Hải Thượng Lăng Ông Lê Hữu Trác
Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lăn ông (1). Sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tư (11-12-1720) tại thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương. Nay là xă Hoàng Hữu Nam huyện Yên Mỹ, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, ông sống nhiều (từ năm 26 tuổi đến lúc mất) ở quê mẹ xứ Bầu Thượng, xă Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nay là xă Sơn Quang, huyện Hương Sơn và cũng qua đời ở đây vào ngày rằm tháng
giêng năm Tân Hợi (1791) thọ 71 tuổi. Mộ Ông nay c̣n nằm ở Khe nước cạn chân núi Minh Từ thuộc huyện Hương Sơn (cách phố Châu huyện lỵ Hương Sơn 4 cây số).

Lê Hữu Trác là con thứ bảy của Lê Hữu Mưu và bà Bùi Thị Thưởng.

Ḍng họ của ông có truyền thống khoa bảng; ông nội, bác, chú (Lê Hữu Kiều), anh và em họ đều đỗ tiến sĩ và làm quan tọ Cha Lê Hữu Trác đỗ đệ tam giáp tiến sĩ làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức ngự sử, tước bá, khi mất được truy tặng Thượng thư.

Năm Kỷ Mùi (1739) Lê Hữu Trác 20 tuổi th́ cha qua đời, ông rời kinh thành về nhà, vừa trông nom gia đ́nh vừa chăm chỉ đèn sách, thi vào tam trường, sau đó không thi nữa.

Năm 1739 cũng là năm mở ra quy mô lớn của phong trào nông dân nổi dậy chống phong kiến, chỉ một năm sau (1740) nghĩa quân của Hoàng Công Chất đánh sát huyện ông. Chàng thư sinh trẻ tuổi Lê Hữu Trác đang mê mải đèn sách phải lánh đi nơi khác đọc sách. Có người thấy thế đă bảo ông "Binh lửa khắp nơi, con trai thời loạn há chịu già đời ở trong pḥng sách măi sao?" và khuyên ông nên theo nghề vơ. Từ đó ông vừa dùi mài kinh sử vừa nghiên cứu binh thự Sau nhờ ẩn sĩ họ Vũ ở Đặng Xá dạy vũ thuật âm dương (phép bói toán độn số), ông "nghiên cứu trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm ṭng quân để thí nghiệm sức học của ḿnh" (Tựa "Tâm lĩnh").

Chiến tranh phong kiến đă gây đau thương chết chóc cho biết bao nhiêu gia đ́nh làng xóm, nó không đem lại ǵ cho nhân dân, cho đất nước; đă làm cho Lê Hữu Trác chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên ông đă nhiều lần từ chối sự đề bạt của tướng nhà Trịnh. Ông nhận ra theo Lê hay Trịnh cũng là chí theo đuổi chiến tranh "cốt nhục tương tàn"; cái chí mạnh "xung Ngưu Đẩu" của ông cũng hóa "ngông cuồng" mà thôi. (Đọc bài thơ trong lời tựa bộ "Tâm lĩnh"). Cho nên năm 1746 khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội, thực sự "bẻ tên cởi giáp" theo đuổi chí hướng mới.

Lê Hữu Trác bị bệnh từ lúc ở trong quân đội, giải ngũ về phải gánh vác công việc vất vả "trăm việc đổ dồn vào ḿnh, sức ngày một yếu" (Lời tựa "Tâm lĩnh"), lại sớm khuya đèn sách không chịu nghỉ ngơi, sau mắc cảm nặng, chạy chữa tới hai năm mà không khỏi. Sau nhờ lương y Trần Độc, người Nghệ An là bậc lăo nho, học rộng biết nhiều nhưng thi không đỗ, trở về học thuốc, nhiệt t́nh chữa khỏi.

Trong hơn một năm chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông đọc sách thuốc "Phùng thị cẩm nang" hiểu được chỗ sâu xa của sách thuốc. Ông Trần Độc thấy lạ, muốn đem hết cái hiểu thấu về y học truyền cho ông. Vốn là người thông minh học rộng, ông mau chóng hiểu sâu y lư, t́m thấy sự say mê ở sách y học, nhận ra nghề y không chỉ lợi ích cho ḿnh mà có thể giúp người đời, nên ông quyết chí học thuốc.

