B́nh Định, rải rác đó đây khắp tỉnh đều có
dấu ấn sâu đậm và những di tích lịch sử của nhà
Nguyễn Tây Sơn. Đặc biệt là Hoàng đế
thành của vua
Thái Đức Nguyễn Nhạc, ngôi nhà lá nhỏ ở thôn Kiên mỹ,
B́nh khê, bên cạnh bờ sông Côn, nơi ba anh em Tây
Sơn đă chào đời vào năm 1753, và bến Trầu, nơi mà
Nguyễn Nhạc đă đón đưa khách trong những chuyến đi
buôn lịch sử của cái thời hùng khí Tây Sơn c̣n đang
tiềm ẩn. Ở Phú lạc, hiện c̣n một cái đ́nh nhỏ do dân
B́nh khê dựng lên để thờ ba anh em Tây Sơn và trong
công viên, vẫn c̣n cây me cổ thụ và giếng nước lâu
đời, là chứng tích quê hương ngày thơ ấu của vị anh
hùng dân tộc. Cây me, giếng nước, bến Trầu vẫn tồn
tại với nắng mưa và hưng phế của thời gian như một
niềm thủy chung qua bao đời của toàn dân B́nh Định.
Cây me cũ, bến Trầu xưa
Không nên t́nh nghĩa, th́ cũng đón đưa cho trọn niềm
Quang Trung Đại Đế đă gắn liền với địa
danh Tây Sơn, và Tây Sơn vĩnh viễn ngàn đời vẫn là
niềm kiêu hănh vô biên của con dân B́nh Định và của
toàn dân tộc Việt Nam.
Ai về B́nh Định mà coi
Con gái B́nh Định cầm roi đi quyền
B́nh Định có nhiều sông và núi, phải chăng
v́ núi không cao và sông không sâu nên B́nh Định đă
phát về vơ mạnh hơn là phát văn. Nói như thế, không
có nghĩa là B́nh Định không có văn tài, một ông tổ
hát bội B́nh Định Đào Tấn, một Quách Tấn, một Hàn
Mặc Tử, rồi một Vơ Phiến, một Nguyễn Mộng Giác và
một Tạ Chí Đại Trường v.v... như là những ngôi sao
lạ sáng chói trong ṿm trời văn học Việt Nam.
Quang Trung, người của lịch sử, một bậc
anh hùng cái thế sống giữa hào quang rực rỡ của
chiến thắng. Đó không phải là điều để chúng ta bàn
luận. Nhưng, nhân ngày kỷ niệm lấn thứ 207 Quang
Trung đại thắng quân Thanh, chúng ta cùng nhau ôn
lại cuộc tiến công thần tốc, chiến tích b́nh Thanh
và sự nghiệp xây dựng đất nước của Ngài như ôn lại
một niềm hănh diện và tự hào của dân tộc và đồng
thời cũng để rút ra những bài học đoàn kết trong
giai đoạn đánh đuổi ngoại xâm và xây dựng đất nước
trong giai đoạn ḥa b́nh.
Nhắc nhở giai đoạn lịch sử vẻ vang và oanh
liệt này, v́ nó đă gắn liền một cách sâu đậm với
ḍng sinh mệnh của dân tộc. Chúng ta, chỉ muốn soi
rọi thêm một chút ánh sáng vào một thời kỳ huy hoàng
nhất, nhưng cũng ít được biết nhất trong ḍng lịch
sử cận đại v́ chính sách trả thù nhỏ nhen của triều
Nguyễn Gia Long. Họ đă thủ tiêu, tận diệt, bôi xóa,
vùi dập và bưng bít toàn bộ di tích, di liệu và sử
liệu của nhà Nguyễn Tây Sơn. Ước ǵ mỗi năm các hội
Ái hữu Đồng hương B́nh Định hay các sinh viên ban
Cao học, Tiến sĩ các đại học, chọn một góc cạnh nào
đó của phong trào Tây Sơn để làm chủ đề cho Đặc san
Xuân của hội hoặc làm đề tài nghiên cứu cho luận án
sử học, như anh Yokimoto, một sinh viên của trường
đại học Đông kinh ở Nhật bản, cách đây hơn mười năm
đă xin chiếu khán đáp máy bay xuống Việt Nam và t́m
đến g̣ Đống Đa, để tận mắt chiêm ngưỡng và nghiên
cứu, làm thế nào mà đại đế Quang Trung lănh đạo quân
dân Việt Nam, chỉ mất có 10 ngày đă phá tan 40 vạn
quân Thanh, quét sạch bọn chúng ra khỏi bờ cơi Việt
Nam.
