Hơn hai năm ở Paris, chẳng những ông hiểu biết nhiều về khoa học - kỹ thuật,
có tŕnh độ như một kiến trúc sư, một người biết khai mỏ, mà c̣n đọc rộng về các
mặt chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật, v.v... và t́m hiểu được
một số hoạt động công nghệ của nước Pháp.
Trên đường đi sang Pháp và trở về Việt Nam, Nguyễn Trường Tộ c̣n có dịp ghé
qua Rome, dừng chân ở Singapore và Hongkong.
Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về Tổ quốc, phải cập bến Sài G̣n, khi tỉnh
thành Gia Định đă bị quân viễn chinh Pháp và Tây Ban Nha chiếm đóng.
Gần ba năm sống trong ḷng địch, Nguyễn Trường Tộ bất đắc dĩ phải làm việc
với quân Pháp, phiên dịch các công hàm trao đổi giữa triều đ́nh Huế với Soái thủ
Pháp ở Gia Định. Nhiều lần ông sửa bớt chữ nghĩa trong công hàm của đôi bên,
tránh những lời lẽ quá khích, xúc phạm tới triều đ́nh hoặc phương hại cho việc
"tạm ḥa". Nhiều lần ông t́m cách thông báo cho các sứ thần của triều đ́nh như
Nguyễn Bá Nghi, Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ một số âm mưu quỷ kế của giặc
Pháp.
Năm 1863, Nguyễn Trường Tộ t́m cách thoát ra khỏi khu vực chiếm đóng của quân
Pháp, liên hệ được với triều đ́nh Huế. Từ đây cho đến cuối đời ông viết hàng
loạt điều trần, luận văn, tờ bẩm, tŕnh nhiều kiến nghị có tầm chiến lược nhằm
canh tân đất nước, tạo thế vươn lên cho dân tộc để giữ nền độc lập một cách khôn
khéo mà vững chắc.
Hơn sáu mươi di thảo của Nguyễn Trường Tộ đă sưu tầm được, bàn về nhiều
phương diện:
- Về mặt kinh tế, Nguyễn Trường Tộ vạch ra đường lối làm cho "nước giàu mà
dân cũng giàu". Ông khuyên triều đ́nh ra sức mở mang nghề nghiệp, học cách làm
ăn của các nước văn minh Tây Âu, tránh bế quan tỏa cảng, mời các công ty kinh
doanh nước ngoài đến giúp Việt Nam khai thác tài lợi để có thêm của cải và học
cho được kỹ thuật cũng như cách làm ăn tiên tiến của họ. Có như vậy mới giữ được
độc lập trong tư thế làm chủ đón khách... (xem Dụ tài tế cấp bẩm từ).
- Về mặt văn hóa - xă hội, Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đ́nh t́m mọi cách
nâng cao văn hóa đất nước theo hướng coi trọng khoa học - kỹ thuật, để sớm nâng
cao đời sống của nhân dân. Ông phê phán t́nh trạng kinh đô Huế luộm thuộm, mất
vệ sinh, công thự dột nát, lương bổng quan lại quá ít ỏi,v.v... Ông nêu hàng
loạt vấn đề quan trọng như: nên sáp nhập các tỉnh để giảm bớt số quan lại và có
điều kiện tăng lương cho quan lại nhằm giảm tệ tham nhũng, khuyến khích tính
liêm khiết; đề nghị sửa đổi chính sách thuế, đánh thuế nhà giàu nặng hơn nhà
nghèo, đánh mạnh vào xa xỉ phẩm, mặt khác không nên cấm dân dùng đồ đẹp, đồ sang
khiến cho văn vật ngày càng kém, áo xiêm ngày càng tồi; đề nghị sửa đổi chế độ
thi cử, chú trọng bồi dưỡng nhân tài về nhiều mặt, thành lập các môn học thực
dụng, dùng quốc âm trong công văn thay cho chữ Hán, lập địa đồ quốc gia và các
tỉnh, kiểm kê dân số, lập trại tế bần, viện dục anh (nhà trẻ), v.v... (xem Điều
trần về cải cách phong tục, Học tập bồi dưỡng nhân tài, Tế cấp bát điếu... ).