ở Hương Sơn, ông làm nhà cạnh rừng đặt tên hiệu Lăn ông (ông lười) ư nói lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng ḿnh khỏi sự ràng buộc của danh lợi, của quyền thế, tự do nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng mà ḿnh yêu thích gắn bó.

Giữa cảnh thiên nhiên tĩnh mịch của núi rừng Hương Sơn, sớm khuya mê mải đọc các sách thuốc: Y học nhập môn, Cảnh nhạc toàn thư, Nam dược thần hiệu (của Tuệ Tĩnh), Bảo sinh diệu toản yếu... thật là:

Sá chi vinh nhục việc đời,

Đem thân đạo nghĩa vào nơi lâm tuyền.

(Bất can vinh nhục sư.

Bảo đao nhập cùng lâm.

An bần - Y lư thâu nhàn)

Hải Thượng Lăn ông muốn t́m thầy, t́m bạn để học thêm nhưng nơi núi rừng hẻo lánh "trên không có thầy giỏi để học, dưới không có bạn hiền giúp, chỉ một ḿnh nói với ḿnh, tự hỏi tự đáp ṃ mẫm tưởng tượng đủ thứ" (Lời tựa "Tâm lĩnh") để t́m ra chân lư. Sau ông nhờ một ông lang ở làng bên đi lại thân mật, giúp ông giải đáp những mắc mớ, vài ba năm sau ông đă chữa được một số bệnh thông thường trong gia đ́nh và làng xóm.

Mùa thu năm Bính Tư (1754) Lê Hữu Trác ra kinh đô mong t́m thầy để học thêm v́ ông thấy y lư mênh mông nhưng không gặp được thầy giỏi, ông đành bỏ tiền mua một số phương thuốc gia truyền, trở về Hương Sơn "từ khước sự giao du, đóng cửa để đọc sách" (Tựa "Tâm lĩnh"), vừa học tập và chữa bệnh. Mười năm sau tiếng tăm của ông đă nổi ở vùng Hoan Châu (Nghệ An).

Sau mấy chục năm tận tụy với nghề nghiệp, Hải Thượng Lăn ông đă nghiên cứu rất sâu lư luận Trung y qua các sách kinh điển: Nội kinh, Nam kinh, Thương hàn, Kim quỹ; t́m hiểu nền y học cổ truyền của dân tộc; kết hợp với thực tế chữa bệnh phong phú của ḿnh, ông hệ thống hóa tinh hoa của lư luận Đông y cùng với những sáng tạo đặc biệt qua việc áp dụng lư luận cổ điển vào điều kiện Việt Nam, đúc kết nền y học cổ truyền của dân tộc. Sau hơn chục năm viết nên bộ "Lăn ông tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học: Y đức - Y lư, Y thuật, Dược, Di dưỡng. Phần quan trọng nữa của bộ sách phản ảnh sự nghiệp văn học và tư tưởng của Hải thượng Lăn ông.

Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782) Lăn ông nhận được lệnh chúa triệu về kinh. Lúc này ông đă 62 tuổi, sức cũng yếu lại là người chăm lo chữa bệnh cho trăm họ, nhất là ông đă quyết chí xa lánh công danh, theo đuổi nghiệp y đă mấy chục năm nên ông nhận chiếu chỉ của chúa Trịnh với tâm trạng vừa lo lắng, vừa chán nản; măi sau nghĩ đến bộ "Tâm lĩnh" chưa in được, mà ông "không dám truyền thụ riêng ai, chỉ muốn đem ra công bố cho mọi người cùng biết, nhưng việc th́ nặng sức lại mỏng, khó mà làm được" (Thượng kinh kư sự), nên ông hy vọng lần đi ra kinh đô có thể thực hiện việc in bộ sách, phần "con cái trong nhà cũng hết sức van nài", ông tạm làm vui từ giă gia đ́nh, học tṛ rời Hương Sơn lên đường.

