Chương 1 -
NHỮNG VẠCH NHẠT NH̉A
Nhất định là tôi phải ghi
lại tức khắc biến cố kỳ diệu này khi đầu óc tôi c̣n nhớ rộ mồn
một, e rằng để lâu những chi tiết có thể phai nḥa. Tuy nhiên,
tột vẫn chưa hết ngỡ ngàng về sự trùng phùng kỳ lạ của bốn người
chúng tôi trong nhóm “Thế giới lạc loài”. Gặp nhau và cùng trải
qua kinh nghiệm lạ thường này: Giáo sư Challenger, giáo sư
Summerlee, đức ông Roxton và tôi.
Từ vài năm trước, tôi đă tường thuật cuộc du hành đánh dấu một
thời đại của chúng tôi sang Nam Mỹ, trong tờ Daily Gazette. Tôi
đâu có ngờ lại được dịp kể lại một kinh nghiệm cá nhân lạ lùng
và độc nhất trong lịch sử nhân loại, nổi bật lên như một đỉnh
cao giữa những đồi núi thấp lè tè xung quanh. Bản thân biến cố
đă là kỳ diệu, nhưng việc bốn người chúng tôi tụ họp với nhau
vào cái thời điểm bất thường ấy, vừa có vẻ tự nhiên vừa có vẻ
không thể khác được. Tôi sẽ cố thuật lại những hoàn cảnh khiến
chúng tôi họp mặt với nhau càng ngắn gọn, rơ ràng càng tốt, mặc
dù đại đa số quần chúng vẫn chưa thỏa măn, muốn biết dầy đủ chi
tiết hơn.
Thứ Sáu, ngày 27 tháng 8, ngày sẽ ghi nhớ măi trong lịch sử nhân
loại, tôi đến ṭa soạn tờ báo để xin ông McArdle ba ngày nghỉ
phép. Ông vẫn là Trưởng ban tin tức của chúng tôi. Ông già tốt
bụng, dân Scotch, lắc đầu, tay găi găi cái nấm mũ đỏ hoe, cuối
cùng ông mới phải nói cái chẳng đặng dừng ra.
- Ông Malone, lúc này tôi đang định giao cho ông một nhiệm vụ có
lợi nhất cho tờ báo. Có một đề tài chỉ có ông mới theo dơi và xử
lư đúng cách được.
- Rất tiếc ông ạ, - tôi cố che giấu thất vọng, - dĩ nhiên, nếu
có công tác th́ đành dẹp chuyện nghỉ phép lại. Nhưng cái hẹn của
tôi rất quan trọng và trong ṿng thân mật. Nếu tôi được miễn cái
công tác của ông...
- Này, ông không miễn được đâu.
Thật chua chát, nhưng tôi cố tỏ ra b́nh thản. Nói cho cùng là
lỗi tại tôi, v́ t́nh h́nh lúc này th́ không nhà báo nào c̣n có
thể nghĩ đến chương tŕnh cá nhân. Tức khắc, tôi cố tỏ ra vui
vẻ:
- Thôi được, tôi không nghĩ tới đi phép nữa, ông muốn tôi làm ǵ
nào?
- Có thế chứ! ông sẽ đi phỏng vấn một tay phù thủy ở
Rotherfield.
- Ông không nói tới giáo sư Challenger đấy chứ?
- Ồ chính tôi muốn nói tới ông đó đấy. Tuần qua ông ấy đă nắm cổ
áo và ống quần cậu Alee Simpson của tờ Courier, kéo cậu ta đi cả
nửa dặm đường, tuốt ra xa lộ. Chắc ông đă có đọc bài tường thuật
của cảnh sát. Phỏng vấn ông ta chẳng khác nào nói chuyện với cá
sấu ngoài đầm hoang. Nhưng tôi tin là ông làm được, ông vốn là
bạn cố cựu với ông ta mà.
Tôi nhẹ nhơm cả người.
- Sao? Vậy th́ dễ thôi. Chính v́ muốn gặp ông ấy mà tôi xin nghỉ
phép đấy. Sự thật là ông ấy đă mời chúng tôi họp mặt để kỷ niệm
chuyến thám sát thành công của chúng tôi ở cao nguyên Nam Mỹ ba
năm về trước.
- Tuyệt diệu! - ông McArdle cười gịn, xoa hai tay vào nhau, đôi
mắt reo vui sau cặp kính. - Vậy th́ ông chắc chắn sẽ moi được ư
kiến của giáo sư Challenger. Ư kiến của những người khác chỉ là
hoang tưởng mơ mộng, nhưng giáo sư đă đúng nhiều lần và hy vọng
lần này lại đúng.
- Hỏi ông ta về cái ǵ? Ư kiến của ông ấy đă đúng về chuyện ǵ?
- Ông chưa đọc lá thư của giáo sư trên tờ Times hôm nay à? Đề
tài “Những khả năng khoa học.”
- Chưa đọc.
McArdle cúi xuống lượm cho tôi tờ báo trên sàn.
- Làm ơn đọc lớn lên. - ông vừa đưa cho tôi vừa chỉ vào cột báo.
- Tôi muốn nghe lại lá thư v́ tôi chưa hiểu rơ giáo sư muốn nói
ǵ.
Đây là lá thư tôi đọc cho Trưởng ban biên lập tin tức của tờ
Gazette:
“Những khả năng khoa học
Thưa ông, tôi đă chăm chú đọc và không được thoải mái, bài báo
tự đắc và ngây ngô của ông James Wilson Macphail trên báo của
ông, về vấn đề những vạch nhạt nḥa Fraunhofer trong các quang
phổ của hành tinh và định tinh. Và ông Macphail đă cho rằng hiện
tượng này không nghĩa lư ǵ. Căn cứ vào nhiều thông tin chuyên
sâu hơn, hiện tượng này có khả năng là một biến cố quan trọng
sâu rộng đến độ ảnh hưởng đến sự an lạc của mọi người trên hành
tinh này... Tôi không hy vọng dùng các thuật ngữ khoa học để
diễn tả cho những người chỉ dựa trên những thông tin trong báo
chí, hiểu được ư tôi muốn thông báo. Nhưng tôi sẽ cố gắng dùng
một hoán dụ thông thường để so sánh với hiện tượng, hợp với tầm
hiểu biết của các tác giả không thực tế và độc giả của quí báo.”
Ông McArdle gục gặp đầu ra chiều tâm đắc:
- Được lắm! Ông ấy là một hiện tượng, một kỳ quan sống! Ông ấy
làm cho chim câu c̣n đang được mớm sữa mọc lông (1), ông ấy có
thể làm một cộng đồng Quakers đang hành lễ hỗn loạn (2). Hèn
chi, mọi người London muốn gặp ông ấy. Tội nghiệp ông ấy bị quấy
rầy chỉ v́ có bộ óc vĩ đại! Rồi, đọc cái hoán dụ của ông ấy đi.
Tôi đọc tiếp:
“Giả sử ta cột một chùm những miếng bấc lại với nhau, rồi thả
xuống một trong những ḍng nước lờ đờ trong Đại Tây Dương. Chùm
bấc trôi dật dờ trong ḍng nước, ngày này qua ngày khác trong
môi trường cả ḍng nước. Nếu những miếng bấc có ư thức, có tri
giác, chúng ta có thể h́nh dung ra được là chúng sẽ cho là các
điều kiện của môi trường xung quanh chúng vĩnh hằng và ổn định.
Nhưng chúng ta có tri thức, biết rằng sẽ có nhiều biến cố xảy ra
cho chùm bấc.
Chúng có thể đụng vào một mạn tàu, lưng một con cá voi ngủ, hoặc
mắc kẹt trong một đám rong biển. Dù chúng có gặp ǵ trong cuộc
hành tŕnh, cuối cùng chúng sẽ bị sóng hất tung lên vách đá của
bán đảo Labrador chẳng hạn. Nhưng những miếng bấc đâu có biết ǵ
về những điều này, mà chỉ biết dật dờ trôi theo ḍng và tưởng
rằng đại dương là vô hạn và đồng nhất, đâu cũng như đâu.
Độc giả của ông hiểu được Đại Tây Dương, trong hoán dụ này là
đại dương ether (3) của vũ trụ mà chúng ta đang trôi nổi bồng
bềnh, và chùm bấc chính là hệ mặt trời của chúng ta. Một thái
dương hệ gồm một ngôi sao cấp ba, loe ngoe vài hành tinh xoay
quanh vô nghĩa như một cái đuôi cụt. Chúng ta cũng đang trôi nổi
lềnh bềnh, trong những điều kiện hàng ngày, về nơi vô định. Rồi
ở một nơi nào đó bên lề vũ trụ, một tai họa đen tối sẽ úp chụp
xuống chúng ta, đẩy chúng ta vào một ḍng thác ether như thác
Niagara, hay đẩy chúng ta mắc kẹt vào một vùng Labrador nào đó
của vũ trụ. Thật không thể lạc quan một cánh nông cạn, thiếu
hiểu biết như kư giả James Wilson Macphatl. Có rất nhiều lư do
khiến ta phải nghiêm túc quan tâm đến sự thay đổi trong môi
trường vũ trụ, v́ nó liên quan tới mạng sống của tất cả chúng
ta.
Sự nhạt nḥa của những vằn song song Fraunhofer và sự xê xích
của các điểm vạch quang phổ, theo ư tôi, là sự thay đổi rộng
khắp trong toàn bộ vũ trụ, nhưng rất vi tế và độc đáo ánh sáng
từ một hành tinh là ánh sáng phản chiếu từ một mặt trời, ánh
sáng từ một định tinh do tự nó phát ra.
Nhưng trong biến cố này, quang phổ của ánh sáng hành tinh và
định tinh đều có độ nhạt và lệch giống nhau. Vậy phải chăng có
một sự thay đổi duy nhất xảy ra trên cả các định tinh lẫn hành
tinh? Điều này không thể có được. Có thể chỉ bầu khí quyển của
trái đất thay đổi? Tuy điều này có khả năng xảy ra, nhưng ta có
thể đoan chắc là không phải, v́ ta không quan sát thấy ǵ thay
đổi quanh ta, các phân tách hóa học cũng không phát hiện ra thay
đổi ấy. Vậy khả năng thứ ba là cái ǵ? Có thể do sự thay đổi
trong môi trường ether dẫn ánh sáng, vốn lấp đầy vũ trụ và bao
trùm mọi thiên thể.
Có thể thái dương hệ của chúng ta đang trôi trong một ḍng ether
lờ đờ, sắp đẩy chúng ta vào một môi trường ether có các đặc tính
chúng ta chưa đoán nhận được? Phải có một sự thay đổi ở đâu đó.
Phải có xáo trộn nào đó trong vũ trụ, các quang phổ của ta chứng
tỏ điều đó. Sự thay đổi có thể gây hậu quả tốt, cũng có thể ảnh
hưởng xấu hoặc trung lập. Ta chưa biết chắc được, các nhà quan
sát vũ trụ nông cạn cho rằng hiện tượng này chẳng có ǵ đáng xem
xét.
Nhưng đối với người làm khoa học như tôi, một trí thức chân
chính, phải nh́n những khả năng trong vũ trụ không thể tính hết
được theo quan điểm một triết nhân, sấn sàng đón nhận cái bất
ngờ. Thí dụ nhăn tiền là người dân trên đảo Sumatra và vùng lân
cận nhất loạt bị một chứng bệnh như nhau. Ai dám khẳng định bệnh
này chẳng có liên quan ǵ đến thay đổi trong vũ trụ? Chẳng qua
là người dân chất phác ở đây bị ảnh hưởng trước những người dân
Âu châu văn minh hơn, biết bảo vệ sức khỏe hơn thôi. Tôi không
bỏ ư định phải nghiên cứu hiện tượng, tôi cũng không đồng ư với
dư luận, cứ bỏ lơ nó đi cũng chẳng hại ǵ, và cũng không đồng ư
quan điểm cho rằng mọi thứ đă ở trong tầm tay nhà khoa học.
Trân trọng
George Edward Challenger.
The Briars, Rotherfield.”
- Thật là một bức thư súc tích và gợi ư. - ông McArdle nói với
vẻ suy tư, vừa cài điếu thuốc vào cái đót bằng thủy tinh. – Ư
ông ra sao, ông Malone?
Thú thật, tôi mù tịt về vấn đề này. Những vằn song song
Fraunhofer là ǵ tôi cũng chẳng biết. Ông McArdle th́ vừa nghiên
cứu những quang phổ này với nhóm khoa học gia nghiệp dư trong
ṭa báo. Ông lượm trên bàn giấy hai tờ quang phổ đồ, tôi thấy
chúng gồm những dải màu như cái đai mũ của các cầu thủ bóng
chày. Ông chỉ cho tôi thấy thông đường viền song song ôm lấy
những dải màu từ đỏ sang cam, vàng, lục xanh. chàm, tím.
- Những vằn đen song song này là vằn Fraunhofer. Những dải màu
này chính là ánh sáng. Chiếu bất cứ ánh sáng nào qua một lăng
kính ta cũng đều có phổ màu như thế này. Những dải màu chẳng có
ǵ đặc biệt, nhưng chính những vằn song song Fraunhofer mới có ư
nghĩa, chúng cho ta biết bản chất của nguồn sáng. Các vằn này
hôm nay nhạt nḥa, không sắc nét như tuần trước. Các nhà thiên
văn đang tranh luận sôi nổi về nguyên nhân của sự nḥa này. Đây
là tấm h́nh vằn đen Fraunhofer nhạt nḥa, sẽ cho đăng trong số
báo ngày mai. Phần lớn công chúng chẳng để ư ǵ đến chuyện này,
nhưng tôi nghĩ, với bức thư của giáo sư Challenger trong tờ
Times, quần chúng sẽ tỉnh thức.
- Và những quang phổ này liên quan tới bệnh ở Sumatra?
- Không, c̣n lâu mới xác định được liên hệ giữa xáo trộn trong
vũ trụ với bệnh của dân địa phương ấy, nhưng cái ông thần thông
này đă chứng tỏ ông ấy biết ḿnh nói ǵ trong quá khứ. Ở miền xa
xôi ấy dân chúng mắc một chứng bệnh kỳ lạ, là sự thực. Điện tín
từ Singapore cũng cho biết hải đăng ở Eo Sun đă tắt ngấm và hai
tàu thủy đă đâm vào bờ. Dẫu sao, ông phỏng vấn được Challenger
về vấn đề này th́ rất tốt. Nếu có được ư kiến chính thức của ông
ấy, chúng ta có thể đăng một bài vào thứ Hai.
Tôi đang chậm răi ra khỏi pḥng biên tập của tôi, chú tâm sắp
xếp, cân nhắc chuyến công tác của ḿnh th́ có ai gọi tôi ở tiền
pḥng dưới nhà. Đó lả cậu bé điện tín mang thư từ liên lạc từ
nhà tôi ở Strentham lên cho tôi.
Cái điện tín của chính người chúng tôi đang nói tới. Nội dung
như sau: “Malone. 17 Hill Street, Streatham - Mang dưỡng khí tới
Challenger.”
Mang oxy tới! Cái ông giáo sư có óc hài hước cao độ này, rất có
khả năng chơi những tṛ rắn mắt. Liệu đây có phải là một tṛ
khiến ông có dịp cười như nắc nẻ, mắt híp lại hoặc là ông há
miệng cười ha hả, bộ râu quất qua quất lại chẳng để ư ǵ đến
xung quanh? Tôi lật qua lật lại cái điện tín trong đầu mà chẳng
t́m ra ư nghĩa nghịch ngợm nào. Vậy chắc chắn nó là một lệnh
ngắn gọn, tuy rằng hơi bất thường. Lệnh của ông, tôi không thể
nào không tuân..
Chắc là ông đang làm một thí nghiệm hóa học nào đó cần tới oxy.
Thôi, tôi cũng chẳng cần đoán già đoán non làm ǵ. Cứ việc mang
oxy tới là xong. Tôi phải chuẩn bị mất gần một giờ mới lên được
xe hỏa ở ga Victoria. Tôi lấy vé đến một địa chỉ theo niên giám
điện thoại, Oxygen Tube Supply Co. ở phố Oxford.
Khi bước lên vỉa hè trước công ty, hai thanh niên đang khệ nệ
khiêng một chai oxy ra xe. Theo sau hai thanh niên, vừa la rầy
vừa điều khiển bằng một giọng the thé, ngạo nghễ, là một ông
già. Ông ấy quay lại phía tôi. Những nét khắc khổ, cḥm râu dê
quen thuộc không thể lầm lẫn được. Đó là ông bạn già khắc tinh
của tôi, giáo sư Summerlee.
Ông ấy hét lớn:
- Ông cũng nhận được cái điện tín ông ta om ṣm đ̣i oxy, phải
không?
Tôi đưa cái điện tín cho giáo sư coi.
- Lạ quá! Tôi cũng nhận được một cái. Thật là trái khoáy mà tôi
cũng phải làm. Ông bạn chúng ta luôn luôn vô lư. Ông ấy cần oxy
làm ǵ mà gấp đến thế. Không thể đợi được nguồn cung cấp thông
thường, lại làm mất thời giờ của những người bận rộn hơn ông ấy
nhiều. Tại sao ông ấy không đặt hàng trực tiếp nhỉ?
- Tôi đoán ông ấy cần tức th́.
- Cứ tạm cho là ông ấy cần gấp đi, nhưng nếu bạn cũng mang đến
một b́nh th́ hoang phí quá, b́nh của tôi là đủ rồi.
- Nhưng v́ lư do nào đó, ông ấy cũng muốn tôi mang chai oxy tới.
Tốt nhất là tôi cũng mang tới sẽ an toàn hơn.
Mặc kệ cho Summerlee cằn nhằn phản đối, tôi cứ mua một b́nh và
cho khuân lên xe để cạnh chai của ông ấy, cùng ra ga.
Tôi quay lại trả tiền taxi. Tài xế rất khó chịu v́ tính tiền quá
lạm. Tôi quay lại chỗ giáo sư, đang bực tức căi nhau với hai
người khiêng b́nh oxy, bộ râu dê trắng rung lên v́ tức giận. Tôi
c̣n nhớ một người khiêng chai oxy gọi giáo sư là “con vẹt già
mất màu,” khiến tài xế của ông ra khỏi xe định đập nhau với họ.
Chúng tôi phải cố gắng lắm mới can được một cuộc đánh lộn ngoài
đường.
Những chuyện vặt này, lúc đó chỉ như là ngẫu nhiên, chẳng liên
quan ǵ đến chuyện tôi đang thuật đây. Sau này nghĩ lại, tôi mới
thấy chúng có liên quan. Người tài xế của giáo sư có vẻ như mới
lái, hoặc mất tinh thần trong vụ vừa qua, v́ khi lái ra ga ông
suưt đụng xe khác hai lần. Tôi cũng nhớ đă cùng giáo sư nhận xét
là tiêu chuẩn tài xế London đă xuống cấp. Khi xe đến cạnh một
đám đông ở một khu buôn bán, tôi được chứng kiến cảnh người chạy
loạn xạ, người tài xế ẩu tả, và một người nhảy được lên lề, giơ
gậy hăm dọa trên đầu chúng tôi. Cũng may là tôi đẩy được ông ấy
đi và chúng tôi qua được công viên an toàn. Những sự việc nho
nhỏ này làm tâm trí tôi không yên, cử chỉ của người đồng hành
với tôi cũng nôn nóng, tỏ ra ông cũng mất kiên nhẫn. Chúng tôi
chỉ lấy lại được sự vui vẻ khi thấy đức ông John Roxton đang đợl
chúng tôi trên sân ga. Thân h́nh cao, gầy của ông mặc bộ len
vàng sậm nổi bật lên. Bộ mặt tinh anh, đôi mắt sáng quắc, dữ tợn
không thể quên được, cũng ánh lên những nét vui nhộn khi thấy
chúng tôi tới. Mái tóc hung đỏ của ông hơi điểm bạc, cặp chân
mày hằn sâu hơn v́ thời gian. Nhưng những nét khác của ông vẫn
là những nét của Lord Roxton, bạn của chúng tôi tự thuở nào. Ông
vừa tiến đến chỗ chúng tôi vừa chào.
- Chào ông giáo sư, chào anh bạn trẻ! - ông gầm lên thật sự khi
thấy người phu khuân vác đẩy cái xe chở b́nh oxy ở sau chúng
tôi. - Các ông cũng mang theo oxy à. Của tôi đă để trong toa,
không biết ông bạn già của chúng ta định làm ǵ với chúng đây?
- Ông đă đọc bức thư của ông ấy trên tờ Times chưa?
- Về chuyện ǵ vậy?
- Linh tinh, chẳng nghĩa lư ǵ! - Giáo sư Summelee nói xẵng.
Tôi nói:
- Nếu không lầm th́ chuyện liên quan đến các chai oxy này đây.
- Linh tinh, vô lư!- ông giáo sư hét lên một lần nữa và làm chi
cần lớn tiếng. Chúng tôi đă vào toa hạng nhất hút thuốc, và ông
giáo sư đă đến lèn cái píp đen ngắn, tôi chỉ e nó sẽ làm cháy
xém cái mũi cong dài hung hăng của ông thôi. Ông ấy nói oang
oang: - Ông bạn Challenger rất thông minh, có điên mới không
công nhận điều ấy. Cứ trông cái mũ của ông ấy th́ biết, có gần
hai kí lô óc ở trong ấy đấy, một bộ máy vĩ đại, chạy êm ru, sản
xuất ra những công tŕnh đẹp gọn. Cứ chỉ cho tôi biết nhà máy,
tôi sẽ nói cho các ông biết cỗ máy. Nhưng ông ta bẩm sinh chỉ là
một ông lang băm. Các ông đă từng nghe tôi nói thẳng vào mặt ông
ta như vậy - một ông lang băm cũng t́m đủ mánh lới nhảy lên sân
khấu cho nổi tiếng. V́ mọi chuyện đang tốt đẹp, êm ả th́ ông bạn
Challenger của chúng ta t́m được dịp buộc công chúng nói đến ông
ta. Các bạn không thể mường tượng ra được ông ta thật sự tin là
có chuyện vô lư như có xáo trộn trong môi trường ether, đe dọa
sinh tồn của nhân loại. Các ông có thể tin một chuyện đầu Ngô
đuôi Sở như vậy không?
Ông giáo sư ngồi như một con quạ già, lông trắng phau, ngồi cười
lớn đến rúng động thân ḿnh.
Một cơn giận lạnh tanh bủa chụp lấy tôi khi giáo sư Summerlee
nói về bạn ḿnh như vậy. Người bạn chung đă giúp chúng tôi có
được chút tiếng tăm và đă cho chúng tôi những giây phút tuyệt
vời không mấy ai đă được hưởng. Tôi đă mở miệng định lên tiếng
phản đối th́ đức ông John đă nhanh miệng hơn tôi. Ông nghiêm
khắc nói:
- Ông đă tranh luận với trưởng lăo Challenger một lần và đă
thua, trắng đen đă rơ trong mười giây. Ông ấy vượt xa tŕnh độ
của ông nhiều. Cách đối phó tốt nhất với ông ấy là lỉnh xa ông
ta ra, để ông ta yên, giáo sư Summerlee ạ.
Tôi cũng tiếp lời:
- Ngoài ra, ông ấy cũng là người bạn tốt với tất cả ba chúng ta.
Dù lỗi lầm của ông ấy có là ǵ đi nữa, th́ ông ấy cũng là người
chính trực như một cây trúc. Tôi cũng tin là ông ấy chưa hề nói
ǵ sau lưng bạn bè.
- Bạn nói hay lắm, ông bạn vong niên ạ. - Đức ông mỉm một nụ
cười hiền rồi vỗ vai giáo sư Summerlee - Thôi, ông giáo sư,
chúng ta không căi nhau vào lúc này nữa. Chúng ta đă cùng thấy
với nhau nhiều rồi mà. Nhưng xin ông đừng có thái độ như thế này
nữa, trước mặt người bạn già của chúng ta mà chúng ta yếu hơn về
mọi mặt.
Nhưng giáo sư Summerlee vẫn không có vẻ ǵ là khoan nhượng, ông
bập píp và nhả ra những cuộn khói giận dữ.
- Về phần ông, đức ông John Roxton ạ, ư kiến của ông về các vấn
đề khoa học, chỉ như một viên đạn súng săn nhờ văng ra nhiều
mảnh mà trúng con mồi thôi. Tôi có óc suy luận và suy luận theo
cách của tôi. Chỉ v́ tin tưởng, tôi đă bị lầm lẫn một lần, bởi
vậy, tôi không thể chấp nhận những ǵ ông ta nêu lên mà không
phê phán. Chúng ta có cần một giáo hoàng trong khoa học với
quyền năng bất khả ngộ, cứ phán ra rồi độc đoán bắt đại chúng
hiền lành tin theo. Cho ông hay, tôi có cái đầu, tôi phải dùng
nó, tôi không hợm hĩnh, theo đuôi người ta như một tên nô lệ.
Nếu thích th́ ông cứ tin vào ether và những vằn Flaunhofer trên
quang phổ, nhưng đừng có bắt một người cao niên hơn, khôn ngoan
hơn như tôi, chia sẻ quan điểm điên rồ đó với ông. Chẳng có bằng
chứng nào là ether đă ảnh hưởng đến mức độ ông ta nói. Nếu ether
có ảnh hưởng đến sức khỏe con người, th́ chính chúng ta đă phải
bị bệnh rồi.
Nói đến đây, ông giáo sư phá lên cười đắc thắng v́ lư luận của
ḿnh.
- Vâng, thưa ông, chúng ta đă không c̣n là những con người b́nh
thường, không c̣n b́nh an mà ngồi trên toa tàu này bàn chuyện
khoa học. Chúng ta phải đang bị nhiễm độc. Các dấu hiệu bị nhiễm
độc v́ xáo trộn ether vũ trụ đâu? Trả lời tôi đi! Không được t́m
cách lẫn trốn. Tôi buộc ông trả lời!
Tôi càng ngày càng giận và thái độ của giáo sư Summerlee càng
ngày càng khó chịu, hung hăng. Tôi nói:
- Tôi nghĩ rằng, nếu ông biết thêm được nhiều sự kiện thực sự
chắc ông sẽ bớt quả quyết về ư kiến của ḿnh.
Summelee lấy píp khỏi miệng và trừng trừng nh́n tôi lạnh tanh.
- Làm ơn cho biết ư của ông về những nhận xét chẳng đâu vào đâu
của ông ta?
- Trước khi rời ṭa soạn, Trưởng ban biên tập tin tức đă cho tôi
biết có điện tín xác nhận dân địa phương ở Sumatra đều bị nhất
loạt một chứng bệnh, và hải đăng ở eo Sun đang tắt ngấm.
- Đúng rồi, cái điên của con người đâu có giới hạn! - Giáo sư
Summelee la lên tức giận thật sự. - Nếu chấp nhận cái giă thuyết
rỗng tuếch của Challenger, th́ ông cũng phải thấy ether trong vũ
trụ phải là chất đồng nhất ở cả hai phía của trái đất chứ. Có
bao giờ ông tin là có thứ ether ở Anh khác với ether ở Sumatra?
Chắc ông cho rằng ether ở Kent tốt hơn ether ở Surrey về một vài
mặt nào đó. Những người dân thường ngoài giới khoa học rất cả
tin và dốt nát. Các ông có thể chấp nhận được ether ở Sumatra,
đúng lúc này, độc đến nỗi làm mọi người tê liệt, c̣n ở đây chúng
ta chẳng hề hấn ǵ? Cá nhân tôi, tôi c̣n cảm thấy thân thể khỏe
mạnh, tâm hồn quân b́nh hơn bao giờ hết.
- Có thể như vậy. Tôi không dám nhận là một nhà khoa học, nhưng
tôi có đọc và nghe ở đâu đó là khoa học ở thế hệ này, có thể bị
coi là sai lầm ở thế hệ kế tiếp. V́ chúng ta chưa biết nhiều về
ether, nên cứ dùng lương tri mà xét, có thể v́ các điều kiện ở
địa phương, ether đă gây ảnh hưởng ở vùng đó trước, ảnh hưởng
đến chúng ta sau.