- Về mặt ngoại giao, Nguyễn Trường Tộ phân tích cho triều đ́nh thấy rơ cục
diện chính trị trên toàn thế giới, để biết ứng xử một cách linh hoạt (xem Thiên
hạ đại thế luận). Ông chỉ ra những mâu thuẫn giữa Pháp với Anh và Tây Ban Nha và
khuyên triều đ́nh nên chủ động mở rộng bang giao với nhiều nước, nhất là với
nước Anh, để chế ngự bớt tham vọng và khả năng xâm lược của Pháp. Khi nước Pháp
có sự biến lớn năm 1870 - 1871, vua Napoléon III mất ngôi, chế độ cộng ḥa Pháp
phục hồi, Nguyễn Trường Tộ nêu một loạt kiến nghị, hướng dẫn triều đ́nh xúc tiến
ngoại giao trực tiếp với Chính phủ Pháp, khéo léo đối phó, ngăn chặn bọn chỉ huy
quân viễn chinh Pháp ở Soái phủ Sài G̣n, nhằm t́m cách thu hồi lại sáu tỉnh đă
bị chiếm (xem Lục lợi từ và các tờ bẩm cuối năm 1866 đến tháng 2-1871).
- Về mặt quân sự, Nguyễn Trường Tộ tuy là một người "chủ ḥa", nhưng không có
tư tưởng "chủ hàng" hoặc ḥa b́nh vô nguyên tắc. Năm 1867, ông khuyên triều đ́nh
"ra sức cải tu vơ bị", đề pḥng quân Pháp từ Nam Kỳ đánh lan ra cả nước. Ông là
người đầu tiên nêu lên một chính sách quân sự có hệ thống như: trọng vơ ngang
trọng văn, quư trọng người lính, ưu đăi sĩ quan, biên soạn lư luận binh pháp,
đào tạo cán bộ chỉ huy, tạo dựng một quốc thể về mặt binh bị, chuẩn bị điều kiện
tác chiến trong thành phố, t́m cách dùng người trong vùng địch chiếm, v.v...
Ngoài những bản điều trần và luận văn tạo nên một công tŕnh trí tuệ vĩ đại
vô giá, Nguyễn Trường Tộ c̣n để lại một số hoạt động thực tiễn xuất sắc như: Năm
1862 - 1863, ông thiết kế xây dựng ṭa nhà nguyện của ḍng tu nữ ở Sài G̣n. Năm
1864 - 1866, ông thiết kế xây dựng bốn ngôi nhà trong giáo khu Xă Đoài. Mấy công
tŕnh này của ông thuộc về những công tŕnh kiến trúc đầu tiên theo kiểu châu Âu
ở Việt Nam giữa thế kỷ 19. Cũng giữa những năm 60 thế kỷ 19, khi hoạt động ở quê
nhà, ông đă giúp Tổng đốc Nghệ An Hoàng Tá Viêm đào Kênh Sắt, một công tŕnh xưa
kia Cao Biền rồi Hồ Qúy Ly dự định làm mà không làm nổi. Ngoài ra, ông c̣n vận
động dân chúng ở Xuân Mỹ, quê hương bên nhà vợ Ông, cùng nhau dời làng từ trong
núi rừng đầy lam chướng ra nơi thoáng đăng, thuận lợi canh tác.
Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ đă vượt hẳn lên trên tầm thời đại giữa
thế kỷ 19 ở Việt Nam. Vua Tự Đức tuy đă có lúc triệu ông "vào kinh để hỏi việc
lớn" và phái ông sang Pháp thuê thầy thợ, mua sách vở, máy móc, định du nhập kỹ
thuật (năm 1866 - 1867), nhưng nói chung, triều đ́nh nhà Nguyễn cũng như các nho
sĩ, văn thân thời ấy chưa hiểu nổi luồng tư tưởng của ông, nên chưa coi trọng
đúng mức những kiến nghị cách tân của ông. Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ
bị lăng quên như một luồng ánh sáng rọi vào đám sương mù dày đặc.
Ông chết âm thầm ở làng quê Bùi Chu ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức thứ 24, tức
23 tháng 11 năm 1871.