Quang Trung đại đế mất đi, một mất mát to
lớn của triều đại Tây Sơn và của cả dân tộc không
lấy ǵ bù đắp. Ngài mất đi như một ngôi sao sáng của
ṿm trời Việt Nam vừa chợt tắt, hoài băo xây dựng
đất nước phú cường và đ̣i lại đất 7 châu ở Hưng hoá
đành phải bỏ dở dang, để lại muôn vàn khó khăn cho
hậu thế. Núi sông c̣n đó, con cháu của Ngài c̣n đây,
hăy vững niềm tin nh́n vào con đường trước mặt, v́
những tấm gương anh hùng thời nào cũng có, họ sẽ nối
bước Quang Trung mà xả thân hy sinh cho tiền đồ dân
tộc. Lịch sử đang chuyển ḿnh, những Quang Trung
thời đại rồi đây sẽ xuất hiện.
Quang Trung là một anh hùng cái thế trong
lịch sử. Đó không phải là điều để bàn luận... Vậy,
chúng ta thử lạm bàn xem về cái t́nh cảm riêng của
vị anh hùng dân tộc có một không hai trong lịch sử
Việt Nam, bằng những phát kiến mới về lăng mộ, về
những con người và về những bà phi của Ngài.
Với quan niệm đa thê của người xưa, vua
chúa thường có nhiều cung phi, nên Quang Trung cũng
không ra ngoài cái thông lệ ấy. Nhưng nếu chúng ta
t́m thấy thêm một số bà phi của Ngài th́ sẽ cảm thấy
thích thú và ngạc nhiên hơn, nhưng không nỡ hẹp ḥi
mà chê trách. Là một vĩ nhân thường th́ có cuộc sống
rất phi thường và trong t́nh cảm th́ cũng có lắm vấn
đề như đa t́nh, lăng mạn v.v... Nhưng với Quang
Trung có một điều làm cho chúng ta thán phục là Ngài
đă lập lên hai Hoàng hậu là Chánh cung Hoàng hậu
Phạm Thị Liên (theo Nhà Tây Sơn của Quách Tấn), và
Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân. Ngoài ra, Ngài c̣n
ngỏ ư cầu hôn với công chúa nhà Thanh của Trung
quốc.
Trong sử sách chỉ ghi lại Quang Trung có hai người
vợ là:
CHÁNH CUNG HOÀNG HẬU HỌ
PHẠM
Không ai biết được Nguyễn Huệ lập gia đ́nh
năm nào, nhưng chỉ biết rằng suốt trong chặng đường
đánh Nam dẹp Bắc, v́ dân v́ nước, Ngài đă có một
người vợ họ Phạm quê ở B́nh Định, là anh em cùng mẹ
khác cha với Thái sư Bùi Đắc Tuyên và quan H́nh bộ
Thượng thư Bùi Văn Nhật.
Theo Tây Sơn Tiềm Long Lục th́ Nguyễn Huệ
lấy bà họ Phạm năm 16 tuổi, đến năm 1789 th́ được
phong làm Hoàng hậu (30 tuổi). Bà chính cung họ Phạm
có với Nguyễn Huệ ba trai và hai gái là Quang Toản
được phong làm Thế tử, Quang Bàn được vua Cảnh Thịnh
phong làm Tuyên công lănh Đốc trấn Thanh hoá và
Quang Thiện được phong làm Thái tể. C̣n hai người
con gái th́ một người đă gả cho pḥ mă Phan Văn Trị
và một người nữa gả cho Nguyễn Phước Tư, có liên hệ
xa gần với Nguyễn Ánh, ông là cháu sáu đời của
Nguyễn Uông anh ruột của chúa Nguyễn Hoàng. Sau một
cơn bạo bệnh năm 1791, bà chính cung từ trần và chôn
dưới chân núi Kim Phụng, cạnh thành phố Huế. Được
suy tôn miếu hiệu là: "NHÂN CUNG ĐOAN TĨNH TRINH
THỤC NHU THUẦN VŨ HOÀNG CHÍNH HẬU"
BẮC CUNG HOÀNG HẬU LÊ
NGỌC HÂN:
Mùa hè năm 1786 lấy danh nghĩa pḥ Lê diệt
Trịnh, Nguyễn Huệ đánh chiếm Phú xuân và mang lại
một nền thống nhất quyền hành cho vua Lê Hiển Tông.