- Với nếu và có thể th́ ông chẳng chứng minh được ǵ cả. Heo có
thể bay nhưng chúng có bao giờ bay được đâu. - Summerlee đùng
đùng nổi giận. - Nói chuyện với các ông không được nữa rồi.
Challenger đă nhồi nhét cho các ông những điều vô lư, c̣n cả hai
ông đều không có khả năng suy luận. Thà tôi tranh luận với mấy
cái ghế nệm này c̣n hơn.
Đức ông John nghiêm sắc mặt nói:
- Giáo sư Summerlee ạ, xem ra tác phong của ông chẳng cải tiến
được chút nào, từ lần gần nhất tôi hân hạnh gặp ông.
Summerlee cười chua chát trả lời:
- Các đức ngài như ông không quen nghe sự thật. Chắc ông sẽ bi
sức nặng nếu như có ai bảo với ông là, ngoài cái tước vị ra, ông
cũng chỉ là dốt nát, mù tịt.
Đức ông John nói hết sức nghiêm khắc và cứng:
- Hứa với ông, nếu ông c̣n trẻ, hẳn ông không dám nói với tôi
một cách hỗn hào như thế.
Giáo sư Summerlee hất cằm lên, cḥm râu dê lắc lư.
- Ngài nên nhớ là, cả đời tôi, dù già hay trẻ, tôi chẳng ngần
ngại ǵ khi nói thẳng ư ḿnh với những kẻ hợm ḿnh dốt nát mà
vênh váo. Vâng, thưa ngài, dốt nát mà vênh váo, dù ông có bao
nhiêu tước vị mà bọn gia nô của ông phong tặng và được lũ dốt
nát chấp nhận.
Mắt đức ông John tóe lửa một lúc rồi ông chế ngự được cơn giận,
ngồi dựa vào ghế, tay khoanh lại, miệng cười chua chát. Với tôi,
chuyện này thật khủng khiếp, không thể chấp nhận được. Rồi như
một đợt sóng, kư ức quá khứ tràn về: t́nh bạn thắm thiết, những
niềm hạnh phúc, những ngày cùng nhau du thám, những chịu đựng,
những cố gắng để chiến thắng. Thế mà chúng tôi đi đến nông nỗi
này - thóa mạ, lăng nhục lẫn nhau! Rồi đột nhiên tôi khóc, khóc
nức nở lớn tiếng. Khóc nghẹn ngào không thể kiềm chế và che dấu
được. Các bạn tôi nh́n tôi ngỡ ngàng, tôi phải lấy hai tay che
mặt lại.
- Không sao mà, - tôi cố nói - chỉ v́ hoàn cảnh của chúng ta
thảm thương quá.
Lord John nhận xét.
- Ông bạn trẻ, ông bịnh rồi. Đó mới là trục trặc của ông. Tôi đă
thấy bạn hơi lạ thường từ lúc mới gặp.
Giáo sư Summerlee lên tiếng, vừa lắc đầu:
- Chính là do tật uống rượu của ông đấy, cả ba năm nay ông vẫn
chưa cải sửa được. Tôi cũng thấy cử chỉ của ông lạ lùng ngay từ
lúc mới gặp. Ngài John, ngài không cần phải ái ngại cho ông ấy.
Những giọt nước mắt kia chỉ do rượu thôi. Ông ấy chắc đă uống
quá nhiều. Tiện thể đây, đức ông ạ, vừa rồi tôi có gọi ông là
hợm ḿnh, quả là có hơi quá. Nhưng từ ngữ ấy gợi nhớ chút tài
mọn của tôi, vặt vănh thôi nhưng thú vi lắm. Các ông đă biết tôi
là một nha khoa học rất nghiêm khắc. Các ông có tin là tôi đă
từng nổi tiếng trong các vườn ươm và trại giống, về bắt chước
tiếng và điệu bộ muông thú. Tôi sẽ giúp cho ông giải trí cho qua
thời giờ. Các ông có thích tôi bắt chước gà gáy không?
Đức ông John vẫn c̣n tức, nói ngay:
- Không, thưa ông, tṛ đó không làm vui tôi đâu.
- Tài bắt chước gà cục tác ngay sau khi đẻ trứng của tôi cũng
được coi là trên trung b́nh đấy. Tôi làm các ông xem thử nhé?
- Không, xin can ông.
Dù có bị quyết liệt từ chối, giáo sư Summelee cũng để píp xuống
và giúp vui chúng tôi - hoặc không giúp vui được hay - bằng một
loạt tiếng chim hót, thú vật kêu chẳng ra sao cả, đến nỗi nước
mắt của tôi đă thay thế bằng những tiếng cười ha hả rồi cười
ngặt nghẽo. V́ tôi ngồi đối diện ngay với giáo sư nh́n thấy -
hay đúng hơn nghe thấy - ông đang nghiêm trang thật sự đóng vai
gà gáy hay con chó con ăng ẳng khi bị nhằm vào đuôi. Khi đức ông
chuyền cho tôi tờ báo, tôi thấy ghi ở bên lề bằng bút ch́: “Tội
nghiệp! Ông ấy mát nặng rồi! “
Vâng, ông ấy có lập dị thật, nhưng những tṛ ông mới làm cũng có
vui và thông minh.
Trong khi Summerlee tiếp tục diễn tṛ, đức ông John nghiêng ḿnh
về trước kể cho tôi nghe chuyện một con trâu và một ông Hoàng Ấn
Độ, và tôi có cảm tưởng là không bao giờ cùng. May thay, khi
giáo sư Summerlee bắt đầu giọng hót lư như một con yến, đức ông
John đang kể đến những t́nh tiết đỉnh điểm của câu chuyện, th́
tàu vào ga Jarvis Brook.
Ở đây cũng có bến xe đi Rotherfield. Và ḱa giáo sư Challenger
đang đợi chúng tôi. Dáng vẻ của ông ấy thật kiêu hănh. Không có
con công hay gà trống tây nào có dáng vẻ kênh kiệu sánh được cái
vẻ thong dong tự tin, và nụ cười hiền lành, hạ cố đối với những
người quanh ông. Chỉ có vẻ mặt của ông hơi rạng rỡ hơn, v́ quan
điểm của ông đang thắng thế, là nét thay đổi duy nhất. Cái đầu
đă to, vầng trán lộng, với mái tóc ép sát vào da đầu như có vẻ
to ra hơn. Bộ râu đen mượt chảy dài xuống, có vẻ ấn tượng hơn,
trông như một ḍng suối. Đôi mắt xám, trong long lanh, dưới đôi
mi bướng bỉnh, ngạo đời cũng thay đổi đôi chút.
Ông ấy bắt tay tôi tạo cho tôi thích thú, kèm nụ cười khích lệ
như một thầy hiệu trưởng ban cho một cậu học tṛ. Ông bắt tay
những người khác, giúp họ xách hành lư, lăn b́nh oxy lên xe. Tài
xế vẫn là cái ông Austin nghiêm nghị, ít nói. Lần trước tôi tới,
th́ ông đóng vai quản gia. Chuyến hành tŕnh bằng xe con này qua
những đoạn đường bám trên sườn đồi ngoằn ngoèo, cảnh trí rất
đẹp. Tôi ngồi trên với tài xế. Ba vị kia ngồi băng sau, tranh
căi sôi nổi. Tôi nghe như họ cùng nói một lượt. Đức ông John
đang cố nói chuyện con trâu, đồng thời tôi nghe thấy cả tiếng
oang oang của Challenger, giọng khăng khăng của Summerlee, vẫn y
hệt như trước đây, khi họ tranh căi về một vấn đề khoa học.
Th́nh ĺnh, Austin nghiêng bộ mặt ngăm đen về phía tôi, mắt
không rời khỏi mặt đường:
- Tôi đă được thông báo cho nghỉ việc, ông ạ.
- Trời ơi, thật sao?
Mọi sự hôm nay đều có vẻ kỳ cục. Mọi người đều nói đến các
chuyện kỳ cục, bất ngờ. Giống như trong một cơn mơ.
Austin nói trong hồi tưởng:
- Đây là lần thứ bốn mươi bảy ông ấy cho tôi nghỉ việc.
- Khi nào ông đi? - Tôi hỏi để thăm ḍ t́nh h́nh nhà giáo sư
hoặc có được giải thích rơ hơn.
- Tôi sẽ không đi.
Austin nói giọng cương quyết. Thế rồi chuyện đối thoại của chúng
tôi như ngưng lại. Rồi th́nh ĺnh Austin lại tiếp tục.
- Nếu tôi phải di, ai sẽ săn sóc ông ấy? (hất hất đầu về phía
chủ).
- Th́ một người khác.
Tôi trả lời cho có.
- Không có ai khác đâu. Không ai có thể ở đây được một tuần. Nếu
tôi ra đi, nhà này sẽ đổ sụm như một đồng hồ đứt dây cót. Tôi
nói chuyện với ông, v́ là bạn giáo sư và cần phải biết. Nếu tôi
phải nghe lời giáo sư và nghỉ việc... tôi không nỡ. Ông và bà ấy
sẽ bất lực như hai đứa trẻ bị trùm trong một cái chăn. Tôi chăm
lo mọi thứ cho ông ấy, thế mà ông ấy lại báo cho tôi nghỉ việc.
Tôi hỏi:
- Tại sao ông lại nói là không ai ở đây lâu được?
- Người ta sẽ không hiểu ông ấy, không thông cảm được như tôi.
ông chủ rất thông minh, quá thông minh đến độ huyền hoặc. Tôi
nh́n thấu tận đáy ḷng ông ấy. Cứ coi chuyện sáng nay ông ấy làm
th́ rơ.
- Sáng nay ông ấy làm ǵ?
Austin nghiêng qua tôi.
- Ông ấy cắn chân cô quản gia. - ông th́ thầm nho nhỏ.
- Cắn cô ấy?
- Vâng, thưa ông. Cắn cô ta vào chân, chính mắt tôi trông thấy
cô ta chạy như gió, qua cái cổng cũ ra khỏi nhà.
- Đẹp mặt chưa?
- Vâng, ông có thể nói như vậy, nếu ông thấy được một chút cảnh
đó. Ông ấy không làm bạn với hàng xóm. Vài người ở đây cho rằng
chỉ khi nào ông ấy chán những con quái vật mà ông đă viết về
chúng, th́ ông ấy mới biến nơi đây thành một tổ ấm gia đinh. Mái
ấm thật sự cho ông thầy, v́ ông thầy không ḥa hợp được thật sự
vào một nhóm nào cả Nhưng tôi đă giúp việc cho ông ấy mười năm
rồi, và tôi thích ông ấy, ông ấy là một vĩ nhân. Tôi lấy làm
vinh dự được giúp việc cho ông ấy. Đôi khi ông ấy có làm những
tṛ độc ác. Giờ th́ xin ông hăy coi cái bảng kia ḱa, ông có thể
gọi đó là truyền thống hiếu khách được không? Ông cố mà đọc lấy.
Chiếc xe đang ở tốc độ chậm nhất, đang ́ ạch leo một con dốc cao
và ngoằn ngoèo. Ở một góc hàng rào cây xanh cắt tỉa bằng phẳng,
nhô lên một cái bảng cảnh báo.
Đúng như Austin đă nói, cái bảng rất dễ đọc v́ cái bảng vừa ít
chữ vừa bắt mắt.
CẢNH BÁO,
Không tiếp: khách thăm, báo chí, ăn mày.
G. E. Challenger
- Không, cái câu ấy không có nhân tính. - Austin vừa nói vừa
ngước mắt lên nh́n cái bảng đáng tội nghiệp. - Xin lỗi ông, hôm
nay tôi nói hơi nhiều, nhưng có nói ra được tôi mới nhẹ nhơm.
ông ấy có thể cho tôi nghỉ việc khi ông ấy buồn. Nhưng tôi không
ra khỏi nhà. Thật rơ ràng, ông ấy là chủ, tôi là người giúp việc
và tôi mong như vậy cho hết kiếp này.
Chúng tôi đă qua hai trụ cổng trắng và cái đường ṿng xe vào
cổng, hai bên viền những bụi hoa. Phía trong là ngôi nhà gạch,
nổi bật lên giữa những công tŕnh gỗ xung quanh.
Nhà có vẻ ấm cúng và sạch. Bà Challenger người nhỏ nhắn dong
dỏng cao, luôn tươi cười, đứng trước cửa đă mở lộng chào đón
chúng tôi.
Challenger ra khỏi xe, nói với bà ấy:
- Cưng à, hôm nay chúng ta có khách. Hơi bất thường phải không
nào? Có mất mát ǵ đâu giữa chúng ta và những người hàng xóm.
Nếu họ muốn bỏ thuốc chuột trong giỏ bánh.
Bà ấy la lên, vừa khóc vừa cười, nói:
- Anh nói ǵ mà khủng khiếp quá. Anh George hay gây lộn với hàng
xóm. Chúng tôi chẳng có bạn nào ở vùng này cả.
- Không tiếp bạn để dồn hết chú ư vào chăm sóc bà xă tôi, người
không ai sánh kịp.
Ông vừa nói vừa đưa cánh tay ngắn, mập quàng lấy eo vợ. Một con
khỉ đột và một con linh dương. Đó là h́nh ảnh của hai ông bà
Challenger.
- Thôi đi ông, khách đi đường đă mệt. Phải làm cơm trưa ngay. Cô
Sarah đă về chưa?
Bà chủ lắc đầu buồn bă và ông giáo cười lớn, tay vuốt lâu ra vẻ
kẻ cả. Ông gọi lớn:
- Austin, cất xe xong, làm ơn giúp bà ấy một tay dọn cơm. Rồi!
Mời các ông sang pḥng làm việc, tôi có một hai chuyện cần nói
với các ông gấp.
-----------
(1) Chim câu và chim hạc móm sữa cho con lắc mới nở, chưa có
lông.
(2) Quaker là giáo phái kính sợ Thiên Chúa, có những qui luật
sinh hoạt rất nghiêm ngặt.
(3) Trước đây các nhà khoa học cho rằng ether lấp đầy vũ trụ,
các thiên thể, các dạng vật chất, bồng bềnh trôi trong môi
trường ether đó. (ether đọc là ê-te)
Chương 2 -
CƠN TRIỀU CHẾT CHÓC
Khi chúng tôi băng qua
pḥng khách, chuông điện thoại reo, và chúng tôi là người nghe
bất đắc dĩ phần đối thoại của giáo sư Challenger. Tôi nói “chúng
tôi” v́ trong ṿng 300 mét chắc ai cũng nghe thấy cái giọng oang
oang như sư tử rống, đang vang dội trong nhà. Những câu trả lời
của giáo sư cứ vương vấn măi trong đầu tôi.
- Vâng, dĩ nhiên, chính tôi... Vâng, chắc chắn là giáo sư
Challenger, giáo sư nổi tiếng ấy chứ c̣n ai nữa. Vâng, dĩ nhiên
mọi chữ, nếu không th́ tôi đă chẳng viết... Tôi chẳng lấy ǵ làm
ngạc nhiên... có nhiều dấu hiệu của hiện tượng... một hay khoảng
đó nữa là cùng... không; tôi không thể... làm sao được?... Chẳng
vui ǵ, nhưng tôi cứ phải h́nh dung là nó sẽ gây tai hại cho
người quan trọng hơn ông nhiều. Than thở về nó có ích ǵ...
không, tôi không thể... ông phải nắm lấy cơ hội... Điều đó quá
đủ rồi, thưa ông. Vô lư! Tôi có nhiều việc quan trọng hơn là
nghe chuyện tầm phào thế này.
Ông dập máy rồi dẫn chúng tôi lên lầu, vào một pḥng rộng,
thoáng khí. Trên cái bàn gỗ gụ lớn, bảy, tám cái điện tín đang
đợi mở ra.
- Thật vậy à, - ông vừa nói vừa cầm chúng lên, - Tôi, nghĩ là sẽ
bớt được tiền gửi thư tín, nếu dừng một địa chỉ điện tín. Lấy
địa chỉ Noah, Rotherfield (l) là thích hợp nhất.
Như mỗi khi ông muốn làm một tṛ cười, ông t́ vào bàn, vừa cười
vừa nói, hai tay múa may nên không mở được điện tín. Ông hổn hển
nói “Noah! Noah!” mặt đỏ bừng lên. Tôi và Đức ông mỉm cười thông
cảm, c̣n giáo sư Summelee th́ khó đăm đăm, lắc đầu phản đối. Sau
cùng ông cũng mở được mấy cái điện tín ra. Cả ba chúng tôi đứng
ở cửa sổ phía cửa pḥng, thưởng thức phong cảnh tuyệt đẹp, đáng
thưởng thức.
Con đường đồi uốn lượn nhẹ nhàng, đă đưa chúng tôi lên một độ
cao đáng kể 210m, sau này chúng tôi mới khám phá ra. Căn nhà của
giáo sư Challenger ở ngay trên sườn đồi.
Cửa sổ phía Nam nhà nh́n qua cánh rừng nhỏ, tới những cánh đồng
cỏ xanh mởn, uốn lượn nhẹ nhàng South Downs, tạo thành một đường
chân trời nhấp nhô. ở một khe giữa những quả đồi, một làn khói
lam nhẹ, xác định vị trí thị xă Lewes. Ngay trước mặt chúng tôi
là những cánh đồng thạch thảo trùng điệp, và sân golf
Crowborough, với dải cỏ uốn lượn nhạt màu hơn, lác đác có vài
người đang chơi. Hơi xa hơn về Nam, qua một khoảng rừng thưa,
chúng tôi có thể thấy một đoạn đường xe lửa London - Brighton.
Ngay phía dưới chân chúng tôi, là cái vườn nhỏ, trong có cái xe
mới đưa chúng tôi từ ga về.
Một lời nói của Challenger mới thốt ra làm chúng tôi quay lại.
Ông đă đọc xong các điện tín và xếp chúng thành một chồng. Bộ
mặt rộng, gồ ghề, hay đúng hơn là phần mặt lộ ra khỏi bộ râu tóc
xồm xoàm rối nùi, vẫn c̣n đỏ ửng, có vẻ như ông đang bị kích
động dữ.
- Quư vị ơi, - ông nói với chúng tôi mà với giọng to như là nói
trong một hội nghị, - buổi gặp mặt hôm nay rất là lư thú, v́ tôi
có thể nói là vào một thời điểm đặc biệt. Trên đường đi đến đây
các ông có quan sát thấy dấu hiệu nào không?
- Điều duy nhất tôi quan sát được, - giáo sư Summelee nói với
một nụ cười chua chát, - là người bạn trẻ của chúng ta chẳng có
tiến bộ nào, trong cách cư xử, trong mấy năm qua. Rất buồn là
phải nhắc lại, là tôi đă phải than phiền về hạnh kiểm của ông ta
ở trên tàu. Và tôi sẽ thiếu thành thật nếu không nói luôn là nó
gây một ấn tượng kém vui trong đầu óc tôi.
Đức ông đỡ lời:
- Chúng ta tất cả đều có những phút bốc đồng, hung hăng, nhưng
anh bạn trẻ của chúng ta không có ư làm hại ai. Nói cho cùng,
ông ấy thuộc tuưp người quốc tế, v́ thế, nếu ông ấy có bỏ ra nửa
giờ đồng hồ để kể lại một trận túc cầu, th́ ông ấy cũng có quyền
làm hơn nhiều người khác trong chúng ta.
Tôi tức giận la lên phản đối:
- Nửa giờ nói chuyện đá banh! C̣n ông, dùng nửa giờ để nói
chuyện dài hơi về một con trâu th́ sao. Giáo sư Summelee sẽ làm
chứng cho tôi.
Giáo sư Summelee hạ một đ̣n:
- Tôi không phán đoán được tiếng hai ông, ông nào gây khó chịu
nhiều hơn. Nhưng tôi báo cho ông biết, Challenger, tôi chẳng
thích nghe chuyện đá banh, cũng chẳng thích nghe chuyện trâu ḅ
trong cả cuộc đời tôi.
Tôi cố căi:
- Cả ngày hôm nay, tôi không nói lời nào về bóng đá cả. Đức ông
John huưt một điệu sáo lanh lảnh, giáo sư Summelee th́ lắc đầu
buồn bă, rồi nói: “Cũng nói vào lúc sáng sớm mới gặp nữa, thật
đáng tiếc, v́ tôi ngồi đó buồn phiền quá nhưng yên lặng suy
nghĩ... “
Đức ông John la lên:
- Im lặng! Tại sao ông biểu diễn tạp kỹ, bắt chước muông thú...
giống như cái máy hát trệch rănh hơn là một nghệ sĩ.
Giáo sư Summelee ngồi thẳng lên để phản đối cho mạnh:
- Ông thích những tṛ cười không đúng lúc lắm, đức ông. Ông nói
chua như giấm.
- Thôi, dẹp hết chuyện này đi, thật là điên. - Đức ông John la
lên. - Mỗi chúng ta đều biết những việc người khác làm, nhưng
chẳng biết chính ḿnh làm ǵ. Hăy kể lại từ đầu. Chúng tôi vào
một toa hạng nhất được hút thuốc. Đúng như thế phải không? Sau
đó, chúng tôi căi nhau về bức thư của giáo sư Challenger trên tờ
Times.
- Ồ các ông căi nhau về bức thư thật à?
Ông chủ nhà hỏi oang oang, mắt híp lại.
- Giáo sư Summelee, ông nói rằng chẳng có chút sự thực nào trong
lư luận của chủ nhà.
- Khổ tôi quá! - Challenger ưỡn ngực lên và vuốt râu. - Chẳng có
chút sự thực nào! H́nh như tôi đă có nghe ai đó nói trước rồi.
Xin hỏi giáo sư nổi tiếng Summelee, đưa ra những luận cứ nào để
bác ư kiến thô thiển của kẻ hèn này về khả năng khoa học? Trước
khi giáo sư loại được ảnh hưởng tai hại của chất vô h́nh này,
xin giáo sư hạ cố cho biết quan điểm đối lập của giáo sư.
Ông cúi ḿnh, nhún vai, x̣e tay trong lúc nói cực kỳ kiểu cách,
mỉa mai.
Summelee phát biểu rất ngoan cố:
- Lư do tôi đưa ra rất giản dị. Tôi lư luận rằng nếu ether xung
quanh trái đất gây độc trên một vùng, và dân chúng ở đó có những
triệu chứng nhiễm độc, th́ ba chúng tôi không thể c̣n an lành
trong toa xe được.
Nghe lư luận như vậy, Challenger cười sang sảng thú vị. Ông cười
cho đến lúc các đồ vật trong pḥng lắc lư, rung lên lạch cạch.
Sau cùng ông nói:
- Đây không phải lần đầu, giáo sư sáng giá Summelee không nắm
được sự thực của vấn đề. Quư ông ơi, không ǵ tốt hơn để tŕnh
bày quan điểm của tôi, là tôi nói lại tỉ mỉ, việc tôi đă làm
sáng nay khi hiệu được các ông có thể tha thứ phần nào v́ đầu óc
ta bị lệch lạc chút đỉnh, chính tôi có lúc đầu óc cũng bị mất
thăng bằng, xáo trộn. Chúng tôi đă có mướn Sarah quản lư nhà này
vài năm. Họ của cô ấy là ǵ tôi không nhớ. Cô ấy là một phụ nữ
nghiêm khắc, kín đáo trang nhă nhưng bản tính lạnh lùng, chúng
tôi chưa hề thấy cô biểu lộ t́nh cảm. Sáng nay, tôi đang ngồi ăn
sáng một ḿnh. Bà xă tôi th́ có thói quen ngủ hết buổi sáng.
Th́nh ĺnh tôi nảy ra ư nghĩ t́m được mức độ lạnh lùng, an nhiên
tự tại của cô gái này sẽ rất thú vị và bổ ích. Tôi nghĩ ra được
cách kiểm nghiệm rất đơn giản nhưng rất hiệu quả: Tôi làm đổ một
b́nh hoa giữa bàn, bấm chuông rồi chui xuống gầm bàn. Cô vào
pḥng, thấy pḥng trống, tưởng tôi đă lên pḥng làm việc. Đúng
như tôi dự đoán, cô nhoài người trên bàn dựng b́nh hoa lên. Tôi
thấy cẳng cô mang một vớ dài và chiếc giây thun giăn hai bên.
Tôi tḥ đầu ra ngoạm một miếng vào bắp chân cô ấy. Cái thử
nghiệm thành công ngoài sức tưởng tượng v́ lúc đầu cô đứng chết
trân, nh́n xuống đầu tôi rồi thét lên một tiếng, gỡ chân ra rồi
lao ra ngoài pḥng. Tôi đuổi theo cô với ư định thanh minh, giải
thích vài điểm, nhưng cô đă bay ra đường xe, qua cổng. Tôi lấy
ống nḥm và thấy cô đang chạy marathon về hướng Đông Nam. Tôi kể
câu chuyện này cho các bạn v́ ư nghĩa của nó. Tôi cấy nó vào đầu
óc các bạn và đợi nó nảy mầm. Câu chuyện có minh họa được ư
chính không? Nó gợi cho các bạn những ư tưởng ǵ? Đức ông nghĩ
ǵ, John?
Đức ông John lắc đầu quầy quậy, rồi nói:
- Trong mấy ngày nay, nếu ta không cố tập trung kiểm soát ư chí
của ta, ta có thể làm những hành động rồ dại, tai hại.
- Chắc giáo sư có vài nhận xét, Summelee?
- Ông phải ngưng ngay mọi công việc ông đang nghiên cứu, và đi
nghỉ ở một công viên nước kiểu Đức ở đâu đó, để đầu óc ông nguội
đi.
- Rất sâu sắc thâm thúy! - Giáo sư Challenger nói lớn. - Nào,
mời ông bạn trẻ. Hy vọng nghe được ư kiến khôn ngoan của ông.
Những ông bạn già của chúng ta đă thất bại. rơ ràng rồi.
- Đúng là chuyện ông tiên đoán đă xảy ra. - Tôi thành thực trả
lời: - Nó đă xảy ra và chỉ có ông biết rơ; c̣n với chúng tôi,
mọi sự đều mới quá nên không hiểu được rơ tàng. Và tự dưng, tôi
tin tưởng tuyệt đối là chúng ta bị nhiễm độc không khí.
Và khi nói vậy, đầu óc tôi nhớ lại những cảm giác, những tâm
trạng tôi trải qua từ sáng đến giờ: phải nghe chuyện trâu của
đức ông, chuyện tôi khóc nức nở, chịu đựng những hành vi quái gở
của giáo sư Summelee, thấy những chuyện kỳ cục ở London, chuyện
căi nhau ở công viên, người tài xế lái xe ẩu tả, căi nhau ở công
ty cung cấp oxy, mọi sự việc đều khớp với nhau. Tôi quả quyết:
- Chắc chắn là v́ chất độc. Tất cả chúng ta đều bị ngộ độc.
Giáo sư Challenger xoa hai tay vào nhau, nói:
- Đúng thế, chúng ta đang ngộ độc. Trái đất của chúng ta đang
lao vào một vành đai ether độc, và đang lao sâu vào đó với vận
tốc vài triệu dặm một phút. Ông bạn trẻ của chúng ta đă diễn tả
nguyên nhân các xáo trộn thần kinh của chúng ta và các, sự việc
gây cho chúng ta ngỡ ngàng, bằng một từ ngữ ngắn gọn “chất
độc”.
