Chồng của cô ruột là Tạ Đức đem ông về nuôi dậy văn vơ. Năm 18 tuổi mẹ mất
(1036), Ngô Tuấn cùng em lo đủ tang lễ mai táng. Hết tang, ông được bổ chức kỵ
mă hiệu uư. Do tính siêng năng, cần mẫn lại hết ḷng trung thành, càng được vua
tin yêu thăng thưởng dẫn lên đến chức Đô Tri và được đổi sang họ Vua gọi là Lư
Thường Kiệt.Năm 1061, ông được Vua cử vào trấn giữ vùng núi Thanh - Nghệ hiểm
trở, ông đă vỗ về nhân dân chăm lo sản xuất, khai khẩn đất hoang làm cho nhân
dân no ấm, biên cương được bảo vệ vững vàng.
Năm 1075, Nhà Tống do Vương An Thạch làm Tể tướng âm mưu chuẩn bị xâm lược
nước ta, Thái úy Lư Thường Liệt tâu với Thái hậu ư Lan rằng "Ngồi yên đợi giặc,
không bằng đưa quân ra trước ", Thái Hậu đồng ư cho Lư Thường Kiệt và Tông Đản
đem quân sang đánh phá các căn cứ tập kết lương thực, vũ khí của Nhà Tống ở Châu
Khâm, Châu Liêm, Châu Ung (Quảng Đông, Quảng Tây) rồi chủ động rút quân về nước.
Lập pḥng tuyến chống giặc Tống xâm lược ở bờ nam sông Cầu.
Đầu năm 1077 Quách Qùy và Triệu Triệu Tiết dẫn hơn 10 vạn quân tiến vào xâm
lược nước ta, quân xâm lược bị quân và dân ta chặn lại bên bờ bắc sông Cầu hơn 2
tháng.
Chính trên pḥng tuyến sông Cầu, Lư Thường Kiệt đă cho ra đời bài thơ:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tạI thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Đấy chính là "Bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc tạ Quân Tống
phải rút chạy về nước, bờ cơi nước ta lại vững bền.
Lư Thường Kiệt đă có công đánh thắng nhà Tống, lại có công b́nh Chiêm. Tháng
6 năm ất Dậu (1105), Đôn Quốc Thái úy Lư Thường Kiệt mất, thọ 87 tuổi, nhà Vua
truy tặng chức; nhập nội điện đô tri hiển hiệu thái úy b́nh chương quân quốc
trọng sự, tước Việt quốc công.