Qua sự mai mối chớp nhoáng của Nguyễn Hữu Chỉnh,
Nguyễn Huệ đă cưới cô công chúa thứ chín, mới vừa
tṛn 16 tuổi của vua Lê Hiển Tông, để rồi, cuộc đời
của Ngọc Hân công chúa đă vĩnh viễn gắn liền với sự
nghiệp vĩ đại của vị anh hùng Non Tây áo vải cờ đào.
Sau khi lên ngôi năm 1789, Quang Trung đă
phong cho Ngọc Hân công chúa làm Bắc cung Hoàng hậu.
Bà có với vua Quang Trung một con trai là Nguyễn Văn
Đức và một con gái là Nguyễn Thị Ngọc. Lúc chết được
tôn miếu hiệu là:"NHƯ Ư TRANG THẬN TRINH NHẤT VƠ
HOÀNG HẬU"
C̉N BAO NHIÊU BÀ THỨ
PHI NỮA?
Như ta đă thấy, ngoài hai bà Chính cung
Hoàng hậu họ Phạm ở Qui Nhơn và Bắc cung Hoàng hậu ở
Thăng long mà sử sách đă thường nhắc đến, trên thực
tế, vua Quang Trung c̣n có bao nhiêu bà thứ phi nữa?
Theo như những phát kiến mới, Ngài đă có ít nhất là
ba bà vợ nữa:
- BÀ THỨ PHI NGUYỄN THỊ
BÍCH:
Theo như tôn phổ ḍng họ Nguyễn viết bằng
chữ Hán, ở làng Mỹ chánh, huyện Hải lăng Quảng trị
th́ cô con gái út của ông Nguyễn Văn Cẩn (1712-1771
giữ một chức quan nhỏ vào mạt kỳ thời chúa Nguyễn ở
Phú xuân) và bà Nguyễn Thị Ai (1714-1772) đă gả cho
vua Quang Trung. Nguyên văn chữ Hán ghi: "Nguyễn
Thị Bích giá vu Quang Trung Hoàng đế bổn thôn xuất
đinh, tịch tự thử thủy tốt vu cửu nguyệt, sơ thập
nhật, mộ tại Vĩnh an thôn, g̣ Thỏ xứ".
Khi nhà Tây Sơn sụp đổ, bà Nguyễn Thị Bích
đă trốn về Vĩnh ân để nương náu cùng gia đ́nh và bà
con, lúc chết được chôn cất ở g̣ Thỏ, thôn Vĩnh ân,
huyện Phú cát. Như vậy, bà là nhân chứng cuối cùng
của gia đ́nh Tây Sơn, đă chứng kiến trọn vẹn trang
sử đầy bi hùng của triều đại Tây Sơn dưới thời huy
hoàng của vua Quang Trung và dưới thời suy tàn của
vua Cảnh Thịnh. Bà Nguyễn Thị Bích có một con trai
với vua Quang Trung, nhưng không biết có c̣n được
sống sót sau những năm tháng dài bị vua quan triều
Nguyễn Gia Long truy lùng và tận diệt hay không? Đó
là một câu hỏi được nêu lên về khả năng t́m kiếm
ḍng máu c̣n sót lại của vị anh hùng dân tộc ngay
trên chính quê hương của Ngài.
- BÀ THỨ PHI TRẦN THỊ QUỴ:
Theo như gia phả họ Trần ở Hội an Quảng
nam cho biết: "Thủy tổ họ Trần có nguồn gốc ở
Thăng long. Đến đời thứ năm sinh ra ông Trần Công
Thành và ông sinh ra bảy người con, có một người con
gái là bà Trần Thị Quỵ, qúy phi của vua Quang Trung.