Chúng tôi nh́n nhau ngỡ ngàng im lặng, xem ra chẳng c̣n lời b́nh
luận nào thích hợp cho t́nh cảnh này. Giáo sư Challenger tiếp:
- Thần kinh chúng ta có cơ chế tự vệ, chống xâm nhập, có thể
ngăn chặn và giới hạn những triệu chứng nhiễm độc trong tùy từng
người. Tôi không cho là độc chất gây hại trong các bạn, y như
mức nó gây hại trong tôi. Tôi cho rằng cơ chế hoạt động thần
kinh khác nhau trong mỗi người, hóa giải được một phần chất độc
khác nhau. Điều này, kinh nghiệm của anh bạn trẻ đây đă xác
nhận. Sau cơn điên điên của tôi đă làm cô quản gia hú vía tới
già, tôi ngồi im suy gẫm. Tôi nghiệm ra rằng từ trước tới giờ,
tôi chưa hề bị xung động thôi thúc cắn người làm trong nhà bao
giờ. Tôi nhận ra xung động kỳ này là bất thường. Tôi kiểm tra
nhịp tim: tăng mười nhịp so với b́nh thường, các loại phản ứng
của tôi đều tăng. Tôi cố gắng huy động và triệu dụng con người
thật của tôi c̣n lành mạnh, ở mức c̣n làm chủ được ở tầm mức
cao, con người thật của Geolge Edward Challenger, chưa bị những
biến động cấp phân tử ảnh hưởng. Tôi ngồi im, tĩnh tại, dùng
phương pháp nội quan, tách riêng những hành vi, những ư nghĩ
manh động do chất độc gây trên hệ thần kinh, trên tinh thần của
ta. Tôi thấy rằng tôi vẫn làm chủ được bản thân ḿnh, tôi vẫn có
thể kiềm chế được cái đầu óc lộn xộn của tôi. Đây là một ví dụ
xuất sắc về tinh thần thắng vật chất, tinh thần làm chủ vật
chất. Cuộc chiến thắng trên một dạng vật chất đặc biệt, vốn có
liên hệ khăng khít với tinh thần. Hầu như tôi có thể khẳng định
được rằng đầu óc ta có thể sai lầm và nhân cách của ta có thể
điều khiển được đầu óc. Bởi vậy khi bà xă tôi xuống dưới nhà,
tôi đă lẻn ra sau cửa, đánh động cho bà ấy biết bằng vài tiếng
la hoảng. Tôi đă trấn áp được những xung động năo và đón bà ấy
chững chạc, b́nh thường, tự chế. Tôi cũng bị thúc đẩy muốn kêu
lên vài tiếng quạc quạc như vịt, tôi cũng trấn áp được bằng cùng
cách đó.
Sau đó muộn hơn, lúc xuống yêu cầu Austin chuẩn bị xe. Austin
đang nghiêng ḿnh loay hoay sửa chữa, tôi đă x̣e tay và giơ lên
định đập Austin một cú bất th́nh ĺnh sau lưng, chắc chắn sẽ làm
ông ấy chuồn thẳng một mạch, như cô quản gia của tôi. Nhưng may
thay tôi đă tự chế được, điều khiển được tay ḿnh. Và ngược lại
với dự tính oái oăm quỷ quái tôi chạm nhẹ vai anh và yêu cầu
chuẩn bị xe để kịp giờ. Ngay lúc này đây, tôi đang bị thúc đẩy
nắm lấy bộ râu của giáo sư Summelee, và sẽ giật ngược đầu ông ấy
ra sau rồi lại gh́m về trước. Nhưng rồi, như các ông thấy, tôi
đă tự chế được. Để tôi phân tích và phê b́nh tâm trạng và hành
động của tội cho các ông nghe.
Đức ông John nói:
- Tôi sẽ t́m con trâu đó.
- C̣n tôi sẽ xem trận túc cầu.
Giáo sư Summelee, rất ngạc nhiên lại nói bằng một giọng ân hận:
- Tôi sẵn sàng công nhận, đầu óc tôi lúc này thích chỉ trích hơn
là xây dựng, không sẵn sàng tiếp thu những giả thiết mới, nhất
là cái giả thiết vừa bất thường vừa quái dị như lần này. Nhờ hồi
tưởng lại những chuyện sáng nay, xét lại thái độ, cử chỉ giả
hiệu của các bạn, tôi công nhận là có một chất độc kỳ lạ đang
gây độc cho chúng ta.
Giáo sư Challenger vui mừng vỗ vai đồng nghiệp:
- Chúng ta có tiến bộ! Thật sự tiến bộ.
Summelee càng khiêm nhường hơn, hỏi:
- Vậy, xin giáo sư làm ơn cho biết quan điểm hiện nay của giáo
sư về vấn đề này.
- Xin phép các ông, tôi xin tŕnh bày vài lới về chủ đề này. -
Giáo sư ngồi vào bàn, hai cái chân mập, lùn đung đưa trước mặt.
- Chúng ta đang chứng kiến một sứ mạng to lớn và khủng khiếp.
Theo ư tôi, đó là ngày tận thế.
Tận thế! Chúng tôi không ai bảo ai, cùng hướng mắt ra cái cửa sổ
khung ṿm, nh́n quang cảnh vùng đồi xinh đẹp dưới nắng hè, những
triền đồi phủ đầy thạch thảo, những nhà nghỉ mát hoành tráng,
những trang trại ấm cúng, những người t́m vui thú trên sân golf.
Ngày tận thế! Chúng ta đă từng nghe những từ này, nhưng chúng
không gây một ấn tượng trực tiếp, tức thời như bây giờ. Nó sẽ
không xảy ra vào một ngày tiên tri mơ hồ nữa, mà ngay bây giờ,
ngày hôm nay. Ư tưởng tận thế to lớn, hùng mạnh, choáng ngợp làm
ta bàng hoàng, quay cuồng.
Chúng tôi đều nghiêm trang, kính cẩn, yên lặng chờ Challengel
nói tiếp. Sự hiện diện và dáng vẻ khống chế của ông khiến lời
nói của ông trang trọng khác thường. Vào những giây phút này,
mọi thô thiển, vô lư trần tục của con người đều biến mất, ông
hiện ra dưới mắt chúng tôi là một đấng oai nghiêm, trên mức nhận
thức thông thường của con người. Rồi, ít nhất là ḿnh tôi, nhớ
lại từ lúc vào pḥng, giáo sư đă cười hai cơn sảng khoái, siêu
thoát. Nhưng tôi nghĩ, có đánh lừa tâm trí ḿnh cũng chỉ đến
được một giới hạn thôi, tôi yên trí là tai họa này không vĩ đại,
tối hậu, bức thiết như ta tưởng.
- Các ông cứ tưởng tượng một chùm nho, ngoài vỏ có vô số vi
khuẩn lên men có hại. Nhà làm vườn nhúng vào một môi trường sát
khuẩn để nho sạch, hay để cấy vào đó một chủng vi khuẩn có lợi
cho tiêu hóa hơn. Ông ta nhúng vào độc chất, các vi khuẩn chết
sạch. Nhà làm vườn định nhúng thái dương hệ của chúng ta, và
những vi-khuẩn-người đang ngoe nguẩy, lúc nhúc ngoài vỏ địa cầu,
chỉ trong nhấp nháy bi tiêu diệt.
Tất cả chúng tôi lại rơi vào im lặng. Rồi tiếng chuông điện
thoại lanh lảnh phá tan sự tĩnh mịch. Giáo sư Challenger nói với
vẻ mặt nghiêm túc:
- Lại một con vi-khuẩn-người ngọ ngoạy cầu cứu. Bây giờ họ mới
thấy kiếp sống của con người đâu có cần thiết trong vũ trụ. Ông
đi trả lời điện thoại một, hai phút ǵ đó. Chúng tôi chẳng ai
nói một tiếng khi giáo sư vắng mặt. T́nh cảnh của chúng tôi thật
không nói nên lời hay không c̣n ǵ nữa mà b́nh luận.
Khi trở lại giáo sư bắt đầu:
- Cán bộ y tế hạt Brighton, ở vùng càng cao, triệu chứng ngộ độc
phát triển càng nhanh. Chúng ta ở trên độ cao 210 mét nên có lợi
hơn, bị ngộ độc chậm hơn. Công chúng có vẻ như thấy tôi là người
đầu tiên nói về tai họa này. Dĩ nhiên, qua lá thư của tôi trên
tờ Times. Khi mới về nhà, tôi đă tiếp chuyện Thị Trưởng của Thị
trấn. Ông ấy cuống cuồng lo lắng cho mạng sống cá nhân ḿnh, mà
ông tưởng là quí giá lắm. Tôi phải giúp ông ta điều chỉnh lại
nhân sinh quan.
Giáo sư Summelee đang đứng ở cửa sổ, hai cánh tay dài, khẳng
khiu đang run lên v́ xúc động. Ông hăm hở nói:
- Challenger, chuyện này quá quan trọng, không thể chỉ ngồi lư
luận suông với nhau. Xin ông đừng phật ư khi tôi hỏi những câu
này. Có thể nào những thông tin ông nhận được có thể sai lầm
không? Có thể nào trong chuỗi lư luận của ông chưa thật sự mạch
lạc không? Mặt trời vẫn le lói chiếu sáng trên nền trời xanh,
vẫn những cánh đồng thạch thảo xanh rờn, vẫn có chim chóc, vẫn
có những người giải trí trong sân golf, vẫn có những nông dân
đang gặt lúa. Ông bảo họ và chúng ta đang ở trên bờ vực thẳm.
Cái ngày nắng ấm này sẽ là ngày tận diệt loài người, ngày họ
hằng bảo nhau chờ đợi từ lâu. Ông phán đoán điều ghê gớm này dựa
trên những cái ǵ? Dựa trên những dải, những vằn quang phổ, dựa
trên tin đồn đại của dân đia phương Sumatra? Dựa trên những suy
nghĩ, cử chỉ bất thường của mỗi chúng ta. Các dấu hiệu này chưa
thuyết phục là chúng ta bị ngộ độc, v́ chỉ một chút cố gắng
chúng ta đă tự khắc phục được. Ông không cần khách sáo nữa,
Challenger. Chúng ta cùng sắp sửa đối diện với cái chết. Xin ông
cứ nói thẳng, theo ông, t́nh trạng hiện tại của chúng ta, và
tương lai chúng ta.
Đó là những lời nói can đảm, găy gọn, trên một lập trường vững
chắc, tinh thần sáng suốt thực tế, bằng tất cả uy tín và chính
trực của một nhà động vật học kỳ cựu. Đức ông John đứng dậy lắc
tay ông biểu đồng t́nh.
- Nhất trí với con bọ nhảy. Và ông Challenger, xin ông cho biết
t́nh trạng của chúng ta đang ở đâu. Chúng ta không phải là những
người rối trí. Ông mời chúng tôi tới thăm ông cuối tuần và thấy
ông đă chuẩn bị lao thẳng vào ngày phán xét cuối cùng, xin ông
cho chúng tôi vài lời giải thích. Nỗi nguy hiểm là cái ǵ, ở
trong nhà này nguy hiểm ở mức độ nào, có cách nào để đối phó
không?
Đức ông John cao, khỏe, đứng ở cửa sổ tràn ngập ánh nắng, vịn
một tay đen xạm lên vai Summelee. Tôi ngả người sâu vào lưng
ghế, điếu thuốc tắt ngấm vẫn c̣n trên môi, tâm hồn tôi đang ở
trong trạng thái mơ màng và tôi ư thức rất rô. Có thể chúng tôi
đang ở một giai đoạn ngộ độc khác, xung động thôi thúc hành động
hung hăng đă qua, nhưng tôi có tâm trạng rất lo buồn. Tôi như
người quan sát bàng quan, như thể tai họa chẳng khiến cá nhân
tôi quan tâm. Nhưng có ba người khỏe mạnh khác trong pḥng, quan
sát và nhận xét về họ ở giờ phút hấp hối chắc sê rất thú vị.
Challenger nhíu đôi mày rậm, quết quết bộ râu rối trước khi trả
lời. Ta có thể thấy ông eố cân nhắc từng câu chữ thận trọng. Ông
hỏi:
- Các ông có tin tức ǵ trước khi rời London không?
- Tôi rời ṭa báo Gazette lúc 10 giờ. Có một điện tín của hăng
Reuter từ Singapore cho biết dân đảo Sumatra nhất loạt bị ngộ
độc và hải đăng ở đó không sáng lên được nữa.
Challenger tiếp:
- Từ lúc ấy, biến cố có vẻ phát triển rất nhanh. - Ông cầm xấp
điện tín lên: - Tôi liên lạc với cả chính quyền lẫn báo giới, v́
thế tôi nhận được thông tin từ mọi nơi. Mọi giới khẩn khoản mời
tôi có mặt ở London, nhưng tôi thấy dù có lên đó tôi cũng không
đạt được kết quả mong muốn. Theo những tường thuật, hậu quả ngộ
độc lúc đầu là tinh thần bị kích động. Ở Paris, dân chúng rối
loạn và có xảy ra bạo động. Phu mỏ ở vùng Welsh cũng vùng lên
nêu yêu sách. Chúng ta chỉ mới có những bằng chứng này đáng tin.
Ở giai đoạn kích động này, hiệu quả ngộ độc tùy theo mỗi sắc dân
và tùy mỗi cá nhân. Sau đó đến giai đoạn đầu óc tỉnh táo, tâm
thần thấy phấn chấn vui vẻ. Tôi có nhận thấy vài dấu hiệu của
giai đoạn này ở ông bạn trẻ của chúng ta đây, cuối cùng, đến
giai đoạn buồn thảm và rơi vào hôn mê, tiến sâu vào cơi vô thức
rồi chết. Căn cứ vào kiến thức về độc chất của tôi, chất độc
chúng ta gặp tác động lên hệ thần kinh thực vật của ta...
- Như là độc dược. - Summelee gợi ư.
- Tuyệt! - Challenger reo lên. - Có một cái tên sẽ tăng phần
chính xác khoa học. Chúng ta gọi nó là chất “Daturon”. Ông sẽ là
người có vinh dự đă đặt tên cho chất giết người toàn cầu, ông sẽ
được tôn vinh sau khi chết nhưng không kém phần độc đoán. Người
đặt tên cho chất sát khuẩn của Người Làm Vườn Vĩ Đại. Vậy th́,
chất daturon sẽ gây ra những triệu chứng theo ba giai đoạn như
tôi đă mô tả. Chất độc sê trùm Iên khắp thế giới và chắc chắn
chẳng c̣n mạng nào sống sót, v́ ether vốn là môi trường đầy ắp
vũ trụ. Đến giờ phút này. Ether gây những hậu quả rất khác nhau
ở những nơi chúng quét qua. Nhưng sự khác biệt này chỉ xảy ra
trong vài giờ. Giống như thủy triều liếm dần những dải cát ven
biển theo những h́nh dạng loang lổ, nham nhở, nhưng cuối cùng
th́ toàn bộ băi biển ch́m ngập trong nước. Có những qui luật về
khí động học, chi phối tác động và phân bố khí daturon. Nếu
chúng ta c̣n giờ nghiên cứu sâu hơn chắc thú vị lắm! Tôi chỉ mới
theo dơi được diễn biến lới đây.
Ông liếc qua vào tập điện tín.
- Dân tộc nào càng bán khai càng bị daturon tác động nhanh. Có
những báo cáo đáng tiếc từ Phi châu, từ Úc châu, cho biết nhiều
bộ tộc thổ dân đă bị tận diệt. Các dân tộc phương Bắc có khả
năng kháng độc mạnh hơn các dân tộc phương Nam. Cái điện này đến
từ Marseilles lúc 9 giờ sáng nay. Tôi đọc cho các ông nghe nhé.
“Suốt đêm, người ta la ó điên loạn ở vùng Provence, dân trồng
nho ở Nimes gây xáo trộn. Đảng xă hội dấy loạn ở Toulon. Một
chứng bệnh đột xuất tấn công toàn bộ dân chúng sáng nay gây kích
ngất và hôn mê. Trận Dịch Sấm Sét đă gây tử vong nhiều người
ngoài đường phố. Công việc làm ăn buôn bán bị đ́nh trệ toàn bộ,
toàn thể xă hội xáo trộn.”
Một giờ sau tôi nhận được điện tín này, cũng từ cùng một nguồn:
“Chúng tôi đang bị đe dọa tận diệt. Các giáo đường lớn, nhà thờ
đầy tràn người. Người chết nhiều hơn người sống. Thật là khủng
khiếp không thể tưởng được. Cái chết xem ra không đau đớn, nhưng
nhanh và không thể tránh khỏi.”
Cũng có một điện tín tương tự từ Paris, nhưng cơn dịch tiến
triển không nhanh bằng. Ấn Độ, Ba Tư coi như dân số đă bị xóa
sạch. Ở Áo, dân Slavonie coi như đă bị xóa sổ, nhưng dân Đức,
sắc dân Tentonie lại có vẻ như không hề hấn ǵ. Nói chung dân ở
đồng bằng và dân duyên hải mau cảm thấy hậu quả của chất độc hơn
dân ở sâu trong nội địa và dân vùng cao, chỉ căn cứ vào những
thông tin tôi có trong tay. Chỉ ở chênh lệch nhau một độ cao
ngắn, hậu quả của chất độc đă khác nhau rơ rệt. Thảng hoặc nếu
c̣n người nào sống sót, có lẽ, một lần nữa chúng ta lại thấy
người đó trên một đỉnh Ararat nào đó (2). Ngay như chúng ta chỉ
ở trên một ngọn đồi 210 mét trên mực nước biển, cũng coi như ta
đang may mắn ở trên một ḥn đảo giữa đại dương thảm họa. Nhưng
với tốc độ phân bố chất độc như thế này, th́ chỉ vài giờ nữa là
chúng ta bị tràn ngập.
Đức ông Roxton lau mồ hôi trán, rồi run run nói:
- Cái tôi không hiểu, là làm sao mà ông có thể c̣n ngồi đây mà
cười với chồng điện tín trong tay được? Tôi cũng đă nh́n thấy
nhiều cái chết như phần đông chúng ta thấy. Nhưng nhân loại bị
tận diệt th́... kinh khủng quá.
- Về chuyện tôi cười, các ông nhớ là, tôi cũng bị ether độc tính
kích thích như các ông, đâu có được miễn. Về cái chết toàn bộ
như nó đă gợi trong trí ông. Tôi có thể cho ông hay, là ông hơi
phóng đại nỗi sợ hăi. Nếu ông ra khơi một ḿnh trên một chiếc
thuyền không có mui, để đến một nơi vô đinh, chắc ông sẽ sợ chết
khiếp. Sự cô đơn, sự bấp bênh bất đinh cũng đủ làm ông tê liệt.
Nhưng nếu ông đi trên một chiếc tàu thủy tốt, với cả họ hàng,
bạn bè, dù có phải đến một nơi bất định, ông cũng vẫn cùng chia
sẻ, cùng nếm trải, ông vẫn giữ được mối cộng đồng cảm thông ấy
trong suốt cuộc hành tŕnh. Một cái chết đơn độc có thể dễ sợ,
nhưng chết nhất loạt, không đau đớn như tai họa này, theo ư tôi,
chẳng có ǵ đáng sợ. Thật vậy, tôi có thể cảm thông với người có
quan điểm là, nỗi sợ nằm ở chỗ tất cả những người đầy kiến thức,
nổi tiếng được tôn vinh đă chết hết, mà ḿnh th́ sống sót, lạc
loài.
Giáo sư, người đă vừa đồng ư với người anh em đồng giới của ông,
hỏi:
- Vậy giáo sư thấy chúng ta cần làm ǵ?
- Ăn trưa, v́ tiếng chuông báo bữa ăn đă vang lên. Chúng ta có
bà nấu bếp làm món omelettes ngon tuyệt, và cũng chỉ có món sườn
nướng của bà ấy có thể sánh với món này thôi. Tôi tin rằng
chẳng có xáo trộn vũ trụ nào có thể làm lụt tài nấu ăn của bà ấy
được. Nàng Scharzberger của năm 1896 phải được cứu thoát, nếu
chúng ta cùng nỗ lực, nhiệt t́nh, khỏi cái thảm họa tận diệt oan
uổng này. - Ông nhấc cái thân nặng nề khỏi ghế, nơi ông vừa ngồi
loan báo ngày tận diệt của hành tinh. - Nào, chúng ta c̣n càng
ít thời giờ chừng nào, chúng ta càng phải sống cho tỉnh táo, cho
đáng sống bấy nhiêu.
Thật vậy, chúng tôi đă có một bữa ăn ngon và vui, vẫn không quên
hoàn cảnh bi thảm: toàn bộ tính nghiêm trọng vẫn lù lù trong óc
chúng tôi, và điều chỉnh tư tưởng chúng tôi Nhưng chính cái tâm
của ḿnh chưa hề đối diện với cái chết, đă giúp tinh thần chúng
tôi cuối cùng đă tránh xa được nỗi ám ảnh chết chóc. Với mỗi
người trong bọn đàn ông chúng tôi, đều đă trải qua một thời đại
chiến, nên chuyện chết chóc vẫn thường lởn vởn trong đầu. Với bà
chủ nhà, bà ấy dựa vào sự hướng dẫn mạnh mẽ của chồng, và sẵn
sàng bằng ḷng đến bất cứ nơi nào số phận đưa đẩy. Hiện tại là
của chúng tôi, và chúng tôi đă sống được những giây phút trong
t́nh bạn thực sự và khinh khoái trong ḷng. Đầu óc chúng tôi,
như tôi đă nói, thật trong sáng nhẹ nhàng. Tuy nhiên, lâu lâu
tôi lại cảm thấy sợ như bị sét đánh. C̣n giáo sư Challenger, ông
ấy thật tuyệt. Tôi chưa bao giờ cảm thấy cái vĩ đại của con
người như vậy, ông thật sự có quyền lực của tri thức sâu rộng.
Giáo sư Summelee th́ vẫn tiếp tục hỏi ông bằng cái giọng châm
chọc bi quan. Tôi và đức ông John chỉ cười khi hai ông tranh
luận, bà chủ luôn bám cánh tay ông chồng, để kiềm chế nhà minh
triết đừng tranh luận gay gắt. Sống, chết, số phận là định mệnh
của nam nhi, là những vấn đề nặng kư đè ập lên tâm trí chúng
tôi, vào những giờ phút đáng nhớ cuối cùng này. Chúng hiện lên
to lớn quá, trùm lợp cả cái không khí hoan lạc thần tiên, chúng
chạy rần rần trong tứ chi tôi.
Tôi cảm thấy chết chóc đang dâng lên, như sóng triều phủ chụp
lấy chúng tôi. Tôi đă thấy đức ông th́nh ĺnh chụp tay dụi mắt,
giáo sư Summelee ngồi đựng lên trong ghế. Nhưng tâm hồn chúng
tôi vẫn tỏ vẻ vui vẻ, thảnh thơi. Ngay lúc đó Austin đặt thuốc
lá lên bàn và chuẩn bị rút lui.
- Austin! - chủ anh gọi
- Dạ, chi ạ?
- Cám ơn ông đă giúp việc chúng tôi rất tận tụy, trung thành.
Một nét cười kín đáo lóe trên nét mặt nhăn nheo của người gia
nhân.
- Tôi chỉ làm theo bổn phận, thưa ông.
- Tôi đang đợi ngày tận thế đây, Austin.
- Vâng, thưa ông. Tận thế lúc mấy giờ ạ?
- Tôi không nói chính xác được, Austin, trước tối nay.
- Vâng ạ, thưa ông.
Ông Austin chào rồi ra khỏi pḥng.
Giáo sư Challenger châm một điếu thuốc, kéo ghế đến cạnh bà ấy,
nắm tay bà:
- Em đă biết số phận của chúng ta đang ở đâu. Em không sợ phải
không nào? Anh cũng đă nói cho các bạn đây biết. “ Không đau
đớn, phải không anh?” Chỉ như nha sĩ chích khí gây cười (thuốc
tê) cho em thôi. Đợi khi em cảm thấy đau th́ em đă thực sự chết
rồi.
- Như vậy th́ chắc ta có cảm giác thú vị lắm.
- Vâng, khi chết có thể như vậy. Cái cơ thể cằn cỗi của chúng ta
không thể ghi và lưu lại ấn tượng của cái chết, nhưng ta biết có
khoái lạc tinh thần trong nhưng cơn mơ hay hôn mê. Thiên nhiên
có thể tạo một cái cửa lộng lẫy, màn che, trướng rủ để đón linh
hồn chúng ta sang một kiếp sống mới. Trong tất cả những nghiên
cứu, thăm ḍ hiện thực, anh đều thấy trong cốt lơi mọi sự việc
đều có chân và thiện. Ngay cả trong cái chết, dù có dễ sợ đến
đâu, cũng có sự êm diu. Chắc chắn như vậy để người chết đi được
quăng đường quá độ từ kiếp này sang kiếp khác. Không đâu
Summelee, tôi không thể chấp nhận một chút ǵ về cái thuyết duy
vật của anh. bởi v́, ít nhất bản thân tôi quá vĩ đại, không thể
chỉ chấm dứt trong cái cơ thể vật lư này, cấu tạo bằng vài bịch
các loại muối và khoảng ba xô nước. Mà, mà...
Ông gơ nhẹ cái bàn tay lông lá lên đầu.
- Mà c̣n cái ǵ sử dụng được vật chất, một cái ǵ thủ tiêu được
cái chết, nhưng cái chết không tiêu hủy được nó.
Đức ông John lên tiếng:
- Nói về cái chết, tuy gần như là người theo đạo Thiên Chúa, tôi
thấy trong cái chết c̣n có một lực siêu nhiên. Tổ tiên ta đă
được an táng với ŕu, cung tên hay các vật tùy táng tương tự,
tôi vẫn cảm thấy sự hiện hữu của họ, họ vẫn sống theo kiểu xưa
xung quanh ta. Tôi không biết v́ sao, - ông nói thêm và nh́n lên
bàn với vẻ thẹn thùng. - Tôi không đủ b́nh tĩnh để sang bên kia
thế giới bằng khẩu 450 Express, loại ngắn báng cao su ấy, với
một hay hai băng đạn. Đó chỉ là một hoang tưởng điên khùng,
nhưng thực sự tôi nghĩ vậy. Ông nghĩ sao về cái chết, ông giáo
sư? Được ông hỏi tôi mới nói, chết kiểu đó giống như lùi lại
thời đồ đá hay sớm hơn nữa, lúc người ta chưa thể tự vệ được.
Đang sống ở thế kỷ 20, tôi muốn chết như một người văn minh.
Không biết tôi có sợ chết hơn các ông không, tôi già rồi. Ǵ th́
ǵ, tôi cũng chẳng c̣n sống được bao lâu nữa. Nhưng tôi không
thể cứ ngồi yên chờ chết, dù tôi có là con cừu sắp lên bàn mổ,
tôi cũng phải vẫy vùng, đá, húc tên đồ tể. Thật sự chúng ta
chẳng c̣n làm ǵ được sao, Challenger?
- Để tránh khỏi thảm họa th́ chẳng c̣n cách nào cả. - Giáo sư
Challenger nói lạnh lùng đến sợ toát mồ hôi. - Chỉ có thể kéo
dài đời sống thêm được vài giờ để xem thảm kịch vĩ đại này diễn
biến ra sao thôi, trước khi chính chúng ta bi nhấn ch́m trong
thảm họa đó. Điều này th́ tôi làm được và tôi đă có chuẩn bị vài
bước...
- Oxy?
- Đúng, oxy.
- Nhưng oxy th́ gây được hậu quả ǵ với ether độc? Một cục gạch
và một chất khí c̣n có lư tính và hóa tính khác nhau ít hơn là
ether và oxy. Chúng là hai dạng vật chất khác nhau, chúng không
tác dụng lên nhau. Thôi đi, Challenger, ông không thể biện minh
được một kế hoạch như vậy.
- Ui da, ông giáo sư Summelee tài ba ơi, độc chất ether này chắc
chắn bị các tác nhân vật chất khác ảnh hưởng. Tôi suy ra điều
này qua phân tích cách thức và phân bổ thảm họa khi bộc phát.
Chúng ta chưa tiên nghiệm được khí này, nhưng không c̣n nghi ngờ
ǵ nữa, nó là một thực thể. Từ đó tôi tin chắc là một khí như
oxy, chất tăng cường sinh lực và sức đề kháng của cơ thể, có thể
làm tŕ hoăn tác động của chất daturon mà ông đă có hận hạnh đặt
tên. Có thể hành động chuẩn bị của tôi sai, nhưng tôi quả quyết
là lư luận của tôi rất đúng đắn.
Đức ông John buột miệng nói ra sự thiếu tin tưởng:
- Dù có vậy chăng nữa, nếu cứ phải ngậm những cái ṿi oxy để thở
như con nít bú b́nh, tôi cũng chê.
