và rồi ông sẽ không sống nổi với
con chó.
- Đúng vậy, bây giờ chỉ c̣n lại một câu hỏi: Nếu xưng là người
kế thừa tài sản, Stapleton làm sao giải thích được việc này: với
tư cách là người thừa kế, tại sao hắn lại sống ẩn lánh ở sát
ngay thái ấp? Lẽ nào điều đó không gợi ra những mối ngờ vực?
- Theo lời của bà Stapleton th́ người chồng bà đă nhiều lần nghĩ
về chuyện đó. Hắn có thể t́m thấy 3 lối thoát. Một là, đi đến
Nam Mỹ, thiết lập mối quan hệ với lănh sự quán Anh ở đó, rồi từ
đấy yêu cầu nhận tài sản mà không trở về Anh quốc. Hai là, thực
hiện tất cả những điều đó ở London sau khi đă thay đổi ḿnh đến
mức không thể nhận ra được. Ba là, dựng lên một người giả mạo
làm kẻ thừa kế sau khi cung cấp cho người này một tài liệu cần
thiết với sự thỏa thuận một phần thu nhập nhất định nào đó. Nếu
nhận xét kỹ Stapleton, chúng ta có thể tin chắc rằng hắn có thể
thực hiện được một trong ba lối thoát đó.
Nhưng thôi, bây giờ, bạn thân mến, chúng ta hăy nên nghĩ tới
những ǵ thoải mái hơn. Làm ơn sửa soạn trong ṿng nửa tiếng
đồng hồ thôi, rồi ta đi nghe nhạc kịch.
-----------
[1] Hoa nhài trắng
HẾT
|