Mã gần ngã ba Bông, thuộc địa phận hợp tác xã Định Công của tỉnh Thanh Hóa.
Thôn Cẩm Trướng thuộc xã Định Công có truyền thuyết "Đá biết nói" như sau: Vùng
núi này có con voi trắng một ngà rất dữ tợn hay về phá hoại mùa màng, mọi người
đều sợ. Để trừ hại cho dân, Bà Triệu cùng chúng bạn đi vây bắt voi, lùa voi
xuống đầm lầy (vùng sông Cầu Chầy ngày xưa còn lầy lội) rồi dũng cảm nhẩy lên
cưỡi đầu voi và cuối cùng đã khuất phục được con voi hung dữ. Chú voi trắng này
sau trở thành người bạn chiến đấu trung thành của Bà Triệu. Nghĩa quân Bà Triệu,
những ngày đầu tụ nghĩa, đã đục núi Quân Yên, bí mật cho người ngồi trong hốc
đá, đọc bài đồng dao:Có bà Triệu tướng,
Vâng lệnh trời ta.
Trị voi một ngà,
Dựng cờ mở nước.
Lệnh truyền sau trước,
Theo gót Bà Vương.
Nhờ đó cả vùng đã đồn ầm lên rằng núi Quân Yên biết nói, báo hiệu cho dân
chúng biết Bà Triệu là "thiên tướng giáng trần" giúp dân, cứu nước. Vì vậy hàng
ngũ nghĩa quân thêm lớn, thanh thế thêm tọ Họ kéo nhau xuống Phú Điền dựng căn
cứ.
Trung tâm tụ nghĩa là vùng núi Tùng Sơn (Phú Điền). Đây là một thung lũng nhỏ
nằm giữa hai dãy núi đá vôi thấp, dãy phía bắc (Châu Lộc) là đoạn núi chót ngăn
cách hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình cũ, dãy núi phía nam (Tam Đa) là đoạn chót
của dải núi chạy dọc sông Mã. Chân phía bắc núi Châu Lộc là sông Lèn, chân phía
nam núi Tam Đa là sông Âu, xưa là một dòng sông lớn. Thung lũng mở rộng cửa về
phía đồng bằng ven biển và bị chặn ngang về phía tây bởi dòng sông Lèn. Ở căn cứ
này, ngược sông Lèn có thể liên lạc với miền quê Bà Triệu. Là địa điểm gần biển,
lại là cửa ngõ từ đồng bằng miền bắc vào Thanh, đó là một vị trí quân sự hiểm
yếu, thuận lợi cả công lẫn thủ.
ở đây còn có núi Chung Chinh với 7 đồn lũy tương truyền là quân doanh của Bà
Triệu, nơi đã từng diễn ra trên ba chục trận đánh với quân Ngộ Dưới chân núi
Tùng, còn có cánh đồng Lăng Chúa (lăng Bà Triệu), đồng Vườn Hoa, đồng Xoắn ốc...
tương truyền là tên cũ còn lại khi Bà Triệu đắp lũy xây thành. Ở đây còn lưu
hành rộng rãi truyền thuyết về ba anh em nhà họ Lý đi tìm Bà Triệu, rước Bà từ
quê ra đây dựng doanh trại, sửa soạn khởi nghĩa và tôn Bà làm chủ tướng.
Cảm phục chí khí hiên ngang cứu nước của người con gái hai chục tuổi đời, dân
chúng Cửu Chân theo phục Bà rất đông. Các thành ấp của giặc Ngô đều bị triệt hạ,
quan lại giặc từ thái thú đến huyện lệnh, huyện trưởng, kẻ bị giết, kẻ chạy trốn
hết. Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa lan ra Giao Chỉ ở ngoài bắc. Thứ sử Giao Châu
mất tích!
Một câu nói, tương truyền là lời Bà Triệu phát ra trên núi nghĩa, nghìn thu
còn vang vọng mãi:
"Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông,
đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang san, cởi ách nô lệ chứ tôi không chịu khom
lưng làm tì thiếp người ta!"