Challenger trấn an ông:
- Không cần phải như vậy. Chúng tôi đă sắp đặt cả rồi. Ông phải
cám ơn bà xă tôi v́ cái pḥng khách của bà ấy rất kín hơi và
thực dụng, có nệm và giấy dán tường kín hơi như “gioăng” cao su.
- Trời đất quỷ thần ơi! Ông Challenger, ông định ngăn hơi ether
vũ trụ bằng giấy dán tường đấy à?
- Đúng thế, ông bạn tài năng ạ. Ông suy nghĩ kỳ quặc quá nên đă
lạc đề. Khi tai họa ập tới, chúng ta không ngăn cản khí ether
tràn vào mà để giữ oxy đừng thoát ra. Tôi tin tưởng mạnh mẽ
rằng, nếu ta cố duy tŕ được môi trường giàu oxy, ta có thể vẫn
c̣n tỉnh táo. Tôi có hai b́nh và các ông đă đem thêm tới ba
b́nh. Không nhiều, nhưng cũng đáng kể đấy chứ.
- Ta sử dụng được trong bao lâu?
- Tôi không thể đoán trước được. Chỉ khi nào chúng ta hết chịu
đựng nổi ether độc, ta mới mở oxy và cũng sẽ chỉ cung cấp thêm
cho những ai cần khẩn cấp. Như thế chúng ta c̣n có thể sống thêm
vài giờ hoặc vài ngày, để chứng kiến cảnh thế giới bị hủy diệt.
Mạng sống của chúng ta được duy tŕ đến lúc đó, chúng ta sẽ trải
nghiệm những giây phút độc đáo nhất. Năm chúng ta sẽ là đội quân
hậu bị của loài người bước vào cơi vĩnh hằng. Rồi, các ông giúp
tôi một tay sắp xếp các b́nh oxy. Bầu không khí đă có vẻ ngột
ngạt lắm rồi.
----------------
(1) Noah: tên con thuyền trong kinh thành cựu ước trong cơn đại
hồng thủy.
(2) Theo các nhà khảo cổ, con tàu của ông Noe trong Old
Tedtament (Cựu Ước) tấp vào đỉnh núi Ararat, giữa Thổ Nhĩ Kỳ và
Armenia.
Chương 3 -
KHÍ ĐỘC TRÀN NGẬP
Cái pḥng được chọn để
chúng tôi thể nghiệm một hoàn cảnh khó quên, là cái pḥng khách
phụ nữ rộng 4m2 x 5m. Phía cuối pḥng là một màn nhung đỏ, ngăn
cách với pḥng phục sức của giáo sư. Pḥng này lại ăn thông với
một pḥng ngủ rộng. Bức màn nhung vẫn buông, nhưng pḥng khách
và pḥng trang sức có thể ứng chế thành một. pḥng kín hơi. Một
cửa ra vào và một cửa sổ đă được dán giấy keo, kín như gắn xi.
Trên một cánh cửa khác mở ra chân cầu thang, có gắn một cánh cửa
thông gió, điều khiển bằng một sợi dây kéo, sẽ được kéo lên khi
tối cần thông khí. Mỗi góc cửa có một chậu cây cảnh lớn.
Sau khi đă xếp những b́nh oxy dựa vào tường, cạnh nhau,
Challenger lên tiếng:
- Vấn đề sinh tử và vi tế của chúng ta, là loại bớt được khí
carbonic chúng ta thở ra, mà chỉ phí mất ít oxy nhất. Tôi đă suy
nghĩ nát óc mới sắp xếp được như thế này. Dĩ nhiên, nếu các ông
có ư kiến ǵ hay, ta phải cố thực hiện. Hai chậu kiểng giúp ta
giải quyết một phần carbonic. Hai chai oxy sẵn sàng mở ra tức
khắc, nên ta không bị ngộp bất th́nh ĺnh. Các ông cũng không
được đi xa pḥng này, v́ khí độc sẽ ập đến th́nh ĺnh và khẩn
trương.
Có một cửa sổ rộng và thấp mở ra ban-công. Cảnh vật bên ngoài
vẫn như chúng tôi đă thấy từ pḥng làm việc trên lầu. Chẳng thấy
dấu hiệu xáo trộn nào. Tôi thấy rơ con đường ngoằn ngoèo trườn
xuống sườn đồi. Từ phía nhà ga, một chiếc xe ngựa c̣n sót lại từ
thời tiền sử, thứ chỉ c̣n t́m thấy ở một vài làng quê, đang ́
ạch ḅ lên đồi. Dưới sườn đồi chút nữa, một cô giữa trẻ đang đẩy
một xe nôi, tay kia c̣n dắt theo một em bé. Những làn khói xanh
uốn lượn bốc lên từ các nông trại, làm cho cảnh quan của một
vùng rộng lớn có vẻ thanh b́nh ấm cúng.
Trên trời xanh cũng như trên mặt đất, chưa có dấu hiệu báo tai
ương bùng nổ. Những người gặt lúa vẫn c̣n làm việc trên cánh
đồng, những người chơi golf, vẫn từng tốp hai hay bốn, đi thành
hàng trên sân cỏ. Đầu óc tôi quay cuồng, thần kinh căng thẳng,
hỏi sao không ngạc nhiên trước sự b́nh thản của họ. Tôi chỉ tay
vào họ, nói:
- Họ có vẻ không cảm thấy ảnh hưởng của khí độc.
Đức ông John hỏi:
- Ông có chơi golf không?
- Không ạ.
- Nếu ông chơi ông sẽ thấy, sau khi đi hết một ṿng cầu qua các
lỗ đắc ư, th́ chỉ có cái chết tức khắc mới làm các tay chơi
ngưng được. Chà, lại có tiếng chuông điện thoại.
Suốt thời gian sau bữa ăn, cái tiếng chuông điện thoại reo, thúc
giục lâu lâu lại vang lên triệu ông tới. Sau đó, ông lại thông
báo những tin tức nhận được bằng vài câu ngắn gọn. Những mẩu tin
khủng khiếp này, chưa hề được ghi lần nào trong lịch sử nhân
loại. Cái bóng đen to lớn, hăi hùng của thần chết bủa chụp xuống
từ phương Nam, như những đợt triều dâng. Ai Cập đă trải qua gia
đoạn kích động, đang dấn sâu vào giai đoạn hôn mê; Tây Ban Nha
và Bồ Đào Nha đă trải qua cơn cuồng loạn, mà giới tăng lữ và
chính quyền hoàng gia phải kiệt sức đối phó để duy tŕ trật tự.
Nay th́ mọi sự đă ch́m vào im lặng. Cũng chẳng nhận được điện
tín nào từ Nam Mỹ nữa. Ở Bắc Mỹ, các tiểu bang miền Nam nước Mỹ,
sau những vụ bạo động hung hăn về sắc tộc, đă bị tê liệt v́ khí
độc. Ở tiểu bang Maryland và Canada triệu chứng ngộ độc chưa
biểu hiện rơ. Bỉ, Ḥa Lan Đan Mạch đă lần lượt ngộ độc. Những
điện tín cầu cứu hoảng loạn được tung ra khắp bốn phương trời,
đến các trung tâm học thuật, các nhà hóa học, các bác sĩ nổi
tiếng thế giới để mong được chỉ giáo. Các nhà thiên văn cũng
vậy, pḥng tràn ngập điện hỏi ư kiến. C̣n làm ǵ được. Tai họa
xảy ra toàn diện, toàn cầu ngoài tầm hiểu biết và kiểm soát của
con người. Cái chết cho tất cả mọi người; không đau đớn nhưng
không có cách nào tránh khỏi. Già cũng chết mà trẻ cũng chết,
yếu hay mạnh cũng chết, cái chết cho cả người giàu lẫn nghèo,
chẳng ai có hy vọng hay khả năng trốn thoát được. Đó là những
tin tức manh mún, hết hoảng, qua những bức điện và điện thoại
chúng tôi nhận được. Theo chỗ chúng tôi biết, các thành phố lớn
c̣n lại trên thế giới, đă biết số phận của ḿnh và chuẩn bị đón
tai họa này một cách can đảm và nhẫn nhục.
Thế mà vẫn c̣n những người chơi golf, c̣n những nông dân gặt
lúa, họ như những con cừu non vẫn tung tăng nhảy nhót khi lưỡi
dao của đồ tể đă treo trên đầu. Thật đáng ngạc nhiên. Nhưng suy
cho cùng, làm sao mà họ biết được về tai họa này. Tai họa đang
lao vào chúng ta trên đôi hia bảy dặm.
Các tờ báo buổi sáng đă thông báo cho họ được những tin tức ǵ?
Đến bây giờ là ba giờ chiều, chúng tôi mới thấy tin đồn về tai
họa có vẻ mới lan truyền tới họ. Chúng tôi thấy những người thợ
gặt hối hả ra khỏi cánh đồng, vài người chơi golf vội vă ra khỏi
sân chơi trở về đại sảnh Câu lạc bộ.
Họ chạy như tránh một cơn mưa rào, kéo theo túi dụng cụ đánh
golf lắc lư ở phía sau. Vài người vẫn tiếp tục chơi nốt ṿng
golf c̣n dang dở. Cô giữ trẻ có vẻ đang cuống cuồng đẩy chiếc xe
nôi lên đồi. Một chiếc xe ngựa không biết đến từ lúc nào đang
đậu bên đường, con ngựa mệt đang gục đầu xuống tận đầu gối để
nghỉ. Phía trên cao là một bầu trời bao la, trong xanh tuyệt
đẹp, lác đác vài cụm mây trắng bồng bềnh, trên cánh đồng cỏ xanh
mởn xa xa. Nếu toàn thể nhân loại có bị tận diệt hôm nay, th́
cũng như được chết trên giường êm ả, xứng đáng. Cái cảnh thanh
b́nh đáng yêu của đồng quê, càng làm cho cái cảnh tận diệt toàn
bộ nhân loại dễ sợ, càng thảm thương, khủng khiếp hơn. Nơi này
chính là nơi lư tưởng để được chết nhanh chóng, không thương
tiếc và biến khỏi mật đất.
Chuông điện thoại lại rung lên lần nữa, lại được nghe giọng nói
oang oang của Challenger lần nữa. Ông gọi lớn:
- Malone, có điện thoại của ông.
Tôi lao tới điện thoại. McArdle gọi tôi từ London.
- Ông Malone đó phải không? Ở London đang xảy ra chuyện khủng
khiếp đó. Hỏi ông Challenger xem ông ấy có đề nghị làm ǵ để cứu
văn không?
- Ông ấy không đề ra được biện pháp ǵ đâu. Quan điểm của ông ấy
đây là một thảm họa toàn cầu, không thể tránh được Chúng tôi có
dự trữ được một ít oxy ở đây nhưng chỉ có thể tŕ hoăn được số
phận trong vài giờ thôi.
- Oxy! - cái giọng đau khổ vang lên. - Không c̣n giờ để đặt mua.
Từ lúc anh đi sáng nay. ṭa soạn cứ rối tinh cả lên. Đến lúc
này, nửa nhân viên ṭa soạn đă bất tỉnh. Tôi cũng đang cảm thấy
nặng nề muốn xỉu. Qua cửa sổ tôi có thể nh́n thấy người chết nằm
la liệt trên phố Fleet. Xe cộ ngừng lưu thông. Suy luận từ những
điện tín nhận được, th́ cả thế giới...
Giọng ông tự nhiên ch́m xuống rồi ngưng bặt. Vài phút sau, trong
ống nghe vang lên một tiếng “bụp” như thể đầu ông đă gục xuống
bàn. Tôi hốt hoảng la lên.
- Ông Ardle! Ông Ardie!
Không có tiếng trả lời. Đặt ống nghe xuống, tôi biết thế là hết,
chẳng bao giờ tôi c̣n nghe thấy giọng ông ấy nữa.
Ngay lúc đó, tôi vừa quay lại, đi được vài bước, tai họa ập
xuống chỗ chúng tôi. Chúng tôi chơi vơi như đứng trong nước ngập
đến vai, rồi bị ngay một làn sóng phủ chụp qua đầu Như thể một
bàn tay vô h́nh xiết cổ tôi, từ từ, nhẹ nhàng vắt ép sinh lực ra
khỏi người tôi. Tôi ư thức được một sức ép to rộng mênh mông đè
lên ngực, cảm giác bi ép chặt, khít dần trong đầu, tai nghe
những giọng hát oang oang, ánh sáng chớp ḷe trước mắt. Tôi cố
lết đến tay vin cầu thang.
Ngay lúc đó, Challenger xẹt qua tôi, thở ph́ pḥ như con trâu bị
thương. H́nh tượng ông thật khủng khiếp: mặt đỏ tía, hai mắt lồi
ra, râu tóc dựng ngược. Bà vợ nhỏ bé của ông đă bất tỉnh, vô cảm
về mọi phương diện, nằm vắt vẻo qua đôi vai rộng của ông. Ông ṃ
mẫm, loạng quạng vác bà ấy lên lầu, chỉ nhờ vào sức mạnh của ư
chí, qua bầu không khí địa ngục chúng tôi đang chịu, để cố vào
được thiên đường tạm thời chúng tôi đă xây dựng. Thấy gương nỗ
lực của ông ấy tôi cũng lao theo lên bậc thang, leo lên, trượt,
té nhưng tôi vẫn cố bám chắc tay vịn, cho đến khi tôi ngă sấp
mặt xuống ở chỗ rộng đỉnh cầu thang, nửa mê man bất tỉnh. Tôi
cảm thấy những ngón tay thép của đức ông John nắm vào cổ áo tôi
Một lúc sau tôi nằm ngửa, chẳng nói được một lời và cũng chẳng
cử động được, trên tấm thảm trong pḥng khách của bà chủ nhà. Bà
ấy nằm cạnh tôi và Summelee sụm một đống trên ghế cạnh cửa sổ,
đầu gục xuống trên đầu gối.
Như trong giấc mơ, tôi thấy Challenger, giống một con cánh cam
quái dị, ḅ qua sàn. Một lúc sau, tôi nghe tiếng x́ x́ oxy thoát
ra. Challenger hít hai ba hơi đầy, ngực ông phồng lên khi có đủ
khí nuôi sự sống. Ông phấn khởi thốt lên:
- Có hiệu nghiệm. Lư luận của tôi đă được chứng thực!
Ông vùng đứng dậy, mạnh khỏe và nhanh nhẹn. Ông gắn một ống dây
vào b́nh, lao về phía vợ, để đầu ống chúc xuống mặt bà ấy. Vài
giây sau, bà ấy rên nhỏ, động đậy và ngồi dậy được.
Ông ấy quay sang tôi, tôi thấy nguồn sống ấm và dào dạt trong
huyết quản tôi. Lư trí bảo tôi đây chỉ là những giây phút sống
duy tŕ tạm bợ. Mặc dầu trước đây chúng tôi có nói về những giây
phút này hơi có vẻ giễu cợt, bây giờ tôi mới cảm nhận rơ đức mỗi
giây phút sống là vô giá. Có bao giờ tôi được hưởng cái cảm giác
run lên v́ vui sướng được sang một trang đời mới. Sức ép đă cất
khỏi ngực tôi, cái niền siết quanh đầu đă nới lỏng. Cái cảm giác
yên lành, ngọt ngào, dễ chịu trào dâng trong tôi. Tôi nằm đó
nh́n Summelee hồi sinh cũng bằng liệu pháp ấy. Và sau cùng đến
lượt đức ông John được hít oxy để tỉnh dậy. Ông đứng bật ngay
dậy và nâng tôi lên, trong khi Challenger d́u bà ấy đến chiếc
ghế đôi.
Bà ấy nắm tay chồng và nói:
- Ôi, anh George, rất tiếc là anh đă gọi em trở lại cuộc đời.
Ngưỡng cửa của thần chết, đúng như anh đă nói, rất huy hoàng, có
treo màn lộng lẫy lấp lánh. Sau cái cảm giác nghẹt thở, em cảm
thấy êm dịu thanh thoát không thể tả được, và con đường quá độ
sang thế giới bên kia đẹp lắm. Tại sao anh lại lôi em trở lại?
- V́ anh muốn chúng ta cùng đi một lượt. Tôi với em đă sát cánh
bên nhau nhiều năm. Đến giây phút trọng đại này lại phải chia
ĺa nhau th́ buồn quá.
Chỉ trong một lúc, với lời lẽ êm diu, mà tôi thấp thoáng thấy
một Challenger mới, có những nét khác hẳn một Challenger cũ với
cái giọng áp chế, khoe khoang, hống hách; lúc th́ làm kinh ngạc,
lúc th́ làm phật ḷng người cùng thế hệ ông. Dưới bóng thần
chết, con người bên trong Challenger mới lộ ra, con người đă
chinh phục được một t́nh yêu và giữ được măi măi. Ông đă thay
đổi và ông lại là thuyền trưởng của chúng tôi một lần nữa.
- Chỉ một ḿnh tôi trong toàn thể nhân loại, thấy và tiên đoán
được thảm họa này. - Ông nói với giọng phấn khởi và hân hoan v́
chiến thắng của khoa học. - Với ông, giáo sư hiền nhân Summelee,
tôi tin rằng thắc mắc của ông đă được giải đáp bằng ư nghĩa của
các vằn mờ trong quang phổ, và ông không c̣n cho rằng lá thơ của
tôi đăng trên tờ Times chỉ dựa trên ảo tưởng nữa.
V́ trước đây, ông bạn đồng nghiệp này ưa chống đối, hờn dỗi,
không nghe theo lư luận của Challenger, ông vẫn ngồi há hốc
miệng chưa hết kinh ngạc. Ông duỗi thẳng bộ chân tay dài ngoằng,
khẳng khiu ra như để xác nhận chắc ḿnh c̣n sống trên quả địa
cầu.
Challenger bước qua b́nh oxy, vặn nhỏ lại tiếng x́ x́ nhỏ dần
cho đến khi êm nhẹ nhất. Ông nói:
- Ta phải khôn ngoan dùng vừa đủ nguồn oxy của ta, không khí
trong pḥng quá nhiều oxy, tôi cho rằng không ai cảm thấy như
nghẹt thở. Ta chỉ c̣n cách thí nghiệm bằng thực tế phải t́m ra
cần thêm bao nhiêu oxy vào không khí đủ hóa giải chất độc ether.
Để xem coi mở van cỡ nào là đủ.
Chúng tôi ngồi yên lặng, thần kinh căng thẳng. Tôi đang định nói
là thái dương tôi bị ép, bà Challenger đă nói trước là bà muốn
xỉu. Chồng bà mở thêm oxy. Challenger tiếp:
- Vào thời tiền khoa học, người ta thường nuôi chuột bạch dưới
tàu ngầm. Giống vật rất nhạy cảm với bầu không khí ô nhiễm. Nó
cảm thấy trước các thủy thủ. Bà vợ thân yêu của tôi ơi, bà là
con chuột bạch của chúng tôi. Tôi mở thêm oxy và bà khỏe.
- Vâng, em khỏe hơn rồi.
- Thế là chúng ta đă t́m ra đúng thành phần của hỗn hợp không
khí cần trong pḥng rồi. Ta có thể tính được thời gian ta c̣n có
thể sinh tồn. Tiếc thay lúc chúng tôi ngất xỉu, phải cứu tỉnh
chúng tôi, chúng ta đă phí phạm phần lớn oxy trong b́nh thứ
nhất.
- Điều đó có quan trọng không? - Đức ông John đang đứng gần cửa
sổ thọc tay vào hai túi quần hỏi. - Đằng nào cũng phải chết th́
duy tŕ cuộc sống phỏng có ích ǵ? Ông nghĩ chúng ta có dịp may
nào thoát chết không?
Challenger mỉm cười lắc đầu. Đức ông tiếp:
- Vậy ông có nghĩ rằng ta chẳng cần đợi tử thần tới mà nhảy
không vào cái chết hiên ngang và tư cách hơn không? Nếu ông đồng
ư tôi đề nghị ta cầu nguyện rồi tắt oxy, mở cửa sổ ra.
- Sao không làm như vậy? - bà chủ mạnh bạo đồng t́nh. - Đúng đấy
anh George làm như đức ông đề nghị đi.
Giáo sư Summelee hùng hổ ngăn lại:
- Tôi cực lực phản đối Khi phải chết ta cứ b́nh thản đón nhận
nó. Vơ đoán về cái chết th́ thật là điên rồ và không thể biện
minh được.
- C̣n ông bạn trẻ nghĩ sao? - Giáo sư Challenger hỏi tôi.
- Ta nên coi thảm họa tới phút cuối cùng.
- Tôi hoàn toàn nhất trí với ông. - Giáo sư Challenger nói.
Bà chủ nhà vội tiếp,
- Nếu anh nói vậy, anh George, em cũng nghĩ như anh.
- Thôi được, tôi chỉ nêu vấn đề lên để bàn thôi. - Đức ông John
phân bua. - Nếu các ông đồng ư chứng kiến thảm họa đến phút
chót, tôi cũng sát cánh với các ông. Chắc sẽ thú vi lắm, đủ cả
thương cảm, ghê sợ. Chẳng có ǵ sai trái cả. Tôi đă có những
cuộc mạo hiểm trong đời, đă trắc nghiệm mọi cảm giác mạnh như
nhiều người. Nhưng tôi phát từ giă cơi đời một cách hào hùng
nhất.
Challenger tiếp ngay:
- Với điều kiện là ông được tiếp tục sống thêm.
- Các ông chỉ suy đoán hăo! - Summelee bực ḿnh nói xẵng.
Challenger nh́n ông ta nghiêm khắc phản đối, rồi nói như một nhà
mô phạm:
- Trừ phi chúng ta c̣n tiếp tục sống, nếu đă chết rồi th́ chẳng
ai trong chúng ta c̣n có dịp quan sát những ǵ đă xảy ra ở
ngoài. V́ lúc đó ta đă ở thượng giới tinh thần, làm sao c̣n hiểu
được hạ giới vật chất. Thật là hiển nhiên đối với đa số không
hiểu biết, (ông liếc sang Summelee) th́ chỉ khi nào ta c̣n sống
trong cái cơ thể vật chất này mới có thể quan sát và phán đoán
về các hiện tượng vật chất được. Bởi vậy chúng ta cố duy tŕ
cuộc sống thêm vài giờ, với hy vọng truyền lại cho những sinh
vật tương lai, những thông tin để họ quan niệm được rơ ràng,
rằng trái đất hay vũ trụ, cho đến thời điểm chúng ta sống, đă
trải qua một biến cố vĩ đại kinh hoàng, từ trước chưa từng có.
Theo tôi, thời gian c̣n sống để có được cuộc trải nghiệm tuyệt
vời này, nếu bị bớt đi phút nào đều đáng tiếc cho phút đó.
Summelee lại hăm hở nói lớn:
- Hoàn toàn đồng ư.
- Thông qua tuyệt đối, không có phiếu chống. - Đức ông John tiếp
lời. - Nhưng trời ơi! Ông tài xế của ông đă lái chuyến xe chót
sang bên kia thế giới rồi. Ta có nên lao ra khiêng ông ta vào
đây không?
- Chỉ có điên mới ra. Ra là chết. - Summelee lớn tiếng can ngăn.
- À há, bây giờ tôi cũng nghĩ như vậy. Chẳng giúp ǵ được ông
ta, mà c̣n làm oxy thoát ra khỏi pḥng, ngay cả khi c̣n sống mà
trở vào pḥng chăng nữa. Nghe này, coi mấy con chim nhỏ ở dưới
mấy cây kia ḱa!
Chúng tôi lấy bốn cái ghế xếp dọc theo cái cửa sổ rộng, thấp. Bà
chủ nhà c̣n nhắm mắt mơ màng trên ghế. Tôi h́nh dung ra một cảnh
quái đản, rùng rợn; cái ảo ảnh có lẽ được phóng đại lên nhiều do
bầu không khí nặng nề, tù hăm chúng tôi đang hít thở. Chúng tôi
là bốn khán giả ngồi trên hàng đầu đang coi màn chót của thế
giới! Ngay trước mặt chúng tôi, ở dưới sân, là chiếc xe du lịch
đang rửa dở dang, ông tài xế Austin nằm sóng soài cạnh bánh xe,
trên trán có một cục u tím bầm, chắc là ông đă ngă, đập đầu vào
bệ lên xe hay cái chắn bùn. Tay ông vẫn c̣n nắm chắc cái ṿi
nước rửa xe. Vài cây tiêu huyền che mát một góc vườn, dưới gốc
vài chú chim chết xù lông ra, co quắp như những trái banh nhiều
cỡ. Lưỡi hái tử thần đă lướt qua mọi sinh vật lớn nhỏ.
Qua bức tường cuối vườn, chúng tôi nh́n ra con đường uốn lượn
dẫn tới ga. Nhóm thợ gặt mà chúng tôi đă thấy chạy ra khỏi đám
ruộng, nằm bên vệ đường, lộn xộn, co quắp chồng lên nhau. Xa
chút nữa, cô giữ trẻ nằm nghếch đầu và vai lên vạt cỏ bên vệ
đường. Cô đă bồng cháu bé ra khỏi xe nôi, bây giờ là một bọc bất
động trong tay cô. Ngay cạnh cô là cậu bé nằm sải chân tay bên
mép đường. Gần chúng tôi hơn, con ngựa chết qú giữa hai càng
xe. Người đánh xe nằm vắt qua thành trước xe, trông như một con
chim già kỳ quặc, tay ông cong queo ở một thế lạ kỳ trước mặt.
Qua cửa kính, chúng tôi thấy mờ mờ trong xe một thanh niên, tay
c̣n nắm thành xe đă mở, h́nh như anh định nhảy xuống đường vào
giây phút cuối. Xa hơn nữa là sân golf xanh nhạt hơn, rải rác
xác những người chơi golf mà chúng tôi thấy hồi sáng, trong quần
áo trắng viền đủ màu. Trên một vạt cỏ đậm màu hơn, một đống tám
xác những tay chơi cặp bốn quyết chơi cho đến tối. Không một
bóng chim trên ṿm trời cao rộng, không một người, một sinh vật
động đậy trong khung cảnh một miền quê trải rộng trước mặt chúng
tôi. Mặt trời chiều đă dịu, dải nắng rực rỡ, êm ả lên cảnh vật.
Nhưng bao trùm lên tất cả là cái không khí lạnh tanh, thê lương
của tận diệt, cái chết toàn thể mà chẳng bao lâu nữa chúng tôi
cũng tham dự. Tạm thời lúc này, tấm kính cửa sổ cách ly chúng
tôi với số phận chung của đồng loại, nhờ có dự trữ một ít oxy để
trung ḥa ether độc. Nhờ tri thức và tiên kiến của một người, đă
tạo được một ốc đảo sự sống, giữa một sa mạc chết mênh mông,
trong vài giờ. Rồi oxy sẽ cạn, chúng tôi cũng sẽ phải chết co
quắp trên cái thảm hồng đào này.
Thế là toàn bộ nhân loại và các chủng sinh vật khác bị xóa sạch
trên địa cầu. Một lúc lâu, bầu không khí trong pḥng nghiêm
trọng đến nỗi lời nói thành vô nghĩa. Chúng tôi chỉ lặng lẽ nh́n
ra cái thế giới thảm thương bên ngoài.
- Cháy nhà ḱa! - cuối cùng tiếng Challenger vang lên. Ông chỉ
vào một làn khói đang bốc cao khỏi các ngọn cây. - Tôi đoán là
sẽ c̣n nhiều nhà cháy khác, có thể cả thành phố sẽ ch́m trong
biển lửa, cứ nghĩ tới có biết bao nhiêu người đang cầm lửa khi
hôn mê ngă xuống. Sự kiện nhà c̣n cháy được, tự nó đă chứng minh
cho thấy thành phần oxy trong không khí vẫn b́nh thường, và rơ
ràng ether là thủ phạm. Chà! lại một đám cháy khác trên đỉnh đồi
Crowborough Hill. Nếu tôi không lầm, đó là ṭa nhà Câu lạc bộ.
Chuông đồng hồ nhà thờ vẫn điểm giờ. Chắc các triết gia của
chúng ta sẽ rất thích thú khi biết rộng có những máy móc con
người chế ra, lại sống dai hơn toàn bộ nhân loại.
