|
An Dương Vương |
|
Theo truyền thuyết sử cũ th́ An Dương Vương tên thật là Thục
Phán là cháu nước Thục. Nước Thục không phải là nước Thục ở
vùng Tứ Xuyên đời chiến quốc (Trung Quốc) mà là một bộ tộc
đă tới vùng Bắc Bộ từ lâu, sống xen kẽ với người Lạc Việt và
người Thái. Tục gọi là người Âu Việt. Chuyện xưa kể rằng:
Vua HùngVương có người con gái nhan sắc tuyệt vời tên gọi là
Mỵ Nương. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ cầu hôn. Vua Hùng
Vương muốn gă
|
|
|
nhưng Lạc Hầu can rằng: Thục muốn lấy nước ta, chỉ mượn
tiếng cầu hôn đó thôi. Không lấy được Mỵ Nương,
Thục Vương căm giận, di chúc cho con cháu đời sau thế nào cũng phải
diệt nước Văn Lang của Vua Hùng. Đến đời cháu là Thục Phán mấy lần
đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Vua Hùng Vương có tướng sĩ
giỏi, đă đánh bại quân Thục. Vua Hùng Vương nói: ta có sức thần,
nước Thục không sợ hay sao? Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc
binh bị. Bởi thế, khi quân Thục lại kéo sang đánh nước Văn Lang, vua
Hùng Vương c̣n trong cơn say. Quân Thục đến gần, Vua Hùng trở tay
không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng.
Thế là nước Văn Lang mất.
Năm Giáp Th́n (257 trước công nguyên), Thục Phán dẹp yên mọi bề,
Xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu Âu Lạc (tên hai nước Âu Việt
và Lạc Việt ghép lại) đóng đô ở Phong Châu ( Bạch Hạc, Vĩnh Phú).
AN DƯƠNG VƯƠNG DẸP TẦN
Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc th́ Doanh Chính nước Tần đă
kết thúc mọi hỗn chiến đời chiến quốc, thống nhất nước Trung Hoa,
lập nên một nhà nước lớn mạnh. Để thơa tham vọng mở mang lănh thổ,
Doanh Chính huy động lực lượng to lớn phát động cuộc chiến tranh xâm
lược Bách Việt.
Năm 218 trước công nguyên, Doanh Chính huy động 50 vạn quân chia làm
5 đạo đi chinh phục Bách Việt. Để tiến xuống miền Nam, đi sâu vào
đất Việt, đạo quân thứ nhứt củ quân Tần phải đào con kênh nối sông
Lương (vùng An Hưng Trung Quốc ngày nay) để chở lương thực. Nhờ vậy,
đạo quân chủ lực của quân Tần do viên tướng lừng danh Đồ Thư thống
lĩnh vào đất Tây Âu, giết tù trưởng, chiếm đất rồi tiến vào Lạc Việt.
Nhân dân Lạc Việt biết không thể đương nổi quân Tần nên bỏ vào rừng
để bảo toàn lực lượng. Thục Phán được các Lạc tướng suy tôn làm lănh
tụ chung chỉ huy cuộc kháng chiến này. Bởi vậy khi Đồ Thư đem quân
tiến sâu vào đất Lạc Việt, chúng gặp khó khăn chồng chất. Quân địch
tiến sâu đến đâu, người Việt làm vườn không nhà trống và trốn rừng
đến đó. Chẳng mấy chốc quân Tần lâm vào t́nh trạng thiếu lương thực
trầm trọng. Khi quân Tần đă mệt mỏi, chán nản và khổ sở v́ thiếu
lương, khí hậu độc địa, th́ người Việt, do Thục Phán làm tướng, mới
bắt đầu xuất trận. Chính chủ tướng Đồ Thư trong một trận giáp chiến
đă bị bắn hạ. Mất chủ tướng, quân địch hoang mang mở đường máu tháo
chạy về nước. Như vậy, sau gần 10 năm lănh đạo nhân dân Âu Việt –
Lạc Việt kháng chiến chống quân Tần thắng lợi. Thục Phán đă thực sự
nắm trọn uy quyền tuyệt đổi về quân sự lẫn chính trị, khiến cho uy
tín của Thục Vương ngày càng được cũng cố và nâng cao. Từ vị trí ấy,
Thục Vương có điều kiện thi thố tài năng, dựng xây nước Âu Lạc vững
mạnh.