Rất nhiều câu chuyện về tình dân với khởi nghĩa Bà Triệu. Đây là một ông già
mù miền núi đã đi khắp nơi, dùng tiếng đàn, giọng hát của mình để ngâm ngợi cổ
vũ dân chúng đứng dậy cứu nước; kia một bà cụ hàng nước cố xin cho con gái được
theo quân giết giặc, còn mình thì giúp cả chõng chuối với chum nước chè xanh cho
nghĩa binh đang trẩy quân qua giải khát. Dọc sông Mã, vùng Cẩm Thạch có truyền
thuyết và di tích về một bà nữ tướng cưỡi voi đánh giặc Ngộ Vùng Khang Nghệ có
truyền thuyết nói rằng: thời xưa sông Mã có một nhánh chảy từ đầm Hàn về cửa
Lạch Trường. Đó là nơi quân Ngô chiếm giữ, chiến thuyền san sát như lá trẹ Một
chàng trai đã ăn trộm ngựa chiến của quân giặc trốn về với Bà Triệu và trở thành
dũng tướng của nghĩa quân. Trong một trận giao tranh trên sông nước, vì anh đi
chân vòng kiềng nên đã vấp phải dây chằng mà tử trận. Giặc Ngô đang ăn mừng
thắng lợi thì hai bờ sông chuyển động. Đất trời nổi cơn giận dữ, hắt rừng cây
núi đá xuống lấp cạn dòng sông, chôn vùi cả mấy vạn xác thù...
Lại có câu chuyện đền Cô Thị Ở xã Hà Ngọc (Hà Trung). Một cô gái rất thích
quả thị, chờ đợi người yêu đi đánh giặc và khi chết biến thành cây thị. Cây thị
này chỉ có một quả, không ai hái được, vì hễ ai thò tay bẻ thì cành thị lại tự
dưng vút hẳn lên cao. Cành ấy đời đời ngả về phía đông nam theo hướng người yêu
của cô đang ở trong quân dinh Bà Triệu. Một ngày thắng trận, chàng trai được
phép Bà Triệu về thăm làng xóm thì cành cây mới chịu sà xuống và quả thị rơi vào
ống tay áo của chàng...
Đứng trước nguy cơ tan rã của chính quyền đô hộ Ở Châu Giao, triều Ngô phải
cử viên danh tướng Lục Dận (cháu họ viên danh tướng Lục Tốn) làm thứ sử Giao
Châu, An Nam hiệu úy, đem khoảng 8.000 quân sang Giao Châu đàn áp nhân dân khởi
nghĩa. Kết hợp dùng binh lực uy hiếp, dùng mưu mô dụ dỗ, dùng của cải mua chuộc,
Lục Dận đã khiến được ba nghìn hộ Ở Cao Lương (Hợp Phố) dưới quyền thủ lĩnh
Hoàng Ngô đầu hàng. Sau đó, Lục Dận thận trọng tiến binh vào Giao Chỉ và Cửu
Chân, khi phát quân đàn áp, khi dừng quân dùng của cải, tiền bạc mua chuộc các
thủ lĩnh địa phương. Rút cục, hàng trăm thủ lĩnh nghĩa quân và hơn năm vạn dân
đã phải chịu thua quân Ngô.
Truyền thuyết dân gian kể rằng: Bà Triệu đã chiến đấu chống giặc Ngô, trên ba
mươi trận thắng lợi. Giặc gọi tên bà là Nhụy Kiều tướng quân (Vị tướng nữ yêu
kiều), là Hệ Hải bà vương (Vua bà vùng biển mĩ lệ). Quân Ngô sợ bà, thường có
câu:
Hoành qua đương hổ dị,
Đối diện Bà Vương nan.
(Múa ngang ngọn dáo dễ chống hùm,
Đối mặt Vua Bà thì thực khó).
Cũng theo truyền thuyết dân gian, về sau có kẻ phản bội, mách với Lục Dận
rằng Bà là nữ tướng "ái khiết úy ô" (yêu cái trong sạch, ghét cái nhơ bẩn). Quân
Ngô liền trần truồng tiến đánh Bà. Bà hổ thẹn, giao binh cho 3 tướng họ Lý, lên
núi Tùng tự vẫn.
Trên núi Tùng hiện có mộ Bà Triệu và dưới chân núi Tùng là đền thờ chính của
Bà Triệu. Hội đền hằng năm ngày trước vào ngày 21 tháng hai âm lịch.
Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, nhưng hình ảnh người con gái kiên trinh bất
khuất, người nữ anh hùng dân tộc siêu việt quyết nối chí Bà Trưng "giành lại
giang san, cởi ách nô lệ" muôn thuở không mờ trong tâm trí phụ nữ và dân tộc
Việt Nam.
Tùng Sơn nắng quyện mây trời,
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.
(thơ ca dân gian)