- Trời ơi! Những cuộn khói kia là cái ǵ? - Đức ông John hoảng
hốt đứng dậy và hỏi to. -- - Tầu hỏa!
Chúng tôi nghe tiếng rầm rập rồi tức thời tàu lao vào tầm mắt
chúng tôi, với tốc độ rất cao. Nó khởi hành từ đâu, cánh đây bao
xa. Chúng tôi không thể biết, nhưng chỉ có phép lạ, nó mới chạy
được đến đây, không bị các vật, xác người ngất xỉu trên đường
làm lật. Nhưng lúc này chúng tôi sắp sửa phải chứng kiến cái kết
cục thảm thiết của nó. Một tàu than đang đậu sừng sững trên
đường ray. Chúng tôi đứng tim khi chiếc tàu khách tốc hành rầm
rầm chạy qua trên cùng một đường ray. Cú đụng thật khủng khiếp
kinh hoàng. Đầu tàu và các toa dồn cục lại thành một đống gỗ và
sắt cong queo. Một tia lửa lóe lên, rồi cả đống bốc cháy hừng
hực. Cả nửa giờ, chúng tôi ngồi im lặng sững sờ trước một cảnh
vừa hùng vĩ vừa tang thương.
Sau cùng bà Challenger thốt lên:
- Tội nghiệp Tội nghiệp nhưng người đó!
Bà bám cứng lấy cánh tay chồng.
- Bà ơi, những hành khách trên tàu đâu có c̣n sống. Họ đă nằm im
ĺm như những bánh than trên đoàn tàu mà họ đụng, và bây giờ họ
cũng đang bất động biến thành than. -Challenger nói nhỏ nhẹ vừa
vỗ về trấn an vợ. - Chuyến tàu chở hành khách sống từ ga
Victoria rồi hành khách cùng chết dần với những người họ thấy
trên đường trong hăi hùng. Đoàn tàu đă thành đoàn tàu ma từ lâu
rồi, trước khi gặp định mệnh kinh hoàng.
Một ảo ảnh lạ lùng hiện ra trong óc tôi khiến tôi lên tiếng:
- Những thảm cảnh tương tự đang diễn ra trên khắp thế giới. Cứ
nghĩ tới những tàu đang lênh đênh ngoài biển. Chúng sẽ c̣n tiếp
tục chạy măi cho đến khi ḷ than tắt ngấm, hoặc lao hết tốc độ
vào một bờ biển. Những thuyền buồm cũng vậy, làm sao thuyền quay
trở lại bờ. Một thuyền đầy xác chết, sẽ trôi dật dờ trên sóng
nước, cho đến khi gỗ thuyền mục, mối nối ṛ rỉ và thuyền ch́m
dưới đáy bể. Có lẽ hàng thế kỷ sau, Đại Tây Dương vẫn c̣n nổi
trôi những xác tàu, thuyền và các vật dụng đi biển.
Sau cái tặc lưỡi chán nản, Summelee nối lời:
- Và các công nhân trung các mỏ than... sau này nếu lại có các
nhà địa chất trên trái đất, chắc họ sẽ lập các giả thuyết kỳ lạ
về đời sống con người vào giai đoạn này căn cứ vào những xác đă
hóa đá của phu mỏ.
Đức ông John nhận xét:
- Thú thực tôi không h́nh dung được những chuyện đó. Nhưng trái
đất sẽ như một “căn nhà cho thuê trống người” sau vụ này. Khi
nhân loại đă bị quét sạch khỏi mặt địa cầu, th́ bằng cách nào
con người lại có mặt trên trái đất được?
- Th́ trái đất trước đây, từ thời nguyên thủy vốn trống rỗng mà.
- Chalienger nghiêm túc trả lời. - Như cái lư âm dương ấy, từ
tạo thiên lập địa, vốn chi phối chúng ta và chúng ta không hiểu
nổi, sẽ tạo ra con người trên trái đất. Tại sao một chu tŕnh
sinh thái như vậy lại không lập lại được nhỉ?
- Trời ơi! ông bạn Challenger thân mến, chắc ông không định nói
vậy?
- Giáo sư Summelee, tôi không quen nói một đàng nghĩ một đàng.
Lời nhận xét của ông chẳng đâu vào đâu cả.
Nói rồi ông ngoảnh ra chỗ khác, mắt nhắm lại.
- Ôi, ông sống như một người cứ khư khư ôm mớ giáo điều đến chết
cũng vẫn chưa chừa được. - Giáo sư Summelee chỉ c̣n chua chát
nhận xét.
- Và ông luôn luôn là kẻ phá đám, ngang bướng không thể tưởng
được, chẳng bao giờ ông thoát ra nổi.
- Những lời phê b́nh của ông cũng đâu có nghèo tưởng tượng. -
Giáo sư Summelee cố gân cổ phang lại.
Đức ông John xen vào can:
- Chắc các ông định hít thở hết những b́nh oxy này để thóa mạ
nhau, mới trở lại con người đứng đắn thật sự? Con người có trở
lại trái đất hay không có quan trọng ǵ lúc này nữa. Dù con
người có trở lại chắc chắn không vào lúc này.
Challenger nghiêm sắc mặt trả lời:
- Nói vậy là ông đă bộc lộ rơ sự nông cạn của ḿnh. Một đầu óc
khoa học chân chính không hề tự đặt ra giới hạn không gian và
thời gian cho công việc của ḿnh. Nhà khoa học phải đặt trạm
quan sát là chính ḿnh, ở mốc thời gian là hiện tại, phân cách
cái quá khứ vô định với tương lai bất định, từ đây ông xuất kích
những đợt nghiên cứu từ lúc sính ra các giống loài và tới lúc
mọi thứ bị tận diệt. Với cái chết, nhà khoa học sẽ chết ở vị trí
nhiệm sở của ḿnh, b́nh thường và vẫn theo phương pháp như
thường cho đến lúc chết. Ông không cần để ư tới các thân xác vật
chất của ông tan ră ra sao, cũng như mọi loại vật chất khác, ư
kiến tôi có đúng không, giáo sư Summelee?
Summelee bất đắc dĩ càu nhàu một câu đồng ư:
- Với vài dè dặt, tôi đồng ư.
Challenger tiếp:
- Con người khoa học, tôi xin đặt ở ngôi thứ ba, để khỏi tỏ ra
là người tự măn. Một nhà khoa học chân chính, phải có khả năng
vẫn nghĩ ra được một điểm nào đó về tri thức trừu tượng, trong
lúc ông ta đang rơi từ trên một khinh khí cầu xuống đất. Những
người có bản lănh vững chắc như vậy rất cần trong chinh phục tự
nhiên và bảo vệ chân lư.
Đức ông John tiếp ngay, mắt vẫn nh́n chăm chăm ra ngoài:
- Thiên nhiên khiến tôi quan tâm nhất lúc này. Tôi đă đọc những
bài của các học giả có uy tín nhất, nói về việc giới khoa học
điều khiển thiên nhiên. Nhưng thiên nhiên vẫn giữ lại nhiều điều
bí mật.
Challenger nói một cách tin tưởng:
- Trong khoảng thời gian vài triệu năm, vạn vật ra sao? Như ông
thấy, thế giới cây cỏ đă sống c̣n. Nh́n cành lá sum sê của mấy
cây tiêu huyền kia đi. Chim th́ chết nhưng cây xanh tươi nảy nở.
Giữa ḍng đời sống thực vật trong ao đầm có những loài thủy tộc
vi thể, là đạo quân tiên phong của đời sống động vật. Và đến lúc
này, năm chúng ta được vinh dự là đạo quân hậu vệ. Khi đă có đời
sống ở h́nh thái thấp nhất, th́ khẳng định con người sẽ xuất
hiện. chắc chắn như cây sồi nảy sinh từ hạt sồi. Chu kỳ đời sống
sẽ lặp lại một lần nữa.
Tôi hỏi:
- Thế c̣n ether độc, nó có giết đời sống từ trong trứng nước
không?
- Ether độc có thể chỉ là một ḍng hay một lớp trong môi trường
ether lấp đầy vũ trụ, chỉ như một ḍng Gulf Stream siêu h́nh,
trong cái đại dương ether mà chúng ta đang dật dờ trôi nổi. Có
thể c̣n có một dung sai, khả dĩ để đời sống có thể thích ứng
được với điều kiện mới. Chỉ sự việc trước mắt chúng ta, là ta
thêm một lượng oxy vào không khí là có thể hóa giải được ether
độc. Như vậy, môi trường trái đất chỉ cần thay đổi chút ít là
các động vật có thể lướt qua thảm họa này.
Cái nhà lúc năy bốc khói qua các lùm cây, bây giờ bùng cháy.
Chúng tôi thấy những lưỡi lửa chập chờn, liếm lên bầu trời.
Đức ông John th́ thầm nói:
- Thật quá khủng khiếp!
Nh́n ông lần này tôi có một ấn tượng lạ hơn bao giờ hết. Tôi nêu
nhận xét:
- Được, nói cho cùng th́ có ǵ nữa đâu? Thế giới đă chết! Chết
cháy hay hỏa táng là h́nh thức xử lư xác chết tốt nhất.
- Nếu căn nhà này bốc cháy, đời sống chúng ta sẽ bị rút ngắn
nhanh hơn.
- Tôi đă thấy nguy cơ khi ở trong một pḥng kín tăng cường oxy,
và có nhờ bà nhà tôi coi chừng nguy cơ bốc lửa.
- Mọi thứ đều an toàn ông ơi. Nhưng đầu em lại bắt đầu nhức rồi,
thái dương giật thon thót. Không khí trong pḥng này ghê quá!
- Chúng ta phải thay lượng khí này. - Challenger nói rồi nghiêng
ḿnh trên b́nh oxy. - B́nh này hầu như hết rồi. B́nh đầu tiên ta
dùng được trong ba giờ rưỡi, hết lúc tám giờ tối. Vậy ta sẽ qua
được một đêm an lành. Đến chín giờ sáng mai chúng ta sẽ hết
sống. Chúng ta c̣n đón được một b́nh minh cuối cùng chỉ dành
riêng cho năm người chúng ta.
Ông mở b́nh oxy thứ hai, mở cửa thông gió khoảng nửa phút. Chúng
tôi cảm thấy được không khí ở bên ngoài đă khá hơn, nhưng triệu
chứng nhiễm độc lại đến nhanh hơn. Ông đóng ngay cửa không khí
lại.
Challenger nói tiếp:
- Tiện thể, con người đâu có chỉ sống bằng oxy. Đă đến giờ ăn và
hơi quá rồi. Nhưng xin các ông cứ an tâm. Mời các ông đến đây
chơi, tôi đă chuẩn bị kỹ và hy vọng buổi họp mặt này ai cũng
thấy thú vị. Tôi đă tính rằng nhà bếp cũng phải thay đổi thích
ứng với hoàn cảnh này. Chúng tôi đă cố gắng hết sức. Hẳn các ông
cùng đồng ư với tôi là chỉ có điên mới đốt một bếp dầu hôi trong
pḥng này, nó sẽ đốt hết một lượng lớn oxy. Chúng tôi đă chuẩn
bị một ít thịt nguội, bánh ḿ và đồ chua, vài chai vang đỏ, có
thể thỏa măn được nhu cầu uống xoay ṿng của chúng ta. Cám ơn bà
chủ, em luôn là người phụ nữ đảm đang, nữ hoàng tề gia. “
Tháo vát, tự trọng, biết lễ nghĩa, những bà nội trợ Anh quốc
thật tuyệt vời! Chỉ trong vài phút, bà chủ đă trải cái khăn
trắng như tuyết lên bàn, đặt khăn ăn, dọn các món ăn đơn giản
ra, thanh lịch và hài ḥa. Có cả một cái đèn pin ở giữa bàn,
chiếu ra một thứ ánh sáng kỳ ảo thần tiên. Tuyệt vời hơn nữa là
chúng tôi ngon miệng ăn ngấu nghiến.
- Ăn ngon miệng cũng tùy theo cảm xúc của ta. - Giáo sư
Challenger nói. Tôi lấy làm lạ là ông giàu t́nh cảm đến vậy. Một
đầu óc khoa học vĩ đại lại có thể chiếu cố đến những sự thực nhỏ
nhoi. - Chúng ta đă trải qua cuộc khủng hoảng lớn, nhưng chỉ do
nhiễu loạn cấp phân tử. Có nhiễu loạn trục trặc là cần sửa chửa.
Bất cứ nỗi vui hay nỗi buồn to lớn nào cũng làm ta đói. Đừng có
bỏ bữa ăn như các tiểu thuyết gia thường viết.
Tôi nêu một liên hệ:
- Hèn chi ở thôn quê người ta thường ăn cỗ đám ma linh đ́nh.
- Đúng, ông bạn trẻ đă có một ví dụ minh họa rất thích hợp. Để
tôi gắp cho ông một miếng lưỡi.
- Dân bán khai cũng vậy. - Đức ông John vừa cắt miếng thịt ḅ
vừa nói: - Tôi đă chứng kiến họ chôn một tù trưởng ở sông
Arnwimi, sau đó họ thịt một con hà mă, cân nặng bằng cả một bộ
lạc. Có vài bộ lạc ở New Guinea c̣n sực luôn cả người thân mà họ
vừa thương khóc, cứ như là cách họ dọn sạch một xác chết. Tất cả
những bữa tiệc trong đám ma, tôi cho rằng bữa tiệc ta đang ăn
đây là kỳ lạ nhất.
Bà Challenger góp thêm:
- Cái kỳ lạ nhất là tôi không thể cảm thấy thương xót được nhưng
người đă chết. Tôi c̣n cha mẹ ở Bedford. Tôi biết rằng ông bà ấy
đă chết hôm nay, vậy mà trước cái thảm họa to lớn, toàn cầu này,
tôi lại không cảm thấy đau xót cho từng cá nhân được, ngay cả
đau đớn cho cha mẹ tôi.
Tôi cũng cảm động tiếp:
- Mẹ già tôi ở Ireland, tôi có thể h́nh dung ra cụ, choàng khăn
và mũ len, ngả người ra sau ghế, mắt nhắm lại, cạnh cửa sổ,
kiếng và cuốn sách để bên cạnh. Làm sao tôi có thể thương khóc
cụ được. Cụ đă chết, c̣n tôi chắc chắn sắp chết. Chết rồi chắc
tôi sẽ được ở gần cụ không c̣n phải sống sinh ly, người ở Anh
người ở Ái Nhĩ Lan nữa.
Challenger lên tiếng:
- Nói về thân xác, ta đâu có thương xót những miếng móng chân,
móng tay cắt ra, hoặc một lọn tóc hớt đi, mặc dầu chúng là một
phần thân thể ta. Cũng như chẳng người cụt chân nào c̣n cảm thấy
thương tiếc cái chân đă cắt mất. Cái thể xác ta là nguồn gốc
những đau đớn, chán nản mỏi mệt. Nó là cái chỉ số thường trực
những giới hạn của ta. Vậy ta c̣n buồn ǵ nữa khi hồn ĺa khỏi
xác?
Ông Summelee càu nhàu:
- Dù hồn có ĺa khỏi xác được, nhưng cái chết toàn thể khủng
khiếp quá.
Challenger nói lại:
- Như tôi đă nói, cái chết toàn thể, toàn bộ bớt khủng khiếp hơn
cái chết riêng lẻ chứ.
Đức ông John góp ư:
- Cũng giống như trong chiến tranh. Nếu các ông chỉ thấy một
người lính chết ngực nát bấy hay lủng một lỗ trên mặt, có thể
các ông sợ bủn rủn. Nhưng tôi đă nh́n thấy mười ngàn người chết
ở Soudan, tôi không có cảm giác ghê sợ. V́ trong các cuộc chiến
làm nên lịch sử, mạng sống của một cá nhân quá nhỏ ai thèm để ư.
Khi một ngàn triệu người cùng chết một lúc như ngày hôm nay.
Chúng ta không thể thương xót riêng một người được.
Bà chủ nhà run run, thật t́nh nói:
- Em mong là chúng ta đă qua khỏi. Ôi, anh George, em sợ lắm.
- Không bà chủ bé nhỏ ạ, bà cam đảm nhất trong chúng ta khi giờ
phút lâm chung tới. Anh chỉ là anh chồng bẻm mép ba hoa của em
thôi. Nhưng xin em nhớ cho rằng anh trước sau như nhất, bao giờ
cũng hy sinh thân ḿnh bênh đỡ em. Nói cho cùng, em đâu c̣n cần
đến ai ngoài anh nữa.
Bà ấy nói “Em không cần nhờ ai nữa,” và choàng tay quanh cái cổ
bạnh của ông ấy.
Ba chúng tôi bước ra cửa sổ và đứng chết sững trước cảnh đang
diễn ra trước mặt.
Màn đêm đă xuống và cái thế giới chết đă được phủ kín trong một
bức màn đen. Nhưng ở phương chính Nam, một dải đỏ thẫm sinh
động. nhấp nhô như mạch đập cuộc sống, rồi th́nh ĺnh vùng phụt
lên tới thiên đỉnh hồng rực rỡ, lịm dần xuống thành một đường
lửa huy hoàng nhưng khủng khiếp.
- Lewes cháy rồi!
- Không, đó là Brighton. - Challenger vừa băng qua pḥng ra với
chúng tôi vừa nói. - Các ông có thể thấy đường cong đen của
những đồi cỏ nổi bật trên biển lửa. Đám cháy phải cách xa đó
nhiều dặm. Chắc là cả thành phố đang bốc cháy.
Có nhiều đám lửa khác ở khắp bốn phương trời. Cái đoàn tàu hỏa
chỉ c̣n cháy âm ỉ thôi, như một đám lửa cố định, không tung tăng
nhảy rộng ra như đám đại hỏa hoạn bên kia đồi. Trời ơi, có biết
bao nhiêu đề tài có thể viết cho tờ Gazette! Có kư giả nào bỏ lỡ
dịp như thế này không? Một kho tin sốt dẻo, không ai thấy để
khai thác sao? Hết nhiên, bản năng ghi chép bùng lên trong tôi.
Nếu nhữg nhà khoa học này vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu của
họ đến phút chót, tại sao tôi lại không kiên tŕ ghi lại cảnh
tượng này nhỉ. Không một ai trong loài người được chứng kiến
cảnh này và ghi lại. Dẫu sao th́ cũng phải trải qua cái đêm cuối
cùng này. Làm sao tôi c̣n có thể ngủ được. Vậy th́ ghi chép sê
giúp tôi trải qua những giây phút lo âu và giữ cho tâm hồn thanh
thản. Thế là trên đầu gối tôi một cuốn sổ với những trang ghi
chép nguệch ngoạc, dưới ánh đèn pin mờ mờ. Chút khiếu văn chương
của tôi xem ra đắc dụng lúc này. Với những trang này, chúng có
thể truyền đến những tâm hồn khác những các xúc, những sợ hăi
dai dẳng trong cái đêm kinh hoàng này.
Chương 4 -
NHẬT KƯ CỦA NGƯỜI ĐANG CHẾT
Những chữ mà tôi nguệch
ngoạc trên đầu những trang nhật kư của tôi mới ngộ nghĩnh làm
sao! Ngộ hơn nữa là tôi, Edward Malone, lại viết những hàng chữ
này. Tôi, bắt đầu ra khỏi nhà ở Streatham cách đây mười hai giờ,
không mảy may có một ư niệm nào trước về những sự việc kỳ diệu
sê xảy ra trong ngày. Tôi nhớ lại chuỗi biến cố: tham khảo ư
kiến với McArdle, những ḍng báo động đầu tiên của Challenger
trên tờ Times, hành tŕnh kỳ cục trên xe hỏa, một bữa ăn trưa
ngon miệng, thảm họa ập đến và bây giờ chỉ c̣n năm chúng tôi
sống sót trên hành tinh trống rỗng này. Biết chắc. số phận ḿnh
cũng sẽ chết như bao người khác, và những ḍng nhật kư này, được
viết như một động tác nghề nghiệp máy móc, sẽ chẳng bao giờ được
cặp mắt con người ngó tới. V́ đây là lời của kẻ sắp chết; trong
khi cả thế giới bên ngoài cái pḥng ông viết đă chết hết cả rồi.
Tôi thấm thía hiểu được Challenger khôn ngoan và đúng đắn biết
bao, khi ông nói rằng nỗi bi thảm thật sự của chúng ta là chúng
ta c̣n sống, sau khi chân thiện mỹ của con người đă bị hủy diệt.
Như vậy chắc Challenger đă đoán ra chúng tôi không bị nguy hiểm.
B́nh oxy thứ hai của chúng tôi đă cạn. Chúng tôi thấy thảm
thương cho cái thân xác cặn bă yếu hèn của chúng tôi gần một
phút khi thay oxy.
Chúng tôi được nghe Challenger nói chuyện mười lăm phút đồng hồ.
Ông ấy nổi hứng lên và cất tiếng sang sảng như đang thuyết
tŕnh, cho các nhà khoa học có uy tín trong thính đường Hoàng
gia. Ông có một nhóm thính giả lạ thường để làm t́nh làm tội: vợ
ông ấy rất b́nh thản, chẳng hiểu ông ấy nói ǵ, Summelee ngồi
trong góc tối, luôn phản bác, chỉ trích ồn ào nhưng rất chú ư;
Đức ông John nằm dài ở một góc xem ra chẳng ưa ǵ câu chuyện
này; tôi ngồi cạnh cửa sổ lâu lâu lại lơ đăng nh́n ra cảnh bên
ngoài. Tất cả cứ như một giấc mơ, trong đó tôi chẳng đóng vai
tṛ nào tích cực.
Challenger ngồi ở bàn giữa, hướng cái đèn pin vào giá kính hiển
vi, gắn miếng kính mang vật ông đem vào từ pḥng phục sức lên
giá. Cái ṿng sáng le lói hắt lên từ gương đế, làm bộ mặt xương
xầu, râu ria xồm xoàm của ông nửa sáng lực nửa tối đen. Có vẻ
như gần đây nhất ông đang nghiên cứu dạng sống sơ đẳng. ông đang
thích chí v́ con a míp ông chuẩn bị mẫu ngày hôm qua vẫn c̣n
sống. Ông vui sướng nhắc đi nhắc lại như điên:
- Chính mắt ông coi đi, Summelee. Bước qua coi cho kỹ, rồi vui
vẻ chấp nhận quan điểm của tôi về vụ này; Malone, làm ơn quan
sát đi, rồi xác nhận giùm nhưng điều tôi đă tuyên bố. Các vi
sinh vật h́nh suốt chỉ ở giữa là những tảo cát. Người ta coi
thường không để ư đến chúng, v́ chúng có vẻ là thực vật hơn là
động vật. Nhưng về phía bên phải, các ông sê thấy ngay bọn a míp
đang uể oải bơi lội trong môi trường. Con ốc phía trên để điều
chỉnh tinh. Các ông coi tận mắt đi.
Summelee coi và yên lặng đồng ư. Tôi cũng coi và thấy một ḍi vi
khuẩn như làm bằng vụn kính, đang bơi như dính chùm vào nhau
trong môi trường. Đức ông John th́ sẵn sàng tin ư kiến của
Challenger đúng. Ông nói:
- Tôi chẳng cần biết chúng chết hay sống làm ǵ cho mệt óc. Có
nh́n thấy chúng th́ tôi cũng không phân biệt được, vậy th́ tôi
bận tâm làm ǵ? Con vi khuẩn cũng chẳng quan tâm đến t́nh trạng
sức khỏe của chúng ta đâu.
Ông nói vậy làm tôi bật cười, và Challenger lườm tôi rất lạnh
lùng và kiêu kỳ.
- Những phát biểu nông cạn của người có chút ít giáo dục, c̣n
gây cản trở cho khoa học nhiều hơn là sự ngu đến, xin đức ông
John hạ cố...
- Anh George ơi, đừng quá hăng say như vậy chứ! - Bà chủ nói vậy
rồi xoa tay lên cái bờm tóc của ông đang cúi xuống kính hiển vi.
- Con a míp sống hay chết th́ có ư nghĩa ǵ?
Challenger làu bàu:
- Ư nghĩa lắm chứ.
Đức ông John cười khẩy nói:
- Được, cho biết tầm quan trọng của nó đi. Ta có thể nói đến thí
nghiệm này của ông như bất cứ chuyện ǵ khác. Nếu tôi có lơ là
với nó, hay làm phật ḷng ông, xin bỏ qua cho.
Cái giọng the thé căi bướng của Summelee lại chen vào:
- Theo tôi, mấy con vi sinh đó sống th́ có ǵ quan trọng đâu.
Chúng nó cũng ở trong môi trường dư oxy như chúng ta, làm sao
chúng ngộ độc được. Nếu chúng ở ngoài pḥng này, chúng sẽ phát
chết như các sinh vật khác.
- Nhận xét của ông, giáo sư Summelee đáng kính ơi, - giáo sư
Challenger phải hạ ḿnh hết sức mới thốt nên lời. (Chà! ước chi
tôi vẽ được cái nét mặt ngạo nghễ, kênh kiệu cả ông trong cái
ṿng ánh sáng của gương đế kính hiển vi hắt lên!) - Nhận xét của
ông chứng tỏ ông không nắm được điều kiện thí nghiệm. Mẫu thí
nghiệm này tôi gắn lên từ hôm qua, gắn kín rồi để ngoài cửa
thông hơi. Oxy của chúng ta không thể vào được nhưng dĩ nhiên,
ether trong không khí bên ngoài vào được như nó chui vào mọi ngơ
ngách trong vũ trụ. Chúng c̣n sống, nghĩa là chúng không bị
nhiễm độc. Từ đó, ta có thể suy ra tất cả những con a míp ở
ngoài pḥng này đă qua khỏi tai họa, chúng không chết như ông
đoán sai.
Đức ông John hững hờ nói:
- Nhưng dù có như vậy chăng nữa cũng chẳng có ǵ phải vui điên
cuồng lên như Achimèdes. Chúng sống sót th́ có chi quan trọng
nào?
- Kết quả thí nghiệm chỉ có ư nghĩa như thế này: Trái đất vẫn là
một hành tinh sống, không phải là một hành tinh chết. Nếu ông có
óc tưởng tượng khoa học, ông sẽ phóng tầm mắt về trước vài triệu
năm, coi chỉ như trong khoảnh khắc trên trục thời gian vô tận,
lúc đó trái đất cũng sẽ lại lúc nhúc mọi chủng loại, muông thú
và con người, do biến hóa từ những sinh vật nhỏ nhoi này. Cứ xem
một đám cháy trong thảo nguyên: cây, cỏ, sinh vật đều chết hết,
chỉ c̣n một phần mặt đất cháy đen. Ông cứ tưởng phần đất đó sẽ
vĩnh viễn hoang phế. Không, các mầm sống vẫn c̣n trong ḷng đất
sẽ chui lên sống trên mặt đất, sẽ mọc lên và nảy nở phát triển.
Vài năm sau, nếu qua đó, ông sẽ không nhận ra chỗ cháy mấy năm
trước ở đâu nữa.
- À há! thú vị thật! - Đức ông John reo lên rồi lướt qua pḥng,
nh́n vào kính hiển vi. - Ngộ quá, cái con nho nhỏ treo ở đầu dăy
các chân dung tổ tiên loài người tương lai. Nó mang cái núm móc
áo trên lưng!
- Vật đen đó là nhân tế bào của nó. - Challenger kiên nhẫn nói,
như thể cô bảo mẫu dạy em bé đánh vần.
Đức ông John vừa cười vừa nói:
- Tốt, vậy th́ chúng ta đâu có lẻ loi Vẫn có những sinh vật cùng
sống với chúng ta trên trái đất.
Summelee lại phản bác:
- Ông Challenger này, xem ra ông chỉ vơ đoán là mục đích tối hậu
của trái đất, khi được h́nh thành là phải sản sinh ra và duy tŕ
đời sống cho con người.
- Vậy th́ ông cho mục đích của trái đất là ǵ? - Challenger bực
ḿnh v́ ư ám chỉ trong lời phản bác. Đôi lúc tôi cho rằng con
người hợm ḿnh, cho rằng trái đất được sinh ra và tự biến hóa,
sắp xếp thành một sân khấu. để hắn múa may.
