Lê Qúy Đôn mất ngày 1-5-1784 tại quê mẹ, làng Nguyên Xá, huyện Duy Tiên (nay
thuộc Hà Nam). Thi hài ông được đưa về mai táng ở quê nhà.
Trong cuộc đời làm quan của Lê Qúy Đôn, có mấy sự kiện sau có ảnh hưởng lớn
đối với sự nghiệp trước tác, văn chương của ông. Đó là chuyện đi sứ Trung Quốc
năm 1760 - 1762. Tại Yên Kinh (Bắc Kinh), Lê Qúy Đôn gặp gỡ các sứ thần Triều
Tiên, tiếp xúc với nhiều trí thức nổi tiếng của nhà Thanh, bàn lận với họ những
vấn đề sử học, triết học... Học vấn sâu rộng của ông được các học giả Trung
Quốc, Triều Tiên rất khâm phục. Ở đây, Lê Qúy Đôn có dịp đọc nhiều sách mới lạ,
kể cả sách của người phương Tây nói về địa lư thế giới, về ngôn ngữ học, thủy
văn học... Đó là các đợt Lê Qúy Đôn đi công cán ở các vùng Sơn Nam, Tuyên Quang,
Lạng Sơn những năm 1772, 1774, làm nhiệm vụ điều tra nỗi khổ của nhân dân cùng
tệ tham nhũng, ăn hối lộ của quan lại, khám đạc ruộng đất các vùng ven biển bị
địa chủ, cường hào địa phương man khai, trốn thuế... Chính nhờ quá tŕnh đi
nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều việc đời như vậy mà kiến thức Lê Qúy
Đôn trở nên phong phú vô cùng. Ông viết trong lời tựa sách Kiến văn tiểu lục:
"Tôi vốn là người nông cạn, lúc c̣n bé thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm
quan, xem lại sách đă chứa trong tủ, vâng theo lời dạy của cha, lại được giao du
nhiều với các bậc hiền sĩ đại phụ Thêm vào đấy phụng mệnh làm việc công, bốn
phương rong ruổi: mặt bắc sang sứ Trung Quốc, mặt tây b́nh định Trấn Ninh, mặt
nam trấn thủ Thuận Quảng (Thuận Hóa, Quảng Nam). Đi tới đâu cũng để ư t́m ṭi,
làm việc ǵ mắt thấy tai nghe đều dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời b́nh luận
sơ qua, giao cho tiểu đồng đựng vào túi sách".
Ngoài đầu óc thông tuệ đặc biệt cộng với vốn sống lịch lăm và một nghị lực
làm việc phi thường, phải kể đến thời đại mà Lê Qúy Đôn sống. Và ông là đứa con
đẻ, là sản phẩm của thời đại ấy kết tinh lại.
Lê Qúy Đôn sống ở thế kỷ thứ 18 thời kỳ xă hội Việt Nam có nhiều biến động
lớn. Trong ḷng xă hội Việt Nam đầy mâu thuẫn khi ấy đang nảy sinh những mầm
mống mới của thời kỳ kinh tế hàng hóa, thị trường trong nước mở rộng, thủ công
nghiệp và thương nghiệp có cơ hội phát triển... T́nh h́nh đó đă tác động mạnh mẽ
tới đời sống văn hóa, tư tưởng, khoa học. Ở thế kỷ 18, xuất hiện nhiều tên tuổi
rực rỡ như Đoàn Thị Điểm, Ngô Th́ Sĩ, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Lê Hữu
Trác... Đồng thời các tri thức văn hóa, khoa học của dân tộc được tích lũy hàng
ngàn năm tới nay đă ở vào giai đoạn súc tích, tiến đến tŕnh độ phải hệ thống,
phân loại. Thực tế khách quan này đ̣i hỏi phải có những bộ Óc bách khoa và Lê
Qúy Đôn với học vấn uyên bác của ḿnh đă trở thành người "tập đại hành" mọi tri
thức của thời đại. Có thể nói, toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ thứ 18
đều được bao quát vào trong các tác phẩm của Lê Qúy Đôn. Tác phẩm của ông như
cái mốc lớn đánh dấu thành tựu văn hóa của cả một thời đại với tất cả những ưu
điểm cùng nhược điểm của nó.