Khi nhà Tây Sơn thất thế, bà đă bị Nguyễn Ánh xử tử
h́nh tại đất Kim bồng (nay là xă Cẩm kim, thị xă Hội
an). Bà bị chém đầu rồi thả trôi sông, thi hài của
bà được dân làng bí mật vớt lên khâm liệm và mai
táng. Bia mộ c̣n ở xứ Trà quân, xă Cẩm thạnh, Quảng
nam. Hiện tấm bia trên mộ bà c̣n khắc các chữ: "Nam
cố, Đông châu tiền triều Hoàng hậu thứ phi tự Qụy
Trần tổ cô mộ. Mậu Tuất hạ, nguyệt nhật kiết"
- BÀ THỨ PHI HỌ LÊ:
Bản gia phả và văn tế của ngài thỉ tổ ḍng
họ Nguyễn có ghi:"Ngài thỉ tổ ta một người họ Lê,
quán tỉnh Quảng ngăi, huyện Mộ đức, tổng Quy đức,
làng Bồ đề. Ngài là công thần nhà Tây Sơn, chức Đô
đốc. Ngài có bà chị là vợ của vua Quang Trung và bà
có một người con trai. Nhưng v́ vận trời thay đổi
nên nhà Tây Sơn phải sụp đổ. Gặp cảnh tang thương,
nên các con của ngài đều phải lưu lạc ra tỉnh này để
lánh nạn, do đó đă đổi họ Lê ra họ Nguyễn".
Bản gia phả c̣n ghi: "Đời thứ nhất tiên
khai khẩn thỉ tổ khảo húy SẤU THỤY TRUNG DŨNG ĐỆ TAM
LANG"
Chưa có khám phá nào cho chúng ta biết tên
và cuộc đời của bà thứ phi này, cũng như vị hoàng tử
của vua Quang Trung do bà sinh ra như thế nào? Lại
nữa, trong lịch sử thường nhắc đến Tiết chế Nguyễn
Quang Thùy, phải chăng ông là con của vua Quang
Trung và bà thứ phi họ Lê ở Quảng ngăi? Nếu không
phải th́ Quang Thùy là con ai và người con của bà
thứ phi họ Lê này là một hoàng tử khác nữa chăng?
Đây là một trường hợp mà nhiều người vẫn
lầm tưởng. Kể cả vua Càn Long nhà Thanh, đă phong
cho Quang Thùy làm Thế tử v́ tưởng rằng ông là con
trưởng, v́ ông lớn hơn Quang Toản, lại có tên trong
danh sách sứ bộ của giả vương Phạm Công Trị đi Trung
quốc chúc thọ bát tuần vua Thanh năm 1790. Về sau
biết sai lầm nên đă phong lại cho Quang Toản làm Thế
tử. Theo như thư của một giáo sĩ (Le Labousse năm
1793) tiết lộ sau ngày Quang Trung chết, th́ Quang
Thùy là con của một nàng hầu. Như vậy ai là mẹ của
Quang Thùy? Và tại sao bà này lại không được phong
làm hoàng hậu? Đó là những vấn đề đang chờ đợi sự
khám phá mới của các nhà nghiên cứu lịch sử, rất có
thể ánh sáng soi rọi vào, đây là vợ đầu tiên của vua
Quang Trung.
Mỗi một trang sử là một phần tâm huyết của
cha ông để lại. Mỗi một khám phá mới là những tài
liệu trân qúy vô vàn. Nhưng, với sự dè dặt thường lệ,
bằng vào các tài liệu của gia phả, nó chỉ là một mớ
tư liệu của gia đ́nh đầy thiên kiến và nặng tính chủ
quan, nên rất khó lượng định được mức độ khả tín của
sự thực lịch sử. Bởi vậy, những phát kiến mới mà
chúng ta thấy chỉ là một tiền đề gợi ư với sự hoài
nghi cố hữu, về tính cách xác tín của tài liệu. Khám
phá mới nào cũng phải chờ sự cẩn trọng gạn lọc, đánh
giá và phán xét của thời gian.
NGUYỄN AN PHONG
Đặc san TÂY SƠN, Xuân Bính
Tí 1996
o0o