AN DƯƠNG VƯƠNG XÂY THÀNH CỔ LOA,
Sau chiến thắng vĩ đại đánh thắng 50 vạn quân Tần, Thục Vương quyết
định xây thành Cổ Loa.
Tục truyền rằng Thục An Dương Vương xây thành nhiều lần nhưng đều đổ.
Sau có thần Kim Quy hiện lên, ḅ quanh ḅ lại nhiều ṿng dưới chân
thành. Thục An Dương Vương bèn cho xây theo dấu chân Rùa vàng. Từ đó,
thành xây không đổ nữa. Sự thực truyền thuyết đó như thế nào?
Thời ấy, tổ tiên ta chưa có gạch nung. Bởi vậy thành Cổ Loa được xây
bằng đất ở chính địa phương. Thành có 9 ṿng. Chu vi ng̣ai 8km, ṿng
giữa 6,5km, ṿng trong 1.6km... Diện tích trung tâm lên tới 2km2 .
Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó,
thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng,
mặt trong xoải để đánh vào th́ khó, trong đánh ra th́ dễ. Lũy cao
trung b́nh từ 4-5m, có chỗ 8-12m. Chân lũy rộng 20-30m, mặt lũy rộng
6-12m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Xem vậy
công tŕnh Cổ Loa thật đồ sộ, trong khi khu vực Cổ Loa được coi là
một nền đất yếu. Chính v́ vậy, việc xây dựng thành Cổ Loa cực kỳ khố
khăn. Thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu. Nhưng điều đáng tự hào là
cuối cùng thành đứng vững. Thục An Dương Vương đă biết dựa vào những
kinh nghiệm thực tế để gia cố nền, móng khắc phục khó khăn. Vết chân
rùa thần chính là bí mật tổ tiên khám phá, xử lư. Ngày nay, khi xẻ
dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học thấy rơ chân thành được
chẹn một lớp tảng đá. Ḥn nhỏ có đường kính15cm, ḥn lớn 60cm. Cần
bao nhiêu đá để xử lư cho công tŕnh? Kỹ thuật xếp đá? Đây quả là
một kỳ công.
Thành Cổ Loa chẳng những là một công tŕnh đồ sộ, cổ nhất của dân
tộc mà c̣n là công tŕnh hoàn bị về mặt quân sự. Xung quanh Cổ Loa,
một mạng lưới thủy văn dầy đặc, Tạo thành một vùng khép kín, thuận
lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thuở ấy, sông
Thiếp – Ngũ Huyền Khê - Ḥang Giang thông với sông Cầu ở Thổ Hà, Quả
Cảm (Hà Bắc) thông với sông Hồng ở Vĩnh Thanh (Đông Anh). Bởi vậy,
ngay sau khi xây thành, Thục An Dương Vương đă chiêu tập những thợ
mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phướng đóng thuyền chiến. Với thuật đi
sông vượt bể vốn là sở trường của người Lạc Việt, chẳng mấy chốc,
các đầm phá quanh thành Cổ Loa biến thành quân cảng. Rồi nhân dân
được điều tới khai phá rừng đa ( Gia Lâm), rừng Mơ (Mai Lâm), rừng
dâu da (Du Lâm)v.v... thành ruộng. Những hiệp thợ chuyên rèn vũ khí
cũng xuất hiện. Bên côn, kiếm, dáo, mác đủ loại, bàn tay sáng tạo
của cha ông ta đă chế tạo ra mỏ liên châu, mỗi phát bắn hàng chục
mũi tên. Cũng tại Cổ Loa, kỹ thuật đúc đồng cổ đă được vua Thục
khuyến khích. Hàng chục vạn mũi tên đồng, những mũi tên lợi hại, có
độ chính xác cao, kỹ thuật tinh vi, dùng nỏ liên châu đă được bàn
tay thợ tài hoa sản xuất tại đây.