Tác phẩm của Lê Qúy Đôn thống kê có tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng
một số bị thất lạc. Những tác phẩm tiêu biểu của Lê Qúy Đôn c̣n giữ được có thể
kể ra như sau:
- Quần thư khảo biện, tác phẩm chứa đựng nhiều quan điểm triết học, lịch sử,
chính trị được viết trước năm ông 30 tuổi.
- Vân đài loại ngữ, Lê Qúy Đôn làm xong lúc ông 30 tuổi. Đây là một loại
"bách khoa thư", trong đó tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn
học... sắp xếp theo thứ tự: Vũ trụ luận, địa lư, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn
ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xă hội... Vân đài loại ngữ là bộ sách đạt tới
tŕnh độ phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa khá cao, đánh dấu một bước tiến
bộ vượt bậc đối với nền khoa học Việt Nam thời phong kiến.
- Đại Việt thông sử, c̣n gọi Lê triều thông sử, là bộ sử được viết theo thể
kư truyện, chép sự việc theo từng loại, từng điều một cách hệ thống, bắt đầu từ
Lê Thái Tổ đến Cung Hoàng, bao quát một thời gian hơn 100 năm của triều Lê,
trong đó chứa đựng nhiều tài liệu mới mà các bộ sử khác không có, đặc biệt là về
cuộc kháng chiến chống Minh.
- Kiến văn tiểu lục, là tập bút kư nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời
Trần đến đời Lệ Ông c̣n đề cập tới nhiều lĩnh vực thuộc chế độ các vương triều
Lư, Trần, từ thành quách núi sông, đường xá, thuế má, phong tục tập quán, sản
vật, mỏ đồng, mỏ bạc và cách khai thác cho tới các lĩnh vực thơ văn, sách vở...
- Phủ biên tạp lục, được viết trong thời gian Lê Qúy Đôn làm Hiệp trấn Thuận
Hóa. Nội dung ghi chép về t́nh h́nh xă hội. Đàng Trong từ thế kỷ thứ 18 trở về
trước.
Công tŕnh biên soạn lớn nhất của Lê Qúy Đôn là bộ Toàn Việt thi lục 6 quyển,
tuyển chọn 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lư đến đời Lê Tương Dực (1509 -
1516). Lê Qúy Đôn hoàn thành Toàn Việt thi lục năm 1768, dâng lên vua, được
thưởng 20 lạng bạc.
Về sáng tác văn xuôi, theo Phan Huy Chú, Lê Qúy Đôn có Quế Đường văn tập 4
quyển, nhưng sách này đă mất. Về sáng tác thơ, Lê Qúy Đôn để lại có Quế Đường
thi tập khoảng vài trăm bài làm ở trong nước và trong thời gian đi sứ Trung
Quốc.
Nhận xét tổng quát về thơ Lê Qúy Đôn, Phan Huy Chú viết: "Ông là người học
vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên...
, không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào
không đạt tới, thật là phong cách đại gia".
Quan niệm về thơ của Lê Qúy Đôn được tổng hợp lại như sau: "Làm thơ có 3 điểm
chính: một là t́nh, hai là cảnh, ba là việc. Tiếng sáo thiên nhiên kêu ở trong
ḷng mà động vào máy t́nh; thị giác tiếp xúc với ngoài, cảnh động vào ư, dựa cổ
mà chứng kim, chép việc thuật chuyện, thu lăm lấy tinh thần... đại để không
ngoài ba điểm ấy".
Đây là những tiêu chuẩn về thơ mà Lê Qúy Đôn đề ra cho quá tŕnh sáng tác của
ḿnh. Đọc thơ Lê Qúy Đôn, chúng ta thấy thơ ông thật phong phú đa dạng, sâu sắc
về tư tưởng, nghệ thuật và để lại trong ḷng ta những xúc động đẹp đẽ, sâu xa:
Thành cổ lộng
Thành hoang tường đổ đă bốn trăm năm,
Dây dưa, dây đậu leo quấn xanh tốt.
Sóng biết đă rửa sạch nỗi hận cho vua Trần,
Cỏ xanh khó che lấp sự hổ thẹn của Mộc Thạnh.
Sau trận mưa ḅ vàng cầy bật gươm cũ,
Dưới trăng chim lạnh kêu bên lầu tàn.
Bờ cơi cần ǵ phải mở rộng măi
Đời Nghiêu Thuấn xưa chỉ có chín châu thôi.
(Bản dịch nghĩa)