- Chúng ta không khư khư ôm lấy quan điểm đó, nhưng ít ra con
người cũng không hợm ḿnh như bạn tưởng, mà thực sự con người có
vị trí cao nhất trong vạn vật.
- Chỉ cao nhất theo tầm hiểu biết của chúng ta thôi.
- Chỉ cần vậy thôi, thưa ngài, không cần bàn ǵ thêm nữa.
- Cứ nghĩ đến những triệu năm, có lè những tỷ năm mà trái đất
trống rỗng vận hành trong vũ trụ, hay nếu không trống rỗng th́
cũng không có bóng dáng hay tư tưởng con người. Cứ nghĩ đến cái
khoảng thời gian đằng đắng khôn lường ấy, trái đất bị mưa xói
ṃn, mặt trời thiêu đốt, gió bụi mịt mù, con người chỉ như mới
xuất hiện ngày hôm qua, so với khoảng thời gian các nhà vật lư
đia cầu đo được. Vậy làm sao có thể vô đoán được sự chuẩn bị lâu
dài vĩ đại ấy, chỉ đợi con người xuất hiện.
- Vậy th́ ông có là để cho loài nào hay cái ǵ xuất hiện?
Summelee nhún vai.
- Làm sao mà nói được. V́ những lư do ngoài tầm hiểu biết của
con người. Sự xuất hiện của con người có thể chỉ là ngẫu nhiên,
một phó phẩm trong quá tŕnh tiến hóa của vũ trụ. Con người chỉ
như một bọt nước trên đại dương, lại nghĩ rằng có đại dương là
v́ cái bọt, hoặc như thể một con chuột nhắt trong giáo đường lại
nghĩ rằng giáo đường dành riêng cho chuột.
Đến đây tôi đă ghi lại đúng những ǵ họ tranh luận, nhưng càng
về sau, họ càng dùng những thuật ngữ khoa học dài thọng. Thật
là có đặc ân mới được nghe hai nhân vật khoa học này tranh luận,
về các vấn đề cao siêu nhất. Nhưng càng ngày họ càng bất đồng ư
kiến với nhau. Những người trần tục như đức ông John và tôi càng
ngày càng không hiểu những lư lẽ họ nêu. Họ luôn chống đối nhau,
và cuối cùng họ không c̣n ǵ để cái nữa. Summelee ngồi bó gối
trên ghế, Challenger tay vẫn vặn ốc điều chỉnh, miệng càu nhàu
lẩm bẩm, như sóng biển c̣n ́ ấm sau cơn băo. Đức ông John th́
bước qua chỗ tôi, cùng nh́n ra màn đêm.
Một vầng trăng thượng tuần mờ nhạt nên sao trời rất sáng. Đêm
trăng cuối cùng c̣n được mắt con người nh́n đến. Ngay cả khi ở
trên cao nguyên Nam Mỹ, bầu trời trong sáng, tôi cũng chưa bao
giờ thấy sao lấp lánh rạng ngời như vậy. Có thể do thay đổi
trong môi trường ether ảnh hường đến ánh sáng. Cái ḷ thiêu xác
ở Brighton vẫn rực lửa. Bây giờ lại thêm một vùng đỏ thẫm xa xa
ở phía Tây, có thể là cháy Arundel, ở Chichester, ngay cả có thể
ở Portmouth. Tôi ngồi trầm tư, lâu lâu lại ghi xuống vài điều.
Tôi thấy bầu không khí nhè nhẹ vương buồn. Sức trẻ, sắc đẹp,
tinh thần thượng vơ, t́nh yêu sẽ chấm dứt cả sao? Trái đất sáng
sao coi như một cơi mộng thanh b́nh. Ai dám tưởng tượng trái đất
đang là một “Đồi sọ” vĩ đại, xác chết con người ngổn ngang?
Th́nh ĺnh tôi bật cười.
- Chà, ông bạn trẻ! - Đức ông John ngó tôi ngạc nhiên rồi thảng
thốt nói. - Chúng ta c̣n có thể cười vào cái lúc bi thảm này
sao? Cười cái ǵ vậy?
- Tôi đang nghĩ tới những vấn đề lớn chưa được giải quyết, như
vấn đề tranh chấp Anh-Đức chẳng hạn. Vấn đề vịnh Ba Tư mà xếp
của tôi rất quan tâm. Chúng ta th́ đang bực ḿnh và thất vọng.
Ai có thể đoán được chúng sẽ được giải quyết ra sao.
Chúng tôi rơi vào im lặng. Tôi đoán là ai cũng đang nghĩ tới bạn
bè đă chết trước. Bà Challenger đang khóc ti tỉ và ông ấy đang
dỗ dành. Tôi tưởng tượng ra những xác chẳng ra h́nh thù ǵ,
trắng nhởn và cứng đờ như xác Austin trong vườn. Thí dụ McArdle,
tôi biết ông chết ở đâu. Ông chết gục trên bàn viết, tay c̣n cầm
điện thoại, v́ the thấy ông ấy gục đầu xuống bàn. Chủ bút
Beaumont chẳng hạn, chắc là ông ấy chết cong queo trên tấm thảm
Thổ Nhĩ Kỳ xanh đỏ trong văn pḥng của ông. C̣n các bạn kư giả,
thông tín viên nữa ở trong pḥng tin tức. Macdona này, Mulray
này, cả Bond nữa, chắc chắn họ đều chết khi đang làm việc, vẫn
nắm chặt sổ tay. Đầu các ông ấy chắc đầy ấn tượng của thảm họa
nhảy múa, c̣n sổ tay th́ đầy tin tức về thảm họa diệt vong, xảy
ra ở chỗ này, chỗ kia. Tôi có thể tưởng tượng ra, người ta kinh
hoàng chuẩn bị đưa những người bị trước đến các bác sĩ như thế
nào, gửi người này đến tu việ n Westminster, người kia đến nhà
thờ St. Paul. Chắc trong đầu họ lúc chết, lấp lánh những hàng
tít huy hoàng, mà họ cho là đẹp chưa từng có. Nhưng số phận
chúng đă định là chẳng bao giờ được in! Tôi có thể tưởng tượng
Macdona đang lao vào các bác sĩ để phỏng vấn. “Hy vọng ở phố
Harley” Anh thường líu lưỡi khi biến cố xảy ra dồn dập. “Phỏng
vấn ông Soley Wilson”, “Bác sĩ chuyên khoa nổi tiếng nói là
không có chi phải thất vọng”, “Đặc phải viên của chúng tôi báo
về thấy một chuyên viên nổi tiếng ngồi trên mái nhà để trốn đoàn
bệnh nhân hung dữ tràn ngập pḥng mạch. Thái độ của ông th́ cho
thấy, ông đánh giá t́nh h́nh của thảm họa rất nghiêm trọng,
nhưng vị bác sĩ không cho là mọi hy vọng đă tắt ngấm. Macdona
chắc sè bắt đầu bài phóng sự như vậy. C̣n Bond, chắc sẽ lấy tin
ở khu St. Paul, anh tưởng tượng ra cách viết. Tôi tin đây là đề
tài hợp với sở trường của anh!” Đứng trên một lan can trong ṿm
nhà thờ, nh́n xuống đám đông dày đặc những con người thất vọng,
đang cuống cuồng níu kéo những giây phút cuối cùng, trước một
sức mạnh vô h́nh họ không hề biết một tí ǵ, một tiếng rên rỉ
van xin, hăi hùng vang đến tai tôi, rồi một tiếng kêu cầu cứu
đấng vô h́nh làm tôi rùng ḿnh...
Tuy nhiên, chết như thế cũng là vinh dự cho nghề làm báo, cũng
như tôi. Anh ấy đă chết khi có nhiều. tin quư chưa được đăng. Có
tin ǵ anh biết mà anh không viết ra, trong cột báo có chữ J.H.B
ở cuối? Thật tội nghiệp!
Nhưng cái ǵ đă thúc đẩy tôi viết! Chỉ là để qua những phút giây
tuyệt vọng. Bà Challenger đă rút sâu vào pḥng trang sức, và
giáo sư cho biết là bà ấy đang ngủ thiếp đi. Ông tiếp tục ghi
chú và tham khảo sách ở bàn giữa, cứ như là ông vẫn đang ở trong
một giai đoạn nghiên cứu b́nh thường. Ông viết soạn soạt bằng
bút lông chim, như thể coi thường những kẻ bất đồng với ông.
Summelee ngồi im trên ghế, lâu lâu lại ngáy lên vài tiếng như
thể kiệt sức. Đức ông John cũng nằm xuống, hai tay trong túi
quần, mắt nhắm lại. Tôi không hiểu sao trong hoàn cảnh này mà
người ta c̣n ngủ được.
3 giờ 30 sáng. Tôi mới giật ḿnh thức dậy. Tôi ghi mục cuối lúc
11 giờ 5 phút. Tôi nhớ lúc đó tôi lên dây đồng hồ và nhớ được
thời gian. Thế là tôi đă ngủ phí gần năm giờ đồng hồ của khoảng
thời gian quí hóa c̣n dành cho chúng tôi Ai có thể tưởng chúng
tôi c̣n ngủ được? Nhưng tôi cảm thấy khỏe khoắn hơn, và sẵn sàng
đón nhận số mạng, hay tự nhủ như vậy. Khi một người đàn ông càng
khỏe, sức sống càng dồi dào, lại càng sợ chết. Thiên nhiên sắp
đặt như vậy thật khôn ngoan và từ bi, cái neo vào trần thế của
một người, bị kéo bật lên từ từ không cảm thấy được, cho đến khi
người đó hoàn toàn ch́m vào vô thức, và bị nhấc lên thượng giới
cao xanh! Bà Challenger vẫn ở trong pḥng trang sức. Challenger
ngủ gục trên ghế. Coi mới ngộ làm sao! Người ông ngả ra sau ghế,
hai cánh tay lông lá, mập khoanh trước áo gi-lê, đầu ông ngửa ra
sau, sâu đến nổi tôi thấy phía trên cái cổ áo chỉ có bộ râu rậm
rối nùi. Người ông run run v́ chính những tiếng ngáy của ông,
trầm trầm ḥa với tiếng ngáy giọng cao của Summelee. Đức ông
John bây giờ cũng ngủ, thân nghiêng, co về một bên trên chiếc
ghế mây. Rạng sáng c̣n mát lạnh đă len lén vào pḥng. Vạn vật
vẫn c̣n sẫm tối và tang tóc.
Tôi nh́n ra b́nh minh. Mặt trời mọc vào ngày định mệnh này, sẽ
chiếu rọi trên một thế giới không người. Loài người đă bị tiêu
diệt, biến mất hết chỉ trong một ngày. Các hành tinh vẫn vận
hành quanh mặt trời. Thủy triều vẫn lên xuống, gió vẫn ŕ rào,
và vạn vật vẫn tiếp tục sinh hóa, cả lũ a míp nhỏ nhất cũng tiếp
tục tiến hóa, nhưng tuyệt đối không có bóng dáng của con người,
sinh vật đă từng tự phong cho ḿnh là Chúa sáng tạo, đă từng làm
cho trái đất đáng tôn vinh hay đáng rủa xả bằng sự hiện hữu của
ḿnh. Dưới vườn, Austin nằm chết, cái mặt nhợt nhạt, bóng lên
trong ánh b́nh minh, hai tay nghều ngoào vươn ra, c̣n nắm cái
ṿi nước rửa xe. Toàn thể loài người bây giờ được điển h́nh
trong cái xác nửa hài hước nửa đáng thương, nằm bất động cạnh
cái xe ông vẫn điều khiển.
Bút kư của tôi chấm dứt ở đây v́ từ đây biến cố biến chuyển
nhanh quá, đau thương quá, tôi không thể tiết tiếp được nhưng kư
ức tôi ghi nhớ rất rơ đến từng chi tiết.
Một cảm giác nghẹt cổ khiến tôi ngó vào b́nh oxy. Thời gian sống
của chúng tôi c̣n quá ít. Trong đêm Challenger đă mở b́nh oxy
thứ tư và b́nh này cũng sắp hết. Cái cảm giác co thắt bóp nghẹt
tôi, tôi băng qua mở b́nh oxy, gắn ṿi qua b́nh cuối cùng. Khi
làm việc này mà tôi thấy tim giật thon thót. Tôi nghĩ dại, nếu
tôi ngưng không mở b́nh chót, tất cả bốn người sẽ ra đi êm thắm
trong giấc ngủ của họ. Ư nghĩ đó của tôi bị cắt đứt nhờ tiếng
kêu của bà Challenger ở pḥng trong.
- Anh George, anh George em nghẹt thở quá!
- Sẽ ổn thôi, thưa bà Challenger. - Tôi trả lời khi những người
khác đều lục tục đứng dậy. - Tôi vừa mở b́nh mới rồi.
Đến lúc này tôi cũng không nhịn được cười, khi nh́n cái bộ dạng
của Challenger, mỗi bàn tay lông lá úp lên một mắt, như một em
bé bự c̣n ngái ngủ. Summelee th́ run rẩy như trong phút yếu
ḷng, nỗi sợ hăi cho số phận mỏng manh của con người. Nhưng khi
nhớ lại được vị trí của ḿnh, làm ra vẻ hơi khắc khổ hơn cái vẻ
của một nhà bác học chân chính. Đức ông John th́ tươi rói, tỉnh
táo như vào một buổi sáng đi săn. Ông liếc nh́n những b́nh oxy
rồi nói:
- Này ông bạn trẻ; chắc ông hết ghi cảm tưởng vào cuốn sổ để
trên đùi rồi phải không?
- Tôi chỉ ghi ít hàng cho qua thời giờ thôi.
- Nói thật, tôi không tin là c̣n có ai làm được các việc như các
người Ireland các ông. Tôi e rằng trước khi người anh em a míp
của chúng ta lớn lên, ông không hy vọng ǵ t́m ra độc giả đọc
bài của ông đâu. Người anh em a míp sẽ không quan tâm đến nhiều
vấn đề như thời đại chúng ta đâu. Này, giáo sư, tương lai sẽ la
sao?
Challenger nh́n những đám sương sớm đang la đà trên cảnh vật.
Rải rác, những ngọn đồi cao có cây, như những ḥn đảo h́nh nón
lá, nhô lên một biển mây bồng bềnh.
- Có thể chỉ là một trang giấy bị gấp quăn queo thôi, - bà
Challenger lên tiếng khi vào pḥng. - Đó là bài ca thường lệ của
anh thôi, anh George. Tống cựu nghênh tân. Nó chỉ có tính cách
tiên đoán thôi. Nhưng trời ơi, các ông đang run lẩy bẩy cả ḱa.
Tôi được đắp chăn ấm cả đêm, c̣n các ông ngồi lạnh trên ghế. Tôi
sê làm cho các ông ấm lại.
Người phụ nữ nhỏ nhắn, can đảm mau mắn ra khỏi pḥng.
Chúng tôi nghe tiếng nước sôi x́ x́, rồi bà bưng ra một khay năm
ly ca cao bốc khói.
- Mời các ông uống cái này, sẽ ấm ngay thôi.
Chúng tôi uống và Summelee hỏi đốt ống điếu được không. Chúng
tôi đều hút thuốc lá. Thuốc làm cho chúng tôi b́nh tĩnh một
chút, nhưng khói thuốc làm cho không khí trong pḥng thành ngột
ngạt. Challenger phải mở cửa thông khí.
- C̣n được bao lâu nữa, Challenger? - Đức ông John hỏi.
Challenger nhún vai trả lời:
- Khoảng ba giờ.
- Em cứ hay sợ hăo. Nhưng lần này càng đến gần giờ tận số, em
lại chẳng thấy sợ. Chúng ta có nên cầu nguyện không, anh George?
Ông giáo sư phương phi trả lời:
- Em nên đọc kinh nếu em thích. Mỗi người đều có cách cầu nguyện
riêng. Cách cầu nguyện của tôi là chấp nhận số phận. Hoàn toàn
tự nguyện chấp nhận. Tôn giáo và khoa học nhất trí ở điểm này.
Giáo sư Summelee lại lè nhè qua cái píp ngậm ở miệng.
- Tôi không thể diễn tả tâm trạng tôi là chấp nhận được. Lại
càng không phải là tự nguyện chấp nhận. Tôi phải đón nhận số
phận v́ tôi không tránh được. Tôi rất mong được sống thêm một
năm nữa để tôi hoàn thành bảng sắp loại các hóa thạch đá vôi.
- Công việc dở đang của ông là chuyện nhỏ, - giáo sự Challengel
nói có vẻ huênh hoang. - Nếu đem so với tác phẩm vĩ đại “Tiến
tŕnh sự sống” của tôi. Tôi mới đang viết về giai đoạn đầu. Bộ
óc tôi, những điều tôi đọc được và kinh nghiệm, thực sự là công
cụ đuy nhất của tôi, sẽ được cô đọng súc tích trong tác phẩm
đánh dấu thời đại này. Thế mà tôi c̣n phải nói là tự nguyện chấp
nhận.
Đức ông John hào hứng góp ư:
- Tôi đề nghị mỗi người đều cho biết công việc đang làm. Ông
đang làm ǵ, ông bạn trẻ?
- Tôi đang hoàn tất một tập thơ.
- Dẫu sao th́ thế giới đă chẳng c̣n dịp để đọc rồi. Nhưng mất
cái này sẽ được cái khác.
Tôi hỏi:
- Ông đang làm ǵ?
- À tôi đă nhất quyết và sẵn sàng cả rồi. Tôi hứa với Merivale,
mùa xuân này đi Tây Tạng săn báo tuyết. Nhưng nếu ông ấy đi với
chúng tôi th́ bà sẽ phải qua một thời kỳ vất vả đấy. Bà sửa sang
nhà cửa đẹp quá.
- Anh George ở đâu, th́ đó là nhà của tôi. Ồ mà tại sao chúng ta
lại không đi dạo với nhau, trên những đồi cỏ đẹp kia, trong buổi
sáng nay nhỉ?
Trong thâm tâm, chúng tôi đều đồng ư với bà. Mặt trời vừa ló lên
khỏi biển sương mù, cánh rừng và đồng cỏ Weald, ngập tràn trong
ánh nắng vàng. Phải ngồi trong pḥng kín thiếu ánh sáng và không
khí ô nhiễm, th́. cái cảnh trong lành huy hoàng, lộng gió ngoài
kia, quả thật hấp dẫn và đẹp hơn mơ. Bà Challenger đưa tay ra ô
cửa kính một cách thèm thuồng. Chúng tôi kéo ghế ngồi thành nửa
ṿng quanh cửa sổ. Không khí trong pḥng đă thật sự ngột ngạt.
Tôi thấy bóng thần chết đă lởn vởn quanh chúng tôi, cuộc chạy
đua cuối cùng. Giống như một bức màn bủa chụp chúng tôi từ bốn
phía.
Đức ông John cố ngáp ngáp để thở:
- Chai oxy này thở không được lâu.
- Đúng, dung tích mỗi chai khác nhau. Dung lượng tùy thuộc vào
áp suất nén và sự cẩn thận của người nạp khí vô chai. Đồng ư với
ông, Roxton, chai này khiếm khuyết.
Challenger vẫn b́nh tĩnh. Nhưng Summelee lại nổi quạu:
- Vậy là chúng ta lại bị lường gạt những giờ cuối cùng của cuộc
sống. Đây cũng lại là một bằng chứng rơ ràng, về sự. bẩn thỉu
của thời đại ta đang sống. Thôi, đă đến lúc ông nghiên cứu hiện
tượng tan ră của thân thể ḿnh, bằng chính cảm nghiệm của ông,
Challenger.
- Nào, mời em ngồi trên chiếc ghế đẩu trước mặt anh, và đưa tay
cho anh. - ông Challenger ôn tồn nói với vợ. - Các ông ạ, tôi
thấy không nên kéo dài giây phút ngột ngạt này lâu hơn nữa. Em
không thích vậy à, cưng?
Bà vợ bé nhỏ của ông rên nho nhỏ, và gục mặt vào gối ông. Đức
ông John liên hệ một kinh nghiệm:
- Tôi đă thấy người ta tắm ở hồ Serpentine vào mùa Đông. Một số
ở trong hồ, số khác c̣n ngồi run rẩy trên bờ, thầm ghen với
những người đă nhảy xuống trước. Càng chần chừ càng khốn khổ v́
lạnh. Tôi sẵn sàng đi đầu và lao vào ether để...
- Ông muốn mở cửa thông hơi để ether lùa vào à?
- Thà chết v́ ether độc c̣n hơn là chết ngáp.
Summelee miễn cưỡng gật đầu đồng ư và đưa bàn tay gầy guộc ra
cho Challenger:
- Chúng ta đă căi nhau suốt đời, nhưng giờ đây mọt sự đă xong.
Chúng ta là những bạn tốt của nhau, và trong thâm tâm vẫn kính
phục nhau. Vĩnh biệt!
- Vĩnh biệt ông bạn trẻ! - Đức ông John nói với tôi. - Cửa sổ đă
dán keo cứng, không mở ra được đâu.
Challenger nâng vợ đứng dậy, ôm sát bà vào ḷng, bà choàng hai
tay lên cổ ông.
- Làm ơn đưa cho tôi cái ống nḥm, Malone.
Tôi đưa cho ông.
- Trong tay Đấng Toàn Năng đă tạo nên chúng ta, chúng ta lại trở
về với Ngài! - Challenger tuyên bố, giọng oang oang rồi ném cái
ống nḥm vào cửa kính.
Trước khi hết các miếng kính vỡ rơi loảng xoảng, một luồng gió
trong lành ngọt ngào phả mạnh vào mặt chúng tôi.
Tôi không nhớ chúng tôi ngồi im lặng, ngỡ ngàng trong bao lâu.
Rồi như trong mơ, tôi lại nghe tiếng Challenger cất lên:
- Chúng ta lại trở về trạng thái b́nh thường. Trái đất đă ra
khỏi ḍng ether độc, và chúng ta là những người cô đơn c̣n sống
sót.
Chương 5 -
THẾ GIỚI CHẾT
Chúng tôi ngồi ngỡ ngàng im
lặng. Gió Tây Nam từ biển thổi vào trong lành, mát rượi, làm
những bức màn sa tin uốn lượn phần phật. Những bộ mặt nóng bừng
v́ hồi hộp eủa chúng tôi đă dịu lại. Không biết chúng tôi ngồi
như vậy trong bao lâu, và sau này cũng chẳng ai xác nhận được
điểm này. Chúng tôi ngẩn ngơ, bàng hoàng, nửa tỉnh nửa mê.
Chúng tôi đă lấy hết can đảm để đón nhận cát chết, rốt trước một
sự thực chớp nhoáng bất ngờ: chúng tôi là những người sống sót
lạc loài, của toàn thể nhận loại. Sự kiện khủng khiếp này như
một cú trời giáng, làm chúng tôi tê liệt. Rồi từ từ, cơ chế phục
hoạt trong con người bắt đầu chuyển vận, kư ức chúng tôi bắt đầu
sống dậy. Tư tưởng chúng tôi bắt đầu lóe ra và kết nối lại.
Chúng tôi ư thức được rơ ràng, tương quan các sự kiện hiện tại,
quá khứ và tương lai, giữa cuộc sống chúng tôi đă trải qua và
lối sống chúng tôi phải sống trong tương lai. Chúng tôi im lặng
đưa cặp mắt kinh hoàng nh́n nhau, và thấy câu trả lời trong mắt
nhau. Thay v́ vui mừng như người ta thường nghĩ, sau khi đă
thoát được trong đường tơ kẽ tóc một cái chết trước mắt, chúng
tôi lại ch́m trong màn đen tuyệt vọng. Tất cả những ǵ chúng tôi
yêu quí đều bị nhấn ch́m trong một đại dương mênh mông vô định,
và chúng tôi như bị trôi giạt vào ḥn đảo thế giới hoang vu
không có đồng loại, chẳng có hy vọng và nguyện vọng nào. Chỉ sau
vài năm quanh quẩn kiếm ăn, trên cái tha ma mộ địa lớn này của
loài người, như một bầy chó hoang, cái chết muộn màng và cô độc
cũng sẽ đến.
- Khủng khiếp quá, anh George, thật là khủ ng khiếp! - Người
phụ nữ nói qua tiếng nấc nghẹn ngào. - Phải chi chúng ta cùng
được chết với mọi người. Ôi, tại sao anh lại cứu chúng ta sống.
Em thấy, giá chúng ta chết và mọi người c̣n sống, có lẽ hạnh
phúc hơn.
Cặp chân mày đen rậm của Challenger nhíu lại suy nghĩ, trong khi
hai bàn tay lông lá, to bè của ông xiết tay vợ trấn an. Tôi thấy
bà luôn đưa tay cho ông mỗi khi lo lắng, y như những em bé bám
lấy mẹ t́m che chở.
- Tôi không như những người theo thuyết định mệnh, đến độ không
có phản ứng ǵ trước thảm họa, nhưng tôi nghĩ khôn ngoan nhất là
chấp nhận thực tế. - Ông nói chậm răi, oang oang nhưng giọng
cũng run run v́ xúc động.
- Tôi không chấp nhận, - Summelee lại nói cứng.
Đức ông John nhận xét:
- Chấp nhận thực tế hay không th́ có khác ǵ đâu. Chấp nhận bằng
cách khoa chân múa tay kháng cự, hay nằm im mà chấp nhận th́ có
khác ǵ nhau. Vậy th́ chấp nhận hay không cũng chẳng nghĩa lư
ǵ. Tôi chẳng thấy ai trong chúng ta yêu cầu để cho chết trước
khi tai họa xảy ra. Và giờ này chắc cũng chẳng ai yêu cầu để yên
cho ḿnh tự sát. Như thế, nghĩ đến chết hay không chết phỏng có
ích ǵ?
- Chỉ có vấn đề là ta hạnh phúc hay đau khổ khi c̣n sống sót
thôi. - Challenger lơ đăng nói, tay vẫn vỗ về vợ. - Ông có thể
bơi theo ḍng lũ mà thanh thản tâm hồn, hoặc vùng vẫy bơi ngược
lại, với thân thể bầm dập, tâm hồn bất an. Hoàn cảnh này ở ngoài
khả năng của chúng ta, ta phải nh́n thẳng vào sự thực. Không bàn
căi ǵ nữa.
- Nhưng chúng ta sẽ tổ chức cuộc sống thế nào đây? - Tôi hỏi mà
như tuyệt vọng, cầu cứu với trời xanh. - Thí dụ, cụ thể như tôi
phải làm ǵ? Chẳng c̣n báo chí, tôi làm ǵ để sống c̣n?
- Và cũng chẳng c̣n muông thú nào để săn bắn, chẳng c̣n lính
tráng để tôi chỉ huy. Tôi cũng thất nghiệp. - Đức ông cũng rầu
rĩ nối lời.
- Và cũng có sinh viên nào đâu, tôi sẽ làm ǵ? - Giáo sư
Summelee cũng hốt hoảng la lớn.
Bà chủ nhà lại rất lạc quan:
- Tôi c̣n chồng và ngôi nhà, cám ơn trời, tôi vẫn không thất
nghiệp.
Challenger cũng vẫn rất b́nh thản:
- Tôi cũng chẳng thất nghiệp, v́ khoa học không chết. Chính tai
họa này lại tạo cho tôi nhiều đề tài nghiên cứu sâu xa hơn.
Ông mở rộng hết các cửa sổ. Chúng tôi lẳng lặng nh́n ra cảnh vật
im ĺm, bất động bên ngoài.
- Để xem, - Giáo sư Challenger tiếp. - Khoảng 3 giờ hay hơn một
chút, trái đất lọt hẳn vào ḍng ether độc. Bây giờ là 9 giờ, vậy
vào giờ nào ta ra khỏi vùng khí độc?
Tôi nói:
- Vào tảng sáng, không khí vẫn rất tệ.
- Trễ hơn nữa, - bà Challenger lên tiếng, - vào khoảng 8 giờ tôi
cảm thấy rơ triệu chứng nghẹt thở, như lúc bắt đầu hôm qua.