Với vị trí thuận lợi ấy, với cách bố trí thành có 9 lớp xoáy trôn
ốc, 18 ụ g̣ cao nhô hẳn ra chân lũy để có thể từ cao bắn xuống, với
vũ khí nỏ thần và những mũi tên đồng lợi hại, sức mạnh quân sựtổng
hợpcủa Cổ Loa thời ấy thật đáng sợ.
Thành Cổ Loa là sự đúc kết tuyệt vời về trí tuệ của cha ông, là công
tŕnh sáng tạo kỳ vĩ của dân tộc.
AN DƯƠNG VƯƠNG BÃI CHỨC TƯỚNG QUÂN CAO LỖ
Chuyện xưa kể rằng:
Một lần Thục An Dương Vương hỏi tướng quân Cao Lỗ, người thiết kế và
chỉ huy công tŕnh xây thành Cổ Loa:
Mấy năm nay nhà Triệu với Âu Lạc giao hảo thuận ḥa. Nay con trai họ
là Trọng Thủy muốn cầu hôn với Mỵ Châu, ông nghĩ thế nào? Riêng ta
muốn chấp thuận lời cầu hôn cốt để ḥa hiếu, tránh nạn binh đao?
Cao Lỗ suy nghĩ hồi lâu rồi tâu :
Việc này hệ trọng lắm, xin Vương thượng cho nghĩ ba ngày.
Về nhà, Cao Lỗ suy nghĩ băn khoăn lắm. ư vua An Dương Vương đă rơ,
nếu không chấp thuận, có thể bĩ băi chức. Nếu đồng t́nh th́ vận nước
có cơ nguy.
Mấy hôm sau, vào chầu vua, Cao Lỗ tâu :
Xưa nay chưa thấy kẻ bại trận lại xin cho con trai ở gửi rể. Chẳng
qua họ muốn biết cách bố pḥng của Loa Thành mà thôi. Việc ngàn lần
không nên.
Thục An Dương bỗng nỗi giận :
Nhà Triệu đánh măi Âu Lạc không thắng, muốn mượn chuyện cầu hôn để
xí xóa hiềm khích, ta lẽ nào không thuận? Ông già rồi, ta cho ông về
nghỉ.
Cao Lỗ không ngạc nhiên. Vốn điềm đạm, ông chỉ nói :
Việc đúng sai c̣n có vầng nguyệt soi sáng, thần không ân hận khi nói
điều phải.
V́ không nghe lời khuyên của Cao Lỗ, An Dương Vương đă mắc mưu giặc
khiến cho vận nước tan tành.
Lấy được nước Âu Lạc, nhà Triệu xác nhập vào quận Nam Hải với Âu Lạc
thành nước Nam Việt.
Vốn là người quỷ quyệt, là rút được nhiều kinh nghiệm trong việc
thống trị người Nam Việt, cho nên Triệu Đà đă áp dụng chính sách
hiểm độc gọi là "Dĩ di công di", tức là chính sách dùng người Việt
trị người Việt. Triệu Đà vẫn giữ nguyên quyền vị cho các lạc tướng,
dùng họ đễ cai trị nhân dân Âu Lạc. Triệu Đà chỉ đặt một số ít quan
lại và một số quân đồn thú để kiềm chế các lạc tướng và đốc thúc họ
nộp phú công, mục tiêu chủ yếu của cuộc xâm lược lúc đó.
o0o
|
|
|
|
|
|
|
|