Ra kinh vào phủ chúa xem mạch và kê đơn cho thế tử Trịnh Cán, ông được Trịnh Sâm khen "hiểu sâu y lư" ban thưởng cho ông 20 xuất lính hầu, và bổng lộc ngang với chức quan kiểm soát bộ Hộ để giữ ông lại. Nhưng Lăn ông thấy nếu nhận thưởng chịu ơn th́ khó ḷng rời kinh đô trở lại Hương Sơn được, nên ông giả ốm không vào chầu, sau lại viện cớ tuổi già mắt hoa, tai điếc thường ốm yếu để được trọ Ở ngoài.

Bọn ngự y ghen tỵ với Lăn ông không chịu chữa theo đơn của ông, nên thế tử không khỏi, ông biết thế nhưng không hề thắc mắc với bọn thầy thuốc thiếu lương tâm này, mặt nữa ông không thật nhiệt t́nh chữa, kết quả để sớm thoát khỏi ṿng cương tỏa của quyền thần, danh lợi.

Thời gian ở kinh đô, Lăn ông muốn về thăm cố hương Hải Dương của ḿnh, nhưng măi đến tháng 9 năm 1782, sau chúa Trịnh mới cho phép ông về. Sau hơn 20 năm xa cách, được trở về mảnh đất "chôn nhau cắt rốn".

Đang sống giữa quê hương, ông lại có lệnh triệu về kinh v́ Trịnh Sâm ốm nặng. Nhận được lệnh triệu, ông đành phải rời quê hương.

Về kinh ông chữa cho Trịnh Sâm khỏi và cũng miễn cưỡng chữa tiếp cho Trịnh Cán. Trịnh Sâm lại trọng thưởng cho ông. Ông bắt buộc phải nhận nhưng bụng nghĩ: "Ḿnh tuy không phải đă bỏ quên việc ẩn cư, nhưng nay hăy tạm nhận phần thưởng rồi sau vứt đi cũng được" (Thượng kinh kư sự).

Trịnh Sâm chết v́ bệnh lâu ngày sức yếu, Trịnh Cán lên thay, nhưng Trịnh Cán cũng ốm dai dẳng nên "khí lực khô kiệt", khó ḷng khỏe được, lại nóng ḷng trở về Hương Sơn, Lăn ông đang t́m kế thoái lui, th́ may có người tiến cử một lương y mới, ông liền lấy cớ người nhà ốm nặng rời kinh.

Hải Thượng Lăn ông trở về Hương Sơn bằng đường thủy, nhưng sợ triều đ́nh bắt trở lại ông phao tin đi đường bộ. Thoát khỏi kinh đô ông sung sướng như "chim sổ lồng, cá thoát lưới", ḷng chỉ muốn "bay nhanh" về quê nhà:

Lên đường từ giă long lâu

Gươm đàn nửa gánh ra ngay đô thành,

Ngựa quen đường cũ về nhanh,

Quay thuyền khó lúc lênh đênh giữa ḍng.

Mây qua đường để bớt nồng

Núi non mở mặt như ḷng v́ ai

Xanh xanh một dải non đoài

Giống non ta cũ chỉ vài ḥn thôi.

(Thượng kinh kư sự).

Ngày 2 tháng 11 (năm 1782) Lăn ông về đến Hương Sơn.

Gần một năm sống giữa kinh đô phong kiến biết bao công danh phú quư lôi kéo, nhưng ông "thung dung" ra đi lại "ngất ngưởng" trở về, ḷng trong không hề đục, chí lớn không hề sờn.

Năm 1783 ông viết xong tập "Thượng kinh kư sự" ghi lại tỉ mỉ chuyến đi kinh, tập kư ấy là một tác phẩm văn học vô cùng quư giá. Mặc dầu tuổi già, công việc lại nhiều: chữa bệnh, dạy học, nhưng ông vẫn tiếp tục chỉnh lư, bổ sung, viết thêm (tập Vân khi bí điển, năm 1786) để hoàn chỉnh bộ "Tâm lĩnh". Hải Thượng Lăn ông Lê Hữu Trác không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc, ông c̣n là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của thời đại.



Chú thích:

(1) Hải Thượng Lăn ông: Hải Thượng là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và phủ Thượng Hồng quê cha và cũng là xă Bầu Thượng quê mẹ. Lăn ông nghĩa là "ông lười", ngụ ư lười biếng với danh lợi.

 

o0o