- Vậy th́ ta có thể nói trái đất hoàn toàn ra khỏi dải ether độc
lúc 8 giờ sáng, cả thế giới đă ch́m ngập trong khí độc trong 17
giờ đồng hồ. Trong khoảng thời gian ấy, nhà làm vườn vĩ đại đă
sát trùng, tẩy những vi-khuẩn-người đang bám ngoài vỏ trái nho
của ông ta. Có thể nào, việc tẩy trùng có sai sót, và c̣n những
người khác sống sót, ngoài chúng ta không?
- Tôi cũng thắc mắc như vậy. - Đức ông John vột bắt vào ư nghĩ
đó. - Tại sao chỉ c̣n ḿnh chúng ta sống sót, như những viên
cuội lẻ loi trên băi biển?
Summelee quả quyết:
- Thật vô lư, nếu đoán có ai đó ngoài chúng ta c̣n sống sót. Cứ
nghĩ tới người mạnh như ḅ mộng, vạm vỡ như Malone đây, mà bị
ether độc quật ngất xỉu ngay, không kịp chạy lên thang. Khó có
ai chịu đựng được trong 17 phút, c̣n nói chi đến 17 giờ.
- Trừ phi cũng có những người khác, giống như ông bạn già
Challenger của chúng ta đây đoán trước được và chuẩn bị chu đáo.
- Khó có chuyện đó lắm. - Challenger nghi ngờ, hất râu về phía
trước, lim dim đôi mắt. - Phải phối hợp quan sát, liên hệ và
tiên đoán nhạy bén mới mong đoán trước được hiểm họa. Người làm
được như vậy, ít có 2 người trong cùng một thế hệ .
- Vậy th́ ông quả quyết là nhân loại đă bị tận diệt?
- Có rất ít nghi ngờ về chuyện này. Tuy nhiên, nên nhớ rằng,
ether độc từ dưới thấp bốc lên cao, nên rất có thể ngoài thượng
tầng khí quyển ít độc hơn. Hiện tượng này kể cũng lạ nhưng dải
khí độc đă cho ta thấy một trong những đặc tính của nó, nay mai
sẽ là một lănh vực nghiên cứu rất hấp dẫn. Bởi vậy, ta có thể
mường tượng ra, nếu muốn t́m kiếm những người sống sót trên trái
đất, ta phải ghé mắt vào những làng ở Tây Tạng, hoặc những nông
trại trên dăy Aleps, ở độ cao trên 3000m, th́ may ra c̣n có
người sống sót.
Đức ông gạt ngang:
- Làm ǵ c̣n hỏa xa, tàu biển mà đến được đó, ông có thể nói đến
người sống sót trên mặt trăng cũng chẳng ai phản bác được. Điều
tôi c̣n thắc mắc là tai họa này đă qua hẳn chưa, hay nó mới đến
giai đoạn nghỉ giải lao.
Summelee nghểnh cổ lên để nh́n tận chân trời, rồi phát biểu
thiếu quả quyết.
- Trời trong sáng và đẹp. Hôm qua cũng vậy Tôi không thấy lư do
nào, để quả quyết là tai họa đă qua hẳn.
Challenger nhún vai, rồi tiếp:
- Chúng ta trở lại ư niệm nhân quả một chút. Nếu trái đất trước
đây đă có lần gặp tai họa này, không ngoài xác suất ngẫu nhiên,
th́ phải đă lâu lắm rồi. V́ thế, ta có thể hy vọng nếu thảm họa
này có lặp lại chăng nữa cũng c̣n rất lâu.
- Nếu thế th́ càng tốt, - đức ông John góp ư. - Nhưng ông nhớ
rằng một trận động đất xảy ra, có thể bị ngay một trận liên
tiếp. À mà tôi cho là khôn ngoan nhất, chúng ta nên ra ngoài
bách bộ cho đỡ cuồng cẳng, và hít thở lấy một ít khí trời trong
lành, khi chúng ta c̣n có dịp hưởng. V́ khi oxy của chúng ta đă
hết, th́ chết ngoài trời cũng như chết trong pḥng.
Điều kỳ lạ là chúng tôi như hoàn toàn tê liệt, như thể phản ứng
ngược lại với cơn xúc động mạnh trong 24 giờ qua. Tê liệt cả thể
chất lẫn tinh thần, một cảm thức nằm sâu tận trong tiềm thức,
chẳng c̣n ǵ quan trọng nữa, mọi thứ đă chán chường, cố gắng mà
làm ǵ. Cả Challenger cũng rơi vào tâm trạng này. Ông ngồi đó
một đống, cái đầu to gục trên hai bàn tay, suy nghĩ mông lung.
Măi tới khi Đức ông John và tôi, mỗi người một bên, xốc nách ông
ta đứng dậy, ông nh́n chúng tôi tóe lửa hằn học, gầm gừ như một
con chó ngao bị chọc phá. Nhưng khi chúng tôi đă ra khỏi cái
hang an toàn chật hẹp, bước vào bầu không khí thoáng đăng hàng
ngày, chúng tôi phấn chấn, khỏe khoắn dần lên.
Ta bắt đầu làm ǵ đây, trong cái thế giới nghĩa địa này? Từ thời
tạo thiên lập địa đến giờ, con người có từng gặp vấn nạn như thế
này không? Dĩ nhiên chúng tôi cần những sản phẩm vật chất, lương
thực và các tiện nghi để sống. Nhưng c̣n tất cả những cửa tiệm
bách hóa, cửa hàng lương thực, các kho tàng nghệ thuật, chúng
tôi muốn lấy ǵ th́ lấy. Nhưng chúng tôi bắt đầu bằng việc ǵ
đây? Vài việc phải làm ngay, đang bày ra trước mắt chúng tôi.
Chúng tôi vào bếp, khiêng hai xác gia nhân đặt lên giường của
họ. Cái chết của họ có vẻ không đau đớn ǵ. Một người chết trên
ghế cạnh bếp lửa, một người trên nền nhà pḥng dụng cụ nhà bếp.
Sau đó chúng tôi khiêng Austin từ vườn vào nhà. Xác ông co quắp,
cứng đờ ở một tư thế kỳ quặc. Mặt ông co lại thành một nụ cười,
ngạo nghễ.
Triệu chứng méo miệng rất đặc trưng ở những người ngộ độc. Bất
cứ đi đến đâu, chúng tôi cũng đều gặp những xác chết với bộ mặt
nhăn nhó cười, như đang tiếu ngạo cái hoàn cảnh dở khóc dở cười,
hẩm hiu, của những kẻ sống sót của nhân loại.
- Nghe này, - đức ông John lên tiếng, trong khi đang bồn chồn đi
tới đi lui trong pḥng ăn, nơi chúng tôi đang dằn bụng một chút.
- Không hiểu các ông nghĩ sao, tôi thấy ta phải làm cái ǵ chứ,
sao lại cứ ngồi ở đây...
Challenger phụ họa
- Có lư, làm ơn cho biết chúng ta nên làm ǵ.
- Đi xem những ǵ đă xảy ra.
- Tôi cũng đồng ư như vậy.
- Nhưng không vào trong làng, từ cửa sổ này ta cũng đă thấy đủ
rồi.
- Vậy ta nên đi đâu?
- Đi London!
- Không có ǵ trở ngại, - giáo sư Summelee nói mà như càu nhàu.
- Các ông th́ có thể đi bộ được 40 cây số, nhưng tôi không chắc
cặp gị ngắn củn của Challenger có kham nổi không. Tôi th́ dư
sức lội rồi.
Challenger rất bực ḿnh, nhắc khéo:
- Nếu ông đă biết giới hạn vào chuyện khoe thể lực của ḿnh, ông
cũng phải biết c̣n nhiều lănh vực khác để phẩm b́nh chứ.
Ông bạn vô ư vô tứ vội vàng thanh minh:
- Thật t́nh tôi không cố ư xúc phạm ông, ông Challenger đáng
kính. Ông đâu có đáng trách về thân thế ḿnh. Bẩm sinh ông đă
mập và lùn, th́ làm sao mà ông tránh có cặp gị ngắn ngủn cho
được.
Challenger tức nghẹn họng, chẳng nói nên lời, chỉ c̣n biết lẩm
bẩm, nh́n căm tức, râu tóc dựng ngược. Đức ông John vội vàng can
thiệp, trước khi cuộc căi vă xảy ra.
- Nói đến đi bộ, tại sao ta lại phải đi bộ chứ?
Challenger vẫn c̣n sôi máu, hỏi ngạo:
- Vậy ông đề nghị đi xe lửa à?
- Cái xe của ông có trục trặc ǵ không? Tại sao ta không đi xe
hơi?
- Tôi có là chuyên viên xe hơi đâu mà biết.
Challenger thoáng vui trở lại.
- Tuy nhiên tôi hoan nghênh quan điểm ẩn tàng trong đề nghị của
ông về, đă là dân trí thức th́ cũng có thể tùy thời làm được bất
cứ cái ǵ. Tư tưởng của ông tuyệt đấy. Tôi sẽ lái xe đưa các ông
đi London.
Summelee kêu toáng lên:
- Ông không làm chuyện như vậy được đâu?
Vợ giáo sư cũng đồng t́nh:
- Đúng đấy anh George ạ anh không lái xe được đâu? Anh c̣n nhớ
anh mới thử tự lái xe có một lần, và anh đă tông vào cửa nhà xe
như thế nào không.
Challenger vẫn nói ra vẻ tự măn, ḿnh có thể làm hết mọi thứ:
- Chỉ tại lúc đó anh sơ ư một chút thôi mà. Em có thể coi chuyện
đó như chuyện quá khứ được rồi. Tôi sẽ lái xe đưa mọi người đến
London .
T́nh h́nh lại được Đức ông John cứu văn:
- Xe của ông... hiệu ǵ?
- Humber, 20 mă lực.
- Vậy sao? Tôi cũng lái loại đó vài năm đấy. Chà chà, tôi không
ngờ c̣n sống để có vinh dự, chở cả loài người trong một chuyến
xe. Tôi nhớ là vừa đủ chỗ cho năm người. Mọi người chuẩn bị sấn
sàng hành lư đi, tôi sê đánh xe lên cửa trong ṿng 5 phút.
Đúng như lời, 5 phút sau, chiếc xe nổ rù ŕ trước cửa, với Đức
ông John ở tay lái. Tôi ngồi ghế bên cạnh tài xế. Bà Challenger
đóng vai quốc gia đệm giữa hai khối thù địch ở băng sau. Đức ông
nhả thắng, đẩy cần sang số nhanh gọn từ 1 sang 3, chiếc xe lao
đi, trên những khúc đường có quang cảnh lạ kỳ nhất từ khi có
loại người đến giờ. Bạn có thử h́nh dung, quang cảnh đáng yêu
của một buổi sáng thu, tháng tám. Trong khí ban mai tươi mát,
dưới ánh mặt trời sớm, rực rỡ, màu xanh đậm đà của khu rừng
Sussex, trên nền xanh mơn mởn thảo nguyên, trời thanh thanh
không một gợn mây. Cứ phóng tầm mắt ra mênh mông, hùng vĩ chói
lọi xung quanh, bạn cũng không thể nào quên được cái thảm họa
cũng vĩ đại như thế, v́ cái im lặng khủng khiếp cũng bủa chụp
lên cảnh vật.
Trước đây vốn có những tiếng động tạp nham, trong cái vùng quê
nhà cửa san sát này, nhưng chúng ta có bao giờ để ư tới đâu.
Cũng như cư dân miền biển, có bao giờ ư thức là luôn có tiếng
sóng ŕ rào vĩnh hằng đâu. Tiếng chim chíp chíp, tiếng côn trùng
rù ŕ, tiếng sủa nhấm nhẳng của một con chó ở xa xa, tiếng rầm
rập của đoàn xe hỏa, tiếng lọc cọc của xe ḅ xe ngựa. Các âm
thanh sinh hoạt này, tổng hợp thành một ḍng âm thanh trầm trầm
rên rỉ, vang vọng đến tai ta. Bây giờ những âm thanh ấy không
c̣n. Cái im lặng thê lương chết chóc làm chúng tôi kinh hoàng.
Cái im lặng uy nghi, đe dọa, đến nổi tiếng nổ bong bong, tiếng
rung lạch cạch của chiếc xe hơi, cũng không thể xâm nhập vào cái
yên lặng mênh mông đó được. Cái im lặng dễ sợ, như tấm màn tang
phủ lên đống hoang tàn của nhân loại. Chỉ có câm lặng lạnh lùng,
và những cột khói đen, rải rác ngự trị trên khắp miền quê này,
làm chúng tôi rùng ḿnh phát sợ. Chúng tôi liếp nh́n quang cảnh
huy hoàng khu rừng Weald quen thuộc như cầu cứu.
Và rồi, đâu đâu cũng thấy xác người chết! Đầu tiên chúng tôi
liên tục gặp các nhóm xác chết, khuôn mặt cười nhăn nhúm, khiến
chúng tôi rùng ḿnh ghê sợ. Cái h́nh ảnh rơ ràng, thương tâm mà
chúng thấy trên đường đồi, qua khung cửa kính nơi an toàn của
chúng tôi, không thể xóa nḥa khỏi tâm trí. Cô bảo mẫu với hai
đứa trẻ, con ngựa quỵ giữa hai càng xe, đầu gục xuống tận hai
gối, người đánh xe vắt ngang thanh trước xe, cậu thanh niên
trong xe, mở cửa như muốn nhảy xuống đường. Thấp hơn một chút, 6
người gặt lúa nằm ôm nhau thành một đống, mắt mở trừng trừng,
ngước nh́n trời xanh. Tôi nh́n những cảnh này mà ḷng trơ trơ,
như nh́n một bức h́nh v́ như thể có dự tính sẵn của thiên nhiên,
hệ thần kinh của con người. Khi đă căng thẳng tột độ, nó không
phản ứng với hiện thực nữa, và ta trở nên vô cảm. Cái cảnh ghê
rợn khủng khiếp rộng lớn quá, sẽ không c̣n làm cá nhân chú ư
nữa. Các cá. nhân tụ lại thành nhóm, những nhóm tụ thành các đám
đông. Các đám đông trở thành cảnh chung, cuối cùng ta phải chấp
nhận đó là chi tiết chung của mọi cảnh. Chỉ lâu lâu mới có một
cảnh thật tàn nhẫn, hoặc một biến cố kỳ quái, chúng tôi mới chú
ư tới một xác chết riêng lẻ, tâm hồn như bị một cú xốc, mới để ư
tới ư nghĩa nhân tính của nó.
Trên hết là số phận của trẻ em, gây cho tột ư nghĩa trời đất
thật bất công, có thể làm chúng tôi rơi nước mắt. Bà Challenger
đă khóc thật sự. Một hàng dài học sinh, nằm dọc đường dẫn tới
một trường tiểu học lớn. Các em được các thầy cô trong cơn hoảng
hốt cho về. Đang trên đường về, các em bị ether độc chụp xuống.
Nhà nào cũng có những người chết gục ở cửa sổ, v́ họ mở ra khi
bị ngộp. Không cửa sổ nào không có cái bộ mặt cười, mắt mở thao
láo vắt ngang. Vào lúc thiếu oxy, mọi người đều nhào ra cửa sổ,
nhưng chỉ có chúng tôi có oxy chuẩn bị trước. Trên các lối ra
khỏi nhà cũng đầy xác người, nhiều người ngă trên đường xe. Cũng
may là Đức ông John lái xe rất giỏi, v́ không dễ ǵ qua được, mà
không cán phải xác người. Qua các làng hay thị xă, chúng tôi chỉ
có thể đi với tốc độ của người đi bộ. Tôi nhớ, hai ba lần trước
cổng một trường học ở Tonbridge, chúng tôi đă phải xuống xe,
khiêng xác người chắn đường lên hè nhà.
Một vài h́nh ảnh nhỏ, rơ nét in đậm trong tâm khảm tôi, trong
toàn cảnh chết chóc rộng lớn trên xa lộ Sussex - Kent. Một trong
những h́nh ảnh đó là một chiếc xe láng bóng đậu trước quán trọ
làng Southborough có lẽ những người trong xe mới đi chơi ở
Brighton hay Eastbourne về. Ba phụ nữ trẻ đẹp ăn mặc rất vui
nhộn, nhưng thanh lịch. Một bà c̣n ôm con chó Bắc Kinh trong
ḷng. Cùng đi trong nhóm là một ông già quạu cọ và một thanh
niên lịch lăm, đầu mẩu điếu thuốc tắt ngủm ở chỗ hai ngón tay
đeo găng kẹp lại. Chắc họ đă chết tức thời, nên giữ nguyên dáng
điệu phút chót của lúc sống. Chỉ ông già giựt cổ áo ra để thở,
c̣n các người khác chết ở tư thế tự nhiên, như đang ngủ vậy. Một
bên xe, cậu bồi bàn nằm co quắp trên các bậc thềm vào quán, cạnh
cậu là một cái khay và những mảnh cốc vỡ. Ở bên khác của xe, là
hai người ăn mày, quần áo rách rưới, nằm ở nơi ngă xuống. Người
đàn ông vẫn x̣e bàn tay ra ở tư thế xin tiền. Trong phút chốc,
ether độc đă đặt những nhà quư phái, cậu bồi và vợ chồng người
ăn mày ở tư thế b́nh đẳng cùng trở thành tiêu bản những xác
người bất động.
Tột nhớ một cảnh độc đáo khác, cách Sevenoaks về phía London vài
dặm. Có một tu viện lớn trên đồi, phía tay trái, lối lên đồi
dốc, viền hai hàng cây xanh rợp bóng. Ở đầu trên của dốc, hàng
trăm em bé đang quỳ trong hàng ở tư thế đọc kinh, hàng trên cùng
là các nữ tu giáo viên. Trên cao nhất là một nữ tu quay mặt về
phía họ, chúng tôi đoán là Mẹ Bề Trên. Khác với những người vừa
đi chơi về ở trong xe, nhóm người này chắc chắn đă được báo
trước tai họa, nên họ tổ chức chết đẹp, tập thể. Thầy, tṛ, hiệu
trưởng tập hợp lại, cùng nhau học bài học cuối cùng.
Lúc này nghĩ lại cảnh uy nghiêm hăi hùng đó, t́m cách diễn tả
cảm tưởng của chúng tôi lúc đó mà không ra, v́ cứ nghĩ tới nó,
đầu óc tôi lại bàng hoàng xúc động không nghĩ được ǵ. Nhưng có
lẽ tốt hơn hết, là tôi chỉ mô tả lại những sự thực. Thấy cảnh
đó, ngay cả Challengel và Summelee cũng chết lặng. Tôi chẳng
nghe những người ở băng sau nói ǵ, lâu lâu chỉ nghe tiếng khóc
thổn thức của bà Challenger.
Đức ông John phải tập trung lái xe ngoằn ngoèo giữa những đống
xác chết trên xa lộ Lenvisham đi Old Kent. Tại đây, chúng tôi bị
một cú xốc vừa bất thần vừa kinh ngạc. Trên cửa sổ một căn nhà ở
góc ngă tư, một cánh tay dài khẳng khiu đưa ra, vẫy qua vẫy lại
một cái khăn tay. Chẳng có cảnh chết chóc kỳ lạ nào làm chúng
tôi đứng tim, rồi lại đập loạn xạ, cho bằng cái dấu hiệu của sự
sống bất ngờ này. Đức ông John cho xe lên lề. Nhanh như chớp,
chúng tôi xuyên qua tầng trệt, lên lầu hai, nơi có vẫy khăn. Một
bà cụ ngồi trên ghế cạnh cửa sổ. Kế bên bà là chiếc ghế thứ hai
có một chai oxy, nhỏ hơn, nhưng h́nh dáng giống hệt những chai
oxy đă cứu chúng tôi. Bà cụ quay bộ mặt gầy g̣, nhăn nheo, đeo
kính lăo, khi chúng tôi đang bu quanh cửa.
- Tôi sợ rằng người ta bỏ mặc ḿnh tôi ở đây măi măi. Tôi bị phế
tật, không cử động được.
Challenger trấn an bà:
- Thưa bà, rất may mà chúng tôi đi qua đây trông thấy.
- Tôi có một câu hỏi quan trọng muốn hỏi các ông xin các ông trả
lời thành thật cho. Những biến cố này có ảnh hưởng ǵ đến cổ
phần Hỏa Xa London - Tây Bắc không?
Nếu bà cụ không nghiêm trang đợi câu trả lời của chúng tôi,
chúng tôi chắc đă phá ra cười rồi. Cụ Burston là một quả phụ,
lợi tức của cụ chỉ gồm cổ tức của vài cổ phiếu mà cụ mua. Đời
sống của cụ lên xuống theo giá cổ tức. Cụ cũng chẳng biết nhịp
sống bên ngoài ra sao, trừ phi giá cổ phiếu của cụ tăng giảm
mạnh. Chúng tôi cố gắng giải nghĩa cho cụ là tất cả tiền bạc
trên thế gian này đều là của cụ, nhưng có lấy cũng chẳng dùng để
làm ǵ được. Cụ không thể hiểu, đầu óc cụ không thể hấp thụ
những tư tưởng mới, và cụ khóc sướt mướt v́ cổ phiếu của cụ đă
vô giá trị. Cụ rên rỉ: “Tôi chỉ có bấy nhiêu, nếu mất hết, tôi
cũng sẽ chết mất thôi”.
Khi cụ c̣n đang than văn, chúng tôi khám phá ra, tại sao một cây
cỏ tàn tạ như cụ mà c̣n sống, trong khi những rừng cây cổ thụ
lại chết - cụ là một phế nhân, lại bị bệnh suyễn. Bác sĩ cho cụ
thở thường xuyên oxy qua b́nh. Chắc mỗi khi khó thở, cụ lại hít
oxy thêm qua ống hít. Khi ether độc tràn đến, cụ hít thở trực
tiếp oxy trong b́nh nên cụ sống sót. Chắc cụ đang ngủ thiếp đi
và choàng thức dậy khi nghe c̣i xe của chúng tôi. V́ không thể
chở cụ theo, và cụ có thể tự lực cánh sinh được vài ngày, nên
chúng tôi hứa liên lạc thường xuyên với cụ. Chúng tôi từ giă cụ
và cụ vẫn thương tiếc những cổ phiếu.
Chúng tôi đến bờ sông Thames, đường phố lại càng tắc nghẽn,
những đống xác người càng kỳ cục, vất vả lắm chúng tôi mới qua
được cầu London, lối lên cầu ở phía Midlesex bị kẹt xe, v́ ai
cũng muốn tiến lên trước. Một chiếc tàu thủy c̣n thắp đèn sáng
choang, đậu dọc cầu cảng không khí đầy bụi khói, mùi cháy khét
lẹt. Một cột khói dày đặc c̣n đang bốc lên ở phía ṭa nhà Quốc
Hội, nhưng từ đây, chúng tôi khó mà khẳng định là cơ sở nào
cháy.
Th́nh ĺnh, đức ông đậu xe lại và nêu nhận xét:
- Không biết các ông nghĩ sao, chứ tôi thấy đi về miền quê dễ
chịu hơn ở trong thành phố. Cái thành phố London chết này ám ảnh
tôi, khó chiu quá. Chúng ta đi ṿng về Rotherfield đi.
Giáo sư Summelee cũng biểu đồng t́nh:
- Thú thật, tôi không hy vọng gặp được những ǵ ở đây.
Challenger cũng c̣n tiếng bằng một giọng oang oang lạ thường,
trong khung cảnh thê lương tĩnh mịch này.
- Đồng thời, ta khó mà chấp nhận được, trong một thành phố 7
triệu dân như London, lại chỉ có một bà cụ, hoặc v́ có thể có
cấu tạo đặc biệt, hoặc v́ ngẫu nhiên của nghề nghiệp, đă xoay sở
được để sống c̣n.
- Nếu c̣n có người sống sót, làm cách nào liên lạc với họ, anh
George? - Vợ ông hỏi rất nhiệt t́nh. - Và em sẽ không trở về nhà
trước khi các ông thử liên lạc với họ.
Chúng tôi ra khỏi xe và bỏ nó trên lề đường, len chân đi bộ giữa
những xác người dày đặc lên phố Kinh Wiiliam, bước vào một vân
pḥng rộng của hăng bảo hiểm. V́ nó ở góc phố, nên hy vọng chúng
tôi quan sát được nhiều hướng.
Chúng tôi lên cầu thang, băng qua một pḥng rộng, có lẽ là pḥng
họp, v́ có tám người trong tuổi c̣n ngồi chết gục xung quanh một
cái bàn dài. Các cửa sổ cao của pḥng đều mở. Chúng tôi bước ra
ban công. Từ đây, chúng tôi thấy đường phố rải rác đầy xác chết,
tỏa đi 5, 7 hướng. Ngay dưới chúng tôi, một đầu đường đen từ lề
bên này sang lề bên kia, v́ những mui xe taxi đen, đậu bất động
sát bên nhau. Mọi hành khách, hay hầu hết đều tḥ đầu ra cửa sổ
xe, cho thấy, vào phút chót, dân chúng hoảng hốt ai cũng muốn về
nhà sớm ở ngoại ô. Lác đác, trong ḍng xe taxi và xe nhà rẻ
tiền, nổi bật lên những xe sang trọng, bảng đồng trang trí bóng
loáng của các tài phiệt, bi chặn lại trong bức tường thành xe cộ
kẹt cứng. Ngay trước mặt chúng tôi, có một cái xe sang như thế.
Ông chủ nhoài nửa người ra cửa sổ, tay phải đeo đầy nhẫn kim
cương, tay trái như đang giang ra, cho lệnh tài xế t́m mọi cách
bứt ra khỏi đ̣ng xe kẹt.
Lác đác, những chiếc xe buưt hai tầng, vươn cao như những ḥn
đảo, nhô lên biển xe bất động. Những khách ở tầng trên, nằm chết
ôm nhau thành từng đám hay nằm trong ḷng nhau, như những h́nh
người đồ chơi trẻ em trong nhà trẻ. Trên trụ đèn điều khiển giao
thông, một cảnh sát to khỏe, đứng dựa vào trụ với dáng vẻ tự
nhiên, đến nổi ta khó mà bảo là ông ta không c̣n sống. Dưới chân
ông là một cậu bé bán báo, nằm co quắp với chồng báo bên cạnh.
Một chiếc xe ngựa chở báo bị kẹt cứng sát lề đường, chúng tôi
c̣n đọc được cái đầu đề, in chữ lớn đen trên nền vàng “Quang
cảnh ở Lord, trận đấu liên quận bị gián đoạn”.
Đây có thể là những tờ báo in gần đây nhất, v́ trên những bảng
quảng cáo quanh xe, c̣n có những đầu đề: “phải chăng đă đến ngày
tận thế”, “Lời cảnh báo của nhà bác học vĩ đại”, và đề khác:
“Liệu ông Challenger có đúng không? Những tin đồn đen tối”.
Challenger chỉ cho bà vợ thấy cái tiêu đề này, v́ nó ngang tầm
mắt, như một tấm biểu ngữ, căng ngang trước mặt đám đông, tôi
thấy ưỡn ngực ra và vuốt ve cḥm râu, thích chí và tự măn, cái
đầu óc phức tạp của nhà khoa học này, có thể nghĩ rằng dân
London chết, vẫn nghĩ đến tên ông và lời cảnh báo của ông. Cảm
xúc ưng ư của ông rơ rệt đến nỗi, đồng nghiệp của ông phải ghen
tức lên phê b́nh.
- Trong ánh hào quang đến phút cuối cùng, giáo sư Challenger.
- Vâng, có vẻ như vậy, - Challenger đắc ư trả lời. Nh́n những
ngả đường đầy xác người, im ĺm âm đạm, ông tiếp: - Nấn ná ở
London thêm cũng chẳng ích ǵ, tôi đề nghị chúng ta trở về
Rotherfield ngay. Chúng ta sẽ bàn chương tŕnh hành động trong
những năm trước mắt sao cho có lợi nhất.
Tôi thuật thêm một cảnh mủi ḷng trong London thê lương này, vừa
trở về trong kư ức tôi. Đi ngang nhà thờ St Mary’s, chúng tôi
thoáng thấy cảnh bên trong. Cẩn thận bước tránh những xác phủ
phục trên bậc tam cấp, đẩy hai cánh cửa bật, bước vào. Thật là
một cảnh lạ! Nhà thờ đông nghẹt người chết, ở mọi tư thế quỳ
khiêm nhường cầu khẩn. Và phút kinh hoàng cuối cùng, họ đă phải
đối mặt với thực tế của kiếp nhân sinh, cái bất lực vào phút
chót. Họ đă t́m vào cái nhà thờ cổ này, lâu nay đă không c̣n tổ
chức lễ hay cầu nguyện ǵ. Họ quỳ sát vào nhau chặt như nêm cối.
Có người hoảng hốt vẫn c̣n đội mũ. Trên bục giảng là một thanh
niên, đứng đối diện với họ. Có lẽ anh đang động viên cộng đoàn
hăy vững tin, giọng ḿnh về với Chúa. Rồi cùng chiu chung số
phận với mọi người. Anh ấy gục xuống mặt bục, hai tay ôm choàng
hai thành bên, trông giống hệt một chai rượu ngâm trong xô đá.
Thật là cơn ác mộng kinh hoàng, trong các nhà thờ cổ đá xám,
hoang phế bụi bặm, những hàng người tinh thần đau khổ tột cùng,
trong bóng tối mờ mờ, tĩnh lặng thinh không. Chúng tôi đi nhón
gót lặng lẽ, lâu lâu chỉ dám th́ thào với nhau.
Th́nh ĺnh tôi nảy ra một ư nghĩ. Ở một góc cuối nhà thờ, phía
sau chén đá đựng nước phép. Trong một hốc lôm sâu, tôi thấy lủng
lẳng cái đầu dây chuông. Tại sao ta không kéo chuông để tập họp
những người sống sót ở đây? Tôi bước vào, nắm cái đầu dây quấn
vải và kéo. Ngạc nhiên quá! bây giờ tôi mới thấy kéo chuông
không phải dễ! Đức ông John vào giúp tôi một tay. Ông hào hứng
cởi áo ra, và nói:
- Trời ơi! ông bạn trẻ có một ư tuyệt quá! Để tôi nắm chắc đă,
rồi chúng ta sẽ kéo được nó kêu thôi.
Với sức của hai chúng tôi, chuông chỉ hơi nhúc nhích. Măi tới
khi cả Challenger lẫn Summelee cùng đè cả thân ḿnh lên dây với
chúng tôi, chuông mới chịu đổ bing boong trên đầu. Bây giờ tôi
mới cảm nhận được cái chuông đă lớn, cái lưỡi chuông c̣n nặng
đáng nể hơn. Đó đập vào thành chuông những cú làm rung rinh cả
mặt đất, không khí bị âm thanh khuấy động, đến nỗi tối cảm thấy
được áp lực lên da.
Tiếng chuông đă vang vọng khắp nơi, như một thông điệp th́nh
liên đới người với người, kêu gọi những người c̣n sống sót đến
đây, cùng với tiếng chuông cầu nguyện cho những vong hồn đi
trước. Tiếng chuông vàng rền vang như sấm, làm ḷng chúng tôi
rộn ră một niềm vui. Chúng tôi để toàn tâm toàn ư đến việc ḿnh
làm. Chúng tôi co hai chân lên mỗi khi chuông ở vị trí thẳng
đứng, dây chuông được kéo lên cao nhất; ngay sau đó, cùng kéo
xuống hết sức ḿnh.
Challenger bám ở vị trí thấp nhất, dùng hết sức lực và toàn thể
trọng lượng thân ḿnh. Ông chồm lên, hụp xuống như một con cóc
thần dị dạng. Mỗi lần kéo, ông đều ḥ uôm uôm. Nếu có một nghệ
sĩ nhiếp ảnh, chụp giùm một bức 4 nhà thám hiểm này th́ ư nghĩa
quá. Bốn người đă cùng sát cánh trong biết bao t́nh huống nguy
cấp, nay lại được số phận chọn lựa, để chứng kiến giờ phút
nghiêm trọng này.
Sau nửa giờ kéo chuông, thân thể chúng tôi ướt đẫm mồ hôi. Hai
cánh tay và lưng mỏi nhừ v́ đă gắng sức quá. Chúng tôi bước ra
cổng nhà thờ, trông ngóng nh́n cả hai đầu đường đông nghẹt nhưng
im ĺm, v́ chỉ toàn là xác chết. Không một tiếng động, không một
di chuyển, đáp ứng những hồi chuông triệu tập của chúng tôi.
Tôi buồn bă lên tiếng:
- Không hy vọng ǵ đâu. Chẳng c̣n ai sống cả.
- Chúng ta chẳng làm ǵ được nữa rồi. Anh George ơi, chúng ta về
Rotherfield đi. C̣n ở trong cái thành phố tĩnh mịch ma quái này
một lúc nữa, chắc em điên lên mất.
Chúng tôi lẳng lặng vào xe, chẳng ai nói một lời. Đức ông John
de xe lại, rồi quay đầu về hướng nam. Một chương lịch sử loài
người đă gấp lại, chương kế tiếp sẽ mở ra, mà chúng tôi chẳng
thể đoán được sẽ có những biến cố nào.
Chương 6 -
CUỘC TỈNH THỨC VĨ ĐẠI
Và đây là đoạn cuối của
biến cố phi thường này, có tầm quan trọng bao trùm, chẳng những
đến đời sống cá nhân của chúng tôi, mà c̣n đến lịch sử toàn nhân
loại. Cũng như tôi đă nói ở đầu thiên kư sự này, khi biến cố
lịch sử này được ghi lại, nó sẽ nổi bật lên như một ngọn núi cao
ngất giữa những quả đồi thấp lè tè. Thế hệ chúng ta đă có may
mắn đặc biệt, được trải qua biến cố ly kỳ này. Hậu quả của nó -
qua vụ kinh hoàng này, con người sẽ c̣n biết khiêm nhường, tôn
kính được bao lâu nữa - chỉ có thời gian mới trả lời được. Có
thể nói mọi sự sẽ không c̣n như trước nữa.
Chưa bao giờ con người cảm thấy được ḿnh bất lực và dốt nát đến
như vậy, chưa bao giờ con người cảm thấy được luôn có một bàn
tay nâng đỡ họ, chỉ khi bàn tay đó như muốn nắm lại, bóp nát họ,
họ mới thấy. Cái chết luôn ŕnh rập chúng ta và đến với chúng ta
bất cứ lúc nào. Chính cái bóng tử thần luôn lảng vảng, khiến ta
có ư thức bổn phận, biết điều độ chừng mực và lẽ sống ở trên
đời, có ư thức tu thân và thăng tiến. Chính công việc sinh tử
của Nam Tào, Bắc Đẩu mới làm cho xă hội loài người văn minh công
bằng hơn.
Sự thực này cao hơn mọi tôn giáo, mọi triết thuyết. Nó làm thay
đổi nhân sinh quan của chúng ta, mức trung dung quân b́nh của
ta. Nó chứng minh rô ràng chúng ta chả là ǵ, một sinh vật phù
du sinh kư tử quy, luôn sống trong bể khổ và do thiên lư định
đoạt.
Nếu ai cũng hiểu được điều này nghiêm túc hơn; thớt chắc chắn
thế giới ta đang sống sẽ dễ chịu hơn. Ai cũng đă thấy rằng các
cuộc vui giải trí điều độ hơn, tự chế hơn của chúng ta ngày nay,
có chiều sâu và ư nhị hơn những cuộc vui ồn ào của một thời gần
đây. Họ sống vất vả nhưng trống rỗng, trong những buổi ghé thăm
nhau chẳng có mục đích ǵ làm khổ nhau phải tiếp, trong những
bữa tiệc cầu kỳ và kiểu cách rất nhàm chán. Bây giờ ta đă biết
t́m những thú vui lành mạnh và thoải mái trong thú đọc sách,
nghe nhạc, lâu lâu nghé thăm thân tộc, bạn bè. Càng vui vẻ khỏe
mạnh, ta lại càng làm giàu nhanh, dù ta có phải đóng thuế nhiều
hơn, nhưng chính phủ đă dùng để tăng mức sống chung của dân đảo
quốc này.
Người ta vẫn chưa thống nhất được thời điểm mọi người hồi sinh.
Nhưng mọi người đều đồng ư là, ngoài việc các đồng hồ chỉ giờ
khác nhau, đặc tính của mỗi địa phương có ảnh hưởng đến tác dụng
của ether độc. Nghĩa là ở mỗi khu, người ta tỉnh thức cùng một
lúc. Nhiều người nh́n thấy Big Ben trên khắp London lúc đó chỉ 6
giờ 10. Nhà thiên văn Hoàng Gia đặt lại giờ kinh tuyến gốc
Greenwich lúc 6 giờ 12. Mặt khác, Laird Johnson, một nhà thiên
văn tiếng tăm ở East Anglia, ghi nhận lúc mọi người tỉnh dậy là
6 giờ 20. Ở đảo Hebrides, thức tỉnh muộn hơn: 7 giờ 00. Phần
chúng tôi, ngồi trong pḥng làm việc của Challenger, cái đồng hồ
đo giờ thí nghiệm rất chính xác nằm ngay trước mặt tôi. Lúc đó
là 6 giờ 15.
Tâm trạng chán nản đang đè nặng tâm hồn tôi. Ấn tượng chồng chất
do các cảnh hăi hùng tôi thấy trong chuyến đi vào London ám ảnh
tôi. Tôi khỏe như vâm, thân thể tràn đầy sức sống, thế mà tôi
lại lạc vào cơn lạc thần này, đầu óc cứ mụ ra. Tôi có khả năng
của dân lreland, có thể nh́n ra những nét hài hước trong bất cứ
hoàn cảnh đen tối nào. Cơn hôn ám chụp lấy tôi không lơi lỏng
khiến tôi phát hoảng. Tôi ngồi cạnh cửa sổ, hai tay đỡ cằm, ch́m
đắm trong hoàn cảnh khốn khổ của chúng tôi, trong khi mọi người
đang ở tầng dưới bàn chương tŕnh tương lai. Đầu tiên tôi tự hỏi
chúng tôi có nên tiếp tục sống lạc loài không? Chúng tôi có thể
sinh tồn trong một thế giới chết không. Như trong vật lư, vật
thể lớn bao giờ cũng hút vật nhỏ về phía ḿnh, liệu chúng tôi có
thể bị cả bộ phận nhân loại đă đi vào cơi vô thức vĩnh hằng thu
hút chúng tôi về cơi ấy với họ mà không thể cưỡng lại được
không? Chúng tôi về với họ bằng cách nào đây? Ether độc có thể
trở lại không? Hoặc chúng tôi sê chết v́ chất phân ră của vũ
trụ, vô h́nh nhưng độc hại. sau cùng là chính hoàn cảnh lạc
loài, bi đát của chúng tôi sẽ là áp lực lên tâm trí chúng tôi
đến độ không chịu nổi và hóa điên.
Tôi đang suy nghĩ về cái tư tưởng chết người này, một tiếng động
nhẹ làm tôi ngước nh́n ra con đường đồi: cái xe ngựa cũ đang ḅ
lên dốc! Đồng thời tôi cũng nghe văng vẳng tiếng chim hót, tiếng
ái ho dưới nhà và trong cảnh vật đă có sự sống chuyển động, sinh
hoạt. Chính cái con ngựa kéo xe già yếu hết sức lực thu hút chú
ư của tôi. Tuy chậm chạp, nhưng con ngựa leo dốc nhẹ nhàng và tự
nhiên. Tôi liếc sang người đánh xe ngồi chễm chệ trên ghế trước
xe, người thanh niên trong xe đang sống động chỉ trỏ hướng đi.
Không c̣n ǵ nghi ngờ nữa, họ đang sống và linh hoạt.
Mọi người đă sống lại! Tất cả sự việc chúng tội thấy, chỉ là ảo
giác thôi sao. Có thể nào quan niệm được chuyện ether gây độc
cho địa cầu chỉ là một cơn mơ kỳ lạ? Vào lúc mới bàng hoàng, cái
đầu óc thảng thốt của tôi đă sẵn sàng tin như vậy. Tôi cúi
xuống, bàn tay tôi c̣n những mụn phỏng rộp v́ kéo chuông. Đúng
là đă có ether độc làm cho mọi người mê man. Rồi bây giờ, cả thế
giới lại sống lại như cơn triều dâng sự sống. Tôi quét mắt trên
toàn cảnh trước mắt, nh́n tứ phía. Và lạ chưa, ngay trong cái
lùm cây trong sân golf có người sinh hoạt. Đó là những người
chơi golf. Họ lại tiếp tục ván chơi dang dở sao? Vâng, đúng vậy,
một người vừa quất một banh qua chướng ngại. Nhóm khác trên sân
cỏ đang thận trọng đẩy nhẹ banh vào lỗ. Những người gặt lúa đang
từ từ tụ tập lại tiếp tục công việc tạm ngưng. Cô bảo mẫu phủi
bụi trên màu áo em lớn rồi tiếp tục đẩy chiếc xe nôi lên đồi.
Mọi người như không hề biết ḿnh ngất xỉu mê man, chẳng để ư
chuyện ǵ đă xảy ra, mà chỉ đơn giản là làm tiếp việc ḿnh đang
làm.
Tôi chạy xuống tầng trệt, cửa trước nhà đă mở lớn. Tôi nghe
tiếng các bạn tôi đầy vẻ ngạc nhiên, đang chúc mừng trong vườn.
Cả hai người nữ gia nhân và Austin đều sống lại Chúng tôi bắt
tay nhau mà cười hồ hởi làm sao! Bà Challenger vui đến xúc động
mạnh ôm hôn mọt người, trước khi ôm chầm lấy chồng sung sướng.
Đức ông John kinh ngạc nói lạc cả giọng:
- Làm sao tin được là họ ngủ thiếp đi! Thế là sao, Challenger,
ông có tin là họ ngủ mê man, chân tay cứng đờ, hai mắt trợn
trừng, cái miệng méo xệch như cười ngạo vậy không!
- Chỉ có thể nói là họ ở trong t́nh trạng ngủ rũ giữ nguyên thế
- Challenger phát biểu. - Hiện tượng hiếm hoi này đă từng xảy ra
trong quá khứ và bác sĩ luôn lầm bệnh nhân đă chết. Khi ngủ rũ,
nhiệt độ hạ xuống, hô hấp biến mất, mạch tim không c̣n nhận ra.
Thực sự họ đă chết, nhưng sau một thời gian họ lại sống lại.
Ông nhắm mắt lại như tập trung rồi nói nhỏ:
- Ngay cả những đầu óc uyên bác sâu sắc nhất, cũng không thể
quan niệm được một trận dịch ngủ rũ trên toàn cầu như thế này.
Summelee nhận xét:
- Ông có thể gọi nó là ngủ rũ. Nhưng đó chỉ là một tên bệnh.
Chúng ta chẳng biết ǵ về hậu quả của bệnh, nhất là chẳng biết
ǵ về chất ether. Nhiều nhất ta chỉ nói được rằng ether độc có
thể gây ra cái chết tạm thời thôi.
Austin đang ngồi bần thần trên bậc cửa xe, hai tay ôm đầu. Chính
tiếng ho của ông tôi dă nghe thấy từ trên lầu. Giờ th́ ông đang
nói ǵ lẩm bẩm một ḿnh và nh́n khắp xe một lượt.
- Lại cái thằng nhỏ to đầu. Cái ǵ nó cũng phá được.
- Có chuyện ǵ đó, Austin?
- Dầu trong xe chảy lênh láng. Đă có ai nghịch phá cái xe. Tôi
đoán là thằng nhỏ làm vườn, thưa ông.
Đức ông John trông lấm lét v́ lỗi của ḿnh. Austin đứng dậy rồi
nói tiếp:
- Không biết tôi bị làm sao ấy, chắc tôi bị lúc đang rửa xe.
Dường như tôi ngă xuống bậc lên xe, nhưng tôi nhớ là không làm
tuột dây đồng hồ đo dầu.
Bằng vài câu ngắn gọn, tôi kể cho Austin nghe chuyện ông ấy gặp
và cả thế giới. Cả chuyện dầu rỉ ra cũng được giải thích cho
ông. Ông nghe chuyện có người lái xe ra London mà cả thành phố
London ngủ rũ hết ông cũng chẳng tin. Tôi c̣n nhớ, nghe xong
chuyện, ông hỏi:
- Ông có đến Ngân hàng nước Anh không?
- Có ông Austin ạ.
- Vẫn c̣n hàng triệu triệu trong đó và mọi người ngủ rũ hết?
- Đúng như thế.
- Thế mà tôi không có ở đó! - Ông rên lên tiếc rẻ rồi buồn bă
quay về với cái ṿi nước rửa xe.
Có tiếng bánh xe nghiến trên sỏi. Chiếc xe ngựa cổ đă đậu ở
trước nhà ông Challenger. Người khách trẻ ngồi sau xuống xe. Một
lúc sau, người tớ gái quần áo xốc xếch, nét mặt ngơ ngàng như
thể cô vừa bị đánh thức dậy, bưng lên một cái đĩa có danh thiếp.
Giáo sư Challenger xịt mũi khin khịt khi nh́n thấy danh thiếp,
râu tóc như dựng ngược lên v́ giận. Ông làu bàu:
- Một nhà báo! - nhưng sau đó ông gượng cười tiếp: - Dẫu sao, cả
thế giới này muốn biết ư kiến tôi về biến cố này, cũng là tự
nhiên thôi.
Summelee xen vào:
- Không phải ông ta đến hỏi cảm tưởng của ông về biến cố này
đâu, v́ ông ta đă ngồi trên xe ngựa lên đồi trước khi thảm họa
xảy ra.
Tôi ngó tấm danh thiếp: “James Baxter: phóng viên thường trú ở
London, báo New York Monitor”.
- Ông nên tiếp ông ta.
- Không.
- Ôi, ông George! Ông nên nhân ái và quan tâm tới người khác một
chút. Chắc chắn ông có nhiều ư kiến khi chúng ta thoát được thảm
họa.
Challenger tặc lưỡi và lắc lư cái đầu to và bướng bỉnh.
- Ông ấy là gịng đă bị nhiễm độc, đúng không, Malone. Một giống
cỏ dại của kỷ nguyên văn minh mới, một công cụ cho bọn chuyên
gia rởm trong mọi ngành. Bọn họ có nói tốt cho tôi bao giờ đâu.
Tôi đỡ lời:
- Thế giáo sư có nói tốt về họ bao giờ không? Thôi ông ạ. ông ta
là khách đă lặn lội đến đây phỏng vấn ông. Xin ông đừng nặng lời
với ông ta.
Ông nói nhấm nhẳng:
- Được, được. Nhưng ông đi với tôi và nói thay tôi. Tôi đă có
lập trường từ trước, không để họ xen vào cuộc sống riêng tư của
tôi.
Ông vừa Iẩm bẩm vừa bước th́nh thịch sau tôi, như một con chó
giữ nhà bị nạt cho im.
Chàng phóng viên Mỹ bảnh bao lấy sổ tay ra và nhập đề ngay.
- Thưa Ngài, tôi xuống đây, v́ đồng bào Mỹ của tôi rất mong mỏi
được nghe ư ông về thảm họa sắp chụp lên thế giới.
Challenger nhấm nhẳng trả lời:
- Lúc này tôi chẳng c̣n thấy hiểm họa nào đang đe dọa thế giới
cả.
Ông phóng viên nh́n ông hơi ngạc nhiên.
- Thưa Ngài, tôi muốn hỏi về trái đất có thể quay vào một vành
đai ether độc.
- Thật sự lúc này tôi không lo có một hiểm họa như vậy.
Ông phóng viên thật sự bối rối ngỡ ngàng.
- Ngài có phải là giáo sư Challenger không ạ?
- Thưa ông đúng, tôi là Challenger.
- Thật tôi không hiểu, thưa ngài. Sao ngài lại có thể nói là bây
giờ trái đất không có hiểm họa nào? Tôi muốn nhắc đến lá thư của
giáo sư đăng trên tờ London Times sáng nay ạ.
Bây giờ th́ đến lượt Challenger kinh ngạc.
- Sáng nay? Sáng nay không có tờ London Times nào được phát hành
cả.
- Thưa Ngài, có ạ. - Ông nhà báo Mỹ nhẹ nhàng đính chính, - nó
là một nhật báo mà, thưa Ngài.
Ông lôi một tờ báo ở túi trong ra.
- Thưa Ngài tôi muốn nói tới bức thư này ạ.
Challenger tặc lưỡi, xoa tay rồi nói:
- Tôi bắt đầu hiểu ra rồi Vậy là ông đọc lá thư này sáng nay?
- Thưa Ngài vâng.
- Và xuống phỏng vấn tôi ngay?
- Vâng ạ.
- Ông có thấy ǵ lạ trên đường xuống đây không?
- Vâng, nói thật, đồng bào của Ngài rất ân cần và nhiều t́nh
người hơn trước đây. Người vác hành lư sáng nay đă kể cho tôi
một câu chuyện vui. Và chuyện đó thật mới lạ với tôi ở đất nước
này.
- C̣n ǵ lạ nữa không?
- Không ạ. Sao ngài lại hỏi vậy?
- Được, ông rời ga Victoria lúc mấy giờ?
Ông Mỹ mỉm cười:
- Ồ, thật là trái khoáy, tôi đến đây phỏng vấn ngài lại bị ngài
phỏng vấn lại.
- Tôi chỉ vô t́nh thấy lạ thôi. Ông có nhớ giờ không?
- Có ạ. Lúc 12 giờ 30 phút.
- Và ông đến ga này lúc nào?
- 2 giờ 15 phút ạ.
- Và ông thuê xe ngựa đến nhà tôi?
- Vâng, đúng vậy.
- Ông nghĩ rằng từ đây ra ga bao xa?
- Thưa ngài, nhiều lắm là hai dặm.
- Ông nghĩ là ông đă đi mất bao lâu?
- Dạ, khoảng nửa giờ, với ông xà ích ho hen.
- Tức là lúc 3 giờ?
- Vâng khoảng đó.
- Ông coi đồng hồ đi.
Người Mỹ coi giờ, rồi ngước nh́n chúng tôi kinh ngạc.
- Trời ơi! Kim giờ chỉ địa rồi. Con ngựa này phá kỷ lục chạy
chậm rồi. Mặt trời cũng đă rất thấp. Sao vậy ḱa. Chắc đă có
chuyện ǵ kỳ cục xảy ra mà tôi không hiểu.
- Ông không nhớ ra chuyện ǵ bất thường khi ông lên đồi à?
- Thưa ngài, tôi nhớ là có một lúc tôi buồn ngủ kinh khủng. Tôi
có bảo người đánh xe cái ǵ đó, nhưng không làm sao cho ông ta
hiểu được. Tôi cho là v́ trời nóng, tôi cảm thấy chơi vơi bồng
bềnh một lúc. Vậy thôi.
Challenger nói với tôi:
- Như vậy là cả nhân loại cảm thấy chơi vơi bồng bềnh một lúc,
và rồi chẳng ai ư thức được chuyện ǵ đă xảy ra. Khi tỉnh dậy
mọi người lại thản nhiên làm tiếp công việc đang làm. Giống hệt
như Austin lại cầm lấy ṿi nước rửa xe và những người chơi golf
tiếp tục cho hết ṿng. Ông chủ bút của ông, Malone, lại lo sắp
xếp bài cho số báo kế tiếp. Rồi ông sẽ rất đỗi ngạc nhiên khi
thấy thiếu mất một số báo. Vâng, ông bạn trẻ ạ, - ông thật t́nh
vui vẻ nói với nhà báo Mỹ, - ông sẽ thấy thích thú khi biết rằng
trái đất của chúng ta đă trôi nổi qua một ḍng ether độc uốn
lượn như ḍng Gulf Stream trong đại dương ether của vũ trụ. Để
đỡ rắc rối sau này, ông cũng nên ghi nhớ hôm nay không c̣n thứ
Sáu, ngày 27 tháng 8, mà là thứ Bảy ngày 28 tháng 8. Và ông đă
ngồi bất tỉnh trong xe ngựa hai mươi tám giờ, trên đồi
Rotherfield.
Cũng như ông bạn đồng nghiệp Mỹ của tôi nói “xin chấm d ứt cuộc
phỏng vấn ở đây,” tôi cũng chấm dứt thiên kư thuật luôn. Và quí
vị cũng đă thấy phóng sự của tôi đầy đủ hơn và chi tiết hơn,
đăng trên số báo ngày thứ Hai của tờ Dai ly Gazette, một bài
tường thuật được mọi người công nhận là bài báo xuất sắc nhất
của mọi thời. Tờ báo hôm đó đă bán được không ít hơn ba triệu
rưỡi bản. Trên tường văn pḥng tôi tôi c̣n đóng khung những tiêu
đề vinh hạnh đó:
Thế giới bị ngất xỉu hai mươi tám giờ.
Biến cố vô tiền khoáng hậu cho loài người.
Một trải nghiệm độc đáo.
Một phóng viên của chúng tôi đă thoát hiểm.
Một phóng sự ly kỳ, hồi hộp.
Một pḥng kín được cung cấp oxy.
Chuyến xe lạ lùng.
London, thành phố chết
Bổ sung một trang lịch sử đă thiếu
Đại hỏa hoạn và tổn thất nhân mạng
Liệu có c̣n bị ngộ độc nữa không?
Dưới danh sách tiêu đề này là chín cột rưỡi kư sự xuất hiện lần
đầu tiên và cũng là lần cuối, ghi lại lịch sử trái đất trong một
ngày của một người duy nhất. Challenger và Summelee cùng hợp
soạn một bài về khía cạnh khoa học của sự kiện, họ để mặc tôi
viết tường thuật này. Thế là tôi cứ việc phóng bút. Nhưng thảm
thương thay, viết được kư sự nổi tiếng này, là tôi đă lên đến
đỉnh điểm sự nghiệp của một kư giả mất rồi!
Để chấm dứt kư thuật này, tôi không dùng lời lẽ gợi h́nh và
thành tích cá nhân nữa, mà trích đoạn kết nổi tiếng, trong bài
chính luận về sự kiện này, một bài mà những người đúng đắn,
nghiêm túc đều muốn giữ làm tài liệu.
Tờ Times viết: “Nói rằng nhân loại rất yếu đuối trước những sức
mạnh ẩn tàng trong tự nhiên quanh ta, là sự thật ai cũng biết
rồi. Từ các tiên tân thời cựu ước đến các triết gia hiện đại,
đều cũng đă gởi thông điệp này đến ta. Nhưng sự thực được lập đi
lập lại nhiều quá, lại mất bớt hiệu quả thực tiễn và hợp thời.
Một bài học, một kinh nghiệm cần phải đúng lúc, đúng chỗ. Chính
nhờ thử thách khủng khiếp nhưng cứu độ chúng ta vừa trải qua,
trí óc c̣n bàng hoàng v́ bất chợt, tâm thần c̣n ê ẩm v́ lại nhận
thức được giới hạn và bất lực của chúng ta. Thế giới đă phải trả
một giá kinh khủng về tính hiệu quả của giáo dục. Tuy chưa biết
hết hậu quả của thảm họa này, những New York, Orleans, Brighton
sụp đổ trong ngọn lửa, cũng đủ là một bi kịch trong lịch sử loài
người. Khi các báo cáo về tai nạn hỏa xa và tàu bè được đúc kết,
chắc ta sê có một tài liệu khủng khiếp. Tuy rằng đa số trưởng
máy và lái tàu đă kịp thời tắt máy, ngắt lực kéo trước khi hôn
mê. Những tổn thất về của cải và nhân mạng dù có cao đến đâu,
chỉ trước đây ta mới quan tâm, ngày nay ta phải quan tâm hàng
đầu đến những khả năng của vũ trụ. Phải quan tâm tới tai hại của
tính tự măn, phải hiểu rằng khía cạnh vật chất của con người rất
mong manh,
dễ sụp đổ. Nghiêm cẩn và khiêm nhường phải là cơ sở cho các cảm
xúc nhân tính ngày nay, ước ǵ đây là nén tảng mới để con người
xây dựng một đền thờ tinh thần mới.
HẾT
Người dịch:
Trung Khâm
|